LUẬN HIỂN DƯƠNG THÁNH GIÁO

Tác giả: Bồ-tát Thiên Thân.
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Tráng Đời Đường
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 16

PHẨM 6: THÀNH LẬP KHÔNG (Phần còn lại)

Lại nữa, do nương vào lý không Cũng thế để tu tập nên được chứng ngộ. Tu tập như thế nào?

Tụng rằng:

Tu khác nhau mười tám,
Hoặc có độc, không độc,
Đối trị năm thứ chấp,
Lược hai thứ, nên biết.

Luận chép: Tướng tu tập khác nhau có mười tám thứ là:

1. Thanh văn tương ưng với tác ý tu tập: như có một hạng Thanh văn an trụ trong pháp tánh Thanh văn, hoặc chưa chứng tính ly sinh hoặc đã chứng chánh tính ly sinh, nhưng chỉ quán sát có lợi cho mình, không quán sát việc lợi ích cho kẻ khác. Nương vào an lập đế tác ý mà nhập vào lý chân như. Tự duyên bên trong có pháp phần lượng, sinh khởi ý niệm nhàm chán, vô dục, làm hạnh giải thoát, tác ý tu tập dứt sạch tự ái. Đó gọi là Thanh văn tương ưng với tác ý tu tập.

2. Bồ-tát tác ý tu tập: như có một hạng Bồ-tát an trụ trong pháp tánh Bồ-tát, chưa chứng chánh tính ly sinh, hoặc đã chứng vào chánh tính ly sinh, quan sát mình người đều được lợi ích, nương vào pháp môn tác ý an lập, phi an lập đế mà chứng nhập lý chân như, duyên vào pháp bên trong, vô phần lượng, tâm đại bi tăng lên, khởi hạnh phương tiện gom lợi ích về cho người, bước trên dấu vết Vô thượng. Từ đó, tác ý tu tập, làm sạch hết gốc ái của mình và người. Đó gọi là Bồ-tát tác ý tu tập.

3. Ảnh tượng tác ý tu tập: tư duy có phân biệt phẩm Tỳ-bát-xá-na Tam-ma-địa, đã thực hành pháp cảnh giới gốc, ảnh tượng đồng phần, hoặc còn suy tư không phân biệt phẩm Xa-ma-tha Tam-ma-địa, đã thực hành pháp cảnh giới gốc, ảnh tượng đồng phần. Tu tập như vậy, gọi là tác ý tu tập ảnh tượng.

4. Rốt ráo của tác ý tu tập là tư duy các pháp quá khứ, vị lai, hiện tại, trong ngoài, to, nhỏ, xa gần hoặc còn tư duy các pháp chân như cùng tận tất cả, như tất cả những gì có mà tu tập, đó gọi là tác ý tu tập rốt ráo.

5. Sự thành tựu tu là đã chứng được tĩnh lự căn bản và Tam-mabát-để, thế gian và xuất thế gian. Tu tập Cũng thế gọi là tu tập thành tựu.

6. Đắc tu: như có hạng người nương vào Sơ tĩnh lự, tu tập nhận thức về vô thường, cho đến khi tu tập Vô tưởng. Người nầy còn có những tưởng thiện khác, tất cả đều không hiện ra trước mắt. Hoặc thuộc về địa trên hay địa dưới, những tưởng thiện ấy, đã dẫn đến tất cả công đức ở thế gian và xuất thế gian. Tất cả đều tu tập khiến các tưởng thiện ấy càng mạnh lên, mà thanh tịnh rất ngời sáng sẽ được phát sinh. Chứng được pháp tự tại thành tựu kia. Đó gọi là đắc tu.

7. Tu tập: là như có hạng người tư duy hiện tiền các pháp trên mà phát sinh tất cả các tưởng thiện như vô thường v.v… và hiện đang tu tập nhiều pháp lành khác. Tu tập như vậy gọi là Tu tập.

8. Trừ khiển tu là như có hạng người tư duy Tam-ma-địa, vì đã thực hành tướng ảnh tượng nên đã xua tan đi tính tướng gốc của các pháp, làm cho chúng không còn hiện khởi nữa, như người dùng cái nêm đóng vào lõi cái nêm kia ra, hay dùng thân nhẹ nhàng đẩy lùi thân to nặng. Như trước đã nói, đó gọi là tu tập trừ khiển.

9. Đối trị tu tập là tư duy tu tập, đối trị ý niệm nhàm chán hư hoại, đối trị sự đoạn diệt, giữ sự đối trị, đối trị với phần ở xa, đó gọi là tu tập đối trị. Trong ấy, văn, tứ đã phát sinh đạo để đối trị ý niệm nhàm chán, hư hoại, đạo xuất thế gian là đối trị đoạn. Quả báo chuyển y kia là duy trì đối trị, thế gian tu tuệ đạo là đối trị phần ở xa.

10. Tu thân.

11. Tu giới.

12. Tu tâm.

13. Tu tuệ. Theo như thứ lớp ấy, nương vào việc phòng hộ các căn mà tu ba học, phải biết, đó gọi là tu tính của thân, v.v…

14. Thiểu phần tu là tư duy các pháp, phát sinh những tư tưởng thiện như vô thường, v.v… trong các lúc, và tu một ít phần pháp lành khác, đó gọi là tu tập thiểu phần.

15. Biến hành tu là tư duy tất cả pháp chỉ có một vị chân như. Tu hành Cũng thế gọi là tu tập cùng khắp.

16. Hữu động tu là lúc siêng năng dùng phương tiện tu vô tướng, ở trung gian thì tu tập các pháp hữu tướng, đó là tu hữu động.

17. Công hạnh tu là khi siêng năng vận dụng phương tiện tu vô tướng, do công dụng hạnh không xen hở, thiếu mất, khởi sự tu vô tướng, đó là tu công hạnh.

18. Thành mãn tu là nương theo thừa Thanh văn hoặc nương theo thừa Độc giác, hay theo Đại thừa. Tất cả nương ấy đã chuyển được tự tại đối với các pháp. Tu tập như vậy, gọi là tu thành mãn.

Các pháp tu Cũng thế, lược có hai thứ, nghĩa là tu có độc hại và tu không có độc hại, vì ngã và ngã sở có phức tạp và không phức tạp. Lại nữa, nên biết, các lối tu ấy nhằm đối trị năm thứ tà chấp là:

  1. Các chấp tà của chúng sinh.
  2. Pháp chấp tà.
  3. Chấp tà tổn giảm.
  4. Chấp tà khác nhau.
  5. Chấp tà thay đổi.

Chấp tà của chúng sinh là đối với các uẩn, chấp có hữu tình là người chịu và người làm.

– Chấp tà pháp là như theo những gì đã nói mà chấp có tự thể khác nhau của sắc, v.v…

– Chấp tà tổn giảm là chấp tướng của tất cả pháp là không.

– Chấp tà khác nhau là chấp các pháp ngã, vô ngã có thể tính khác nhau.

– Chấp tà thay đổi là chấp các pháp trước có ngã thật, sau thành vô ngã. Lại nữa, gọi là tu, lược có hai thứ là tu thế gian và tu xuất thế gian. Lại nữa, bài Tụng rằng:

Tu quả phải nên biết,
Công đức ba Bồ-đề,
Nương tính chuyển y,
Việc đã làm thành tựu.

Luận chép: Vì tu lý không, cho nên chứng được quả cao tột, là nương vào chuyển y chứng ba pháp Bồ-đề, và chứng được vô tránh nguyện trí, vô ngại giải với vô lượng công đức. Và, các việc đã làm đều thành tựu viên mãn. Nghĩa là chuyển y đã thành tựu rốt ráo.

 

PHẨM 7: THÀNH LẬP VÔ TÍNH

Luận chép: Trong phẩm thành lập không, đã thành lập chúng sinh vô ngã, chứ chẳng phải pháp vô ngã. Nay đây vì thành lập pháp vô ngã, nên nói là thành lập vô tính.

Tụng rằng:

Ba tự tính, nên biết,
Đầu tiên: Biến kế chấp,
Kế tính y tha khởi,
Sau là Viên thành thật.

Luận chép: Vô tính không lìa tự tính. Do vậy, trước phải nói về nghĩa ba tự tính. Cũng thế tức là làm sáng tỏ ý sâu kín của ba thứ vô tính. Nói ba tự tính là chỉ tự tính biến kế sở chấp, tự tính y tha khởi, và tự tính Viên thành thật.

– Biến kế chấp là dựa vào nói năng diễn đạt các pháp mà chấp là có tự thể.

– Y tha khởi, là tự thể các pháp đều dựa vào các nhân duyên mà phát sinh.

– Viên thành thật là tự thể chân như của các pháp.

Tụng rằng:

Ba vô tính nên biết,
Không lìa ba tự tính,
Do tướng vô, sinh không,
Và thắng nghĩa vô tính.

Luận chép: Ba tự tính như vậy, nên biết là do ba thứ không tự tính nên nói ba vô tính:

1. Tướng vô tính là tự tính biến kế sở chấp, do thể tướng của tự tính nầy là không.

2. Sinh vô tính là tự tính y tha khởi, do duyên lực của tự tính nầy làm phát sinh, chứ chẳng phải tự nhiên sinh.

3. Thắng nghĩa vô tính là tự tính Viên thành thật, do bản thể của tự tính nầy là thắng nghĩa, và đây là tính không của các pháp, nên đã nói ba thứ lớp tính và ba tướng vô tính. Nay sẽ làm sáng tỏ việc thành lập đạo lý. Vì sao biệt được biến kế sở chấp đều không có thể tướng của mình.

Tụng rằng:

Chẳng thuộc về năm việc,
Ngoài ra, không có gì,
Từ tên gọi, nghĩa chuyển,
Hai, làm khách lẫn nhau.

Luận chép: Tự tướng của biến kế sở chấp là không. Vì sao? Vì nó

không thuộc về năm việc. Ngoài năm việc nầy, thật không có gì hết.

Năm việc ấy là:

  1. Tướng.
  2. Danh.
  3. Phân biệt.
  4. Chân như.
  5. Chánh trí.

Hỏi: Nếu tướng của biến kế sở chấp không có tự thể thì làm sao có thể sinh biến kế sở chấp được?

Đáp: Do tên gọi mà nghĩa chuyển, là tùy theo giả danh, nghĩa trôi lăn theo. Người ngu trên đời nầy chấp cho là có tên và ý nghĩa, nó chắc chắn ngang bằng với tự tính chân như.

Hỏi: Làm thế nào biết được đây là tà chấp?

Đáp: Do tên gọi và ý nghĩa làm khách lẫn nhau. Vì sao? Vì tên gọi và ý nghĩa không cân bằng với thể, nên gọi là khách. Nghĩa và tên gọi là không có thật, nên nói là khách. Làm sao biết được như thế?

Tụng rằng:

Tên gọi, trước không biết,
Nhiều tên và bất định,
Với có nghĩa, không nghĩa,
Chuyển nghĩa thành phi lý.

Luận chép: Nếu tự thể của nghĩa cũng như tên gọi là có, thì trước khi chưa có tên gọi thì cái hiểu biết nầy đối với ý nghĩa, lẽ ra trước đã có. Lại bởi tên gọi có nhiều nên một nghĩa phải có nhiều tự thể. Lại, tên gọi bất nhiễm định nên tự thể của nghĩa cũng theo đó mà bất nhiễm định. Vì sao? Vì trong một tên gọi cũng có thể lập ra nhiều nghĩa khác nhau. Lại nữa, tên gọi ấy, nó thay đổi theo có nghĩa hay thay đổi theo không có nghĩa? Nếu nó biến chuyển theo có nghĩa thì không hợp lý, tức là do ba duyên, như trước đã nêu. Nếu chuyển theo không có nghĩa thì tên gọi và nghĩa làm khách lẫn nhau, như trước đã nói, là đạo lý thành tựu. Lại nữa, nếu chấp nghĩa là thật có do tên gọi làm sáng tỏ như đèn chiếu soi sắc là không hợp lý. Vì sao?

Tụng rằng:

Do chấp đã đặt tên,
Cái khác không chấp lấy,
Như chúng sinh chấp tà,
Càng tăng thêm điên đảo.

Luận chép: Trước hiểu nghĩa rồi sau mới đặt tên, chứ chẳng phải

chưa hiểu nghĩa mà đặt tên. Đã chấp nhận nghĩa rồi mà còn làm sáng tỏ là không đúng lý. Lại nữa, nếu tên gọi nào mà người khác chưa hiểu thì họ không chấp nhận nghĩa. Đèn chiếu sáng các vật thì chẳng phải như vậy, bất cứ vật nào cũng được đèn chiếu sáng. Lại nữa, không nên chấp nghĩa khác, tên gọi khác. Vì chỉ nương vào tên gọi mà sinh chấp nghĩa, thì giống như chỉ có tự tính phàm phu là những hiện tượng tâm lý trôi lăn từ vô thỉ nên chúng sinh nầy ý niệm chấp sai lầm cho rằng mình và người nối tiếp nhau. Ấy là vì sức mạnh của thói quen.

Như vậy, trong suốt giai đoạn sinh tử, vì tâm chúng sinh đã được huân tập mãi những thói quen nói năng, vì với phương tiện ấy mà chúng sinh sinh chấp sai lầm cùng khắp cho rằng các pháp đều có. Cách chấp sai lầm nầy, giống như chúng sinh nghĩ đến ích lợi sai lầm, đó là trái ngược, nên biết. Sự trái ngược nọ và pháp tạp nhiễm lần lượt phát sinh như thế nào?

Tụng rằng:

Do huân khởi y tha,
Dựa đó, sinh điên đảo,
Làm duyên nhau như thế,
Xoay vần sinh, không dứt.

Luận chép: Do sức mạnh xông ướp của điên đảo nầy. Sau đó, nó nương vào tự tính của quả y tha mà sinh khởi. Sau khi nương vào quả ấy, lại sinh pháp chấp điên đảo. Cũng thế, hai pháp làm duyên cho nhau mà sinh tử lần lượt nối nhau mãi mãi không dứt.

Vậy, đã nói thành lập đạo lý rồi, nay sẽ chỉ bày sáng tỏ chỗ khác nhau của tự tính Biến kế sở chấp.

Bài tụng rằng:

Tự tính và sai khác,
Có giác ngộ, tùy miên,
Gia hạnh gọi, biến kế,
Phải biết, có năm thứ.

Luận chép: Do sáu thứ biến kế khác nhau, nên tự tính của biến kế sở chấp cũng có sáu thứ. Đó là:

  1. Tự tính biến kế là chấp sắc, v.v… là thật có tướng.
  2. Sai khác biến kế là chấp sắc cùng khắp v.v… chắc chắn là có thật tướng khác nhau như có sắc, không sắc, có thấy, không thấy.
  3. Giác ngộ biến kế là từ lời nói tốt mà sinh biến kế.
  4. Tùy miên biến kế là từ lời nói xấu mà sinh biến kế.
  5. Gia hạnh biến kế.

Lại có năm thứ:

  1. Gia hạnh tham ái.
  2. Gia hạnh giận dữ.
  3. Gia hạnh họp hội.
  4. Gia hạnh chia lìa.
  5. Gia hạnh tùy xả.

6. Danh biến kế, gồm có hai thứ:

– Phát sinh do văn tự.

– Phát sinh không phải do văn tự.

– Phát sinh không phải do văn tự là, như có lối chấp rằng: Đây là vật gì? Vật nầy thế nào? Vật nầy là gì? Vật nầy ra sao?

– Do danh tự mà phát sinh biến kế như: Có quan niệm chấp : Đây là vật nầy, vật nầy Cũng thế, hoặc sắc hoặc cho đến thức, hoặc hữu vi hoặc vô vi, hoặc thường, hoặc vô thường hoặc thiện hoặc bất thiện, hoặc vô ký như thế, v.v…

Lại nữa, nên biết, tự tính biến kế sở chấp, còn có năm thứ nữa, là:

  1. Y danh biến kế tự tính nghĩa.
  2. Y nghĩa biến kế, tự tính của danh.
  3. Y danh biến kế tự tính của danh.
  4. Y nghĩa biến kế tự tính của nghĩa.
  5. Y hai thứ biến kế, hai tự tính.

– Y danh biến kế tự tính của nghĩa: như có chấp rằng: Vật nầy đã có tên là sắc thì chắc chắn phải có tự thể chân thật của sắc. Vật nầy đã có tên gọi là thọ, tưởng, hành, thức thì chắc chắn phải có thể tính chân thật.

– Y nghĩa biến kế, tự tính của danh: như có chấp: Vật nầy là sắc, không gọi là sắc. Vật nầy là thọ, tưởng, hành, thức, không gọi là thọ tưởng hành thức.

– Y danh biến kế tự tính của danh là: như có chấp: không biết rõ vật thể chỉ biết danh sắc, không biết rõ vật thể, chỉ biết khác nhau các thứ là thọ tưởng hành thức.

– Danh y nghĩa biến kế, tự tính của nghĩa là: như có lối chấp: Không rõ sinh sắc, chỉ phân biệt mỗi thứ lớp thể của sắc. Không biết rõ tên thọ tưởng hành thức, chỉ các thứ phân biệt lớp thể của thọ, tưởng, hành, thức.

– Y theo hai thứ biến kế, hai thứ lớp tính là: như có chấp: Vật nầy là thể tính của sắc nên gọi là sắc. Vật nầy là thể tính của thọ tưởng hành thức nên gọi là thọ tưởng hành thức.

Đây đã nói tự tính khác nhau của biến kế sở chấp. Biến kế chấp nầy là do phân biệt sai lầm mà phát sinh. Phân biệt khác nhau ấy, nay sẽ nói tiếp.

Tụng rằng:

Phân biệt có tám thứ,
Năng sinh đối ba việc,
Phân biệt thể, nên biết.
Tâm, tâm pháp ba cõi.

Luận chép: Tám thứ phân biệt sinh ra ba việc, ba việc ấy là:

  1. Duyên sự làm chỗ nương cho phân biệt hý luận.
  2. Việc chấp ngã mạn.
  3. Việc tham ái, v.v…

Tám thứ phân biệt là:

1. Tự tính phân biệt là đối với sắc, v.v… tư tưởng sự phân biệt sắc, v.v… với tất cả tự tính của nó.

2. Phân biệt khác nhau là đối với sắc, v.v… tư tưởng duyên vào sắc, v.v… rồi khởi lên phân biệt, cho là đây có sắc, đây là không sắc, đây có thấy, đây không thấy, đây có đối, đây không có đối. Cũng thế, phân biệt thành vô lượng, nó là nương cho phân biệt tự tính, là phân biệt nghĩa khác nhau của các thứ.

3. Chấp chung phân biệt, tức đối với sắc,v.v… tưởng đến nó, mà lập ngã, sinh mạng hữu tình, sự sống,v.v… đều bởi giả tưởng đặt ra quan điểm đưa đến phân biệt. Bởi chứa nhóm nhiều pháp mà chấp chung làm nhân cho phân biệt thay đổi. Lại nữa, tưởng đến các chuyện nhà cửa xe cộ, rừng bụi lính tráng v.v… và đối với y phục, ăn uống, xe cộ rồi lập những quan điểm giả tưởng về nhà, cửa,v.v… mà dẫn đến những suy nghĩ tìm kiếm.

4. Phân biệt ngã: Là đối với chuyện hữu lậu thì có, chấp ngã thâu nhiếp ấy, đã tập quen trong thời gian dài. Do quen lối chấp sai lầm ấy, từ nơi những chuyện nghe thấy làm duyên phát sinh phân biệt giả dối.

5. Ngã sở phân biệt là nếu việc hữu lậu thì chấp có, những thâu nhiếp các thứ chấp cho đó là những cái mà ngã yêu mến, nó được quen tập lâu dài. Do quen lối chấp sai lầm ấy, mà từ những việc nghe thấy làm duyên phát sinh phân biệt đầy giả dối.

6. Ái phân biệt là vì kích thích của đối tượng đầy tuyệt diệu vừa ý mà phân biệt.

7. Bất ái phân biệt là vì kích thích của đối tượng không tuyệt diệu vừa ý mà phân biệt.

8. Phân biệt yêu mến, không yêu mến đều trái nhau là vì kích thích của việc tịnh, bất tịnh, vừa ý, không vừa ý mà phân biệt lìa xa những đối tượng ấy.

Cũng thế, nói lược có hai thứ: Là phân biệt tự thể và phân biệt chỗ nương, những duyên ràng buộc. Trong ấy có ba thứ là tự tính phân biệt, phân biệt khác nhau, và chấp chung phân biệt. Ba thứ phân biệt nầy có khả năng làm phát sinh nền tảng nương cho phân biệt hý luận. Duyên tạo nên phân biệt ký luận là việc tưởng đến sắc, v.v… làm chỗ nương cho duyên, nên nó bao gồm tên gọi, tưởng nói, nói năng, chính những tên gọi, tưởng đến, nói năng nầy đã làm sáng tỏ phân biệt hý luận, tức là đối với việc phân biệt nầy tính toán so đo nhiều thứ khác nhau, nhiều không kể hết. Trong đó phân biệt về ngã và phân biệt về những cái thuộc về ngã, là hai thứ phân biệt có khả năng làm phát sinh những kiến chấp căn bản khác, cũng như căn bản về mạn, về thân kiến và còn có thể làm phát sinh kiêu ngạo và ngã mạn khác. Trong việc phân biệt cái yêu thích và không yêu thích là những phân biệt trái nhau, đáp ứng đúng cho hai tâm lý đó là do tham sân si sinh ra. Cho nên, tám thứ phân biệt như vậy khởi lên ba việc. Nếu muốn nói lược phân biệt thể tính, ấy là các tâm, tâm sở trong ba cõi. Lại nữa,Tụng rằng:

Bị trói do hai trói,
Chấp chặt hai tự tính,
Nên giải thoát hai trói,
Chánh vô đắc, vô kiến.

Luận chép: Lúc khởi lên các phân biệt, mà ở trước đã nói, tức là bị trói buộc vì hai thứ trói buộc. Gọi là tướng trói buộc và trói buộc thô nặng là vì hai trói buộc, là chấp vào hai tự tính, là chấp vào tự tính y tha khởi và chấp vào tự tính biến kế sở chấp. Cho nên giải thoát hai trói ấy rồi thì đối với hai tính của nó, hoàn toàn không có gì để nắm bắt, cũng như không có gì để chấp nữa. Vì sao? Do tự tính của biến kế sở chấp là hoàn toàn không. Không thể nắm bắt tự tính y tha khởi. Dù chúng còn tướng không chấp, nên không có gì để thấy. Như vậy, đã thành lập rồi tự tính biến kế sở chấp. Để thành lập tự tính y tha khởi, nên sẽ nói về lý thành lập nó.

Tụng rằng:

Giả có, nhân nương,
Hoặc hai thứ dị, hoại
Tạp nhiễm có thể được
Phải biết, y tha, có.

Luận chép: Không nên nói các pháp chỉ là giả có. Vì sao? Vì pháp giả nhưng phải có nhân nương. Thành lập pháp giả có nhưng chẳng phải là không có vật hiện thực. Nếu không có cái hiểu như vậy thì không có vật hiện thực và pháp giả kia cũng là không. Mà không tức là phá hoại hai pháp, mà hai pháp bị phá bỏ thì pháp tạp nhiễm lẽ không thể được. Nhưng bởi pháp tạp nhiễm đã hiện thực có, nên biết phải có tự tính y tha khởi.

Lại nữa, tự tính y tha khởi nầy, có tướng mạo ra sao?

Tụng rằng:

Tướng thô nặng làm Thể,
Cùng làm duyên mà sinh,
Chẳng phải tự nhiên có,
Nên nói sinh vô tính.

Luận chép: Tự tính y tha khởi nầy là tướng, thể nó thô, nặng. Y tha khởi là gì? Bởi hai thứ nầy làm duyên cho nhau mà sinh, là tướng làm duyên cho thô, và thô lại làm duyên sinh ra tướng. Nếu đã vậy, thì vì sao gọi là sinh vô tính? Ấy là do sức mạnh của duyên mà sinh, chứ không phải tự nhiên mà có. Lại nữa, tự tính y tha khởi nầy, chắc chắn là có hay là không?

Tụng rằng:

Chẳng chắc chắn có không,
Các thứ đều thừa nhận,
Có hai tính giả, thật,
Thế gian nói là có.

Luận chép: Tự tính y tha khởi không phải theo nêu bày chắc chắn là có, cũng không chắc chắn là không. Cho nên tất cả các thứ chẳng phải có, không phải không. Dù vậy, vẫn thừa nhận là các thứ đều có thể nói đến được hoặc có hoặc không, vừa có vừa không, chẳng phải có, chẳng phải không.

Hỏi: Tự tính y tha khởi nầy, là thật có hay giả có?

Đáp: Nên biết, tính y tha khởi nầy, có cả giả và thật.

Hỏi: Phải chăng tính nầy là vì thế tục mà có hay vì thắng nghĩa mà có?

Đáp: Phải biết, vì thế tục, cho nên nói tính nầy là có.

Tụng rằng:

Nói về dụng ngã, pháp,
Đều gọi là thế tục,
Phải biết, Thắng nghĩa đế,
Là bảy thứ chân như.

Luận chép: Thế tục đế là: Nên biết, đã nói xong tác dụng của ngã, pháp, như trong phẩm nhiếp tịnh nghĩa nói. Chân đế thắng nghĩa là bảy thứ chân như, như đã nói trong phẩm nhiếp sự.

Lại nữa, bài Tụng rằng:

Tự tính Viên thành thật,
Hai nghĩa trí tối thắng,
Không có các hý luận,
Xa lìa tính một, khác.

Luận chép: Nên biết, thắng nghĩa đế là tự tính Viên thành thật.

Hỏi: Vì sao bảy thứ chân như được gọi là thắng nghĩa đế?

Đáp: Do hai trí tối thắng tạo nên. Đó là hai trí: Xuất thế gian và trí có được sau cùng trong thế gian. Cho nên thắng nghĩa nầy là không có hý luận, chứ chẳng phải trí cảnh nào khác. Hơn nữa, do thắng nghĩa nầy không có hý luận nên đối với pháp có tướng, nó lìa khỏi tính chất là một là khác? Vì sao? Vì ừ chân như nầy nên không thể nói pháp có tướng là khác hay chẳng phải khác. Lại nữa, Tụng rằng:

Là sở duyên thanh tịnh,
Thường, không có thay đổi,
Tính thiện và tính lạc,
Tất cả đều thành tựu.

Luận chép: Phải biết: Do thắng nghĩa đế đã xa rời tính chất một khác, nên nó đã duyên theo tính chất thanh tịnh. Vì sao? Do bám vào cảnh giới thanh tịnh mà tâm thanh tịnh, nên biết, đó cũng là thường, không bao giờ đổi khác trong các hoàn cảnh. Do nó bám được vào duyên thanh tịnh nên biết là thiện. Phải biết, nó đã là thường hằng thì đó là vui. Lại nữa, Tụng rằng:

Thắng nghĩa thật, vô tính,
Không ngã và hý luận,
Cũng như không y tha,
Nên thắng nghĩa tính không.

Luận chép: Tự tính Viên thành thật vì thắng nghĩa tính không, nên nói là tính không. Vì sao? Vì tự tính nầy tức là thắng nghĩa, cũng là tính không. Do không còn tính chất ngã pháp, hý luận cho nên tự tính Viên thành thật là thắng nghĩa, và không có tính hý luận. Cho nên nói thắng nghĩa là vô tính.

Nên biết, đối với tự tính y tha khởi, dù tướng khác, cũng được lập làm thắng nghĩa vô tính. Vì sao? Do không có tính thắng nghĩa. Lại nữa, như trước đã nói có năm thứ tướng. Là tướng năng giải thích, tướng sở giải thích, hai tướng nầy thuộc về tướng. Tướng chấp trước, tướng không chấp trước. Lại có ba tướng là tướng biến kế sở chấp, tướng y tha khởi và tướng Viên thành thật, vậy là năm gom vào ba hay ba gom và năm?

Tụng rằng:

Nương ba tướng, nên biết,
Mà lập năm thứ tướng.
Nó ứng với ba tính,
Đều có năm nghiệp riêng.

Luận chép: Phải biết, dựa vào ba tự tướng mà lập ra năm tướng. Vì sao? Vì tướng đầu và tướng thứ hai y theo ba tự tướng. Tướng thứ ba dựa vào tướng biến kế sở chấp. Tướng thứ tư dựa vào tướng y tha khởi. Tướng thứ năm dựa vào tướng Viên thành thật. Lại nữa, ba tự tính, mỗi tự tánh có năm nghiệp, như đã nói trong phẩm Nhiếp tịnh nghĩa. Lại nữa, trước đây thành lập phẩm không là để ngăn dứt chấp của chúng sinh, nay trong phẩm nầy, là để trừ pháp chấp. Hai lối chấp nầy từ đâu sinh ra, do ai phát sinh?

Tụng rằng:

Chấp pháp nên người ngu
Nối chấp vào chúng sinh,
Kia trừ tánh giáo pháp,
Giác, đoạn chấp ngã, pháp

Luận chép: Vì chấp pháp cho nên kẻ ngu trên thế gian khởi lên chấp vào chúng sinh. Xua tan cái chấp chúng sinh đang khởi lên ràng buộc ấy nên thấu ngộ tính chất thật của pháp. Nhờ đó cắt đứt hẳn pháp chấp. Khi pháp chấp đã bị cắt đứt thì cũng cắt đứt cả chấp chúng sinh và tùy miên. Lại nữa, đối với pháp nào chưa dứt trừ mà trở thành tạp nhiễm? Và đối với sự đoạn diệt nào mà được thanh tịnh?

Tụng rằng:

Trước là chấp y tha
Huân tập thành tạp nhiễm.
Vô chấp, Viên thành thật,
Huân tập thành thanh tịnh.
Tạp nhiễm tính hữu lậu,
Thanh tịnh tức vô lậu.
Đây phải biết chuyển y,
Hai thứ không nghĩ bàn.

Luận chép: Do chấp trước tự tính đầu là tự tính y tha khởi nên khởi lên những xông ướp mãi mới thành ra tạp nhiễm. Phải biết vì không chấp trước tự tính Viên thành thật nên khởi lên những xông ướp mãi hướng ấy nên thành thanh tịnh. Tạp nhiễm chính là tính chất hữu lậu. Thanh tịnh chính là tính chất vô lậu. Phải biết, tính chất vô lậu nầy chính là tướng của chuyển y. Lại nữa, chuyển y nầy không thể nghĩ bàn, nó có hai thứ. Thế nào là không thể nghĩ bàn?

Tụng rằng:

Chân thật và tự thể,
Vắng lặng và công đức,
Thảy đều không nghĩ bàn.
Phải biết, do bốn đạo.

Luận chép: Sự chuyển y như vậy, là không thể nghĩ bàn, do bốn đạo (nguyên tắc).

  1. Do chân thật, nghĩa là thường.
  2. Do tự thể, chẳng phải có sắc, chẳng phải không có sắc như thế, v.v…
  3. Do vắng lặng, nghĩa là an trụ trong vắng lặng.
  4. Do công đức, nghĩa là chuyển y nầy có uy đức.

Lại nữa, chuyển y nầy không thể nghĩ bàn là do bốn nguyên tắc mới đưa đến chứng đắc. Đó là bốn chánh hạnh, bốn thứ tầm tứ, bốn trí như thật, bốn thứ cảnh sự, bốn cảnh sự là:

  1. Cảnh biến mãn.
  2. Cảnh tịnh hạnh.
  3. Cảnh thiện xảo.
  4. Cảnh hết hoặc.

Trong ấy, cảnh biến mãn lại có bốn thứ:

  1. Ảnh tượng có phân biệt.
  2. Ảnh tượng vô phân biệt.
  3. Sự bờ mé.
  4. Việc làm thành tựu.

– Ảnh tượng có phân biệt là những hiểu biết đồng phần với Tamma-địa và cảnh sở hành Tỳ-bát-xá-na.

– Ảnh tượng không phân biệt là những hiểu biết đồng phần với Tam-ma-địa và cảnh thực hành Xa-ma-tha.

– Sự rốt ráo là cùng tận tất cả tính và như tất cả tính.

– Việc làm thành tựu là chuyển y và nương vào trí vô phân biệt nầy. Cảnh tịnh hành có năm thứ:

  1. Bất tịnh.
  2. Từ bi.
  3. Duyên khởi.
  4. Giới khác nhau.
  5. Nghĩ nhớ hơi thở ra vào.

Cảnh thiện xảo có năm thứ:

  1. Uẩn thiện xảo.
  2. Giới thiện xảo.
  3. Xứ thiện xảo.
  4. Duyên khởi thiện xảo.
  5. Xứ phi xứ thiện xảo.

– Cảnh hết hoặc là đạo thế gian, có hai là: Tính thô của cõi dưới, và tính vắng lặng của cõi trên. Đạo lý xuất thế gian là bốn Thánh đế. Lại nữa, như trước đã nói có hai thứ chuyển y. Thế nào là hai? Là sự khác nhau Thanh văn chuyển y và Bồ-tát chuyển y.

Tụng rằng:

Thanh văn có hai thứ,
Hướng Niết-bàn, Bồ-đề.
Nương vào thân biến hóa,
Đến Chánh giác Vô thượng .
Các Thanh văn chuyển y ,
Chán bỏ, tu chứng đắc,
Bồ-tát tu phương tiện,
Nương vào trí không hai,
Do không trụ sinh diệt,
Trí Chư Phật Vô thượng
Lợi lạc các hữu tình.
Không nghĩ bàn, không hai.

Luận chép: Phải biết: Thanh văn chuyển y, có hai thứ là hướng đến Niết-bàn, và hướng đến Bồ-đề.

Hỏi: Hàng Thanh văn Vô học không bao giờ còn chịu thân sau thì làm sao chứng được đạo quả Chánh đẳng Chánh giác ?

Đáp: Do nương vào thân biến hóa, an trụ trong ấy, mà có thể chứng ngộ Bồ-đề, chẳng dựa vào thân nghiệp báo. Lại nữa, sự chuyển y Thanh văn là tu trái với sinh tử nên chứng được. Chuyển y của Bồ-tát là dùng phương tiện mà tu tập và nương vào trí không còn phân hai mà chứng được. Thế nào là dùng phương tiện tu tập? Là do đạt pháp tính không đứt quãng, sở duyên to lớn, cho nên làm phát sinh siêng năng tối thắng, vì ngó ngàng đến hữu tình biết rõ các hành. Thế nào là nương vào trí không còn phân hai? Là không trụ ở sinh tử, không trụ ở Niếtbàn. Không ngó ngàng đến sinh tử mà ngó ngàng đến hữu tình. Phải biết, vì nhân duyên nầy mà chứng ngộ trí Phật tối thắng, Vô thượng. Vì sao? Vì trí hữu tình khác, nên có lúc trụ trong sinh tử hay có lúc trụ ở Niết-bàn, cho nên chưa phải Vô thượng. Trong khi ấy, trí của Chư Phật là nhằm đem lại lợi ích an vui cho các hữu tình. Vì khéo thành tựu tròn đầy lợi mình và lợi người nên mới là tối thắng, Vô thượng.

– Trí hữu tình khác, nghĩa là trí đó chỉ làm lợi cho mình, hoặc làm lợi ích không đồng đều, nên nó chẳng phải Vô thượng. Vì thế, cho nên trí tuệ của Chư Phật là không thể nghĩ bàn. Khi không còn vướng mắc hai bên thì có thể làm các việc ích lợi cho chúng sinh. Lại nữa, không hai nghĩa là không có hai tính chất giữa chứng Niết-bàn và không chứng Niết-bàn.

 

PHẨM 8: THÀNH LẬP HIỆN QUÁN (Phần 1)

Luận chép: Siêng năng chân chính như thế biết rõ vô thường, khổ, không, vô ngã rồi. Muốn tu theo phép quán nào?

Tụng rằng:

Phải biết hiện sở quán
Việc có hạ, trung, thượng.
Hữu lậu và vô lậu.
Chưa thấy, chưa thọ khắp.

Luận chép: Quán xét ngay đây về trói buộc của ba cõi là cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, những hiểu biết ấy có ba bậc thượng, trung, hạ.

– Hữu lậu là đây chỉ cho khổ đế tập đế.

– Vô lậu là đây chỉ tăng thượng phần diệt, đạo đế.

– Chưa thấy là thuộc về tứ đế.

– Chưa thọ là thuộc về diệt, đạo.

– Biến là cảnh giới đã thực hiện bởi nhiều loại trí, pháp trí trước hiện thực có thấy hay không thấy. Lại nữa, thế nào là hiện quán?

Tụng rằng:

Thắng trí xuất thế gian,
Năng trừ kiến sở đoạn,
Chứng đắc vô phân biệt,
Chỉ nương vào tĩnh lự.

Luận chép: Trí xuất thế gian có công năng quán xét hiện thực, nó không phải trí thế gian dứt bỏ kiến chấp. Dứt bỏ mê lầm mới chỉ là giai đoạn kiến đạo chưa phải giai đoạn tu đạo.

Hỏi: Trí xuất thế gian còn có hạnh gì?

Đáp: Nó chứng đắc vô phân biệt, là hạnh chứng đắc vô phân biệt hiện tiền, chứ chẳng phải chưa chứng đắc hiện tiền.

Hỏi: Trí hiện quán ấy, nương vào cái gì?

Đáp: Chỉ nương vào tĩnh lự, không nương vào Vô sắc. Lại nữa, quán sát hiện thực ở đâu?

Tụng rằng:

Rất buồn chẳng đường ác,
Cực vui chẳng hai trên.
Người, trời ở cõi Dục,
Phật ra đời hiện quán.

Luận chép: Trong đường ác, không khởi hiện quán được, do khổ thọ hoàn toàn tùy theo lo buồn thắc thỏm nên không thể chứng được Tam-ma-địa. Ở cõi Sắc, cõi Vô sắc cũng không có hiện quán do họ quá bị xáo động hân hoan, ý tưởng nhàm chán quá yếu ớt. Cho nên hai cõi, ba đường ác không phát khởi được hiện quán. Chỉ hai đường trời, người trong cõi Dục mới có Phật ra đời phát động khả năng hiện quán. Lại nữa, ai là người có khả năng hiện quán? Tụng rằng:

Chưa lìa dục, lìa bội,
Và người đã lìa dục,
Độc nhất chứng Chánh giác.
Ngã cao tột sinh ra.

Luận chép: Có năm thứ Bổ-đặc-già-la có khả năng bước vào hiện quán, hoặc không có người bước vào vì vô ngã, năm thứ là:

  1. Người chưa lìa ham muốn.
  2. Lìa dục gấp bội.
  3. Người đã lìa dục.
  4. Độc giác.
  5. Bồ-tát.

Nên biết, vì sao chỉ có tâm mới có khả năng bước vào hiện quán? Chứ chẳng phải ngã có khả năng bước vào đó?

Tụng rằng:

Phi ngã làm nhân trí,
Cũng chẳng tự chấp cảnh,
Ngã phi tự hiện quán,
Do chấp ái tự ngã,
Có cảnh giới vô thường,
Đợi duyên trí sinh khởi.
Dứt ba thứ thô nặng,
Phải nương tâm hiện quán.

Luận chép: Nếu chấp ngã có khả năng bước vào hiện quán thì không đúng lý vì sao? Vì ngã là nhân của trí, điều ấy không đúng lý. Lìa trí thì không thể chấp, vì sao? Nếu ngã có khả năng làm nhân cho trí, đó là vô thường, mà đúng lý ra thì trí là thường có. Nếu tự nó, ngã có thể chấp lấy đối tượng khi trí chưa sinh, nó cũng cứ chấp lấy. Lại nữa, nếu chấp cho ngã có khả năng bước vào hiện quán thì ngã ấy cũng có thể tự quán tính ngã. Nếu cứ vậy thì nào có giải thoát? Do chấp ngã và khởi lên yêu mến nó.

– Vì sao? Vì không còn bám lấy ngã thì không còn khởi lên chấp ngã và yêu mến ngã. Cho nên nói nương vào tâm, vì tâm có khả năng bước vào hiện quán thì điều nầy mới đúng lý. Vì sao? Vì tâm là vô thường, có cảnh, đợi duyên trí mới phát sinh. Lại nữa, nương vào tâm thì các thứ to, nặng, chấp ngã, yêu mến ngã tất thảy chúng đều bị dứt trừ hết. Vì sao? Tâm vô thường, là nhân sinh trí. Do có sở duyên vào, nó và trí cùng lúc nhiếp lấy cảnh giới, do phải đợi các duyên cho nên trí không thường có.

Lại nữa, tâm là chỗ nương của to, nặng và tính chất lìa ngã, nên ai chứng ngộ biến trí thì họ có khả năng lìa khỏi to, nặng và phát sinh sức dứt trừ ngã chấp và thương mến ngã. Thế nào là thứ lớp bước vào hiện quán? Tụng rằng:

Đã thành thục nối tiếp
Hoặc lắng nghe chánh pháp,
Tự nhiên cực như lý,
Tác ý nên hiện quán,
Buộc niệm sở duyên
Siêng năng tu định tĩnh,
Sức gốc lành thêm lớn,
Chứng phần giác Thánh đạo.

Luận chép: Ai tu hiện quán trước phải giữ sự thành thục cho được nối tiếp mãi rồi sau đó mới đi nghe chánh pháp, là thừa Thanh văn, tự nhiên là vậy, hay hàng Bồ-tát, Độc giác, ở chính tâm mình tác ý hết sức tốt đẹp thì có khả năng bước vào hiện quán,

– Buộc chặt ý niệm vào sở duyên là bốn niệm trụ. Tinh cần là bốn chánh đoạn. Tu tịnh định là bốn thần túc. Làm cho gốc lành tăng sức mạnh là trước chứng được tăng thượng tư lương như tín, v.v… Gốc của sức mạnh lành là năng lực thiện đối trị bất tín, v.v… gây chướng ngại, không nó xen lẫn.

– Chứng Thánh giác phần là nương vào sức căn lành mà chứng ngộ hết các giác chi.

– Chứng Thánh đạo phần là chứng được tám chi Thánh đạo. Theo thứ lớp như vậy mà bước vào hiện quán. Lại nữa, ngang bằng với địa vị nào sẽ được gọi là chính thức bước vào hiện quán?

Tụng rằng:

Từ đây nhập kiến đạo,
Khởi chánh kiến vô lậu,
Dứt hẳn ba thứ kết,
Chứng hiện quán, nên biết.

Luận chép: Từ trước, đã tu tập tác ý như lý nên từ giai vị Kiến đạo xuất thế gian mà phát sinh chánh kiến. Có chánh kiến nên ba kiết sử bị cắt đứt hoàn toàn. Nó là những Tát-ca-da-kiến, giới cấm thủ, và nghi ngờ bằng nhau ở vị trí Cũng thế, bị cắt đứt là bước vào hiện quán. Nhưng trong ấy, tất cả pháp tạp nhiễm ở đường ác, cũng đều bị xua tan đi. Vì sao chỉ nói cắt trừ hẳn ba kiết sử?

Tụng rằng:

Dù đường ác tạp nhiễm.
Chấp hoặc, đoạn sinh khởi
Cảnh thấy Đạo sư thảy,
Theo sinh thuộc ba kiết.

Luận chép: Do Tác-ca-da kiến nên mê lầm đối với cảnh. Do giới cấm thủ mà mê lầm chấp trước. Do nghi ngờ nên đối với những gì mà Phật, bậc Đạo sư nói về chánh pháp và tăng chánh hạnh, mà mê lầm nghi hoặc. Do nhắm vào chỗ chấp hạnh của họ nên chỉ nói trừ hẳn ba kiết sử. Lại nữa, hiện quán có tướng mạo ra sao?

Tụng rằng:

Do trí thế gian trước,
Biết chọn đế rốt ráo,
Với đế vô gia hạnh,
Chắc chắn sinh khởi tướng,
Trí cảnh hòa hợp tướng,
Với sở tri rốt ráo,
Phải biết đế hiện quán,
Đối mười thứ quyết định.

Luận chép: Do trí thế gian trước là từ nghe pháp mà trí phát sinh, cho đến pháp trí bậc nhất thế gian.

– Chọn lựa sự thật rốt ráo là đã lựa chọn rốt ráo các sự thật rồi thì không còn gia hạnh đối với sự thật.

– Chắc chắn sinh khởi tướng là đối với đối tượng sự thật được hiện quán, không bởi gia hạnh dụng công mà chắc chắn sinh khởi tướng, đó là tướng hiện quán.

Lại nữa, trí quyết định nầy và tướng cảnh hòa hợp nhau, đều hoàn toàn đưa đến cái biết rốt ráo. Vì sao? Vì ngoài tướng cảnh nầy thì không còn cảnh nào khác để tìm kiếm. Cho nên phép quán nầy gọi là hiện quán. Phải biết tướng chắc chắn nầy có mười thứ, mười thứ gồm:

Tụng rằng:

Tính ngã không có ba,
Không diệt, không có hai,
Không phân biệt, không sợ,
Quyết định trong tự dứt.

Luận chép: Mười thứ quyết định là:

  1. Những quyết định của chúng sinh là không đúng.
  2. Đối với tự tính biến kế sở chấp, quyết định không đúng.
  3. Đối với vô ngã thì cho có ngã.
  4. Đối với vô tướng thì cho là có tướng.
  5. Đối với thô, nặng là có và trung đồng quyết định.
  6. Đối với quyết định trong bất diệt là hoặc do không có nên bất diệt, là ngã của chúng sinh, ngã của pháp hoặc có nên không hoại diệt. Nghĩa là hai thứ đều vô ngã.
  7. Đối với quyết định trong không hai là pháp và pháp không, chẳng có khác nhau.
  8. Đối với không, chẳng quyết định phân biệt.
  9. Quyết định, đối với pháp tánh, không sợ hãi là những người ngu thọ nhận pháp tánh nầy, sinh tâm sợ hãi. Người trí đối với pháp tánh ấy, chắc chắn không sợ hãi
  10. Đối với tự tại có khả năng quyết đoán chắc chắn, là ngã tự mình cắt đứt chứng không cần chạy theo kẻ khác tìm phương tiện mà đoạn. Cho nên quyết định. Lại nữa, hiện quán như vậy, tu tập theo thứ lớp nào? Nên biết.

Tụng rằng:

Phát khởi, chứng, đẳng lưu,
Thành mãn kế thứ tư.
Lại pháp trụ trí thảy
Thứ lớp, tám, nên biết.

Luận chép: Thứ lớp hiện quán là có bốn hay tám hay bảy thứ? Bốn thứ là:

  1. Phát khởi là trí tuệ phát sinh từ khi được nghe pháp cho đến pháp thế đệ nhất.
  2. Chứng đắc là kiến đạo.
  3. Đẳng lưu là tu đạo.
  4. Thành mãn là đạo rốt ráo.

Thế nào là tám? Từ pháp trụ trí cho đến thiện thanh tịnh trí, như trước đã nêu. Bảy thứ hiện quán là gì?

Tụng rằng:

Không hối, trụ sở duyên,
Thấy cảnh giới như thật,
Chỗ đạo nương, không lầm,
Thuần sai khác hành đoạn.

Luận chép: Bảy thứ thứ lớp là: Là từ Thi-la thanh tịnh cho đến hành đoạn trí kiến tịnh. Do Thi-la thanh tịnh nên không có rối loạn, ăn năn. Vì không ăn năn nên tâm định, an trụ trong một cảnh. Vì tâm định nên đạt được những hiểu biết như thật đối với những gì mà mình biết. Kế đến là trí kiến đạo như thật là chỗ nương của Phật, pháp, tăng bảo. Nó xa lìa mê lầm nghi ngờ mà đạt bốn trí câu sinh thanh tịnh.

Kế đến là được khéo quyết định trí đối với những gì mà Đức Thiện Thệ đã nói đã chứng, nghĩa là chỉ trong pháp của Phật mới có sự thuần tịnh, mới ra khỏi đường khổ, chứ không phải pháp khác. Kế đến ở trong đạo nầy đạt được trí hạnh khác nhau. Nghĩa là khổ trì thông hành là phẩm lạc dưới, tốc thông hành là phẩm trên. Còn lại, hai hành khác là phẩm ở giữa. Kế là nương vào chánh hạnh phẩm trên, đối với sự đoạn diệt khác mà phát sinh trí kiến cao siêu.

Lại nữa, thứ thanh tịnh như thi-la nầy, nếu nói lược thì thuộc về ba học, nên biết cũng là thuộc về ba pháp thanh tịnh. Thế nào là ba pháp thanh tịnh?

Tụng rằng:

Thuộc ba tịnh, nên biết
Giới tịnh và tâm tịnh.
Cảnh giới, nương và đạo
Đó là tuệ thanh tịnh.

Luận chép: Ba thứ thanh tịnh là giới tịnh, tuệ tịnh và tâm tịnh.

Trong tuệ thanh tịnh lại có ba là:

  1. Đối với cảnh giới.
  2. Chỗ nương đối với đạo.
  3. Đối với thể của đạo.

Nên biết, còn có ba thứ thể tính của đạo là thuần túy, khác nhau và đoạn. Lại nữa, trong thứ lớp như thế, dùng thứ lớp nào để bước vào hiện quán?

Tụng rằng:

Biết nhân duyên thân thảy,
Khéo thông đạt ba đời,
Kế, biết rõ bốn khổ,
Lại nhập khổ, nên biết.

Luận chép: Trước đối với vị bốn niệm trụ, nên khéo biết rõ thân nầy thọ lấy tâm pháp có bốn thứ nhân duyên. Nghĩa là do ăn mà thân sống, do tiếp xúc cho nên có cảm thọ, có gom góp tên gọi sắc chất nên có nhận biết. Có gom tác ý nên có pháp.

Lại nữa, thân nầy, v.v… trôi lăn trong ba đời nên khéo rõ biết, là về đời vị lai nguyên nhân của pháp nên theo đó mà quán xét. Đối với quá khứ đã diệt, pháp diệt theo đó mà quán xét. Đối với nguyên nhân hiện tại, pháp diệt, theo đó mà quán xét.

Kế đến, nên biết, thân nầy với bốn khổ đã gây khổ là phải khổ do gánh nặng, phải khổ do địa vị thay đổi, phải khổ do thân thô nặng, phải khổ do sống chết. Bởi lấy pháp thiện, bất thiện làm nhân nên sẽ chịu khổ sống chết trong trôi lăn. Do vậy, khi biết rõ hai khổ sống và chết thì biết rõ các hiện tượng khổ. Từ đó, không xen hở, đem các đế mà suy nghiệm. Cho nên trước phải biết rõ tám thứ pháp khổ là sinh khổ cho đến nói lược khổ của năm thủ uẩn.

Lại nữa, bài Tụng rằng:

Từ đây chánh quán đế,
Phát mười sáu hành trí ,
Để trị bốn điên đảo,
Làm chỗ nương sau sau.

Luận chép: Sau khi biết tám khổ, kế đó suy nghiệm bốn chân đế như thật mà phát sinh mười sáu hạnh trí. Cái trước làm chỗ nương cho sau sau, nhằm vào việc đối trị bốn trái ngược, nên phát sinh bốn hoạt động về khổ đế:

1. Hoạt động vô thường nhằm đối trị cái nhìn trái ngược là thường.

2. Hoạt động về khổ nhằm đối trị cái nhìn trái ngược là vui.

3. Hoạt động về không, nhằm đối trị cái nhìn trái ngược có ngã.

4. Hoạt động về vô ngã, nhằm đối trị cái nhìn trái ngược có. Tạo sao? Vì ngoài các hành thì cái ngã khác là không, thể cu các hành, bản chất nó không phải mang tính chất ngã. Kế là đối với bốn đức đáng yêu là thường, lạc, ngã, tịnh, tập đế khởi lên bốn hạnh là nhân, tập, sinh, duyên. Kế là đối với đoạn và diệt đế khởi lên bốn hạnh là diệt, tịnh, diệu, ly. Kế là đối với khả năng của chứng đạo đế mà khởi lên bốn hạnh là đạo, như, hành, xuất.

Lại nữa, bài tụng rằng:

Từ đây chuyển tu tập,
Với tâm đều chán, lìa.
Đế quyết định chọn lựa.
Sinh khởi giác rốt ráo.

Luận chép: Sau mười sáu hạnh trí chuyển biến tu tập, trước là duyên tự tâm phát sinh hiểu biết tâm nhàm chán tất cả, đây gọi là Noãn (sức ấm). Từ quả vị nầy trở lên, trí giác quyết định trí sinh, đây gọi là Đảnh. Từ quả vị nầy trở lên, phát sinh tri giác quyết định nầy gọi là Nhẫn. Từ đây trở lên phát sinh trí giác rốt ráo, đây gọi là Thế đệ nhất pháp.