LUẬN A TỲ ĐẠT MA CÂU XÁ
Tác giả: Tôn giả Thế Thân
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 24
Phẩm thứ 6: PHÂN BIỆT HIỀN THÁNH, phần 3
Đã biện về hàng Thánh giả chưa đoạn trừ các Hoặc do tu đạo đoạn gọi là Dự lưu, tối đa còn bảy lần sinh nữa. Nay tiếp theo nên biện về các Thánh thuộc vị đã đoạn trừ phiền não, nên kiến lập hướng Nhất lai, quả Nhất lai.
* Tụng viết:
Đoạn ba bốn phẩm dục
Ba, hai sinh: Gia gia
Đoạn đến năm: Hướng hai
Đoạn sáu: Quả Nhất lai.
* Luận nêu: Tức hàng Dự lưu tiến đến đoạn trừ Hoặc do tu đạo đoạn. Nếu ba duyên gồm đủ chuyển, gọi là Gia gia. (1) Do đoạn trừ Hoặc. Tức đoạn trừ ba, bốn phẩm Hoặc thuộc cõi dục do tu đạo đoạn. (2) Do thành tựu căn. Tức đạt được căn vô lậu có thể đối trị phiền não. (3) Do thọ sinh. Tức lại thọ sinh hai, ba đời nơi cõi dục. Trong tụng chỉ nói duyên đầu và sau: Tức sau quả Dự lưu nói tiến đến đoạn dứt Hoặc, thành tựu các căn vô lậu, có thể đối trị phiền não. Nghĩa căn cứ theo đấy đã thành nên không nêu bày đủ. Nhưng lại nên nói: Ba, hai sinh: Là do có tăng tiến nơi việc thọ sinh, hoặc ít, hoặc không, hoặc vượt hơn số lượng. Vì sao ở đây không đoạn trừ năm phẩm Hoặc? Do đoạn phẩm thứ năm tất đoạn phẩm thứ sáu. Không phải một phẩm Hoặc có thể làm chướng ngại việc đắc quả. Cũng như trường hợp Nhất gián chưa vượt khỏi cõi. Nên biết là gồm có hai loại Gia gia: (1) Thiên gia gia. Nghĩa là loại gia gia sinh vào ba, hai nhà ở nẻo trời thuộc cõi dục rồi chứng viên tịch, tại một xứ trời hoặc hai, ba xứ trời. (2) Nhân gia gia. Nghĩa là loại gia gia sinh vào ba, hai nhà ở nẻo người rồi chứng viên tịch, tại xứ của một châu, hoặc xứ của hai, ba châu. Hàng Dự lưu này, tiến tới đoạn trừ một phẩm Hoặc thuộc cõi dục do tu đạo đoạn, cho đến đoạn trừ được năm phẩm, nên biết chuyển gọi là hướng quả Nhất lai. Nếu đoạn dứt phẩm thứ sáu thì thành quả Nhất lai. Thánh giả Nhất lai này sinh lên nẻo trời và còn một lần sinh vào nẻo người rồi bát Niết-bàn, nên gọi là quả Nhất lai. Từ đấy trở về sau không còn sinh nữa. Ở đây hoặc gọi là đã làm mỏng tham sân si, chỉ còn tham sân si phẩm hạ. Đã biện về hướng, quả Nhất lai có sai biệt. Tiếp theo nên kiến lập hướng, quả Bất hoàn.
* Tụng viết:
Đoạn bảy hoặc tám phẩm
Một sinh gọi Nhất gián
Đây tức hướng thứ ba
Đoạn chín: Quả Bất hoàn.
* Luận nêu: Tức quả Nhất lai tiến đến đoạn trừ các Hoặc còn lại, nếu ba duyên gồm đủ thì chuyển gọi là Nhất gián: (1) Do đoạn trừ Hoặc. Tức đoạn trừ bảy, tám phẩm Hoặc thuộc cõi dục do tu đạo đoạn. (2) Do thành tựu căn. Tức đạt được các căn vô lậu có thể đối trị phiền não. (3) Do thọ sinh. Tức chỉ còn thọ sinh một đời nữa nơi cõi dục. Trong tụng chỉ nói hai duyên đầu và sau, không nói thành tựu căn, nghĩa như trước đã giải thích.
Vì sao một phẩm Hoặc làm chướng ngại việc chứng đắc quả Bất hoàn?
Do vị kia nếu đoạn trừ liền vượt khỏi cõi. Trước đã nói nơi ba thời, nghiệp là thứ chướng ngại mạnh nhất. Nên biết phiền não cùng với nghiệp là đồng. Tức cả hai đều tạo chướng ngại đối với việc vượt qua địa của dị thục, đẳng lưu. Gián nghĩa là gián cách. Thánh giả kia còn một đời làm gián cách, nên không chứng viên tịch. Hoặc còn một phẩm Hoặc (Phiền não) thuộc cõi dục do tu đạo đoạn trừ làm gián cách, nên không đắc quả Bất hoàn. Có Thánh giả đạt nhất gián, gọi là Nhất gián, tức đoạn trừ bảy, tám phẩm Hoặc do tu đạo đoạn, nên biết cũng gọi là hướng quả Bất hoàn. Trước đã đoạn ba, bốn, bảy, tám phẩm Hoặc, nhập kiến đế, về sau lúc đắc quả, cho đến chưa tu đạo của quả cao hơn ở sau, nhưng không gọi là Gia gia, Nhất gián, vì chưa thành tựu căn vô lậu để đối trị các Hoặc kia. Nếu đoạn dứt phẩm Hoặc thứ chín là thành quả Bất hoàn, tất không còn trở lại sinh nơi cõi dục. Hoặc được đoạn dứt ở đây là năm kiết thuận phần dưới. Tuy trước tất đã đoạn hoặc hai hoặc ba phẩm, nhưng vào lúc này mới đoạn trừ toàn bộ. Dựa nơi vị Bất hoàn, ở trong các Khế kinh đã dùng nhiều thứ môn để kiến lập có sai biệt. Nay tiếp theo nên biện về tướng sai biệt kia.
* Tụng viết:
Trung Sinh Hữu hành này
Vô hành bát Niết-bàn
Thượng lưu nếu cùng tu
Sinh đến Sắc cứu cánh.
Siêu, bán siêu, biến một
Khác, sinh nơi Hữu đảnh
Hành vô sắc có bốn
Trụ đấy bát Niết-bàn.
* Luận nêu: Thánh giả Bất hoàn này nói chung có bảy loại: Hành nơi cõi sắc sai biệt có năm: (1) Trung bát Niết-bàn. (2) Sinh bát Niết-bàn. (3) Hữu hành bát Niết-bàn. (4) Vô hành bát Niết-bàn. (5) Thượng lưu. Ở đây: Nơi trung gian bát Niết-bàn nên nói vị Bất hoàn này gọi là Trung bát Niết-bàn. Như vậy nên biết. Ở đây: Do sinh xong, do có hành, do không hành tức bát Niết-bàn, nên gọi là Sinh bát Niết-bàn v.v… Ở đấy là Thượng lưu nên gọi là Bất hoàn Thượng lưu.
Nói Trung bát: Nghĩa là đến nơi cõi sắc, trụ ở vị trung hữu, liền bát Niết-bàn.
Nói Sinh bát: Nghĩa là đi đến cõi sắc, sinh rồi, không lâu liền bát Niết-bàn. Do có đủ tinh cần tu đạo tốc tấn. Trong đây đã nói bát Niết-bàn, nghĩa là Niết-bàn hữu dư y. Có Sư khác cho: Cũng là Niếtbàn vô dư y. Điều ấy là không hợp lý. Vì vị Bất hoàn kia đối với việc xả bỏ thọ mạng là không tự tại.
Nói Hữu hành bát: Nghĩa là đi đến cõi sắc, sinh rồi, trải qua thời gian dài gia hạnh không dứt, do có công dụng mới bát Niết-bàn. Vị này chỉ có siêng tu tập, không có đạo tốc tấn.
Nói Vô hành bát: Nghĩa là đi đến cõi sắc, sinh rồi trải qua thời gian lâu hành gia hạnh, do biếng trễ nên dứt, không có nhiều công dụng liền bát Niết-bàn. Do thiếu tinh cần tu đạo tốc tấn. Có thuyết nói: Hai loại hữu hành và vô hành có sai biệt, là do duyên nơi Thánh đạo hữu vi, vô vi, như thứ lớp ấy đắc Niết-bàn. Thuyết này là phi lý, vì có lỗi thái quá. (Nếu nói như thế thì sự khác nhau ấy cũng có nơi hai loại đầu). Nhưng trong Khế kinh trước nói Vô hành bát Niết-bàn, sau nói Hữu hành bát Niết-bàn. Thứ lớp như thế là cùng với lý tương ưng. Do có đạo tốc tấn và không có đạo tốc tấn, nên vô hành, hữu hành đã thành tựu. Không do công dụng đắc (Vô hành). Do công dụng đắc (Hữu hành). Còn Sinh bát Niết-bàn thì đắc đạo tốc tấn thuộc phẩm tối thượng, tùy miên rất yếu kém, nên sinh không lâu liền bát Niết-bàn.
Nói Thượng lưu: Là nghĩa hành ở cõi trên, do lưu cùng với hành về nghĩa là một. Nghĩa là ở nơi cõi dục mạng chung, sinh đến cõi sắc, chưa ở trong cõi ấy có thể chứng viên tịch, chủ yếu là chuyển sinh lên cõi trên mới bát Niết-bàn. Tức Thánh giả thượng lưu này sai biệt có hai loại, do nhân và quả có sai biệt. Nhân sai biệt: Tức nơi tĩnh lự này do có tạp tu và không tạp tu. Quả sai biệt: Là nơi trời Sắc cứu cánh và trời Hữu đảnh là xứ tột cùng. Nghĩa là nếu ở nơi tĩnh lự có tạp tu, thì có thể đến trời Sắc cứu cánh mới bát Niết-bàn. Loại này lại có ba thứ khác nhau: Là toàn siêu, bán siêu và biến một.
Nói Toàn siêu: Nghĩa là ở nơi cõi dục, đối với bốn tĩnh lự đã tạp tu đầy đủ, gặp phải duyên bị thoái mất ba tĩnh lự trên, dùng ái vị của tĩnh lự thứ nhất làm duyên, mạng chung sinh lên xứ trời Phạm Chúng. Do uy lực đã luôn tu tập ở đời trước, nên lại có thể tạp tu tĩnh lự thứ tư. Từ nơi xứ này mạng chung sinh lên trời Sắc Cứu Cánh. Là mạng chung nơi xứ đầu tiên của cõi sắc (Trời Phạm Chúng), sinh lên trời sau cùng của cõi sắc (Trời Sắc Cứu Cánh), tức thì vượt qua trung gian, là nghĩa của Toàn siêu.
Nói Bán siêu: Là từ nơi trời Phạm Chúng kia, lần lượt sinh lên trời Ngũ Tịnh Cư, cho đến trung gian có thể vượt một xứ sinh lên trời Sắc Cứu Cánh. Do siêu vượt không hoàn toàn nên gọi là Bán siêu. Thánh giả tất không sinh nơi xứ trời Đại Phạm, do là xứ đầy những tà kiến, do ở đây đã xem Đại Phạm Thiên là Đạo sư độc nhất.
Nói biến một: Là từ trời Phạm Chúng mạng chung, lần lượt nơi tất cả xứ đều thọ sinh khắp, trừ trời Đại Phạm, sau cùng mới có thể sinh lên trời Sắc Cứu Cánh. Vì ở nơi tất cả xứ mạng chung nên gọi là biến một.
Không một Thánh giả Bất hoàn nào ở nơi xứ đã sinh lại thọ sinh lần thứ hai. Do vị này ở nơi sinh đều cầu thắng tấn, không phải như hạng yếu kém. Tức do điều ấy nên nghĩa Bất hoàn viên mãn. Tất không trở lại sinh nơi xứ đã từng sinh, hãy còn không sinh nơi bản xứ, huống hồ là sinh nơi xứ dưới. Nên biết đây nghĩa là trong hai loại Thượng lưu, do có nhân là tạp tu tĩnh lự, nên sinh đến trời Sắc Cứu Cánh mới bát Niết-bàn. Loại còn lại, ở nơi tĩnh lự không có tạp tu, có thể sinh đến xứ Hữu đảnh mới bát Niết-bàn. Tức là Thánh giả Thượng lưu kia, trước không tạp tu tĩnh lự, do đối với các định dùng ái vị làm duyên, ở đây mạng chung, sinh khắp các xứ thuộc cõi sắc, chỉ không thể đến trời Ngũ Tịnh Cư. Ở cõi sắc mạng chung, đối với ba xứ vô sắc lần lượt sinh đến rồi, sau sinh vào xứ Hữu đảnh mới bát Niết-bàn. Trong hai loại Thượng lưu, thì loại trước là hành quán, loại sau là hành chỉ, ưa thích tuệ (Quán), ưa thích định (Chỉ), nên có sai biệt. Hai loại Thánh giả Thượng lưu này ở trong địa dưới đã chứng đắc bát Niết-bàn, điều này không trái với lý. Nên nói hai loại Thánh giả ấy lên đến trời Sắc Cứu Cánh cùng trời Hữu đảnh, là xứ tột cùng, hàm ý là không còn một lần sinh nào nữa, vì nếu vượt quá cõi kia thì không còn có xứ hành. Như Thánh giả Dự lưu tối đa là bảy lần sinh.
Năm loại Bất hoàn này gọi là hành nơi cõi sắc. Hành nơi cõi vô sắc, sai biệt có bốn. Nghĩa là ở tại cõi dục đã lìa tham của cõi sắc, tứ đấy mạng chung, sinh lên cõi vô sắc, trong ấy sai biệt chỉ có bốn loại (Không có Trung bát Niết-bàn, vì cõi vô sắc không có trung hữu). Do Sinh bát Niết-bàn có sai khác. Loại này cùng với năm loại trước thành sáu loại Bất hoàn. Lại có loại Bất hoàn không hành nơi cõi sắc cõi vô sắc, tức trụ nơi đây có thể bát Niết-bàn, gọi là Hiện bát Niếtbàn. Cùng với sáu loại trước là bảy. Ở trong năm loại Bất hoàn hành nơi cõi sắc, lại có môn khác, hiển bày sự sai biệt kia.
* Tụng viết:
Hành cõi sắc có chín
Là ba đều phân ba Nghiệp,
Hoặc, căn có khác
Nên thành ba, chín riêng.
* Luận nêu: Tức năm loại Bất hoàn hành nơi cõi sắc, lập chung làm ba loại, mỗi loại đều phân ba nên thành chín loại. Những gì là ba? Là Trung bát Niết-bàn, Sinh bát Niết-bàn và Thượng lưu. Thế nào là ba loại đều phân làm ba? Tức Trung bát Niết-bàn phân làm ba là: Nhanh chóng, Không nhanh chóng và Trải qua thời gian lâu chứng đắc Niết-bàn. Dùng dụ về ba hỏa tinh để làm rõ. Sinh bát Niếtbàn cũng phân làm ba loại là: Sinh bát Niết-bàn, Hữu hành bát Niếtbàn và Vô hành bát Niết-bàn. Những Thánh giả này đều sinh rồi đắc bát Niết-bàn, vì thế đều nên gọi là Sinh bát. Trong Bất hoàn Thượng lưu cũng phân làm ba loại là Toàn siêu, Bán siêu và Biến một có sai biệt. Tuy nhiên, hết thảy các nhóm ba loại ấy đều do Nhanh chóng, Không nhanh chóng và Trải qua thời gian lâu đắc Niết-bàn. Lại cùng hướng về nhau không có lỗi tạp loạn. Như vậy, ba nhóm chín loại Bất hoàn, do nghiệp, Hoặc (Phiền não), căn có sai biệt, nên có Nhanh chóng, Không nhanh chóng và Trải qua thời gian lâu chẳng đồng. Lại gồm chung thành ba: Do tạo tác, làm tăng trưởng nghiệp thuận khởi sinh hậu có sai biệt. Như thứ lớp ấy, phiền não phẩm hạ trung thượng hiện hành có sai biệt, cùng căn loại hạ trung thượng có sai biệt. Ba loại Bất hoàn này, mỗi mỗi loại như chỗ ứng hợp, cũng do nghiệp Hoặc căn có sai biệt, nên mỗi thứ đều có ba loại sai biệt thành chín loại. Nghĩa là ba loại của nhóm đầu (Trung bát Niết-bàn) và nhóm hai (Sinh bát Niết-bàn) là do Hoặc, căn có sai biệt nên đều thành ba loại, không phải do nghiệp. Ba loại của nhóm sau (Thượng lưu) là do nghiệp thuận hậu thọ có sai biệt nên phân thành ba loại. Thế nên nói Thánh giả Bất hoàn hành nơi cõi sắc, do nghiệp Hoặc căn khác nhau, tức ba thứ thành chín loại như vậy.
Nếu như thế thì vì sao trong các Khế kinh, Đức Phật chỉ nói có bảy nẻo Thiện sĩ?
* Tụng viết:
Lập bảy nẻo Thiện sĩ
Do Thượng lưu không khác
Hành thiện không hành ác
Có đến không trở lại.
* Luận nêu: Trung bát Niết-bàn, Sinh bát Niết-bàn đều ba, Thượng lưu là một, kinh dựa vào đấy để lập bảy nẻo Thiện sĩ. Có pháp của thượng lưu nên gọi là Thượng lưu. Do ở đây nghĩa đồng nên chỉ lập làm một. Vì sao chỉ dựa vào đấy để lập nẻo Thiện sĩ mà không dựa vào Thánh giả hữu học khác? Nẻo (Thú) là nghĩa hành. Các Thánh giả hữu học khác đều hành nghiệp thiện không sai biệt. Chỉ bảy loại này đều hành nghiệp thiện không hành nghiệp ác. Các loại khác thì không như vậy. Lại, chỉ bảy loại này hành đi đến cõi trên không còn trở lại nữa. Các loại khác thì không như thế. Nên chỉ dựa vào đấy để lập nẻo Thiện sĩ.
Nếu như vậy vì sao trong Khế kinh nói: “Thế nào là Thiện sĩ? Nghĩa là nếu thành tựu chánh kiến hữu học, cho đến nói rộng”.
Các Thánh giả hữu học khác, nếu dựa theo môn khác cũng có thể nói là có tánh Thiện sĩ. Do các vị hữu học, đối với năm thứ ác, đều đạt được luật nghi hoàn toàn không tạo tác. Phiền não bất thiện phần nhiều đã được đoạn trừ. Nhưng lập nẻo Thiện sĩ thì không dựa theo môn khác, chỉ căn cứ theo hành thiện không hành ác, chỉ dựa vào nhân thù thắng là đi đến cõi trên.
Các Thánh giả ở nơi Thánh vị, từng trải qua các đời, cũng có các thứ tướng sai biệt như thế chăng? Không. Vì sao?
* Tụng viết:
Trải cõi dục sinh Thánh
Không sinh đến cõi khác
Đây cùng đến trên sinh
Không luyện căn cùng thoái.
* Luận nêu: Nếu ở tại Thánh vị, trải qua nơi cõi dục sinh, tất không sinh đến cõi sắc, vô sắc. Do vị kia chứng đắc quả Bất hoàn rồi, thì nhất định ở nơi ấy hiện thân bát Niết-bàn. Thánh giả nếu ở nơi cõi sắc đã trải qua, thọ sinh, thì có thể có nghĩa sinh lên cõi vô sắc, như Thánh giả Bất hoàn hành nơi cõi sắc, sinh nơi tột cùng là xứ Hữu đảnh.
Nếu vậy vì sao Thiên Đế Thích nói: “Từng nghe có cõi trời gọi là Sắc Cứu cánh. Ta, sau này bị thoái thất, sẽ sinh nơi cõi ấy!”.
Sư Tỳ-bà-sa giải thích: Đế Thích kia do không hiểu rõ về tướng của Đối Pháp. Vì khiến ông ta được hoan hỷ nên Đức Phật cũng không ngăn cản.
Tức các Thánh giả này đã trải qua, sinh nơi cõi dục, cùng từ đấy sinh đến cõi trên, tất không có luyện căn và thoái chuyển. Vì sao không thừa nhận các Thánh giả đã trải qua, sinh nơi cõi dục, cùng sinh nơi cõi trên có luyện căn và thoái chuyển? Do tất không có. Vì sao tất không có? Vì trải qua nơi sinh thì căn được hành tập rất thành thục, cùng đạt được nơi chốn nương dựa thù thắng.
Do đâu Thánh giả hữu học chưa lìa dục tham, thì không đạt được quả Bất hoàn thuộc Trung bát Niết-bàn trung hữu? Do Thánh giả kia đối với Thánh đạo chưa được thuần phục. Chưa có thể khiến cho Thánh đạo dễ dàng hiện tiền. Các thứ tùy miên hiện có không phải là rất yếu kém. Tỳ-bà-sa giải thích: Các pháp thuộc cõi dục là rất khó vượt qua. Chư vị kia hãy còn có nhiều việc còn lại phải làm. Nghĩa là phải tiến đến đoạn trừ hai thứ phiền não bất thiện, vô ký. Cùng nên tiến đến chứng đắc hoặc hai hoặc ba quả Sa-môn. Lại cùng phải vượt chung pháp của ba cõi. Thánh giả Bất hoàn trụ nơi vị trung hữu thì không có những sự việc phải làm như thế.
Trước đã nói về Thánh giả Thượng lưu tạp tu tĩnh lự làm nhân, có thể sinh lên trời Sắc Cứu Cánh. Ở đây nên biện: Chư vị ấy đã tạp tu những thứ tĩnh lự nào? Do những phần vị nào nhận biết là sự việc tạp tu ấy đã thành? Lại vì duyên gì khiến tạp tu tĩnh lự?
* Tụng viết:
Trước tạp tu thứ tư
Thành do một niệm tạp
Vì thọ sinh, hiện lạc
Cùng ngăn phiền não thoái.
* Luận nêu: Các Thánh giả muốn tạp tu bốn tĩnh lự, tất trước nên tạp tu tĩnh lự thứ tư. Do đẳng trì kia là có nhiều công năng nhất. Trong các thứ lạc hành, đẳng trì ấy là hơn hết. Chư vị tạp tu các tĩnh lự như thế, là A-la-hán hoặc là Bất hoàn, trước tiên là nhập tĩnh lự thứ tư, có nhiều niệm vô lậu nối tiếp hiện tiền. Tứ đấy dẫn sinh nhiều niệm hữu lậu, sau đấy lại có nhiều niệm vô lậu hiện tiền. Như thế lần lượt xoay vòng, càng về sau thì giảm dần. Cho đến sau cùng, có hai niệm vô lậu thứ lớp dẫn hai niệm hữu lậu hiện tiền, vô gián lại sinh hai niệm vô lậu. Đến đây gọi là tạp tu định gia hạnh đã thành mãn. Sau đó, chỉ từ một niệm vô lậu dẫn khởi một niệm hữu lậu hiện tiền, vô gián lại sinh một niệm vô lậu. Như vậy, hữu lậu nơi sát-na trung gian và vô lậu của sát-na trước sau đã xen tạp, nên gọi là tạp tu định căn bản đã thành tựu viên mãn. Hai sát-na trước giống như đạo vô gián. Sát-na thứ ba giống như đạo giải thoát.
Tạp tu tịnh thứ tư như thế rồi, nhân nơi uy lực ấy, theo chỗ ứng hợp, cũng có thể tạp tu ba tĩnh lự dưới. Trước, ở nơi ba châu thuộc nẻo người của cõi dục, đã tạp tu các tĩnh lự như thế rồi, về sau nếu thoái thất, sinh trong cõi sắc, cũng có thể tạp tu tĩnh lự như trước. Tạp tu tĩnh lự vì ba thứ duyên: (1) Vì thọ sinh. (2) Vì hiện lạc. (3) Vì ngăn chận việc dấy khởi phiền não khiến thoái thất. Nghĩa là trong các Thánh giả Bất hoàn, chư vị lợi căn là nhằm đạt hiện pháp lạc cùng sinh nơi trời Tịnh Cư. Chư vị độn căn thì nhằm ngăn chận sự thoái chuyển, do họ vốn sợ điều ấy xảy ra. Như thế, tạp tu khiến xa lìa vị, tương ưng nơi đẳng trì. Các Thánh giả A-la-hán, nếu là lợi căn thì nhằm đạt hiện pháp lạc. Nếu là độn căn thì cũng nhằm ngăn chận phiền não dấy khởi khiến thoái chuyển.
Tạp tu tĩnh lự là để được sinh nơi trời Tịnh Cư. Vì sao nơi xứ Tịnh Cư chỉ có năm?
* Tụng viết:
Do tu xen năm phẩm
Sinh có năm Tịnh Cư.
* Luận nêu: Do huân tu xen tạp nơi tĩnh lự thứ tư có năm phẩm nên sinh nơi trời Tịnh Cư chỉ có năm. Những gì là năm phẩm? Nghĩa là phẩm hạ, phẩm trung, phẩm thượng, phẩm thượng thắng, phẩm thượng cực có khác nhau. Trong đây, phẩm đầu thì ba tâm hiện tiền tức được thành mãn. Nghĩa là trước là tâm vô lậu, tiếp theo là khởi tâm hữu lậu, sau là khởi tâm vô lậu. Phẩm thứ hai có sáu tâm. Phẩm thứ ba có chín tâm. Phẩm thứ tư có mười hai tâm. Phẩm thứ năm có mười lăm tâm. Năm phẩm tạp tu tĩnh lự như thế, theo như thứ lớp ấy chiêu cảm sinh nơi năm Tịnh Cư. Nên biết ở đây, do uy lực của vô lậu đã huân tu hữu lậu khiến chiêu cảm sinh nơi Tịnh Cư.
Có Sư khác cho: Do năm căn như tín v.v… theo thứ lớp tăng thượng khiến chiêu cảm sinh nơi năm Tịnh Cư.
Kinh nói Bất hoàn có tên gọi là Thân chứng. Dựa nơi thắng đức nào để lập danh hiệu Thân chứng?
* Tụng viết:
Bất hoàn đắc diệt định
Chuyển gọi là Thân chứng.
* Luận nêu: Có diệt định (Định diệt tận) đạt được gọi là đắc diệt định. Tức Thánh giả Bất hoàn ở trong thân có chứng đắc diệt định thì chuyển gọi là Thân chứng. Nghĩa là Thánh giả Bất hoàn do thân chứng đắc tương tợ với pháp Niết-bàn nên gọi là Thân chứng. Vì sao nói pháp kia chỉ gọi là Thân chứng? Do tâm không có. (Định diệt tận không có tâm). Do dựa nơi thân sinh. Lý thật nên nói: Thánh giả Bất hoàn kia từ nơi định diệt tận khởi, đạt được hữu thức thân tịch tĩnh trước chưa từng được liền khởi suy nghĩ: Định diệt tận này là rất tịch tĩnh, hết sức giống với Niết-bàn. Như thế là tịch tĩnh của thân chứng đắc, nên gọi là Thân chứng. Do đắc cùng với trí hiện tiền, chứng đắc thân tịch tĩnh. Khế kinh nói có mười tám loại hữu học. Vì sao trong ấy không nói đến Thân chứng? Do nhân nương dựa không có. Thế nào là nhân nương dựa? Nghĩa là các thứ tam học vô lậu cùng quả của chúng. Dựa nơi các thứ ấy có sai biệt để lập các loại hữu học. Định diệt tận kia không phải là học cũng không phải là quả của học, nên không căn cứ theo đấy để nói thân chứng là loại hữu học có sai biệt.
Thánh giả Bất hoàn có sai biệt, về tướng thô là như vậy. Nếu phân tích thật chi tiết thì số lượng thành nhiều ngàn. Nghĩa ấy là thế nào? Như Trung bát Niết-bàn: Căn cứ theo căn để kiến lập liền thành ba loại do căn hạ trung thượng có sai biệt. Căn cứ theo địa để kiến lập tức thành bốn loại, là đi đến định thứ nhất v.v… có sai biệt. Căn cứ theo chủng tánh để kiến lập tức thành sáu loại, do chủng tánh thoái pháp v.v… có sai biệt. Nếu căn cứ theo xứ để kiến lập thì thành mười sáu loại, tức từ trời Phạm Chúng đều trời Sắc Cứu Cánh là mười sáu xứ có sai biệt. Nếu căn cứ theo địa đã lìa nhiễm thì thành ba mươi sáu loại, tức từ hạng Cụ phược (Còn bị trói buộc đủ) của cõi sắc, cho đến hạng đã lìa bỏ tám phẩm nhiễm của tĩnh lự thứ tư là ba mươi sáu loại có sai biệt. Như thế, căn cứ theo xứ, chủng tánh, lìa nhiễm, căn để kiến lập thành tổng cộng là hai ngàn năm trăm chín mươi hai loại Trung bát Niết-bàn. Làm sao có được như vậy? Tức ở nơi một xứ, chủng tánh có sáu. Mỗi mỗi chủng tánh căn cứ theo môn lìa nhiễm có sai biệt thành chín. Nghĩa là tùy theo địa nào, hạng Cụ phược là đầu, cho đến hạng đã lìa tám phẩm là sau. Như thế, sáu nhân chín thành năm mươi bốn. Đem mười sáu xứ nhân với năm mươi bốn thành tám trăm sáu mươi bốn. Dùng căn nhân với số ấy, tức nhân ba (864 x 3) thành hai ngàn năm trăm chín mươi hai.
Các vị đã lìa chín phẩm nhiễm của địa dưới, tức gọi là hạng Cụ phược của địa trên, là thành số lượng lìa nhiễm nơi mỗi mỗi địa. Như vậy cho đến Thượng lưu cũng thế. Tính chung về tích số của năm loại Bất hoàn (Trung bát, Sinh bát, Hữu hành, Vô hành, Thượng lưu) hợp thành một vạn hai ngàn chín trăm sáu mươi.
Đã biện về hướng, quả thứ ba (Bất hoàn) có sai biệt. Tiếp theo nên kiến lập hướng quả thứ tư.
* Tụng viết:
Trong tu Hoặc cõi trên
Đoạn một phẩm định một
Đến tám phẩm Hữu đảnh
Đều hướng A-la-hán.
Đạo vô gián thứ chín
Gọi định kim cang dụ
Tận đắc cùng tận trí
Thành quả vô học ứng.
* Luận nêu: Tức Thánh giả Bất hoàn tiến đến đoạn trừ các Hoặc thuộc cõi sắc và cõi vô sắc do tu đạo đoạn. Từ đoạn trừ một phẩm Hoặc của định thứ nhất là đầu, đến đoạn trừ tám phẩm Hoặc của xứ Hữu đảnh là sau, nên biết chuyển gọi là hướng A-la-hán. Ở đây đã nói trong hướng A-la-hán đoạn trừ Hoặc của xứ Hữu đảnh (Xứ Phi tưởng phi phi tưởng) là đạo vô gián thứ chín, cũng gọi là định kim cang dụ. Tất cả tùy miên đều có thể phá trừ hết. Các thứ tùy miên ấy tuy trước đã đoạn trừ, nhưng không đoạn trừ hết thảy. Tức định kim cang dụ thật sự có công năng phá trừ tất cả các thứ tùy miên. Trong các đạo vô gián có thể đoạn trừ Hoặc, định này là tối thắng. Định kim cang dụ có nhiều loại. Nghĩa là đoạn trừ các Hoặc thuộc phẩm thứ chín của xứ Hữu đảnh gọi là đạo vô gián sinh. Dựa chung nơi chín địa nên nói định này có trí, hành duyên sai biệt. Thuộc về địa vị chí có năm mươi hai. Nghĩa là khổ tập loại trí duyên nơi khổ tập của Hữu đảnh đều có bốn hành tướng nên có tám. Diệt đạo pháp trí đều có bốn hành tướng nên có tám. Diệt loại trí duyên nơi diệt của tám địa, mỗi mỗi đều có bốn hành tướng nên hợp thành ba mươi hai. Đạo loại trí duyên nơi đạo của tám địa, có chung bốn hành tướng nên có bốn. Do đạo của phẩm loại trí đối trị tám địa là đồng nhân của loại tướng, tất duyên chung. Như thuộc về địa vị chí đã có năm mươi hai định kim cang dụ, thì địa trung gian, bốn tĩnh lự nên biết cũng như thế. Nơi không xứ (Cõi vô sắc) có hai mươi tám. Thức xứ có hai mươi bốn. Vô sở hữu xứ có hai mươi. Do dựa nơi vô sắc không có pháp trí cùng diệt loại trí duyên nơi diệt của địa dưới. Nhưng đạo đối trị duyên nơi địa dưới, do đạo đồng phẩm cùng làm nhân.
Có thuyết nói: Định này về trí, hành duyên khác nhau. Thuộc về định vị chí có tám mươi thứ định kim cang dụ. Nghĩa là đạo loại trí duyên nơi đạo của tám địa cũng đều có riêng bốn hành tướng, nên do đấy đối với trước tăng thêm hai mươi tám. Như thuộc về địa vị chí có tám mươi thứ, thì địa trung gian, bốn tĩnh lự nên biết cũng thế. Không xứ có bốn mươi. Thức xứ có ba mươi hai. Vô sở hữu xứ có hai mươi bốn. Lại có người muốn khiến định kim cang dụ, về trí hành duyên có khác: Thuộc về địa vị chí gồm có một trăm sáu mươi bốn thứ. Nghĩa là diệt loại trí duyên nơi diệt của tám địa có riêng có chung đều là bốn hành tướng. Nên do đấy, đối với loại đầu tăng một trăm mười hai. Như thuộc về địa vị chí có một trăm sáu mươi bốn thứ định kim cang dụ, thì nơi địa trung gian, bốn tĩnh lự nên biết cũng vậy. Không xứ có năm mươi hai. Thức xứ có ba mươi sáu. Vô sở hữu xứ có hai mươi bốn. Nếu dựa theo chủng tánh, căn v.v… để phân biệt thì lại thành nhiều thứ nữa. Như lý nên suy xét.
Định kim cang dụ này đã có thể đoạn trừ các Hoặc thuộc phẩm thứ chín của địa hữu đảnh, có thể dẫn đắc tận trí cùng hành khiến khởi, sau khi các Hoặc này đã diệt hết. Định kim cang dụ là đạo vô gián sau cùng trong việc đoạn trừ Hoặc đã sinh. Tận trí là đạo giải thoát sau cùng trong quá trình đoạn trừ Hoặc. Do đạo giải thoát này cùng với các lậu đã dứt hết đạt được pháp cùng sinh đầu tiên nên gọi là tận trí. Tận trí như thế, đến lúc đã sinh liền thành quả A-la-hán vô học. Đã được pháp vô học ứng hợp với quả, là đắc quả riêng, do chỗ nên tu học ở đây là không còn, vì thế được mang tên vô học. Tức vị này chỉ nên tạo tác sự việc khác, xứng đáng thọ nhận sự cúng dường của các hữu tình chưa lìa nhiễm. Dựa nơi nghĩa này để lập danh hiệu A-la-hán. Nghĩa chuẩn đã thành, tức biết trước nay đã biện về bốn hướng ba quả đều gọi là hữu học.
Vì sao bảy hàng Thánh giả trước được mang tên là hữu học?
Vì muốn diệt trừ hết các lậu thì luôn vui thích tu học. Học chủ yếu có ba, là giới tăng thượng, tâm tăng thượng và tuệ tăng thượng, dùng giới định tuệ làm tự thể.
Nếu như thế thì hàng phàm phu cũng nên gọi là hữu học chăng?
Không phải. Do chưa thấy biết đúng như thật về lý của đế. Hàng phàm phu kia nơi thời gian sau có thể đánh mất hết chánh học. Do đấy, bậc Thiện Thệ lại nói về chữ học. Như trong Khế kinh Đức Phật nói với Đạm Phạ: “Chỉ những người tu học những gì nên tu học, Ta mới nói đấy là hàng hữu học”. Vì khiến nhận biết rõ về đối tượng học đúng đắn của việc tu học, không có thoái mất, gọi là hàng hữu học, nên Đức Bạc-già-phạm lại nói lần nữa về chữ học. Thánh giả trụ nơi bản tánh, vì sao gọi là hữu học? Do ý chí của việc tu học nơi họ chưa viên mãn. Như người đi đường tuy đang tạm dừng nghỉ, nhưng vẫn gọi là người đi đường. Hoặc là pháp học luôn được gắn bó với chư vị ấy.
Pháp học là thế nào? Nghĩa là các pháp hữu vi vô lậu của hàng hữu học. Pháp vô học là thế nào? Nghĩa là pháp hữu vi vô lậu của hàng vô học.
Vì sao Niết-bàn không gọi là học? Vì hàng phàm phu, hàng vô học cũng thành tựu. Ở đây lại do đâu không gọi là vô học? Do hàng hữu học, hàng phàm phu cũng thành tựu. Như vậy, hàng hữu học và hàng vô học chung thành tám Bổ-đặc-già-la Thánh, tức hành hướng và trụ quả đều có bốn. Nghĩa là chứng đắc hướng, quả Dự lưu, cho đến đã chứng quả A-la-hán. danh tuy có tám, sự chỉ có năm. Nghĩa là trụ nơi bốn quả cùng hướng của quả thứ nhất. Do hướng của ba quả sau (Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán) không lìa quả trước. Ở đây là dựa nơi thứ lớp đắc quả để nói. Nếu là Thánh giả lìa dục gấp bội hoặc hoàn toàn lìa dục, trụ trong kiến đạo thì gọi là hướng quả Nhất lai, Bất hoàn, không thuộc về quả trước.
Như trước đã nói về tu đạo có hai thứ là hữu lậu, vô lậu có sai biệt. Như vậy, do những đạo nào đã lìa nhiễm của địa nào?
* Tụng viết:
Hữu đảnh do vô lậu
Khác, do hai lìa nhiễm.
* Luận nêu: Chỉ do đạo vô lậu lìa nhiễm của xứ Hữu đảnh, không phải là đạo hữu lậu. Vì sao? Vì ở địa trên này lại không có đạo thế tục.
Do tự địa không thể đối trị tự địa. Do phiền não của tự địa đã tùy tăng. Nếu phiền não kia ở nơi địa này đã tùy tăng, thì đạo thế tục (Hữu lậu) ở đấy tất không thể đối trị phiền não kia. Nếu lực của đạo thế tục ở đấy có thể đối trị phiền não kia, thì phiền não ấy tất không thể tùy tăng. Đạo của tự địa không đối trị tự địa.
Lìa nhiễm nơi tám địa còn lại là do chung hai đạo. Đạo thế tục và đạo xuất thế cùng có thể lìa.
Nếu đã do chung hai đạo lìa nhiễm của tám địa. Vậy mỗi đạo đều có bao nhiêu thứ đạt được lìa trói buộc?
* Tụng viết:
Thánh tu hai, lìa tám
Đều hai lìa buộc đắc.
* Luận nêu: Các Thánh giả hữu học dùng đạo hữu lậu lúc lìa nhiễm của tám địa dưới do tu đạo đoạn trừ, thì có thể dẫn sinh đủ hai thứ đạo ấy đạt được lìa trói buộc. Dùng đạo vô lậu để lìa nhiễm kia cũng thế. Do hai thứ đạo là đồng đối tượng tạo tác.
Có Sư khác giải thích: Lúc dùng đạo vô lậu lìa nhiễm kia, làm sao chứng biết là cũng sinh đạt được lìa trói buộc do hữu lậu, vì đã có xả bỏ vô lậu để đạt được phiền não diệt hết là không thành? Nghĩa là Thánh giả hữu học lúc dùng đạo vô lậu để lìa nhiễm kia, nếu không dẫn sinh đồng đối trị để đạt được lìa trói buộc do hữu lậu, tức do Thánh đạo đã lìa đủ nhiễm của tám địa, về sau lúc dựa nơi tĩnh lự để được chuyển căn, tức thì xả bỏ các thứ Thánh đạo trì độn đã đạt được trước nay, để chỉ đạt được tĩnh lự, là Thánh đạo của quả thuộc hàng lợi căn. Sự lìa trói buộc của Hoặc thuộc địa trên nên đều không thành. Tức là trở lại nên thành các phiền não kia? Chứng cứ này là phi lý. Vì sao? Vì Thánh giả kia nếu như không có đạo hữu lậu để đoạn trừ, đạt được lìa trói buộc, thì cũng không tạo thành phiền não của địa trên. Như lìa một phần nhiễm nơi xứ Hữu đảnh lúc được chuyển căn, cùng hàng phàm phu sinh lên địa trên đã không tạo thành Hoặc. Tức là như lìa một phần nhiễm của địa hữu đảnh, sau lúc dựa nơi tĩnh lự để được chuyển căn, đạo vô lậu đoạn trừ, đạt được lìa trói buộc, đã tức thì xả bỏ. Nơi địa kia lìa trói buộc, tuy không có đạo hữu lậu đắc nhưng Hoặc của địa ấy cũng không được tạo thành. Lại như hàng phàm phu sinh nơi hai định v.v…, tuy xả bỏ các phiền não của cõi dục đã đoạn trừ, đã đạt được lìa trói buộc, nhưng không tạo thành phiền não thuộc cõi dục kia. Trường hợp ở đây cũng nên như thế. Do vậy chứng cứ kia là không thành.
Đã nói các Thánh giả dùng hai đạo hữu lậu vô lậu lìa nhiễm nơi tám địa còn lại, đều có thể dẫn sinh hai đạo đạt được lìa trói buộc. Nghĩa ấy là chuẩn. Hàng phàm phu dùng đạo hữu lậu, chỉ có thể dẫn khởi hữu lậu đoạn trừ, đạt được lìa trói buộc. Các Thánh giả dùng đạo vô lậu lìa Hoặc do kiến đạo đoạn trừ, cùng lìa nhiễm của xứ Hữu đảnh do tu đạo đoạn trừ, chỉ có thể dẫn sinh vô lậu đoạn trừ, đạt được lìa trói buộc.
Vậy do đạo của địa nào lìa nhiễm của địa nào?
* Tụng viết:
Đạo vô lậu, vị chí
Hay lìa tất cả địa
Tám khác lìa tự, trên
Hữu lậu lìa tiếp, dưới.
* Luận nêu: Các đạo vô lậu nếu thuộc về địa vị chí, là có thể lìa bỏ nhiễm nơi tất cả địa từ cõi dục cho đến xứ Hữu đảnh. Đạo vô lậu thuộc về tĩnh lự trung gian, bốn tĩnh lự, ba định vô sắc, theo chỗ ứng hợp, đều có thể lìa bỏ nhiễm của tự địa và địa trên. Không lìa nhiễm của địa dưới, do đã lìa rồi. Hết thảy các đạo hữu lậu, chỉ có thể lìa nhiễm của địa dưới tiếp theo, không phải là tự địa. Vì phiền não của tự địa đã tùy tăng. Vì uy lực yếu kém. Vì đã lìa rồi.
Các Thánh giả dựa nơi địa cận phần để lìa nhiễm của địa dưới, như đạo vô gián đều thuộc về địa cận phần. Vậy các đạo giải thoát cũng thuộc về địa cận phần chăng? Không phải. Vì sao?
* Tụng viết:
Cận phần lìa nhiễm dưới
Đầu ba, sau giải thoát
Căn bản hoặc cận phần
Địa trên chỉ căn bản.
* Luận nêu: Các đạo đã dựa nơi địa cận phần có tám: Là bốn tĩnh lự và bốn biên dưới của định vô sắc. Nơi chốn lìa có chín: Tức là cõi dục và tám định (Bốn tĩnh lự, bốn định vô sắc). Ba cận phần đầu lìa nhiễm của ba địa dưới, là lúc đạo giải thoát thứ chín hiện tiền, hoặc nhập định căn bản, hoặc tức là cận phần. Năm cận phần trên đều lìa nhiễm của địa dưới. Lúc đạo giải thoát thứ chín hiện tiền, tất nhập nơi định căn bản, không phải tức là cận phần. Cận phần, căn bản đều xả bỏ căn, nên cận phần, căn bản của ba tĩnh lự dưới đã thọ nhận căn khác, nên có trường hợp không thể nhập, chuyển nhập thọ nhận khác thì gặp không ít khó khăn, do lúc lìa nhiễm của địa dưới tất vui thích hơn ở trên. Nếu thọ nhận không khác, tất nhập nơi tĩnh lự căn bản.
Các đạo xuất thế như đạo vô gián, đạo giải thoát như trước đã nói, duyên nơi cảnh của bốn đế có mười sáu hành tướng, nghĩa chuẩn tự thành. Vậy đạo thế tục ở đây duyên nơi gì, tạo tác hành tướng gì?
* Tụng viết:
Vô gián, giải thoát thế
Như thứ duyên dưới trên
Tạo hành thô khổ chướng
Cùng ba tĩnh diệu ly.
* Luận nêu: Đạo vô gián và đạo giải thoát thế tục, như thứ lớp có thể duyên nơi địa dưới địa trên, là thô khổ chướng cùng tĩnh diệu ly. Nghĩa là các đạo vô gián duyên nơi các pháp hữu lậu của địa dưới tiếp theo tự địa, tạo ba hành tướng là thô khổ chướng, trong ấy tùy theo một hành tướng chuyển. Nếu là các đạo giải thoát duyên nơi các pháp hữu lậu của địa trên tiếp theo kia, thì tạo ba hành tướng là tĩnh diệu ly, trong ấy tùy theo một hành tướng chuyển. Không tịch tĩnh nên gọi là thô. Do phải hành nhiểu khó nhọc mới có thể vượt qua. Không phải tốt đẹp nên nói là khổ. Do có nhiều thô trọng có thể chống đối xâm hại. Không phải là xuất ly nên nói là chướng. Do chướng này có thể ngăn ngại sự việc vượt khỏi tự địa. Như bờ tường dày của ngục có thể ngăn chận mọi sự thoát ra. Ba thứ tĩnh diệu ly là chuyển ngược lại so với đây, nên giải thích như thế. Luận thêm đã rõ, nên biện về nghĩa gốc.
Tận trí vô gián có những trí nào sinh?
* Tụng viết:
Bất động sau tận trí
Tất khởi vô sinh trí
Tận khác hoặc chánh kiến
Ứng quả này đều có.
* Luận nêu: Các A-la-hán thuộc chủng tánh bất động, thì nơi tận trí vô gián khởi vô sinh trí, không phải lại có tận trí cùng chánh kiến vô học sinh. Trừ pháp bất động, các A-la-hán còn lại, thì nơi tận trí vô gián có tận trí sinh, hoặc tức dẫn sinh chánh kiến vô học, không phải là vô sinh trí. Do về sau có thể thoái chuyển. Như vậy chủng tánh bất động ở trước không có chánh kiến sinh chăng? Có chánh kiến sinh, nhưng không nói đến. Vì tất cả Ứng quả (A-la-hán) đều có chánh kiến ấy. Nghĩa là các A-la-hán thuộc pháp bất động, sau khi có vô sinh trí thì có vô sinh trí khởi, hoặc chánh kiến vô học.
Trước đã nói về bốn quả là những quả gì? Nên biết bốn quả này là quả Sa-môn. Thế nào là tánh Sa-môn? Thể của quả ấy là gì? quả vị sai biệt gồm có bao nhiêu thứ?
* Tụng viết:
Đạo tịnh: Tánh Sa-môn
Quả hữu vi, vô vi
Đây có tám mươi chín
Đạo giải thoát và diệt.
* Luận nêu: Các đạo vô lậu là tánh Sa-môn. Người mang giữ đạo này gọi là Sa-môn. Do có thể siêng năng dốc sức dứt trừ phiền não. Như nơi Khế kinh nói: “Vì có khả năng siêng gắng dứt trừ vô số pháp ác bất thiện. Nói rộng cho đến: Nên gọi là Sa-môn”. Hàng phàm phu do không thể diệt trừ phiền não một cách rốt ráo như thế để hướng tới Niết-bàn, nên không phải là Sa-môn đích thực. Pháp hữu vi vô vi là quả Sa-môn. Khế kinh nói quả này sai biệt có bốn. Nhưng lý thật dựa theo vị tức có đến tám mươi chín, đều dùng đạo giải thoát, trạch diệt làm tánh. Nghĩa là vì vĩnh viễn đoạn trừ Hoặc do kiến đạo đoạn, có tám đạo vô gián, tám đạo giải thoát. Cùng để vĩnh viễn đoạn trừ các Hoặc do tu đạo đoạn, có tám mươi mốt đạo vô gián, tám mươi mốt đạo giải thoát (Chín đạo được dùng để đoạn trừ chín phẩm phiền não nơi các địa). Các đạo vô gián chỉ là tánh Sa-môn. Các đạo giải thoát cũng là Thể của quả Sa-môn hữu vi, là quả Đẳng lưu, quả Sĩ dụng của tánh Sa-môn kia. Mỗi mỗi trạch diệt chỉ là Thể của quả Samôn vô vi, là quả Ly hệ, quả Sĩ dụng của tánh Sa-môn kia. Như vậy hợp thành tám mươi chín thứ. Nếu như vậy thì vì sao Đức Thế Tôn không nói đủ? Quả tuy có nhiều, nhưng không nói.
* Tụng viết:
Năm nhân lập bốn quả
Xả từng được thắng đạo
Đoạn tập đắc tám trí
Đốn tu mười sáu hành.
* Luận nêu: Nếu phần vị của đạo đoạn gồm đủ năm nhân, thì Đức Phật ở trong kinh kiến lập làm quả. Nói năm nhân là: (1) Xả bỏ đạo từng được. Nghĩa là xả bỏ đạo của hướng – quả trước đã được. (2) Được thắng đạo. Nghĩa là đạt được đạo thù thắng thuộc về quả. (3) Đoạn trừ toàn bộ về tập. Nghĩa là đạt được các thứ đoạn trừ gồm làm một. (4) Đắc tám trí. Nghĩa là đạt được bốn pháp trí, bốn loại trí. (5) Có thể đốn tu mười sáu hành tướng. Nghĩa là có thể tu tập tức thì các hành tướng như vô thường v.v… Ở nơi phần vị của bốn quả đều gồm đủ năm nhân như thế. Nơi các phần vị khác thì không như vậy, nên Đức Phật không nói.
Nếu chỉ đạo tịnh là tánh Sa-môn, thì do lực của đạo hữu lậu đã đạt được hai quả (Nhất lai, Bất hoàn), vì sao chúng cũng thuộc về quả Sa-môn?
* Tụng viết:
Đạo thế đã đoạn được
Do Thánh đã được cùng
Vô lậu được giữ lấy
Cũng gọi quả Sa-môn.
* Luận nêu: Lúc dùng đạo thế tục đạt được hai quả, thì quả ấy không phải chỉ do đạo thế tục đạt được, dùng trạch diệt làm tánh của sự việc đoạn quả, mà còn do trạch diệt của kiến đạo đạt được, trong ấy cùng xen tạp để thành chung một quả. Là đồng đối tượng đạt được của một đạo quả chứng đắc. Do đấy nơi Khế kinh nói: “Thế nào là quả Nhất lai? Nghĩa là đoạn trừ ba kiết, làm mỏng tham sân si. Thế nào là quả Bất hoàn? Nghĩa là đoạn trừ năm kiết thuận phần dưới”. Lại, đạo thế tục đạt được trạch diệt, đạo vô lậu đoạn trừ đạt được đã nhận giữ. Do lực ấy đã giữ vững khiến khi thoái chuyển cũng không mạng chung. Nên cũng được gọi là Thể của quả Sa-môn.
Tánh Sa-môn này có tên gọi khác chăng? Cũng có vì sao?
* Tụng viết:
Nói về tánh Sa-môn
Cũng gọi Bà-la-môn
Cũng gọi là Phạm luân
Do đã chuyển chân Phạm.
Trong ấy chỉ kiến đạo
Nên gọi là Pháp luân
Do nhanh giống bánh xe
Hoặc cùng chuyển đầy đủ.
* Luận nêu: Tức như trước đã nói về tánh Sa-môn thật sự, kinh cũng gọi là tánh Bà-la-môn, do có thể trừ bỏ các phiền não. Tức tánh ấy cũng gọi là Phạm luân, là lực của Phạm vương chân thật đã chuyển. Đức Phật cùng với Phạm đức vô thượng tương ưng. Do vậy Đức Thế Tôn riêng được gọi là Phạm. Do Khế kinh nói: “Đức Phật cũng gọi là Phạm, cũng gọi là Tịch tĩnh, cũng gọi là Thanh lương”. Tức ở trong ấy chỉ dựa nơi kiến đạo. Đức Thế Tôn có nơi gọi kiến đạo là Pháp luân. Như luân (Bánh xe) của thế gian có tướng như nhanh chóng v.v… Kiến đạo giống với tướng ấy nên gọi là Pháp luân. Kiến đạo vì sao cùng với tướng kia giống nhau? Do hành nhanh chóng v.v… là giống với luân kia. Nghĩa là đạo kiến đế hiện hành rất nhanh chóng. Do có xả bỏ và nhận lấy. Do hàng phục các thứ chưa hàng phục. Do trấn áp các thứ đã hàng phục. Do trên dưới cùng chuyển. Gồm đủ năm tướng ấy là giống với bánh xe của thế gian. Tôn giả Diệu Âm nói: Như bánh xe của thế gian có các tướng như trục xe, tăm xe v.v…, tám chi Thánh đạo tương tợ với bánh xe kia, nên gọi là Luân. Nghĩa là chánh kiến, chánh tư duy, chánh cần, chánh niệm giống như tăm xe. Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng giống như trục xe. Chánh định giống như vành xe. Thế nên gọi là Pháp luân.
Làm sao nhận biết Pháp luân chỉ là kiến đạo? Do các vị như Kiều-trần-na v.v… lúc kiến đạo sinh được gọi là chánh pháp luân đã chuyển. Thế nào là ba chuyển cùng mười hai hành tướng? Sư Tỳ-bàsa giải thích: Ba chuyển là: (1) Đây là khổ Thánh đế. (2) Khổ Thánh đế này phải nên nhận biết khắp. (3) Khổ Thánh đế này đã được nhận biết khắp. Đó gọi là ba chuyển. Tức vào lúc mỗi mỗi lần chuyển như thế lại phát sinh riêng nhãn, trí, minh, giác, nói đấy là mười hai hành tướng. Ba chuyển, mười hai hành tướng như thế, đế đế đều có, số lượng là như nhau, nên chỉ nói ba chuyển mười hai hành tướng. Như nói hai pháp, bảy xứ thiện v.v… Do ba chuyển này như thứ lớp là hiển bày về kiến đạo, tu đạo, vô học đạo.
Nếu thế thì ba chuyển mười hai hành tướng không phải chỉ là kiến đạo. Vì sao có thể nói chỉ ở nơi kiến đạo lập danh hiệu Pháp luân? Vì vậy chỉ nên cho: Tức pháp môn hiện có của ba chuyển mười hai hành tướng này gọi là Pháp luân, là có thể hợp với chánh lý. Vì sao gọi là ba chuyển? Là ba chuyển trọn khắp. Vì sao gọi là đầy đủ mười hai hành tướng? Là ba lượt tuần tự trải qua khắp bốn Thánh đế. Nghĩa là: Đây là khổ. Đây là tập. Đây là diệt. Đây là đạo. Khổ này nên nhận biết khắp. Tập này nên vĩnh viễn đoạn trừ. Diệt này nên tác chứng. Đạo này nên tu tập. Khổ này đã nhận biết khắp. Tập này đã vĩnh viễn đoạn trừ. Diệt này đã tác chứng. Đạo này đã tu tập. Vì sao gọi là chuyển? Do pháp môn này đi đến nơi sự nối tiếp của kẻ khác khiến hiểu rõ nghĩa. Hoặc là các Thánh đạo đều là Pháp luân, ở trong thân được hóa độ sinh, chuyển. Vào lúc kiến đạo sinh nơi sự nối tiếp của kẻ khác, phần đầu của chuyển đã đến, nên gọi là đã chuyển.
Quả Sa-môn nào dựa nơi cõi nào đạt được?
* Tụng viết:
Ba dựa dục sau ba
Do trên không kiến đạo
Không nghe không duyên dưới
Không chán cùng kinh nói.
* Luận nêu: Ba quả trước chỉ dựa nơi thân cõi dục chứng đắc. Chứng đắc quả A-la-hán là dựa nơi thân của ba cõi.
Hai quả trước do chưa lìa dục, nên không phải dựa nơi cõi trên chứng đắc, lý có thể là như thế. Quả thứ ba vì sao không dựa nơi cõi trên chứng đắc? Là do nơi lý, giáo. Lý là thế nào? Tức dựa nơi thân của cõi trên không có kiến đạo. Không phải lìa kiến đạo rồi thì người lìa dục có thể có nghĩa vượt chứng quả Bất hoàn. Vì sao nơi cõi trên tất không có kiến đạo? Là do trong cõi vô sắc không có nghe chánh pháp. Lại, trong cõi ấy không duyên nơi địa dưới. Ở cõi sắc thì hàng phàm phu tham đắm nơi lạc của thắng định. Lại không có khổ thọ nên không sinh chán lìa. Không phải không có chán lìa mà có thể đạt được kiến đạo. Về giáo thì thế nào? Tức do kinh nói. Như kinh nói: “Có năm hạng Bổ-đặc-già-la, ở xứ này thông đạt, nơi xứ kia thành tựu. Đó là Trung bát cho đến Thượng lưu”. Chữ thông đạt này chính là nêu rõ về kiến đạo, là gia hạnh đầu tiên để chứng đắc viên tịch. Do đấy kiến đạo nơi cõi trên nhất định là không có.
HẾT – QUYỂN 24