LUẬN A TỲ ĐẠT MA CÂU XÁ
Tác giả: Tôn giả Thế Thân
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ 

 

QUYỂN 4

Phẩm thứ 2: PHÂN BIỆT CĂN, phần 2.

Nay nên xét chọn. Tất cả pháp hữu vi theo như tướng là chẳng đồng. Sinh cũng đều khác vì có các pháp quyết định cùng sinh. Có quyết định cùng sinh, nghĩa là tất cả pháp lược có năm loại: (1) Sắc. (2) Tâm. (3) Tâm sở. (4) Tâm bất tương ưng hành. (5) Vô vi. Vô vi là không sinh nên ở đây không nói. Nay trước là biện về phần quyết định cùng sinh của sắc.

* Tụng viết:

Dục vi tụ không thanh

Không căn có tám sự

Có thân căn chín sự

Mười sự có căn khác.

* Luận nêu: Tụ sắc cực nhỏ lập tên là vi tụ, là làm rõ lại không còn thứ nào nhỏ hơn đấy. Ở đây tại cõi dục là không thanh không căn. Tám sự cùng sinh theo một không giảm. Thế nào tám sự? Là bốn đại chủng cùng bốn thứ được tạo là sắc, hương, vị, xúc. Các tụ cực vi không thanh có căn thì sự cùng sinh này hoặc chín hoặc mười. Tụ có thân căn là chín sự cùng sinh. Tám sự như trước, thân là thứ chín. Tụ có căn khác là mười sự cùng sinh. Chín sự như trước, thêm một căn như mắt. Mắt tai mũi lưỡi tất không lìa thân. Lầm lượt cùng hướng đến xứ đều riêng khác. Nơi các tụ trước, nếu có thanh sinh, như thứ lớp về số tăng chín, mười, mười một. Do đó thanh xứ không lìa căn sinh. Nghĩa là có chấp thọ nhân của đại chủng để khởi. Nếu bốn đại chủng không cùng lìa nhau sinh, thì ở trong các tụ có đủ cứng ướt nóng động. Thế nào là tùy theo một có thể đạt được không phải là thứ khác? Do ở trong tụ kia, thế dụng tăng, nhận biết rõ là có thể đạt được. Thể khác không phải là không có. Như nhận biết mũi nhọn của cây kim cùng với chiếc thẻ hợp xúc chạm. Như nếm vị mặn cùng hợp với vị bột gạo khô. Thế nào là ở nơi vật kia nhận biết cũng có khác? Là do có nghiệp đã gồm thâu, thành thục, tăng trưởng, duy trì. Có thuyết nói: Gặp được duyên cứng chắc v.v… liền có tướng trôi chảy v.v…, như trong tụ nước do rất lạnh nên có tướng nóng khởi. Tuy không cùng lìa nhưng dụng của lạnh tăng. Như thọ cùng với dụng của âm thanh có hơn kém. Có Sư khác cho: Ở trong tụ này, số còn lại có chủng tử, chưa có thể tướng. Khế kinh nói: Ở trong tụ cây có vô số giới. Giới nghĩa là chủng tử, (Kinh Bộ): Vì sao trong gió nhận biết là có hiển sắc? (Tỳ-bà-sa): Nghĩa này có thể tin, không thể so sánh để nhận biết. Hoặc chỗ hợp hương hiện khởi có thể nhận lấy. Do hương cùng với hiển sắc không lìa nhau. Trước đã nói nơi cõi sắc, hương vị đều không có. Cõi kia không thanh thì có sáu, bảy, tám sự cùng sinh. Có thanh thì có bảy, tám, chín sự cùng sinh. Ở đây có thể căn cứ theo chỗ đã nêu để nhận biết nên không nói riêng. Tại đây nói sự là dựa nơi Thể để nói hay là dựa vào xứ để nói? Nếu thế thì có lỗi gì? Cả hai cùng có lỗi. Nếu dựa nơi Thể để nói, thì có tám, chín, mười v.v… liền là rất ít. Do các vi tụ tất có hình sắc, có nhiều cực vi cùng tích tập. Tánh nặng tánh nhẹ nhất định theo đấy là có một. Tánh trơn tánh nhám tùy theo một cũng như thế. Hoặc xứ có lạnh có đói có khát, tức chỗ nói có lỗi là quá ít. Nếu dựa vào xứ để nói, thì tám, chín, mười sự v.v… nên là quá nhiều, do bốn đại chủng là thuộc về xúc xứ, nên nói bốn v.v Tức chỗ nói là có lỗi quá nhiều. Cả hai cùng không có lỗi. Nên biết ở đây đã nói về sự: Một phần là dựa vào Thể để nói, tức đối tượng dựa là đại chủng. Một phần dựa vào xứ để nói. Nghĩa là chủ thể dựa là sắc được tạo. Nếu vậy thì sự của đại chủng nên thành nhiều. Sắc được tạo đều dựa riêng nơi một của bốn đại chủng. Nên biết trong đây là dựa nơi thể loại để nói. Do các loại bốn đại chủng là không riêng khác. Vì sao dùng ngôn ngữ phân biệt như thế? Vì ngôn ngữ là tùy theo ý muốn sinh, nghĩa nên xét chọn. Như vậy là đã biện về phần quyết định cùng sinh của sắc. Phần quyết định cùng sinh còn lại, nay sẽ biện tiếp.

* Tụng viết:

Tâm tâm sở tất cùng

Các hành tướng hoặc đắc.

* Luận nêu: Tâm cùng với tâm sở tất định là cùng sinh. Tùy thiếu một thì bấy giờ các thứ còn lại không khởi. Các hành tức là tất cả hữu vi. Nghĩa là sắc tâm tâm sở tâm bất tương ưng hành. Trước tất cùng nói nối tiếp đến đây. Nghĩa là các hành như sắc tâm lúc sinh, tất cùng với bốn tướng hữu vi cùng khởi. Nói Hoặc đắc: Nghĩa là các hành bên trong chỉ là pháp hữu tình cùng với đắc cùng sinh. Pháp khác thì không như thế. Vì vậy nói là hoặc. Vừa nói tâm sở. Vậy tâm sở là thế nào?

* Tụng viết:

Tâm sở lại có năm

Pháp đại địa cùng khác.

* Luận nêu: Các tâm sở pháp lại có năm loại: (1) Pháp đại địa. (2) Pháp đại thiện địa. (3) Pháp đại phiền não địa. (4) Pháp đại bất thiện địa. (5) Pháp tiểu phiền não địa.

Địa nghĩa là xứ hành. Nếu pháp này là xứ hành của pháp kia, tức nói pháp ấy là địa của pháp kia. Là địa của đại pháp nên gọi là pháp đại địa. Trong đây, nếu pháp là hiện có nơi đại địa thì gọi là pháp đại địa. Nghĩa là pháp luôn có nơi tất cả tâm. Pháp ấy là thế nào?

* Tụng viết:

Thọ tưởng tư xúc dục

Tuệ niệm cùng tác ý

Thắng giải, Tam-ma-địa

Khắp nơi tất cả tâm.

* Luận nêu: Truyền nói: Nêu ra mười pháp như thế nơi sát-na của các tâm hòa hợp có khắp. Ở đây: Thọ nghĩa là ba thứ lãnh nạp khổ lạc cùng không khổ không lạc có sai biệt. Tưởng nghĩa là ở nơi cảnh nhận lấy tướng sai biệt.  nghĩa là khả năng khiến tâm có tạo tác. Xúc là căn cảnh thức hòa hợp sinh, có thể có xúc đối. Dục là mong cầu sự việc nơi đối tượng tạo tác. Tuệ là ở nơi pháp có thể có phân biệt lựa chọn. Niệm là đối với duyên đã ghi nhận rõ không quên. Tác ý: Là có thể khiến tâm cảnh giác. Thắng giải là có thể ở nơi cảnh ấn định thừa nhận. Tam-ma-địanghĩa là tâm cảnh một tánh. Các tướng khác của tâm tâm sở là vi tế, mỗi mỗi tương tục phân biệt hãy còn khó, huống chi là trong một sát-na cùng thời mà có. Có sắc như sắc của các thuốc là đối tượng nhận lấy của căn, về vị sai biệt hãy còn khó nhận biết rõ về pháp, huống chi là pháp vô sắc chỉ do giác tuệ nhận lấy. Như thế là đã nói về mười pháp đại địa. Địa của pháp đại thiện gọi là pháp đại thiện địa. Nghĩa là pháp luôn có nơi các tâm thiện. Pháp ấy là thế nào?

* Tụng viết:

Tín cùng không phóng dật

Khinh an, xả, tàm quý

Hai căn cùng bất hại

Cần chỉ khắp tâm thiện.

* Luận nêu: Các pháp như thế chỉ hiện có khắp tâm thiện. Ở đây: Tín là khiến tâm lắng sạch. Có thuyết cho: Ở nơi quả của nghiệp thật nơi đế đã hiện tiền thừa nhận nên gọi là tín. Không phóng dật là tu các pháp thiện, lìa các pháp bất thiện. Thế nào gọi là tu? Tức ở đây đối với thiện chuyên chú làm tánh. Trong bộ kinh khác có giải thích như vầy: Có thể giữ gìn tâm gọi là không phóng dật. Khinh an nghĩa là tánh của tâm có thể nhận giữ. Há kinh không có nói là có thân khinh an chăng? Tuy không phải là không nói, nhưng ở đây như thân thọ nên biết cũng vậy. Vì sao có thể lập đấy làm giác chi? Nên biết trong đây thân khinh an là tánh của thân có thể nhận giữ. Lại vì sao nói đây là giác chi? Nghĩa là thuận theo giác chi nên không có lỗi. Do thân khinh an có thể dẫn đến tâm khinh an của giác chi. Ở nơi khác cũng thấy có nói như thế chăng? Có, như kinh nói: hỷ cùng thuận với pháp hỷ gọi là hỷ giác chi. Sân cùng với nhân duyên của sân gọi là cái sân hận. Chánh kiến, chánh tư duy, chánh cần gọi là tuệ uẩn. Tư duy cùng cần tuy không phải là tánh của tuệ, nhưng tùy thuận tuệ nên cũng được mang tên tuệ. Vậy thân khinh an thuận với giác chi nên được mang tên cũng không có lỗi. Tánh bình đẳng của tâm, tánh không cảnh giác được gọi là Xả. Vì sao có thể nói ở trong một tâm có tánh cảnh giác không tánh cảnh giác? Do tác ý cùng với xả, cả hai tương ưng sinh khởi. Há không như trước đã nói các tâm tâm sở, tướng của chúng là vi tế khó có thể nhận biết rõ? Tức trước có nói. Tuy khó nhận biết rõ, nhưng do xét kỹ nên lại có thể nhận biết. Đây lại là rất khó nhận biết. Nghĩa là cùng trái nhau nhưng không trái phản. Tức tại đây có cảnh giác, nơi khác thì không. Cả hai đã khác xa thì có trái phản gì? Nếu như vậy thì không nên cùng duyên nơi một cảnh. Hoặc nên cho tất cả đều cùng tương ưng. Như thế thì chủng loại nơi các pháp còn lại, trong đây tức nên tìm cầu. Như lý sâu xa kia. Nay nơi phần này nên nhận biết cũng như vậy. Hai thứ Tàm quý (Hổ thẹn) như nơi phần sau sẽ giải thích. Hai căn: Là hai căn thiện không tham không sân. Căn thiện không si, tuệ là tánh, trước đã nói ở trong pháp đại địa (Tuệ) nên không nói nữa là pháp đại thiện địa. Bất hại: Là không tổn não. Cần: Là khiến tâm dũng mãnh là tánh. Như vậy là đã nói về pháp đại thiện địa. Địa của pháp đại phiền não gọi là địa đại phiền não. Ở đây, nếu là pháp hiện có của địa đại phiền não nên gọi là pháp đại phiền não địa. Nghĩa là pháp luôn có nơi tâm nhiễm ô. Pháp ấy là thế nào?

* Tụng viết:

Si dật đãi bất tín

Hôn trạo luôn chỉ nhiễm.

* Luận nêu: Si: Tức là ngu si. Là vô minh, vô trí, không hiển bày. Dật: Nghĩa là phóng dật, là không tu các thiện, là tu các pháp thuộc đối tượng đối trị của thiện. Đãi: Là giải đãi (Biếng nhác), tức tâm không dũng mãnh. Là như trước đã nói về đối tượng đối trị của cần (Tinh tấn). Bất tín:Là tâm không lắng sạch. Là đối tượng đối trị của tín như trước đã nói. Hôn: Nghĩa là hôn trầm. Trong Đối Pháp nói: Thế nào là hôn trầm? Nghĩa là tánh nặng nề của thân. Tánh nặng nề của tâm. Tánh không thể nhận giữ của thân, tâm, tánh hôn trầm của thân tâm. Đó gọi là hôn trầm. Đấy là tâm sở. Vì sao gọi là thân? Tức như nói thân thọ, nên cũng không có lỗi. Trạo: Nghĩa là trạo cử, tức khiến tâm không tĩnh. Chỉ có sáu thứ như thế gọi là pháp đại phiền não địa. Trong Căn Bản A-tỳ-đạt-ma nói có mười thứ pháp đại phiền não địa. Lại nơi Luận kia không nói về hôn trầm. Những gì là mười pháp? Là bất tín, giải đãi, thất niệm, tâm loạn, vô minh, bất chánh tri, tác ý phi lý, thắng giải tà, trạo cử, phóng dật. Thiên ái! Ông nay chỉ nhận biết về ngôn từ mà quên mất ý chỉ. Ý chỉ ấy là thế nào? Nghĩa là thất niệm, tâm loạn, bất chánh tri, tác ý phi lý, thắng giải tà. Những thứ kia đã nói trong pháp đại địa không nên lập lần nữa làm pháp đại phiền não địa. Như căn thiện vô si, tuệ là Thể nên không phải là pháp đại thiện địa. Pháp kia cũng nên như thế. Tức niệm nhiễm ô gọi là thất niệm. Đẳng trì nhiễm ô gọi là tâm loạn. Các tuệ nhiễm ô gọi là bất chánh tri. Tác ý, thắng giải nhiễm ô gọi là tác ý phi lý và thắng giải tà. Nên nói: Nếu là pháp đại địa thì chúng cũng là pháp đại phiền não địa chăng? Tức nêu ra bốn trường hợp:

Trường hợp 1: Là thọ tưởng tư xúc dục. Trường hợp 2: Là bất tín, giải đãi, vô minh, trạo cử, phóng dật. Trường hợp 3: Là như trước đã nêu. Tức năm pháp như thất niệm v.v… Trường hợp 4: Là trừ các tướng đã nêu. Có chỗ cho: Đẳng trì tà không phải là tâm loạn. Vị kia nêu ra bốn trường hợp so với đây là không đồng. Lại cho hôn trầm là cùng tương ưng chung với tất cả phiền não, không nói ở tại pháp đại phiền não địa. Ở đây, thì có lỗi gì? Có người cho: Nên nói ở đây, nhưng không nói là vì thuận theo đẳng trì. Luận kia cho các hành giả có hôn trầm thì mong chóng phát khởi đẳng trì, không phải là hành của trạo cử. Pháp gì là hành của hôn trầm không phải là hành của trạo cử. Pháp gì là hành của trạo cử không phải là hành của hôn trầm? Hai thứ này chưa từng không cùng hành. Tuy vậy nên nhận biết tùy tăng nói là hành. Tuy nhận biết nói về hành nhưng theo dụng nên riêng tăng. Tức dựa nơi Thể có để kiến lập pháp của địa, nên pháp của địa này chỉ có sáu nghĩa thành. Ở đây chính là hiện có khắp nơi tâm nhiễm cùng khởi, không phải là xứ khác. Như thế là đã nói về pháp đại phiền não địa. Địa của pháp đại bất thiện gọi là địa đại bất thiện. Ở đây, nếu là pháp hiện có của địa đại bất thiện, nên gọi là pháp đại bất thiện địa. Pháp ấy là thế nào?

* Tụng viết:

Chỉ khắp tâm bất thiện

Không tàm cùng không quý.

* Luận nêu: Chỉ hai tâm sở, song cùng với tất cả tâm bất thiện kết hợp. Nghĩa là không tàm (Không hổ) và không quý (Không thẹn). Nên chỉ hai thứ gọi là pháp của địa này. Hai pháp ấy về tướng như nơi phần sau sẽ biện. Như thế là đã nói về pháp đại bất thiện địa. Địa của pháp tiểu phiền não gọi là địa tiểu phiền não. Ở đây, nếu là pháp hiện có của địa tiểu phiền não, tức gọi là pháp tiểu phiền não địa. Nghĩa là pháp cùng sinh với phần ít tâm nhiễm ô.

Pháp ấy là thế nào?

* Tụng viết:

Phẫn phú xan tật não

Hại hận siểm cuống kiêu

Loại như thế gọi là

Pháp tiểu phiền não địa.

* Luận nêu: Loại pháp như thế chỉ do tu đạo đoạn, vì từ địa của ý thức khởi, tương ưng với vô minh và đều hiện hành riêng, nên gọi là pháp tiểu phiền não địa. Các pháp này, như trong phần sau nói về tùy phiền não sẽ phân biệt rộng. Như vậy là đã nói về năm phẩm tâm sở. Lại có tâm sở bất định, là các pháp ố tác, thùy miên, tầm, tứ, trong đây nên nói. Thế thì ở nơi phẩm tâm nào có bao nhiêu tâm sở quyết định cùng sinh?

* Tụng viết:

Cõi dục có tầm tứ

Ở trong phẩm tâm thiện

Hai mươi hai tâm sở

Có lúc thêm ố tác.

Nơi bất thiện không chung

Kiến cùng chỉ hai mươi

Bốn phiền não như phẫn…

Ố tác hai mươi mốt.

Hữu phú có mười tám

Vô phú cho mười hai

Thùy miên khắp không trái

Nếu có đều tăng một.

* Luận nêu: Lại trong cõi dục, phẩm tâm có năm: Nghĩa là thiện chỉ có một. Bất thiện có hai. Là không chung, tương ưng với vô minh cùng tương ưng với các phiền não khác. Vô ký có hai: Là hữu phú vô ký và vô phú vô ký. Nhưng ở cõi dục, tâm nhất định có tầm có tứ.

Nơi phẩm tâm thiện tất cả có hai mươi hai tâm sở cùng sinh. Nghĩa là mười pháp đại địa, mười pháp đại thiện địa và hai pháp bất định, tức tầm cùng tứ. Do không phải các tâm thiện đều có ố tác, nên có lúc tăng số đến hai mươi ba (Thêm ố tác). Ố tác là thế nào? Tức ghét bỏ Thể đã tạo tác, gọi là ố tác. Nên biết ở đây duyên nơi pháp ố tác nên gọi là ố tác. Nghĩa là tánh hối tiếc của tâm duyên nơi ố tác. Như duyên nơi môn giải thoát không gọi là không. Duyên nơi bất định không tham gọi là bất định. Lại thấy thế gian, căn cứ theo xứ của đối tượng nương dựa để nói về sự việc của chủ thể nương dựa. Như nói tất cả thôn ấp cõi nước đều đến tập hội. Ố tác tức là đối tượng nương dựa của hối tiếc. Nên căn cứ theo chỗ dựa nói là ố tác. Lại ở nơi Thể của quả giả lập tên nhân. Như nói sáu xúc xứ này, nên biết gọi là nghiệp đã tạo từ trước. Nếu duyên nơi sự việc chưa tạo tác, vì sao gọi là ố tác? Do đối với sự việc chưa tạo tác cũng lập tên tạo tác. Như hối tiếc nói ta trước đã không làm sự việc như vậy, là ta đã ố tác. Những gì là ố tác được nói là thiện? Nghĩa là ở trong sự việc thiện ác không làm, đã làm, tâm có tánh hối tiếc. Cùng với đấy trái nhau gọi là bất thiện. Hai thứ này đều dựa nơi hai xứ mà khởi.

Nếu ở nơi phẩm tâm bất thiện không chung, tất cả có hai mươi tâm sở cùng sinh. Nghĩa là mười pháp đại địa, sáu pháp đại phiền não địa, hai pháp đại bất thiện địa và hai pháp bất định là tầm, tứ. Những gì gọi là phẩm tâm không chung? Nghĩa là phẩm tâm này chỉ có vô minh, không có các phiền não còn lại như tham v.v… Ở nơi phẩm tâm bất thiện tương ưng với kiến, cũng có hai mươi tâm sở cùng sinh. Về tên gọi tức như trước đã nói về phẩm không chung. Chẳng phải kiến thì tăng nên có hai mươi mốt. Do tức ở trong mười pháp đại địa, dụng của tuệ có sai biệt nên nói là kiến. Nói tâm bất thiện tương ưng với kiến: Nghĩa là trong tâm này, hoặc có tà kiến, hoặc có kiến thủ, hoặc có giới cấm thủ. Ở nơi phẩm tâm bất thiện tương ưng với bốn phiền não là tham, sân, mạn, nghi, có hai mươi mốt tâm sở cùng sinh. Hai mươi thứ như nơi phẩm không chung thêm tham sân mạn nghi theo đấy có một. Phẩm tâm bất thiện tương ưng với tùy phiền não như phẫn v.v… đã nói ở trước cũng có hai mươi mốt tâm sở cùng sinh. Hai mươi thứ như nơi phẩm không chung. Thêm các tùy phiền não như phẫn v.v… theo đấy có một. Phẩm tâm bất thiện tương ưng với ố tác cũng có hai mươi mốt tâm sở cùng sinh. Tức ố tác là thứ hai mươi mốt. Lược nói về phẩm tâm bất thiện không chung cùng tương ưng với kiến chỉ có hai mươi tâm sở cùng sinh. Phẩm tâm bất thiện tương ưng với bốn phiền não khác (Tham sân mạn nghi) và tùy phiền não, thì có hai mươi mốt tâm sở cùng sinh. Nếu ở nơi phẩm tâm vô ký hữu phú, thì chỉ có mười tám tâm sở cùng khởi. Nghĩa là mười pháp đại địa, sáu pháp đại phiền não địa, cùng hai pháp bất định là tầm, tứ, tâm vô ký hữu phú của cõi dục: Nghĩa là cùng với Tát-ca-da-kiến (Thân kiến) và biên chấp kiến tương ưng. Ở đây kiến không tăng, nên biết như trước đã giải thích. Đối với phẩm tâm vô ký vô phú còn lại, tức chỉ có mười hai tâm sở cùng sinh. Nghĩa là mười pháp đại địa cùng hai pháp bất định là tầm, tứ. Các Sư phương ngoài muốn khiến ố tác cũng chung nơi vô ký, nên nơi phẩm này, tương ưng tức có mười ba tâm sở cùng sinh. Nên biết, thùy miên như trước đã nói là cùng với tất cả phẩm tâm đều không trái nhau, tánh là chung cho thiện bất thiện vô ký. Tùy theo phẩm nào có tức nói phẩm ấy tăng, nghĩa là hai mươi hai đến hai mươi ba, hai mươi ba đến hai mươi bốn. Bất thiện, vô ký như đã nêu dẫn, nên biết.

Đã nói về định lượng của các phẩm tâm nơi cõi dục có tâm sở cùng sinh. Nên nói về hai cõi trên.

* Tụng viết:

Định một trừ bất thiện

Cùng ố tác, thùy miên

Định giữa lại trừ tầm

Trên gồm trừ cả tứ v.v…

* Luận nêu: Trong tĩnh lự một, như ở trước đã nói về các pháp tâm sở, chỉ trừ bất thiện, ố tác, thùy miên, số còn lại đều có đủ. Chỉ trừ bất thiện: Là phiền não sân. Trừ siểm cuống kiêu, ngoài ra là phẫn và không hổ không thẹn. Số còn lại đều có đủ: Là như nói về cõi dục. Tĩnh lự trung gian thì trừ các thứ đã trừ ở trước. Lại trừ thêm tầm. Ngoài ra đều có đủ. Từ tĩnh lự thứ hai trở lên, cho đến trong cõi vô sắc, tức trừ như trước đã trừ. Lại trừ thêm tứ. Vân vân (Đẳng) nơi cuối câu tụng bốn: Là làm rõ trừ thêm siểm, cuống. Ngoài ra đều có đủ như trước. Kinh nói: Siểm cuống đến tột cùng là xứ Phạm thiên, chúng cùng nương dựa, nên địa trên không có. Do Đại Phạm vương đang ở nơi phạm chúng, hốt nhiên bị Bí-sô Mã Thắng hỏi: Bốn đại chủng này, sẽ ở nơi phần vị nào tận diệt hoàn toàn? Phạm vương không nhận biết về phần vị tận diệt hoàn toàn, liền đáp lung tung: Ta ở nơi Phạm chúng này là Đại Phạm tự tại, là người tạo tác, biến hóa sinh khởi, nuôi dưỡng, là cha của tất cả. Nói lời như thế xong thì Phạm vương tìm cách dẫn Bí-sô Mã Thắng ra khỏi thiên chúng, nói lời dua nịnh cho là hổ thẹn rồi khiến Bí-sô trở lại thưa hỏi Đức Phật. Như vậy là đã nói về số lượng tâm sở cùng sinh trong các phẩm tâm nơi địa của các cõi. Nay tiếp theo sẽ nói về phần ít sai biệt trong các tâm sở đã biện ở trước. Không hổ không thẹn, ái cùng với kính có sai biệt như thế nào?

* Tụng viết:

Không hổ thẹn không trọng

Nơi tội không thấy sợ

Ái kính là tín hổ

Chỉ nơi dục, sắc có.

* Luận nêu: Ở đây, nói về không hổ không thẹn có sai biệt: Đối với các công đức cùng người có đức, không kính không tôn sùng, không nể sợ, không tùy thuộc, gọi là không hổ, tức là pháp đối địch với cung kính. Là pháp bị các bậc thiện tri thức trách mắng chán bỏ gọi là tội. Ở trong tội ấy không thấy sợ hãi gọi là không thẹn. Trong đấy nói sợ hãi là làm rõ về quả không yêu thích, có thể sinh sợ hãi. Vậy nói không thấy sợ hãi là nhằm hiển bày về nghĩa gì? Vì thấy nhưng không sợ hãi, gọi là không thấy sợ hãi. Hay là không thấy sự việc kia đáng sợ hãi, gọi là không thấy sợ hãi? Nếu như thế thì có lỗi gì? Cả hai cùng có lỗi. Nếu thấy nhưng không sợ hãi, tức nên làm rõ về trí tuệ. Nếu không thấy sự việc kia đáng sợ hãi, tức nên làm rõ về vô minh. Ở đây nói không hiển bày về thấy cùng không thấy. Là hiển bày về gì? Đây là làm rõ pháp có là tùy phiền não, là nhân của hai thứ kia, nên gọi là không thẹn. Có Sư khác nói: Đối với tội đã tạo tự xem là không xấu hổ gọi là không hổ. Quán đối kẻ khác không biết xấu hổ gọi là không thẹn. Nếu như thế thì hai thứ quán này là không đồng. Vì sao cùng khởi? Vì không nói hai thứ này là một thời cùng khởi tức quán riêng về tự tha. Nhưng có xấu hổ, lúc quán về tự thì hơn, gọi là không hổ. Lại có không xấu hổ, lúc quán về tha thì tăng thêm gọi là không thẹn. Hổ, thẹn có sai biệt nên biết là trái với đây. Nghĩa là trái với thứ nhất, tức có kính, có tôn sùng, có nể sợ, có tùy thuộc gọi là hổ. Ở nơi tội thấy sợ hãi gọi là thẹn. Trái với giải thích thứ hai: Tức đối với tội đã tạo tự quán thấy có xấu hổ họi là hổ. Quán đối tha thấy có xấu hổ gọi là thẹn. Đã nói về không hổ không thẹn có sai biệt. Về ái kính có sai biệt: Ái nghĩa là ái lạc (Yêu thích). Thể tức là tín. Nhưng ái có hai: Ái có nhiễm ô và ái không nhiễm ô. Ái có nhiễm ô gọi là tham, như ái vợ con v.v… Ái không nhiễm ô nghĩa là tín, như ái các bậc sư trưởng v.v… Có tín không phải là ái: Nghĩa là tín duyên nơi khổ tập. Có ái không phải là tín: Nghĩa là các ái nhiễm ô. Có chung cả tín, ái: Nghĩa là tín duyên nơi diệt đạo. Có không phải tín cũng không phải ái: Nghĩa là trừ ba tướng đã nêu. Có thuyết cho: Tín là thừa nhận có đức, do đấy làm trước tiên mới sinh ái lạc, nên ái không phải là tín. Kính nghĩa là kính trọng, Thể tức là hổ, như trước đã giải thích về hổ là có kính trọng. Có hổ không phải là kính, nghĩa là hổ duyên nơi khổ tập. Có chung cả hổ, kính, nghĩa là hổ duyên nơi diệt đạo. Có thuyết nói: Kính là có sự sùng kính, tôn trọng. Do đấy làm trước tiên mới sinh hổ thẹn, nên kính không phải là hổ. Hướng về Bổ-đặc-già-la nơi cảnh của đối tượng duyên, về ái kính có không nên tạo ra bốn trường hợp: (1) Có ái không kính: Nghĩa là đối với vợ con và môn nhân cùng trụ v.v… (2) Có kính không ái: Nghĩa là đối với các vị Sư khác có đức, các quý nhân v.v… (3) Có ái có kính: Nghĩa là đối với các bậc Sư trưởng của mình, cha mẹ, chú bác v.v… (4) Có không ái cũng không kính: Nghĩa là trừ ba tướng đã nêu. Ái kính như thế là nơi cõi dục cõi sắc có, cõi vô sắc không có. Há bất tín, hổ nơi pháp đại thiện địa, ở cõi vô sắc cũng có. Ái kính có hai: Nghĩa là duyên nơi pháp Bổ-đặc-già-la và duyên nơi pháp ái kính chung cả ba cõi có. Trong đây ý nói là duyên nơi Bổ-đặc-già-la, nên nơi cõi dục cõi sắc có, cõi vô sắc không có. Như thế là đã nói về ái kính có sai biệt. Tầm tứ, mạn kiêu có sai biệt như thế nào?

* Tụng viết:

Tầm tứ tâm thô tế

Mạn đối tha tâm cao

Kiêu do nhiễm tự pháp

Tâm cao không nhìn xét.

* Luận nêu: Tầm tứ có sai biệt: Nghĩa là tâm thô tế. Tánh thô của tâm gọi là tầm. Tánh tế của tâm gọi là tứ. Vì sao hai thứ ấy nơi một tâm tương ưng? Có thuyết giải thích: Như thục tô nổi trên nước lạnh do sức nóng từ ánh sáng mặt trời chiếu xuống. Thục tô nhân nơi nước lạnh và ánh nắng mặt trời nên không chảy tan cũng không đông lại. Như vậy, một tâm có tầm có tứ. Tâm do tầm tứ tức không quá thô tế, nên ở nơi một tâm cùng có tác dụng. Nếu như vậy thì tầm tứ là nhân của thô tế, không phải là Thể của thô tế. Như nước ánh sáng mặt trời là nhân của đông lại, chảy tan. Thể không phải là đông lại, chảy tan. Lại, tánh thô tế là cùng đối đãi mà lập. Cõi, địa phẩm riêng, trên dưới cùng hiện. Cho đến xứ Hữu đảnh nên có tầm tứ. Lại, tánh thô tế không có thể loại riêng, nên không thể dựa vào đấy để phân biệt tầm tứ. Lại có giải thích nói: Hai pháp tầm tứ là hành của ngôn ngữ, nên Khế kinh nói: Cần có tầm tứ mới có ngôn ngữ. Không phải không có tầm tứ mà có hành của ngôn ngữ này. Thô gọi là tầm. Tế gọi là tứ. Ở trong một tâm, pháp riêng là thô, pháp riêng là tế, đối với lý đâu có trái? Nếu có thể loại riêng thì lý thật không trái. Nhưng vì không có thể loại riêng nên thành trái với lý. Trong một thể loại không thừa nhận có trên dưới cùng thời khởi. Nếu nói thể loại cũng có sai biệt, nên nói tướng sai biệt của thể loại là thế nào? Tướng sai biệt của hai thể loại này là khó nêu bày, chỉ do trên dưới làm rõ về tướng sai biệt kia, không phải do trên dưới có thể hiển bày tướng sai biệt ấy. Tức trong mỗi mỗi loại có trên dưới, do đấy nên biết hai pháp tầm tứ nhất định không thể nắm giữ tương ưng của một tâm. Nếu vậy vì sao trong Khế kinh nói, ở nơi tĩnh lự thứ nhất gồm đủ năm chi. Nói gồm đủ năm chi là dựa theo một địa để nói, không phải là một sát-na nên không có lỗi. Như thế là đã nói về tầm tứ có sai biệt. Về mạn – kiêu có sai biệt: Mạn là tánh đối nơi tâm kẻ khác đã tự đề cao. Nêu xét về đức loại của tự tha có khác nhau. Tâm tự đề cao, ỷ thị, khinh miệt kẻ khác nên gọi là mạn. Kiêu nghĩa là tánh nhiễm chấp nơi tự pháp làm trước tiên, khiến tâm kiêu ngạo, không biết nhìn xét. Có Sư khác nói: Như nhân nơi rượu sinh vui thích, cử động có sai biệt gọi là say. Cũng vậy, tham sinh vui thích, cử chỉ thái độ có sai biệt gọi là kiêu. Đó gọi là tướng sai biệt của mạn, kiêu. Như thế là đã nói về phẩm loại của các tâm tâm sở cùng sinh tướng khác chẳng đồng. Nhưng tâm tâm sở, ở trong Khế kinh, tùy theo nghĩa đã kiến lập vô số danh tướng. Nay sẽ biện về danh nghĩa sai biệt ấy.

* Tụng viết:

Tâm ý thức, Thể một

Tâm tâm sở có dựa

Có duyên có hành tướng

Nghĩa tương ưng có năm.

* Luận nêu: Tập khởi nên gọi là tâm. Xét lường nên gọi là ý. Phân biệt nhận biết nên gọi là thức. Lại có thuyết giải thích: Giới tịnh bất tịnh có vô số sai biệt nên gọi là tâm. Tức ở đấy vì kẻ khác tạo đối tượng nương dựa nên gọi là ý. Tạo chủ thể nương dựa nên gọi là thức. Thế nên tâm ý thức, ba thứ gọi là đối tượng giảng giải, nghĩa tuy có khác nhưng Thể là một. Như tâm ý thức, ba thứ gọi là đối tượng nêu giảng, nghĩa khác nhưng Thể là một, các tâm tâm sở gọi là có đối tượng nương dựa, đối tượng duyên, hành tướng, tương ưng, cũng thế, danh nghĩa tuy khác nhưng Thể là một. Tức là tâm tâm sở đều gọi là có đối tượng nương dựa, tức nhờ vào đối tượng nương dựa là căn. Hoặc gọi là có đối tượng duyên, tức nhận lấy cảnh của đối tượng duyên. Hoặc gọi là có hành tướng, tức ở nơi phẩm loại của đối tượng duyên có sai biệt cùng khởi hành tượng. Hoặc gọi là tương ưng, tức cùng hòa hợp. Dựa vào nghĩa nào để nói là cùng hòa hợp? Tức có năm nghĩa. Nghĩa là tâm tâm sở có năm nghĩa bình đẳng nên nói là tương ưng. Là đối tượng nương dựa, đối tượng duyên, hành tướng, thời, sự đều bình đẳng. Sự bình đẳng: Là trong một tương ưng, như Thể của tâm là một. Các tâm sở pháp mỗi mỗi đều cũng như vậy. Đã nói về tâm tâm sở, phân biệt rộng về nghĩa. Vậy tâm bất tương ưng hành là thế nào?

* Tụng viết:

Tâm bất tương ưng hành

Đắc phi đắc đồng phần

Vô tưởng hai định, mạng

Tướng danh thân các loại.

* Luận nêu: Các pháp như thế, tánh không phải là sắc thuộc về hành uẩn, không tương ưng với tâm, nên gọi là tâm bất tương ưng hành (Hành không tương ưng với tâm). Ở đây lại biện về tướng của đắc, phi đắc.

* Tụng viết:

Đắc là được thành tựu

Phi đắc trái với đấy

Đắc phi đắc chỉ ở

Tự tương tục, hai diệt.

* Luận nêu: Đắc có hai thứ: (1) Chưa đắc đã mất nay đạt được. (2) Được rồi không mất là thành tựu. Nên biết phi đắc là cùng với đây trái nhau. Ở trong pháp nào có đắc phi đắc? Tức ở nơi tự tương tục cùng trong hai diệt. Nghĩa là pháp hữu vi nếu có gắn liền trong sự nối tiếp của chính mình, thì có đắc, phi đắc, không phải là sự nối tiếp của kẻ khác. Vì không có pháp của thân khác thành tựu. Do không phải là không nối tiếp, nên không có pháp của phi tình thành tựu. Lại, pháp hữu vi quyết định là như thế. Trong pháp vô vi, chỉ ở nơi hai diệt là có đắc phi đắc. Hết thảy hữu tình không loại nào là không thành tựu phi trạch diệt, nên trong Đối Pháp được truyền nói. Như thế, ai thành tựu pháp vô lậu? Nghĩa là tất cả hữu tình. Trừ Thánh giả bị trói buộc đủ của sát-na đầu tiên, cùng hết thảy hàng phàm phu bị trói buộc đủ khác. Các hữu tình còn lại đều thành tựu trạch diệt, quyết định không có thành tựu hư không. Nên đối với hư không, không nói là có đắc. Do đắc không nên phi đắc cũng không. Tông nêu rõ đắc phi đắc cùng trái nhau mà lập. Các thứ có đắc cũng có phi đắc, nghĩa căn cứ theo đấy có thể nhận biết, nên không giải thích riêng. Do đâu nhận biết có vật riêng gọi là đắc? Là do nơi Khế kinh nói. Như Khế kinh nói: Thánh giả đối với mười pháp vô học kia, do sinh do đắc do thành tựu, nên đã đoạn năm chi, cho đến nói rộng. Nếu vậy thì phi tình cùng sự nối tiếp của kẻ khác cũng nên thành tựu. Vì sao? Vì như Khế kinh nói. Như Khế kinh nói: Bí-sô nên biết! Có Chuyển luân vương thành tựu bảy báu, cho đến nói rộng. Ở đây, tự tại gọi là thành tựu, nghĩa là vị Chuyển luân vương, đối với bảy báu kia có lực tự tại, tùy theo ưa thích thì chuyển, nên ở đây đã được tự tại gọi là thành tựu. Ngoài ra, lại do nhân gì để nhận biết là có vật riêng? Thừa nhận có vật riêng thì có phi lý gì? Như thế là phi lý. Nghĩa là chỗ chấp đắc không Thể có thể nhận biết.

Như sắc, thanh v.v… hoặc tham, sân v.v… Không dụng có thể nhận biết, như mắt, tai v.v… Nên không chấp nhận có vật riêng gọi là đắc. Chấp có vật riêng đó là phi lý. Nếu cho đắc ấy cũng có tác dụng, nghĩa là tạo các pháp đã đắc sinh nhân. Tức là vô vi nên không có đắc. Lại, pháp đã đắc, chưa đắc, đã xả bỏ cõi, địa chuyển đổi cùng lìa nhiễm. Pháp kia hiện không đắc, nên làm sao sinh? Nếu cùng sinh đắc là nhân sinh, thì sinh cùng với sinh sinh lại có tạo tác gì? Lại, pháp phi tình tức nên nhất định không sinh. Lại, kẻ bị trói buộc đủ, đối với phiền não của phẩm hạ trung thượng, hiện khởi có sai biệt tức nên không. Do đắc không riêng khác. Nếu do nhân khác có sai biệt, tức nên do các pháp kia được sinh, thì đắc lại có dụng gì? Nên thuyết kia nói đắc có tác dụng, nghĩa là tạo ra các pháp đã đắc là nhân sinh, lý không thành lập. Vậy ái nói đắc ấy tạo pháp là nhân sinh? Nếu thế thì đắc ấy có tác dụng gì? Nghĩa là ở nơi sai biệt được kiến lập nhân. Vì sao? Vì nếu không có đắc thì phàm phu, Thánh giả khởi tâm thế tục, tức nên không có phàm phu và các Thánh giả kiến lập có sai biệt. Há không phải phiền não đã đoạn và chưa đoạn là có khác nhau? Nên có sai biệt. Nếu cho là không có đắc thì sao có thể nói là phiền não đã đoạn cùng với chưa đoạn? Thừa nhận có đắc, là đã đoạn chưa đoạn thành do phiền não được lìa chưa lìa. Ở đây, do chỗ dựa có sai biệt, nên nghĩa phiền não đã đoạn chưa đoạn được thành. Nghĩa là các Thánh giả, do lực của kiến đạo tu đạo, khiến thân của chỗ dựa chuyển biến khác với gốc. Ở trong Hoặc đã đoạn của hai đạo kia không còn có công năng khiến chúng hiện khởi. Cũng như hạt giống đã bị lửa đốt cháy, chuyển biến khác với trước nên không thể sinh khởi dụng. Như vậy Thánh giả, trong thân của chỗ dựa không còn sinh công năng của Hoặc, gọi là phiền não đoạn. Hoặc đạo thế gian đã tổn giảm chủng tử của phiền não trong chỗ dựa, cũng gọi là đoạn. Cùng với trên trái nhau gọi là chưa đoạn. Các người chưa đoạn gọi là tạo thành. Các người đã đoạn gọi là không tạo thành. Hai thứ này chỉ là giả, không phải là thật.

Pháp thiện có hai: (1) Không do công sức tu đắc. (2) Chính là do công sức tu đắc. Tức gọi là sinh đắc và gia hạnh đắc. Không do công sức tu đắc, nếu chủng tử trong chỗ dựa chưa bị tổn hại, gọi là thành tựu. Nếu chủng tử trong chỗ dựa đã bị tổn hại, gọi là không thành tựu. Nghĩa là kẻ đoạn thiện, do sức của tà kiến, nên chủng tử của căn thiện trong chỗ dựa đã tổn hại, nên biết gọi là đoạn. Không phải chủng tử của căn thiện ở trong chỗ dựa hoàn toàn bị hại mới gọi là đoạn. Chính do công sức tu đắc, nếu pháp kia ở trong chỗ dựa đã khởi, sinh công sức kia tự tại không tổn giảm, gọi là thành tựu. Cùng với đây trái nhau gọi là không thành tựu. Hai thứ như thế cũng là giả, không phải thật. Nên trong chỗ dựa, chỉ có chủng tử chưa bị loại ra, chưa tổn giảm đã tăng trưởng tự tại. Ở nơi vị như thế lập tên gọi thành tựu. Không có vật riêng, ở đây pháp gì gọi là chủng tử? Nghĩa là danh cùng với sắc nơi sinh tự quả hiện có, lần lượt tạo công năng gần gũi. Đây là do sự nối tiếp chuyển biến có sai biệt. Thế nào gọi là chuyển biến? Nghĩa là trong sự nối tiếp, tánh trước sau khác. Thế nào gọi là nối tiếp? Nghĩa là các hành nơi ba đời của tánh nhân quả. Thế nào là sai biệt? Nghĩa là có công năng sinh quả không gián đoạn. Nhưng có xứ cho: Nếu tạo thành tham, tức không thể tu bốn niệm trụ. Thuyết kia nói: Đã chấp trước nơi phiền não tham thì không thể chán bỏ, nên gọi là tạo thành. Do thời phần tùy thuận đắm chấp tham ái, nên ở nơi bốn niệm trụ tất không thể tu. Những tạo thành như thế hiện có khắp tất cả chủng loại, chỉ là giả không phải thật. Chỉ nhằm ngăn chận. Ở đây gọi là không tạo thành, cũng là giả, không phải thật. Sư Tỳ-bà-sa nói: Hai thứ này đều có vật riêng, là thật không phải là giả. Hai đường như thế đều là khéo thuyết giảng. Vì sao? Vì không trái với lý. Đã biện về tự tánh. Còn về sai biệt thì thế nào? Lại nên biện về đắc.

* Tụng viết:

Pháp ba đời đều ba

Thiện cùng chỉ là thiện

Có thuộc, tự cõi đắc

Không thuộc đắc chung bốn

Phi học vô học ba

Không đoạn có hai thứ.

* Luận nêu: Pháp ba đời đắc đều có ba thứ. Nghĩa là pháp quá khứ có đắc quá khứ, có đắc vị lai, có đắc hiện tại. Như vậy, pháp hiện tại và vị lai đều có ba đắc. Lại đắc của pháp thiện v.v… chỉ là thiện v.v… Nghĩa là pháp thiện, bất thiện và vô ký, như thứ lớp ấy, có ba đắc thiện bất thiện vô ký. Lại, pháp có hệ thuộc, đắc chỉ ở nơi tự cõi. Nghĩa là pháp của cõi dục cõi sắc cõi vô sắc, như thứ lớp ấy, chỉ có ba đắc của cõi dục cõi sắc cõi vô sắc. Nếu pháp không hệ thuộc thì đắc chung bốn thứ. Nghĩa là pháp vô lậu, nói chung về đắc là có bốn thứ, tức đắc của ba cõi và đắc vô lậu. Phân biệt về sai biệt. Đắc của phi trạch diệt là hệ thuộc chung nơi ba cõi. Nếu trạch diệt đắc là thuộc cõi sắc cõi vô sắc cùng vô lậu. Đắc của đạo đế chỉ là vô lậu. Đắc của pháp không hệ thuộc có bốn thứ. Lại, pháp hữu học đắc chỉ là hữu học. Nếu là pháp vô học thì đắc chỉ là vô học. Pháp phi học phi vô học đắc có sai biệt. Nghĩa là pháp này đắc nói chung là có ba. Phân biệt về sai biệt: Tất cả pháp hữu lậu cùng ba vô vi đều gọi là pháp phi học phi vô học. Lại, pháp hữu lậu chỉ có đắc của phi học phi vô học. Đắc của phi trạch diệt cùng đắc của phi Thánh đạo dẫn khởi trạch diệt cũng như thế. Nếu là đạo hữu học dẫn khởi trạch diệt đắc tức là hữu học. Nếu là đạo vô học dẫn khởi trạch diệt đắc, tức là vô học. Lại, pháp do kiến đạo tu đạo đoạn, như thứ lớp ấy, có đắc của kiến đạo tu đạo đoạn. Pháp không đoạn đắc có sai biệt. Nghĩa là pháp này đắc nói chung có hai. Phân biệt về chỗ sai biệt: Các pháp vô lậu gọi là không đoạn. Đắc của phi trạch diệt chỉ do tu đạo đoạn. Nếu là đắc của phi thánh đạo dẫn khởi trạch diệt thì cũng như thế. Đắc của Thánh đạo dẫn khởi trạch diệt cùng đắc của đạo đế đều là không đoạn.

Trước tuy đã nói chung về pháp của ba đời đều có ba đắc. Nay nên phân biệt về tướng sai biệt trong ấy.

* Tụng viết:

Vô ký đắc cùng khởi

Trừ hai thông biến hóa

Hữu phú sắc cũng cùng

Dục sắc không trước khởi.

* Luận nêu: Đắc của vô phú vô ký chỉ là cùng khởi, không có trước sau sinh, do uy lực kém. Pháp nếu là quá khứ thì đắc cũng là quá khứ. Pháp nếu là vị lai thì đắc cũng là vị lai. Pháp nếu là hiện tại thì đắc cũng là hiện tại. Đắc của tất cả pháp vô phú vô ký đều như thế chăng? Không phải. Vì sao trừ chung cả mắt tai cùng có thể biến hóa? Nghĩa là mắt tai là chung nơi tuệ cùng uy lực của tâm có thể biến hóa là mạnh, do gia hạnh có sai biệt đã thành tựu. Tuy là thuộc về tánh vô phú vô ký, nhưng có trước sau và cùng khởi đắc. Nếu nơi xứ công xảo cùng đường oai nghi thường xuyên hành tập tối đa thì đắc cũng nên như thế. Tuy có pháp vô phú vô ký đắc chỉ là cùng khởi chăng? Không phải thế. Vì sao? Vì sắc hữu phú vô ký, đắc cũng như vậy. Nghĩa là các hữu biểu sắc hữu phú vô ký đắc cũng như trước, tức chỉ có cùng khởi. Tuy có phẩm thượng nhưng cũng không thể phát khởi vô biểu sắc, vì uy lực quá yếu kém. Do đấy nhất định không có pháp trước sau đắc. Như đắc của pháp vô ký có sai khác, thì đắc của thiện, bất thiện cũng có sai khác chăng? Cũng có. Vì sao? Vì đắc của sắc thiện bất thiện hệ thuộc cõi dục là không có trước khởi, chỉ có đắc cùng khởi và sau khởi. Phi đắc như đắc cũng có loại biệt như phẩm thượng chăng? Không phải vậy. Vì sao?

* Tụng viết:

Phi đắc thuộc vô ký

Đời khứ lai đều ba

Ba cõi không thuộc ba

Nhận Thánh đạo phi đắc.

Gọi là tánh phàm phu

Đắc pháp chuyển địa xả.

* Luận nêu: Tánh sai biệt: Tất cả phi đắc đều chỉ thuộc về tánh vô phú vô ký. Đời sai biệt: Quá khứ vị lai đều có ba thứ. Nghĩa là pháp hiện tại quyết định không có phi đắc của hiện tại. Chỉ có phi đắc của quá khứ vị lai. Quá khứ vị lai, mỗi mỗi đều có phi đắc của ba đời. Về cõi sai biệt: Pháp hệ thuộc ba cõi cùng pháp không hệ thuộc đều có ba phi đắc. Nghĩa là pháp hệ thuộc cõi dục có phi đắc của ba cõi. Pháp hệ thuộc cõi sắc cõi vô sắc và pháp không hệ thuộc cũng vậy. Nhất định không có phi đắc là vô lậu. Vì sao? Do thừa nhận phi đắc của Thánh đạo gọi là tánh dị sinh (Phàm phu). Như nơi Bản luận nói: Thế nào là tánh phàm phu? Nghĩa là không đạt được pháp Thánh. Không đạt được tức là tên gọi khác của phi đắc. Không phải nói tánh phàm phu là vô lậu, nên lý là không đạt được. Vậy không đạt được Thánh pháp nào gọi là tánh phàm phu? Nghĩa là không đạt được hết thảy, không nói riêng. Ở đây nói không đạt được là biểu thị lìa nơi đạt được. Nếu khác với đấy thì chư Phật Thế Tôn cũng không thành tựu Thánh pháp của chủng tánh Thanh văn, Độc giác. Thế nên gọi là phàm phu. Nếu như vậy thì Luận kia tức nên nói câu thuần, không cần phải nói trong một câu ấy hàm chứa nghĩa thuần. Như nói loài này là ăn nước ăn gió. Có thuyết cho: Không đạt được khổ pháp trí nhẫn và pháp cùng sinh, gọi là tánh phàm phu. Không thể không nêu vấn nạn nói: Lúc được đạo loại trí thì xả bỏ pháp này, tức nên thành phi Thánh. Trước đã vĩnh viễn loại trừ phi đắc kia. Nếu vậy thì tánh này đã chung nơi ba thừa. Vậy không đạt được những gì gọi là tánh phàm phu? Đây cũng nên nói là không đạt được tất cả. Như thế thì ở đây nên đồng có vấn nạn như trước. Vấn nạn này lại nên giải thích chung như trước. Như vậy là trùng thuyết, công sức là uổng phí. Như Sư Kinh Bộ đã nói là tốt. Kinh Bộ đã nói, về nghĩa là thế nào? Nghĩa là chưa từng sinh Thánh pháp, nơi phần vị nối tiếp có sai biệt gọi là tánh phàm phu. Như thế thì phi đắc vào lúc nào nên xả bỏ? Pháp phi đắc này, lúc đắc pháp ấy hoặc chuyển đổi địa thì xả bỏ phi đắc đó. Như phi đắc của Thánh đạo gọi là tánh phàm phu, lúc đắc Thánh đạo này hoặc chuyển đổi địa liền xả bỏ. Pháp phi đắc khác, so sánh với đây nên suy sét. Nếu đắc của phi đắc đoạn thì phi đắc của phi đắc sinh. Như thế gọi là xả nơi phi đắc. Đắc cùng với phi đắc há lại có đắc khác cùng với phi đắc khác. Tức nên nói hai thứ này đều lại có đắc cùng với phi đắc khác. Nếu thế há không có lỗi vô cùng? Không có lỗi vô cùng vì thừa nhận đắc lần lượt lại cùng thành, do pháp lúc sinh cùng với tự thể kia có ba pháp cùng khởi. Thứ nhất là pháp gốc. Thứ hai là pháp đắc. Thứ ba là đắc của đắc. Nghĩa là trong sự nối tiếp, pháp đắc khởi nên thành tựu pháp gốc cùng với đắc của đắc. Đắc của đắc khởi nên thành tựu pháp đắc. Vì thế ở đây không có lỗi vô cùng. Như vậy, hoặc pháp thiện, hoặc pháp nhiễm ô, mỗi mỗi tự thể lúc mới sinh khởi, đều cùng với tự thể kia có ba pháp cùng khởi. Nơi sát-na thứ hai có sáu pháp cùng khởi. Nghĩa là ba pháp đắc cùng ba đắc của đắc. Nơi sát-na thứ ba có mười tám pháp cùng khởi. Nghĩa là ở nơi sát-na thứ nhất, sát-na thứ hai các pháp đã sinh có chín pháp đắc cùng chín đắc của đắc. Các đắc như vậy, càng về sau là chuyển tăng. Tất cả phiền não cùng tùy phiền não của quá khứ và vị lai và thiện sinh đắc, nơi sát-na sát-na tương ưng cùng có vô thủy vô chung sinh tử luân chuyển có vô biên đắc. Lại, một hữu tình nơi sátna sát-na của sinh tử nối tiếp đã khởi vô lượng đắc. Như vậy, nơi sự cùng nối tiếp của tất cả hữu tình mỗi mỗi đều riêng khác. Theo sát-na sát-na có vô lượng vô biên các đắc cùng khởi. Các đắc như thế, tập hợp rất nhiều, do không đối ngại nên hỗ tương thâu nhận. Nếu không như vậy, thì một hữu tình đắc, hư không không dung nạp hết huống là hữu tình thứ hai.

HẾT – QUYỂN 4