LUẬN ĐẠI THỪA TẬP BỒ TÁT HỌC
(Luận Đại thừa tập hợp các Học xứ của Bồ-tát)
Bồ-tát Pháp Xứng tạo luận
Sa-môn Pháp Hộ v.v… dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt
QUYỂN 20
Phẩm 15: HỌC XỨ VỀ CHÍNH MẠNG THỤ DỤNG 2
Luận nói:
Đây nói về Thi-la thanh tịnh.
Như Kinh Hư Không Tạng nói:
Xa lìa tâm Thanh Văn, Bích-chi-phật, không thoái chuyển tâm Bồ-đề thì Thi-la được thanh tịnh.
Thiện nam tử ! Ví như hư không, thể tính thanh tịnh, Bồ-tát trì giới cũng thanh tịnh như vậy.
Hư không không cấu bẩn, Bồ-tát giữ giới cũng không cấu bẩn như vậy.
Hư không vắng lặng, Bồ-tát giữ giới cũng vắng lặng như vậy.
Hư không không hư hoại, Bồ-tát giữ giới cũng không hư hoại như vậy.
Lại như hư không không gì có thể vượt hơn, Bồ-tát giữ giới không hữu tình nào hơn.
Lại nữa, như hư không thanh tịnh bình đẳng, Bồ-tát tu hành nhẫn nhục đối với hữu tình cũng bình đẳng hòa hợp thanh tịnh như vậy.
Ví như có người tay cầm rìu bén vào rừng Ta-la chặt nhánh lá, nhưng cây kia không giận dữ, không phân biệt ai đã chặt, cũng không phân biệt bị ai chặt, Bồ-tát tu hành nhẫn nhục cũng như vậy.
Đó là nhẫn nhục cao tột của Bồ-tát ví như hư không.
Lại nữa, Kinh Bảo Kế nói:
Thân tinh tiến thanh tịnh, nghĩa là nếu thân này giống như cái bóng như tiếng vang, có nói năng gì tự tính đều vô ký, biết tâm rốt ráo trống vắng, phải lấy đại bi mặc áo giáp, đội mũ trụ của từ tâm, đầy đủ các hạnh, tu thiền định sâu, không khuyết giảm các pháp công đức, đem tâm Bồ-đề quán các chúng sinh không khuyết giảm, vui làm bố thí cho đến phương tiện không khuyết giảm, thâm tâm tương ưng với từ bi hỷ xả không khuyết giảm, với bố thí ái ngữ lợi hành đồng sự không khuyết giảm, với chính niệm chính tri không khuyết giảm, với niệm xứ chính cần thần túc căn lực giác chi thánh đạo không khuyết giảm, cho đến Xa-ma-tha Tì-bát-xá-na không khuyết giảm, xả nghiệp phiền não tự tính vô tri, tu hành kiểm thúc thân tâm không cho phóng túng, thường siêng làm Phật sự, thành thục hữu tình đều được thanh lương an trụ tịch tĩnh.
Thiện nam tử ! Đó goi là Bồ-tát tu hành thanh tịnh thiền Ba-lamật-đa. Phải biết cho đến trí tuệ Ba-la-mật-đa cũng như vậy.
Phẩm 16: HỌC XỨ VỀ TĂNG TRƯỞNG THẮNG LỰC 1
Luận nói:
Đây nói về ba thứ tăng trưởng thắng lực. Nghĩa là việc làm thường không chán đủ, độ chúng sinh không sinh biếng nhác thoái lui, cầu trí tuệ Phật thì kiên cố dũng mãnh. Đó là ba thứ năng lực mà Thanh Văn không làm được.
Như Kinh Bảo Vân nói:
Vì các chúng sinh tự tính khiếp nhược, chỉ có Bồ-tát hiện rõ tăng trưởng.
Lại như Kinh Như Lai Bí Mật nói:
Bấy giờ vua A-xà-thế bạch Phật rằng: Thế Tôn ! Bồ-tát tu đủ bao nhiêu pháp thì được thắng lực này ?
Phật nói: Đại vương ! Bồ-tát nếu tu mười pháp sẽ được thắng lợi này. Những gì là mười ?
- Bồ-tát thà bỏ thân mạng nhất định không bỏ chính pháp vô thượng.
- Bồ-tát khiêm hạ với tất cả chúng sinh, tâm không kiêu mạn.
- Đối với chúng sinh yếu đuối, sinh tâm thương xót không làm tổn hại.
- Thấy chúng sinh đói khát cho ăn uống tử tế.
- Thấy chúng sinh sợ hãi, làm cho hết sợ.
- Thấy chúng sinh bệnh tật, cho thuốc và cứu chữa.
- Thấy chúng sinh nghèo thiếu, thí cho đầy đủ.
- Thấy chùa tháp hình tượng Phật, lau quét sạch sẽ.
- Nói lời hoan hỷ an ủi chúng sinh.
- Thấy chúng sinh chở nặng mệt nhọc khổ não, bớt cho gánh nặng.
Bồ-tát nếu đủ mười pháp như vậy tức có thể được sức vượt trội.
Lại nữa, Kinh Hải Ý nói:
Nếu Bồ-tát có thể phát khởi tinh tiến, thường kiên cố siêng năng làm việc, tinh tiến không thôi nghỉ, thì các Bồ-tát ấy đối với A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề không có gì khó đạt được.
Bởi vì sao ? Hải Ý ! Do tinh tiến nên được Bồ-đề. Nếu lười biếng thì với Phật Bồ-đề đã xa lại càng xa hơn. Người không biếng nhác có thể hành bố thí, cho đến người không biếng nhác có thể tập trung trí tuệ.
Như Kinh Nguyệt Đăng nói:
Như trong nước sinh hoa Ưu-bát-la. Phải biết muốn lần lượt được tăng trưởng phải dần dần tu học các hạnh bố thí v.v… Như Kinh Năng Đoạn Kim Cương nói:
Nếu Bồ-tát khéo trụ nơi bố thí, phúc tụ đạt được không thể lường. Lại như Kinh Đại Bát Nhã nói:
Lại nữa, Xá-lợi tử ! Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát ưa thích tu tập Bátnhã Ba-la-mật-đa, chẳng phải bố thí chút ít mà được viên mãn, phải thí cho tất cả chúng sinh vàng bạc châu báu vườn rừng nhà cửa các thứ cần thiết tùy theo ý thích. Đem tất cả tướng trí phương tiện thiện xảo có thể hồi hướng tất cả chúng sinh trong vô lượng a-tăng-kì, nên phải học Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Luận nói:
Đây nói đại bi không tạng tự tính thanh tịnh, thụ dụng phúc tụ mau chóng tăng trưởng. Nếu không đại bi chẳng phải hạnh Bồ-tát. Đây là căn bản xây dựng các thiện. Như vậy thâm tâm kiên cố, đại bi hiện tiền, dũng mãnh tu các hạnh tương ưng, là có thể đạt được Thi-la thanh tịnh. Cho nên có bài tụng rằng:
Như người giỏi chiến đấu,
Sức mạnh vũ khí tốt.
Nếu biếng nhác thoái lui,
Ắt bị đối phương bắt.
Lại như Thiện Tài đến chỗ thiện tri thức Thánh Từ, tự nghĩ rằng: Thân ta trong đời quá khứ không có tâm dũng mãnh, không có ý kiên cố, không có nhân thanh tịnh nên chịu các luân chuyển. Tâm ưa trôi nổi điên đảo phân biệt, tư duy tà vạy ưa tập dục hạnh, chấp trước thế gian không lợi sự nghiệp. Nếu nơi tự thân có được nghĩa lợi thì khởi bất bình đẳng đều xả bỏ hết.
Trong đời hiện tại khởi đại dũng mãnh, lựa chọn phân biệt chân thật tư duy, phải siêng tu tác các chính hạnh của Bồ-tát, đối với chúng sinh khởi tâm tăng thượng làm nhiều lợi ích. Ở nơi chư Phật phát tinh tiến lớn, làm thiện lợi lớn, trang nghiêm các căn, tăng trưởng nguyện lực, đọc tụng kinh điển, tâm thanh tịnh tin hiểu, giữ gìn thân tâm không sinh cao ngạo, thường muốn ra khỏi biển khổ lo sầu của sinh già bệnh chết.
Đời sau ưa tu hạnh Bồ-tát, phải đi đến tất cả các cõi Phật cung kính lãnh thụ sự dạy dỗ của Như Lai, gần gũi cúng dường các sư thuyết pháp, ưa cầu tương ưng chính pháp chư Phật, phụng sự cung cấp các thiện tri thức, khai thị diễn thuyết tất cả Phật pháp.
Bồ-tát nếu có thể tư duy quan sát như vậy thì có thể tăng trưởng trí thân, độ thoát chúng sinh trồng các gốc đức.
Như Kinh Vô Tận Ý nói:
Bồ-tát đơn độc một mình không bè bạn, dũng mãnh kiên cố, cuối cùng nhiếp thủ A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Thâm tâm tự mình tu hành không nhờ ai tu cho mình, tự trang nghiêm bằng áo giáp tinh tiến, như các chúng sinh tạo tác thiện nghiệp.
Ta cũng ắt phải làm như vậy, và các Bồ-tát tu hành các hạnh từ sơ phát tâm, ta cũng phải làm.
Thí không phải là bạn của ta, mà ta là bạn của thí.
Giới nhẫn tinh tiến thiền định trí tuệ không phải bạn của ta, mà ta là bạn của chúng.
Các Ba-la-mật không thể sai khiến ta, mà ta có thể vận dụng các Ba-la-mật.
Tất cả thiện căn cũng đều như vậy. Cho đến đạo tràng ngồi tòa kim cương phá các ma chúng, trong một sát-na dùng tuệ bình đẳng tương ưng, được thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
Như Kinh Kim Cương Tràng nói:
Như Nhật Thiên Tử xuất hiện thế gian, độc nhất không bạn bè, trải qua các cảnh giới không thoái chuyển, với người mù bẩm sinh không sinh chán nản lo âu, với A-tu-la vương La-hầu không sinh chán nản lo âu, với thành Càn-thát-bà không sinh chán nản lo âu, với Diêm-phù-đề ô uế xấu xa không sinh chán nản lo âu, với bốn thiên hạ địa giới vi trần không sinh chán nản lo âu, với các núi cao khói mây che chướng không sinh chán nản lo âu.
Bồ-tát Ma-ha-tát xuật hiện thế gian cũng như vậy. Lấy trí vô phân biệt chính niệm hiểu biết, nếu bị chúng sinh làm tổn hại không sinh chán nản lo âu, tâm không thoái chuyển.
Nếu chúng sinh bị cấu uế tà kiến làm nhiễm ô, Bồ-tát đối với chúng không sinh chán nản lo âu, tâm không thoái chuyển.
Nếu thấy chúng sinh thường bị giận dữ trói buộc, Bồ-tát đối với chúng cũng không xa lìa.
Nếu thấy chúng sinh ngu si che chướng phiền não cấu nặng, mà lại phá hoại hạt giống Bồ-đề, tất cả thế gian không thể cứu hộ, Bồ-tát đối với chúng không sinh khinh mạn.
Bởi vì sao ? Vì Bồ-tát đại bi không thấy chúng sinh có lỗi lầm. Giống như mặt trời xuất hiện trên thế gian đều làm cho sáng rõ không nơi nào tối tăm.
Nếu chúng sinh lại bị ngu si che khuất không tin chư Phật, không nghe chính pháp, không biết ruộng phúc điền tăng, tự mình tạo các nhân khổ, hoặc đọa địa ngục bàng sinh quỷ giới, bấy giờ Bồtát thấy chúng sinh kia tạo nghiệp ấy rồi, tâm không động loạn, cũng không lựa chọn, không sợ hãi, phát tâm kiên cố dũng mãnh không thoái chuyển, quyết định thay chúng chịu các khổ não. Sở dĩ vì sao ?
Ta phải gánh vác các chúng sinh kia, cho đến các nạn khổ não của sinh già bệnh chết của thế gian, nạn tám vô hạ, nạn luân hồi, nạn các ác kiến, nạn hoại thiện pháp, nạn sinh vô trí.
Ta phải hoàn toàn làm cho thoát nạn này. Đó là vì các chúng sinh bị vô minh che khuất, bị đắm trước trong lưới ái, bị các hữu kết trói buộc, bị các khổ giam nhốt không biết, không cầu thoát ra, thường ôm nghi hoặc, trái nghịch với nguyện, cứ chìm nổi trong biển luân hồi.
Ta phải an trụ nhất thiết trí, làm cho chúng sinh thành tựu nghĩa lợi, đều được giải thoát. Chỉ có một mình ta có thể làm việc cứu hộ.
Giả sử tất cả thế giới đều là cõi ác, trong đó đầy cả chúng sinh thụ khổ, đem tất cả thiện căn của ta hồi hướng bình đẳng, không ai không ban phát cho, cho đến trải qua thời gian cuối cùng, mỗi mỗi cõi ác tiêu diệt không sót, mỗi mỗi chúng sinh đều được giải thoát.
Giả sử còn một người chưa lìa khổ, ta phải đem thân làm cho ra khỏi. Nguyện các chúng sinh, nhân thân ta được hết khổ, được vui an ổn, mỗi mỗi đều vui vẻ nói lời chân thật, không lừa gạt nhau không làm tổn hại nhau.
Ta phải làm cho phát tâm nhất thiết trí, lìa cảnh ngũ dục, hành Bồ-tát hạnh, rốt ráo an trụ vô thượng chính đẳng Bồ-đề. Sở dĩ vì sao ? Các chúng sinh ấy do tham dục nên lệ thuộc vào ma cảnh, bị chư Phật Thế Tôn quở trách. Phải biết tham dục là gốc khổ. Do nhân duyên ấy mà hoặc gây tranh tụng, hoặc đánh nhau, khởi các phiền não, sau đọa địa ngục ngạ quỷ súc sinh, cho đến cắt đứt nghiệp sinh cõi trời, xa lìa chư Phật.
Do đâu có thể phát vô thượng trí ? Các chúng sinh này bị tham dục đánh chìm, vô lượng tội lỗi đốt cháy nung nấu. Ta đem thiện căn hồi hướng bình đẳng, khiến các chúng sinh đều được lìa bỏ, ưa cầu Phật trí, được vui Niết-bàn. Ta phải vì chúng làm đại đạo sư, đem trí phương tiện làm cho đạt đến bờ kia.
Lại như mặt trời xuất hiện chiếu sáng bốn đại châu, làm các cảnh giới đều hiện rõ, như cung điện nhà vua, làng xóm thành ấp, nhân dân qua lại sinh hoạt, lúa thóc chín, cây cỏ tốt tươi. Đó là oai đức ánh sáng của Nhật Thiên Tử độc nhất xuất hiện thế gian chắc chắn không có hai.
Cũng như vậy Bồ-tát từ sơ phát tâm, thấy các chúng sinh không gieo căn lành, liền nghĩ rằng:
Ta phải cứu hộ tất cả chúng sinh.
Ta phải giải thoát tất cả chúng sinh.
Ta phải chiếu sáng tất cả chúng sinh.
Ta phải dạy dỗ tất cả chúng sinh.
Ta phải nhập giải tất cả chúng sinh.
Ta phải nhiếp thụ tất cả chúng sinh.
Ta phải thành thục tất cả chúng sinh khiến đều được an ổn, dứt các nghi hoặc.
Lại như mặt trời xuất hiện thế gian, ánh sáng chiếu khắp không phải có người cầu.
Bồ-tát Ma-ha-tát cũng vậy, xuấ hiện thế gian, thấy chúng sinh khổ liền cứu độ không đợi ai mời thỉnh, không một thiện căn ít ỏi nào mà không hồi hướng, vì các chúng sinh mà trang nghiêm.
Lại nữa, Kinh Vô Tận Ý nói:
Bồ-tát cầu Bồ-đề không kể kiếp số. Từ gốc sinh tử cho đến ngày nay trải qua thời gian không thể tính kể, trong bao nhiêu kiếp làm trang nghiêm, cho đến một khi gặp chư Phật, một khi phát đạo tâm, trải qua chư Phật nhiều như cát sông Khắc-già thừa sự cúng dường không mệt mỏi, mới có thể hiểu rõ tất cả tâm hành của chúng sinh.
Đó gọi là Bồ-tát trang nghiêm vô tận. Tu tập Đàn Ba-la-mật Bồ-đề phần pháp như vậy có thể đầy đủ tướng hảo trang nghiêm.
Lại nữa, Kinh Bảo Vân nói:
Bồ-tát thấy các chúng sinh mù lòa không có mắt tuệ, cảm thương khó điều phục, đủ cả các ác như phá giới, biếng nhác. Bấy giờ Bồ-tát rất chán bỏ, cầu sinh Tịnh độ, nguyện ta không nghe tên các ác. Khởi ý niệm như vậy rồi liền suy nghĩ rằng: Các chúng sinh này ngu si câm điếc, không có phần Niết-bàn, không sinh tín tâm, xa lìa chư Phật, ta phải điều phục mà cứu vớt chúng. Khi phát tâm như vậy thì tất cả ma cung đều chấn động, mười phương chư Phật đồng thanh khen ngợi: Người này không lâu sẽ ngồi đạo tràng được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
Luận nói:
Lần lượt tư duy quan sát như vậy thí có thể tăng trưởng vô lượng phúc tụ, cần phải thâm tâm chân chất ngay thẳng, kiên cố tu tập.
Như Kinh Pháp Tập nói:
Trong Phật pháp, chân chất ngay thẳng là gốc. Nếu các Bồ-tát tâm không chân chất ngay thẳng thì xa lìa tất cả Phật pháp. Nếu đầy đủ thâm tâm kiên cố, sinh lòng khát ngưỡng đối với pháp sâu xa nhiệm màu chưa từng được nghe, thì hoặc từ hư không, trong núi rừng tự nhiên nghe phát ra tiếng diệu pháp mà được hiểu rõ. Cho nên Bồ-tát phải làm như vậy.
Như người có chân có thể du hành. Bồ-tát nếu có đủ thâm tâm chân chất ngay thẳng, có thể tu hành tất cả Phật pháp.
Như người có thân thì có mạng sống. Bồ-tát nếu có đủ thâm tâm chân chất ngay thẳng có thể đạt được Bồ-đề của chư Phật.
Như người có mạng sồng thì có tài lợi. Bồ-tát nếu có đủ thâm tâm chân chất ngay thẳng có thể được thánh tài của chư Phật.
Ví như cây đuốc lớn thì ngọn lửa cháy mạnh. Bồ-tát nếu có đủ thâm tâm chân chất ngay thẳng có thể sáng tỏ các Phật pháp.
Ví như có mây thì sẽ có mưa. Bồ-tát nếu có đủ thâm tâm chân chất ngay thẳng có thể tuyên bố pháp vũ của chư Phật. Cho nên Bồtát phải biết tự giữ gìn thâm tâm chân thật ngay thẳng.
Ví như rễ cây hủ mục thì không thể sinh nhánh lá hoa quả. Bồtát nếu không có thâm tâm chân chất ngay thẳng thì các thiện pháp sẽ không sinh nữa, cũng không thể có được Bồ-đề của chư Phật.
HẾT QUYỂN 20