LUẬN A TỲ ĐẠT MA CÂU XÁ
Tác giả: Tôn giả Thế Thân
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 26
Phẩm thứ 7: PHÂN BIỆT TRÍ, phần 1
Phần đầu của phẩm trước đã nói về các nhẫn, các trí. Ở sau lại nói về chánh kiến, chánh trí. Như vậy là có nhẫn không phải là trí chăng? Là có trí không phải là kiến chăng?
* Tụng viết:
Thánh tuệ nhẫn phi trí
Tận, vô sinh phi kiến
Khác hai, tuệ hữu lậu
Đều trí, sáu tánh kiến.
* Luận nêu: Tuệ có hai loại: Hữu lậu và vô lậu, chỉ tuệ vô lậu mới được lập danh hiệu Thánh. Trong Thánh tuệ này, tám nhẫn không phải là tánh của trí. Do đối tượng đoạn của mình là nghi đều chưa đoạn. Do chúng có thể thuộc về tánh của kiến, vì tánh là suy lường. Hai trí là tận trí và vô sinh trí không phải là tánh của kiến. Do đã dứt trừ tâm mong cầu, không suy lường. Số còn lại đều chung cả hai tánh trí, kiến. Do đã đoạn dứt tự nghi và tánh là suy lường. Các tuệ hữu lậu đều thuộc về tánh của trí, trong ấy chỉ sáu thứ cũng là tánh của kiến. Nghĩa là năm kiến nhiễm ô, chánh kiến thế tục là sáu.
Như vậy là đã nói về tuệ hữu lậu và Thánh tuệ, đều là trạch pháp nên cùng thuộc về tánh của tuệ.
Trí có bao nhiêu thứ? Tướng sai biệt như thế nào?
* Tụng viết:
Trí mười gồm có hai
Hữu lậu vô lậu khác
Hữu lậu xưng thế tục
Vô lậu gọi pháp, loại.
Thế tục khắp làm cảnh
Pháp trí cùng loại trí
Như tiếp dục, cõi trên
Đế như khổ v.v… làm cảnh.
* Luận nêu: Trí có mười loại gồm thâu tất cả trí: (1) Thế tục trí. (2) pháp Trí. (3) Loại trí. (4) Khổ trí. (5) Tập trí. (6) Diệt trí. (7) Đạo trí. (8) Tha tâm trí. (9) Tận trí. (10) Vô sinh trí. Mười trí như vậy gồm chung chỉ là hai thứ: Là tánh hữu lậu, vô lậu có sai biệt. Tướng sai biệt của hai thứ trí như thế là có ba: Nghĩa là thế tục trí, pháp trí, loại trí. Trí hữu lậu nêu trước gọi chung là thế tục, phần nhiều nhận lấy cảnh của thế tục như chiếc bình, cái áo v.v… Trí vô lậu nêu sau phân ra pháp, loại có khác nhau. Trong ba trí ấy, thì thế tục trí dùng khắp hết thảy pháp hữu vi vô vi làm cảnh của đối tượng duyên. Hai thứ pháp trí, loại trí, như thứ lớp ấy, dùng bốn đế nơi cõi dục và cõi trên làm cảnh. Tức ở trong hai thứ trí như vậy:
* Tụng viết:
Pháp loại do cảnh khác
Lập bốn tên như khổ
Đều chung tận vô sinh
Trước chỉ khổ tập loại.
* Luận nêu: Pháp trí, loại trí do cảnh sai biệt nên phân làm bốn trí khổ tập diệt đạo. Sáu trí như thế, nếu thuộc về vô học, do không phải là tánh của kiến, nên gọi là tận trí, vô sinh trí. Hai trí này lúc mới sinh chỉ là khổ loại trí và tập loại trí, do duyên nơi sáu thứ hành tướng của khổ, tập, quán uẩn của xứ Hữu đảnh làm cảnh giới. Cảnh của định kim cang dụ là đồng với đây chăng? Duyên nơi khổ đế, tập đế thì đồng. Duyên nơi diệt đế đạo đế thì khác. Ở trước đã nói trong chín thứ trí:
* Tụng viết:
Pháp loại đạo thế tục
Có thành tha tâm trí
Nơi vị căn địa thắng
Đời khứ lai không biết.
Pháp loại không cùng biết
Thanh văn Lân dụ Phật
Thứ lớp biết kiến đạo
Hai ba niệm tất cả.
* Luận nêu: Có pháp trí, loại trí, đạo trí cùng thế tục trí thành tha tâm trí. Số còn lại thì không như thế. Trí này ở nơi cảnh có tướng quyết định. Nghĩa là không nhận biết tâm thắng cùng tâm quá khứ vị lai. Tâm thắng có ba: Là địa, căn, vị. Địa: Nghĩa là trí của địa dưới không nhận biết tâm của địa trên. Căn: Nghĩa là trí của căn thuộc Tín giải, Thời giải thoát không nhận biết tâm của Kiến chí, Bất thời giải thoát. Vị: Nghĩa là các quả vị Bất hoàn, Thanh văn Ứng quả, Độc giác, Đại giác, trí của vị trước không nhận biết tâm của chư vị nơi sau. Trí này cũng không nhận biết về tâm quá khứ, vị lai. Do trí ấy chỉ dùng tâm có thể duyên trong sự tương tục của kẻ khác ở hiện tại làm cảnh giới. Lại, nơi phẩm pháp loại thì không cùng nhận biết nhau. Nghĩa là các tha tâm trí thuộc pháp trí không nhận biết về loại phẩm. Các tha tâm trí thuộc về loại trí thì không nhận biết về pháp phẩm. Do pháp trí, loại trí dùng toàn phần đối trị cõi dục và cõi trên lảm đối tượng duyên. Tha tâm trí này không có trong kiến đạo. Do kiến đạo là quán chung về lý của đế, chuyển biến rất nhanh chóng.
Nhưng các trí của kiến đạo đều có thể làm đối tượng duyên cho trí này. Nếu các hữu tình sắp nhập nơi kiến đạo, hàng Thanh văn, Độc giác tham dự tu gia hạnh, là muốn nhận biết về tâm của vị kiến đạo kia. Các hữu tình ấy, nhập nơi vị kiến đạo. Phần gia hạnh của pháp Thanh văn nếu viên mãn, thì nhận biết tâm nơi hai niệm đầu của vị kiến đạo kia. Nếu là nhận biết thêm về tâm phần loại tức nên tu gia hạnh khác. Đến khi gia hạnh viên mãn thì vị kia đã qua đến tâm thứ mười sáu. Tuy nhận biết tâm ấy nhưng không phải là nhận biết kiến đạo. Phần gia hạnh của pháp Lân dụ nếu viên mãn thì nhận biết về tâm nơi hai niệm đầu của vị kiến đạo kia. Nếu là nhận biết thêm về tâm phần loại tức nên tu gia hạnh khác. Đến khi gia hạnh viên mãn thì nhận biết về tâm của tập loại trí thứ tám. Vì vị này chỉ do gia hạnh yếu kém. Có thuyết cho: Hàng Độc giác nhận biết về tâm nơi hai niệm đầu cùng tâm thứ mười lăm. Đức Thế Tôn muốn nhận biết thì không do gia hạnh, đối với vị kiến đạo kia, tất cả có thể nhận biết.
Tướng của hai trí tận trí, vô sinh trí có sai biệt gì?
* Tụng viết:
Trí đối bốn Thánh đế
Biết mình đã nhận biết
Không còn phải nhận biết
Là tận trí, vô sinh trí.
* Luận nêu: Như Bản luận nói: “Thế nào là tận trí? Nghĩa là vị vô học nếu chính thức tự nhận biết: Ta đã biết rõ về khổ. Ta đã đoạn trừ tập. Ta đã chứng đắc diệt. Ta đã tu tập đạo. Do đấy có được trí, kiến, minh, giác, giải, tuệ, quán rõ. Đó gọi là tận trí. Thế nào là vô sinh trí? Nghĩa là chính thức tự nhận biết: Ta đã biết rõ về khổ không còn phải nhận biết nữa. Nói rộng cho đến: Ta đã tu tập đạo không còn phải tu tập nữa. Do đấy có được… nói rộng cho đến: Đó gọi là vô sinh trí”.
Vì sao trí vô lậu lại có thể tạo nhận biết như thế? Các Luận sư của nước Ca-thấp-di-la nói: Từ nơi hai trí xuất sinh hai trí hậu đắc, trong ấy đã tạo sự nhận biết như thế nên không có lỗi. Do hai trí hậu đắc này là riêng khác, nên đã biểu hiện hai trí trong quán ở trước có sai biệt. Có thuyết cho: Trí vô lậu cũng tạo sự nhận biết như vậy. Tuy nhiên, nói kiến là nêu bày theo phương tiện, nhân đấy. Hoặc ở nơi lý của đế đã soi chiếu, hiện rõ cùng chuyển. Do đấy Bản luận cũng nói: Các trí cũng là kiến.
Mười trí như thế đã cùng gồm thâu như thế nào? Nghĩa là thế tục trí gồm thâu toàn một trí và phần ít của một trí. Pháp trí, loại trí đều gồm thâu toàn một trí và phần ít của bảy trí. Khổ tập diệt trí đều gồm thâu toàn một trí và phần ít của bốn trí. Đạo trí gồm thâu toàn một trí và phần ít của năm trí. Tha tâm trí gồm thâu toàn một trí và phần ít của bốn trí. Tận trí, vô sinh trí đều gồm thâu toàn một trí và phần ít của sáu trí.
Vì sao hai trí (Hữu lậu, vô lậu) kiến lập làm mười trí?
* Tụng viết:
Do tự tánh, đối trị
Hành tướng, cảnh hành tướng
Gia hạnh, biện, nhân tròn
Nên kiến lập mười trí.
* Luận nêu: Do bảy duyên nên lập hai trí làm mười: (1) Tự tánh: Do tự tánh nên lập thế tục trí. Không phải trí thắng nghĩa là tự tánh. (2) Đối trị: Do đối trị nên lập pháp trí, loại trí. Vì hoàn toàn có khả năng đối trị cõi dục và hai cõi trên. (3) Hành tướng: Do hành tướng nên lập khổ trí, tập trí. Thể của cảnh nơi hai trí này là không khác. (4) Cảnh của hành tướng: Do cảnh của hành tướng nên lập diệt trí, đạo trí. Hai trí này, hành tướng và cảnh cùng có khác. (5) Gia hạnh: Do gia hạnh nên lập tha tâm trí. Không phải trí này không nhận biết về tâm sở pháp của người khác, nhưng vốn tu gia hạnh là nhằm nhận biết về tha tâm. Tuy vào lúc thành mãn cũng nhận biết về tâm sở, vì căn cứ theo gia hạnh nên lập tên tha tâm trí. (6) Sự biện: Do sự biện (Sự việc đã gồm đủ) nên kiến lập tận trí. Sự biện trong thân đã được sinh khởi đầu tiên. (7) Nhân tròn: Do nhân tròn đủ nên lập vô sinh trí. Vì tất cả Thánh đạo là nhân sinh.
Như trên đã nói: Pháp trí, loại trí hoàn toàn có khả năng đối trị pháp của cõi dục (Pháp trí) của hai cõi trên (Loại trí). Như vậy là chúng có đối trị phần ít nơi cõi khác không?
* Tụng viết:
Pháp trí duyên diệt đạo
Ở trong vị tu đạo
Gồm trị tu đoạn trên
Loại không đối trị dục.
* Luận nêu: Pháp trí duyên nơi diệt đế đạo đế thuộc về tu đạo, có thể đối trị gồm luôn các thứ phiền não nơi hai cõi trên do tu đạo đoạn. Vì diệt, đạo của cõi dục là hơn so với cõi trên. Vì đã trừ tự oán địch nên gồm luôn phần tha. Do loại trí này không thể đối trị phiền não nơi cõi dục.
Trong mười trí ấy, trí nào có hành tướng gì?
* Tụng viết:
Pháp trí và loại trí
Hành tướng cùng mười sáu
Thế tục đây và khác
Bốn đế trí đều bốn.
Tha tâm trí vô lậu
Chỉ bốn là duyên đạo
Hữu lậu duyên tự tướng
Cùng chỉ duyên một sự.
Tận vô sinh: mười bốn
Là lìa không, vô ngã.
* Luận nêu: Pháp trí, loại trí, mỗi mỗi trí đều có đủ mười sáu hành tướng như vô thường, khổ v.v… Mười sáu hành tướng, phần sau sẽ giải thích rộng. Thế tục trí có đủ mười sáu hành tướng này và lại có thêm là có thể duyên nơi tự tướng, cộng tướng của tất cả pháp. Bốn trí như khổ v.v… mỗi mỗi trí đều có duyên nơi bốn thứ hành tướng thuộc cảnh của tự đế. Trong tha tâm trí, nếu là vô lậu thì chỉ có duyên nơi bốn thứ hành tướng của đạo đế, do đấy tức là thuộc về đạo trí. Nếu là hữu lậu thì nhận lấy cảnh nơi tự tướng của đối tượng duyên thuộc chính mình. Như cảnh nơi tự tướng thì hành tướng cũng vậy. Nên ở đây không thuộc về mười sáu thứ nơi trước. Hai thứ như thế, nơi tất cả thời, một niệm chỉ duyên nơi một sự làm cảnh. Nghĩa là lúc duyên nơi tâm thì không duyên nơi tâm sở. Lúc duyên nơi thọ v.v… thì không duyên nơi tưởng v.v…
Nếu như vậy vì sao Đức Bạc-già-phạm nói: “Nhận biết rõ như thật là tâm có tham?”. Do hành giả không phải cùng thời nhận lấy tham cùng với tâm. Như không cùng lúc nhận lấy chiếc áo và vết bẩn. Tâm có tham: Có tham có hai nghĩa: (1) Là tương ưng với tham. (2) Là bị tham trói buộc. Tâm tương ưng với tham do đủ hai nghĩa. Tâm hữu lậu còn lại chỉ là tâm bị tham trói buộc. Có thuyết nói: Kinh nêu rõ tâm có tham là chỉ nói về loại tâm thứ nhất là tương ưng với tham. Tâm lìa tham: Nghĩa là tâm đối trị tham. Nếu tâm không tương ưng với tham gọi là tâm lìa tham, thì các tâm tương ưng với các thứ Hoặc còn lại cũng nên được gọi là tâm lìa tham, vì chúng không tương ưng với tham. Như vậy, có tâm không phải đối trị tham, tánh không nhiễm ô tức đã cho tâm ấy không phải là tâm có tham, tâm lìa tham. Vì thế nên thừa nhận như Sư khác đã nói, là tâm bị tham trói buộc gọi là tâm có tham. Cho đến tâm có si, tâm lìa si cũng được giải thích như thế. Sư Tỳ-bà-sa nêu rõ: Tâm trụ nghĩa là tâm thiện. Tâm này ở nơi đối tượng duyên không phân tán dong ruổi. Tâm tán nghĩa là tâm nhiễm. Tâm này cùng tương ưng với tán động dấy khởi. Các Sư phương Tây cho: “Tâm tương ưng với miên gọi là tâm tụ. Tâm nhiễm ô còn lại gọi là tâm tán”. Điều này là không hợp lý, vì các tâm nhiễm ô nếu cùng tương ưng với miên tức nên chung cho cả tâm tụ tâm tán. Lại còn trái ngược với Bản luận. Bản luận nói: “Nhận biết đúng như thật về tâm tụ đầy đủ có bốn trí, là pháp trí, loại trí, thế tục trí và đạo trí”.
Tâm trầm trệ là tâm nhiễm. Tâm này cùng tương ưng với biếng trễ dấy khởi. Tâm năng động là tâm thiện. Tâm này cùng tương ưng với chánh cần sinh khởi. Tâm nhỏ là tâm nhiễm, vì là đối tượng ưa thích hành tập của những kẻ ít phẩm tịnh. Tâm lớn là tâm thiện, do là đối tượng ưa thích hành tập của những người nhiều phẩm tịnh. Hoặc là do các căn, giá trị, quyến thuộc, tùy chuyển, lực dụng nhiều ít nên gọi là nhỏ lớn. Tâm nhiễm có căn ít, tối đa là tương ưng với hai căn. Tâm thiện có căn nhiều, là luôn tương ưng với ba căn thiện. Tâm nhiễm có giá trị ít, vì không do công dụng nên thành. Tâm thiện có giá trị nhiều, do có tư lương lớn mới thành. Tâm nhiễm có quyến thuộc ít, vì không có vị lai cùng tu. Tâm thiện có quyến thuộc nhiều, do có vị lai cùng tu. Tâm nhiễm có pháp tùy chuyển ít, vì chỉ có ba uẩn. Tâm thiện có pháp tùy chuyển nhiều, do chung nơi bốn uẩn. Tâm nhiễm có lực dụng ít, vì căn thiện bị đoạn cần phải sinh khởi trở lại. Tâm thiện có lực dụng nhiều, vì nhẫn tất vĩnh viễn đoạn trừ các tùy miên. Do đấy, tâm nhiễm, tâm thiện được mang tên là tâm nhỏ, tâm lớn.
Tâm bồn chồn là tâm nhiễm, vì tương ưng với trạo cử. Tâm không bồn chồn là tâm thiện, do có thể đối trị trạo cử. Tâm không tịch tĩnh nên biết cũng như thế. Tâm bất định là tâm nhiễm, do tương ưng với tán động kia. Tâm định là tâm thiện, do có thể đối trị sự tán động kia. Tâm không tu là tâm nhiễm, vì cùng không gồm thâu tu đắc, tu tập. Tâm tu là tâm thiện, do đều có hai thứ tu kia. Tâm không giải thoát là tâm nhiễm, do tự tánh, sự tương tục đều không giải thoát. Tâm giải thoát là tâm thiện, vì tự tánh, sự tương tục đều được giải thoát.
Trên đây là giải thích của các Luận sư Tỳ-bà-sa. (?)
Những giải thích như thế là không thuận hợp với Khế kinh, cũng không thể biện về các cú nghĩa sai biệt (Quan điểm của Luận chủ hay của một phái khác).
Vì sao những giải thích ấy không thuận hợp với Khế kinh? Khế kinh nói: “Thế nào là tâm nội tụ? Nghĩa là tâm nếu cùng với hôn trầm, thùy miên cùng hành, hoặc bên trong tương ưng có chỉ không có quán. Thế nào là tâm ngoại tán? Nghĩa là tâm đi đến nơi cảnh của năm dục diệu, theo đấy tán động, trôi giạt, hoặc bên trong tương ưng có quán không có chỉ”.
Như trước há không nói về kiến giải cho: “Tâm tương ưng với thùy miên là tâm tụ?”. Tức tâm nhiễm nếu cùng tương ưng với thùy miên thì liền có lỗi là một tâm gồm chung cả tụ, tán!
Tuy có nói như thế nhưng điều ấy cũng không hợp lý. Vì không thể thừa nhận là các tâm nhiễm khi tương ưng với thùy miên là tâm tán.
Nói như vậy là trái với Bản luận. Thà trái với văn của Luận, chớ nên trái với Kinh đã nêu!
Vì sao gọi là không biện về các cú nghĩa sai biệt? Nghĩa là dựa nơi sự giải thích ấy tức đã không thể biện giải rõ về tám thứ tướng khác như tán v.v…, như tụ v.v…
Theo chỗ giải thích của chúng tôi (Phái Tỳ-bà-sa?) thì không phải là không thể biện về tám thứ cú nghĩa sai biệt trong Khế kinh ấy. Nghĩa là tuy tán v.v… đồng là tâm nhiễm, nhưng cũng đã làm rõ những sai biệt về lỗi lầm của chúng. Cùng tuy tụ v.v… đồng là tâm thiện, nhưng cũng đã làm rõ về những công đức của chúng có sai biệt. Nên dựa nơi tám nghĩa để lập riêng tám tên gọi.
Đã không thể thông hợp được chỗ trái với Khế kinh đã nói, mà những biện giải về cú nghĩa, theo lý cũng không thành. Lại, nếu tâm trầm trệ tức là tâm vọng động, thì Khế kinh không nên nói chúng là hai thứ. Nếu vào bấy giờ tâm bị trầm trệ, là sợ trầm trệ nơi việc tu ba giác chi khinh an, định, xả, gọi là tu phi thời. Hoặc vào lúc ấy tâm bị trạo cử, là sợ trạo cử nơi việc tu ba giác chi trạch pháp. Tinh tấn, hỷ, gọi là tu phi thời.
Thế thì tu giác chi là có lý riêng về tán động? Đây là căn cứ theo tác ý muốn tu gọi là tu, không phải là hiện tiền tu, nên không có lỗi.
Vậy thuyết của chúng tôi đã nêu là cũng không trái với Khế kinh. Tuy các tâm nhiễm đều gọi là hôn trầm, trạo cử, biếng trễ đã gia tăng, kinh nói là tâm trầm trệ. Còn trạo cử gia tăng, kinh nói là tâm vọng động. Căn cứ vào chỗ luôn tương ưng, chúng tôi nói Thể của chúng là một. Tùy theo ý tự nêu bày, thì điều gì lại có thể ngăn chận?
Nhưng thật sự ý của đoạn kinh ấy là không như thế. Trước nói tất cả tham đã trói buộc tâm đều gọi là tâm có tham. Vậy tham trói buộc là nghĩa gì? Nếu tham được tùy theo, thì tâm vô lậu của hàng hữu học cũng nên gọi là có tham, vì tham đã được tùy theo tâm ấy. Nếu là đối tượng duyên của tham, thì tâm vô lậu của bậc vô học cũng nên gọi là có tham, vì là đối tượng duyên của tham. Nếu không thừa nhận tâm kia là đối tượng duyên của tham, thì vì sao tâm ấy có thể thành hữu lậu? Nếu cho do là cộng tướng nơi duyên của Hoặc, thì nên gọi là có si, vì là đối tượng duyên của si. Tuy nhiên, tha tâm trí không duyên nơi tham để có được, nên cũng không thể nói là duyên nơi tham của tâm đã được duyên.
Vậy làm sao nhận biết tha tâm là có tham v.v… ? Nên không phải tham trói buộc gọi là tâm có tham. Nếu như vậy thì là thế nào?
Nay xem rõ ý của kinh thì tương ưng với tham nên gọi là tâm có tham. Không tương ưng với tham thì gọi là tâm lìa tham v.v… Nếu thế thì vì sao nơi Khế kinh khác nói: “Tâm lìa tham sân si không còn rơi trở lại nơi ba cõi”. Đây là dựa theo chỗ “Lìa đắc” để nói nên không có lỗi. Há chẳng phải ở trước đã phá bỏ thuyết này? Tức nếu tương ưng với phiền não khác cũng nên được gọi là lìa tham, do tâm ấy cũng cùng với tham không tương ưng. Nếu dựa vào ý ấy để thừa nhận tâm không tương ưng với tham là tâm lìa tham thì cũng không trái. Nhưng không nên nói là tâm lìa tham, khi tâm ấy thuộc về có sân có si. Phần luận thêm nên dừng lại ở đây, vì cần phải thuật lại Bản Tông. Đã nêu rõ về tha tâm trí. Vậy tha tâm trí cũng có thể nhận lấy đối tượng duyên của tha tâm, cùng cũng nhận lấy hành tướng nơi chủ thể duyên của tha tâm không?
Đều không thể nhận lấy. Vì lúc nhận biết tâm kia, thì không quán nơi đối tượng duyên của tâm ấy cùng các hành tướng nơi chủ thể duyên của nó. Nghĩa là chỉ nhận biết tha tâm kia là tâm có nhiễm v.v…, không nhận biết về sắc v.v… là đối tượng duyên của tha tâm đã làm cho tâm ấy bị nhiễm. Cũng không nhận biết các hành tướng nơi chủ thể duyên của tâm ấy. Không như vậy thì tha tâm trí tức nên cũng duyên nơi sắc v.v… Lại cũng nên có lỗi là có thể tự duyên. Các tha tâm trí có tướng quyết định. Tức chỉ có thể nhận lấy tâm tâm sở pháp đồng loại nơi hiện tại trong sự tương ưng của kẻ khác thuộc cõi dục cõi sắc cùng không hệ thuộc. Chỉ hoàn toàn lấy tự tướng làm cảnh của đối tượng duyên, không tương ưng với không, vô tướng, không thuộc về tận trí, vô sinh trí, không ở trong đạo vô gián của kiến đạo. Các trường hợp khác thì không loại trừ. Như chỗ ứng hợp đều có thể có.
Tận trí, vô sinh trí, trừ hai hành tướng không, vô ngã, mỗi trí đều có đủ mười bốn hành tướng còn lại. Do hai trí này tuy thuộc về thắng nghĩa nhưng đều tiếp cận với thế tục, nên lìa không, vô ngã.
Nghĩa là do lực dụng của chúng nên vào lúc xuất quán, đã nói như thế này: “Nẻo sinh tử của Ta đã hết. Phạm hạnh đã lập. Việc cần làm đã làm xong. Không còn thọ thân sau”.
Là có hành tướng vô lậu nằm ngoài mười sáu hành tướng này, lại thuộc về hành tướng khác chăng?
* Tụng viết:
Tịnh không vượt mười sáu
Sư khác nói có luận.
* Luận nêu: Các Luận sư của nước Ca-thấp-di-la nói: Không có hành tướng vô lậu nào vượt ngoài mười sáu hành tướng này. Nhưng các Sư nước ngoài thì cho: Lại có hành tướng vô lậu khác ở ngoài mười sáu hành tướng kia. Vì sao nhận biết? Do nơi Bản luận nói. Như Bản luận nêu: Từng có tâm không hệ thuộc có thể phân biệt nhận biết về pháp thuộc cõi dục chăng? Đáp: Có thể phân biệt nhận biết. Nghĩa là có thể nhận biết chúng là vô thường, khổ, không, vô ngã, nhân, tập, sinh, duyên, là có xứ ấy, có sự việc ấy. Như lý đã dẫn để phân biệt nhận biết.
Nếu cho đoạn văn kia là không làm rõ về tâm không hệ thuộc lúc phân biệt nhận biết pháp thuộc cõi dục, thì trừ tám hành tướng đã nêu rõ ở trước, ngoài ra là có riêng: Hành tướng có xứ ấy, có sự ấy.
Đấy chỉ là làm rõ việc tạo tám hành tướng ấy là có xứ ấy, có sự ấy. Giải thích như thế là không đúng. Vì ở nơi khác không nói như vậy. Nghĩa là nếu Luận kia dựa nơi ý này để nói, tức nên ở xứ khác cũng nói câu ấy. Nhưng văn của xứ khác kia chỉ nói như vầy: Từng có tâm do kiến đạo đoạn có thể phân biệt nhận biết về pháp thuộc cõi dục chăng? Đáp: Có thể phân biệt nhận biết. Tức phân biệt nhận biết chúng là Ngã. Ngã sở. Đoạn. Thường. Là không nhân. Không tạo tác. Tổn giảm. Là tôn quý. Hơn hết. Trên hết. Là đệ nhất. Có thể đạt thanh tịnh. Có thể giải thoát. Có thể xuất ly. Là Hoặc. Nghi. Do dự. Là tham. Sân. Mạn. Si. Nêu dẫn không như lý. Những thứ này cũng nên nói là “Có xứ ấy” v.v… Đã không có câu nói ấy, nên giải thích kia là phi lý.
Mười sáu hành tướng này thật sự là có bao nhiêu thứ? Thế nào là hành tướng? Là chủ thể hành hay đối tượng hành?
* Tụng viết:
Hành tướng thật mười sáu
Thể ấy chỉ là tuệ
Năng hành có sở duyên
Sở hành: Các pháp hữu.
* Luận nêu: Có Sư khác nói: Mười sáu hành tướng, về danh tuy là mười sáu, nhưng thật sự chỉ có bảy. Nghĩa là duyên nơi khổ đế thì danh, thật cùng là bốn, duyên nơi ba đế kia thì danh bốn, thật chỉ có một.
Nên nói như thế này: Thật cũng có mười sáu. Nghĩa là khổ Thánh đế có bốn tướng: Vô thường, khổ, không, vô ngã. Vì phải đợi duyên nên là vô thường. Do tánh bức bách nên là khổ. Vì trái với ngã sở kiến nên là không. Do trái với ngã kiến nên là vô ngã. Tập Thánh đế có bốn tướng: Nhân, tập, sinh, duyên. Như lý của chủng tử nên là nhân. Lý cùng hiện nên là tập. Lý nối tiếp nên là sinh. Lý thành tựu nên là duyên. Ví như các duyên: Đất nhuyễn, trục quay, bánh xe quay, nước v.v… hòa hợp để tạo thành cái bình v.v… Diệt Thánh đế có bốn tướng: Diệt, tĩnh, diệu, ly. Các uẩn hết nên là diệt. Ba lửa dứt nên là tĩnh. Không có các thứ khổ hoạn nên là diệu. Thoát khỏi các thứ tai họa nên là ly. Đạo Thánh đế có bốn tướng: Đạo, như, hành, xuất. Vì nghĩa thông hành nên là đạo. Khế hợp với lý chánh nên là như. Do đang hướng tới nên là hành. Có thể vĩnh viễn vượt khỏi nên là xuất. Lại, không phải cứu cánh nên là vô thường. Như mang lấy gánh nặng nên là khổ. Bên trong không có sĩ phu (Chủ thể) nên là không. Vì không tự tại nên là vô ngã. Do nghĩa dẫn dắt nên là nhân. Do nghĩa xuất hiện nên là tập. Vì nghĩa sinh sản nhiều nên là sinh. Do nghĩa nương dựa nên là duyên. Vì không nối tiếp, tức sự nối tiếp đã đoạn nên là diệt. Lìa ba tướng hữu vi nên là tĩnh. Do là thiện thắng nghĩa nên là diệu. Hết sức an ổn nên là ly. Vì đối trị tà đạo nên là đạo. Do đối trị chẳng như nên là như. Do hướng nhập cung Niết-bàn nên là hành. Vì từ bỏ tất cả hữu nên là xuất.
Như thế là các bậc Cổ đức đã giải thích không phải chỉ một môn. Nên theo chỗ ưa thích lại có giải thích riêng khác.
Sinh diệt nên là vô thường. Trái với Thánh tâm nên là khổ. Ở đây không có ngã nên là không. Tự nó không phải là ngã nên là vô ngã. Nhân tập sinh duyên như Kinh đã giải thích: Nghĩa là năm thủ uẩn do dục làm gốc, do dục làm tập, do dục làm loại, do dục làm sinh. Chỉ tiếng sinh này nên nói ở sau thì cùng với Luận là khác.
Bốn thứ ấy thể tướng sai biệt như thế nào? Do theo vị sai biệt nên bốn dục có khác nhau: (1) Chấp ngã chung hiện có, khởi dục của tự thể chung. (2) Chấp ngã chung sẽ có, khởi dục của hữu sau chung. (3) Chấp ngã riêng sẽ có, khởi dục của hữu sau riêng. (4) Chấp ngã nối tiếp sinh, khởi dục của lúc nối tiếp sinh. Hoặc chấp ngã tạo nghiệp, khởi dục lúc tạo nghiệp. Loại dục thứ nhất, ở nơi khổ là nhân thứ nhất nên gọi là nhân. Như hạt giống đối với quả. Loại dục thứ hai, ở nơi khổ cùng chiêu cảm tập nên gọi là tập. Như mầm cây v.v… đối với quả. Loại dục thứ ba, ở nơi khổ là duyên riêng nên gọi là duyên. Như ruộng đất v.v… đối với quả. Nghĩa là do các sức như ruộng đất, nước, phân v.v… nên khiến vị của quả, sự chuyển đổi khi chín, công dụng của quả riêng sinh. Loại dục thứ tư, ở nơi khổ có thể sinh gần nên gọi là sinh. Như nhị hoa đối với quả.
Hoặc như Khế kinh nói: Có hai nhóm năm hành ái và hai nhóm bốn hành ái, là bốn thứ dục được nói đến. Chấp ngã chung hiện có, có năm thứ khác nhau: (1) Chấp ngã hiện có quyết định là có. (2) Chấp ngã hiện có là có như thế. (3) Chấp ngã hiện có là có đã đổi khác. (4) Chấp ngã là hiện có. (5) Chấp ngã là hiện không. Chấp ngã chung sẽ có cũng có năm thứ khác nhau: (1) Chấp ngã sẽ có quyết định là có. (2) Chấp ngã sẽ có như thế. (3) Chấp ngã sẽ có là có đổi khác. (4) Chấp ngã như sẽ có. (5) Chấp ngã như sẽ không có.
Chấp ngã riêng sẽ có, có bốn thứ khác nhau: (1) Chấp ngã sẽ có riêng khác. (2) Chấp ngã sẽ quyết định có riêng. (3) Chấp ngã sẽ có riêng như thế. (4) Chấp ngã sẽ có riêng đổi khác. Chấp ngã nối tiếp sinh cũng có bốn thứ khác nhau: (1) Chấp ngã cũng sẽ có. (2) Chấp ngã cũng sẽ quyết định có. (3) Chấp ngã cũng sẽ có như thế. (4) Chấp ngã cũng sẽ có đổi khác.
Lưu chuyển đoạn dứt nên là diệt. Các khổ dứt hết nên là tĩnh. Như nói: Bí-sô! Các hành đều là khổ. Chỉ có Niết-bàn là hoàn toàn tịch tĩnh. Lại không gì hơn nên là diệu. Không thoái chuyển nên là ly. Như chánh đạo nên là đạo. Như thật chuyển nên là như. Nhất định có thể đi đến nên là hành. Như nói: Đạo này có thể đạt đến thanh tịnh. Các thứ kiến khác, lý tất không dẫn đến thanh tịnh. Vĩnh viễn lìa hữu nên là xuất.
Lại, vì đối trị thường kiến, lạc kiến, ngã sở kiến, ngã kiến nên tu bốn hành tướng vô thường khổ không vô ngã. Vì đối trị các thứ kiến chấp không nhân, một nhân, nhân biến đổi, nhân biết trước nên tu bốn hành tướng nhân tập sinh duyên. Vì đối trị kiến chấp cho giải thoát là không có, nên tu hành tướng diệt. Vì đối trị kiến chấp cho giải thoát là khổ, nên tu hành tướng tĩnh. Vì đối trị kiến chấp cho lạc của tĩnh lự và đẳng chí là vi diệu, nên tu hành tướng diệu. Vì đối trị kiến chấp cho giải thoát là luôn thoái thất, không phải là vĩnh viễn, nên tu hành tướng ly. Vì đối trị các kiến chấp cho không có Thánh đạo, tà đạo là Thánh đạo, có Thánh đạo khác, Thánh đạo bị thoái thất nên tu bốn hành tướng đạo như hành xuất. Như thế là hành tướng dùng tuệ làm Thể. Nếu như vậy thì tuệ tức nên không có hành tướng. Do tuệ cùng với tuệ không tương ưng. Vì thế nên nói các tâm tâm sở nhận lấy cảnh giống khác đều gọi là hành tướng. Tuệ cùng với các tâm tâm sở pháp có đối tượng duyên nên đều là chủ thể hành. Hết thảy pháp hiện hữu đều là đối tượng hành. Do đấy nên Thể của ba môn có rộng hẹp: Tuệ chung là hành tướng, là chủ thể hành, đối tượng hành. Các tâm tâm sở pháp khác chỉ là chủ thể hành, đối tượng hành. Các pháp hiện hữu khác chỉ là đối tượng hành.
Đã biện về hành tướng sai biệt của mười trí. Sẽ biện về tánh gồm thâu, dựa nơi địa, dựa nơi thân.
* Tụng viết:
Tánh: Tục ba, chín thiện
Dựa địa: Tục tất cả
Tha tâm trí: chỉ bốn
Pháp sáu, bảy khác: chín.
Hiện khởi chỗ dựa thân
Tha tâm dựa dục sắc
Pháp trí chỉ dựa dục
Tám khác chung ba cõi.
* Luận nêu: Mười trí như thế thuộc về ba tánh. Nghĩa là thế tục trí chung nơi ba tánh, chín trí còn lại chỉ là thiện. Dựa nơi địa có khác nhau: Nghĩa là thế tục trí dựa chung nơi cõi dục cho đến xứ Hữu đảnh. Tha tâm trí chỉ dựa nơi bốn tĩnh lự căn bản. Pháp trí dựa nơi bốn tĩnh lự căn bản cùng vị chí và trung gian. Các trí còn lại thì dựa nơi sáu địa này và ba định vô sắc dưới. Dựa nơi thân có sai biệt: Tức tha tâm trí dựa nơi thân cõi dục cõi sắc, đều có thể hiện tiền. Pháp trí chỉ dựa nơi thân cõi dục hiện khởi. Tám trí còn lại hiện khởi đều dựa chung nơi thân của ba cõi. Đã biện về tánh, địa, thân. Sẽ biện về sự liên hệ giữa mười trí và bốn niệm trụ.
* Tụng viết:
Các trí thuộc niệm trụ
Diệt trí chỉ sau cùng
Tha tâm trí ba sau
Tám trí khác chung bốn.
* Luận nêu: Diệt trí ở trong pháp niệm trụ. Tha tâm trí thuộc về ba niệm trụ sau. Các trí còn lại (Tám) đều chung nơi bốn niệm trụ. Mười trí như thế lần lượt cùng hướng về nhau, mỗi mỗi trí nên nói có bao nhiêu trí làm cảnh?
* Tụng viết:
Các trí cùng duyên nhau
Pháp loại đạo đều chín
Khổ tập trí đều hai
Bốn đều mười, diệt không.
* Luận nêu: Pháp trí có thể duyên nơi chín trí làm cảnh, trừ loại trí. Loại trí có thể duyên nơi chín trí làm cảnh, trừ pháp trí. Đạo trí có thể duyên nơi chín trí làm cảnh, trừ thế tục trí, do không thuộc về đạo. Hai trí khổ, tập, mỗi trí có thể duyên nơi hai trí làm cảnh, là thế tục trí, tha tâm trí. Bốn trí: Thế tục, tha tâm, tận, vô sinh đều duyên nơi mười trí làm cảnh. Diệt trí không duyên nơi các trí làm cảnh, do chỉ dùng trạch diệt làm đối tượng duyên. Đối tượng duyên của mười trí gồm có bao nhiêu pháp? Trí nào có bao nhiêu pháp làm cảnh của đối tượng duyên?
* Tụng viết:
Sở duyên gồm có mười
Là ba cõi, vô lậu
Vô vi đều có hai
Tục duyên mười pháp năm.
Loại bảy, khổ tập sáu
Diệt duyên một, đạo hai
Tha tâm trí duyên ba
Tận vô sinh đều chín.
* Luận nêu: Đối tượng duyên (Sở duyên) của mười trí gồm có mười pháp. Nghĩa là pháp hữu vi phân làm tám thứ: Pháp hữu vi thuộc ba cõi. Pháp hữu vi vô lậu. Bốn thứ này đều có tương ưng không tương ưng với tâm. Pháp vô vi phân làm hai: Thiện, vô ký. Thế tục trí duyên chung nơi mười pháp làm cảnh. Pháp trí duyên nơi năm: Tức hai pháp thuộc cõi dục (Tương ưng, không tương ưng), hai đạo vô lậu (Tương ưng, không tương ưng) và pháp vô vi thiện. Loại trí duyên nơi bảy: Nghĩa là hai thứ pháp thuộc cõi sắc, vô sắc (Bốn), hai đạo vô lậu (Hai) và pháp vô vi thiện (Một). Khổ trí, tập trí đều duyên nơi sáu: Là hai thứ pháp thuộc ba cõi. Diệt trí duyên nơi một: Là pháp vô vi thiện. Đạo trí duyên nơi hai: Là hai đạo vô lậu. Tha tâm trí duyên nơi ba: Là ba pháp tương ưng với tâm thuộc ba cõi. Tận trí, vô sinh tri duyên nơi chín: Tức tám pháp hữu vi nơi ba cõi và pháp vô vi thiện.
Từng có một trí nơi một niệm duyên nơi tất cả pháp chăng? Không có. Há chẳng phải là trí quán ngã nhận biết tất cả pháp đều là vô ngã sao? Đây cũng không thể duyên nơi tất cả pháp. Không duyên nơi pháp nào? Thể ấy là gì?
* Tụng viết:
Tục trí trừ tự phẩm
Duyên chung tất cả pháp
Là hành tướng phi ngã
Chỉ văn tư tạo thành.
* Luận nêu: Do thế tục trí lúc quán tất cả pháp là vô ngã cũng trừ tự phẩm. Tự phẩm nghĩa là tự thể tương ưng với pháp cùng có.
Do cảnh có cảnh riêng khác. Do đồng một đối tượng duyên. Do cùng gần gũi. Không phải là đối tượng duyên của trí ấy. Vì trí ấy chỉ thuộc về cõi dục, cõi sắc. Do văn tuệ, tư tuệ tạo thành, không phải do tu tuệ tạo thành. Tuệ do tu tạo thành duyên riêng nơi địa khác. Nếu không giống với đây tức nên trong một lúc lìa bỏ hết nhiễm
Đã biện về đối tượng duyên. Lại nên xét chọn. Loại người nào thành tựu bao nhiêu trí?
* Tụng viết:
Phàm phu, Thánh kiến đạo
Niệm đầu định thành một
Hai định thành ba trí
Bốn sau mỗi mỗi tăng.
Tu đạo định thành bảy
Lìa dục thêm tha tâm
Vô học căn độn lợi
Định thành chín, thành mười.
* Luận nêu: Phần vị các phàm phu và Thánh kiến đạo, nơi sát-na thứ nhất nhất định thành tựu một trí, là thế tục trí. Vào sát-na thứ hai nhất định thành tựu ba trí, là thêm pháp trí, khổ trí. Nơi các sát-na thứ tư, thứ sáu, thứ mười, thứ mười bốn, như thứ lớp, càng về sau thì tăng thêm loại trí, tập trí, diệt trí, đạo trí. Các phần vị chưa tăng thì số thành tựu như trước, nên trong vị tu đạo cũng nhất định thành tựu bảy. Các phần vị như thế, nếu đã lìa dục, thì mỗi mỗi vị đều tăng một, là tha tâm trí. Chỉ trừ loại phàm phu sinh nơi cõi vô sắc. Bậc A-la-hán thời giải thoát nhất định thành tựu chín trí, là thêm tận trí. Bậc Bất thời giải thoát nhất định thành tựu mười trí, là thêm vô sinh trí.
Ở trong vị nào cùng lúc tu (Đốn tu) bao nhiêu trí đối với mười lăm tâm của kiến đạo?
* Tụng viết:
Kiến đạo nhẫn trí khởi
Tức vị lai kia tu
Ba loại trí gồm tu
Tục trí hiện quán biên.
Không sinh tự, địa dưới
Khổ tập bốn, sau diệt
Cảnh hành tướng tự đế
Chỉ gia hạnh đạt được.
* Luận nêu: Trong vị kiến đạo tùy theo nhẫn trí đã khởi, đều tức ở nơi vị lai tu loại ấy. Nhưng tu đủ các hành tướng niệm trụ của tự đế. Vì sao ở kiến đạo chỉ tu đồng loại? Do trước chưa từng được chủng tánh này. Do đối trị đối tượng duyên cùng quyết định. Chỉ là thời gian của ba loại trí: Khổ trí, tập trí, diệt trí, mới có thể gồm tu nơi vị lai. Tục trí hiện quán biên, nơi mỗi mỗi đế hiện quán về biên sau mới có thể gồm tu, nên lập danh hiệu ấy. Do các vị khác ngoài vị này là chưa có thể gồm tu. Lúc đạo loại trí hiện khởi, vì sao không tu trí ấy? Do thế tục trí từng ở nơi đạo không có sự việc để hiện khởi. Lại, tất không ở nơi đạo hiện quán khắp sự. Nghĩa là đối với khổ tập diệt có thể nhận biết khắp, đoạn trừ, chứng đắc, nhưng đối với đạo tất không có thể tu tập khắp. Tuy tập diệt biên chưa đoạn trừ, chứng đắc khắp, nhưng ở nơi phần vị hiện có, thì sự đoạn, chứng đã trọn đủ. Đạo thì không như thế. Do có nhiều chủng tánh.
Có thuyết cho: Đây là quyến thuộc của kiến đạo, tức thuộc về tu đạo kia nên không thể tu. Lý này là không trọn thành, không phải là chứng cứ. Thế tục trí ấy là pháp không sinh, nơi tất cả thời đều không thể khởi. Nếu như vậy vì sao gọi là tu? Do trước chưa từng được nay mới được. Đã không có nghĩa có thể khởi đắc. Vậy dựa vào gì để nói là thành tựu trí ấy? Chỉ do có được nên nói là đắc. Do đắc nên có được thứ chưa từng có. Như thế chỗ biện về tu tập, lý không thành lập. Như các Sư xưa nói: Nghĩa tu có thể thành. Tức do lực dụng của Thánh đạo đã tu thế tục trí. Sau khi xuất quán, có thắng duyên nơi đế khiến thế tục trí hiện tiền. Đạt được trí ấy khởi do dựa vào đấy nên gọi là đắc trí ấy. Như được quặng vàng gọi là được vàng. Sư Tỳ-bà-sa không tán thành nghĩa này.
Tùy dựa vào địa nào khi kiến đạo hiện tiền, tức có thể tu nơi vị lai thuộc tự địa và địa dưới. Nghĩa là dựa nơi địa vị chí lúc kiến đạo hiện tiền, thì có thể tu nơi vị lai kiến đạo của một địa và thế tục trí của hai địa (Vị chí và cõi dục). Cho đến dựa nơi tĩnh lự thứ tư khi kiến đạo hiện tiền, tức có thể tu nơi vị lai kiến đạo của sáu địa (Vị chí, trung gian, bốn tĩnh lự) và thế tục trí của bảy địa (Thêm cõi dục). Nếu tu thế tục trí vào lúc khổ tập biên (Phần vị cuối cùng của khổ tập) thì thuộc về bốn niệm trụ. Tu vào lúc diệt biên thì chỉ là pháp niệm trụ. Tuy ở nơi hiện quán biên của đế nào đấy để tu, tức dùng hành tướng của đế ấy duyên nơi đế ấy làm cảnh. Do lực của kiến đạo nên chỉ là do gia hạnh đắc.
Vì trì tăng (Là yếu tố chủ chốt) nên lập tên trí. Nếu kể cả quyến thuộc thì dùng bốn uẩn thuộc cõi dục, năm uẩn thuộc cõi sắc làm tự tánh. Tiếp theo là biện về: Trong phần vị lìa nhiễm của tu đạo.
* Tụng viết:
Tu đạo: Sát-na đầu
Tu sáu hoặc bảy trí
Đoạn tám địa vô gián
Cùng hữu dục đạo khác.
Tám giải thoát hữu đảnh
Đều tu nơi bảy trí
Vô gián trên, đạo khác
Thứ lớp tu sáu, tám.
* Luận nêu: Nơi niệm thứ nhất của tu đạo, nghĩa là sát-na thứ mười sáu lúc đạo loại trí hiện tiền, hiện tại tu hai trí. Người chưa lìa dục, vị lai tu sáu trí, là pháp trí, loại trí, bốn trí khổ tập diệt đạo. Đã lìa dục thì tu bảy trí, tức thêm tha tâm trí. Không tu thế tục trí, vì nơi xứ Hữu đảnh đối trị. Vào phần vị đoạn dục do tu đạo đoạn theo chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát, thì các trí: thế tục, bốn trí của bốn đế, pháp trí, theo chỗ ứng hợp, hiện tại tu. Vào lúc đoạn bảy địa trên do các đạo vô gián, thì các trí: bốn trí của bốn đế, loại trí, thế tục trí, diệt pháp trí, đạo pháp trí, theo chỗ ứng hợp, hiện tại tu. Lúc đoạn dục do gia hạnh có dục thắng tấn, thì các trí: thế tục, bốn trí của bốn đế pháp trí, loại trí, theo chỗ ứng hợp, hiện tại tu. Trên đây thì vị lai đều tu bảy trí: Là thế tục trí, pháp trí, loại trí và bốn trí khổ tập diệt đạo. Lúc đoạn địa hữu đảnh do tám đạo giải thoát trước, thì các trí: bốn trí của bốn đế, loại trí hai pháp trí của diệt đạo, theo chỗ ứng hợp hiện tại tu. Ở đây đối với vị lai cũng chỉ tu bảy trí, nhưng trừ thế tục trí, thêm tha tâm trí. Khi đoạn địa hữu đảnh do chín đạo vô gián, thì các trí: bốn trí của bốn đế, loại trí hai pháp trí của diệt đạo, theo chỗ ứng hợp, hiện tại tu. Vị lai tu sáu trí là pháp trí, loại trí và bốn trí của bốn đế. Khi đoạn dục do tu đạo đoạn theo đạo giải thoát thứ chín, thì các trí: thế tục, bốn trí của bốn đế, pháp trí, theo chỗ ứng hợp, hiện tại tu. Lúc đoạn bảy địa trên do các đạo giải thoát, thì các trí: bốn trí của bốn đế, loại trí, thế tục trí, pháp trí của diệt đạo, theo chỗ ứng hợp, hiện tại tu. Lúc đoạn dục do tu đạo đoạn theo đạo thắng tấn thứ chín, đoạn tám địa trên do các đạo gia hạnh, thì các trí: thế tục, bốn trí của bốn đế pháp trí, loại trí, theo chỗ ứng hợp, hiện tại tu. Lúc đoạn bảy địa trên và tám phẩm của xứ Hữu đảnh do các đạo thắng tấn, thì các trí: thế tục, bốn trí của bốn đế, pháp trí, loại trí cùng tha tâm trí, theo chỗ ứng hợp, hiện tại tu. Nơi các trường hợp trên đây, vị lai đều tu tám trí: Là thế tục trí, pháp trí, loại trí, bốn trí của bốn đế và tha tâm trí. Thứ đến là biện về vị vô học lìa nhiễm đắc.
* Tụng viết:
Vô học: Sát-na đầu
Tu chín hoặc tu mười
Căn độn lợi sai biệt
Đạo thắng tấn cũng thế.
* Luận nêu: Vị vô học nơi niệm thứ nhất, nghĩa là lúc đoạn xứ Hữu đảnh do đạo giải thoát thứ chín, thì các trí: Khổ, tập, loại, tận, theo chỗ ứng hợp, hiện tại tu. Vị lai theo chỗ ứng hợp tu chín trí hoặc mười trí. Nghĩa là nếu độn căn thì trừ vô sinh trí. Nếu lợi căn thì cũng tu vô sinh trí.
Tiếp theo là biện về vị còn lại, tu trí nhiều ít.
* Tụng viết:
Luyện căn đạo vô gián
Học sáu, vô học bảy
Khác: Học sáu, bảy, tám
Ứng tám, chín, tất cả.
Tạp tu chung vô gián
Học bảy, ứng tám, chín
Đạo khác, học tu tám
Ứng chín, hoặc hết thảy.
Thánh khởi công đức khác
Cùng các vị phàm phu
Tu đạt trí nhiều ít
Đều như lý nên xét.
* Luận nêu: Vị học luyện căn do các đạo vô gián, thì các trí: Bốn trí của bốn đế, pháp trí, loại trí, theo chỗ ứng hợp hiện tại tu. Vị lai tu sáu: Là bốn trí của bốn đế và pháp trí, loại trí. Do giống với kiến đạo nên không tu thế tục trí. Vì có thể đoạn trừ chướng nên không tu tha tâm trí. Nơi vị của các đạo giải thoát: Bốn trí của bốn đế, pháp trí, loại trí, theo chỗ ứng hợp hiện tại tu. Người chưa lìa dục, nơi vị lai tu sáu: Là bốn trí của bốn đế cùng pháp trí, loại trí. Người đã lìa dục, nơi vị lai tu bảy trí, tức thêm tha tâm trí. Có Sư khác cho: Phần vị của đạo giải thoát cũng tu thế tục trí. Phần vị của các đạo gia hạnh, các trí: Thế tục, bốn trí của bốn đế, pháp trí, loại trí, theo chỗ ứng hợp, hiện tại tu. Người chưa lìa dục, nơi vị lai tu bảy trí (Như hiện tại). Người đã lìa dục, nơi vị lai tu tám trí, là thêm tha tâm trí. Nơi vị của các đạo thắng tấn, nếu chưa lìa dục thì các trí: Thế tục, bốn trí của bốn đế, pháp trí, loại trí, theo chỗ ứng hợp, hiện tại tu. Vị lai cũng tu bảy trí. Nếu đã lìa dục thì nơi các trí: Thế tục, bốn trí của bốn đế, pháp trí, loại trí, cùng tha tâm trí theo chỗ ứng hợp, hiện tại tu. Vị lai cũng tu tám trí như đã nêu.
Vị vô học luyện căn do các đạo vô gián, thì các trí: Bốn trí của bốn đế, loại trí, hai pháp trí của diệt, đạo, theo chỗ ứng hợp, hiện tại tu. Vị lai tu bảy trí: Là bốn trí của bốn đế, pháp trí, loại trí, tận trí, không tu thế tục trí, như đối trị xứ Hữu đảnh. Phần vị của năm đạo giải thoát nơi tám đạo giải thoát trước, các trí: Bốn trí của bốn đế, loại trí, hai pháp trí của diệt, đạo, theo chỗ ứng hợp, hiện tại tu. Vị lai tu tám trí: Là bốn trí của bốn đế, pháp trí, loại trí, tha tâm trí cùng tận trí. Bốn đạo giải thoát cho đến đạo giải thoát thứ chín, các trí như khổ, tập, loại, tận, theo chỗ ứng hợp, hiện tại tu. Vị lai tu chín trí. Phần vị của đạo giải thoát sau cùng, các trí như khổ, tập, loại, tận, theo chỗ ứng hợp, hiện tại tu. Vị lai tu mười trí. Phần vị của các đạo gia hạnh, hiện tại tu như nơi vị học. Vị lai tu chín trí. Phần vị của các đạo thắng tấn, nếu độn căn thì nơi chín trí, theo chỗ ứng hợp, hiện tại tu. Vị lai cũng tu chín trí. Nếu lợi căn, thì nơi mười trí, theo chỗ ứng hợp, hiện tại tu. Vị lai cũng tu mười trí.
Vị học tạp tu các đạo vô gián, các trí như: Bốn trí của bốn đế, pháp trí, loại trí, thế tục trí, theo chỗ ứng hợp, hiện tại tu. Vị lai tu bảy trí như đã nêu. Các đạo giải thoát chỉ có bốn trí của bốn đế, pháp trí, loại trí; đạo gia hạnh thêm thế tục trí; các đạo thắng tấn lại thêm tha tâm trí, theo chỗ ứng hợp, hiện tại tu. Vị lai đều tu tám trí.
Vị vô học tạp tu các đạo vô gián, hiện tại tu như nơi vị học. Vị lai tu: Độn căn tu tám trí. Lợi căn tu chín trí. Các đạo vô gián chỉ có bốn trí của bốn đế, pháp trí, loại trí; đạo gia hạnh thêm thế tục trí, theo chỗ ứng hợp, hiện tại tu. Vị lai tu: Độn căn tu chín trí. Lợi căn tu mười trí. Các đạo thắng tấn cùng với luyện căn đồng.
Vị học tu chung năm đạo vô gián, hiện tại tu thế tục trí. Vị lai tu bảy trí. Túc trụ thần cảnh nơi hai đạo giải thoát, năm đạo gia hạnh, hiện tại tu thế tục trí. Nơi tha tâm giải thoát, các trí như: Pháp trí, loại trí, đạo trí, thế tục trí cùng tha tâm trí, hết thảy đạo thắng tấn cùng khổ tập diệt trí, theo chỗ ứng hợp, hiện tại tu. Các trường hợp trên đây, vị lai đều tu tám trí.
Vị vô học tu chung năm đạo vô gián, hiện tại tu như nơi vị học. Vị lai tu: Nếu độn căn thì tu tám trí, lợi căn thì tu chín trí. Đạo gia hạnh, giải thoát, hiện tại tu như vị học. Vị lai tu: Nếu độn căn thì tu chín trí, lợi căn thì tu mười trí. Các đạo thắng tấn cùng với luyện căn là đồng. Thiên nhãn, thiên nhĩ nơi hai đạo giải thoát, do tánh là vô ký nên không gọi là tu. Lúc Thánh khởi các pháp còn lại như bốn vô lượng v.v…, do tu tuệ tạo thành gồm thâu các đức hữu lậu, hiện tại đều tu một thế tục trí.
Vị hữu học nơi vị lai, chưa lìa dục thì tu bảy trí, đã lìa dục thì tu tám trí. Vị vô học nơi vị lai, độn căn tu chín trí, lợi căn tu mười trí, trừ tâm vi tế. Ở đây, đối với vị lai chỉ tu thế tục trí. Nếu khởi các công đức vô lậu còn lại thuộc về tĩnh lự, thì các trí như bốn trí của bốn đế, pháp trí, loại trí, theo chỗ ứng hợp, hiện tại tu. Hoặc thuộc về định vô sắc: Thì chỉ bốn trí của bốn đế, loại trí, theo chỗ ứng hợp, hiện tại tu. Vị lai tu: Đồng với hữu lậu ở trước. Hàng phàm phu lìa nhiễm, hiện tại tu thế tục trí. Đoạn trừ dục nơi ba định, do đạo giải thoát thứ chín, cùng dựa nơi định của bốn tĩnh lự căn bản khởi đạo thắng tấn, lìa nhiễm do gia hạnh thì nơi vị lai tu hai trí, tức thêm tha tâm trí. Các phần vị lai còn lại chỉ tu thế tục trí. Lúc tu năm thông theo các đạo gia hạnh, hai đạo giải thoát, hiện tại tu thế tục trí. Nếu là một đạo giải thoát thì hiện tại tu thế tục trí, tha tâm trí. Các đạo thắng tấn có hai trí ấy, theo chỗ ứng hợp, hiện tại tu. Nơi vị lai, tất cả đều tu hai thứ. Năm đạo vô gián thì hiện tại vị lai chỉ tu thế tục trí. Dựa nơi tĩnh lự gốc để tu các công đức khác, đều hiện tại tu thế tục trí, vị lai tu hai, là thêm tha tâm trí. Chỉ thuận phần quyết trạch tất không tu tha tâm trí, do đấy là quyến thuộc gần của kiến đạo. Dựa nơi định của địa khác, tu các công đức khác, thì cả hiện tại vị lai đều chỉ tu thế tục trí.
Các trí được tu ở vị lai là tu nơi bao nhiêu địa? Các pháp đã khởi đắc đều là tu chăng?
* Tụng viết:
Các đạo dựa đây đắc
Tu hữu lậu địa ấy
Vì lìa, được khởi đây
Tu vô lậu đây, dưới.
Chỉ tận đầu tu khắp
Đức hữu lậu chín địa
Sinh trên không tu dưới
Từng đã được không tu.
* Luận nêu: Các đạo dựa nơi địa này cùng lúc đắc địa này, thì vị lai có thể tu các công đức hữu lậu của địa ấy. Thánh giả vì lìa địa ấy cùng lúc đạt được địa ấy, đều ở trong địa ấy khiến các đạo hiện khởi. Đều có thể tu các công đức vô lậu của địa này và địa dưới. Vì lìa đấy là nói chung cho hai thứ hữu lậu, vô lậu nơi bốn đạo vô gián, giải thoát, gia hạnh, thắng tấn. Chỉ tận trí đầu tiên lúc hiện tiền, theo lực dụng ấy mới có thể tu khắp vô lậu công đức hữu lậu của chín địa như quán bất tịnh v.v… Chủ thể trói buộc là các Hoặc được đoạn trừ hoàn toàn. Như chủ thể trói buộc đã được đoạn trừ, thì đối tượng bị trói buộc cũng hoàn toàn thông hợp. Lại, tự tâm kia nay lên vương vị, thì tất cả pháp thiện khởi đắc đều tìm đến. Ví như Đại vương chịu phép quán đỉnh để lên ngôi quốc vương, thì hết thảy chư hầu đều đến triều cống.
Tuy nhiên ở đây, sinh nơi địa trên tất không tu địa dưới. Nói tận trí đầu tiên là làm rõ việc lìa xứ Hữu đảnh cùng năm vị luyện căn do đạo giải thoát thứ chín. Các chỗ nói về tu, chỉ là trước chưa được, nay khởi nay được là cả chủ thể, đối tượng tu. Nghĩa là nếu lúc trước chưa được, nay được là do dụng công đạt được, mới là “Đối tượng tu”. Nếu pháp lúc trước đã từng được, xả bỏ, nay tuy được trở lại, nhưng không phải là “Đối tượng tu”, vì không phải đã tạo nhiều khó nhọc để chứng đắc. Nếu trước chưa được dụng công để hiện tiền, thì có thể nơi vị lai tu, do uy lực là hơn. Đã từng được khởi thì nơi vị lai không tu. Vì không có nhiều công khởi, do uy lực kém. Là chỉ căn cứ theo đắc để gọi là tu chăng? Không phải thế. Vì sao? Do tu có bốn thứ: Là Tu đắc, Tu tập, Tu đối trị và Tu trừ bỏ. Bốn thứ tu như vậy dựa nơi pháp gì để lập?
* Tụng viết:
Lập tu đắc tu tập
Dựa pháp thiện hữu vi
Dựa các pháp hữu lậu
Lập tu trị, tu trừ.
* Luận nêu: Hai thứ tu đắc, tu tập là dựa nơi pháp thiện hữu vi để lập. Nơi vị lai chỉ là tu đắc. Hiện tại thì có đủ hai thứ. Tu đối trị và tu trừ bỏ là dựa nơi pháp hữu lậu để lập, nên pháp thiện hữu lậu là có đủ nơi bốn thứ tu. Pháp hữu vi vô lậu và pháp hữu lậu khác, như thứ lớp là có đủ nơi hai thứ tu trước sau. Các Sư nước ngoài nói tu có sáu thứ. Tức nơi bốn thứ nêu trên thêm Tu phòng, Tu quán. Là phòng hộ các căn, quán xét nơi thân. Như Khế kinh nói: “Thế nào là tu căn? Nghĩa là nơi sáu căn khéo phòng khéo hộ. Cho đến nói rộng”. Lại như Khế kinh nói: “Thế nào là tu thân? Nghĩa là ở nơi tự thân quán xét về tóc, lông, móng… Cho đến nói rộng”.
Các Luận sư thuộc nước Ca-thấp-di-la cho: Hai thứ tu phòng, tu quán tức thuộc về tu đối trị, tu trừ bỏ.
HẾT – QUYỂN 26