LUẬN A TỲ ĐẠT MA CÂU XÁ
Tác giả: Tôn giả Thế Thân
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ 

 

QUYỂN 12

Phẩm thứ 3: PHÂN BIỆT THẾ GIỚI, phần 5

Như thế là đã căn cứ theo du-thiện-na v.v… để biện về khí thế gian và thân lượng có sai biệt. Căn cứ theo năm v.v… để biện về thọ lượng có khác nhau. Nhưng chưa nói về hai lượng (Du-thiện-na, năm tháng) chẳng đồng, nay sẽ nói. Kiến lập hai thứ ấy đều dựa vào danh để giải thích. Hai thứ trước cùng với danh chưa rõ về đơn vị nhỏ nhất. Nay trước nên biện về lượng nhỏ nhất của ba thứ ấy.

* Tụng viết:

Cực vi, chữ, sát-na

Sắc, danh, thời: Nhỏ nhất.

* Luận nêu: Phân tích các sắc đến một cực vi, nên một cực vi là lượng nhỏ nhất của sắc. Như vậy, phân tích các danh và thời đến một chữ, một sát-na, là lượng nhỏ nhất của danh và thời. Một chữ nơi danh: Như nói chữ Cù. Những gì gọi là lượng của một sát-na? Là khoảnh khắc của pháp do các duyên hòa hợp có được tự thể. Hoặc có hành của pháp động vượt qua một cực vi. Các Sư Đối Pháp nói: Như tráng sĩ trong khoảnh khắc búng ngón tay có sáu mươi lăm sát-na. Như thế gọi là lượng của một sát-na. Đã nhận biết về ba thứ nhỏ nhất. Hai lượng trước là thế nào? Nay lại biện về du-thiệnna v.v… ở trước.

* Tụng viết:

Cực vi, vi kim thủy

Thố dương ngưu khích trần

Kỷ sắt mạch chỉ tiết

Sau sau tăng gấp bảy.

Hai mươi bốn chỉ: Khuỷu

Bốn khuỷu là lượng cung

Năm trăm: Câu-lô-xá

Tám này: Du-thiện-na.

* Luận nêu: Cực vi là đầu. Chỉ tiết là sau. Nên biết là tiếp theo sau thì tăng gấp bảy lần. Nghĩa là bảy cực vi là một vi. Bảy vi là một Kim trần. Bảy Kim trần là một Thủy trần. Bảy Thủy trần là một Thố mao trần. Bảy Thố mao trần là một Dương mao trần. Bảy Dương mao trần là một Ngưu mao trần. Bảy Ngưu mao trần là một Khích du trần. Bảy Khích du trần là một Kỷ (Con rận con). Bảy Kỷ là một Sắt (Con chấy). Bảy Sắt là một hạt lúa. Bảy hạt lúa là một chỉ tiết (Đốt ngón tay). Ba đốt tay là một chỉ (Ngón tay), thế gian đã biết rõ, thế nên trong Tụng không biệt riêng. Hai mươi bốn ngón tay nối ngang là một Trửu (Khuỷu tay). Bốn khuỷu tay nối kết theo chiều dọc là một cung, tức là tầm. Năm trăm cung là một câu-lô-xá. Một câu-lôxá là khoảng cách từ thôn đến A-luyện-nhã. Tám câu-lô-xá là một du-thiện-na.

Như vậy là đã nói về du-thiện-na v.v… Nay sẽ biện về các lượng sai biệt sau năm v.v…

* Tụng viết:

Trăm hai mươi Sát-na

Là một Đát-sát-na

Lạp-phược: Sáu mươi đấy

Ba mươi này: Tu du.

Ba mươi ấy: Ngày đêm

Ba mươi ngày đêm: Tháng

Mười hai tháng là năm

Trong ấy đêm giảm nửa.

* Luận nêu: Một trăm hai mươi Sát-na là một Đát-sát-na. Sáu mươi Đát-sát-na là một Lạp-phược. Ba mươi Lạp-phược là một Mâu-hô-lật-đa (Tu-du). Ba mươi Mâu-hô-lật-đa là một ngày đêm. Ngày đêm này có khi tăng, có khi giảm, có khi như nhau. Ba mươi ngày đêm là một tháng. Gồm mười hai tháng là một năm. Trong một năm phân làm ba mùa: Là mùa lạnh, nóng, mưa, mỗi mùa đều có bốn tháng. Trong mười hai tháng, có sáu tháng giảm về đêm. Do trong một năm số đêm giảm là sáu. Vì sao như thế? Như có Tụng nói:

Trong mùa lạnh nóng mưa

Một tháng rưỡi đã qua

Nơi nửa tháng còn lại

Bậc trí biết đêm giảm.

Như thế là đã biện về Sát-na đến năm. Lượng của kiếp chẳng đồng, nay tiếp theo sẽ biện.

* Tụng viết:

Nên biết có bốn kiếp

Là Hoại Thành Trung Đại

Hoại từ ngục chẳng sinh

Đến khí ngoài đều dứt.

Kiếp thành từ gió khởi

Đến địa ngục mới sinh

Trung kiếp từ vô lượng

Giảm đến thọ chỉ mười.

Tiếp tăng giảm mười tám

Sau tăng tới tám vạn

Như thế thành rồi trụ

Gọi hai mươi trung kiếp

Thành hoại, hoại rồi không

Thời đều bằng kiếp trụ

Tám mươi trung: Đại kiếp

Đại kiếp ba: Vô số.

* Luận nêu: Nói kiếp Hoại: Nghĩa là từ khi hữu tình không còn sinh nơi địa ngục, cho đến khí thế gian bên ngoài hoàn toàn diệt tận. Hoại có hai loại: Là nẻo hoại và cõi hoại. Lại có hai hoại: Là hữu tình hoại và khí thế gian bên ngoài hoại. Nghĩa là thế gian này đã trải qua hai mươi trung kiếp trụ rồi, từ đấy lại có hai mươi hoại kiếp cùng trụ liền đến. Nếu thời gian hữu tình nơi địa ngục mạng chung, không còn kẻ mới sinh vào, là kiếp hoại bắt đầu, cho đến khi địa ngục không còn một hữu tình, bấy giờ gọi là địa ngục đã hoại. Các hữu tình nhất định thọ nghiệp nơi địa ngục, thì do nghiệp lực dẫn dắt đưa đến trong địa ngục của phương khác. Do căn cứ theo đấy để nhận biết về nẻo bàng sinh, nẻo quỷ, nhưng đều trước là hủy hoại loài trụ nơi bản xứ. Loài sống chung với người, trời thì đồng hoại cùng với người, trời. Nếu khi nơi châu này của nẻo người, có một người tuy không có thầy hướng dẫn nhưng đạt được tĩnh lự thứ nhất, từ tĩnh lự khởi, người này xướng to như vầy: Ly sinh hỷ lạc là hết sức lạc, hết sức tịch tĩnh. Những người khác nghe rồi đều nhập tĩnh lự. Mạng chung đều được sinh trong xứ Phạm Thế. Cho đến khi nơi châu này hữu tình đều hết, đó gọi là người của châu Thiệm-bộ đã hoại diệt. Hai châu Đông Tây đều dựa theo đấy để nêu bày. Châu Bắc diệt tận thì sinh vào xứ trời thuộc cõi dục, do hữu tình ấy không thể nhập định lìa dục. Cho đến khi nơi nẻo người không có một hữu tình, bấy giờ gọi là nẻo người đã hoại. Nếu lúc trời Tứ Đại Vương thuộc nẻo trời, tùy theo một pháp nhưng đạt được tĩnh lự thứ nhất. Cho đến đều được sinh trong xứ Phạm Thế, bấy giờ hữu tình nơi trời kia đều hết, đó gọi là trời Tứ Đại Vương Chúng đã hoại. Năm trời thuộc cõi dục còn lại, đối chiếu là đồng với đây. Cho đến khi cõi dục không còn một hữu tình, tức gọi là hữu tình trong cõi dục đã hoại. Nếu lúc nơi xứ Phạm Thế, tùy theo một hữu tình không có thầy chỉ dẫn nhưng đạt được tĩnh lự thứ hai. Từ định ấy xuất, xướng to lời như vầy: Định sinh hỷ lạc là vô cùng lạc, vô cùng tịch tĩnh. Chư thiên khác nghe theo lời kia rồi đều nhập tĩnh lự ấy, mạng chung đều được sinh nơi trời Cực Quang Tịnh. Cho đến khi trong xứ Phạm Thế, các hữu tình đều hết, như vậy gọi là hữu tình thế gian đã hoại. Chỉ còn là khí thế gian rỗng không mà trụ. Hết thảy hữu tình nơi mười phương thế giới còn lại, đã chiêu cảm nghiệp nơi Tam thiên thế giới này đều hết. Vào lúc ấy dần có bảy vầng mặt trời xuất hiện. Các biển khô cạn. Các núi đều cháy tan. Ba lớp châu bãi theo đấy đều cháy rụi. Gió thổi dẫn lửa dữ thiêu đốt cung điện của các trời ở trên. Cho đến cung điện của xứ Phạm Thế cũng không để lại tro tàn. Ngọn lửa của Tự địa thiêu đốt cung điện của Tự địa, không phải là tai họa của Tha địa có thể hủy hoại Tha địa. Do cùng dẫn khởi nên nói như thế này: Ngọn lửa của địa dưới do gió thổi cuốn đã thiêu đốt địa trên. Nghĩa là ngọn lửa dữ thuộc lửa của cõi dục hướng lên trên làm duyên dẫn sinh ngọn lửa của cõi sắc. Các tai họa khác cũng như thế, như chỗ ứng hợp nên biết. Như vậy bắt đầu từ nơi địa ngục dần giảm, cho đến thế giới tận diệt gọi chung là kiếp hoại.

Nói kiếp Thành: Nghĩa là từ nơi gió khởi, cho đến địa ngục, hữu tình bắt đầu sinh vào. Tức tai họa đã hủy hoại thế gian này rồi, hai mươi trung kiếp chỉ có hư không. Trải qua thời gian lâu dài ấy, tiếp theo lại có hai mươi kiếp thành liền đến trụ. Do nghiệp lực tăng thượng của tất cả hữu tình, nên trong không dần có gió vi tế sinh khởi, là tướng hiện trước của khí thế gian sắp thành. Gió dần tăng thịnh, thành lập Phong luân, Thủy luân, Kim luân như trước đã nói. Nhưng đầu tiên là thành lập cung điện của Đại Phạm Vương, cho đến cung điện của trời Dạ-ma, sau khởi Phong luân v.v… Đó gọi là thành lập khí thế gian bên ngoài. Trước hết, một hữu tình nơi trời Cực Quang Tịnh mạng chung, sinh nơi xứ Đại Phạm làm Đại Phạm Vương. Sau, các hữu tình cũng từ nơi xứ trời kia mạng chung, có kẻ sinh nơi trời Phạm Phụ, có kẻ sinh nơi trời Phạm Chúng, có kẻ sinh nơi thiên cung Tha-hóa-tự-tại. Dần dần sinh xuống cho đến nẻo người, nơi các châu Câu Lô, Ngưu Hóa, Thắng Thân, Thiệm Bộ. Sau thì sinh vào các nẻo ngạ quỷ, bàng sinh, địa ngục. Theo pháp như thế: Hoại sau tất thành trước nhất. Nếu một hữu tình đầu tiên sinh vào địa ngục Vô Gián, thì hai mươi trung kiếp thuộc kiếp thành nên biết là đã đủ. Sau đấy lại có hai mươi trung kiếp gọi là thành rồi trụ, thứ lớp mà khởi. Nghĩa là từ gió khởi tạo khí thế gian, cho đến thời gian sau hữu tình dần trụ. Thọ lượng của người nơi châu này trải qua vô lượng thời, đến thời gian đầu của kiếp trụ, thì thọ lượng mới dần giảm. Từ vô lượng giảm đến thấp nhất là mười năm, tức gọi là trung kiếp của một kiếp trụ thứ nhất. Mười tám trung kiếp sau đấy đều tăng giảm. Nghĩa là từ mười năm đến tám vạn năm. Lại từ tám vạn năm giảm xuống đến mười năm, bấy giờ mới gọi là trung kiếp thứ hai. Mười bảy trung kiếp tiếp sau, so sánh đều như thế. Nơi phần sau trung kiếp mười tám, từ mười năm tăng đến tối đa là tám vạn năm, gọi là trung kiếp thứ hai mươi. Tất cả kiếp tăng không quá tám vạn năm. Hết thảy kiếp giảm chỉ thấp nhất là mười năm. Trong mười tám trung kiếp thời lượng của một tăng một giảm mới bằng, vì đầu giảm sau tăng. Thời lượng của hai mươi trung kiếp đều như nhau, đây gọi chung là kiếp thành rồi trụ. Ngoài ra, thành hoại cùng hoại rồi không đều không giảm tăng nơi hai mươi trung kiếp có sai biệt. Tuy nhiên, do thời lượng cùng với kiếp trụ là đồng, nên căn cứ theo trụ đều thành hai mươi trung kiếp. Trong thành, kiếp đầu khởi khí thế gian, nơi mười chín kiếp sau, hữu tình dần trụ. Trong hoại, kiếp sau giảm khí thế gian, nơi mười chín kiếp trước thì hữu tình dần bỏ.

Như vậy là đã nói về thành trụ hoại không, đều có hai mươi trung kiếp hợp thành tám mươi trung kiếp, là lượng của một Đại kiếp.

Tánh của kiếp là thế nào? Nghĩa là chỉ năm uẩn. Kinh nói phải trải qua ba A-tăng-xí-da kiếp tinh tấn tu hành mới được thành Phật. Nơi phần trước đã nêu dẫn về bốn thứ kiếp. Vậy tích tụ thứ kiếp nào để thành ba vô số kiếp? (A-tăng-xí-da kiếp). Tức tích lũy đại kiếp nêu trước làm mười, moät trăm, một ngàn, cho đến tích lập thành ba vô số kiếp. Đã nói là vô số, vì sao còn nói là ba? Không phải nói vô số là hiển bày không thể tính đếm được. Kinh Giải Thoát nói: Trong sáu mươi số, A-tăng-xí-da là một số trong số ấy. Thế nào là sáu mươi số? Như Kinh kia nói: Có một số rốt ráo khởi đầu là một. Mười lần một là mười. Mười lần mười là một trăm. Mười lần một trăm là một ngàn. Mười lần một ngàn là một vạn. Mười vạn là một Lạc-xoa. Mười Lạc-xoa là một Độ-lạc-xoa. Mười Độ-lạc-xoa là một Câu-chi. Mười Câu-chi là một Mạt-đà. Mười Mạt-đà là một A-dũ-đa. Mười A-dũ-đa là một Đại A-dũ-đa. Mười Đại A-dũ-đa là một Nadũ-đa. Mười Na-dũ-đa là một Đại Na-dũ-đa. Mười Đại Na-dũ-đa là một Bát-la-dũ-đa. Mười Bát-la-dũ-đa là một Đại Bát-la-dũ-đa. Mười Đại Bát-la-dũ-đa là một Căng-yết-la. Mười Căng-yết-la là một Đại Căng-yết-la. Mười Đại Căng-yết-la là một Tần-bạt-la. Mười Tầnbạt-la là một Đại Tần-bạt-la. Mười Đại Tần-bạt-la là một A-sô-bà. Mười A-sô-bà là một Đại A-sô-bà. Mười Đại A-sô-bà là một Tỳ-bàha. Mười Tỳ-bà-ha là một Đại Tỳ-bà-ha. Mười Đại Tỳ-bà-ha là một Ốt-thặng-già. Mười Ốt-thặng-già là một Đại Ốt-thặng-già. Mười Đại Ốt-thặng-già là một Bà-hát-na. Mười Bà-hát-na là một Đại Bà-hátna. Mười Đại Bà-hát-na là một Địa-trí-bà. Mười Địa-trí-bà là một Đại Địa-trí-bà. Mười Đại Địa-trí-bà là một Hê-đô. Mười Hê-đô là một Đại Hê-đô. Mười Đại Hê-đô là một Yết-lạp-bà. Mười Yết-lạp-bà là một Đại Yết-lạp-bà. Mười Đại Yết-lạp-bà là một Ấn-đạt-la. Mười Ấn-đạt-la là một Đại Ấn-đạt-la. Mười Đại Ấn-đạt-la là một Tam-mabát-đam. Mười Tam-ma-bát-đam là một Đại Tam-ma-bát-đam. Mười Đại Tam-ma-bát-đam là một Yết-để. Mười Yết-để là một Đại Yết-để. Mười Đại Yết-để là một Niêm-phiệt-la-xà. Mười Niêm-phiệt-la-xà là một Đại Niêm-phiệt-la-xà. Mười Đại Niêm-phiệt-la-xà là một Mụđạt-la. Mười Mụ-đạt-la là một Đại Mụ-đạt-la. Mười Đại Mụ-đạt-la là một Bạt-lam. Mười Bạt-lam là một Đại Bạt-lam. Mười Đại Bạt-lam là một San-nhược. Mười San-nhược là một Đại San-nhược. Mười Đại San-nhược là một Tỳ-bộ-đa. Mười Tỳ-bộ-đa là một Đại Tỳ-bộđa. Mười Đại Tỳ-bộ-đa là một Bạt-la-sam. Mười Bạt-la-sam là một Đại Bạt-la-sam. Mười Đại Bạt-la-sam là một A-tăng-xí-da. Ở trong số này đã thiếu mất tám số. Nếu tính Dại kiếp cho đến A-tăng-xí-da trong số này, gọi là vô số kiếp. Vô số kiếp này lại tích lập đến ba, trong kinh nói là ba vô số kiếp, không phải là các thứ toán số không thể tính đếm nhận biết, nên được nói là ba vô số kiếp.

Vì sao Bồ-tát phát nguyện phải trải qua thời gian lâu dài tinh tấn tu hành mới mong đạt được quả Phật? Do đâu phải phát nguyện tu hành trong thời gian dài như thế? Do đạo quả Bồ-đề vô thượng là rất khó đạt được. Nếu không có nhiều hành nguyện thì không thể đắc thành. Bồ-tát cần phải trải qua ba vô số kiếp, tu tập tạo tư lương là đại phước đức, trí tuệ, sáu Ba-la-mật-đa, nhiều trăm ngàn hạnh khổ mới chứng đắc Chánh đẳng Bồ-đề vô thượng. Vì thế nhất định phải phát nguyện trải qua thời gian lâu dài. Nếu tạo được phương tiện khác thì cũng chứng đắc Niết-bàn, đâu cần vì Bồ-đề mà phải tu nhiều hạnh khổ lâu xa như thế? Vì muốn đem lại lợi lạc cho tất cả hữu tình, nên cầu đạo quả Bồ-đề, phát nguyện trải qua thời gian tu hành lâu xa. Làm thế nào khiến Ta (Bồ-tát) có đủ năng lực lớn, ở nơi dòng thác khổ cứu độ các hữu tình? Vậy nên đã xả bỏ đạo Niết-bàn, cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng. Cứu độ các hữu tình khác, đối với tự thân thì có lợi ích gì? Bồ-tát cứu độ muôn vật là thuận theo tâm bi của chính mình, nên cứu độ kẻ khác tức là tạo lợi ích cho chính tự thân. Ai tin Bồ-tát có sự việc như thế? Có những hữu tình chỉ biết ôm giữ việc làm tươi nhuần bản thân, không có đại từ bi, đối với loài hữu tình như thế thì sự việc kia thật là khó tin. Nhưng với các hữu tình có tâm từ bi, không chỉ biết mỗi việc lo vun đắp cho bản thân mình, thì sự việc kia không phải là khó tin. Như có hữu tình, từ lâu đã hành tập theo tâm không biết thương xót, tuy không đem lại lợi ích gì cho bản thân, nhưng vui thích tạo tổn hại cho kẻ khác, chỗ đồng nơi thế gian tức là như vậy! Bồ-tát từ lâu đã hành tập theo từ bi, tuy không có lợi cho tự thân nhưng vui thích đem lại lợi ích cho kẻ khác. Vì sao không tin? Lại, như có hữu tình, do lực thường hành tập, nên ở nơi hành vô ngã không biết rõ về pháp hữu vi, chấp cho là ngã, sinh khởi ái chấp. Do đấy làm nhân nên phải nhận chịu các khổ. Chỗ đồng của kẻ trí tức là như thế. Bồ-tát do lực luôn hành tập, nên đã xả bỏ ngã ái của tự thân, tăng trưởng tâm bi đối với kẻ khác. Do đấy làm nhân nên sẵn sàng nhận lấy các khổ của hữu tình. Vì sao không tin? Lại do chủng tánh khác thường, nên có chí nguyện ấy khởi, xem khổ của kẻ khác là khổ của chính mình, cho an vui của kẻ khác là an vui của chính mình. Không xem khổ vui của tự thân là sự việc khổ vui của chính mình. Không thấy lìa bỏ lợi ích của kẻ khác mà riêng có lợi ích của tự thân. Dựa nơi nghĩa như thế nên có bài Tụng:

Hạ sĩ siêng phương tiện

Luôn cầu vui tự thân

Trung sĩ cầu diệt khổ

Không phải vui khổ dựa.

Thượng sĩ thường siêng cầu

Tự khổ, tha an vui

Cùng tha khổ mãi diệt

Do tha cũng là tự.

Như vậy là đã biện về lượng kiếp có sai biệt. Chư Phật, Độc giác xuất hiện nơi thế gian là vào thời kỳ kiếp tăng, hay là vào phần vị kiếp giảm?

* Tụng viết:

Giảm tám vạn đến trăm

Chư Phật hiện thế gian

Độc giác thời tăng giảm

 Lân giác dụ trăm kiếp.

* Luận nêu: Theo thọ lượng của người nơi châu này, từ tám vạn năm dần giảm cho đến thọ lượng nhiều nhất là một trăm năm. Ở trong khoảng này, chư Phật xuất hiện. Vì sao nơi phần vị tăng không có Phật xuất hiện? Do hữu tình vui thích nơi thọ lượng tăng, khó giáo hóa để chán bỏ. Vì sao nơi thời kỳ thọ lượng giảm từ một trăm xuống đến thấp nhất, không có Phật xuất hiện? Vì năm trược rất tăng, khó có thể giáo hóa. Nói năm trược: Tức: (1) Thọ mạng trược. (2) Kiếp trược. (3) Phiền não trược. (4) Kiến trược. (5) Hữu tình trược. Kiếp giảm sắp đến thời kỳ cuối cùng, thọ mạng v.v… đều thô xấu, thấp kém như các thứ cặn uế tạp nên nói là trược. Do hai thứ trược trước (Thọ mạng trược, Kiếp trược), như thứ lớp ấy, thọ mạng và các thứ vật dụng nuôi sống thọ mạng đều bị suy tổn. Do hai thứ trược tiếp theo (Phiền não trược, Kiến trược) nên phẩm thiện suy tổn. Do tham đắm dục lạc, tự hành khổ, nên hoặc tổn hại pháp thiện của người tại gia, hoặc tổn hại hành thiện của người xuất gia. Do một thứ trược sau (Hữu tình trược) đã làm suy tổn tự thân. Nghĩa là tổn hại về thân lượng, sắc lực, suy niệm, trí tuệ, sức tinh tấn của tự thân cùng tạo bệnh tật. Độc giác xuất hiện chung nơi thời kỳ kiếp tăng, giảm. Nhưng các Độc giác có hai loại khác nhau: (1) Bộ hành. (2) Lân giác dụ. Độc giác bộ hành: Trước là Thanh văn lúc đạt được quả thù thắng thì chuyển gọi là Độc Thắng. Có Sư khác cho: Chư vị Độc giác kia trước là phàm phu đã từng tu theo thuận phần quyết trạch của Thanh văn, khiến tự chứng đạo được danh hiệu là Độc Thắng. Do trong Bản sự nói: Nơi một ngọn núi gồm có năm trăm vị Tiên tu khổ hạnh. Có một con khỉ từng sống gần với một vị Độc giác, thấy rõ oai nghi của vị kia, rồi lần lượt du hành đến trụ xứ của năm trăm vị Tiên ấy, hiện bày lại những oai nghi của vị Độc giác mà mình đã bắt chước. Các Tiên trông thấy đều sinh kính mộ. Trong chốc lát thảy đều chứng đắc Bồ-đề Độc giác. Các Tiên này nếu trước là Thánh nhân, tức không nên tu khổ hạnh. Lân giác dụ: Nghĩa là các vị đều sống một mình. Trong hai loại Độc giác, thì Lân giác dụ phải trải qua một trăm đại kiếp tu tập các thứ là hành trang cho sự giác ngộ (Tư lương Bồ-đề), sau đấy mới thành tựu Độc giác Lân giác dụ. Nói Độc giác: Nghĩa là trong hiện thân không nhờ dựa vào Thánh giáo, chỉ tự mình giác ngộ đạo. Do chỉ có thể tự điều phục nhưng không thể giáo hóa kẻ khác nên gọi là Độc giác. Vì sao nói Độc giác không giáo hóa người khác? Không phải chư vị Độc giác không thể diễn nói chánh pháp, do họ cũng đạt được vô ngại giải. Lại có thể nhớ nghĩ về Thánh giáo do chư Phật quá khứ tuyên thuyết và họ đã được nghe, lãnh hội. Lại không thể nói là bậc Độc giác không có từ bi, vì họ đã từng hiện bày thần thông để gồm thâu hữu tình. Lại cũng không thể nói là Độc giác không thọ nhận cơ duyên của pháp. Bấy giờ hữu tình cũng có khả năng phát khởi đạo thế gian đối trị để lìa dục. Tuy có các lý ấy, nhưng do chư vị Độc giác từ trước đã hành tập thiếu vui thích về thắng giải, không nêu bày hy vọng. Lại biết hữu tình khó thọ nhận pháp thâm diệu, do hữu tình từ lâu xa đã thuận lưu khó khiến họ nghịch lưu. Lại thường xa lánh việc giáo hóa đồ chúng, nên không vì kẻ khác tuyên thuyết chánh pháp, vì e sợ các thứ phiền tạp tán loạn.

Chuyển luân Thánh vương xuất thế là vào thời nào? Có bao nhiêu loại? Hình tướng và oai đức như thế nào?

* Tụng viết:

Luân Vương trên tám vạn

Kim Ngân Đồng Thiết Luân

Một hai ba bốn châu

Ngược lớp, riêng như Phật.

Khác đón, tự đến hóa

Tranh, trận, thắng không hại

Tướng không thẳng, tròn sáng

Nên so Phật không bằng.

* Luận nêu: Theo thọ lượng của con người nơi châu này, từ thời là vô lượng năm, cho đến khi giảm xuống còn tám vạn năm thì có Chuyển Luân Vương sinh. Thời kỳ giảm dưới tám vạn năm, thì thọ lượng phước lạc của hữu tình đều tổn giảm, các thứ ác dần thịnh, không phải là nơi chốn, hoàn cảnh thuận tiện cho bậc Đại nhân xuất hiện hành hóa, nên không có Luân Vương. Vương này do xe xoay chuyển dẫn đường, dùng uy đức hàng phục tất cả nên gọi là Chuyển Luân Vương. Trong Luận Thi Thiết Túc nói có bốn loại: Là Kim Luân, Ngân Luân, Đồng Luân và Thiết Luân, nên riêng khác. Như thứ lớp ấy là hơn hết, trung bình và thấp nhất. Ngược với thứ lớp ấy là có thể làm vua cai quản một châu, hai châu, ba châu, bốn châu. Nghĩa là Thiết Luân Vương làm vua cai quản một châu. Đồng Luân Vương hai châu. Ngân Luân Vương ba châu. Nếu là Kim Luân Vương thì làm vua cai quản bốn châu. Khế kinh theo chỗ hơn hẳn, chỉ nói về Kim Luân Vương. Khế kinh nói: Nếu một vị vua thuộc chủng tộc Sát-đế-lợi, nối ngôi vị Quán đảnh, vào ngày mười lăm, lúc thọ trai giới đã tắm gọi đầu, thân, nhận lấy trai giới thù thắng, bước lên đài cao nơi cung điện, có các quan tháp tùng. Bấy giờ nơi phương Đông hốt nhiên có bánh xe báu bằng vàng hiện ra. Bánh xe ấy có ngàn nan hoa, đầy đủ bầu xe, vành xe. Các tướng đều viên tịnh, như thợ khéo léo tạo thành, tỏa ra ánh sáng tươi đẹp, bay đến đúng nơi chỗ vua, thì vị vua này nhất định là Kim Chuyển Luân Vương. Các vị Chuyển Luân Vương khác nên biết cũng như thế.

Chuyển Luân Vương như Phật, tức không có hai vị cùng sinh. Như nơi Khế kinh nói: Không xứ không vị, không phải trước không phải sau, có hai Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác xuất hiện nơi thế gian. Có xứ có vị, chỉ một Đức Như Lai. Như nói về Như Lai thì Chuyển Luân Vương cũng như vậy.

Ở đây nên xét chọn kỹ. Nói chỉ một là căn cứ theo một Tam thiên thế giới hay là căn cứ theo tất cả thế giới? Có thuyết nói: Nơi thế giới khác nhất định không có Phật sinh. Vì sao? Vì chớ nên cho là công năng của Đức Bạc-già-phạm bị trở ngại. Tức chỉ một Đức Thế Tôn, đối với khắp mười phương đều có thể giáo hóa. Nếu có một xứ ở đấy một Đức Phật không thể giáo hóa, thì các Đức Phật khác cũng nên như thế. Lại như Khế kinh viết: Đức Thế Tôn nói với Tôn giả Xá-lợi-tử: Nếu như có người đến chỗ của ông hỏi như vầy: Từng có Phạm chí, Sa-môn chính vào thời hiện nay, cùng với Kiều-đáp-ma (Cù-đàm) là ngang bằng, ngang bằng vì đã chứng đắc Chánh giác vô thượng chăng? Ông được người ấy hỏi như vậy thì nên trả lời như thế nào? Tôn giả Xá-lợi-tử thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Con được người ấy hỏi như thế, tức nên đáp: Hiện nay không có Phạm chí, Sa-môn nào, chứng đắc Bồ-đề vô thượng cùng với Đức Thế Tôn của con là ngang bằng. Sở dĩ con trả lời như thế là vì con theo Đức Thế Tôn, tự thân được nghe được thọ trì lời thuyết giảng của Phật: Không xứ không vị, không phải trước không phải sau, có hai Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác xuất hiện nơi thế gian. Có xứ có vị, chỉ một Đức Như Lai.

Nếu như thế thì vì sao nơi Kinh Phạm Vương nói: Ta nay ở trong các thế giới của Tam thiên đại thiên này được tự tại chuyển.

Kinh ấy có mật ý. Mật ý này là thế nào? Nghĩa là nếu Đức Thế Tôn không khởi gia hạnh, thì chỉ có thể quán xét Tam thiên đại thiên này. Nếu khi Đức Thế Tôn phát khởi gia hạnh, thì vô biên thế giới đều là cảnh giới của mắt Phật. Các thứ như thiên nhĩ thông v.v… tức nên đối chiếu theo đây để nhận biết.

Có Sư của Bộ khác cho: Nơi thế giới khác cũng riêng có Phật xuất hiện nơi thế gian. Vì sao? Vì có nhiều Bồ-tát hiện cùng tu tập tạo các hành trang của Bồ-đề. Một cõi một thời có thể không có nhiều Phật. Nhưng nơi nhiều thế giới có nhiều Phật, lý ấy sao có thể ngăn chận. Thế nên trong vô biên thế giới, có vô biên Đức Phật xuất hiện. Nếu chỉ có một Đức Phật, giả như thời gian an trụ là một kiếp, hãy còn không thể hành hóa Phật sự trọn khắp nơi một thế giới, huống chi thọ lượng của Đức Phật chỉ bằng thọ lượng của con người, thì sao có thể tạo lợi ích cho vô biên thế giới. Lại, các hữu tình cư trú nơi vô biên thế giới, thời xứ căn tánh có vô số sai biệt. Đức Phật nên quán xét khắp các loại hữu tình ấy, thời xứ như thế nên được gặp Đức Thế Tôn, Phật liền ứng cơ hiện thần thông thuyết pháp, khiến các hữu tình ấy, lỗi lầm chưa sinh thì không sinh, các thứ lỗi lầm đã sinh tức có thể khiến đoạn dứt. Lại khiến các công đức chưa sinh thì được sinh, đã sinh rồi thì có thể khiến viên mãn. Như vậy, làm sao một Đức Phật đối với những sự việc ấy có thể nhanh chóng thành tựu? Thế nên đồng thời nhất định có nhiều Đức Phật xuất hiện. Vậy thì những đoạn kinh đã được nêu dẫn: “Không xứ không vị, không phải trước không phải sau, có hai Đức Như Lai xuất hiện nơi thế gian v.v…” phải nên cùng xét chọn. Lời ấy là nói về một thế giới hay nhiều thế giới? Nếu nói về nhiều thế giới, thì Chuyển Luân Vương, trong thế giới khác cũng nên không có, do nói như Đức Phật, không có hai vị cùng sinh. Nếu cho Chuyển Luân Vương nơi thế giới khác là riêng có, thì vì sao không thừa nhận nơi thế giới khác riêng có Phật. Phật xuất hiện nơi thế gian luôn gồm đủ phước đức an lành. Nhiều thế giới, nhiều Đức Phật, có gì sai trái mà không công nhận? Nghĩa là trong nhiều thế giới, chư Phật cùng xuất hiện liền có thể tạo lợi ích cho vô lượng hữu tình, khiến lợi kia được sinh khởi tăng thượng cùng quyết định về đạo thù thắng đối với các hữu tình.

Nếu thế do đâu trong một thế giới không có hai Đức Như Lai cùng thời xuất hiện? Do vô dụng. Nghĩa là trong một thế giới thì một Đức Phật là đủ công năng tạo lợi ích cho tất cả. Lại do nguyện lực. Tức chư Như Lai, vào thời làm Bồ-tát, trước đã phát thệ nguyện: Nguyện tôi sẽ ở trong thế giới tối tăm không người cứu độ, không nơi nương dựa, thành tựu đạo quả Đẳng Chánh Giác, đem lại lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình. Vì cứu độ, vì làm chỗ nương dựa, là mắt, là dẫn đường. Lại khiến kính trọng. Nghĩa là trong một thế giới chỉ có một Đức Như Lai, tức sự kính trọng thêm sâu lớn. Lại khiến mau chóng hành trì. Nghĩa là khiến cho hữu tình nhận biết về bậc Nhất thiết trí như thế là rất tôn quý, rất khó được gặp. Giáo pháp đã được Đức Phật tạo lập, phải nên mau chóng tu tập, chớ để Đức Phật nhập Niết-bàn hoặc đi đến xứ khác, khiến chúng ta trở thành những kẻ “Không người cứu độ, không chốn nương dựa”. Do vậy, trong một thế giới không có hai Đức Phật xuất hiện.

Như thế là đã nói về bốn loại Chuyển Luân Vương. Các Chuyển Luân Vương này do uy đức để an định các phương cũng có khác nhau. Nghĩa là Kim Luân Vương, thì các Tiểu quốc vương đều tự tìm đến để nghinh đón vị này và thưa thỉnh: Cõi nước của chúng tôi là rộng lớn, giàu có, thịnh vượng an ổn, dân chúng đông đảo, kính mong Thiên Tôn chiếu cố giáo hóa, chúng tôi đều là thuộc hạ của Thiên Tôn.

Nếu là Ngân Luân Vương thì phải tự thân đi đến nơi các Tiểu quốc kia, do uy đức tôn nghiêm nên khi đến nơi thì Tiểu vương, quần thần, dân chúng đều thần phục. Nếu là Đồng Luân Vương, tức cũng tự thân đi đến các Tiểu quốc vương, đến nơi thì nêu uy tranh đức mới khiến các Tiểu quốc thần phục. Trường hợp của Thiết Luân Vương cũng phải đi tới các Tiểu quốc vương kia, hiện rõ uy lực, bày biện thế trận, chứng tỏ tất thắng mới có được sự thần phục. Tất cả các Luân Vương đều không bị sát hại. Tạo được sự thần phục nơi các Tiểu quốc rồi, chư vị đều an trụ nơi bản quốc, giáo hóa dân chúng khiến tu mười nghiệp đạo thiện. Thế nên Luân Vương qua đời thì nhất định được sinh thiên. Kinh nói Luân Vương xuất hiện nơi thế gian liền có bảy báu cùng xuất hiện ở đời. Những gì là bảy báu? Đó là: (1) Bánh xe báu. (2) Voi báu. (3) Ngựa báu. (4) Ngọc báu. (5) Nữ báu. (6) Quan chủ kho báu. (7) Quan chủ binh báu. Năm báu như voi v.v… là thuộc về số hữu tình. Vì sao nghiệp khác sinh ra hữu tình khác? Không phải hữu tình khác từ nơi nghiệp khác khởi. Nhưng do trước đã tạo nghiệp cùng hệ thuộc nhau. Trong ấy nếu một hữu tình nhận lấy tự nghiệp sinh, thì số còn lại cũng cùng thời nhân nơi tự nghiệp khởi.

Như thế là đã nói về các Chuyển Luân Vương. Không phải chỉ có bảy báu so với các vua khác. Các Luân Vương này cũng có ba mươi hai tướng đặc thù của bậc Đại sĩ. Nếu như vậy thì Luân Vương cùng với Phật có gì khác nhau? Tướng Đại sĩ của Đức Phật hiện bày ở những vị trí chính đáng cùng tỏa sáng viên mãn. Tướng của Luân Vương thì không được như thế, nên có sai biệt.

Con người sống vào thời kỳ đầu của một kiếp có vua không?

* Tụng viết:

Đầu kiếp như trời sắc

Sau dần tăng tham vị

Do đọa: Trữ, giặc khởi

Phòng vệ: Người giữ ruộng.

* Luận nêu: Con người sống vào thời kỳ đầu của một kiếp đều như hữu tình nơi cõi sắc. Nên như Khế kinh nói: “Con người nơi thời kỳ đầu của kiếp là có sắc, do ý thành, chi phần nơi thân tròn đủ, các căn không thiếu, hình dáng đoan nghiêm, thân tỏa ánh sáng, bay lên không trung tự tại, ăn uống tùy thích, thọ mạng lâu dài”. Có loại vị của đất như thế dần sinh. Vị ấy ngon ngọt, hương thơm ngào ngạt. Lúc này có một người bẩm tính tham đắm mùi vị, khi ngửi mùi hương kia, tức khởi yêu thích, nếm thử rồi ăn. Những người khác thấy vậy liền tranh nhau nhận lấy để ăn. Bấy giờ mới gọi là bắt đầu dùng đến đoạn thực. Do đoạn thực nên thân dần rắn chắc nặng nề. Ánh sáng nơi tự thân cũng ẩn mất, bóng tối liền sinh. Mặt trời, mặt trăng, các vì sao từ đấy xuất hiện. Vì tham đắm nơi vị tăng dần nên vị của đất liền hết. Sau đấy lại có một thứ “Bánh da đất” sinh khởi, các hữu tình lại tranh nhau dùng loại bánh kia làm thức ăn, nên lâu dần rồi cũng hết. Khi ấy lại có một loại “Dây leo rừng” xuất hiện, các hữu tình cũng lại tranh nhau dùng thứ dây leo này làm thức ăn, chẳng bao lâu cũng hết. Lại có một thứ lúa thơm không cần phải gieo trồng, từ nơi đất mọc lên, các hữu tình cũng cùng nhau thu hoạch để làm thức ăn nuôi thân. Thức ăn này thô nặng, khi ăn vào đã để lại các chất uế tạp trong thân thể. Vì muốn trừ bỏ chúng nên nơi thân liền sinh hai đường (Bài tiết và sinh dục). Nhân đấy mới có nam căn nữ căn. Do hai căn khác nhau nên hình tướng cũng khác. Do sức mạnh đã hành tập từ đời trước nên các hữu tình nam nữ liền cùng nhìn ngắm nhau, nhân đấy bèn sinh tác ý phi lý, loài yêu quỷ dục tham làm mê hoặc, tán loạn thân tâm, khiến mọi hiểu biết mất hết, trở thành cuồng điên, hành phi phạm hạnh. Quỷ dục trong con người bắt đầu phát khởi từ lúc này. Thời kỳ ấy, các hữu tình tùy theo bữa ăn sáng, chiều, chỉ theo đấy lấy thức ăn cho hai bữa trong ngày, chưa nghĩ đến việc tích trữ. Sau đó, có người bẩm tính biếng nhác, đã lấy nhiều lúa thơm kia để dành cho những bữa ăn tiếp theo, khỏi phải đi lấy nhiều lần. Các hữu tình khác thấy vậy cũng làm theo, dần dần tích trữ nhiều lên. Nhân nơi sự tích trữ thức ăn này, ý niệm về “Ngã sở” đã phát sinh, tâm tham mặc sức tranh nhau thâu tóm nhiều thức ăn cho mình càng nhiều, không biết chán, và thứ lương thực ấy cũng cạn kiệt. Đến lúc này mới cùng nhau phân chia ruộng đất, nghĩ tới việc ngăn giữ bảo vệ. Đối với phần ruộng đất của mình thì sinh tâm keo kiệt, quyết giữ lấy. Đối với phần ruộng đất của kẻ khác thì manh tâm xâm đoạt. Đây là thời kỳ con người bắt đầu dấy khởi trộm cướp. Vì muốn ngăn chận trộm cướp, các hữu tình đã cùng tụ họp bàn luận, đồng ý chia một phần sáu số lúa thu hoạch được từ ruộng cho một người có tài đức đứng ra bảo vệ mùa màng, người này được phong là điền chủ. Nhân đấy nên lập danh hiệu Sát-đế-lợi. Khi người này được tạo uy tín khiến đại chúng kính phục vâng theo, ân ban đến khắp, thống lĩnh cả cõi, nên lại gọi là vua Đại Tam Mạt Đa. Từ đấy về sau có các vua trị nước là bắt đầu từ vị vua này. Lúc ấy, có những hữu tình chán bỏ đời sống gia đình, vui thích trụ nơi chốn vắng vẻ, tịnh tu giới hạnh, nhân đó nên được gọi là Bà-la-môn. Thời gian sau, có vua quá tham lam thâu tóm tài sản, vật dụng, không thể đem lại cơm áo no ấm cho muôn dân, khiến những kẻ nghèo đói phải đi trộm cắp. Để ngăn cấm sự việc này, nhà vua đã đặt ra những hình phạt nặng nhẹ để xử trị. Nghiệp sát hại khởi đầu từ thời này. Có những tội nhân do sợ hãi về hình phạt, nên che giấu tội lỗi của mình, nói thưa theo tưởng khác và ngôn ngữ hư dối bắt đầu phát sinh.

Nơi phần vị kiếp giảm, có ba thứ tai họa nhỏ xuất hiện. Tướng của chúng là thế nào?

* Tụng viết:

Nghiệp đạo tăng, thọ giảm

Đến mười, ba tai hiện

Là đao binh, bệnh, đói

Bảy ngày tháng năm dứt.

* Luận nêu: Từ khi các hữu tình khởi ngôn ngữ hư dối, thì các nghiệp đạo ác càng về sau càng tăng. Thọ lượng của con người ở châu này dần giảm, cho đến thấp nhất là chỉ còn mười năm, tức thì có ba tai họa nhỏ xuất hiện. Nên các tai họa là do hai pháp làm gốc. Là tham đắm thức ăn ngon và tánh lười biếng. Ba tai họa nhỏ này dấy khởi vào cuối trung kiếp. Ba tai họa là: (1) Đao binh. (2) Bệnh tật. (3) Đói khát. Nghĩa là vào thời kỳ sau cùng của trung kiếp, lúc thọ lượng của con người chỉ còn mười năm, tâm con người chứa đầy tham lam phi pháp, ái dục không bình đẳng, nhiễm ô nối tiếp, pháp tà vây buộc, giận độc tăng nhiều. Cùng thấy nhau liền khởi tâm sát hại mãnh liệt. Như hiện nay thợ săn thấy các loài cầm thú hoang dã. Tùy trong tay đang cầm nắm vật gì đều thành đao bén. Đều mặc sức hung dữ tàn hại lẫn nhau. Lại, vào thời kỳ cuối của trung kiếp, lúc thọ lượng của con người chỉ còn mười năm, do có đủ các thứ tội lỗi như trước, nên hàng phi nhân tuôn ra các thứ bệnh dịch độc hại lan truyền khắp. Hữu tình mắc phải tức thì mạng chung khó có thể cứu chữa. Lại, cũng trong thời kỳ ấy, do cũng có đủ các thứ lỗi lầm như trước, nên hàng trời rồng giận trách, không tạo mưa gió thuận hợp. Như vậy là thế gian gặp phải đói khát kéo dài. Đã không thể chống đỡ hoặc được cứu giúp nên đa số là tử vong. Vì vậy nên nói: Do đói khát tức có ba thứ là Tụ tập, Xương trắng và Vận trù (Dùng thẻ). Từ hai thứ nhân, nên gọi là có Tụ tập. (1) Người tụ tập: Nghĩa là vào thời ấy, con người vì quá đói khát, suy yếu nên tụ tập mà chết. (2) Chủng loại tụ tập: Nghĩa là vào thời ấy, các hữu tình vì tạo lợi ích cho lớp người sau, nên đã bớt đi một ít lương thực đem bỏ vào trong một cái tráp nhỏ, xem đấy là hạt giống. Nên vào thời kỳ đói khát này gọi là có tụ tập. Nói có Xương trắng cũng do hai nhân: (1) Vào thời ấy thân hình của các hữu tình đều khô gầy, ốm đói, mạng chung chưa lâu thì xương trắng liền hiện. (2) Cũng vào thời ấy, do đói khát bức bách, nên các hữu tình còn sống sót đã tập hợp các thứ xương trắng lại để đun sôi làm nước uống. Nói có Vận trù cũng do hai nhân: (1) Do lương thực quá ít, nên phải hành trù (Phát thẻ) để ăn. Nghĩa là trong một gia đình, từ người lớn cho đến trẻ con, tùy theo chiếc thẻ (Trù) đã nhận, đến ngày được ăn chút ít thức ăn thô. (2) Dùng chiếc thẻ để khều lượm, tập hợp các hạt lúa còn sót nơi đất, đem đun sôi chia nhau uống, sống qua ngày. Nhưng có Thánh giáo nói có thể đối trị các trường hợp kia. Nghĩa là: Nếu có hữu tình có thể trong một ngày một đêm giữ giới không sát sinh, thì nơi đời vị lai quyết định không gặp phải tai họa đao binh. Hoặc nếu có hữu tình có thể dùng một quả Ha-lê-đát-kê, khởi tâm hoàn toàn thanh tịnh, phụng thí Tăng chúng, thì nơi đời vị lai quyết định không gặp phải tai họa bệnh tật. Hoặc nếu có hữu tình có thể dùng một nắm thức ăn, khởi tâm toàn tịnh phụng thí Tăng chúng, thì ở đời vị lai quyết định không gặp tai họa đói khát dấy khởi.

Ba thứ tai họa này khởi đều trải qua bao nhiêu thời gian? Tai họa đao binh dấy khởi chỉ kéo dài trong vòng bảy ngày. Tai họa bệnh tật kéo dài trong bảy tháng bảy ngày. Tai họa đói khát kéo dài trong bảy năm bảy tháng bảy ngày. Qua thời gian ấy thì dứt, thọ lượng của con người dần tăng. Hai châu Đông, Tây chỉ có tai họa tương tợ khởi. Nghĩa là giận dữ tăng thịnh thì thân lực suy kém, thường gia tăng đói khát. Châu Bắc thì hoàn toàn không có ba tai họa kia.

Trước nói về hỏa tai thiêu đốt thế giới, các tai họa khác cũng thế. Như chỗ ứng hợp nên nói. Vậy thế nào là các tai họa khác? Nay sẽ biện đủ.

* Tụng viết:

Ba tai: Lửa, nước, gió

Ba định trên là đỉnh

Như thứ lớp nội tai

Bốn không, do bất động

Như khí kia chẳng thường

Tình đều cùng sinh diệt

Nên bảy lửa một nước

Bảy nước lửa, sau gió.

* Luận nêu: Ba tai họa lớn này bức bách loài hữu tình, khiến xả bỏ địa dưới, tập hợp nơi các trời ở trên. Trước hết là hỏa tai (Tai họa do lửa) hưng khởi do bảy mặt trời xuất hiện. Tiếp đến là thủy tai (Tai họa do nước) khởi do mưa lớn. Sau là phong tai (Tai họa do gió) sinh, do gió dữ va đập. Sức mạnh của ba tai họa này hủy hoại khí thế gian, cho đến cực vi cũng không tồn tại. Một loại ngoại đạo cho cực vi là thường hằng. Họ bảo: Bấy giờ cực vi khác vẫn còn. Do đâu ngoại đạo kia cho là cũng còn có cực vi khác? Vì nếu không như thế thì về sau các sự vật thô sinh khởi không có chủng tử. (Luận chủ): Trước đây đã nói: Do nghiệp lực của các hữu tình nên đã sinh khởi gió có thể làm chủng tử. Hoặc ở đây, tức do gió nơi đỉnh của tai họa trước làm duyên, dẫn sinh gió làm chủng tử. Lại như trong Khế kinh của Hóa Địa Bộ nói: Gió từ nơi phương khác thổi tới có mang theo chủng tử. (Thắng Luận) Tuy vậy, vẫn không thừa nhận mầm mộng v.v… lúc sinh là từ chủng tử, vì chủng tử ấy chỉ là nhân gần đã dẫn khởi. Nếu thế thì mầm cây v.v… từ gì mà sinh? Là từ tự phần sinh. Tự phần như thế lại từ tự phần, lần lượt cho đến các phần vi tế nhất là từ cực vi sinh. Vậy ở trong các mầm cây v.v… được sinh, chủng tử v.v… có lực dụng gì? Ngoài trừ khả năng dẫn tập cực vi của mầm cây v.v…, chủng tử lại không lực dụng gì trong việc sinh ra mầm cây v.v… Do đâu nhất định tạo nên luận điểm như thế? Từ dị loại sinh quyết định là không hợp lý. Không hợp lý gì? Tức nên là vô định. Công năng định rõ nên không có lỗi chẳng định. Như âm thanh, sự nấu chín v.v… đã biến đổi v.v… là từ dị loại quyết định sinh. Nhưng đức pháp thì có khác. Pháp thật thì không như vậy. Hiện thấy pháp thật chỉ từ nơi đồng loại sinh. Như bụi dây leo sinh nhánh lá, sợi vải sinh ra áo v.v… Tỷ dụ này là không hợp lý. Vì sao là không hợp lý? Vì đã dẫn pháp không cực thành để làm năng lập. Nay, chỗ nêu dẫn ấy vì sao là không cực thành? Vì không thừa nhận bụi dây leo, nhánh lá, sợi vải, y phục là riêng khác. Tức bụi dây leo, sợi vải phải kết hợp sắp đặt không giống nhau mới được mang tên là nhánh lá, y phục v.v… Lại, tức ở nơi sắc v.v… lập tên gọi là cực vi, nên lúc sắc v.v… diệt thì cực vi cũng diệt. Phần tranh biện rộng đối nơi Tông kia nên dừng.

Ba tai họa này, đỉnh cao là ở nơi xứ nào? Tĩnh lự thứ hai là đỉnh cao của hỏa tai. Bên dưới của địa này đều bị lửa thiêu đốt hết. Tĩnh lự thứ ba là đỉnh cao của thủy tai. Từ bên dưới địa này trở xuống là đều bị nước nhận chìm, hủy diệt. Tĩnh lự thứ tư là đỉnh cao của phong tai. Bên dưới địa này đều bị gió thổi tan. Tùy theo bên trên tai họa nào (Phần còn tồn tại) thì gọi là đỉnh cao của tai họa ấy.

Vì sao ba định dưới (Tĩnh lự thứ nhất, tĩnh lự thứ hai và tĩnh lự thứ ba) phải chịu lấy ba tai họa của lửa, nước và gió? Do trong ba định ấy đã có tai họa từ bên trong (Nội tai). Nghĩa là nơi tĩnh lự thứ nhất thì tầm tứ là nội tai, có thể thiêu đốt, não hại tâm, giống với hỏa tai bên ngoài. Trong tĩnh lự thứ hai thì hỷ thọ là nội tai. Khi hỷ thọ tương ưng với khinh an thì cùng làm thấm ướt thân như nước. Thô trọng khắp thân do đấy đều trừ. Nên Khế kinh nói khổ căn bị diệt nơi tĩnh lự thứ hai. Nơi tĩnh lự thứ ba, hơi thở chuyển động là nội tai, do hơi thở cũng là gió giống như phong tai bên ngoài. Nếu nhập tĩnh lự này có tai họa bên trong như thế, thì lúc tĩnh lự ấy sinh là gặp phải tai họa bên ngoài hủy hoại. Vì sao không lập địa chủng cũng là tai họa như hỏa, thủy v.v…? Do khí thế gian tức là địa (Dất) chỉ có thể cùng với lửa, nước, gió là cùng trái nhau, không thể nói là đất trở lại cùng mâu thuẫn với đất. Tĩnh lự thứ tư vì sao không có tai họa bên ngoài? Vì nơi xứ này đã lìa tai họa bên trong. Như Đức Phật nói: Tĩnh lự thứ tư gọi là bất động. Ba thứ tai họa bên ngoài đều cùng không đến.

Có thuyết cho: Tĩnh lự thứ tư không có các thứ tai họa là do có uy lực của trời Tịnh Cư ở trong xứ này. Trời Tịnh Cư kia không thể sinh lên cõi vô sắc, lại cũng không thể đi đến xứ khác thuộc địa thấp hơn. Nếu vậy thì khí thế gian nơi địa ấy nên là thường hằng? Không phải thế. Tức khí thế gian đó cùng với hữu tình cùng sinh cùng diệt. Nghĩa là xứ trời ấy không có địa hình chung, chỉ như các ngôi sao, xứ cư trú đều riêng khác. Các hữu tình ở nơi các xứ kia lúc sinh lúc diệt, thì các thiên cung đã được cư trú cũng theo đấy mà khởi, diệt. Thế nên, Thể của khí thế gian nơi tĩnh lự kia cũng không phải là thường hằng.

Đã nói về ba tai họa. Vậy thứ lớp của chúng là thế nào? Tức trước là bảy hỏa tai dấy khởi nối tiếp nhau không gián đoạn. Thứ đến nhất định là một thủy tai. Sau đấy lại có một loạt bảy hỏa tai dấy khởi không gián đoạn. Qua khỏi bảy hỏa tai, trở lại có một thủy tai. Như thế cho đến đủ bảy lần thủy tai sau mỗi loạt bảy hỏa tai. Sau cùng là phong tai dấy khởi. Như vậy là tổng cộng có năm mươi hỏa tai, bảy thủy tai và một phong tai phát khởi. Vì sao như thế? Là do hữu tình kia đã tu nhân định, nên ở nơi cõi trên là dần hơn, chiêu cảm thọ lượng của thân cũng dần lâu dài. Do đấy nơi chốn cư trú cũng dần trụ lâu dài hơn. Thế nên Luận Thi Thiết Túc đã giải thích chính xác khi nói chư thiên nơi trời Biến Tịnh có thọ lượng là sáu mươi bốn kiếp.

HẾT – QUYỂN 12