LUẬN A TỲ ĐẠT MA CÂU XÁ
Tác giả: Tôn giả Thế Thân
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 13
Phẩm thứ 4: PHÂN BIỆT NGHIỆP, phần 1
Như trước đã nói về hữu tình thế gian cùng khí thế gian đều có nhiều sai biệt. Sai biệt như thế do gì sinh khởi?
* Tụng viết:
Thế khác do nghiệp sinh
Tư cùng tư đã tạo
Tư tức là ý nghiệp
Đã tạo là thân ngữ.
* Luận nêu: Không phải do một vị chủ, trước nhận biết rồi sinh ra. Chỉ do nghiệp của hữu tình có sai biệt nên sinh. Nếu như vậy thì vì sao đều cùng từ nghiệp sinh có các vật rất đáng yêu thích như cây Uất-kim, cây Chiên-đàn…, lại có những vật thân hình mang các tính chất so với đấy là hoàn toàn trái ngược? Do nghiệp loại của các hữu tình là như thế. Nếu tạo nghiệp xen tạp thì chiêu cảm bên trong thân hình, nơi chín sang môn (Chín lỗ nơi thân người) thường chảy ra các thứ bất tịnh. Để đối trị chúng thì nghiệp lực đã chiêu cảm bên ngoài sinh đủ sắc hương vị xúc rất đáng yêu thích. Vì các thiên chúng đã tạo nghiệp thuần tịnh, nên hai sự việc được chiêu cảm của họ đều tốt đẹp.
Vậy Thể của nghiệp ấy là gì? Nghĩa là đối tượng tư duy của tâm cùng đối tượng tạo tác của tư duy ấy. Thế nên kinh nói: Có hai thứ nghiệp: (1) Tư nghiệp. (2) Tư dĩ nghiệp. Tư dĩ nghiệp tức là đối tượng tạo tác của tư. Hai nghiệp như thế phân biệt làm ba: Thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp của hữu tình.
Vì sao kiến lập ba nghiệp này? Là căn cứ theo chỗ dựa, là căn cứ theo tự tánh, hay là căn cứ theo đẳng khởi? Giả sử nêu như thế thì có sai trái gì? Tức nếu căn cứ theo chỗ dựa, tức nên chỉ có một nghiệp. Do tất cả nghiệp đều dựa nơi thân. Nếu căn cứ nơi tự tánh, tức nên chỉ ngữ là nghiệp. Do trong ba thứ chỉ mỗi ngữ là nghiệp. Còn nếu dựa theo đẳng khởi, thì cũng nên chỉ có một nghiệp. Do tất cả nghiệp đều là đẳng khởi của ý. Sư Tỳ-bà-sa nói: Lập ba nghiệp như thứ lớp ấy là do ba nhân trên. Tuy nhiên, đối tượng tư duy của tâm tức là ý nghiệp. Nghiệp thuộc đối tượng tạo tác của tư, phân làm hai là thân nghiệp và ngữ nghiệp, là đẳng khởi của tư. Tự tánh của hai nghiệp thân ngữ là gì?
* Tụng viết:
Hai nghiệp thân ngữ này
Tánh cùng biểu, vô biểu.
* Luận nêu: Nên biết như thế là đã nói về các nghiệp, trong ấy hai nghiệp thân ngữ, tánh cùng là biểu, vô biểu. Vậy thân ngữ biểu, tướng ấy là thế nào?
* Tụng viết:
Thân biểu là hình riêng
Chẳng hành động làm Thể
Do các pháp hữu vi
Có sát-na diệt hết.
Nên không là không nhân
Sinh nhân nên hay diệt
Hình cũng không thật có
Tức nên hai căn nhận
Không có riêng cực vi
Ngữ biểu là ngôn thanh.
* Luận nêu: Do lực dụng của tư nên riêng khởi thân hình như thế, như thế gọi là thân biểu nghiệp. Có Bộ khác cho: Động gọi là thân biểu. Vì khi thân động là do nghiệp động. Để phá bỏ luận điểm ấy nên nói không phải là hành chuyển động, do các pháp hữu vi đều có tánh sát-na. Tánh sát-na là thế nào? Nghĩa là vô gián diệt khi đắc Thể. Pháp có sát-na ấy gọi là pháp có sát-na. Như người có gậy gọi là người có gậy. Các pháp hữu vi vừa được tự thể, từ đấy vô gián tất diệt, quy về không. Nếu sinh nơi xứ này tức ở nơi xứ ấy diệt, không thể từ đấy chuyển đến phương khác, nên không thể nói động gọi là thân biểu. Nếu pháp hữu vi đều có sát-na, không đi đến phương khác, tức nghĩa ấy có thể thành lập. Các pháp hữu vi đều có tính sát-na, lý ấy là trọn thành, sau đấy tất diệt. Nghĩa là pháp hữu vi diệt không đợi nhân.
Vì sao? Vì đợi nhân tức là quả diệt không có, không phải là quả nên không đợi nhân. Diệt đã không đợi nhân, là vừa sinh xong tức diệt. Nếu trước không diệt thì sau cũng nên như thế. Do sau cùng với trước là có tánh như nhau. Sau đã có tận nên nhận biết trước là có diệt. Nếu sau có đổi khác mới có thể diệt, tức không nên nhân đấy để gọi là có đổi khác. Chỗ cũng khác này, về lý tất không đúng. Há chẳng hiện thấy nơi thế gian, củi v.v… do hợp cùng với lửa hợp nên bị diệt không còn gì. Nhất định không có lượng khác vượt quá hiện lượng, nên không phải pháp diệt đều không đợi nhân. Vì sao nhận biết củi v.v… do cùng với lửa hợp nên diệt. Là do củi cùng với lửa hợp, về sau liền không còn thấy củi nữa. Ở đây nên cùng suy xét kỷ. Như thế củi v.v… là do cùng với lửa hợp, diệt nên không còn thấy. Hay là củi v.v… trước sinh rồi tự diệt, sau không sinh nữa là không, nên không thấy. Như gió, cánh tay hợp nên có đèn sáng, tiếng chuông nhỏ vang lên. Nghĩa này thành tức nên do tỷ lượng. Vì sao gọi là tỷ lượng? Nghĩa là như trước nói, diệt không còn, không phải là quả nên không đợi nhân. Lại nếu đợi nhân như củi v.v… mới diệt, tức nên hết thảy diệt đều đợi nhân. Như sinh đợi nhân không có không nhân. Tuy nhiên thế gian hiện nhận biết đèn sáng, âm thanh, không đợi nhân khác, nơi sát-na tự diệt. Nên củi v.v… diệt cũng không đợi nhân. Có thuyết cho: Nhận biết, âm thanh là nhận trước diệt sau. Điều này cũng phi lý. Do hai thứ ấy không cùng thời. Tự tướng của các pháp như nghi – trí, khổ – vui cùng tham sân v.v… là cùng trái với lý, vì nghĩa không cùng hợp. Nếu lại có phần vị sáng rõ như nhận biết, âm thanh, vô gián liền sinh không sáng rõ. Vì sao pháp đồng loại không sáng rõ có thể diệt pháp đồng loại sáng rõ? Nhận biết, âm thanh sau cùng lại do cái gì diệt? Có thuyết nói: Đèn sáng diệt là do trụ nơi nhân vô vi. Có thuyết nêu: Đèn sáng lúc diệt là do lực dụng của pháp phi pháp. Hai giải thích kia đều phi lý. Vì không có không phải là nhân. Pháp và phi pháp là nhân sinh diệt, do sát-na nơi sát-na thuận nghịch tương phản. Hoặc ở trong tất cả pháp hữu vi đều có thể suy đoán có nghĩa của nhân này. Đã như vậy thì gốc tranh luận theo đấy nên dừng dứt, tức thừa nhận không đợi nhân khác, do đều có tánh sát-na. Lại nếu củi v.v… diệt do hợp với lửa là nhân thì ở trong sự nấu chín làm biến đổi sống có thượng trung hạ, nên Thể của nhân sinh tức thành nhân diệt. Vì sao? Nghĩa là do lửa hợp mới có thể khiến củi thành thục làm biến đổi củi tươi. Thục trung thượng sinh thục hạ trung diệt. Hoặc tức là hoặc tương tợ sinh nhân thượng trung tức có thể làm nhân diệt thục hạ trung. Tức Thể của nhân sinh nên là nhân diệt. Hoặc diệt nhân sinh nên tướng không riêng khác. Không nên do tức là đây, hoặc tương tợ với đây nên kia có. Kia lại do tức là đây, hoặc tương tợ với đây nên không phải là có. Nếu như ở trong ngọn lửa sinh có sai biệt, nên cho là nhân có thể sinh, nhân có thể diệt là khác. Đối với tro, tuyết, vị chua, mặt trời, nước đất kết hợp, tức có thể khiến củi v.v… đã đốt cháy làm biến đổi củi tươi. Trong ấy vì sao suy đoán nhân sinh diệt là khác. Nếu như vậy thì hiện thấy nước đun sôi giảm dần đến hết. Lửa hợp ở đây là để tạo tác gì? Do sự việc lửa hợp nên sức của hỏa giới tăng. Vì hỏa giới tăng tức có thể khiến khối nước nơi phần vị càng về sau dần dần nhỏ, ít. Cho đến phần nhỏ ít kia, sau cùng là không tương tục. Đó gọi là lửa kết hợp, trong ấy đã tạo tác nên không có nhân khiến các pháp diệt. Do pháp tự nhiên diệt, là tánh hủy hoại, nên tự nhiên diệt, vừa sinh tức diệt. Do vừa sinh tức diệt nên nghĩa sát-na diệt thành. Có sát-na nên nhất định không hành chuyển động. Nhưng ở trong phương khác vô gián sinh, như nêu thí dụ về thiêu đốt cỏ, ngọn lửa nối tiếp lan rộng nhân đấy khởi hành tăng thượng mạn. Đã do lý này nên hành chuyển động nhất định là không có. Thân biểu là hình dạng, lý ấy được thành lập.
Tuy nhiên, Kinh Bộ nói: Hình không phải là thật có. Nghĩa là hiển sắc tụ hợp một mặt sinh nhiều, tức ở trong ấy giả lập là sắc dài. Đối đãi với sắc dài này, ở nơi sắc tụ hợp khác, một mặt sinh ít, trong ấy giả lập là sắc ngắn. Nơi bốn phương diện đều sinh nhiều, tức trong ấy giả lập là sắc vuông. Nơi tất cả xứ sinh khởi đủ khắp, trong ấy giả lập là sắc tròn. Hình sắc còn lại, theo chỗ ứng hợp nên biết cũng thể. Như thấy lửa cháy nơi một phương diện, mau chóng chuyển vận không gián đoạn, liền cho là dài. Thấy ngọn lửa cháy kia xoay vòng, cho là sắc tròn. Nên hình là không thật, không là loại riêng nơi Thể của sắc. Nên cho thật có loại riêng là hình sắc, tức nên một sắc có hai căn nhận lấy. Nghĩa là ở nơi sắc tụ dài v.v… có sai biệt, mắt thấy thân tiếp xúc đều cùng có thể nhận biết rõ. Do đấy nên thành lỗi là có hai căn nhận lấy. Lý không có một sắc xứ có hai căn đã nhận giữ. Nhưng như dựa nơi xúc để nhận lấy tướng như dài v.v… Như vậy là dựa nơi hiển tức có thể nhận lấy đối với hình. Không phải là tiếp xúc hình cùng hành một tụ. Nên nhân nhận lấy, tiếp xúc, có thể nhớ nghĩ về hình, không phải ở trong tiếp xúc, tự thân nhận lấy hình sắc. Như thấy sắc của lửa liền nhớ về sự ấm nóng của lửa. Ngửi hương của hoa có thể nghĩ về sắc của hoa. Ở đây, hai pháp nhất định không lìa nhau, nên nhân nơi nhận lấy một, có thể nhớ nghĩ được phần còn lại. Không có xúc cùng với hình nhất định không lìa nhau. Vì sao nhận lấy xúc có thể nhất định nhớ nghĩ về hình. Nếu xúc cùng với hình không định rõ là đồng tụ, nhưng do nhận lấy xúc nên có thể nhớ nghĩ về hình, thì hiển sắc cũng nên nhân nơi xúc định rõ là có nhớ nghĩ. Hoặc tức nên hình sắc như hiển sắc là không định rõ. Tức nhận giữ phần vị xúc nên không rõ về hình. Nhưng thật sự là không đúng. Thế nên không nên nói là nhân nhận lấy nơi xúc, có thể nhớ nghĩ về hình sắc. Hoặc ở trong lụa gấm v.v… thấy có nhiều hình, tức nên cho nơi một xứ có nhiều hình thật. Lý không như vậy, như có nhiều hiển sắc. Vì thế hình sắc không phải là Thể thật có. Lại, các sắc thật có đối hiện có, tất nên có biệt loại cực vi thật. Nhưng không có cực vi gọi là dài v.v… Tức nhiều vật được sắp xếp theo tướng sai biệt như thế, trong ấy giả lập là dài v.v… Nếu cho tức do cực vi của hình sắc được sắp xếp như vậy gọi là dài v.v… thì đấy chỉ là từng phần, từng nhóm, không phải là trọn thành. Nghĩa là nếu hình sắc có cực vi riêng thì tự tướng trọn thành, có thể được tụ tập sắp đặt như thế, cho là dài v.v… Nhưng không phải các hình sắc có cực vi riêng để tự tướng trọn thành, cũng như hiển sắc. Vì sao có được tụ tập, sắp đặt? Há không hiện thấy các thứ đất, vật chứa v.v… có hiển sắc tương đồng, nhưng hình sắc thì cùng khác, chẳng phải là đã biện? Tức ở nơi nhiều vật đã sắp xếp có sai biệt, giả lập là dài v.v… Như những con kiến cùng có tướng không khác, nhưng có thể đi theo vòng tròn tức hình sắc được sắp xếp riêng khác. Hình dựa nơi hiển v.v… Lý cũng nên như thế. Không phải như trong bóng tối, hoặc ở nơi xứ xa, nhìn các vật như gốc cây v.v… biết rõ là hình, không phải là hiển. Nên tức hiển cùng được sắp xếp là hình. Do ở trong bóng tối hay nơi xứ xa nhìn hiển sắc không rõ. Vì vậy chỉ khởi phân biệt như dài v.v… Như ở trong bóng tối, nơi xa, nhìn xem đám cây cối, nhiều người, chỉ rõ là số đông, không nhận biết về tướng riêng. Lý tất nên như thế. Do hoặc có khi không rõ về hiển, hình, chỉ nhận biết về tụ chung. Đã ngăn chận, loại bỏ xong luận điểm cho hành chuyển động cùng hình, vậy Tông Kinh Bộ của các ông lập gì làm thân biểu? Lập hình làm thân biểu, chỉ là giả không phải thật. Đã cho chỉ dùng giả làm thân biểu, thế lại lập pháp gì làm thân nghiệp? Như nghiệp dựa nơi thân lập làm thân nghiệp. Nghĩa là có thể tạo ra về số tư duy của thân vận động, dựa nơi hành của môn thân nên gọi là nhân nghiệp. Ngữ nghiệp, ý nghiệp tùy theo chỗ ứng hợp, lập tên gọi có sai biệt, nên biết cũng như thế. Nếu vậy thì vì sao trong Khế kinh nói có hai thứ nghiệp: Một là tư nghiệp. Hai là tư dĩ nghiệp. Hai nghiệp này có gì khác nhau? Nghĩa là gia hạnh trước đã khởi tư của tư duy: Ta tức nên vì sự việc cần tạo tác như thế gọi là tư nghiệp. Đã tư duy rồi nên khởi tạo sự việc như tư, tùy theo đối tượng tư duy ở trước, tạo tác sự việc của đối tượng tạo tác, thân động phát ngữ gọi là tư dĩ nghiệp. Nếu thế thì biểu nghiệp tức nhất định là không. Biểu nghiệp đã không thì tuy muốn vô biểu nghiệp cũng tức nên không có. Liền thành lỗi lớn. Lỗi lớn như thế có lý có thể ngăn chận. Nghĩa là từ nơi tư duy thù thắng của hai biểu đã nói như trước, khởi tư có sai biệt gọi là vô biểu. Điều này có lỗi gì? Đây nên gọi là nghiệp tùy tâm chuyển. Như nơi định vô biểu, tâm cùng chuyển, nên không có lỗi như thế. Quyết định kỹ về tư thù thắng chuyển động, phát khởi tư duy thù thắng đã dẫn sinh. Nếu như thừa nhận có biểu, thì cũng đợi lực của tư như trước đã nêu bày, do tánh trì độn.
Sư Tỳ-bà-sa nói: Hình là thật. Thân biểu nghiệp, hình sắc là Thể. Thể của ngữ biểu nghiệp là ngôn ngữ, âm thanh. Tướng của vô biểu nghiệp như trước đã nói. Kinh Bộ cũng nói: Điều ấy không phải là thật có. Do hạn lượng của thệ nguyện ở trước, nên chỉ không tạo tác. Pháp kia cũng dựa nơi đại chủng của quá khứ để thiết lập. Như đại chủng của quá khứ, Thể là không có. Lại, các vô biểu, tướng là vô sắc. Tỳ-bà-sa nói vô biểu này cũng là thật có. Làm sao nhận biết như thế?
* Tụng viết:
Nói ba vô sắc vô lậu
Tăng không phải tạo tác.
* Luận nêu: Do Khế kinh nói sắc có ba loại. Ba loại này là xứ gồm thâu tất cả sắc. (1) Có sắc có thấy có đối. (2) Có sắc không thấy có đối. (3) Có sắc không thấy không đối. Lại, trong Khế kinh cũng nói có sắc vô lậu. Như Khế kinh nói: Thế nào là pháp vô lậu? Nghĩa là đối với các sắc hiện có của quá khứ vị lai hiện tại, không khởi tham ái, giận dữ, cho đến thức cũng thế. Đó gọi là pháp vô lậu. Trừ vô biểu sắc, thì pháp nào gọi là không thấy không đối cùng sắc vô lậu? Lại như Khế kinh nói về có phước đức tăng trưởng. Kinh nói: Các hữu tình tịnh tín, hoặc thiện nam hoặc thiện nữ, đã thành tựu bảy sự phước nghiệp có nương dựa. Hoặc khi đi khi đứng khi ngủ khi thức, lúc nào cũng luôn nối tiếp, tức phước nghiệp dần tăng, phước nghiệp tiếp tục sinh khởi. Không nương dựa cũng như thế. Trừ vô biểu nghiệp, nếu lúc khởi tâm khác hoặc không tâm, thì dựa nơi pháp nào để nói là phước nghiệp tăng trưởng? Lại không phải là tự tạo tác, chỉ khiến kẻ khác làm. Nếu không có vô biểu nghiệp thì không nên thành nghiệp đạo. Do khiến kẻ khác biểu hiện nên không phải thuộc về nghiệp đạo kia. Nghiệp này chưa có thể chính thức tạo tác nơi đối tượng. Tức khiến tạo tác nơi đối tượng tạo tác rồi, thì tánh ấy là không khác. Lại như Khế kinh nói: Bí-sô nên biết! Pháp gọi là ngoại xứ, là mười một xứ còn lại không gồm thâu pháp không thấy không đối. Không nói vô sắc. Nếu không quán xét nơi vô biểu sắc thuộc về pháp xứ thì ngôn thuyết này thiếu giảm liền thành vô dụng. Lại, nếu không có vô biểu, tức nên không có tám đạo chi, do lúc ở nơi định, ngôn ngữ v.v… là không có. Nếu vậy thì sao trong Khế kinh nói: Người kia nhận biết như thế, thấy rõ như thế, tu tập chánh kiến, chánh tư duy, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định đều đến viên mãn. Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng do lúc trước đã được thanh tịnh sáng tỏ. Đây là dựa nơi thời gian trước đã đạt được đạo thế gian lìa nhiễm để nói, nên không có lỗi cùng trái nhau. Lại, nếu bác bỏ cho là không có vô biểu sắc, tức cũng nên không có luật nghi biệt giải thoát. Vì không phải sau khi thọ giới là có giới nối tiếp, tuy khởi tâm chuyên khác mà gọi là Bí-sô v.v… Lại như Khế kinh nói: Giới lìa sát sinh v.v… gọi là giới Bờ đê, có thể trong thời gian dài nối tiếp làm bờ đập ngăn chận lỗi lầm phạm giới. Không phải là không có thể tánh để được gọi là Đê đập. Do những dẫn chứng ấy nên nhận biết là thật có vô biểu sắc. Sư Kinh Bộ cho: Những chứng cứ này tuy nhiều, có vô số thứ khác lạ ít có, nhưng không hợp lý. Sở dĩ nói như thế, vì trong phần dẫn chứng, như nơi kinh đầu nói có ba thứ sắc. Sư Du Già cho: Lúc tu tĩnh lự, do lực của định nên đã sinh sắc nơi cảnh giới định, không phải là cảnh của nhãn căn nên gọi là không thấy. Không chướng ngại nơi chốn nên gọi là không đối. Nếu cho là đã như thế thì vì sao gọi là sắc? Giải thích vấn nạn như vậy cùng với vô biểu là đồng. Lại như kinh đã nói về sắc vô lậu. Sư Du Già nêu rõ: Tức do lực của định đã sinh khởi sắc, trong ấy dựa nơi định vô lậu tức nói là vô lậu. Có Sư khác nói: Sắc của thân vô học cùng với các sắc bên ngoài đều là vô lậu, do không phải là chỗ dựa của lậu nên được mang tên vô lậu. Kinh nói pháp hữu lậu là thế nào? Là các mắt hiện có cho đến nói rộng. Đây không phải là đối trị lậu nên được mang tên hữu lậu. Thế thì ở đay nên nói hữu lậu cũng là vô lậu. Nếu thế thì có lỗi gì? Có lỗi cùng lẫn lộn. Nếu dựa nơi lý ấy nói là hữu lậu, thì đã từng không dựa nơi ấy để nói là vô lậu. Vô lậu cũng thế. Vậy có gì là cùng lẫn lộn? Nếu sắc xứ v.v… hoàn toàn là hữu lậu, thì kinh ấy do đâu nói có sai biệt? Như nói: Các sắc hữu lậu, hữu thủ, khiến tâm gây tạo sự việc che giấu. Thanh v.v… cũng thế. Lại như kinh đã nói về phước tăng trưởng, các Sư quỹ phạm ở trước đã giải thích như vầy: Do lực dụng của pháp như thế, nên phước nghiệp tăng trưởng. Như thí chủ đã bố thí tài sản vật dụng, người thọ nhận như thế như thế thọ dụng. Do những người thọ nhận đã thọ dụng các vật thí, nên công đức gây tạo lợi ích có sai biệt. Về sau, thí chủ tâm tuy có duyên khác, nhưng duyên thí trước do tư đã huân tập, vi tế nối tiếp dần dần chuyển biến có sai biệt để sinh khởi. Do đấy nơi đời vị lai có thể chiêu cảm nhiều quả. Thế nên mật ý nói: Thời luôn nối tiếp, phước nghiệp dần tăng, phước nghiệp tiếp tục khởi. Nếu cho là vì sao do sự nối tiêp khác mà đức tăng trưởng có sai biệt, khiến tâm của sự nối tiếp ấy tuy có duyên dị biệt nhưng vẫn có chuyển biến? Giải thích nghi vấn này là cùng đồng với vô biểu. Vì sao người kia lại do sự nối tiếp khác nên đức tăng trưởng có sai biệt khiến sự tương tục khác kia riêng có pháp vô biểu chân thật sinh khởi? Nếu ở nơi các sự phước nghiệp không nương dựa (Không thuộc về sắc), nêu câu hỏi do đâu phước nghiệp nối tiếp tăng trưởng? Tức cũng do luôn hành tập duyên nơi tư kia, cho đến trong mộng cũng luôn tùy chuyển. Luận giả vô biểu đối với các phước nghiệp không nương dựa, đã cho là do vô biểu nghiệp tức nên có vô biểu. Có thuyết nói: Các sự phước nghiệp có nương dựa (Thuộc về sắc) cũng do thường hành tập, duyên nơi tư của cảnh giới kia, nên nói: Thời luôn nối tiếp tăng trưởng. Nếu vậy thì như kinh nêu rõ: Có các Bí-sô gồm đủ Thi la thanh tịnh, thành tựu pháp thiện, thọ nhận các thức ăn uống do người khác dâng thí rồi, nhập nơi định tâm vô lượng, thân chứng, an trụ đầy đủ. Do nhân duyên này nên biết thí chủ đã có được vô lượng phước thiện tươi nhuận nối tiếp, vô lượng an lạc xuất sinh tràn đầy nơi thân. Thí chủ bấy giờ, phước nghiệp luôn tăng trưởng. Phải chăng nhất định thường có duyên nơi tư thù thắng ấy. Vì thế chỗ nói do tư đã huân tập, vi tế tương tục dần dần chuyển biến có sai biệt nên sinh khởi, nhất định là hợp lý. Lại, không phải tự tạo tác chỉ khiến người khác làm, vì sao nghiệp đạo được thành tựu đầy đủ? Nên nói như thế này: Do nơi gia hạnh gốc. Người sai khiến dựa nơi giáo pháp lúc đã tạo thành, pháp như thế tức có thể khiến giáo pháp ấy có vi tế nối tiếp chuyển biến sai biệt, nên sinh khởi. Do đấy, nơi vị lai có thể chiêu cảm nhiều quả. Các hữu tình tự tạo tác sự việc lúc đạt cứu cánh, nên biết cũng đạo lý như thế. Nên biết tức ở đây, vi tế nối tiếp chuyển biến sai biệt gọi là nghiệp đạo. Là ở nơi quả này giả lập tên nhân, là quả do thân nghiệp ngữ nghiệp dẫn sinh. Như cho riêng có vô biểu, thì luận tông vô biểu cũng gọi là nghiệp đạo của thân ngữ.
Nhưng Đại đức nói: Ở trong thủ uẩn, do ba thời đấy khởi tư, là tội sát sinh đã được tiếp xúc. Nghĩa là khởi tư: Ta sẽ sát sinh, đang sát sinh, đã sát sinh rồi! Không phải chỉ do nghiệp đạo này đã rốt ráo. Chớ nên cho là tự mẫu thật sự chưa bị hại, do tư như thế cho là đã bị hại, thành nghiệp vô gián. Tuy nhiên ở nơi sự việc tự tạo tác thì không có sát hại nhầm lẫn, khi khởi tư như thế khiến tội sát liền tiếp xúc. Nếu dựa theo thuyết này thì không phải là không phải hợp lý. Vậy sao ở nơi vô biểu riêng mang tâm ghét bỏ, nhất định bài bác cho là không có? Nhưng lại thừa nhận do tư đã huân tập, có vi tế nối tiếp chuyển biến sai biệt. Rõ ràng ở đây cùng với kia đều khó nhận biết rõ! Nay, ở đây không hề có ghét bỏ, đã thừa nhận nghiệp đạo là chủng loại của tâm, do sự việc gia hạnh của thân lúc đạt được cứu cánh. Lìa nơi tâm, thân ở trong thân của người có thể chỉ giáo, riêng có pháp vô biểu sinh. Như thế, theo Tông chỉ kia không khiến sinh vui mừng. Nếu do những dẫn chứng này về gia hạnh kia đã sinh khởi sự việc lúc đạt được cứu cánh, tức sự việc này do chỗ nối tiếp chuyển biến sai biệt kia sinh ra, thể theo Tông chỉ như thế đáng khiến sinh hoan hỷ. Song do tâm v.v… nơi sự nối tiếp chuyển biến sai biệt, có thể sinh khởi quả của vị lai. Lại như trước đã nói. Trước đã nói về những gì? Nghĩa là biểu nghiệp đã không thì sao có vô biểu? Lại nói pháp xứ không nói vô sắc. Do có như trước đã nói về cảnh của định là sắc không thấy không đối thuộc về pháp xứ. Lại nói về đạo chi tức nên không có tám: Là do thuyết kia nên nói, chính lúc tại nơi đạo, vì sao có được chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng? Do ở nơi phần vị này đã có phát chánh ngôn, khởi chánh tác nghiệp, cầu có được y phục v.v… chăng? Không phải như thế. Vì sao? Do người kia đã đạt được chủng loại vô biểu vô lậu như thế, nên sau khi xuất quán, do uy lực trước tức có thể khởi ba chánh (Ngữ, nghiệp, mạng), không khởi ba tà. Do ở trong nhân đã lập tên quả, ở nơi vô biểu lập tên gọi ngữ nghiệp mạng. Nếu như thế vì sao không thọ nhận nghĩa này? Tuy không có vô biểu nhưng lúc ở tại đạo đã đạt được chỗ nương dựa của ý lạc như đấy. Nên sau khi xuất quán, do uy lực trước tức có thể khởi ba chánh, không khởi ba tà. Do ở trong nhân lập tên quả, nên có thể an lập đủ tám chi Thánh đạo. Có Sư khác cho: Chỉ nói không tạo các sự như tà ngữ v.v… dùng làm đạo chi. Nghĩa là lúc ở nơi định, do lực dụng của Thánh đạo, nên có thể đạt được quyết định không tạo tác. Định không tạo tác này dựa nơi đạo vô lậu để được an lập nên gọi là vô lậu. Không phải tất cả xứ phải dựa vào chân thật, có riêng Thể của pháp mới lập danh số. Như tám pháp của thế gian: Nghĩa là được, không được, cùng với chê, khen, nêu xưng, trách cứ, khổ, vui. Ở đây không phải do không được các sự như: y phục, thức ăn uống v.v… mà riêng có Thể thật. Pháp kia cũng nên như thế. Luật nghi biệt giải thoát cũng nên căn cứ theo đấy. Tức là do nguyện lực của tư, nên trước lập ước nguyện, nhất định có thể ngăn chận các nghiệp ác của thân ngữ. Do đấy nên kiến lập luật nghi biệt giải thoát. Nếu khởi tâm duyên nơi dị biệt, tức nên không có luật nghi: Vấn nạn này là phi lý. Do lực huân tập nên lúc sắp khởi lỗi lầm thì liền nhớ nghĩ đến dừng dứt. Giới là nghĩa Đê đập, tức cũng nên căn cứ theo đấy. Nghĩa là trước lập thệ nguyện quyết định không tạo ác. Về sau luôn nhớ nghĩ, hổ thẹn thường hiện tiền, có thể tự ngăn giữ khiến không phạm giới. Nên nghĩa Đê đập của giới là do tâm thọ trì. Nếu do vô biểu có thể ngăn chận phạm giới tức không mất niệm mà phá giới.
Lại nên dừng các thứ tranh luận ở đây.
Sư Tỳ-bà-sa nói: Có một vật thật gọi là vô biểu sắc, là chủ trương của Tông mình. Trước là nói về tánh của vô biểu là do đại chủng tạo. Vậy vô biểu ấy là biểu nơi đại chủng tạo hay là có khác? * Tụng viết:
Đây đại chủng hay tạo
Khác với chỗ dựa biểu.
* Luận nêu: Vô biểu cùng với biểu do đại chủng sinh là khác. Vì sao? Vì từ một hòa hợp có quả thô tế, là không hợp lý. Như biểu cùng đại chủng tất đồng thời sinh, thì vô biểu cũng như thế, nhưng là có sai biệt. Do tất cả sắc được tạo phần nhiều cùng với đại chủng đồng thời sinh khởi. Tuy nhiên, nơi hiện tại, vị lai cũng có phần ít dựa vào quá khứ. Phần ít dựa nơi đại chủng quá khứ sinh là thế nào?
* Tụng viết:
Vô biểu dục: Niệm sau
Dựa đại chủng quá sinh.
* Luận nêu: Chỉ nơi sau sát-na đầu, vô biểu hiện có thuộc cõi dục, từ đại chủng quá khứ sinh. Đây là chỗ dựa nên vô biểu được khởi. Đại chủng của thân hiện tại chỉ có thể làm chỗ dựa, là nhân của chuyển và tùy chuyển. Tức tùy theo thứ lớp ấy, như lăn bánh xe đi nơi đất, thì bàn tay và đất là chỗ dựa. Vậy thân ngữ nghiệp của địa nào là đại chủng đã tạo của địa nào?
* Tụng viết:
Hữu lậu dựa tự địa
Vô lậu theo xứ sinh.
* Luận nêu: Hai nghiệp thân ngữ thuộc cõi dục thì chỉ do đại chủng thuộc cõi dục tạo. Như thế cho đến hai nghiệp thân ngữ của tĩnh lự thứ tư cũng chỉ là do đại chủng của địa kia tạo ra. Nếu thân nghiệp ngữ nghiệp là vô lậu, thì tùy sinh nơi địa ấy ứng khởi hiện tiền, tức là đại chủng của địa ấy tạo ra. Vì pháp vô lậu không tùy thuộc nơi cõi. Tất không có đại chủng là vô lậu. Do sức mạnh của nơi chốn nương dựa nên vô lậu sinh.
Biểu, vô biểu này, về loại là thế nào? Lại là do loại đại chủng nào đã tạo?
* Tụng viết:
Vô biểu không chấp thọ
Cũng dẳng lưu, thuộc tình
Tán dựa tánh đẳng lưu
Có thọ khác đại sinh.
Định sinh dựa nuôi lớn
Không thọ không khác đại
Biểu chỉ tánh đẳng lưu
Thuộc thân có chấp thọ.
* Luận nêu: Nay trong Tụng này, trước hiện về vô biểu là không chấp thọ. Do không có biến đổi ngăn ngại (Biến ngại). Cũng là tánh đẳng lưu. Cũng nói hiển bày chỗ có này là sát-na. Nghĩa là đầu tiên là vô lậu, số còn lại đều là tánh đẳng lưu, tức do nhân đồng loại sinh. Đây chỉ là hữu tình, vì dựa vào nội khởi. Trong ấy, vô biểu hiện có của cõi dục là đẳng lưu có chấp thọ, riêng khác với đại chủng sinh. Nói khác với đại chủng sinh là làm rỏ bảy thứ nơi nghiệp thân ngữ, mỗi mỗi đều là riêng khác với đại chủng đã tạo. Vô biểu do định sinh có hai thứ sai biệt: Nghĩa là các luật nghi thuộc tĩnh lự và luật nghi vô lậu. Hai thứ này đều cùng dựa nơi định đã được nuôi lớn, không chấp thọ. Không khác với đại chủng đã sinh. Nói không khác với đại chủng là làm rõ vô biểu này, bảy chi đồng một, gồm đủ bốn đại chủng sinh. Vì sao? Vì chỗ dựa là đại chủng như tâm chỉ là một, không có sai biệt. Nên biết hữu biểu chỉ là đẳng lưu. Ở đây, nếu thuộc về thân là có chấp thọ. Nghĩa còn lại đều cùng với vô biểu phân tán là đồng.
Biểu nghiệp lúc sinh là nên hủy hoại hình lượng của bản thân hay là không như thế? Nếu như vậy thì có lỗi gì? Nếu hủy hoại, thì sắc dị thục đã đoạn tức nên có thể lại nối tiếp. Tức là trái vượt với Tông chỉ của Tỳ-bà-sa. Nếu không hủy hoại, thì vì sao nơi xứ sở của một thân lại có được hai hình lượng thành tựu? Như vậy là có riêng đại chủng của đẳng lưu mới sinh, tạo hữu biểu nghiệp không hủy hoại bản thân. Nếu như thế thì tùy theo chỗ dựa là phần xứ của thân nào để khởi hữu biểu nghiệp ứng hiệp với đại chủng nơi gốc? Tức đại chủng mới sinh đã tăng trưởng khắp. Nếu không tăng trưởng khắp, thì vì sao hữu biểu đã sinh khắp? Là do thân có các lỗ hổng nên cùng dung nạp được.
Đã hiện về môn nghiệp, có hai, ba, năm thứ riêng khác (Hai loại nghiệp tư và tư đã tạo. Ba loại nghiệp là thân ngữ ý. Năm loại nghiệp là tư, thân hữu biểu, thân vô biểu, ngữ hữu biểu, ngữ vô biểu).
Ở đây, về tánh, cõi, địa có sai biệt như thế nào?
* Tụng viết:
Vô biểu ký, còn ba
Bất thiện chỉ nơi dục
Vô biểu chung dục sắc
Biểu chỉ có tứ hai
Dục không biểu hữu phú
Do không có đẳng khởi.
* Luận nêu: Vô biểu chỉ chung nơi tánh thiện, bất thiện, không có vô ký. Vì sao? Do uy lực của tâm vô ký yếu kém, không thể dẫn phát nghiệp mạnh khiến sinh. Có thể vào lúc nhân diệt, quả mới nối tiếp khởi. Chỗ nói về còn lại: Tức là hữu biểu và tư. Ba nghĩa là đều chung nơi thiện, bất thiện và vô ký. Trong ấy, bất thiện là ở cõi dục, không phải là cõi khác. Do ở cõi khác đã đoạn ba căn bất thiện cùng không có không hổ không thẹn. Thiện cùng vô ký thì nơi các địa đều có. Do ở trong Tụng không cỏ ngận chận riêng. Hai cõi dục, sắc đều có vô biểu. Do trong cõi vô sắc không có đại chủng nên không có vô biểu. Tùy nơi xứ nào có thân ngữ chuyển thì chỉ nơi xứ ấy có luật nghi vô biểu của thân ngữ. Nếu thế thì thân sinh nơi hai cõi dục, sắc, nhận định vô sắc, tức nên có luật nghi vô biểu nơi cõi vô sắc? Như khởi tâm vô lậu thì có vô biểu vô lậu. Không phải như vậy! Do vô biểu vô lậu kia không tùy thuộc nơi cõi. Ở nơi cõi vô sắc nếu có vô biểu, tức nên có vô biểu không do đại chủng sinh. Tức không thể nói vô biểu hữu lậu do đại chủng của địa, cõi khác làm chỗ dựa. Lại, từ bỏ các sắc, nhập nơi định vô sắc, nên trong định kia không thể sinh sắc. Do nơi định vô sắc có tưởng loại bỏ sắc. Sư Tỳ-bà-sa nói như thế này: Vì đối trị giới ác nên khởi Thi la. Chỉ trong cõi dục là có các giới ác. Cõi vô sắc đối với cõi dục có đủ bốn thứ xa: (1) Chỗ nương dựa xa. (2) Hành tướng xa. (3) Đối tượng duyên xa. (4) Đối trị xa. Nên trong cõi vô sắc không có vô biểu sắc. Biểu sắc chỉ ở nơi hai địa có tứ. Nghĩa là chung nơi cõi dục và tĩnh lự thứ nhất. Không phải là trong địa trên có thể nói về hữu biểu. Biểu hữu phú vô ký thì nơi cõi dục nhất định là không có. Chỉ ở trong trời Phạm Thế thì có thể nói là có. Từng nghe Đại Phạm đã có ngôn ngữ dối trá dua nịnh. Tức ở trong thiên chúng của mình, vì tránh né câu hỏi của Bí-sô Mã Thắng nên Đại Phạm đã giả trá tự tán thán mình.
Địa trên đã không có ngữ biểu thì sao có được thanh xứ? Có đại chủng bên ngoài làm nhân phát sinh âm thanh. Có Sư khác nói: Ba tĩnh lự trên cũng có biểu nghiệp vô phú vô ký, không thiện,không nhiễm. Vì sao? Vì không phải hữu tình của địa trên có thể khởi tâm thiện cùng nhiễm của địa dưới để phát sinh thân ngữ biểu. Do tâm thiện nơi địa dưới là yếu kém (Cõi dục), còn tâm nhiễm thì đã được đoạn trừ (Tĩnh lự thứ nhất).
Nhưng Tỳ-bà-sa cho thuyết trước là tốt. Lại do nhân gì từ hai định trở lên đều không có biểu nghiệp? Ở trong cõi dục không có biểu nghiệp hữu phú vô ký? Do không có tâm phát sinh đẳng khởi của nghiệp. Tâm có tầm tứ mới có thể phát sinh biểu nghiệp. Hai định (Tĩnh lự thứ hai) trở lên đều không có tâm này. Lại, tâm phát khởi biểu nghiệp hữu phú vô ký chỉ do tu đạo đoạn. Còn Hoặc do kiến đạo đoạn thì theo nội môn chuyển. Tức tâm phát khởi biểu nghiệp hữu phú vô ký ở cõi dục chỉ do kiến đạo đoạn. Thế nên nơi ba địa trên đều không có biểu nghiệp và trong cõi dục không có biểu nghiệp hữu phú vô ký.
Là chỉ do đẳng khởi khiến các pháp thành tánh thiện bất thiện chăng? Không phải thế. Vì sao? Do bốn thứ nhân nên thành tánh thiện v.v…: (1) Do thắng nghĩa. (2) Do tự tánh. (3) Do tương ưng. (4) Do đẳng khởi. Vậy pháp nào, tánh nào, do nhân nào thành?
* Tụng viết:
Giải thoát: Thiện thắng nghĩa
Căn, hổ thẹn: tự tánh
Tương ưng kia tương ưng
Đẳng khởi là sắc nghiệp
Trái đây gọi bất thiện
Vô ký thắng: Hai thường.
* Luận nêu: Thiện thắng nghĩa: Nghĩa là chân giải thoát. Do trong Niết-bàn là hoàn toàn an ổn, các khổ vĩnh viễn vắng lặng, cũng như không bệnh. Thiện tự tánh: Nghĩa là ba căn thiện và hổ, thẹn. Do trong pháp hữu vi chỉ có hổ, thẹn cũng với ba thứ căn thiện như không tham v.v… là không tùy thuộc vào các pháp tương ưng cùng đẳng khởi khác. Thể tánh của chúng là thiện, cũng như là thuốc tốt. Thiện tương ưng: Nghĩa là tương ưng với các pháp kia. Do tâm tâm sở cùng với ba căn thiện và hổ thẹn tương ưng mới thành tánh thiện. Nếu không cùng với các pháp kia tương ưng thì tánh thiện không thành. Cũng như nước uống và thuốc tốt pha chung. Thiện đẳng khởi: Nghĩa là hành không tương ưng của thân nghiệp ngữ nghiệp. Do là đẳng khởi của thiện tự tánh và thiện tương ưng. Như sữa của con bò đã uống nước có pha thuốc tốt.
Nếu tâm của dị loại đã khởi đắc v.v… vì sao thành thiện? Nghĩa này nên suy xét. Như nói tánh thiện có bốn thứ sai biệt, thì bất thiện có bốn thứ cùng với đây trái nhau. Thế nào là trái nhau? Bất thiện thắng nghĩa: Nghĩa là pháp sinh tử. Do trong sinh tử các pháp đều lấy khổ làm tự tánh. Hết sức không an ổn, cũng như bệnh không chữa khởi. Bất thiện tự tánh: Nghĩa là ba căn bất thiện cùng không hổ không thẹn. Do trong hữu lậu chỉ có ba căn bất thiện như tham, sân v.v… cùng với không hổ không thẹn là không tùy thuộc nơi pháp tương ưng và đẳng khởi khác. Thể của chúng là bất thiện, cũng như thuốc độc. Bất thiện tương ưng: Nghĩa là tương ưng với các pháp kia. Do tâm tâm sở pháp cần cùng với ba căn bất thiện và không hổ không thẹn tương ưng mới thành tánh bất thiện. Khác thì không như thế. Như nước uống có pha lẫn thuốc độc. Bất thiện đẳng khởi: Nghĩa là hành không tương ưng của thân nghiệp ngữ nghiệp. Do đấy là đẳng khởi của bất thiện tự tánh và bất thiện tương ưng. Như sữa của một con bò uống phải nước có lẫn thuốc độc.
Nếu như thế tức không một pháp hữu lậu nào là vô ký hoặc thiện, vì đều thuộc về sinh tử? Nếu căn cứ theo thắng nghĩa thì đúng như đã nói. Nhưng ở trong ấy là căn cứ theo dị thục để nêu bày. Các pháp hữu lậu, nếu không thể ghi nhận quả dị thục, thì lập tên vô ký. Còn nếu có thể ghi nhận quả dị thục đáng yêu thích thì gọi là thiện. Nên không có lỗi. Vô ký thắng nghĩa: Tức là hai vô vi. Do thái hư không cùng phi trạch diệt chỉ là tánh vô ký, lại không có môn khác. Ở đây nên suy xét. Nếu do sức mạnh của đẳng khởi khiến thân nghiệp ngữ nghiệp thành thiện, bất thiện, thì các đại chủng đối chiếu cũng nên như thế? Do tâm của người tạo tác vốn muốn dấy khởi nghiệp, không phải là dấy khởi đại chủng. Nên chỗ đối chiếu là không thành. Nếu như vậy thì vô biểu của tâm định tùy chuyển, không phải đang ở nơi định tác ý dẫn sinh. Cũng không phải là gia hạnh của tâm tán dẫn phát, do không đồng loại, thế vì sao thành thiện? Hoặc thiên nhãn thiên nhĩ tức nên thành tánh thiện. Đối với các nghĩa như thế cần phải dành nhiều công sức để biện giải. Như trên đã nói, hoặc do kiến đạo đoạn ở nơi nội môn chuyển nên không thể phát khởi biểu nghiệp. Nếu thế thì vì sao trong Khế kinh nói: Do tà kiến nên khởi tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp cùng tà mạng. Ở đây không có cùng trái với kinh. Vì sao?
* Tụng viết:
Đẳng khởi có hai loại
Nhân cùng sát-na kia
Như thứ lớp nên biết
Gọi chuyển, gọi tùy chuyển.
Thức: Kiến đoạn chỉ chuyển
Năm thức chỉ tùy chuyển
Ý: Tu đoạn chung hai
Vô lậu, dị thục không.
Nơi chuyển, tánh như thiện v.v…
Tùy chuyển đều gồm ba
Mâu-ni thiện tất đồng
Vô ký tùy hoặc thiện.
* Luận nêu: Đẳng khởi của biểu nghiệp, vô biểu nghiệp có hai loại: Là đẳng khởi của nhân và đẳng khởi của sát-na. Ở trước là nhân, nên sát-na kia có mặt. Như thứ lớp, trước gọi là chuyển, thứ hai gọi là tùy chuyển. Nghĩa là đẳng khởi của nhân theo lúc sắp tạo nghiệp có thể dần phát nên gọi là chuyển. Đẳng khởi của sát-na là lúc đang tạo nghiệp không cùng lìa nhau nên gọi là tùy chuyển. Tùy chuyển đối với nghiệp có công năng gì? Tuy có nhân trước là có thể dẫn phát, nhưng nếu không có tùy chuyển thì như nghiệp tức nên không có. Nếu vậy thì không tâm làm sao phát khởi giới? Những người có tâm thì nghiệp phát khởi phân minh, nên tâm tùy chuyển ở nơi nghiệp là có tác dụng. Thức do kiến đạo đoạn, ở trong sự việc phát khởi biểu nghiệp, chỉ có thể là chuyển. Ở trong khả năng phát khởi biểu nghiệp sinh tầm tứ, là tư lương nên không là tùy chuyển đối với môn ngoài, lúc tâm đang khởi nghiệp thì pháp ấy không có. Lại, nếu do khiến đạo đoạn, nếu phát khởi biểu sắc, thì sắc này tức nên là do kiến đạo đoạn. Nếu thừa nhận do kiến đạo đoạn thì điều ấy có lỗi gì? Tức là trái vượt với chủ trương của A-tỳ-đạt-ma. Lại, minh và vô minh không trái nhau. Vì sắc của nghiệp hữu lậu không phải do kiến đạo đoạn. Đạo lý như thế tức nên lại thành lập. Như vậy thì đại chủng cũng nên do kiến đạo đoạn. Tức sức của tâm đã khởi đều cùng do kiến đạo đoạn. Không nên có lỗi lầm như thế. Như cho không phải thiện, bất thiện. Hoặc lại cho theo lý như thế cũng không trái. Không nên thừa nhận như vậy. Vì các đại chủng nhất định không phải do kiến đạo đoạn cùng không phải là đối tượng đoạn. Vì tất cả các thứ pháp không nhiễm ô cùng với minh, vô minh là không trái nhau. Kinh kia chỉ căn cứ nơi đẳng khởi của nhân trước để nêu bày như thế nên không mâu thuẫn.
Như năm thức thân chỉ tạo tùy chuyển, do không phân biệt, do ở nơi môn ngoài khởi. Ý thức do tu đạo đoạn thì chung nơi hai thứ, vì có phân biệt, vì ở nơi môn ngoài khởi. Tất cả tâm vô lậu, dị thục sinh không phải là chuyển, tùy chuyển. Do chỉ ở nơi định, không do gia hạnh tự nhiên chuyển. Như thế tức thành bốn trường hợp sai biệt: Có chuyển không phải là tùy chuyển: Nghĩa là tâm (ý thức) do kiến đạo đoạn. Có tùy chuyển không phải là chuyển: Nghĩa là năm thức thân như nhãn thức v.v… Có chuyển cũng là tùy chuyển: Nghĩa là ý thức của ba tánh do tu đạo đoạn. Có không phải chuyển cũng không phải tùy chuyển: Nghĩa là các tâm vô lậu dị thục sinh.
Tâm chuyển, tâm tùy chuyển nhất định là không tánh chăng? Điều này không quyết định. Sự việc ấy là thế nào? Nghĩa là tâm chuyển trước nếu là tánh thiện, thì thức tùy chuyển sau chung nơi ba tánh như thiện v.v… Bất thiện, vô ký tùy chuyển cũng như vậy. Chỉ có Mâu-ni Tôn thì thức chuyển tùy chuyển phần nhiều là đồng tánh, ít có không đồng tánh. Nghĩa là tâm chuyển nếu thiện thì tùy chuyển cũng thiện. Tâm chuyển nếu vô ký thì tùy chuyển cũng thế. Nhưng hoặc có khi thiện tùy chuyển từ vô ký chuyển, từng không có vô ký tùy chuyển là từ thiện chuyển. Do Đức Phật Thế Tôn đối với việc thuyết giảng pháp v.v…, tâm hoặc tăng trưởng không hề suy kiệt.
Có Bộ khác nói: Chư Phật Thế Tôn thường ở nơi định, tâm chỉ là thiện, không có tâm vô ký. Nên Khế kinh có kệ nói:
Na-già hành tại định
Na-già trụ tại định
Na-già tọa tại định
Na-già nằm tại định.
Sư Tỳ-bà-sa giải thích: Đây là làm rõ ý của Phật. Nếu tâm không ưa thích phân tán, tức ở nơi bốn oai nghi có thể luôn tại định. Nhưng nơi các phần vị khác, không phải là không có oai nghi, cùng tâm dị thục sinh, tâm thông quả khởi.
Các hữu biểu nghiệp thành tánh như thiện v.v… là như tâm chuyển hay là như tâm tùy chuyển? Nếu như vậy thì có lỗi gì? Nếu như chuyển, thì trong cõi dục nên có biểu nghiệp hữu phú vô ký. Thân kiến biên kiến có thể là chuyển. Hoặc nên phân biệt. Không phải tất cả các thứ tâm do kiến đạo đoạn đều có thể là chuyển. Còn nếu như tùy chuyển, thì tâm ác, vô ký cùng đạt được biệt giải thoát, biểu tức nên không phải tánh thiện. Đối với vấn nạn này phải nên gắng sức biện biệt. Nên nói như tâm chuyển, biểu thành tánh như thiện v.v…, nhưng không phải như tâm chuyển kia do kiến đạo đoạn, mà là tâm chuyển do tu đạo đoạn, vì gián cách. Nếu biểu không do sức của tâm tùy chuyển để thành thiện v.v…, tức không nên nói kinh kia chỉa căn cứ theo đẳng khởi của nhân trước, không phải căn cứ nơi sát-na, nên trong cõi dục nhất định không có biểu nghiệp hữu phú vô ký. Chỉ nên nói là kinh ấy chỉ căn cứ nơi tâm sở khác, ngăn cách đẳng khởi của nhân để nói. Tâm (ý thức) do kiến đạo đoạn tuy có thể là chuyển, nhưng ở nơi cõi dục nhất định không có biểu nghiệp hữu phú vô ký.
HẾT – QUYỂN 13