Đ a n g t i d l i u . . .
Kinh Trì Thế

KINH TRÌ THẾ
Hán dịch: Đời Hậu Tần, Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập, người nước Quy Tư
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 1

Phẩm 1: TỨ LỢI

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà thuộc thành Vương xá cùng với đông đủ chúng đại Tỳ-kheo. Bấy giờ, Đức Thế Tôn được vô số trăm ngàn vạn chúng cung kính vây quanh nghe thuyết pháp. Trong chúng hội ấy có một Đại Bồ-tát tên Trì Thế, vì các Đại Bồ-tát với vô lượng công đức trang nghiêm mà phát tâm muốn biết rõ về tất cả pháp Ba-la-mật, muốn biết rõ việc phát khởi vô lượng nguyện, đầy đủ vô lượng trang nghiêm, muốn thông suốt về tướng quyết định của vô lượng các pháp, muốn phát khởi vô lượng nguyện trang nghiêm nơi chỗ hành của tâm sâu xa thanh tịnh, muốn biết rõ về bố thí được tròn đầy thanh tịnh, muốn biết rõ về trì giới thanh tịnh rốt ráo, muốn biết rõ về tâm nhẫn nhục nhu hòa tròn đủ, muốn biết rõ về tinh tấn thanh tịnh, muốn biết rõ về thiền định thanh tịnh, muốn thông suốt về Trí tuệ ba-la-mật, vì vô lượng công đức như vậy nên rời khỏi tòa ngồi đứng dậy, bày áo vai phải, chắp tay hướng về Phật, bạch:

–Kính bạch Thế Tôn! Con xin phép được thưa hỏi Thế Tôn, vì muốn tạo lợi ích, an vui cho tất cả chúng sinh và các Đại Bồ-tát không đoạn mất giống Phật, chốn hành hóa đầy đủ uy nghi, không vướng mắc vào việc trì giới, thọ giới và hành dụng đại pháp tròn đủ thanh tịnh, khéo biết nắm giữ vô lượng hành xứ nơi đạo pháp, vì các Bồ-tát này nên nay con xin thưa hỏi Đức Thế Tôn. Kính bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát khéo biết về thật tướng của cac pháp, cũng khéo phân biệt về tướng của các pháp, cũng có thể chứng đắc niệm lực, cũng phân biệt rõ về chương cú nơi tất cả các pháp? Thế nào là Đại Bồ-tát khi chuyển thân luôn thành tựu chánh niệm, cho đến khi đạt được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?

Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Trì Thế:

–Lành thay! Lành thay! Này Bồ-tát Trì Thế! Ông đã có thể vì các Đại Bồ-tát nên thưa hỏi Như Lai những việc như vậy. Tức biết, ông vì thương xót thế gian nên làm nhiều việc an ổn cho chúng sinh, tạo lợi ích an vui cho chư Thiên và người đời, cũng làm ánh sáng lớn cho các Bồ-tát nơi đời này và đời sau. Công đức của ông là không thể hạn lượng, nên mới có thể thưa hỏi Như Lai những việc như thế. Ông chắc chắn muốn dứt trừ những sự nghi ngờ cho hết thảy chúng sinh, thương giúp tất cả chúng sinh nên làm ánh sáng lớn, muốn chỉ dạy những điều lợi ích, có ý nghĩa cho tất cả chúng sinh, muốn cho chúng sinh có thể vượt qua con đường hiểm, muốn làm người cứu hộ, làm hải đảo, làm nhà cửa, làm chỗ nương tựa cho chúng sinh. Muốn cứu chúng sinh ra khỏi ba đường ác, muốn đặt yên chúng sinh nơi đạo vô thượng, muốn giải thoát chúng sinh ra khỏi sinh lão bệnh tử, ưu bi khổ não, muốn ban cho chúng sinh niềm vui Niết-bàn vô thượng. Ông muốn giữ gìn chánh pháp nơi đời sau, muốn độ chúng sinh nơi đời ác trược đầy những sợ hãi sau này. Này Bồ-tát Trì Thế! Ông nay hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, ta sẽ giải thích rõ việc này cho ông.

–Xin vâng, kính bạch Thế Tôn!

Phật bảo:

–Này Bồ-tát Trì Thế! Các Đại Bồ-tát vì thấy rõ bốn việc lợi ích nên siêng tu tập về thật tướng của các pháp, cũng phân biệt rõ về văn nghĩa của các pháp. Bốn pháp đó là:

  1. Phải đạt được niệm tròn đủ.
  2. Phải đạt được niệm không gián đoạn.
  3. Phải dùng tuệ an ổn để tự tăng trưởng.
  4. Niệm thường tại tâm.

Này Bồ-tát Trì Thế! Đó là Đại Bồ-tát thấy rõ bốn việc lợi ích nên siêng năng tu tập thật tướng của các pháp, cũng phân biệt rõ về văn nghĩa của các pháp.

Này Bồ-tát Trì Thế! Các Đại Bồ-tát lại thấy rõ bốn việc lợi ích nên siêng tu tập thật tướng của các pháp, cũng phân biệt rõ chương cú của các pháp. Bốn pháp đó là:

  1. Phải khéo nhận biết nghĩa quyết định của các pháp.
  2. Phải khéo nhận biết nghĩa của các pháp.
  3. Phải khéo nhận biết vô số nhân duyên của các pháp.
  4. Phải khéo nhập vào pháp môn như thật của các pháp.

Này Bồ-tát Trì Thế! Các Đại Bồ-tát lại thấy rõ bốn việc lợi ích nên siêng năng tu tập thật tướng của các pháp, cũng khéo phân biệt chương cú của các pháp. Bốn pháp đó là:

  1. Phải khéo biết tướng của vô lượng pháp.
  2. Phải khéo biết tu tập vô lượng pháp quyết định.
  3. Phải nên hành vô lượng công đức để tự tăng trưởng.
  4. Phải thấy biết tướng sinh diệt của các pháp.

Này Bồ-tát Trì Thế! Các Đại Bồ-tát lại thấy rõ bốn việc lợi ích nên siêng tu tập thật tướng của các pháp, cũng phân biệt rõ chương cú của các pháp. Bốn pháp đó là:

  1. Cần phải gần gũi Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
  2. Phải mau chóng đầy đủ các pháp trợ Bồ-đề.
  3. Phải biết rõ các pháp phương tiện mà không theo lời nói của người khác.
  4. Phải biết rõ tất cả trí tuệ.

Này Bồ-tát Trì Thế! Các Đại Bồ-tát lại thấy rõ bốn pháp lợi ích nên siêng năng tu tập thật tướng của các pháp, cũng khéo phân biệt rõ chương cú của các pháp. Bốn pháp đó là:

  1. Bồ-tát vì tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh nên tâm khong keo kiệt.
  2. Thường hành giới thanh tịnh, vì an trú nơi Tỳ-lê-da ba-la-mật.
  3. Phát khởi hạnh tinh tấn dũng mãnh không ngừng.
  4. Vì chánh tư duy nên khéo hành Trí tuệ ba-la-mật.

Này Bồ-tát Trì Thế! Các Đại Bồ-tát lại có bốn pháp nên siêng

năng tu tập thật tướng của các pháp, cũng phân biệt rõ chương cú của các pháp. Bốn pháp đó là:

  1. Thành tựu đầy đủ tâm sâu xa và nguyện thanh tịnh.
  2. Thành tựu đầy đủ công đức của đối tượng hành hóa thanh tịnh.
  3. An trụ nơi công đức nhu hòa, nhẫn nhục.
  4. Phân biệt được ánh sáng nơi thật tướng của các pháp.

Này Bồ-tát Trì Thế! Các Đại Bồ-tát lại có bốn pháp nên siêng tu tập thật tướng của các pháp, cũng khéo phân biệt rõ chương cú các pháp. Bốn pháp đó là:

  1. Vì dốc sức muốn cầu đạt Nhất thiết trí.
  2. Khéo biết phân biệt rõ các Tam-muội của thiền định giải thoát để phát sinh sự mong muốn lớn.
  3. Vì muốn được tâm đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả nên tạo phương tiện hành hạnh thanh tịnh.
  4. Khéo tu tập nghĩa quyết định.

Này Bồ-tát Trì Thế! Các Đại Bồ-tát lại có bốn pháp nên siêng tu tập thật tướng của các pháp, cũng khéo phân biệt rõ chương cú của các pháp. Bốn pháp đó là:

  1. Đầy đủ tuệ hạnh.
  2. Cũng cầu đạt nơi chốn của trí hạnh thanh tịnh.
  3. Ưa thích trí vô ngại.
  4. Thường không xa lìa nguyện của Nhất thiết trí.

Này Bồ-tát Trì Thế! Đó là Đại Bồ-tát có bốn pháp nên siêng tu tập thật tướng của các pháp, cũng khéo phân biệt rõ chương cú của các pháp.

Này Bồ-tát Trì Thế! Các Đại Bồ-tát thấy rõ bốn việc lợi ích nên hay cầu niệm lực. Bốn việc đó là:

  1. Tu tập đầy đủ niệm căn.
  2. Hành tập tuệ an ổn.
  3. Thường đầy đủ niệm không gián đoạn.
  4. Nên tu tập đầy đủ bốn Niệm xứ.

Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát lại thấy rõ bốn thứ lợi ích nên có thể cầu đạt niệm lực. Bốn pháp đó là:

  1. Hành đầy đủ các pháp trợ Bồ-đề, nên niệm luôn ở nơi tâm.
  2. Nhờ niệm căn bén nhạy nên khéo biết sự tu tập ở đời trước.
  3. Vì trí tuệ thanh tịnh tròn đủ nên mau được niệm không gián đoạn.
  4. Gieo trồng nhân duyên về Nhất thiết trí.

Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát lại thấy rõ bốn việc lợi ích nên hay cầu niệm lực. Bốn việc đó là:

  1. Tu tập đầy đủ phương tiện tư duy.
  2. Tu tập trí tuệ như thật.
  3. Siêng phát khởi tinh tấn để được pháp của chư Phật.
  4. Không quên nhớ nghĩ để chứng đắc niệm lực không gián đoạn.

Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát lại có bốn pháp gọi là đạt được niệm lực. Bốn pháp đó là:

  1. Niệm tuệ an ổn do thường siêng năng tinh tấn không ngừng nghỉ.
  2. Thường nhất tâm vì chứng đắc thật tướng của các pháp.
  3. Thường không buông lung do chánh niệm các pháp.
  4. Thường hộ trì các căn nhờ chánh tư duy.

Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát lại có bốn pháp gọi là chứng đắc niệm lực. Bốn pháp đó là:

  1. An trụ nơi sự trì giới thanh tịnh.
  2. Thành tựu hành xứ oai nghi thanh tịnh.
  3. Trừ bỏ năm thứ ngăn che nơi tâm.
  4. Không bị pháp thế gian làm nhiễm ô, xa lìa nghiệp chướng, phiền não chướng.

Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát lại có bốn pháp gọi là chứng đắc niệm lực. Bốn pháp đó là:

  1. Dùng tâm không tán loạn cầu pháp thiện.
  2. Siêng năng tu tập tướng nhất tâm.
  3. Khéo nhận biết các pháp môn chánh nhập.
  4. Xa lìa gia đình, không thích sự náo nhiệt.

Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát lại có bốn pháp gọi là chứng đắc niệm lực. Đó là:

  1. Gần gũi tri thức thiện.
  2. Thường tu tập pháp sâu xa.
  3. Thường thích đến chỗ chư Phật và Bồ-tát.
  4. Thường thích thỉnh vấn pháp tu tập trí tuệ.

Này Bồ-tát Trì Thế! Đó là Đại Bồ-tát thấy rõ bốn pháp nên gọi là chứng đắc niệm lực.

Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát thấy rõ bốn việc lợi ích nên có thể tu tập tất cả tuệ phân biệt chương cú. Đó là:

  1. Khéo biết rõ thật tướng của tất cả pháp.
  2. Phân biệt nhân của tất cả pháp.
  3. Biết nghĩa quyết định của các pháp.
  4. Khéo biết ngôn ngữ, chương cú của tất cả pháp.

Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát lại thấy bốn pháp lợi ích nên có thể tu tập tất cả tuệ phân biệt văn nghĩa. Đó là:

  1. Khéo biết rõ thứ lớp tùy nghi của các pháp.
  2. Khéo biết rõ phương tiện nhân duyên của tất cả pháp.
  3. Tu tập đầy đủ phương tiện của tất cả pháp.
  4. Phân biệt, biết rõ kinh liễu nghĩa, kinh chưa liễu nghĩa.

Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát lại thấy bốn pháp lợi ích nên có thể tu tập tất cả tuệ phân biệt văn nghĩa. Đó là:

  1. Khéo học hỏi trí tuệ là đạo, là phi đạo.
  2. Nên đạt được lực thuyết giảng về nghĩa của tất cả pháp.
  3. Mau chứng được hành xứ của trí tuệ thanh tịnh.
  4. Tu tập Trí tuệ ba-la-mật tròn đủ.

Trì Thế! Đó là Đại Bồ-tát thấy rõ bốn pháp lợi ích nên có thể tu tập tất cả tuệ phân biệt văn nghĩa.

Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát lại có bốn pháp nên có thể tu tập tất cả tuệ phân biệt văn nghĩa. Đó là:

  1. Khéo biết tu tập tướng tập của các pháp.
  2. Khéo biết tướng nhân của các pháp.
  3. Khéo biết tướng duyên của các pháp.
  4. Có thể nhập nơi phương tiện của nhân duyên.

Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát lại có bốn pháp nên có thể tu tập tất cả tuệ phân biệt văn nghĩa. Đó là:

  1. Biết rõ về Khổ của các pháp.
  2. Biết rõ về Tập của các pháp.
  3. Biết rõ về Diệt của các pháp.
  4. Biết rõ về Đạo của các pháp..

Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát lại có bốn pháp nên có thể tu tập tất cả tuệ phân biệt văn nghĩa. Đó là:

  1. Khéo biết các pháp hợp tan.
  2. Tạo phương tiện để đạt được lực của nhân trước.
  3. Khéo biết chỗ thích nghi của các pháp.
  4. Khéo biết phân biệt về văn tự, chương cú.

Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát lại có bốn pháp nên có thể tu tập tất cả tuệ phân biệt văn nghĩa. Bốn pháp đó là:

  1. Biết rõ về kinh không liễu nghĩa.
  2. Ở trong kinh liễu nghĩa, không theo ngôn thuyết của kẻ khác.
  3. Biết rõ tướng ấn của tất cả pháp.
  4. Cũng khéo an trụ trong trí vô tướng của tất cả pháp.

Trì Thế! Đó là Đại Bồ-tát có bốn pháp nên hay tu tập tất cả tuệ phân biệt văn nghĩa.

Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát có bốn pháp chuyển thân thường được niệm không gián đoạn, cho đến được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đó là:

  1. Hiểu rõ về pháp thiện, bất thiện.
  2. Thành tựu an tuệ của niệm đệ nhất.
  3. Có thể xa lìa năm thứ ngăn che nơi tâm.
  4. Tâm luôn nhớ nghĩ đến đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát lại có bốn pháp chuyển thân thường được niệm không gián đoạn, cho đến được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đó là:

  1. Khéo tu tập bốn Niệm xứ.
  2. Khéo tu tập tuệ học phân biệt.
  3. Đối với các thiền định thì trí tuệ là đứng đầu.
  4. Được thông tỏ ở trong trí tuệ quyết định.

Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát lại có bốn pháp chuyển thân thường được niệm không gián đoạn, cho đến được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đó là:

  1. Đạt được các môn Đà-la-ni.
  2. Cũng tu tập trí vô sinh.
  3. Nhập vào tận trí.
  4. Cũng quán sát diệt trí.

Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát lại có bốn pháp chuyển thân thường được niệm không gián đoạn, cho đến được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đó là:

  1. Chấm dứt mọi tham ái, giận dữ.
  2. Không tham đắm tất cả pháp hữu vi, vô vi.
  3. Tâm thông suốt trí tuệ vô vi.
  4. Đạt đến nơi chốn hành hóa của Như Lai.

Trì Thế! Đó là Đại Bồ-tát có bốn pháp chuyển thân thường được niệm không gián đoạn, cho đến đạt được tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát có năm sức của tịnh trí, có thể đạt đầy đủ các công đức như trên. Đó là:

  1. Sức của tịnh trí nơi thâm tâm.
  2. Sức của tịnh trí nơi nguyện.
  3. Sức của tịnh trí nơi căn lành.
  4. Sức của tịnh trí nơi hồi hướng.
  5. Sức của tịnh trí nơi nghiệp chướng.

Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát lại có năm sức của tịnh trí, có thể đạt đầy đủ các công đức như trên. Đó là:

  1. Sức của tịnh trí nơi hành xứ oai nghi.
  2. Sức của tịnh trí nơi niệm cụ túc. 3. Sức của tịnh trí nơi phương tiện.
  3. Sức của tịnh trí nơi duyên chúng sinh.
  4. Sức của tịnh trí nơi duyên tướng.

Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát lại có năm sức của tịnh trí có thể đạt đầy đủ được các công đức như trên. Đó là:

  1. Sức của tịnh trí nơi tâm xả.
  2. Sức của tịnh trí tạo lợi ích cho chúng sinh.
  3. Sức của tịnh trí sinh đại Từ.
  4. Sức của tịnh trí sinh đại Bi.
  5. Sức của tịnh trí sinh đại Hỷ, đại Xả.

Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát lại có năm sức của tịnh trí có thể đạt đầy đủ được các công đức như trên. Đó là:

  1. Sức của tịnh trí trì giới.
  2. Sức của tịnh trí không chấp trước trì giới.
  3. Sức của tịnh trí nhẫn nhục
  4. Sức của tịnh trí không chấp trước nhẫn nhục.
  5. Sức của tịnh trí đa văn.

Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát lại có năm sức của tịnh trí có thể đạt đầy đủ được các công đức như trên. Đó là:

  1. Sức của tịnh trí tinh tấn sâu xa.
  2. Sức của tịnh trí thọ nhận tinh tấn.
  3. Sức của tịnh trí thiền định.
  4. Sức của tịnh trí nơi phương tiện thiền định.
  5. Sức của tịnh trí nơi phương tiện Chỉ Quán.

Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát lại có năm sức của tịnh trí có thể đạt đầy đủ được các công đức như trên. Đó là:

  1. Sức của tịnh trí nơi tuệ.
  2. Sức của tịnh trí nơi phương tiện quyết định về đa văn.
  3. Sức của tịnh trí thế gian, xuất thế gian.
  4. Sức của tịnh trí nơi phương tiện tuệ.
  5. Sức của tịnh trí hữu vi, vô vi.

Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát lại có năm sức của tịnh trí có thể đầy đủ được các công đức như trên. Đó là:

  1. Sức của tịnh trí nơi phương tiện quán.
  2. Sức của tịnh trí nơi minh giải thoát.
  3. Sức của tịnh trí nơi tướng vô sinh.
  4. Sức của tịnh trí nơi nhất tướng, vô tướng.
  5. Sức của tịnh trí nơi Đệ nhất nghĩa, thế đế nghĩa.

Này Bồ-tát Trì Thế! Do Đại Bồ-tát có năm sức của tịnh trí này nên mau đạt được đầy đủ tất cả công đức như vậy.

Này Bồ-tát Trì Thế! Do được lợi ích như vậy nên Đại Bồ-tát đối với sức của tịnh trí này luôn siêng năng tu tập.

Này Bồ-tát Trì Thế! Đại Bồ-tát thành tựu ba pháp, nên ở trong sức của tịnh trí có thể siêng năng tu tập. Ba pháp đó là:

  1. Dục.
  2. Tinh tấn.
  3. Không phóng dật.

Đại Bồ-tát thành tựu ba pháp này, nên có thể siêng năng tu tập, có thể đạt đầy đủ tất cả công đức ở trong sức của tịnh trí. Vì sao?

Này Bồ-tát Trì Thế! Dục, Tinh tấn, Không phóng dật đều là chỗ căn bản của tất cả pháp. Đại Bồ-tát được sức của tịnh trí ấy thì có thể mau chóng được Nhất thiết trí, cũng gọi là bậc tinh tấn không thoái chuyển, cũng gọi là bậc không thoái chuyển nơi pháp, cũng nhờ đấy nên công đức mau được tăng trưởng, cũng ở trong tất cả pháp nhanh chóng có được sức của tịnh trí.

Này Bồ-tát Trì Thế! Nếu người nào ở trong tất cả pháp như vậy mà được sức của tịnh trí thì người đó là ruộng phước của thế gian. Người ấy có thể kế tiếp ta nhận lãnh sự cúng dường. Người ấy có thể đạt đến hành xứ của Như Lai. Người ấy có thể thấy pháp của Như Lai. Người ấy không lâu có thể chứng được trí tuệ của Như Lai.

Này Bồ-tát Trì Thế! Xưa kia trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, khi ta hành đạo Bồ-tát, Phật Nhiên Đăng thọ ký cho ta: “Ông trải qua atăng-kỳ kiếp sẽ được làm Phật.”

Ngay khi ấy Ta mới biết sức của tịnh trí như vậy hiện bày khắp.

Này Bồ-tát Trì Thế! Nếu người nào ở trong tất cả pháp có thể thành tựu sức của tịnh trí như vậy, người ấy cũng sẽ được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác như hôm nay ta đã đạt được. Người ấy cũng chuyển pháp luân như hôm nay ta đã chuyển pháp luân. Người ấy cũng gầm vang tiếng sư tử như ta hôm nay đã gầm vang tiếng sư tử. Người ấy cũng được sức tự tại ở trong tất cả các pháp như ta hôm nay.

Này Bồ-tát Trì Thế! Ông đối với sức của tịnh trí này nên siêng năng tinh tấn hành trì, không lâu sẽ đạt được đầy đủ Nhất thiết trí.

Này Bồ-tát Trì Thế! Nơi đời quá khứ vô lượng a-tăng-kỳ kiếp về trước có Phật hiệu Trí Cao Vương gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Này Bồ-tát Trì Thế! Như Lai Trí Cao Vương này có vô lượng Thanh văn Tăng, cũng có vô lượng Bồ-tát Tăng, là chỗ đạt đến của nhân duyên nơi bản nguyện của Phật. Quốc độ của Ngài không có ba đường ác. Các chúng sinh ở quốc độ đó không biết có sự khổ, tất cả đều được an vui, sung sướng trọn vẹn. Người lìa dục rất nhiều, có thể dứt trừ năm thứ ngăn che. Các chúng sinh này thành tựu được sự an vui thanh tịnh như vậy, như sự an lạc của người vào Đệ tứ thiền. Phật Trí Cao Vương này thọ sáu trăm vạn ức na-do-tha kiếp. Này Bồ-tát Trì Thế! Trong quốc độ ấy chỉ có Phật là vua, không còn có vua nào khác. Chúng sinh trong quốc độ ấy đều gọi Phật là Pháp vương. Phật Trí Cao Vương này thường thuyết giảng kinh “Đoạn trừ nghi hoặc nơi tất cả chúng sinh hoan hỷ nơi tâm của hết thảy chúng sinh thuộc Bồtát tạng” cho các Bồ-tát.

Bấy giờ, có năm trăm Bồ-tát nghe sức của tịnh trí nơi các Bồ-tát ấy, nên phát khởi sức tinh tấn như vậy, trọn đời không ngoi, trọn đời không nghĩ tưởng đến y phục, trọn đời không khởi tưởng ngã, tưởng nhân, tưởng chúng sinh, tưởng nam nữ, trọn đời hoàn toàn không ăn nhiều, chỉ tu tập lực của tịnh trí như vậy, siêng năng tinh tấn hành trì. Năm trăm Bồ-tát do nhân duyên của căn lành ấy, sau khi mạng chung đều được sinh nơi quốc độ ở phương Đông cách đây hơn mười vạn ức cõi nước. Sau khi sinh không bao lâu, nhờ tu tập pháp này nên được thành tựu lợi căn, biết rõ về túc mạng. Quốc độ đó có Phật hiệu là Vô Lượng Hoa Tích Vương, hiện đang thuyết pháp. Các Bồ-tát ở quốc độ đó mới mười sáu tuổi, đều ở chỗ Phật Vô Lượng Hoa Tích Vương xuất gia, trong sáu mươi ức năm hành phạm hanh đồng tử, cũng tu hành tinh tấn như vậy.

Này Bồ-tát Trì Thế! Năm trăm Bồ-tát này được gặp hai mươi ức các Đức Phật như vậy, ở chỗ các Đức Phật đều siêng băng tinh tấn tu tập, thành tựu an tuệ của niệm bậc nhất, sau cùng được gặp Phật Vô Lượng Lực Cao Vương và được thọ ký, qua một vạn kiếp sẽ thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Năm trăm vị này, trong một vạn kiếp được gặp hai vạn ức Phật, đạt đầy đủ Phật đạo, ngay nơi một kiếp, lần lượt được thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bồ-tát Trì Thế nên biết! Đại Bồ-tát muốn mau chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thì đối với lực tịnh trí này nên sinh Duc, Tinh tấn, Không phóng dật. Vì sao? Này Bồ-tát Trì Thế! Vì chư Phật thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đều do Dục, Tinh tấn, Không phóng dật làm căn bản và còn các pháp trợ đạo khác nữa nên có thể đầy đủ pháp Phật.

Này Bồ-tát Trì Thế! Ta nhờ tinh tấn như vậy nên được gặp hai mươi ức Đức Phật, ở trong các pháp đời đời thành tựu niệm lực, đời đời biết được túc mạng, tu tập pháp này không ngừng nghỉ. Ta hoàn toàn không mất các pháp Dục, Tinh tấn, Không phóng dật ấy. Ta luôn thành tựu các pháp Dục, Tinh tấn, Không phóng dật.

Khi ấy, Đức Thế Tôn dùng tâm đại Từ bi ngoảnh nhìn bốn phương và thị hiện sức thần thông làm cho các cõi Diêm-phù-đề trong tam thiên thế giới đều có hóa Phật thuyết giảng kinh “Đoạn trừ nghi hoặc nơi tất cả chúng sinh hoan hỷ nơi tâm của hết thảy chúng sinh thuộc Bồ-tát tạng” này cho các chúng sinh, lại dùng thần lực làm cho đại chúng trong đại hội nơi vườn Trúc đều thấy chư Phật hiện hữu khắp cõi Diêm-phù-đề, mỗi một và đều đang thuyết pháp. Đại chúng trông thấy thảy đều vui mừng, từ chỗ ngồi đứng dậy, cùng nhau lạy Phật và thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Thật là hy hữu! Thần lực của chư Phật Như Lai thật không thể nghĩ bàn, đã thành tựu vô lượng pháp không thể nghĩ bàn.

Bấy giờ, Đức Phật bảo đại chúng:

–Này các thiện nam! Việc này đối với Như Lai chưa đủ lấy làm khó. Vì sao? Vì Như Lai khéo thông suốt tánh của các pháp. Như từ một lỗ chân lông phát ra sức thần thông, ánh sáng chiếu khắp hằng hà sa thế giới trong mười phương, diễn nói giáo pháp. Nơi một lỗ chân lông có cả trăm ngàn vạn ức phần cũng chưa hiện bày hết được một phần. Như Lai đã thành tựu công đức không thể nghĩ bàn như vậy.

Này các thiện nam! Như Lai quán sâu về tâm chúng sinh để thuyết pháp cho họ.

Này các thiện nam! Chúng sinh đời nay ít có người đối với pháp

này ưa thích thực hành.

Này các thiện nam! Chúng sinh đời nay ít có người đối với pháp này thực hành một cách tinh tấn.

Này các thiện nam! Chúng sinh đời nay ít có người đối với pháp này thực hành không phóng dật. Vì sao? Vì Như Lai nay đã xuất hiện nơi đời có đủ năm thứ uế trược xấu ác, đó là: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mạng trược.

Này các thiện nam! Nếu có, cho đến chỉ một người có thể tin nhận pháp thanh tịnh sâu xa này, người đó có thể đạt đến trí tuệ Phật. Người như vậy thật là hiếm có, huống chi là người có thể tin và hiểu việc làm của Như Lai.

Này các thiện nam! Ta luôn luôn nơi cõi sinh tử trang nghiêm nguyện như vậy, hành nhẫn nhục, tinh tấn như vậy. Vì những chúng sinh khổ não không có người cứu hộ, không nơi nương tựa, phần nhiều bị đọa trong đường ác, ngay khi ấy, ta thành tựu Phật đạo, làm lợi ích cho vô lượng a-tăng-kỳ chúng sinh.

Này các thiện nam! Nên biết ân lực của Như Lai vốn thanh tịnh vì nguyện tinh tấn nên có thể làm cho vô lượng a-tăng-kỳ chúng sinh tin hiểu, thọ trì pháp sâu xa như vậy.

Này các thiện nam! Ta trong đời trước giáo hóa các chúng sinh, các chúng sinh này có thể hiểu được pháp của ta.

Này các thiện nam! Nay Phật dùng mười Lực, bốn Vô sở úy, ít có thể khiến chúng sinh tin hiểu pháp sâu xa này. Nếu chúng sinh nào trú trong pháp ấy là đều nhờ ân lực và phương tiện của Như Lai.

Ta ở trong cõi sinh tử luôn luôn không lìa pháp sâu xa này. Ta cũng luôn luôn dùng tâm đại Từ, đại Bi, đại Hy, đại Xả để thâu giữ chúng sinh. Ít có Như Lai nào xuất hiện nơi đời năm trược làm lợi ích cho chúng sinh. Vì sao? Này các thiện nam! Vì nơi đời trước, ta luôn dùng sức đại tinh tấn, sức đại phương tiện để giáo hóa chúng sinh tu tập đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này các thiện nam! Ta nhớ nơi đời quá khứ, trong một ngày xả bỏ ngàn thân để bố thí làm lợi ích cho chúng sinh.

Này các thiện nam! Ta ở trong vô số ngàn vạn đời như vậy, thấy chúng sinh bị đói khát, tự cắt thịt nơi thân để nấu cho họ ăn, mà tâm Ta lúc ấy vẫn không đau buồn, hối hận, chỉ hành đại Bi đối với khắp tất cả muôn loài.

Các thiện nam nên biết! Ta dùng sức đại tinh tấn, sưc đại phương tiện như vậy để giáo hóa chúng sinh tích tập đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác này. Vì thế, này các thiện nam! Nên phát khởi Dục, Tinh tấn, Không phóng dật như vậy mà tu tập quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, như ta khi hành đạo Bồ-tát. Các vị cũng nên giáo hóa làm lợi ích cho chúng sinh như ta.

Này các thiện nam! Chư Phật xuất hiện trong Hiền kiếp này không một vị nào là không khen ngợi ta thế này: “Phật Thích-ca Mâuni thực hành tinh tấn sâu xa như vậy. Phật Thích-ca Mâu-ni đầy đủ tinh tấn như vậy. Phật Thích-ca Mâu-ni đầy đủ Tinh tấn ba-la-mật như vậy. Phật Thích-ca Mâu-ni khi hành đạo Bồ-tát đã giáo hóa chúng sinh như vậy. Ngài xuất hiện nơi đời năm trược làm lợi ích cho vô lượng a-tăng-kỳ chúng sinh.”

Này các thiện nam! Vì hành đạo như vậy nên cần phát khởi Dục, Tinh tấn, Không phóng dật.

Này các thiện nam! Ta nay tuy đã đạt được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mà vẫn không ngừng tinh tấn. Đến lúc Niếtbàn vẫn tinh tấn dũng mãnh, nghiền nát thân thể ra như hạt cải, phân tán chân tay lóng đốt. Vì sao? Vì thương xót chúng sinh nơi đời vị lai.

Ta trong đời trước, khi hành đạo Bồ-tát, chúng sinh được ta giáo hóa, hoặc làm việc sai lầm mà bị đọa vào các xứ nạn, muốn gắng cứu giúp chúng, ta phát khởi tâm đại Bi hiện bày thần lực phân chia xá-lợi cho đến như hạt cải.

Sau khi Ta diệt độ, nếu có các chúng sinh nên dùng xá-lợi để hóa độ khiến tâm được thanh tịnh, khi tâm của các chúng sinh ấy được thanh tịnh rồi, thì ở khắp mọi nơi chốn đều được thành tựu theo nguyện.

Này các thiện nam! Ta xưa kia khi hành đạo Bồ-tát, trong tất cả chúng sinh thành tựu tâm Bi như vậy, nên nghiền nát thân thể, đem xá-lợi phân chia cùng khắp, đó là bản nguyện của ta. Ta dùng vô lượng nhân duyên phước đức như vậy, vì tâm đại Bi nên ta ở nơi đời xấu ác sau này luôn che chở khắp tất cả chúng sinh.

Này các thiện nam! Nếu các Bồ-tát ở trong pháp ấy có thể phát khởi Dục, Tinh tấn, Không phóng dật thì chắc chắn sẽ phát nguyện này, nơi đời sau cùng, đều thọ trì đọc tụng, thuyết giảng rộng những kinh như vậy cho mọi người. Ta sẽ dùng thần lực làm cho các Bồ-tát thọ trì, đọc tụng và thuyết giảng rộng cho mọi người. Ta cũng đem những kinh điển như vậy phó chúc cho các Bồ-tát ấy để họ có thể thọ trì, đọc tụng và thuyết giảng rộng cho người khác. Vì sao? Này các thiện nam! Vì tùy theo kinh này trụ ở chỗ nào, nên biết ở chỗ đó có Phật chưa diệt độ, thế nên Như Lai đem kinh này phó chúc cho các Bồ-tát.

Các thiện nam nên biết! Ta trong đời trước dùng nhân duyên như vậy để thâu giữ chúng sinh, đời nay cũng thâu giữ chúng sinh và đời sau cũng lại sẽ thâu giữ chúng sinh. Nghĩa là hộ niệm kinh pháp này, khiến trong năm trăm năm sau sẽ được lưu hành cùng khắp.

Này các thiện nam! Ngay trong đời này hoặc sau khi ta diệt độ, nếu ở nơi xóm làng, thành ấp, đồng trống, núi rừng, có những kinh điển như vậy, nếu có người thọ trì, đọc tụng và giảng thuyết cho người khác thì nên biết nơi đó chắc chắn có Phật. Vì sao? Vì nhân duyên này nên ta nói chư Phật tức là Pháp thân. Do thấy Pháp tức là được thấy Phật. Không nên dùng sắc thân để thấy Phật. Nếu người nghe pháp, tin pháp, người này tức là tin Phật và nghe theo lời Phật dạy. Người nào ở trong pháp ấy mà tu hành đúng như lời dạy, người này tức là thấy Phật, người này được gọi là người nói như thật, người nói đúng pháp, người y theo pháp mà tu hành.

Này các thiện nam! Thân ta không phải pháp, không phải phi pháp mà gọi là “Tùy pháp hành”, gọi là “Đệ nhất pháp thí”, nghĩa là không tham đắm pháp, không tham đắm phi pháp. Vì sao? Vì nếu người tham đắm pháp, người đó không được gọi là người thấy Phật.

Này các thiện nam! Người không tham đắm nơi tất cả pháp, gọi là người thấy Phật. Nếu người đối với tất cả pháp không có chỗ thấy, đó gọi là người thấy Phật. Vì sao? Vì không thể dùng pháp để diễn đạt về Như Lai, không thể dùng phi pháp để diễn đạt về Như Lai, cũng không thể dùng pháp để thấy Như Lai. Vì sao? Này các thiện nam! Như trong kinh nói: “Các Tỳ-kheo nên biết! Pháp của ta nói ra giống như chiếc bè để qua sông, pháp hãy còn nên xả bỏ, huống chi là phi pháp. Người nào có thể xả bỏ pháp và phi pháp, đó gọi là người thấy Phật. Vì sao? Vì Như Lai gọi là người xả bo tất cả pháp, không còn tham đắm, không thọ nhận danh tự của các pháp, không rơi vào danh tự nơi pháp, huống gì là rơi vào danh tự nơi phi pháp.”

Này các thiện nam! Lìa bỏ danh tự của tất cả pháp gọi là Như Lai. Người nao thấy được như vậy gọi là thấy Như Lai. Vì sao? Vì lìa bỏ chỗ thấy tất cả pháp gọi là thấy Như Lai. Do tất cả pháp là không thủ đắc, nên thấy biết như thật tất cả pháp gọi là thấy Như Lai.

Này các thiện nam! Nếu tất cả pháp không thể thủ đắc mà lìa bỏ tất cả pháp thì ngay trong đó không còn hý luận, không còn danh tự của pháp hay là phi pháp, không đến, không đi, đó gọi là thấy Như Lai. Người nào thấy pháp như vậy, gọi là thấy Như Lai. Người nào có thể thấy Như Lai như vậy gọi là người chánh kiến. Người nào thấy khác đi, gọi là tà kiến. Nếu là người tà kiến tức là vọng kiến, người này không gọi là người thấy đúng đắn.

Này các thiện nam! Người thấy chân chánh là người đoạn trừ tất cả đường ngôn ngữ, phi chân, phi vọng, phi hữu, phi vô, xa lìa tất cả pháp, không thủ tất cả pháp, không đắc tất cả pháp. Người thấy như vậy gọi là thấy Như Lai. Vì sao?

Này các thiện nam! Không lấy pháp tánh để thấy Như Lai, người xa lìa sự thấy tánh nơi tất cả pháp gọi là thấy Như Lai. Nếu người có thể thấy như vậy gọi là chánh kiến.

Này các thiện nam! Các vị nên như vậy để thấy Như Lai. Các vị hãy quán sát đúng như lời dạy của ta để quán sát Như Lai. Người quán sát như vậy sẽ biết tất cả pháp đều là Như Lai, sẽ được chân như nơi tất cả pháp, sẽ được thật tướng của tất cả pháp, sẽ được tướng không hư vọng nơi tất cả pháp, sẽ biết tất cả pháp là pháp của Như Lai, sẽ biết tất cả pháp là hành xứ của Như Lai, sẽ biết tất cả pháp là hành xứ không thể nghĩ bàn.

Này các thiện nam! Cho nên ta nói tất cả pháp là hành xứ của Như Lai. Hành xứ của Như Lai là không hành xứ. Vì sao? Vì hành xứ của tất cả pháp, trong đó không có pháp nào có thể hành, nên nói không hành xứ là hành xứ của Như Lai. Hành xứ của tất cả pháp tức là không hành xứ, không hành xứ tức là hành xứ của Như Lai. Vì sao? Vì hành xứ của tất cả pháp là không sở hữu nên không hành xứ là hành xứ của Như Lai. Tất cả hành xứ nhập nơi hành xứ của Như Lai tức chẳng phải là hành xứ. Như Lai thông đạt, chứng đắc pháp này nên gọi không hành xứ là hành xứ của Như Lai.

Này các thiện nam! Người nào có thể biết không hành xứ của tất cả pháp thì người này có thể nhập nơi hành xứ của Như Lai. Người này có thể quán sát hành xứ của Như Lai. Người này có thể cầu đạt hành xứ của Như Lai. Người này cũng không tham đắm hành xứ của Như Lai. Vì sao? Vì người này biết không hành xứ là hành xứ của Như Lai, xa lìa hành xứ là hành xứ của Như Lai. Tức tất cả pháp là không thể thủ đắc, là không thể phân biệt, không thể tham đắm, nên gọi không phải hành xứ ấy là hành xứ của Như Lai, gọi là hành xứ của Nhập trí, vì không nhập nơi tất cả pháp. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không môn nên dùng môn ấy để nhập.

Này các thiện nam! Tất cả pháp là không nhập, không xuất, không có hình tướng. Vì sao? Vì Như Lai không có chỗ thủ đắc đối với các pháp thì lấy pháp nào hoặc xuất, hoặc nhập, hoặc thấy, hoặc thuyết.

Này các thiện nam! Đó gọi là nhập vào môn của tất cả pháp, vì không có tướng nhập. Tất cả pháp không hợp, không tan, không buộc, không mở. Vì môn của tất cả pháp là môn không nên gọi môn này là: Môn không thể ra, môn không thể vào, môn không thể quay về, môn không thể nói, môn rốt ráo không sinh. Do môn của pháp ấy, đối với pháp không chỗ thấy, không chỗ biết. Do pháp môn ấy, đối với pháp không chứng đắc, không chỗ nhập. Vì sao?

Này các thiện nam! Vì tất cả pháp là không có môn, vì môn vốn không thể thủ đắc.

Hư không là môn của tất cả pháp, vì từ xưa đến nay tánh vốn thanh tịnh.

Không đoạn là mon của tất cả pháp, vì đoạn vốn không sở hữu.

Vô biên là môn của tất cả pháp, vì biên vực là không thể thủ đắc.

Vô lượng là môn của tất cả pháp, vì lượng là không thể thủ đắc.

Vô tế là môn của tất cả pháp, vì các cõi là không thật có.

Này các thiện nam! Nếu thiện nam, thiện nữ nào có thể nhập pháp môn này tức nhập vào tất cả pháp môn, tức biết tất cả pháp môn, tức nói về tất cả pháp môn.

 

Trang 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11

0 0 Phiếu
Xếp Hạng Bài Viết
Đăng ký
Thông báo về
guest

0 Bình Luận
Mới nhất
Cũ nhất Được bình chọn nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận