KINH TAM MUỘI KIM CƯƠNG LUẬN
QUYỂN TRUNG
Sa-môn Nguyên Hiểu nước Tân-La
Phẩm Thứ 3: VÔ SANH HÀNH
Luận chép: Lúc Bồ-tát quán hành thành tựu, biết tự quán tâm thuận theo lý tu hành, chẳng có sanh tâm, chẳng phải không sanh tâm, cũng chẳng có hành, cũng chẳng phải không có hành, chỉ vì lìa bỏ các bên tăng thêm cho nên giả nói là không sanh không đối với có sanh mà sanh tâm, không ở nơi không có sanh mà sanh tâm, vì xa lìa các bên giảm bớt, cũng giả nói là hành. Tuy chẳng phải có hành của hữu hành, mà chẳng phải không có hành của vô hành, thế nên đặt ra tên gọi là phẩm Vô Sanh Hành.
Kinh: “Nhĩ thời Tâm Vương Bồ-tát văn Phật nói pháp xuất ba cõi ngoại bất khả tư nghị, tùng tòa nhi khởi xoa thủ hiệp chưởng dĩ kệ vấn viết”. Lúc bấy giờ Tâm Vương Bồ-tát nghe Phật nói về pháp vượt khỏi ba cõi không thể nghĩ bàn, liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi vòng chắp tay dùng kệ thưa hỏi.
Luận chép: Hiển bày riêng trong quán hành có sáu phần, thứ nhất là xả bỏ tướng các cảnh hiển bày vô tướng quán đã xong ở trước. Dưới đây là phần thứ hai mất đi tâm sanh khởi đó nói về Vô sanh hành. Ngay trong văn có ba: Một chính là nói, hai là khen ngợi, phần thứ ba đó nói về nghe nói đạt được lợi ích. Trong phần một chánh nói có bốn phần của nó: Một là hướng đến hỏi – đáp lại. Hai là lại nêu lên hỏi – đáp. Ba là Bồ-tát lĩnh ngộ hiểu rõ. Bốn là Như-lai nói về thành tựu. Trong phần một có sáu: 1. Hỏi. 2. Đáp. 3. Vấn nạn. . Từ chối. . Thỉnh cầu. 6. Giải thích. Trong phần một có hai: Trước là lời tựa của người kết tập kinh. Bồ-tát Tâm Vương thuận theo Thể mà lập thành tên gọi, nhưng nghĩa của Tâm Vương sơ lược có hai thứ: Một là tâm của tám thức cai quản các tâm sở nên gọi là Tâm Vương. Hai là pháp của một tâm cai quản toàn bộ nhiều đức cho nên gọi là Tâm Vương. Nay Bồ-tát này nhập vào vô sanh hành chứng đạt một Tâm Vương, từ thể đã chứng dùng lập thành tên gọi. Nay trong phẩm này nói về vô sanh hành, cho nên Bồtát Tâm Vương khởi sự thưa hỏi về pháp thoát ra ba cõi không thể nghĩ bàn, là nêu ra pháp đã nghe để làm căn bản cho sự khởi sự thưa hỏi. Pháp đã nghe đó nghĩa là phẩm trước giới thiệu, nay lại nêu ra sau để thâu nhiếp điều trước đó, nghĩa là cuối cùng tụng chép: Vượt thoát ba cõi cho đến đã thành tựu nên.
Kinh: “Như-lai sở nói nghĩa, xuất thế vô hữu tướng, khả hữu nhất thiết sanh, giai đắc tận hữu lậu, đoạn kết không tâm ngã, thị tức vô hữu sanh, vân hà vô hữu sanh, nhi hữu vô sanh nhẫn”. Nghĩa mà Như-lai nói xuất thế chẳng có tướng Có, có thể có tất cả sanh, đều được tận cùng hữu lậu, dứt hẳn tâm – ngã là không, đây chính là không có sanh, vì sao không có sanh, mà lại có vô sanh nhẫn?
Luận chép: Hai tụng này là từ ngữ thưa hỏi, trong đó tụng đầu là lãnh ngộ điều đã nói trước đây, nửa bài tụng trên lãnh ngộ pháp ấn về một vị trước đó, nửa bài tụng sau là lãnh ngộ sự thành tựu về nhất thừa tiếp đó, một tụng sau chính là khởi sự thưa hỏi, trong đó nửa tụng trước là nhắc lại nghĩa Vô sanh, nửa tụng sau hỏi về vô sanh nhẫn, đã không có sanh, thì phải không có tâm nhẫn.
Kinh: “Nhĩ thời Phật cáo Tâm Vương Bồ-tát ngôn: Thiện nam tử! Vô sanh pháp nhẫn, pháp bổn vô sanh, chư hành vô sanh, phi vô sanh hành, đắc vô sanh nhẫn tức vị luống dối”. Lúc bấy giờ Phật bảo Bồ-tát Tâm Vương: Này người thiện nam! Vô sanh pháp nhẫn, pháp vốn sanh khởi, các hành vô sanh, chẳng phải vô sanh hành đạt được Vô sanh nhẫn tức là luống dối.
Luận chép: Đây là phần thứ hai là trả lời. Ý trả lời có hai: Trước chỉ ra tướng vô sanh nhẫn, sau là nói rõ sai lầm về có đạt được. Vô sanh pháp nhẫn: Thông hiểu pháp vốn vô sanh, vậy thì Định Tuệ các hành cũng vô sanh, chẳng phải đối với vô sanh mà có khả năng hành nhẫn. Do đó nói chẳng phải sanh hành. Trong đó có đạt được hành của khả năng nhẫn thì trái với chân thật nhẫn không có trụ không có hành (vô trụ vô hành), cho nên nói tức là luống dối.
Kinh: “Tâm Vương Bồ-tát ngôn: Tôn giả! Đắc vô sanh nhẫn tức vi luống dối, vô đắc vô nhẫn ưng phi luống dối”. Tâm Vương Bồ-tát chép: Bạch Đức Thế Tôn! Đạt được vô sanh nhẫn tức là luống dối, không đạt được vô sanh nhẫn, lẽ ra chẳng phải luống dối.
Luận chép: Đây là phần thứ ba vấn nạn Ý vấn nạn mà chép: Nếu cho rằng có đạt được có nhẫn là luống dối, thì nghĩa là không đạt được vô sanh nhẫn thì lẽ ra chẳng phải luống dối, vì ngược lại với luống dối.
Những người học Đại thừa vô sở đắc, chấp như vậy, tự cho là chẳng phải luống dối, vì hiển bày cái vọng kia cho nên vấn nạn như đây.
Kinh: “Phật ngôn: Bất! Hà dĩ cố? Vô đắc vô nhẫn thị tắc hữu đắc, hữu đắc hữu trụ thị tắc hữu sanh, hữu sanh ư đắc, hữu sở đắc pháp tịnh vi luống dối”. Đức Phật nói: Không phải! Tại vì sao? Không đạt được vô sanh nhẫn tức là có đạt được, có đạt được có an trụ tức là có sanh khởi đối với đạt được, có pháp đã đạt được hoàn toàn đều luống dối.
Luận chép: Đây là phần thứ tư từ chối. Trong đó có hai: Không phải ấy là thẳng thắn từ chối. Từ “Tại vì sao? v.v…” trở xuống là phần thứ hai giải thích về từ chối. Ý từ chối mà chép: Nếu ý kia cho rằng không đạt được vô sanh nhẫn thì tuy không thật có cái có của có đắc – có nhẫn mà còn đạt được cái không của không đắc – vô sanh nhẫn đó. Đã đạt được đối với cái không có thì tâm trụ vào nơi không có, tâm đã có trụ vào tức là có sanh khởi, nghĩa là có tâm sanh khởi đối với có cái đã đạt được, cũng trái với vô sanh không có đạt được, vì thế cho nên nói rằng hoàn toàn là luống dối.
Kinh: “Tâm Vương Bồ-tát ngôn: Tôn giả! Vân hà vô nhẫn vô sanh tâm nhi phi luống dối?”. Tâm Vương Bồ-tát chép: Bạch Đức Thế Tôn! Vì sao tâm vô sanh nhẫn – bất sanh khởi mà lại chẳng phải luống dối?
Luận chép: Đây là phần thứ năm thỉnh cầu. Truy tìm vấn nạn đến cùng lộ trình mà ý không có thể đến được, vì thế cần phải ngước lên thưa hỏi thỉnh cầu mong được hướng dẫn cho.
Kinh: “Phật ngôn: Vô nhẫn vô sanh tâm giả, tâm vô hình đoạn, do như hỏa tánh, tuy xử mộc trung kỳ tại vô sở quyết định tánh cố, đản danh đản tự, tánh bất khả đắc, dục thuyên kỳ lý, giả nói vi danh, danh bất khả đắc, tâm tướng diệt nhĩ, bất kiến nơi chốn, tri tâm như thị tắc vô sanh tâm”. Đức Phật nói: Tâm vô nhẫn vô sanh ấy là tâm không có hình hài dài ngắn, giống như tánh lửa, tuy ở trong gỗ mà nó thuộc về tánh không có gì quyết định, chỉ là danh từ chỉ là tên gọi, tánh không thật có, muốn giải thích về lý đó, mượn làm tên gọi, tên gọi không thật có, tướng của tâm cũng như vậy, không thấy nơi chốn biết tâm như vậy thì vô sanh.
Luận chép: Dưới đây là phần thứ sáu giải thích. Trong đó có bốn: Trước khai bày đạo lý vô đắc. Kế đến chỉ ra đạo lý vô sanh. Ba là nêu lên không phải. Bốn là trình bày chính là. Trong phần đầu có ba, đó là Pháp – Dụ và Họp. Đầu tiên nói về tâm vô nhẫn vô sanh ấy là nhắc lại tâm của pháp nhẫn đang hiện tại. Nói rằng tâm vô hình đoạn ấy là nói rõ tâm không thật có. Hình là nói về Thể, Đoạn là nói về Phần, chính là trong các duyên cầu tìm Thể Phần của tâm, hoặc chính là – hoặc xa lìa đều không có gì đạt được. Do lý này cho nên không có hình hài dài ngắn. Không phải ấy gọi là tướng hình đoạn của vô sắc. Trong dụ về tánh lửa tuy ở trong gỗ là dụ cho tâm nhẫn, tuy ở trong lý mà nó thuộc về không có gì (Vô sở), ngay trong gỗ này có nhiều cực vi, trong đó hoàn toàn không có tánh lửa. Như vậy trong lý có hằng sa pháp môn, ở trong đó tìm tâm không bao giờ có ở đó, như vậy tánh lửa không có lý ở đó, có Phật – không có Phật thì pháp tánh thường như vậy, cho nên nói là tánh Quyết định. Từ “Hỏa tánh danh v.v…” về sau là nghĩa không thật có. Như vậy tánh lửa tuy không thật có mà trong gỗ đó không phải không có tánh lửa. Muốn giải thích lý này nói về tên gọi tánh lửa, mở rộng phân tích tên gọi này chỉ có các chữ, chuyển sang cầu tìm các chữ đều không thật có. Danh tướng của tâm nhẫn nên biết cũng như vậy, cho nên kế là hợp lại mà chép: Tướng của tâm cũng như vậy. Bồ-tát đạt được nhẫn biết tâm như vậy, làm sao có thể ở trong đó thường giữ lấy tâm sanh? Căn cứ điều này cho nên chép: Không có tâm sanh.
Kinh: “Thiện nam tử! Thị tâm tánh tướng hựu như A-ma-lặc-quả bổn bất tự sanh, bất tùng tha sanh, bất cọng sanh, bất nhân sanh, vô sanh. Hà dĩ cố? Duyên đại tạ cố duyên khởi phi sanh, duyên tạ phi diệt, ẩn hiển vô tướng, căn lý vắng lặng, tại vô hữu xứ bất kiến sở trụ, quyết định tánh cố”. Này người thiện nam! Tánh tướng của tâm này lại như quả A-ma-lặc, vốn không tự sanh ra, không từ nơi khác sanh ra, không cùng chung sanh ra, không nhân tố sanh ra, không có sanh ra. Tại vì sao? Vì duyên thay thế tàn tạ cho nên duyên phát khởi chẳng phải sanh, duyên rơi rụng chẳng phải diệt, ẩn kín hiển bày không có tướng, gốc rễ lý vắng lặng, tồn tại mà không có nơi chốn, không thấy nơi an trụ, vì tánh quyết định.
Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai nói về lý vô sanh. Trong đó có hai: Trước là dụ – sau là hợp. Trong dụ có hai: Trước nói về bốn bất, sau nói về tám bất. Nói về bốn không là vì đối đãi duyên nên không tự sanh, tự gieo hạt nên không từ nơi khác sanh; không tạo tác cho nên chẳng cùng chung sanh, có tác dụng cho nên chẳng thể không có sanh. Lại, lúc chưa sanh không có tự nhiên cho nên không từ tự sanh. Khi đã sanh, đã có nên không cần tự đã không thành tựu, chờ đợi ai có người khác? Tự – tha đã không có, sao có thể có cùng sanh? Có nhân tố mà sanh, đã không thật có, huống chi có không nhân tố mà sanh ư? Như vậy cầu mong sanh khởi đều không có gì đạt được. Nói về không nhân tố sanh ra và không có sanh ra: Là nói về chẳng thể không có nhân tố mà sanh, gọi là không khả năng sanh ra nhân “không có” mà quả được sanh ra . Từ “vì sao v.v…” trở xuống là giải thích điều phục nghi ngờ. Ý nghi ngờ chép: Ba cái bất như vậy, thứ ba như thế nào? Ý cho rằng quả sanh ra – hạt giống là nhân tố gần, đất – nước là duyên xa. Hai thứ này cùng hợp lại cho nên có quả sanh ra, vì sao lại nói không cùng chung sanh ra? Thế nên hỏi là vì sao? Vì duyên thay thế tàn tạ: Nói về hai duyên kia trước là thay thế, sau là rơi rụng không thể nào tạm dừng. Lúc dừng đã không có thì chẳng có công dụng, công dụng chẳng có cho nên đều không thể sanh ra quả. Như kệ chép: “Các hành đều là sát-na, trụ còn không có huống chi là dụng”, do đó lại cầu thay thế tàn tạ, không có sanh không có diệt, Vì sao? Vì đã không có tạm thời an trụ thì không có sanh, vì sanh không có, nên không có diệt vì thế nói duyên phát khởi chẳng phải sanh, duyên rơi rụng chẳng phải diệt. Như vậy suy xét tìm kiếm ẩn kín hay hiển bày đều không thật có. Ẩn kín là hạt giống còn dưới mặt đất, hiển bày là mầm cây đã nẩy ra trên mặt đất. Gốc rễ lý vắng lặng: Suy xét gốc rễ cây đó và lý của thân cây cầu sanh ra nhân của quả cây rốt ráo không bao giờ phát khởi, cho nên nói là vắng lặng. Còn không có nơi chốn, không thấy nơi an trụ, Vì sao? Vì tánh quyết định, nghĩa về tánh quyết định như trước đã nói.
Kinh: “Thị quyết định tánh diệt bất nhất bất dị bất đoạn bất thường bất nhập bất xuất bất sanh bất diệt, ly chư tứ báng ngôn ngữ đạo đoạn, vô sanh tâm tánh diệt phục như thị, vân hà nói sanh bất sanh hữu nhẫn vô nhẫn?”. Tánh quyết định này cũng không phải một là không khác – không đoạn – không thường – không vào – không ra – bất sanh – không diệt, xa lìa các loại về bốn sự chê bai đường ngôn ngữ dứt, tâm tánh vô sanh cũng giống như vậy, vì sao nói là sanh – bất sanh – có nhẫn – không nhẫn?
Luận chép: Kế là nói về tám bất. Chẳng phải dứt khoát pháp là như vậy, chỉ riêng bốn bất trước đây cũng đủ bặt dứt tám thứ như một là khác v.v… Vì sao như vậy? Vì quả và hạt giống không phải một, tướng đó không như nhau, mà cũng chẳng khác nhau, xa lìa hạt giống không có quả. Lại, hạt giống và quả không dứt đoạn vì quả nối tiếp hạt giống sanh ra, mà cũng không thường hằng, vì quả sanh ra thì hạt giống diệt đi. Hạt giống không nhập vào quả, vì lúc là quả thì không hạt giống. Không ngoài hạt giống vì khi là hạt giống thì không có quả, không vào trong, không ra ngoài cho nên bất sanh. Không thường hằng không đứt đoạn cho nên không diệt. Không diệt cho nên chẳng thể nói là. Bất sanh cho nên không thể nói có. Xa lìa hai bên nên không thể nói là vừa có vừa không có. Không thích hợp một là trung cho nên không thể nói là chẳng phải có chẳng phải không. Vì thế nói là xa lìa các loại về bốn sự chê bai ngôn ngữ dứt. Quả A-ma-lặc như vậy bặt dứt nói năng. Tâm pháp nhẫn cũng không khác chỗ này, cho nên nói tâm tánh vô sanh cũng giống như loại này.
Kinh: “Nhược hữu nói tâm hữu đắc hữu trụ cập dĩ kiến giả tức vi bất đắc A-nậu-đa-la tam-miệu-tam-Bồ-đề Bát-nhã, thị vi trường dạ”. Nếu có người nói tâm có đạt được – có an trụ cho đến nhìn thấy tức là không đạt được A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề-bát-nhã, đúng là đêm dài tăm tối.
Luận chép: Đây là phần thứ ba nêu lên điều không đúng. Nghĩa là có người nói rằng tâm thể của tâm vô sanh nhẫn có thể được an trụ vào vô sanh, và cùng với người có thể nhìn thấy lý Vô sanh, không hiểu rõ tâm tánh, dứt khoát là vọng chấp thường chướng ngại Bồ-đề và Bát-nhã đó là nói về không đạt được tính Bồ-đề thanh tịnh có thể chứng Bátnhã. Lại, Bồ-đề là bắt đầu khởi lên Bồ-đề. Nói Bát-nhã là nhân của Bồ-đề, không đạt được nhân giác ngộ cho nên là đêm dài tăm tối, vọng tưởng từ vô thỉ là giấc mộng rất lớn.
Kinh: “Liễu biệt tâm tánh giả tri tâm tánh như, thị tánh diệt như, thị vô sanh hành”. Phân biệt rõ ràng tâm tánh ấy là biết tâm tánh Như, tánh này cũng Như, là vô sanh hành.
Luận chép: Đây là phần thứ tư nói rõ điều đúng. Nói liễu biệt tâm tánh tức là dùng tự tâm hiểu rõ tánh của tự tâm. Như kinh chép: “Nếu có thể dùng khả năng giữ lấy tác ý trở lại có thể thông đạt khả năng giữ lấy tác ý, như vậy chính là năng duyên bình đẳng – sở duyên bình đẳng, trí vô lậu phát sanh thông đạt Thánh đế”. Biết tâm tánh như: Vì biết tự quán tâm thể tánh bình đẳng. Tánh này cũng như: Là có thể biết dụng, vì tánh dụng bình đẳng, như vậy quán tâm thể dụng bình đẳng, bất sanh – không diệt – không trước – không sau. Vì điều này cho nên nói là vô sanh hành. Trước nói về Vô sanh của bốn bất là nói rõ lý vô sanh, lý thông suốt phàm Thánh. Nay nói về vô sanh của biết Như (tri như) là nói về Vô sanh hành, hành riêng ở Thánh, hành của Thánh cùng một vị với lý, lý thông suốt với khắp cả, bình đẳng với trí, bình đẳng một vị cho nên Bậc Thánh vốn không thể nào khác nhau. Có chung có riêng cho nên bậc Thánh vốn không thể nào giống nhau. Không thể nào giống nhau ấy tức là giống nhau mà khác nhau. Không thể nào khác nhau ấy tức là khác nhau mà giống nhau. Giống nhau ấy là phân rõ giống nhau đối với khác nhau. Khác nhau ấy là trình bày khác nhau đối với giống nhau. Trình bày khác nhau đối với giống nhau ấy chẳng phải phân chia giống nhau làm khác nhau. Phân rõ giống nhau đối với khác nhau ấy là chẳng phải loại trừ khác nhau làm giống nhau. Vì giống nhau chẳng phải loại trừ khác nhau cho nên không thể nói là giống nhau. Khác nhau chẳng phải phân chia giống nhau cho nên không thể nói là khác nhau. Nhưng vì không thể nói khác nhau cho nên được nói là giống nhau không thể nói giống nhau cho nên được nói là khác nhau. Nói và không nói chẳng hai chẳng khác.
Kinh: “Tâm Vương Bồ-tát ngôn: Tôn giả! Tâm nhược bổn như vô sanh ư hành, chư hành vô sanh, sanh hành bất sanh, bất sanh vô hành, tức vô sanh hành dã”. Bồ-tát Tâm Vương chép: Bạch Đức Thế Tôn! Tâm nếu vốn là Như, vô sanh đối với hành, các hành vô sanh, sanh hành không thể sanh, không thể sanh vô hành, tức là vô sanh hành.
Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai quay lại chất vấn – trả lời. Trong đó có tám: 1. Đưa ra hành vấn nạn lý; 2. Hỏi vặn lại có chứng đạt; 3. Dựa vào trả lời không có chứng đạt; . Hỏi vặn lại có đạt được; . Dựa vào trả lời không có đạt được; 6. Nói về không có chứng đắc đạt được; 7. Lại trình bày điều nghi ngờ; 8. Giải quyết sự nghi đó. Đây chính là thứ nhất nêu ra hành vấn nạn lý. Nói tâm nếu vốn là như vô sanh đối với hành ấy là nêu ra nghĩa về hành vô sanh đã nói trước đây, đó chính là trước đây nói “Biết tâm tánh Như, tánh này cũng Như, là vô sanh hành”, nghĩa là vô sanh đối với hành của sanh diệt, tức là chính là nêu ra hành tướng của vô sanh. Nói là hành vô sanh ấy là nêu ra lý vô sanh, nghĩa là hành năm ấm của các chúng sanh xưa nay vô sanh. Sanh hành không thể sanh là nói về lý vô sanh khác với hành vô sanh, nghĩa là sanh khởi hành chính là Không không thể sanh chẳng phải do chứng lý diệt tâm không thể sanh. Nói không thể sanh vô hành ấy là hiển bày lý bất sanh tương tự hành vô sanh, nghĩa là môn Bất sanh cũng là vô tâm hành, như vô sanh nhẫn – vô phân biệt hành cho nên thuận theo chính là vô sanh hành phải chăng? Nếu vậy thì tất cả phàm phu không ai chứng đắc vô sanh nhẫn.
Kinh: “Phật ngôn: Thiện nam tử! Nhữ dĩ vô sanh nhi chứng vô sanh hạnh da?”. Đức Phật nói: Này người thiện nam! Ông dùng vô sanh mà chứng vô sanh hành phải chăng?
Luận chép: Đây là phần thứ hai hỏi vặn lại có chứng đạt. Ý vặn lại mà chép: Lúc Ông nhập vào quán Vô sanh nhẫn vì dựa vào lý các hành vô sanh mà được Vô sanh chăng? Sở dĩ chất vấn ngược lại như thế là vì kia dùng lý vô sanh phân biệt khác với hành vô sanh mà vấn nạn lý vô sanh cũng là hành vô sanh. Nay hỏi vặn: Lúc ông nhập vào quán lý – hành phân biệt khác nhau, có năng – sở hay chăng?
Kinh: “Tâm Vương Bồ-tát ngôn: Bất! Hà dĩ cố? Như vô sanh hành tánh tướng vắng lặng, vô kiến vô văn, vô đắc vô thất, vô ngôn vô nói, vô tri vô tướng, vô thủ vô xả, vân hà thủ chứng? Nhược thủ chứng giả tức vi trách luận, vô tránh vô luận nãi vô sanh hành”. Bồ-tát Tâm Vương chép: Không thể! Vì sao? Như vô sanh hành tánh tướng là không vắng lặng, không thấy không nghe, không được không mất, không lời không nói, không biết không tướng, không lấy không bỏ, làm thế nào thủ chứng? Nếu thủ chứng tức là tranh luận, không tranh luận chính là Vô sanh hành.
Luận chép: Đây là phần thứ ba vâng mạng trả lời không có chứng đạt. Trong đó có ba: Một là nói về không có chứng đạt; hai là nêu ra cái sai; ba là nói đều đúng. Trong phần một lại có hai: Trước là nêu ra – sau là giải thích. Như vô sanh hành tánh tướng vắng lặng là câu nêu chung. Nói tánh vắng lặng, nghĩa là quán tâm Thể tánh xa lìa tướng sanh diệt, tức là Biết tâm tánh Như đã nói ở trước. Tướng vắng lặng là quán tâm biết dụng, dụng tướng cũng Như, chính nói rằng Tánh này cũng Như ở trước. Xuống dưới dùng mười vô giải thích câu chung này. Không thấy, không nghe: Tâm tánh ít có phẳng lặng, phẳng lặng cho nên bặt dứt sắc chất chẳng phải cái mà hình tượng biểu thị vì ít có cho nên bặt dứt âm thanh chẳng phải cái mà giáo pháp giải thích (sở thuyên) không được, không mất: Là nói Không mà chẳng có gì đạt được, xả bỏ Sanh mà không có gì mất đi. Bốn không có (tứ vô) như vậy giải thích về tánh Vắng lặng. Không lời, không chép: Tâm hành đã vắng lặng không khởi lên nói năng. Không biết không tướng: Tâm hành vắng lặng xa lìa hai phần. Không lấy, không bỏ: Đã không có phân biệt không có tánh đáng giữ lấy – không có tướng đáng bỏ. Sáu như vậy giải thích về tướng Vắng lặng. Trong Vô sanh hành vắng lặng như vậy, vì sao ở trong đó mà lại có thủ chứng? Lúc dấy lên trả lời điều này thì tự biết vấn nạn trước dây không trở thành khó khăn. Nêu ra cái sai nói lên cái đúng. Tìm hiểu thì có thể biết được.
Kinh: “Phật ngôn: Nhữ đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đềdạ”. Đức Phật nói: Ông đạt được A-nậu-đa-la-Tam-miệu-Tam-bồ-đề hay chăng?
Luận chép: Đây là phần thứ tư hỏi vặn lại có chứng đạt chăng. Hỏi: Bồ-tát chưa đạt được A nậu Bồ-đề, tại vì sao Như-lai hỏi ông đạt
được chăng? Giải thích: Ở đây tuy chưa đạt được Bồ-đề rốt ráo, mà đã chứng đắc Sơ Địa Bồ-đề. Như trong luận Pháp Hoa chép: “Tám đời cho đến một đời đạt được A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, nghĩa là chứng đạt Sơ Địa Bồ-đề, vì xa lìa sanh tử Phần đoạn trong ba cõi, tùy theo phần có thể thấy chân như Phật tánh gọi là đạt được Bồ-đề, chẳng phải cho là rốt ráo đầy đủ Như-lai phương tiện Niết-bàn”. Xét rằng: Là dựa theo chân như Phật tánh gọi tên là Bồ-đề, có thể chứng đạt cái thấy cho nên gọi là đạt được Bồ-đề. Như trong kinh nói các pháp tánh không chính là Bồ-đề. Hán dịch như vậy.
Kinh: “Tâm Vương Bồ-tát ngôn: Tôn giả! Ngã vô đắc A-nậu-đala-tam-miệu-tam-bồ-đề. Hà dĩ cố? Bồ-đề tánh trung vô đắc vô thất, vô giác vô tri, vô phân biệt tướng, vô phân biệt trung tức thanh tịnh tánh, tánh vô gian tạp, vô hữu ngôn nói, phi hữu phi vô, phi tri phi bất tri, chư khả pháp hành diệc phục như thị. Hà dĩ cố? Nhất thiết pháp hành bất kiến nơi chốn, quyết định tánh cố bổn vô hữu đắc bất đắc, vân hà đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề?”. Bồ-tát Tâm Vương chép: Bạch Đức Thế Tôn! Con không đạt được A-nậu-đa-la-Tam-miệu-Tam-bồđề. Vì sao? Vì trong tánh Bồ-đề không có được – không có mất – không có hiểu – không có biết, không có sự phân biệt, trong chỗ không có phân biệt chính là tánh thanh tịnh, tánh không có pha tạp, không có nói năng, chẳng phải có – chẳng phải không có, chẳng phải biết – chẳng phải không biết, các pháp có thể hành cũng giống như vậy. Tại vì sao? Vì tất cả pháp hành không thấy nơi chốn, tánh quyết định cho nên vốn chẳng có được hay không được, làm sao được A-nậu-da-la Tam miệu Tam Bồ-đề?
Luận chép: Đây là phần thứ năm dựa vào trả lời không có được. Trong dó có ba, đó là nêu ra, giải thích và kết luận. Trong phần giải thích có hai: Trước là nói Bồ-đề vốn đạt được mà tánh không hề đạt được; sau là nói các hành có thật có mà tướng không hề đạt được. Trong phần trước nói về tánh Bồ-đề, nghĩa là tánh chân như là không vô ngại – tánh xa lìa tối tăm che ngăn nên gọi là Bồ-đề. Trong đó vốn không có chân tánh giữ lại, cũng chính là vốn không có vọng tưởng mất đi, cho nên nói là không có được, mất. Như vậy cái hiểu vốn có (bổn giác) xa lìa cái hiểu của suy nghĩ tạo thành, cũng mất đi cái biết bất chợt cho nên nói là vô giác vô tri. Đã không có cái thấy phân biệt xa lìa, tướng sở hành nên nói là không có tướng phân biệt. vì như vậy cho nên nói chẳng bị hoặc làm vẩn đục, bổn tánh xa lìa tạp nhiễm nên nói là Tức tánh thanh tịnh. Chiều dọc chẳng phải sanh diệt làm cho gaín cách- chiều ngang chẳng phải năng sở làm cho lẫn lộn, cho nên nói là Tánh không xen lẫn. Không có ngôn nói là vì năng ngôn – sở ngôn chẳng có gì không thể bặt dứt. Chẳng có, chẳng không ấy là tuy chẳng phải có Như mà chẳng phải không có Như. Chẳng phải biết, chẳng phải không biết là tuy chẳng phải vốn có hiểu biết mà chẳng phải không thể hiểu biết. Tánh Bồ-đề như thế không có nghĩa để đạt được Từ “Các pháp có thể hành v.v…” trở xuống là kế là hiển bày hành không có khả năng đạt được. Như phẩm trước nói về hành của sáu độ chẳng có gì không phải là khuôn phép chân thật (chân quỹ). Nói khả năng được các pháp cũng như thế ấy là vì giống như Vô đắc trước đây. Tất cả pháp hành ấy là các hành về sáu độ. Không thấy nơi chốn ấy là không nhìn thấy nơi chốn vốn có thể hành như được – mất – hiểu – biết cho đến có – không – biết – không biết v.v… Cùng với Bồ-đề bình đẳng và hoàn toàn bình đẳng, cho nên vốn không có khả năng đạt được hay không thật có. Từ “Làm sao v.v…” về sau là tổng hợp kết luận về Vô đắc.
Kinh: “Phật ngôn: Như thị, như thị! Như nhữ sở ngôn nhất thiết tâm hành bất quá vô tướng thể tịch vô sanh”. Đức Phật nói: Đúng vậy, đúng vậy! Như ông đã nói tất cả tâm hành chỉ là Vô tướng – thể vắng lặng Vô sanh.
Luận chép: Dưới đây là phần sáu Như-lai nói về thành tựu, trong đó có ba: Một là chính nói về, hai là nêu ra cái sai, ba là nói về chỗ đúng. Trong phần Một cũng có ba: Nói chung về. Nói riêng sau cùng lại kết luận thành tựu. Đầu tiên là nói “đúng thế, đúng thế” ấy là nói về vô chứng ở trước và vô đắc ở sau. Từ “tất cả v.v…” trở xuống là phần hai nói riêng. Nói vô sanh là vô sanh hành, nói về không có năng chứng – năng đắc. Nói về vắng lặng là lý vắng lặng, nói không có sở chứng – sở đắc. Đầu tiên nói về tất cả tâm hành là vì tất cả trí vô phân biệt của xuất thế tương ưng với tâm hành không giữ lấy các tướng chứng đạt lĩnh hội vô tướng. Nói chỉ là vô tướng – thể ở trong vắng lặng sâu xa nhưng vô sanh cho nên nói là thể vắng lặng vô sanh.
Kinh: “khả hữu thức thức, diệc phục như thị. Hà dĩ cố? nhãn nhãn xúc tất giải vắng lặng, thức diệc vắng lặng, vô hữu động bất động tướng, nội vô tam thọ, tam thọ vắng lặng, nhĩ tỷ thiệt thân, tâm ý ý thức cập dĩ Mạt-na A-lê-da diệc phục nư thị, giai diệc bất sanh tâm vắng lặng cập vô sanh tâm”. Có thể có thức thức, cũng giống như vậy. Tại vì sao: Vì nhãn – nhãn tiếp xúc đều là không vắng lặng, thức cũng là không vắng lặng, không có tướng động hay bất động bên trong không có ba thọ, ba thọ vắng lặng, nhĩ tỷ thiệt thân, tâm ý – ý thức cho đến Mạt-na, A-lê-da cũng giống như vậy, cũng đều không thể sanh khởi tâm vắng lặng và tâm vô sanh.
Luận chép: Đây là phần thứ hai thuật về nghĩa vắng lặng, đó là tám thức là không vắng lặng của các thế gian. Trong đó có hai: Một là ví dụ trước, hai là giải thích rộng ra. Đầu tiên chép: Có thể có thức – thức thâu nhiếp chung tất cả tám thức vốn có ở thế gian, như nói xứ xứ, vì thâu nhiếp tất cả nơi chốn. “Cũng như thế ấy là lý Vắng lặng giống như Vô sanh của tâm xuất thế trước đây. Từ “Vì sao? v.v…” trở xuống là phần hai giải thích rộng. Nhãn là nhãn căn, nhãn xúc tức là xúc trong Biến hành, dựa vào ba hòa hợp mà sanh khởi, làm cho ba hòa hợp muốn nói về Tản Không cho nên có ý đưa ra điều đó. Thức cũng Không: Nhãn xúc đã Không thì Nhãn thức không thể phát sanh. Không có nối tiếp nhau chuyển biến dao động cũng không sát-na nào không chuyển biến, cho nên nói là không có tướng động hay bất động. Nói bên trong không có ba thọ: Vì ba thọ sanh khởi xưa nay vắng lặng, trong các tâm sổ xúc – thọ tiếp cận lẫn nhau, có khả năng rất hơn hẳn cho nên đưa ra hai thứ này thông thường điều khiển pháp còn lại. Nhĩ – tỷ – thiệt – thân ấy là nói rằng các loại nhĩ – nhĩ xúc – nhĩ thức v.v… tâm ý ý thức ấy là Thức thứ sáu, vị lai gọi là tâm, quá khứ gọi là Ý, hiện tại gọi là Ý thức, dựa vào tùy theo chuyển môn đưa ra ba tên gọi này, để hiển bày ba đời đều là không vắng lặng. Mạt-na, A-lê-da thứ bảy thứ tám đều giống như Nhãn thức cho nên cũng bất sanh khởi. Văn giải thích rộng xong. Kế là nói Tâm vắng lặng ấy là văn gần kết luận tám Thức vắng lặng và tâm vô sanh là kết luận xa với văn nói Thể vắng lặng vô sanh.
Kinh: “Nhược sanh tâm vắng lặng, nhược sanh vô sanh tâm, thị hữu sanh hành phi vô sanh hành, nội sanh tam thọ tam hành ba cõi”. Nếu sanh khởi tâm vắng lặng, hoặc khởi vô sanh tâm, là có sanh hành mà chẳng phải không có sanh hành, bên trong sanh khởi ba Thọ – ba Hành – ba giới.
Luận chép: Đây là phần hai nêu ra cái sai, nghĩa là có sở đắc. Người học Đại thừa không thể là không tám thức thì làm trái sự vắng lặng đó, cho nên nói là sanh khởi tâm vắng lặng. Không biết Vô sanh của tâm xuất thế, nói là có tâm sanh khởi chứng lý vô tướng, cho nên nói là sanh khởi vô sanh tâm. Dứt khóat là Hành trôi lăn của thế gian mà trái với Vô sanh nhẫn hành của xuất thế, vì thế nói là có sanh hành v.v… Nói ba Hành là thân miệng ý dấy lên có cả thiện và bất thiện. Nói ba giới ấy là thân khẩu ý dừng lại chỉ giữ lấy điều thiện đó. Sanh khởi ba hành, ba Giới này làm nhân mà sanh khởi ba cõi thọ nhận đầy đủ ba thọ, trôi lăn như vậy không thể nào giải thoát.
Kinh: “Nhược vắng lặng sanh tâm bất sanh, bất thường vắng lặng vô công dụng, bất chứng vắng lặng tướng, diệc bất trụ ư vô chứng, khả xứ vô trụ, tổng trì vô tướng. Tức vô tam thọ đẳng tam, tất giai vắng lặng, thanh tịnh vô trụ, bất nhập Tam-muội, bất trụ tọa thiền, vô sanh vô hành”. Nếu vắng lặng sanh khởi tâm bất sanh, tâm thường vắng lặng không công dụng, không chứng tướng vắng lặng, cũng không trụ trong vô tướng, tức là không có các thứ ba như ba Thọ v.v… thảy đều vắng lặng, thanh tịnh vô trụ, không nhập vào Tam-muội, không trụ trong ngồi thiền, vô sanh vô hành.
Luận chép: Đây là phần thứ ba nói cái đúng: Nói nếu vắng lặng sanh khởi tâm bất sanh: Ngược lại câu “Nếu sanh khởi tâm vắng lặng” trước đây, vì xả bỏ các tâm sanh khởi không giữ lấy sanh khởi. “Tâm thường vắng lặng vô công vô dụng.” Ngược lại câu “Nếu sanh vô sanh tâm” trước đây, vì xa lìa tướng của các sự sanh diệt khởi động cũng không có công dụng tác ý phân biệt. Không thể chứng tướng vắng lặng: Tuy xả bỏ tâm của sanh khởi, mà không giữ lại tướng vắng lặng. Cũng không trụ ở vô chứng: Mặc dù tâm không giữ lấy tướng vắng lặng nhưng không rơi vào sai lầm vô chứng. Có thể ở vô trụ: Là nói chung về xa lìa sai lầm chấp đắm, vì các nơi có thể an trụ đều không thể an trụ. Nơi có thể an trụ ấy là nếu xả bỏ sanh khởi thì có thể an trụ vắng lặng, nếu xả bỏ có chứng đạt thì có thể an trụ vô chứng, như vậy nơi thích hợp đều là Vô trụ. Tổng trì vô tướng: Nói chung đầy đủ công đức, nghĩa là tâm vô sanh nắm giữ đức các hành mà cùng chung một vị tướng Vô sai biệt. Tức không có ba như ba thọ …. Ngược lại câu: “Bên trong sanh tam thọ …” Trước đây, vì xa lìa tướng nhân quả trôi lăn. Thảy đều vắng lặng: Vì thấu suốt các loại như ba Thọ xưa nay là không. Thanh tịnh vô trụ: Vì tâm thường thấu chẳng trụ vào Không. Chẳng nhập Tammuội”: Thường quên đi tâm nhập định của thế gian. Không trụ ngồi thiền: Cũng xả bỏ thế gian trụ vào thiền vắng lặng. Nếu thường như vậy thì tâm sanh khởi không có cũng không có hành của phân biệt, cho nên nói là Vô sanh vô hành.
Kinh: “Tâm Vương Bồ-tát ngôn: Thiền năng nhiếp động, định chư huyễn loạn, vân hà bất thiền?”. Tâm Vương Bồ-tát chép: Thiền có thể thâu nhiếp dao động làm ổn định các sự huyễn loạn, vì sao không thể thiền?
Luận chép: Đây là phần thứ bảy nói về nghi, ý nghi: Tất cả các thiền định có thể thâu nhiếp ý niệm dao động, làm cho tâm tán loạn được yên định, vì sao tâm vô sanh hành xuất thế cũng không thể nhập vào, an trụ thiền định? Nếu không thể thiền thì phải dao động. Có nghi ngờ như vậy nên nhân dịp hỏi về điều đó.
Kinh: “Phật ngôn: Bồ-tát! Thiền tức thị động, bất động bất thiền thị vô sanh thiền, thiền tánh vô sanh, ly sanh thiền tướng, thiền tánh vô tướng lý trụ thiền động, tri thiền tánh vô hữu động tĩnh, tức đắc vô sanh, vô sanh Bát-nhã, diệc bất y trụ, tam diệt bất động, dĩ thị cố cố đắc vô sanh Bát-nhã Ba-la-mật”. Đức Phật nói: Này Bồ-tát ! Thiền tức là động không động không thiền là vô sanh thiền, thiền tánh vô sanh, lìa sanh khởi thiền tướng, thiền tánh vô trụ, lìa an trụ thiền động, biết thiền tánh không có động tĩnh, tức là đạt được vô sanh, vô sanh Bát-nhã cũng không dựa vào tâm an trụ, tâm cũng không xao động, vì trí này cho nên đạt được Vô sanh Bát-nhã Ba-la-mật.
Luận chép: Đây là phần thứ tám xử lý sự nghi ngờ. Nói Thiền chính là động: Nghĩa là thiền thế gian tuy chẳng phải tán loạn mà giữ lấy cảnh tướng, giữ lấy tướng thì tâm sanh khởi vì sanh khởi cho nên xao động, xa lìa được thiền của sanh khởi xao động như vậy mới được nhập vào lý định, do đó nói là thiền vô sanh. Lý ổn định như vậy thì tánh không có sanh khởi xao động, cho nên nói là Thiền tánh vô sanh, chẳng phải dứt khóat bất sanh khởi cũng không an trụ vắng lặng, cho nên nói là Thiền tánh vô trụ. Nếu có sanh khởi thì là tướng, có chấp đắm thì là động, nay chính là trái với điều này cho nên nói lìa sanh khởi thiền tướng, lía an trụ thiền động. Các câu trên đây nói về tướng định theo lý. Từ “Biết thiền tánh v.v…” trở xuống là nói về tướng trí theo lý. Chỉ dựa vào một Thể mà nghĩa phân làm hai: Biết thiền tánh không có hữu động là biết thiền tánh không có sanh khởi. Không có tĩnh là không hề an trụ. Tức đắc vô sanh là được lý không có sanh khởi. Vô sanh Bát-nhã là đạt được hành không có sanh khởi. Cũng không dựa vào an trụ ấy là nói rằng trí Vô sanh không dựa vào lý an trụ mà xa lìa năng sở. Tâm cũng bất động tuy không dựa vào lý an trụ mà chẳng phải sanh khởi tâm xao động. Do vào trí như vậy có thể đến bờ bên kia (bỉ ngạn), cho nên nói là Bát-nhã Ba-la-mật. Tám phần trên đây hợp lại thành phần thứ hai quay trở lại chất vấn – trả lời.
Kinh: “Tâm Vương Bồ-tát ngôn: Tôn giả ! Vô sanh Bát-nhã ư nhất thiết xứ vô trụ, ư nhất thiết xứ vô ly, tâm vô xứ trụ, vô xứ trụ tâm, vô trụ vô tâm, tâm vô sanh trụ. Như thử trụ tâm tức vô sanh trụ. Tôn giả! Tâm vô sanh hành bất khả tư nghị, bất tư nghị trung khả bất khả nói?”. Bồ-tát Tâm Vương chép: Bạch Đức Thế Tôn! Vô sanh Bát-nhã không trụ ở Nhất thiết xứ, không lìa Nhất thiết xứ, tâm không trụ xứ, không có xứ trụ tâm; không án trụ không có tâm, tâm bất sanh khởi an trụ. Như vậy an trụ tâm tức là bất sanh khởi an trụ. Bạch Đức Thế Tôn! Tâm không có sanh hành không thể nghĩ bàn có thể giảng nói hay không?
Luận chép: Đây là phần thứ ba lãnh ngộ hiểu rõ. Nhất thiết xứ là tất cả mọi nơi chân – chân tục – động – tịnh v.v… Nói không trụ ấy là đối với tất cả mọi nơi này chẳng có gì đạt được. Nói không lìa ấy là đối với tất cả nơi này không có gì không đạt được. Vì sao? Vì tất cả nơi chốn kia thảy đều không phải như thế – chẳng phải không thể như thế. Tâm không trụ xứ là không có sở trụ xứ. Không có xứ trụ tâm là không có tâm năng trụ. Không trụ không tâm là hợp cùng hai câu trước, vì tâm không có nơi chốn, có an trụ. Tâm bất sanh khởi an trụ ấy là chẳng thể không có tâm bất sanh khởi không an trụ. Như an trụ tâm ấy là kết luận đối với tất cả nơi chốn không thể an trụ cho đến nơi xa lìa trước đó. Nghĩa về không xa lìa giả thiết lập ra an trụ. Tức bất sanh khởi an trụ ấy là kết luận, tâm không có nơi chốn an trụ cho đến tâm bất sanh khởi an trụ” trước đó, vì trụ tức là vô trụ, vô trụ chính là trụ. Tâm vô sanh hành không thể nghĩ bàn ấy là xa lìa nói năng bặt dứt suy tư. Trong không thể nghĩ bàn là có thể thuyết hay không là vì xa lìa nói năng cũng lìa luôn sự xa lìa nói năng. Vì xa lìa nói năng cho nên nói năng không thể nói. Lìa cả sự xa lìa nói năng cho nên cũng có thể nói được. Nói có thể nói ấy là không phải không thể như vậy. Không thể nói là chẳng phải đúng như vậy. Vì thế nói chung rằng “Khả bất khả nói”, nluống dốing nói nói giảng nói hay không có thể, nên biết rằng suy nghĩ đó cũng hay không có thể, chỉ nêu ra một phía phỏng theo biểu hiện mà thôi.
Kinh: “Phật ngôn: Như thị như thị!”. Đức Phật nói: Đúng vậy, đúng vậy!
Luận chép: Đây là phần thứ tư nói rõ thành tựu. Như sự lĩnh hội hiểu rõ trước đó không phải dứt khóat phù hợp với đạo lý, cũng chính là kính mến xứng với lời Phật dạy, cho nên nói lặp lại “đúng vậy, đúng vậy”. Phần Trường Hàng về chánh nói ở trước đã xong.
Kinh: “Tâm Vương Bồ-tát văn như thị ngôn thán vị tằng hữu nhi nói kệ ngôn”. Tâm Vương Bồ-tát nghe nói như vậy khen ngợi không hề có mà nói kệ rằng.
Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai dùng kệ khen ngợi giảng nói. Trong đó có hai: Trước là lời tựa – sau là bài tụng. Nghe nói như vậy ấy là nghe Đức Phật nói về nội dung của một phẩm này.
Kinh: “Mãn túc đại trí tôn, giảng nói vô sanh pháp, văn sở vị tằng văn, vị nói nhi kim nói”. Đấng đầy đủ đa trí tuệ, nói rộng về pháp vô sanh, nghe điều không hề được nghe, chưa nói mà nay nói.
Luận chép: Dưới đây là ba bài tụng không phải văn tụng riêng mà là khen ngợi chung. Trong đó có bốn: Pháp – dụ – hợp và kết. Đây là phần thứ nhất Pháp nói. Khen ngợi “Chưa nói mà nay nói” ấy là tuy trước đó nói rộng, bây giờ kinh này nói giảng lược nghĩa phong phú – văn đơn giản lý tận tường. Dường như sự vi diệu này trước đây chưa nói ra.
Kinh: “Do như tịnh cam lộ, thời thời nãi nhất xuất, nan ngộ nan tư nghị, văn giả diệc phục nan, vô thượng lương phước điền, tối thượng thắng diệu dược, vị độ chúng sanh cố, nhi kim vị giảng nói”. Giống như cam lộ thanh tịnh, thường mà một lần xuất hiện, khó, gặp khó nghĩ bàn, người nghe cũng giống khó, ruộng phước tốt lành vô thượng, vị thuốc tuyệt diệt trên hết, vì cứu độ cho chúng sanh, mà nay vì đó giảng nói.
Luận chép: Dưới đây hai câu là phần thứ hai về Dụ. Nói Cam lộ ấy là vị thuốc của sự bất tử, để dụ cho kinh này có khả năng vượt ra sanh tử. Kế bốn câu là phần thứ ba kết hợp, ruộng phước tốt Vô thượng là khen ngợi người có khả năng nghe, thuốc hay tốt trên hết là kết hợp với pháp được nghe. Hai câu sau cuối là phần thứ tư kết luận.
Kinh: “Nhĩ thời chúng trung văn nói thử dĩ giai đắc vô sanh vô sanh Bát-nhã”. Lúc bấy giờ trong chúng hội nghe tụng nói này xong đều đạt được vô sanh – vô sanh Bát-nhã.
Luận chép: Đây là phần thứ ba lúc chúng hội được ích lợi. Địa tiền phàm phu nghe nói phẩm này đạt được Vô sanh nhẫn nhập vào Sơ Địa.
Phẩm Thứ 4: BỔN GIÁC LỢI
Luận chép: Tất cả hữu tình từ vô thỉ đến nay nhập vào đêm dài vô minh dấy lên mộng lớn vọng tưởng, Bồ-tát tu quán lúc đạt được vô sanh, thông suốt chúng sanh xưa nay vắng lặng dứt khóat là vốn có hiểu biết (bổn giác), nằm giường Nhất Như dùng lợi ích vốn có này làm lợi ích chúng sanh. Phẩm này nói lên đạo lý này cho nên gọi là Phẩm Bổn Giác lợi.
Kinh: “Nhĩ thời Bồ-tát Vô Trụ văn Phật sở nói nhất vị chân thật bất khả tư nghị, tùng viễn cận lai thân Như-lai tòa chuyên niệm đế thính, nhập thanh bạch xứ thân tâm bất động”. Lúc ấy, Bồ-tát Vô Trụ nghe Đức Phật giảng nói về một vị chân thật không thể nghĩ bàn, từ xa đến gần tiếp cận ngồi tòa Như-lai chuyên chú ý niệm chăm chú lắng nghe, nhập vào chỗ thuần khiết thân tâm không xao động.
Luận chép: Nói riêng về quán hành, trong sáu phần, dưới đây là phần thứ ba nói về Bổn giác lợi. Dựa vào vô sanh hành có thể hội nhập bổn giác, mới có thể hóa hiện khắp ích lợi cho tất cả. Căn cứ vào nghĩa này cho nên kế là giảng nói về điều đó.
Ngay nơi văn có ba: Một là nói rộng về bổn giác lợi ích, hai là dùng kệ khen ngợi, ba là lúc ấy chúng hội được lợi ích. Trong phần Một có hai: 1. Dựa vào xao động nói về yên tĩnh, sơ lược nêu lên tông chỉ của bổn lợi. 2. Từ nhỏ nhiệm đến lớn rõ nói rộng về nghĩa lý của bổn lợi. Trong phần một có ba: Một là nhờ vào thân di động để nêu lên bổn lợi. Hai là Căn cứ ngôn ngữ trở lại để nêu lên bổn lợi Ba là phát ra ánh sáng khen ngợi chúc mừng bổn lợi. Trong phần đầu nói Bồ-tát Vô Trụ là, vị này tuy thông hiểu bổn giác vốn không phát khởi xao động, mà không an trụ vắng lặng thường khởi lên hóa hiện rộng khắp. Dựa vào đức đặt tên hiệu gọi là Vô Trụ. Đức của Vô Trụ khế hợp với bổn lợi, do đó dựa vào vị này để nói lên tông chỉ đó. Nói một vị chân thật không thể nghĩ bàn là vì phẩm trước nói Tâm vô sanh hành không thể nghĩ bàn v.v… Từ từ đến gần bên tòa của Như-lai: Chỗ ngồi trước đó cách xa tòa của Đức Phật, nghe phẩm trước xong dời đến chỗ gần hơn, biểu thị thời gian trước đó chưa nghe pháp sâu xa, đại vị ở tại phàm phu ngu dốt cách xa quả Phật, nay nghe Đức Phật giảng nói đạt được lợi ích về bổn giác, tự biết sẽ được quả Phật, đang gần kề. Chuyên niệm lắng nghe, thân tâm bất động nơi thanh bạch: Lúc đã gần cạnh tòa ngồi Đức Phật thì chuyên chú niệm hướng về lắng nghe, nhập vào nơi thanh tịnh minh bạch vốn có, thuận theo hiểu biết vốn có (bổn giác), yên tĩnh nên thân tâm không xao động, vì vậy chính là nói lên lúc nhập vào hiểu biết ban đầu thông suốt vốn có không hề xao động được vô sở đắc.
Kinh: “Nhĩ thời Phật cáo Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Nhữ tùng hà lai kim chí hà sở? Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Nhữ hàng hà lai kim chí vô bổ sở”. Lúc bấy giờ Đức Phật nói với Bồ-tát Vô Trụ: Ông từ đâu đến nay đến nơi nào? Bồ-tát Vô Trụ chép: Bạch Đức Thế Tôn! Con từ chỗ không có ban đầu đến nay đến nơi không có ban đầu.
Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai dựa vào lời nói quay trở lại. Trong đó có ba: Hỏi – Đáp và Nói rõ thành tựu. Thứ hai là ý trả lời nói về địa vị phàm phu đến địa vị bậc Thánh, lúc đến địa vị bậc Thánh ngoái lại tìm xem mình từ xưa đến nay thế nào. Khi xưa ở vị phàm phu mới bắt đầu hướng đi tự tin rằng tâm mình vốn không hề khởi lên xao động, vì vậy căn bản khởi động không thật có, nay đến địa vị hàng Thánh lúc đạt được vô sanh chứng thật biết rõ tự tâm xưa nay không có sanh khởi, vì căn bản của sanh khởi là vô sở đắc. Do đó biết rằng bắt đầu từ nơi không vốn có mà đến, nay nơi đã đến cũng là nơi không vốn có (vô bổn sở). Đã nêu không vốn có (vô bổn), nên biết là không cuối cùng (vô mạt). Vô bổn mạt là không đến không tới (vô lai vô chí). Chỉ nương nhờ thuận theo từ ngữ của Đức Phật hỏi để giả định gởi gắm lời của đến – tới. Tuy không có đến – tới mà chẳng phải hoàn toàn không có đến – tới. Vì do nơi đến tới để nói về đến tới, vì chỗ đến – nơi tới như nhau không vốn có.
Kinh: “Phật ngôn: Nhữ bổn bất tùng lai, kim diệc bất chí sở, nhữ đắc bổn lợi không thể nghĩ bàn, thị Đại Bồ-tát Ma-ha tát”. Đức Phật nói: Ông vốn không từ đầu đến, nay cũng không tới nơi nào, ông đạt được lợi ích vốn có không thể nghĩ bàn, là bậc Đại Bồ-tát.
Luận chép: Đây là phần nói về thành tựu. Ý nói về thành tựu rằng: Nơi tới – nơi đến đã như nhau không từ đầu thì không có đến – tới, Vì sao? Vì nơi đến không khác đối với nơi tới, vốn không có từ đâu đến, nơi tới đã giống nhau đối với nơi đến cho nên nay không có tới (vô sở chí). Lại, nơi đến đã không có từ đầu cho nên không có đến không thể đến (vô lai bất lai), nay nơi đã tới cũng không có từ đầu cho nên không có tới không thể tới (vô chí bất chí). Đã không có đến – không có tới (vô lai vô chí) xưa nay vắng lặng, cho nên chép: Ông đạt được lợi ích vốn có không thể nghĩ bàn. Đã đạt được lợi ích vốn có về tự lợi lợi tha, cho nên nói là Đại Bồ-tát.
Kinh: “Tức phóng tại quang biến chiếu đại thiên thế giới nhi nói kệ ngôn: Đại tai Bồ-tát, trí tuệ mãn túc, thường dĩ bổn lợi, lợi ích chúng sanh, ư tứ oai nghi, thường trụ bổn lợi, đạo chư quần thứ, bất lai khứ khứ”. Tức thì phát ra ánh sáng rực rỡ soi chiếu khắp thế giới đại thiên mà nói kệ: Thật lớn thay Bồ-tát! Trí tuệ được đầy đủ, thường dùng lợi vốn có, lợi ích cho chúng sanh, đối với bốn oai nghi, thường trụ lợi vốn có, dẫn dắt các chúng sanh, không đến mà cứ đi.
Luận chép: Dưới đây là phần thứ ba Như-lai phát ra ánh sáng biểu hiện ngợi khen Bồ-tát. Trong đó có hai: Trước là tựa của người kết tập kinh điển: Lý do phát ra ánh sáng lớn soi chiếu đại thiên thế giới ấy là để biểu hiện đạt được trí tuệ rộng lớn ánh sánh soi chiếu thế gian tăm tối khiến cho được sáng suốt, chứng thật thành tựu Như-lai đã khen ngợi trước đó. Thật lớn thay Bồ-tát là đặc biệt khen ngợi Bồ-tát Vô Trụ. Trí tuệ đầy đủ ấy là vì không có gì biết mà không có gì không biết. Ở bốn oai nghi thường trụ bổn lợi là như trước đã từng bày từ xa đến gần bên cạnh tòa ngồi Như-lai, vì vậy thị hiện lợi ích hiểu biết vốn có (bổn giác lợi). Bất lai khứ khứ là vắng lặng mà thường cảm hóa. Nói không đến là tùy theo sự dẫn dắt giáo hóa khiến cho được xuất thế không còn trở lại. Nói khứ khứ là tùy theo đạt được không lui sụt lần lượt vượt ra mà đến Thiện Thệ.
Kinh: “Nhĩ thời Bồ-tát Vô Trụ nhi bạch Phật ngôn: Tôn giả! Dĩ hà lợi chuyển, nhi chuyển chúng sanh nhất thiết tình thức nhập úm ma la?”. Lúc bấy giờ Bồ-tát Vô Trụ lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Dùng lợi ích nào xoay chuyển tất cả tình thức của chúng sanh nhập vào Án ma la?
Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai giảng rộng về nghĩa của bổn lợi. Trong đó có hai: Một là trực tiếp mở rộng, hai là hiển bày lại. Trong phần đầu trực tiếp mở rộng trước là hỏi – sau là trả lời. Dùng lợi nào chuyển: Là hỏi về nghĩa chủ động giáo hóa chuyển vận lợi ích, hỏi về câu “dẫn dắt các chúng sanh” ở trước. Mà chuyển chúng sanh v.v… Là hỏi về nghĩa được giáo hóa chuyển vận các thức, hỏi về câu “Mà cứ đi: “Khứ khứ” trước đây. Tất cả tình thức tức là tám Thức. Úm-ma-la: Là Thức thứ chín. Nghĩa về chín Thức của Tam Tạng Chân Đế căn cứ vào văn này thành lập, như chương kia giải thích.
Kinh: “Phật ngôn: Chư Phật Như-lai thường dĩ nhất giác, nhi chuyển chư thức nhập úm ba la. Hà dĩ cố? Nhất thiết chúng sanh bổn giác, thường dĩ nhất giác như chúng sanh, linh bỉ chúng sanh giai đắc bổn giác, giác chư tình thức vắng lặng vô sanh. Hà dĩ cố? Quyết định bổn tánh bổn vô hữu động”. Đức Phật nói: Chư Phật Như-lai thường lấy
Nhất giác mà chuyển đổi các Thức nhập vào Án-ma-ba-la. Tại vì sao?
Vì tất cả chúng sanh vốn có hiểu biết, thường lấy Nhất giác để giác ngộ các chúng sanh, khiến cho chúng sanh kia đều đạt được hiểu biết vốn có, giác ngộ các tình thức vắng lặng không có sanh khởi. Tại vì sao? Vì quyết định bổn tánh vốn không có xao động.
Luận chép: Là phần trả lời chính là mở rộng về nghĩa của bổn lợi. Trong đó có hai: Trước là nêu ra – sau là giải thích. Chư Phật Như-lai thường dùng Nhất giác: Là nêu ra căn bản của năng hóa. Mà chuyển các thức nhập Án-ma-la: Là nêu ra sự chuyển đổi sở hóa. Trong giải thích có hai: Chính là giải thích – quay lại giải thích. Trong chính là giải thích nói Nhất thiết chúng sanh bổn giác ấy là giải thích về Nhất giác căn bản của năng hóa, tất cả chúng sanh cùng một hiểu biết vốn có cho nên nói là Nhất giác Thể của Chư Phật ở đây chính là thường cảm hóa rộng khắp (năng phổ hóa) cho nên nói là “thường dùng”. Vì dùng bổn giác này làm cho người khác giác ngộ, cho nên nói là thường dùng nhất giác giác ngộ cho chúng sanh. Khiến chúng sanh kia đều được bổn giác: Là giải thích về câu: Được giáo hóa chuyển đổi nhập vào: Bổn giác chính là Thức Án-ma-la. Đắc bổn giác: Là giải thích nghĩa Nhập vào. Lúc nhập vào bổn giác ngộ, các tám Thức xưa nay vắng lặng, giác ngộ hoàn toàn cho nên các Thức không thể sanh khởi, vì thế nói là các Thức vắng lặng vô sanh. Câu này chính là giải thích về câu chuyển đổi các Thức. Văn này hiển bày đầy đủ hai Giác bổn – thỉ. Nói là Nhất thiết chúng sanh bổn giác v.v… ấy là nghĩa về Bổn giác, giác ngộ các tình thức vắng lặng vô sanh ấy là nghĩa về Thỉ giác, là hiển bày Thỉ giác tức là giống như Bổn giác. Từ “Vì sao? v.v…” về sau là thứ hai quay lại giải thích. Giải thích Thỉ giác trước đây vốn giác ngộ vắng lặng, tuy các tám Thức này tùy theo duyên mà động chuyển, nhưng cầu mong tánh ổn định đều không có gì đạt được, cho nên nói là Quyết định bổn tánh vốn không có xao động, vốn không có xao động cho nên vốn là vắng lặng.
Kinh: “Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Khả nhất bát thức giai duyên cảnh khởi như hà bất động?”. Bồ-tát Vô Trụ chép: Có thể tám Thức của một chúng sanh đều là duyên cảnh phát khởi, như thế nào không dao động?
Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai giảng nói lại. Trong đó có hai. Trước là giảng nói Thỉ giác, sau là diễn Bổn giác. Trong phần đầu cũng có hai: Một là Giảng nói các Thức Vắng lặng; hai là Giảng nói các Thức Vô sanh. Trước là sự giác ngộ của Thỉ giác, sau là Thỉ giác của khả năng giác ngộ. Trong phần đầu thì có sáu phần hỏi – đáp trong đó có ba: Một là Hai lần hỏi đáp trước chính thức nói về Vắng lặng. Hai là
Hỏi đáp lần thứ ba là nói về Tướng không giống nhau. Ba là ba lần hỏi đáp sau nói về Tướng không khác nhau. Lần hỏi đáp đầu tiên này nói về không có khởi lên xao động. Nói Khả nhất: Là nói rằng tất cả, nghĩa là tất cả chúng sanh vốn có tám thức; đều duyên cảnh khởi: Trong bốn duyên tạm thời nêu ra duyên duyên để vấn nạn về không dao động (bất động).
Kinh: “Phật ngôn: Nhất thiết cảnh bổn không, nhất thiết thức bổn không, không vô duyên tánh như hà duyên khởi?”. Đức Phật nói: Tất cả cảnh vốn không, tất cả Thức vốn không, không có tánh duyên thì làm sao duyên khởi?
Luận chép: Tạm thời xả bỏ cảnh duyên, nói lên Thức không có khởi.
Kinh: “Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Nhất thiết cảnh không như hà kiến? Phật ngôn: Kiến tức vi vọng, hà dĩ cố? Nhất thiết muôn hữu vô sanh, vô tướng, bổn bất tự danh, tất giai vắng lặng, nhất thiết pháp tướng diệc phục như thị, nhất thiết chúng sanh thân diệc như thị, thân thượng bất hữu vân hà kiến?”. Bồ-tát Vô Trụ chép: Tát cả cảnh không thì làm sao thấy? Đức Phật nói: Thấy tức là vọng, tại vì sao? Vì tất vả muôn hữu không có sanh – không có tướng, vốn không tự nơi tên gọi, thảy đều vắng lặng, tất cả pháp tướng cũng như vậy, tất cả thân chúng sanh cũng như vậy, thân hãy còn chẳng thể có thì làm sao thấy?
Luận chép: Dưới đây là hỏi đáp lần thứ hai nói về thấy là vọng vì vọng cho nên là chân không, nghĩa là cảnh là không cho nên thấy có cảnh tức là vọng, thấy cũng là không cho nên suy nghĩ có thấy cũng là vọng. Trong giải thích có hai, chung và riêng: Nói chung: Ấm giới đều có vốn không từ nơi tên gọi – Ngã là các sắc, chỉ do vọng tâm gọi là các sắc, vì thế cho nên tất cả thảy đều là không vắng lặng. Trong nói riêng cho rằng tất cả pháp tướng cũng giống như thế: Nghĩa là pháp tướng sáu trần bên ngoài như núi sông. Tất cả chúng sanh thân cũng như thế: Thân năm ấm bên trong như sắc – thọ v.v… thân thể hãy còn không làm sao có dụng thấy?
Kinh: “Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Nhất thiết cảnh không, nhất thiết thân không, nhất thiết thức không, giác diệc ứng không. Phật ngôn: Khả nhất giác giả bất hủy bất hoại, quyết định tánh phi không phi bất không vô không bất không”. Bồ-tát Vô Trụ chép: Tất cả cảnh là không, tất cả thân là không, tất cả Thức là không, hiểu biết cũng phải là không. Đức Phật nói: Có thể tất cả hiểu biết ấy không phá hủy không làm hỏng, quyết định tánh chẳng phải là không – chẳng phải không là không – không có là không – không thể là không.
Luận chép: Dưới đây là lần thứ ba nói về tướng không giống nhau của hiểu biết – không hiểu biết (giác bất giác). Ý hỏi rằng Giác cũng nên là Không: Từ duyên sanh ra Thức đã là không, từ duyên khởi lên Giác cũng là không, Thức đã là không cho nên thấy đó là vọng, Giác cũng là không cho nên Giác đó cũng vọng. Đức Phật trả lời ý nói rằng tất cả hiểu biết ấy, không làm hỏng đạo lý cho nên chẳng phải có thể là không, không giữ lại tự tánh cũng chẳng phải không thể là không, vì thế trong giác không có là không – không thể là không. Các Thức không như thế, vọng giữ lấy các pháp không phù hợp với chân lý, có thể là không – có thể xả bỏ, như vậy không giống nhau, sao có thể tương tự lẫn nhau? Quyết định tánh: Nghĩa là chân như tánh không thể phá hoại được, vì tánh tự nhiên như thế. Nói không hủy: Không giữ lấy tướng có dùng cản trở không. Nói không hoại: Không tính toán tánh không có, dùng tổn hại chân thật. Nghĩa là không hủy hoại đối với tánh quyết định.
Kinh: “Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Chư cảnh diệc nhiên phi không tướng phi vô không tướng. Phật ngôn: Như thị bỉ khả cảnh giả tánh bổn quyết định, quyết định tánh căn vô hữu nơi chốn. Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Giác diệc như thị vô hữu nơi chốn. Phật ngôn: Như thị giác vô xứ cố thanh tịnh, thanh tịnh vô giác vật vô xứ cố thanh tịnh, thanh tịnh vô sắc”. Bồtát Vô Trụ chép: Các cảnh cũng như vậy chẳng phải tướng là không – chẳng phải tướng chẳng có không. Đức Phật nói: Như vậy có thể cảnh kia là tánh vốn quyết định, gốc rễ quyết định tánh không có nơi chốn. Bồ-tát Vô Trụ chép: Giác cũng như vậy không có nơi chốn. Đức Phật nói: Như vậy Giác không có nơi chốn cho nên thanh tịnh, thanh tịnh không có sắc Giác, không có nơi chốn cho nên thanh tịnh, thanh tịnh không có Sắc.
Luận chép: Dưới đây là ba lần nói về tướng không sai khác. Trong đó hai lần trước nói về tướng giống nhau của Giác và Cảnh, lần hỏi đáp sau hiển rõ tướng giống nhau của Giác và thức. Trong phần đầu lần trước nói về Cảnh giống như Giác, nói là các cảnh vọng xưa nay không có, đã không có điều đó, sao có tướng là không? Đã chẳng phải có là không, sao có thể không có là không. Vì thế nói “phi không tướng phi vô không tướng”. Theo điều này mà nói thì không khác với Giác. Trong trả lời nói Tánh vốn quyết định: Trình bày vốn không có cho nên chẳng phải tướng là không. Không có nơi chốn: Trình bày chẳng phải có là không cho nên chẳng phải không có là không. Lần hỏi đáp sau trình bày
Giác giống như cảnh. Giác cũng như vậy: Giác cũng là duyên sanh, vì tánh vốn là không. Trong trả lời nói Thanh tịnh vô giác: Lý của Giác là không xa lìa tất cả tướng cho nên nói là thanh tịnh. Giác tánh đã là không – trong là không không có Giác, như trong sắc là không không có tướng của Sắc. Trước nói về Cảnh giống như Giác ấy là lấy nghĩa về Cảnh chẳng phải là không chẳng phải không là không đồng với nghĩa về Giác trước đây chẳng phải là không chẳng phải không là không. Nay nói về Giác giống như cảnh ấy là dùng lý vô tướng là không của Giác tánh đồng với nghĩa vô tướng là không của Cảnh. Hai văn không giống nhau cần phải biết như vậy.
Kinh: “Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Tâm nhãn thức diệc phục như thị không thể nghĩ bàn. Phật ngôn: Tâm nhãn thức diệc phục như thị không thể nghĩ bàn, hà dĩ cố sắc vô nơi chốn thanh tịnh vô danh bất nhập ư nội, nhãn vô nơi chốn thanh tịnh vô kiến bất xuất ư ngoại, tâm vô nơi chốn thanh tịnh vô thượng vô hữu khởi xứ, thức vô nơi chốn thanh tịnh vô động vô hữu duyên biệt, tánh giai vắng lặng”. Bồ-tát Vô Trụ chép: Tâm – nhãn – thức cũng giống như thế không thể nghĩ bàn. Đức Phật nói: Tâm – nhãn – thức cũng giống như thế không thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì sắc không có nơi chốn, thanh tịnh không tên gọi không thể nhập vào bên trong, nhãn không có nơi chốn, thanh tịnh không trông thấy không thể vượt ra bên ngoài; tâm không có nơi chốn, thanh tịnh không gì hơn không có xứ khởi lên, thức không có nơi chốn, thanh tịnh không dao động không có duyên khác nhau, tánh đều là không vắng lặng.
Luận chép: Đây là lần thứ ba nói về Thức giống như Giác. Tâm nhãn thức: Nghĩa là tâm chứa nhóm hạt giống nhãn thức và hạt giống này đã khơi dậy nhãn thức. Sơ lược đưa ra hai thứ này nêu lên tánh là không đó. Về sau dựa sát vào bốn duyên nói về nhãn thức là không. Sắc không nơi chốn: Vì tánh của Sắc tự là không. Thanh tịnh vô danh: Vì trong là không không có Sắc. Không nhập ở trong: Vì không cùng với nhãn căn làm thành cảnh giới, là nói về sở duyên duyên là không. Nhãn không có nơi chốn thanh tịnh không có thấy: Vì trong nhãn tánh là không không có nhãn căn. Không ra ở ngoài: Vì không có năng lực thật hành đối với cảnh giới sắc, là nói về tăng thượng duyên là không. Tâm không nơi chốn thanh tịnh vô thượng: Trong hạt giống là không không có hạt giống, vì đứng đầu trong bốn duyên không có nơi chốn khởi lên: Vì nơi chốn không tự khởi lên Thức, là nói về nhân duyên là không. Thức không có nơi chốn, thanh tịnh không động: Vì đã không có ba duyên thì nhãn thức không thể khởi lên. Không có duyên khác nhau: Dùng vô duyên sắc liễu biệt Thức, là nói về Đẳng vô gián duyên và nhãn thức là không. Duyên ấy là duyên của diệt trước đây, biệt ấy là biệt của kết thúc; sanh sau này. Hai thứ này đều là không cho nên nói là vô hữu. Như vậy bốn duyên và thức đều là không, tổng kết nói là Tánh đều vắng lặng. Như nói nhãn thức và bốn duyên đều là không cho đến ý thức thuận theo như vậy mà nói, gọi là pháp không có nơi chốn thanh tịnh không tên gọi không nhập vào bên trong, ý không có nơi chốn thanh tịnh không nhìn thấy không vượt ra bên ngoài, tâm không có nơi chốn, thanh tịnh không gì hơn, không có xứ khởi lên, thức không có nơi chốn, thanh tịnh không dao động không có duyên khác nhau, tánh đều là không vắng lặng. Ý trong này ấy là Thức thứ bảy. Tâm trong này ấy là Thức thứ tám, là nói về tám Thức, đều hoàn toàn là không vắng lặng cho nên đồng với tất cả Giác Không.
Kinh: “Tánh vô hữu giác giác tắc vi giác. Thiện nam tử! Giác tri vô giác chư thức tắc nhập, hà dĩ cố? Kim cương trí địa, giải thoát đạo đoạn, đoạn dĩ nhập vô trụ địa, vô hữu xuất nhập, tâm xứ vô tại, quyết định tánh địa, kỳ địa thanh tịnh như tịnh lưu ly, tánh thường bình đẳng như bỉ đại địa, giác diệu quán sát như tuệ nhật quang, lợi thành đắc bổn như đại pháp vũ, nhập thị trí giả thị nhập Phật trí địa, nhập trí địa giả chư Thức bất sanh”. Tánh không có giác – giác tức là giác. Này người thiện nam! Giác biết là không có giác thì các thức lập tức hội nhập, tại vì sao? Vì Kim cương trí địa, giải thoát đạo đoạn, đoạn rồi nhập vào vô trụ địa, không có ra vào, tâm xứ không tồn tại, quyết định tánh địa, địa đó thanh tịnh như lưu ly trong suốt, tánh thường bình đẳng như mặt đất kia, khéo hiểu biết quán sát như ánh sáng mặt trời trí tuệ, lợi ích thành tựu đạt được căn bản như cơn mưa đại pháp, người nhập vào trí này là nhập vào Phật trí địa, nhập vào trí địa ấy thì các Thức bất sanh khởi.
Luận chép: Đây là phần thứ hai nói về các Thức bất sanh khởi. Muốn trình bày lúc đầu tùy theo vô minh mà các Thức sanh sanh khởi nay thuận theo Thỉ giác trở về nguồn tâm. Lúc quay về nguồn tâm các Thức không khởi lên, Thức không khởi lên cho nên Thỉ giác đầy đủ trọn vẹn. Trong đó có hai: Sơ lược nêu ra và mở rộng giải thích. Trong phần nêu ra cũng có hai: Đầu tiên nói Tánh không có giác giác tức vi giác: Là nêu lên chương Thỉ giác viên mãn. Giác biết không có giác thì các thức liền nhập: Là nêu lên chương các thức bất sanh. Nói Tánh không có giác: Nghĩa là trong Không Tánh không những không có Thức mà cũng không có Thỉ giác. Giác ngộ biết lý không có giác tức là trí của Thỉ giác cho nên nói là Giác tức là giác. Nói Giác biết là không có giác: Nhắc lại Thỉ giác trước đó, lúc thỉ giác đầy đủ thì tám Thức không khởi lên, vì thuận theo Giác không có giác không có các Thức. Vì thuận theo Giác cuối cùng quay về nguồn tâm, cho nên nói các Thức liền hội nhập. Từ “Vì sao?” về sau trong phần giải thích có hai: Trước nói về nhân đầy đủ, sau hiển rõ về quả trọn vẹn. Kim cương trí địa: Nói là địa vị Đẳng giác đầy đủ nhân của Thỉ giác, Kim cương dụ cho Định – nghĩa như trước đã nói, nay dựa theo nhân của Giác gọi là Kim cương gọi là Kim cương trí. Giải thoát đạo đoạn: Nhân của Bất sanh đầy đủ. Nhưng trong này Đoạn có hai nghĩa của nó. Nếu đối với sanh đạt được Vô minh trụ địa, tức là Kim cương tâm làm Vô gián đạo, Diệu Giác sơ tâm là Giải thoát đạo. Lúc Vô gián đạo cùng với vô minh đều còn, Giải thoát đạo khởi lên mới có thể chính thức đoạn. Nếu đối với hạt giống hý luận của các Thức hý luận, thì tâm trước đó là vô gián đạo, cùng với hạt giống kia cùng khởi lên cùng diệt đi, một niệm sau cuối Kim cương dụ Định là Giải thoát đạo, chính thức đoạn hạt giống. Nay dựa theo phần nghĩa đoạn hạt giống đó cho nên nói Kim cương giải thoát đạo đoạn. Lúc này hiện có Dị thục Thức ấy là do hạt giống đã sanh ra niệm trước đó, vì sanh khởi nhân quả không cùng một thời gian. Sau này Dị thục không tiếp tục sanh khởi ấy là lúc này đã đoạn tất cả hạt giống. Vì vậy biết Hán dịch Giải thoát đạo đoạn chính là nhân của các Thức bất sanh. Kế đến hiển bày quả đó. Trong đó có hai: Trước là nói về Giác viên mãn, sau là nói về Thức bất sanh. Trong phần đầu chép: Đoạn rồi nhập vô trụ địa: Kim cương giải thoát đoạn hạt giống rồi, liền nhập địa vô trụ của Diệu Giác. Ngoài hai đế tồn tại độc lập không có hai cho nên nói là vô trụ. Tâm của Vô trụ cùng dứt hết hai đế cho nên nói không có khác nhau giữa xuất tục nhập chân đã không có xuất nhập – không tồn tại Không Hữu cho nên nói Tâm xứ không tồn tại. Nơi chốn không tồn tại chỉ là Nhất tâm. Thể của Nhất tâm xưa nay vắng lặng cho nên nói là Quyết định tánh địa. Lúc nhất tâm hiển bày thì tám Thức đều xoay chuyển, cho nên ở tại lúc này bốn trí viên mãn. Vì sao? Vì chính nhất tâm này xa lìa ám muội trở thành sáng suốt, rõ ràng trong sáng không hình ảnh nào không thể chiếu rọi cho nên nói là địa đó thanh tịnh. Như lưu ly trong suốt: là hiển bày nghĩa của Đại viên cảnh trí: Ngay nơi nhất tâm này xa lìa hai bên thông suốt tự tha bình đẳng không hai cho nên nói là Tánh thường bình đẳng. Như đại địa kia: Là hiển nghĩa của Bình đẳng tánh trí. Nhất tâm như vậy không có gì quán xét (vô sở quán) cho nên đối với các pháp môn không có gì không thể quán sát, vì thế nói là Giác diệu quán sát. Như ánh sáng mặt trời trí tuệ: Là nói về nghĩa của
Diệu quán sát trí: Như vậy nhất tâm không có nghĩa gì tạo tác (Vô sở tác) cho nên đối với sự việc lợi tha không có gì không thể thật hiện, vì thế nói là lợi thành tựu bổn như mưa pháp lớn. Cơn mưa tưới thấm muôn vật khiến cho quả hạt thành tựu; trí này cũng như vậy, sự việc lợi tha thành tựu làm cho đạt được bổn giác, là nói về nghĩa của Thành sở tác trí. Bốn trí đã trọn vẹn là Thỉ giác đầy đủ. Từ “người nhập vào trí địa này v.v…” về sau là kế là nói về các Thức bất sanh. Đạt được bốn trí này chính là địa vị của Diệu Giác, cho nên nói là nhập vào Phật trí địa. Lúc này đã quay về cội nguồn của Nhất tâm, vì các làn sóng của tám Thức không thể tiếp tục khởi động, nhập vào trí địa ấy thì các Thức bất sanh khởi vậy. Hai phần trên đây giảng nói về Thỉ giác hoàn tất.
Kinh: “Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Như-lai sở nói nhất giác thánh lực tứ hoằng trí địa, tức nhất thiết sanh bổn căn giác lợi. Hà dĩ cố? Nhất thiết chúng sanh tức thử thân trung bổn lai mãn túc?”. Bồ-tát Vô Trụ chép: Như-lai đã nói về Nhất giác Thánh Lực – tứ hoằng trí địa, chính là tất cả chúng sanh vốn có gốc rễ lợi ích giác ngộ. Tại vì sao? Vì tất cả chúng sanh ngay trong thân này xưa nay đầy đủ.
Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai giảng nói về nghĩa của Bổn giác. Trong đó có hai: Một là chính thức trình bày, hai là xả bỏ mê đắm. Trong phần một cũng có hai: trước là nói về lý không có hai của Bổn giác, sau là chỉ ra môn nhập chứng của trừ chướng, trong phần trước cũng có hai: Đầu là hỏi, sau là trả lời. Trong phần hỏi Nhất giác Thánh lực tứ hoằng trí địa ấy là tiếp thu lần lượt nghĩa của bốn trí đã nói trước đây. Thỉ giác viên mãn tức là giống như Bổn giác, Bổn – Thỉ không hai cho nên gọi là Nhất giác. Không có việc gì không làm cho nên nói là Thánh lực. Trong nhất giác đều là bốn đại trí địa nắm giữ các công đức, cho nên nói là Trí địa. Như vậy bốn trí giống nhau một tâm, lượng đều không có gì không hoàn bị, cho nên gọi là Hoằng trí. Như vậy Nhất giác chính là Pháp thân, pháp thân tức là chúng sanh Bổn giác, cho nên nói tất cả chúng sanh vốn có gốc rễ lợi ích giác ngộ. Xưa nay vốn có vô lượng tánh đức xông ướp tâm chúng sanh làm nên hai thứ nghiệp, cho nên gọi là Bổn lợi. Căn cứ vào nghĩa Bổn giác không hai cho nên không có một chúng sanh nào vượt ra ngoài pháp thân, vì vậy nói tức trong thân này xưa nay vốn đầy đủ.
Kinh: “Phật ngôn: Như thị! Hà dĩ cố? Nhất thiết chúng sanh bổn lai vô lậu, chư thiện lợi bổn, kim hữu dục thứ vi vị hàng phục”. Đức Phật nói: Đúng vậy! Vì sao? Vì tất cả chúng sanh xưa nay vô lậu là căn bản của các thiện, lợi, nay có dục giữ lấy mà vì chưa hàng phục.
Luận chép: Đây là trả lời đồng ý các câu hỏi. Trình bày trong Bổn
giác có vô lượng tánh đức không bị ba lậu làm cho nhiễm động, cho nên nói là Xưa nay vô lậu. Lấy đây làm căn bản sinh các điều thiện, ích lợi, cho nên nói là căn bản của các thiện, lợi. Tuy có Bổn giác mà do khách trần dục giữ lấy che phủ, cho nên nay chưa đạt được Bổn giac chính mình mà thôi.
Kinh: “Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Nhược hữu chúng sanh vị đắc bổn lợi, do hữu thái tập, vân hà hàng phục nan phục? Phật ngôn: Nhược tập nhược độc hành, phân biệt cập dữ nhiễm, hồi thần trụ không quật, hàng phục nan điều phục, giải thoát ma sở phược, siêu nhiên lộ địa tọa, thức ấm bàn Niết-bàn”. Bồ-tát Vô Trụ chép: Nếu có chúng sanh chưa đạt được lợi ích vốn có, còn có sưu tập, làm sao hàng phục điều khó hàng phục? Đức Phật nói: Hoặc là tập – hoặc là độc hành phân biệt cùng với đắm nhiễm, quay lại tinh thần an trụ hang trống, hàng phục cái khó điều phục, thoát khỏi sự trói buộc của ma, vượt ra ngoài ngồi nơi đất trống, thức – ấm nhập vào Niết-bàn.
Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai chỉ ra môn trừ chướng hội nhập chứng. Trong đó cho hai: Trước hỏi – sau đáp. Trong Hỏi nói tập ấy là trình bày ba Hữu muốn giữ lấy quả sanh tử cho nên nói là Thái (thu thập) các phiền não này cùng với tâm tương ưng cho nên nói là Tập (Nhóm họp). Từ vô thỉ đến nay hiện hành không ngớt cho nên nói là khó phục. Trị đạo mới sanh khởi lực đó còn yếu kém, làm sao có thể điều phục, nghi ngờ như vậy. Trong trả lời có ba: Trước là đưa ra Sở phục, sau nói khả năng điều phục đạt được những thắng lợi. Hoặc tập, hoặc riêng làm: Tâm hành của chúng sanh thô tế không chắc chắn, hoặc lúc phiền não tương ưng cho nên Tập, hoặc lúc tâm hành xa lìa hoặc chướng cho nên riêng. Lúc xa lìa phiền não hãy còn có pháp chấp phân biệt, lúc phiền não đều còn thì bị đắm nhiễm bởi phiền não, vì thế nói là phân biệt cùng với nhiễm. Kế là nói về Năng phục: Nói là nương vào kinh Phật, hồi chuyển tâm thần, gạt tướng người pháp an trụ lý hai không, cho nên nói là hồi chuyển tâm thần trụ nơi hang trống. Tâm này mới khởi lên mà thuận với đạo lý, cho nên có năng lực hơn hẳn. Hoặc chướng kia từ vô thỉ mà trái ngược đạo lý cho nên không thể nào địch nỗi. Do đó nói Hàng phục sự khó điều phục, là nói về Địa tiền điều phục trừ diệt hai chướng. Căn cứ vào đây điều phục đạo nhập vào địa của đoạn đạo, dần dần bạt trừ hạt giống cho đến mãi mãi không còn. Lúc không bao giờ còn thì xa lìa bốn loại ma, cho nên nói Giải thoát ma ràng buộc. Kế đến nói về hàng phục đạt được những thắng lợi có hai, đó là Bồ-đề quả cùng với quà quả. Bồ-đề quả là vượt khỏi nơi làng xóm của năm ấm hữu lậu ngồi nơi đạo tràng đạt được vô thượng giác, cho nên nói vượt ra khỏi ngồi nơi đất trống. Nói quả quả ấy là dùng vô thượng giác chứng đại Niết-bàn, giác ngộ các Thức đều hội nhập, cho nên nói Thức ấm bát Niết-bàn.
Kinh: “Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Tâm đắc Niết-bàn độc nhất vô bạn, thường trụ Niết-bàn ưng đương giải thoát”. Bồ-tát Vô Trụ chép: Tâm đạt được Niết-bàn chỉ có một chẳng bè bạn, thường an trụ Niết-bàn sẽ hướng về giải thoát.
Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai xả bỏ mê đắm. Trong đó có hai: Trước là nói về vô trụ để xả bỏ sự mê đắm của có an trụ, sau là chỉ ra vô đắc để trừ diệt cái chấp của có đạt được. Trong phần đầu có hai: Trước hỏi – sau trả lời. Trong phần Hỏi nói chỉ có một là lúc tám Thức chuyển đổi trở thành một Giác. Nói không bè bạn là hai chấp về người – pháp xa lìa không còn. Giác của không bè bạn thường an trụ vào Niếtbàn Trí của thường an trụ thoát khỏi tất cả ràng buộc; có dấy lên cái chấp này cho nên thật hiện câu hỏi này.
Kinh: “Phật ngôn: Thường trụ Niết-bàn thị Niết-bàn phược. Hà dĩ cố? Niết-bàn bổn giác lợi, lợi bổn Niết-bàn. Niết-bàn giác phần tức bổn giác phần Giác tánh bất dị Niết-bàn vô dị, giác bổn vô sanh Niết-bàn vô sanh, giác bổn vô diệt Niết-bàn vô diệt. Niết-bàn bổn cố vô đắc Niếtbàn, Niết-bàn vô đắc vân hà hữu trụ? Thiện nam tử! Giác giả bất trụ Niết-bàn. Hà dĩ cố? Giác bổn vô sanh ly chúng sanh cấu, giác bổn vô tịch ly Niết-bàn động. Trụ như thị địa tâm vô sở trụ, vô hữu xuất nhập úm ma la”. Đức Phật nói: Thường an trụ Niết-bàn là Niết-bàn ràng buộc. Tại vì sao? Vì Niết-bàn vốn là giác lợi, lợi ích vốn là Niết-bàn. Niết-bàn giác phần chính là căn bản giác phần. Giác tánh không thể khác Niết-bàn không khác nhau, giác bổn bất sanh khởi Niết-bàn bất sanh khởi, giác bổn không diệt đi, Niết-bàn không diệt Niết-bàn vốn có cho nên không đắc Niết-bàn, Niết-bàn không đạt được làm sao có an trụ? Này thiện nam! Giác là không an trụ Niết-bàn. Tại vì sao? Vì giác vốn bất sanh khởi xa lìa chúng sanh cấu nhiễm, giác vốn không vắng lặng xa lìa Niết-bàn xao động. An trụ nơi như vây thì tâm không có gì an trụ (vô sở trụ), không có ra vào hội nhập úm ma la.
Luận chép: Đây là phần trả lời chính là xả bỏ cái chấp về có an trụ. Trong đó có hai: Đầu tiên sơ lược phá trừ chấp trước, sau đó rộng ra hiển bày rõ lý. Trong phần đầu nói Thường trụ Niết-bàn là Niết-bàn trói buộc ấy là giả sử có Giác thường an trụ vào Niết-bàn tức là chấp trước ràng buộc đối với Niết-bàn, làm sao thường an trụ là giải thoát được? Từ “Vì sao..” về sau mở rộng hiển bày rõ đạo lý. Lý không có an trụ vì vậy có an trụ là trái với lý. Tâm trái với lý chẳng phải ràng buộc thì là gì? Ý giải thích như vậy. Trong đó có hai: Trước là dựa theo Bổn giác để trình bày vô trụ, sau là dựa theo Thỉ giác để hiển bày rõ Vô trụ. Nghĩa về Vô dị này có bốn loại của nó: 1. Lý vốn không khác nhau. Vì như kinh nói “Niết-bàn vốn là giác lợi, lợi vốn là Niết-bàn”, là nói về Niết-bàn, là vốn có giác lợi. Giác lợi vốn có này là nguồn gốc Niếtbàn, Thỉ giác đó chính là đồng với Bổn giác, vì thể không khác nhau cho nên không đạt được. 2. Giác phần không khác nhau. Như kinh nói “Niết-bàn giác phần tức bổn giác phần”, là nói về các đức của Niết-bàn chính là đức của bổn giác, không khác nhau – không đạt được như trước giải thích. 3. Một vị không khác nhau. Như kinh nói “Giác tánh không thể khác Niết-bàn không khác”, là nói về giác tánh đồng nhất vị không có tướng sai khác, tức là không có sai khác về Niết-bàn. . Không hai không khác nhau. Như kinh nói “Giác vốn vô sanh, Niết-bàn vô sanh, giác vốn vô diệt Niết-bàn vô diệt”, là nói về Bổn giác vốn không có sanh diệt, tức là không có sanh diệt của Niết-bàn. Căn cứ theo bốn loại đạo lý vô dị này vốn không có khác nhau cho nên không có đắc Niết-bàn, là nói về nghĩa không có “năng đắc” Niết-bàn giác. Kế đến nói Niết-bàn vô đắc. Là nói về nghĩa Niết-bàn, không có “sở đắc”. Đã không có năng đắc, sở đắc, thì đâu có khả năng trụ, sở trụ? Vì đều này cho nên chép: Làm sao có an trụ? Chính là hiển bày rõ thường trụ không thể thích hợp đạo lý. Kế đến dựa theo Thỉ giác để nói về vô trụ, trước nêu ra – sau giải thích. Nói Giác giả: Nghĩa là người bắt đầu giác ngộ. Trong giải thích nói Giác vốn vô sanh ấy là giác ngộ biết rõ sanh tử xưa nay bất sanh khởi, cho nên xa lìa mê đắm sự cấu nhiễm của sanh tử. Nói giác vốn vô tịnh ấy là giác ngộ biết rõ Niết-bàn vốn không vắng lặng, cho nên xa lìa nhập vào sự xao động của Niết-bàn. Tâm không có sở trụ: Vì không trụ vào sanh tử và Niết-bàn. Không có xuất nhập: Vì không thấy Tục hữu và chân Không. Nhập Úm-ma-la: Vì Thể của nhất tâm xa lìa hai bên quay về nguồn tâm này cho nên gọi là Nhập. Như vậy vô trụ mới được giải thoát, vì thế trụ (chấp) Niết-bàn không thể xa lìa ràng buộc.
Kinh: “Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Úm-ma-la thức thị hữu nhập xứ, xứ hữu sở đắc thi đắc pháp dã”. Bồ-tát Vô Trụ chép: Thức Úm-ma-la là có nơi nhập vào, nơi có những gì đạt được là đạt được pháp vậy.
Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai xả bỏ chấp trước về có đạt được. Trong đó có bốn: 1. Chính thức nói về vô đắc. 2. Tiếp tục xả bỏ tính ý nghi ngờ. 3. Lĩnh ngộ hiểu rõ. . Nói về thành tựu. Trong phần một có hai: Trước hỏi – sau trả lời. Dựa theo lời nói về Nhập trước kia như nói nghĩa “giữ lấy”, nói rằng Vô cấu thức tức có chỗ sở nhập, lúc nhập vào chứng đắc cho nên có sở đắc. Có dấy lên nghi ngờ này cho nên thật hiện câu hỏi này.
Kinh: “Phật ngôn: Bất! Hà dĩ cố? Thí như mê tử thủ chấp kim tiền nhi bất tri hữu, du hành thập phương kinh ngũ thập niên, bần cùng khốn khổ chuyên sự cầu sách, nhi dĩ dưỡng thân nhi bất sung túc. Kỳ phụ kiến tử hữu như thị sự nhi vị tử ngôn: Nhữ chấp kim tiền hà bát thủ dụng, tùy ý sở tu giai đắc sung túc. Kỳ tử tỉnh dĩ nhi đắc kim tiền tâm đại vui mừng nhi vị đắc tiền. Kỳ phụ vị ngôn: Mê tử! Nhữ vật hân dịch, sở đắc kim tiền thị nhữ bổn vật, nhữ phi hữu đắc vân hà khả hỷ?”. Đức Phật nói: Không thể! Tại vì sao? Vì ví như người con mê muội tay cầm tiền vàng mà không biết là có, lang thang khắp nơi trải qua năm mươi năm trời, nghèo túng khốn khổ chuyên việc tìm kiếm để mà nuôi thân nhưng không đầy đủ. Người cha thấy con có việc như vậy nên gọi người con chép: Con cầm tiền vàng sao không lấy sử dụng, tùy ý cần thứ gì đều được đầy đủ. Người con tỉnh ngộ rồi mà lại được tiền vàng, lòng rất vui sướng nên mà cho rằng mình được tiền. Người cha chép: Này con mê muội! Con chớ vui mừng, tiền vàng có được là vật con vốn có, chẳng có gì đạt được thì vì sao đáng mừng?
Luận chép: Đây là phần trả lời chính là nói về nghĩa của Vô đắc. Trong đó có ba: Đó là pháp – dụ – hợp. Đầu tiên nói “không thể” là chung về không phải có đạt được. Từ “Vì sao? v.v…” trở xuống là Dụ nói về Vô đắc. Trong đó có bốn loại Dụ: 1. Dụ về người mê không biết có tiền vàng lang thang nghèo khổ. 2. Dụ về người cha chỉ ra cho con có tiền vàng khiến cho được đầy đủ. 3. Dụ về vui mừng được tiền vàng. . Dụ về nói cho biết không phải có đạt được. Trong dụ đầu nói người con mê muội nghĩa là các chúng sanh mê mờ nguồn tâm của mình, Như-lai vô cùng thương xót xem giống như con một, cho nên dụ là người con mê muội. Cùng tử nơi Pháp Hoa chỉ hạn cuộc dụ cho Thanh-văn, trong kinh này dụ cho tất cả chúng sanh. Tay cầm tiền vàng…” là dụ cho các vọng thức năm sự phiền não ràng buộc chấp trước phân biệt, bao phủ tâm thanh tịnh của mình cho nên không biết là có. “Đi rảo mười phương…” vì biến kế năm tướng và năm sự. “Trải qua năm mươi năm”: Là thọ nhận năm Ấm sanh ra năm mươi ác. Bần “Nghèo” do là ít có điều thiện thế gian. “Túng” là vì hoàn toàn không có tài vật xuất thế. Khốn đốn là hoặc đọa tam đồ, khổ sở là hoặc sanh trong trời – người chịu khổ đau
nhẹ hơn. “Chỉ biết cầu xin” là cầu niềm vui thế gian làm phước nghiệp. “Ma dùng nuôi thân” là thọ nhận niềm vui trời người mà thọ dụng. “Mà không sung túc” ấy là thọ nhận niềm vui thế gian càng tăng thêm khát ái, hưng thịnh thì có suy tàn, vì lợi ích vô nghĩa. Trong Dụ thứ hai người cha thấy con: Đức Phật quay về nguồn tâm đồng thể đại bi, vì các chúng sanh làm người cha hiền từ. “Có sự việc như vậy” là có như Dụ đầu đã nói “Mà bảo con rằng”: Là vì chúng sanh nói về giáo pháp Đại thừa. “Người giữ tiền vàng sao không đem dùng” là chỉ rõ có tâm thanh tịnh nên tin hiểu. “Tùy ý cần dùng đều được sung túc” là nếu sử dụng tâm thanh tịnh thì Bổn giác thắng lợi, Pháp thân tuệ mạng được đầy đủ trọn vẹn. Trong Dụ thứ ba người con tỉnh ra: Nghe giáo pháp Đại thừa mà sanh ra tin hiểu, địa vị ở nơi Địa tiền, “Rồi lại được tiền vàng” là được nhập vào sơ địa chính là thông suốt địa vị, chứng thấy Phật tánh lợi ích Bổn giác. “Tâm rất vui mừng” là trong Hậu đắc trí niệm đang hiện tiền được sanh khởi niềm vui cực độ. Mà cho rằng mình được tiền là: Xuất quán thất niệm trong tâm hữu lậu cho nên khởi lên chấp pháp, nói là có đắc. Trong Dụ thứ tư “Tiền vàng có được là vật vốn có của ngươi”: Là chỉ ra lợi ích của Bổn giác đã chứng được đó xưa nay thuộc về ông chứ không phải mới có. Ngươi không phải có được sao có gì đáng vui?” Là đã vốn thuộc về ngươi chứ không phải nay mới đạt được, vì thế không nên đối với cái đạt được sanh tâm mê đắm. Ngươi chớ vui quá là ngăn dứt sự phân biệt, cho rằng có đạt được mà sanh khởi mê đắm vui mừng thích thú.
Kinh: “Thiện nam tử! Úm-ma-la giả diệc phục như thị, bổn vô xuất tướng, kim tắc phi nhập, tích mê cố phi vô, kim giác cố phi nhập”. Này người thiện nam! Úm-ma-la cũng giống như vậy, vốn không có tướng vượt ra, nay thì chẳng phải nhập vào, xưa mê muội nên chẳng phải không có, nay giác ngộ vì thế chẳng phải nhập vào.
Luận chép: Đây là phần thứ ba về Hợp. Trong đó có hai: Chung kết hợp và riêng kết hợp. Trong phần kết hợp chung nói úm ma la: Hán dịch là Vô Cấu, Bổn giác vốn thanh tịnh – tánh không hề chuyển biến thay đổi giống như tiền vàng kia tánh không có thay đổi. Lại nữa. Kim (vàng) có bốn nghĩa về Dụ. Thường lạc ngã tịnh trong Bổn giác là hợp chung với nghĩa kim Tiền (tiền vàng) trong bốn Dụ. Trong hợp riêng có bốn câu. “Vốn không có tướng ra” là hợp dụ thứ nhất câu “tay cầm tiền vàng” Nay tức không phải vào là hợp dụ thứ ba câu: “Mà được tiền vàng” Xưa mê nên không phải không có, là hợp với thứ hai, câu “con cầm tiền vàng sao không lấy sử dụng”. “Xưa mê cho nên không sử dụng, mà tay cầm vì thế chẳng phải không có. Nay giác ngộ nên không phải là hội nhập hợp với dụ thứ tư câu: Là vật con vốn có, chẳng phải đạt được”. Nay giác ngộ vốn có không ngoài tự tâm, đã vốn có không ngoài sao có thể nhập vào, chẳng phải có nhập vào cho nên chẳng phải có đạt được.
Kinh: “Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Bỉ phụ tri kỳ tử mê vân hà kinh ngũ thập niên thập phương du lịch bần cùng khốn khổ phương thỉ các ngôn? Phật ngôn: Kinh ngũ thập niên nhất niệm tâm động thập phương du lịch viễn hành biến kế”. Bồ-tát Vô Trụ chép: Người cha kia biết con mình mê muội vì sao trải qua năm mươi năm rong ruỗi khắp mười phương, nghèo cùng khốn khổ rồi mới bảo cho biết. Đức Phật dạy: Trải qua năm mươi năm, một niệm tâm động, mười phương, suy nghĩ khắp nơi đi xa.
Luận chép: dưới đây là tiếp tục xả bỏ tình ý nghi ngờ. Ba lần hỏi đáp lần lượt xả bỏ nghi ngờ, đây là lần thứ nhất. Hỏi dựa vào Dụ mà nghi ngờ. Đáp ngay nơi pháp để xả bỏ. Ý trả lời nhưng chép: Trải qua năm mươi năm, dụ cho Nhất niệm tâm động. Đi khắp mười phương, dụ cho dự định đi xa. Đây tức là trong khoảng một niệm suy nghĩ khắp cả các pháp, chính là ở tại niệm này người cha đã nói cho biết, lúc nói cho biết liền được tỉnh ngộ, lúc ở niệm cuối cùng đạt được không có gì đạt được, như giác ngộ tiền vàng mà không có gì đạt được. Vì lẽ đó người cha nói cho biết chẳng phải là trải qua thời gian dài, chỉ là hiển rõ một niệm có đủ năm mươi ác nghiệp, vì thế trong Dụ nói là trải qua năm mươi năm mà thôi. Ý trả lời như vậy. Nghĩa này là thế nào? Đó là do lực của vô minh mà khởi lên bốn tướng, vì lực của bốn tướng vô minh hòa hợp, thường dao động một tâm sanh trụ – dị – diệt, một tâm đã dao động lôi kéo bốn tướng này, vì thế cho nên nói tên là Nhất niệm tâm động. Như Luận khởi Tín chép: “Tự tánh thanh tịnh tâm vì gió vô minh dao động v.v…”, cho đến nói rộng ra, trong đó chính là biết rõ, như ý kia giải thích.
Kinh: “Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Vân hà nhất niệm tâm động? Phật ngôn: nhất niệm tâm động ngũ ấm cụ sanh, ngũ ấm sanh trung cụ ngũ thập ác”. Bồ-tát Vô Trụ chép: Thế nào là một niệm tâm dao động? Đức Phật nói: Một niệm tâm dao động năm ấm sanh khởi đầy đủ, trong năm ấm sanh khởi có đủ năm mươi ác nghiệp.
Luận chép: Đây là phần thứ hai xả bỏ nghi ngờ thứ hai, nói lên sự chữa trị ác, muốn nói về một niệm bốn tướng thâu nhiếp các sanh tử vì đầy đủ năm ấm có năm mươi ác nghiệp. Thế nào là năm ấm có đủ năm mươi ác nghiệp? Đó là Thức ấm có tám, tức là tám Thức. Hai ấm Thọ Tưởng tùy theo Thức đều có tám. Hành ấm có chín, tám là tương ưng, một là bất tương ưng. Sắc ấm có mười bảy hợp lại thành năm mươi. Nói mười bảy là năng tạo bốn đại, sở tạo mười ba, đó là năm căn – năm trần – pháp xứ vốn thâu nhiếp có ba thứ Sắc, như Luận Hiển Dương chép: “Đó là Luật nghi sắc – Bất luật nghi sắc và Định tự tại sở sanh sắc. “Tạm thời ngay nơi một môn lập thành năm mươi, như vậy năm mươi là ác thật sự, đều là trôi lăn trái với Niết-bàn, hướng về Niết-bàn kia là chân thật thiện.
Kinh: “Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Viễn hành biến kế, du lịch thập phương, nhất niệm sanh tâm sanh cụ ngũ thập ác, vân hà linh bỉ chúng sanh vô sanh nhất niệm? Phật ngôn: Linh bỉ chúng sanh, an tọa tâm thần, trụ kim cương địa tịnh niệm vô khởi, tâm thường an thái, tức vô nhất niệm”. Bồ-tát Vô Trụ chép: Đi xa khắp nơi suy nghĩ, mười phương nhiều lần đi lại, một niệm tâm sanh khởi có đủ năm mươi ác, làm sao khiến chúng sanh kia bất sanh khởi một niệm? Đức Phật nói: Khiến chúng sanh kia an tọa tâm thần trụ trong Kim cương địa, niệm vắng lặng bất sanh khởi, tâm thường yên ổn, chính là không có một tâm niệm.
Luận chép: Đây là lần thứ ba xả bỏ nghi ngờ thứ ba là nói đạo có khả năng chữa trị. “Khiến cho chúng sanh” là tất cả chúng sanh từ Thập Tín trở xuống. An tọa tâm thần là từ Thập Trụ trở lên an tâm vào ba Không quyết định không lui sụt gọi là An tọa. Trụ kim cương địa là từ Sơ trụ trở lên chứng được pháp thân, xa lìa các sự diệt hoại, giống như Kim cương. Niệm vắng lặng không khởi là trong địa vị Đẳng Giác giác ngộ sự động niệm đó xưa nay vắng lặng yên tĩnh khiến cho không thể khởi lên. Tâm thường an thái là đến địa vị Diệu Giác được thấy nguồn tâm không khởi lên không diệt đi, vốn không động niệm, không có bắt đầu không có kết thúc. Không khởi lên – không diệt đi cho nên Thường. Không có động niệm cho nên An. Không bắt đầu không kết thúc cho nên không có gì không thể thư thái. Tu hành như vậy đạt được rốt ráo giác ngộ, tức là không có bốn tướng sanh tử trong một niệm. Vì điều này cho nên nói tức không có một niệm. Vì nói lên nghĩa này, trong Luận Khởi Tín giải thích chép: “Bậc sơ phát ý đến Bồ-tát, Đẳng giác đối với niệm khác niệm tướng chẳng khác nhau để xả bỏ chấp tướng, phân biệt thô thiển cho nên gọi là Tương tự giác. Như Bồ-tát pháp thân, giác ngộ đối với sự an trụ niệm, niệm tướng vô trụ, vì lìa phân biệt niệm tướng thô nên gọi là Tùy phần giác. Như Bồ-tát địa tận cùng đầy đủ phương tiện một niệm tương ưng, giác ngộ tâm ban đầu khởi tâm không có tướng ban đầu, vì xa lìa niệm nhỏ nhiệm, được thấy tâm tánh, tâm chính là thường trụ gọi là Rốt ráo giác”. Xét rằng: Trong này được thấy tâm tánh – tâm chính là thường trụ, tức là giải Thích Câu Tâm thường an thái của kinh này. Những câu còn lại giải thích theo đúng như trước tùy đó biết được. Phần lớn trên đây giảng nói về Bổn giác đã hoàn tất.
Kinh: “Bồ-tát Vô Trụ ngôn: Bất khả tư nghị! Giác niệm bất sanh kỳ tâm an thái, tức bổn giác lợi, lợi vô hữu động, thường tại bất vô, vô hữu bất vô, bất vô bất giác, giác tri vô giác bổn lợi bổn giác, giác giả thanh tịnh vô nhiễm, bất kiến bất dịch, quyết định tánh cố, không thể nghĩ bàn. Phật ngôn: Như thị”. Bồ-tát Vô Trụ chép: Không thể nghĩ bàn! Giác niệm bất sanh khởi thì tâm đó yên ổn, chính là lợi ích Bổn giác, lợi ích không có lay đông, thường tồn tại chẳng thể không có, không có chẳng thể không có, chẳng thể không có – bất giác, giác ngộ biết rõ không có giác ngộ vốn có lợi ích vốn giác ngộ, giác ấy thanh tịnh vô nhiễm, bất biến bất dịch, vì quyết định tánh, không thể nghĩ bàn! Đức Phật nói: Đúng như vậy!
Luận chép: Đây là phần thứ ba lãnh ngộ hiểu rõ và phần thứ tư nói về thành tựu. Bất khả tư nghị là tổng kết sự lãnh ngộ khen ngợi rất mực. Xuống dưới là lãnh ngộ hiểu rõ, trong đó có hai: Trước là câu nói lãnh ngộ, sau là nghĩa lý lãnh ngộ. Nói giác niệm bất sanh thì tâm an thái: Lãnh hội câu nói Tịnh niệm không khởi tâm thường an thái ở trước, đây là nơi rốt ráo của Thỉ giác. Xuống dưới là lãnh hội nghĩa lý chép: Tức bổn giác lợi là lãnh hội không có nghĩa Thỉ giác khác với Bổn giác. Như luận giải thích: “Nếu đạt được vô niệm tức là biết tâm tướng sanh trụ dị diệt, vì những vô niệm ấy cho nên thật sự không khác nhau về Thỉ giác, vì bốn tướng cùng lúc mà có đều không tự lập nên xưa nay bình đẳng cùng chung một giác”. Xét chép: Thật sự không khác với Thỉ giác là giải Thích Câu “Tức bổn giác lợi” trong kinh. Bốn tướng có cùng lúc đều không tự lập nên xưa nay bình đẳng là giải thích về “lợi vô hữu động” trong kinh. Như vậy Thỉ giác ngộ biết rằng không có khác nhau, vì có thật có thường còn chẳng thể không có. Nói Thường tại là thẳng thắn cho rằng chẳng thể không có. Nhưng trong này nói thường, mà không có đương có, cho nên nói không có mà chẳng thể không có. Đã không đương ở có Thỉ giác, tuy chẳng thể không có giác, mà chẳng thể có giác, nên nói chẳng thể không có Bất giác. Giác biết đạo lý không có giác ngộ như thế, tức biết Thỉ giác không thể khác với Bổn giác. Giác biết không có giác là lợi ích vốn có là giác ngộ. Người giác ngộ biết điều ấy rốt ráo như vậy, xa lìa sự che lấp của vô minh cho nên thanh tịnh không còn cấu nhiễm. Thanh tịnh là xưa nay trong sạch. Vô nhiễm ấy là nay xa lìa đắm nhiễm. Không bao giờ có sanh trụ dị diệt cho nên Bất biến bất dịch. Bất dịch là không có sanh – trụ. Bất biến ấy là không có dị – diệt. Nếu là như vậy thì tức là giống như Chân – tế khác nào pháp tánh, cho nên nói là vì tánh Quyết định. Đã bình đẳng như nhau xa lìa ngôn ngữ bặt dứt suy tư, nên nói là Bất khả tư nghị. Trước đã nói Bất khả tư nghị, nay lại nói Bất khả tư nghị là cũng không thể nghĩ bàn đối với điều không thể nghĩ bàn. Phật nói: Như vậy là văn phần thứ tư kể rõ thành tựu, như những gì lãnh ngộ hiểu rõ trước đây, không trái với lý.
Kinh: “Bồ-tát Vô Trụ văn thị ngữ dĩ đắc vị tằng hữu nhi nói kệ ngôn: Tôn giả đại giác tôn, nói sanh vô niệm pháp, vô niệm vô sanh tâm, tâm thường sanh bất diệt, nhất giác bổn giác lợi, lợi chư bổn giác giả, như bỉ đắc kim tiền, sở đắc tức phi đắc”. Bồ-tát Vô Trụ nghe lời này rồi được điều không hề có mà nói kệ: Bạch Đức Thế Tôn bậc Đại giác, nói về pháp sanh vô niệm, vô niệm vô sanh khởi tâm, tâm thường sanh khởi bất diệt, lợi ích bổn giác nhất giác, lợi ích các bổn giác ấy, như người kia được tiền vàng, chỗ được thì chẳng phải mới được.
Luận chép: Đây là phần thứ hai dùng kệ khen ngợi. Trong bài tụng có ba: Hai câu đầu khen chung về năng nói, kế đến có bốn câu tụng về pháp nói trước đó, sau có hai câu tụng về Dụ nói kia. Đầu tiên nói nói pháp sanh vô niệm: Giảng nói về các chúng sanh thành tựu pháp vô niệm rốt ráo giác ngộ. Vô niệm vô sanh tâm: Không có ý niệm sanh tử thành tựu tâm vô niệm. Nói Tâm thường sanh bất diệt: sơ lược tụng về văn giảng nói. Văn ấy nói Tâm thường an thái cho đến thường tồn tại chẳng thể không có, sanh khởi nói là Tại, diệt đi nói là vô. Vì thế Nhất giác bổn giác lợi, lợi các bổn giác là các chúng sanh kia chẳng có ai không có bổn giác, cho nên nói là các Bổn giác. Hai câu sau cùng tụng về bốn dụ ở trước, toàn bộ tụng có thể biết.
Kinh: “Nhĩ thời đại chúng văn nói thị ngữ giai đắc bổn giác lợi- Bát-nhã Ba-la-mật”. Lúc bấy giờ đại chúng nghe nói lời này đều được lợi ích về Bổn giác – Bát-nhã Ba-la-mật.
Luận chép: Đây là phần thứ ba nghe pháp được lợi ích. Tùy theo nghĩa lý đã giảng nói thuận theo được lợi ích cho nên được lợi ích về Bổn giác, Thỉ giác – Bát-nhã bình đẳng không khác nhau, giống như trước giải thích.
Phẩm Thứ 5: NHẬP THỰC TẾ
Luận chép: Nói Thật tế ấy gọi là lìa bỏ giả dối, nghĩa của rốt ráo lìa huyễn rốt ráo nên gọi là Thật tế. Dựa vào giáo tu tập lý, lý phù hợp – hành phù hợp, cho nên gọi là Nhập. Nhưng Thật tế lấy vô tế (không có bờ mé) làm ranh giới, hai Nhập là nhập của Vô nhập nên gọi là phẩm Nhập Thật tế.
Kinh: “Ư nhị Như-lai tác như thị ngôn: Chư Bồ-tát đẳng bổn lợi thâm nhập khả độ chúng sanh”. Ngay lúc đó Đức Như-lai nói lên như vậy: Các Bồ-tát đi sâu vào lợi ích vốn có – có khả năng độ cho chúng sanh.
Luận chép: Nói riêng phần thứ ba dựa vào vốn có lợi ích cho người trong sáu phần của Quán Hành đã hoàn tất. Dưới đây là phần thứ tư từ luống dối nhập vào thật tế. Lại, phẩm trước nói về môn tâm sanh diệt, nay phẩm này nói về môn tâm chân như. Ngay trong văn có bốn: 1. Sơ lược nêu ra Đại ý. 2. Mở rộng hiển bày đạo lý. 3. Thân Tử lĩnh ngộ hiểu rõ. . Đại chúng đương thời được lợi ích. Trong phần đầu có hai: Trước là mở bày khiến cho nhập vào phương tiện, sau là chỉ ra thật tế nhập vào. Trong phần khai bày phương tiện có nêu chung và riêng mở bày. Đây là văn nêu chung lên khiến cho nhập vào đại ý.
Kinh: “Nhược hậu phi thời ưng như nói pháp thời lợi bất câu, thuận bất thuận nói phi đồng phi dị tương ưng như nói, dẫn chư tình trí lưu nhập Tát-bà-nhã hải, vô linh khả chúng ấp bỉ hư phong, tất linh bỉ thứ nhất vị thần khổng”. Nếu sau này trái thời, ứng với như thật nói pháp thì lợi ích, thời gian không thể đều có, thuận hay không thuận mà giảng nói chẳng phải giống chẳng phải khác tương ưng như nói, dẫn dắt các tình ý – trí thức trôi lăn nhập vào biển Tát-bà-nhã, không làm cho chúng sanh nào phải nhận lấy làn gió giả dối kia, thảy đều khiến cho họ mong mỏi một vị và hang động thần tiên.
Luận chép: Đây là phần thứ hai mở bày riêng về phương tiện. Trong đó trước mắt khai bày bốn thứ phương tiện: 1. Phương tiện Tri thời. 2. Thức cơ phương tiện. 3. Dẫn nhập phương tiện. . Phương tiện Xuất ly. Phương tiện Tri thời: Như kinh nói “Nếu sau này trái thời, ứng với… không thể đều có”. Sau này có ba nghĩa: vì sau khi Đức Phật diệt độ, vì sau khi chánh pháp diệt mất, vì năm trăm năm sau trong năm lần năm trăm. Nói trái thời là thời gian chẳng phải thuần thục, chẳng phải thời gian dễ dàng giác ngộ, các dị kiến hưng thịnh là tướng trái thời. Nếu ở thời gian không hợp như vậy cứ mãi thuận theo chân như nói pháp thì không thích hợp thời gian kia không có lợi ích gì. Thời gian và lợi ích không song song cho nên nói là không thể đều có; đây là phương tiện tri thời. Phương tiện Thức cơ: như kinh nói “Thuận bất thuận nói phi đồng phi dị tương ưng như nói”. Thuận bất thuận nói: Nếu cứ thuận theo mà nói thì tâm họ không thể dao động tà chấp, nếu chỉ nói không thuận theo thì không khởi chánh tín, vì muốn làm cho họ được tâm chánh tín trừ diệt tà chấp vốn có, cần phải thuận theo hoặc không thuận theo mà nói. Lại, thẳng thắn thuận theo lý giảng nói thì bất sanh khởi chánh tín, vì trái với ý của ho, không thuận theo lý giảng nói, há sanh khởi chánh giải hay sao! Vì trái với lý, để đạt được tín hiểu cho nên thuận hay không thuận mà giảng nói. Nếu lúc các kiến giải khác nhau nổi lên tranh luận, hoặc cùng thấy “có” mà giảng nói, thì khác với cái thấy “không”, hoặc cùng chấp “không” mà giảng nói, thì khác với chấp “có”, những cái giống nhau – những cái sai khác càng dấy lên sự tranh cãi đó. Lại, cả hai giống với hai cái kia thì tự bên trong tranh cãi lẫn nhau, nếu khác với hai cái kia thì tranh cãi lẫn nhau với hai. Vì thế cho nên chẳng phải giống nhau – chẳng phải khác nhau mà giảng nói. Chẳng phải giống nhau là như lời nói mà giữ lấy, đều không thể chấp nhận. Chẳng phải khác là được ý mà nói thì chẳng có gì không được. Vì chẳng khác nhau cho nên không trái với tình ý của họ. Vì chẳng giống nhau cho nên không trái với lý, hợp lý hợp tình không trái nhau cho nên nói là Tương ưng như nói. “Như” là như vậy. Phương tiện Dẫn nhập: Như kinh nói “Dẫn các tình trí chảy vào biển Tát-bà-nhã”. Các tình là tình ý ham muốn Đại, Tiểu sai khác. Các trí là thấy biết sai khác về Không – Hữu. Dẫn dắt tiếp nhận chúng đều thuận theo dòng đạo, khiến cho hòa nhập vào biển cả của Nhất giác Nhất-thiết-trí, vì nghĩa vô thượng Bồ-đề sâu rộng, như trăm dòng sông cùng chảy ra biển lớn, biển lớn sâu rộng một vị như nhau, như vậy gọi là phương tiện Dẫn nhập. Phương tiện Xuất ly: Như kinh nói “chẳng khiến cho chúng sanh nhận lấy gió giả dối, đều mong được một vị, và hang động thần tiên”. Ấp là châm (rót rượu, trà, nước v.v… ), là nghĩa của Thủ Nạp (chọn lấy, tiếp thu). Nói Hư phong: Nghĩa là gió thường di đông trong hư không, có thể làm dậy sóng; dụ cho các cảnh giới dao động theo làn sóng của các Thức, có thể độ cho chúng sanh ôm nhận lấy gió của cảnh giới, nên từ trước đến nay bị các làn sóng của các Thức, xoay chuyển nay không khiến cho nhận lấy thì làn sóng thức ngừng yên. Thứ ấy là Thứ cơ (ngõ hầu, cơ hồ), là nghĩa của hy vọng. Nói Thần khổng: Nghĩa là hang động của thần tiên, là nơi xa lìa chốn thành ấp ồn ào, vô sự, nhàn nhã, vắng lặng, sống lâu, dụ cho tòa nhà bất tử của Đại Niết-bàn, viên tịch bình đẳng cho nên gọi là một Vị, khiến cho chúng sanh kia mong mỏi Đại Niết-bàn, làn sóng dừng lại vượt các Thức khỏi dòng xoay chuyển, như vậy gọi là phương tiện xuất ly.
Kinh: “Thế gian phi thế, trụ phi trụ xứ, ngũ không xuất nhập, vô hữu thủ xả. Hà dĩ cố? Chư pháp không tướng, pháp tánh phi vô, phi vô bất vô, bất vô bất hữu, vô quyết định tánh, bất trụ hữu vô, phi bỉ hữu vô phàm thánh chi trí, nhi năng trắc ẩn, chư Bồ-tát đẳng, nhược tri thị lợi tức đắc Bồ-đề”. Thế gian chẳng phải thế gian, An trụ chẳng phải nơi an trụ, ra vào năm không; không có gì lấy bỏ. Tại vì sao? Vì tướng không của các pháp và pháp tánh chẳng phải không có, chẳng phải không có – chẳng thể không có, chẳng thể không có – không thể là có, không có tánh quyết định, không trụ vào có – không, chẳng phải trí của phàm thánh có – không kia, mà có thể đo lường yên ổn. Các vị Bồ-tát, nếu biết rõ lợi ích này thì được Bồ-đề.
Luận chép: Đây là chỉ ra đạo lý hội nhập. Trong đó có bốn: 1. Nói Sơ lược. 2. Giải thích lại. 3. Chấp trước nghiêng lệch không thích hợp. . Người thông hiểu được lợi ích. Trong phần đầu nói “Thế gian chẳng phải thế gian: Vì năm pháp thế gian không hề vốn có. An trụ chẳng phải nơi an trụ: Vì thường an trụ Niết-bàn không đạt được gì. Người tu quán hành lúc thông hiểu năm không, ra có vào không nên nói là xuất nhập. Lúc nhập vào “không”, chẳng giữ lấy tánh không, tuy chẳng giữ lấy “không” mà chẳng thể xả bỏ “không”. Vì điều này cho nên nói là không có lấy bỏ. Đã nhập vào năm không, vì sao không giữ lấy? Nếu không giữ lấy điều ấy thì thế nào là không xả bỏ? Vì để trả lời cho câu hỏi này. Thứ hai là giải thích về tướng không của Chư pháp – pháp tánh chẳng phải, không có, do đó nói về Nhập không, chẳng phải không có, chẳng thể có, chẳng thể không, cho nên không có lấy bỏ. Nói chẳng không là lý pháp tánh, vì không giống như sừng thỏ. Nói chẳng thể không có nghĩa là người quán hành mà không xả bỏ, không xả bỏ điều ấy vì chẳng phải lý không có. Nói chẳng thể có ấy nghĩa là người quán hành cũng không thể giữ lại, không giữ lại vì chẳng phải lý có. Pháp tánh như vậy chẳng phải nhất định có – không, thế nên người thông hiểu không trụ vào hai bên, do đó nói là không có tánh quyết định – Không thể an trụ ở có, không. Căn cứ vào đạo lý này cho nên không có lấy bỏ. Trong phần thứ ba nói “Chẳng phải trí phàm thánh có, không” ấy là phàm phu giữ lại có mà lìa bỏ đối với không, Nhị Thừa lìa bỏ có mà hướng về vắng lặng, như vậy không xa lìa trí có – không mà có thể so lường an ổn pháp tánh ấy, không có điểm này cho nên nói là “chẳng phải”. Trong phần thứ tư nói “Các Bồ-tát”: Bồ-tát Địa tiền nếu biết pháp tánh chẳng có – chẳng không, lúc mới phát tâm thì thành tựu Chánh giác, vì thế cho nên thiết thật nói là Tức đắc Bồ-đề nghĩa là ngay khi phát tâm vào lúc biết rõ pháp tánh, lúc này lập tức đạt được vô thượng Bồ-đề; nghĩa này trích từ phẩm phát Tâm Công Đức trong kinh Hoa Nghiêm. Các văn trên đây đều nói Quyết định tánh, tại vì sao trong này chính là nói vô quyết định tánh thì không trái ngược lẫn nhau ư? Vì sao? Vì nghĩa về Vô quyết định vô có thay đổi chắc chắn.
Kinh: “Nhĩ thời chúng trung hữu nhất Bồ-tát danh viết Đại Lực tức tùng toà khởi tiền bạch Phật ngôn: Tôn giả! Như như sở nói ngũ không xuất nhập, vô hữu thủ xả, vân hà ngũ không nhi bất thủ xả?”. Lúc bầy giờ trong chúng hội có một vị Bồ-tát tên gọi Đại lực liền từ chỗ ngồi đứng lên đến trước bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Như như đã giảng nói là năm không ra vào, không có lấy bỏ, vì sao năm vô mà chẳng lấy bỏ?
Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai nói rộng về đạo lý. Trong đó chính là chia ra làm bốn môn: 1. Nói nghĩa về Thật tế. 2. Nói về nghĩa Thú nhập. 3. Mở bày tầng bậc, địa vị nhập vào. . Chỉ ra phương tiện nhập vào. Trong phần đầu cũng – có bốn: 1. Nói về năm không. 2. Nói về ba không. 3. Nói về không là Chân. . Nói về Chân là Như. Trong phần một có hai: Trước hỏi – sau đáp. Người hỏi tên gọi là Đại lực: Người này được nhập vào pháp môn Thật tế, rộng khắp tất cả pháp giới, chẳng có việc gì không được đại tự tại, hoàn toàn nên gọi là Đại Lực, vì thế đối với môn này khai phát hiển dương: Nói Như Như là vì lời Đức Phật giảng nói phù hợp như lý, Như trước là nghĩa xác đáng (đương nghĩa), Như sau là đạo lý. Trước là lãnh hội – sau là thưa hỏi. Hỏi có hai nghĩa:1. Hỏi về pháp môn năm Không. 2. Hỏi về nghĩa không có lấy bỏ.
Kinh: “Phật ngôn: Bồ-tát! Ngũ không giả tam hữu thị không, lục đạo ảnh thị không, pháp tướng thị không, danh tướng thị không, tâm thức nghĩa thị không. Bồ-tát như thị đẳng không, không bất trụ không, không vô không tướng, vô tướng chi pháp hữu hà thủ xả, nhập vô thủ địa tức nhập tam không”. Đức Phật nói: Này Bồ-tát! Năm không là: Ba hữu là không, hình ảnh sáu đường là không, pháp tướng là không, danh tướng là không, nghĩa về tâm thức quả là không. Này Bồ-tát, năm không như vậy, không không bất trụ không, không không chẳng có tướng không, Pháp có gì lấy bỏ, nhập vào nơi không có chấp lấy tức là nhập vào ba không.
Luận chép: Như thứ tự đó trả lời hai câu trước. Năm không, tức là hiển bày rõ ba thứ Chân như. Ba thứ ấy? Đó là: 1. Chân như Lưu chuyển. 2. Chân như Thật tướng. 3. Duy thức Chân như. Nghĩa này đầy đủ như Hiển Dương Luận giải thích. Trong này hai Không trước chính là hai thứ Chân như trước, ba không sau là Chân như thứ ba. Nghĩa này như thế nào? Đầu tiên “Tam hữu là không”: Vì ái trước ba cõi nên trôi lăn trong ba cõi (tam hữu- ba cõi), ba cõi xoay vòng không có tánh trước sau, sát-na không an trụ – Không không có gì đạt được, tức là trôi lăn Chân như môn. Thứ hai là “Hình ảnh sáu đường là không”: Vì nghiệp thiện ác đều có hai phẩm, quả báo sáu đường giống như, vốn của nó hiện ra hình ảnh, hình ảnh không lìa nguồn gốc Không, không có gì đạt được, tức là Thật tướng Chân như môn. Ba không sau là thứ ba Duy thức Chân như môn: Hai thứ trước là xả bỏ tên gọi và nghĩa sở thủ, vì tên gọi và nghĩa là khách của nhau cho nên không trở thành là thật. Một loại sau là xả bỏ tâm thức năng thủ, vì khách chủ (năng – sở) đối đãi lẫn nhau không thể riêng lập. Đạo lý về duy thức rất khó có thể hội nhập, do đó khai bày ba không để xả bỏ năng sở đó. Năng sở không cho nên đạt được vô phân biệt. Từ “Bồ-tát v.v… ” trở xuống là trả lời câu hỏi thứ hai. “Các không như thế…”. Chung đưa ra năm Không phân biệt rõ lý trí đó. Không bất trụ Không: Vì Không trí không an trụ cùng với lý bình đẳng. Không vô không tướng: Bởi vì Không lý không có tướng cùng với trí bình đẳng. Lý trí bình đẳng không có tướng của năng sở, đâu cho phép lấy bỏ ở tại trong đó được. cho nên nhập vào trong đó tức là nhập vào ba Không. Nơi không có giữ lấy: Nghĩa là Thập Địa v.v…
Kinh: “Đại lực Bồ-tát ngôn: Vân hà tam không? Phật ngôn: tam không giả không tướng diệt không, không không diệt không, sở không diệc không. Như thị đẳng không bất trụ tam tướng, bất vô chân thật, văn nôn đạo đoạn, không thể nghĩ bàn v.v…” Đại Lực Bồ-tát chép: Thế nào là ba không? Đức Phật nói: Ba không ấy là tướng không cũng không, không- không cũng không, sở không cũng không. Ba không như vậy không trụ vào ba tướng, chẳng thể không có chân thật, đường ngôn ngữ dứt, không thể nghĩ bàn.
Luận chép: Một lần hỏi – đáp này là nói về hai Không. Không tướng cũng Không: Không tướng chính là xả bỏ Tục hiển bày Chân, tướng của bình đẳng cũng không, tức là hòa hợp Chân lẫn Tục. Nghĩa của Không Không giống như nung chảy vàng thật làm thành vòng xuyền trang nghiêm. Như kinh Niết-bàn chép: “Thị hữu thị vô thị gọi
là không không, thị thị phi thị danh – không không (là có là không có thì gọi là không không, là vậy chẳng phải vậy thì gọi là không không)”. Đây là nói về tướng sai khác vô hữu vô thị phi của Tục đế, là nghĩa của không, không: Không đối với bình đẳng không, nói lên Tục sai khác. Do đó sai khác này gọi là Không không, Không không cũng không: Không, không chính là tục đế sai khác, cũng không trở lại hòa hợp với Tục trở thành chân, giống như nung chảy đồ vật trang nghiêm trở lại làm thành bình vàng. Trong phần thứ ba chép: “Sở không cũng không”: nghĩa là trong Không đầu tiên Không vốn hiển bày Tục, trong Không thứ hai Không vốn nói lên Chân, hai Không này Không hai cho nên nói là cũng Không, là hòa hợp một Đế hiển bày một pháp giới. Một pháp giới ấy gọi là Nhất Tâm. Nhưng trong môn Không đầu tiên vốn xả bỏ Tục ấy là tướng sở chấp, trong không thứ hai vốn hòa hợp Tục ấy là tướng Y tha. Tục có hai thứ tướng cho nên cái xả bỏ – cái hòa hợp chẳng phải là một. Lại, trong môn đầu tiên xả bỏ Tục đã hiển bày Chân, trong Không thứ hai hòa hợp Tục để hiển bày Chân. Hai môn này Chân chỉ là một không có hai, Chân chỉ có một loại thành tựu trọn vẹn thật tánh (viên thành thật tánh), vì lẽ đó xả bỏ hay hòa hợp vốn hiển bày chỉ có một. Không thứ ba ấy là chẳng phải Chân – chẳng phải Tục – chẳng phải Nhị- chẳng phải Nhất. Lại, ba không này – Không đầu tiên hiển bày Trung đạo Tục đế, Không thứ hai hiển bày Trung đạo Chân đế, Không thứ ba hiển bày nghĩa Trung đạo của chẳng phải Chân – chẳng phải Tục – Không phải bên – Không phải giữa. Nói “các Không Như thế” là nêu chung ba Không, không trụ vào Tục tướng, không trụ vào Chân tướng, cũng không trụ vào nơi tướng của không có hai, vì vậy nói là không trụ ba tướng. Như vậy không an trụ rốt ráo hiển bày Thật cho nên nói là không thể chân thật. Tuy chẳng thể không có chân thật mà chẳng phải là có chân thật. Vì như vậy nên đường Văn ngôn dứt. Nói là Đạo đoạn cũng không thể gởi gắm cho nên cũng nói rằng Bất khả tư nghị (không thể nghĩ bàn).
Kinh: “Đại lực Bồ-tát ngôn: Bất vô chân thật là tương ứng hữu” Bồ-tát Đại lực chép: Chẳng thể không có chân thật là tương ứng với có.
Luận chép: Dưới đây là phần thứ ba nói về nghĩa Không, chẳng thể không có chân thật mà chẳng thể có chân thật. Trước hỏi – sau trả lời, ý hỏi mà chép: hễ nói về có – không chắc chắn cũng tương đối, chẳng thể có thì chắc chắn là không, chẳng thể không thì là có. Nếu nói chẳng thể không có lý của chân thật thì phải là có lý chân thật. Tất cả những người học thường có chấp này, vì xả bỏ chấp kia nên có lời hỏi này.
Kinh: “Phật ngôn: Vô bất trụ vô, bất vô bất hữu chi pháp, bất tức trụ vô, bất vô chi tướng, bất tức trụ hữu, phi dĩ hữu vô nhi thuyên đắc lý. Bồ-tát! Vô danh nghĩa tướng không thể nghĩ bàn, hà dĩ cố? Vô danh chi danh bất vô ư danh, vô nghĩa chi nghĩa bất vô nghĩa”. Đức Phật nói: Không có không thể trụ vào không có, chẳng thể không có – chẳng thể có, pháp chẳng thể có không thể tức thì trụ vào không có, tướng chẳng thể không có không thể lập tức trụ vào có, chẳng thể dùng có – không mà giải thích được lý: Này Bồ-tát! Tướng không có danh nghĩa không thể nghĩ bàn, tại vì sao? Vì danh của vô danh chẳng thể không có nơi danh, nghĩa của vô nghĩa chẳng thể không có nơi nghĩa.
Luận chép: Trong trả lời có hai: 1. Chính là trả lời. 2. Khen ngợi sâu sắc. Trong phần đầu nói “Chẳng có không thể trụ vào không có”: Trong câu “chẳng thể không có chân thật” nói ở trước mới là tên gọi của không có, không thể trụ vào nghĩa không, thế nên tên gọi của chẳng thể không có trụ vào nghĩa không, cũng không thích hợp đối với nghĩa có. Vì điều này cho nên nói chẳng thể không có, chẳng thể có”, là nói về danh của vô danh không thích hợp với nghĩa của hữu nghĩa. “Pháp chẳng thể có, không thể tức liền trụ vào không có: Tuy hòa hợp Tục thành Chân mà không giữ lấy pháp Chân không. Tướng chẳng thể không có không thể tức liền trụ vào có” Tuy hòa hợp Chân trở thành chân của Tục mà không giữ lấy Tục có. Vì Chân – Tục không thể trụ vào có – không, nên chẳng thể không có lý vô nhị của chân thật. Vì Chân tục chẳng thể không có hai đế. Nên chẳng thể có lý vô nhi của chân thật. Cho nên chép: Chẳng thể dùng có, không mà truyên bày được lý. Tức là nói về nghĩa của vô nghĩa không thể tương xứng với danh của vô danh. Từ “Bồ-tát v.v… ” trở xuống là phần thứ hai khen ngợi sâu sắc. Trong đó có hai: Thẳng thắn khen ngợi – Giải thích khen ngợi – Danh của vô danh chẳng thể không có ở danh”: Đức Phật đã nói về danh không thích hợp với nghĩa của có nghĩa (hữu nghĩa) cho nên là danh của không có danh (vô danh), mà thích hợp với nghĩa của không có nghĩa (vô nghĩa) cho nên nói là chẳng thể không có ở danh. Nghĩa của vô nghĩa chẳng thể không có ở nghĩa: Nghĩa về Thể của Phật không tương xứng với danh của có danh (hữu danh) cho nên nghĩa của không có nghĩa (vô nghĩa), mà xứng hợp với danh của không có danh (vô danh) cho nên nói không thể ở nghĩa. Như vậy chẳng thể có danh – nghĩa mà cũng chẳng thể không có danh – nghĩa, căn cứ vào lý này nếu không thể nghĩ bàn được vậy.
Kinh: “Đại lực Bồ-tát ngôn: Như thị danh nghĩa, chân thật như tướng Như-lai như tướng, như bất trụ như, như vô như tướng, tướng vô như cố, phi bất Như-lai, chúng sanh tâm tướng diệc Như-lai, chúng sanh chi tâm ưng vô biệt cảnh”. Bồ-tát Đại lực chép: Danh – nghĩa như vậy chân thật như tướng, tướng Như của Như-lai, Như không trụ vào Như, Như không có tướng Như, tướng không có Như, nên chẳng phải không Như-lai, tâm tướng chúng sanh – tướng cũng Như-lai, tâm của chúng sanh nên là không có cảnh riêng biệt.
Luận chép: Dưới đây là phần thứ tư nói về nghĩa Chân chẳng thể có Như mà chẳng có không thể Như. Trong đó có hai: Trước hỏi – sau trả lời. Trong phần Hỏi cũng có hai: trước là lập ra đạo lý, sau là hỏi về những điều nghi ngờ. Nói danh nghĩa Như thị: Như trước đã nói về tướng không thể nghĩ bàn của danh – nghĩa. Danh – nghĩa tương xứng không trái ngược không thay đổi cho nên gọi là chân thật. Danh – nghĩa như vậy xa lìa năng sở bình đẳng một vị cho nên gọi là Như Tướng. Danh -nghĩa như vậy bình đẳng Như tướng của Thể chư Phật Như-lai cho nên nói là Như-lai như tướng. “Như không trụ vào Như”: là nói về Như danh của không có danh (vô danh) thích hợp đối với Như nghĩa của không có Như (vô Như). “Như không có tướng Như, – tướng không có Như”: Tướng Như của không có tướng Như (vô như tướng) xứng hợp đối với Như danh của không có danh (vô danh), tương xứng thích hợp năng sở bình đẳng, như vậy nên hoặc là danh – hoặc là nghĩa chẳng phải không là Như-lai. Tướng không có Như: Tướng Như không có Như, Như tướng chính là vô tướng làm Tướng. Nên biết rằng “Như không có tướng Như” là trình bày chẳng thể có vô tướng của Như. “Tướng không có Như vô”: Là nói chẳng thể có Như của vô tướng. Thể tướng của Như tuy là chẳng thể có mà cũng là thể tướng chẳng thể không có Như (vô như). Như vậy tướng Như của không có tướng Như (vô như tướng) mới tương xứng Như danh của không có danh (vô danh). “Chúng sanh tâm tướng – tướng cũng Như-lai:” Nghĩa là tâm tướng phân biệt của các chúng sanh – tướng chính là chẳng phải tướng – không có gì không thể bình đẳng, vì thế cho nên tướng kia cũng là Như-lai. Trên đây chính thức lập ra đạo lý bình đẳng. Kế đến chép: Tâm của chúng sanh nên là không có cảnh riêng biệt: Là hỏi về những điều nghi ngờ. Tâm tướng chúng sanh đã là Như-lai, thì tâm chúng sanh lẽ ra không có cảnh riêng biệt. “Không có cảnh riêng biệt” ấy tức là không có phân biệt. Không có phân biệt cho nên thuận theo không có nhiễm ô. Không có nhiễm ô cho nên lập tức không có ba cõi . Có dấy lên nghi ngờ này cho nên nêu câu hỏi này.
Kinh: “Phật ngôn: Như thị chúng sanh chi tâm thật vô biệt cảnh, hà dĩ cố? Tâm bổn tịnh cố lý vô uế cố; dĩ nhiễm trần cố danh vi ba cõi, ba cõi chi tâm danh vi biệt cảnh, thị cảnh luống dối cảnh luống dối tùng tâm hóa sanh, tâm nhược vô vọng, tức vô biệt cảnh”. Đức Phật nói: Như vậy tâm chúng sanh thật sự không có cảnh phân biệt, tại vì sao? Vì tâm vốn thanh tịnh cho nên lý không uế tạp, vì nhiễm bụi nhơ cho nên gọi là ba cõi, tâm của ba cõi gọi là cảnh phân biệt, cảnh này luống dối từ tâm hóa sanh, tâm nếu không có vọng thì không có cảnh phân biệt.
Luận chép: Đây là trả lời những điều nghi ngờ, trước là cho, sau đoạt. Cho là y cứ vào tự tánh thanh tịnh, vốn không nhiễm ô. Đoạt là dựa theo tùy người khác nhiễm ô, vì có cảnh phân biệt. Tự tánh thanh tịnh: Như Luận Thật Tánh dẫn kinh chép: “Từng niệm từng niệm tâm thiện diệt không trụ vào, không bị phiền não làm cho ô nhiễm, từng niệm từng niệm tâm bất thiện diệt đi không trụ vào, không bị phiền não làm cho ô nhiễm, phiền não không tiếp xúc tâm – tâm không tiếp xúc phiền não, vì sao không tiếp xúc với pháp mà thường có thể ô nhiễm tâm?” Cho đến giải thích rộng tra, chính là môn nhiễm mà không thể nhiễm. Tùy tha nhiễm: Trong kinh Phú Nhân chép: “Tự tánh thanh tịnh tâm khổ có thể hiểu biết rõ ràng, tâm kia bị phiền não làm cho ô nhiễm cũng có thể hiểu biết rõ ràng”, chính là môn không thể nhiễm mà lại nhiễm. Tâm vốn thanh tịnh nên lý không uế tạp: Lý tự tánh tịnh tâm của Bổn giác chẳng phải nhập vào nơi của các trần uế tạp. Từ “Vì nhiễm trần v.v… ” về sau làm mất đi những câu hỏi đó. Trong đó trước là hiển bày không giác ngộ mà nhiễm trần, sau là đối với không giác ngộ sơ lược chỉ ra Thỉ giác. Trong Bất giác nói “Vì nhiễm trần nên gọi là ba cõi”: Trụ địa phiền não sơ lược có ba thứ, đó là Dục ái trụ địa, Sắc ái trụ địa, Hữu ái trụ địa. Vì trụ địa này khởi lên ái ba cõi, ái ba cõi cho nên tâm ba cõi phát sanh, do vọng tâm này, thay đổi làm thành cảnh luống dối. Vì điều này cho nên từ tâm hóa sanh. Kế đến nói về Thỉ giác. Nếu Tâm không có vọng: Vì dựa vào lý quán hành nên vọng tâm bất sanh khởi. Tức không có cảnh phân biệt: Vì vọng tạo thành cảnh giới nên tùy theo tâm mà diệt. Bốn môn trên đây hợp lại làm phần thứ nhất mở rộng nghĩa về Thật Tế.
Kinh: “Đại Lực Bồ-tát ngôn: Tâm nhược tại tịnh chư cảnh bất sanh, thử tâm tịnh thời ưng vô ba cõi. Phật ngôn: Như thị! Bồ-tát, tâm bất sanh cảnh, cảnh bất sanh tâm, hà dĩ cố? Sở kiến chư cảnh duy sở kiến tâm, tâm bất huyễn hóa tức vô sở kiến”. Đại Lực Bồ-tát chép: Nếu Tâm đang tịnh thì các cảnh không thể sanh, lúc tâm này thanh tịnh thì sẽ không có ba cõi. Đức Phật nói: Đúng vậy! Này Bồ-tát, tâm không thể sanh cảnh, cảnh không thể sanh tâm, tại vì sao? Vì các cảnh sở kiến ấy chỉ là tâm sở kiến, tâm không thể huyễn hóa tức là không có cảnh sở kiến.
Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai tức là mở rộng về nghĩa Thú Nhập. Trong đó có bốn: 1. Nói chung về Thú Nhập. 2. Hiển bày riêng về thú nhập. 3. Xa lìa sai lầm về Nhập. . Lìa bỏ ngằn mé của Nhập. Trong phần Một có hai: Trước hỏi – sau trả lời. Trong phần Hỏi chép: “Lúc tâm này thanh tịnh, thì sẽ không có ba cõi”: Là từ Sơ Địa trở lên chứng cái thấy vốn là thanh tịnh, tùy theo những thích ứng có thể diệt đi, không có ba cõi. Sự tướng ba cõi: Hoặc ở tại Sơ Địa hoặc là Địa thứ tám mà đạt được diệt đi không có ba cõi. Tự tánh Ba cõi: Là trong địa vị Đẳng Giác mà được diệt đi không có, tập khí của ba cõi đến địa vị Diệu Giác mới diệt sạch không còn. Nghĩa này đầy đủ như chương về Nhị Chướng giải thích. Trong phần trả lời chung thừa nhận cho nên nói như thế. Lúc ba cõi dứt sạch không còn thì tâm cảnh không thể sanh khởi lẫn nhau, Vì sao? Vì chỉ là tâm vọng thấy thay đổi tạo thành cảnh giới, lúc tâm không luống dối thì không thể dấy lên cảnh, cảnh giới không có cho nên tâm không thể sanh khởi.
Kinh: “Bồ-tát nội vô chúng sanh, tam tánh vắng lặng, tắc vô kỷ chúng diệc vô tha chúng, nãi chí nhị thập diệc sanh tâm, đắc như thị lợi tức vô ba cõi”. Bồ-tát bên trong không có chúng sanh, ba tánh vắng lặng, không có chúng của mình cũng không có chúng của người, cho đến hai hòa nhập cũng không thể sanh khởi tâm, đạt được lợi ích như vậy tức là không có ba cõi.
Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai nói riêng về thú nhập. Trong đó có hai: 1. Nêu chung ra số. 2. Hỏi đáp hiển bày riêng. Đây là văn phần đầu. Trong không có chúng sanh: Nghĩa là địa vị Thập Trụ đạt được Nội nhân Không. Ba tánh vắng lặng: Trong địa vị Thập Hạnh đạt được Nội pháp Không. “Thì không có chúng của mình cũng không có chúng của người: Địa vị Thập Hồi Hướng đạt được Bình đẳng Không khắp mọi nơi xả bỏ chúng tự – tha – người – pháp. Nói Chúng là chúng sanh gọi là chúng, pháp của năm Ấm cũng gọi là năm chúng, là tương tự Không chưa được Chân chứng. Cho nên hai nhập: Là cùng nêu ra số Địa tiền và Địa thượng hòa nhập.
Kinh: “Đại Lực Bồ-tát ngôn: Vân hà nhị nhập bất sanh ư tâm, tâm bổn bất sanh vận hà hữu nhập? Phật ngôn: Nhị nhập giải nhất vị lý nhập, nhị vị hành nhập. Lý nhập giả thâm tín chúng sanh bất dị chân tánh, bất nhất bất cọng, đản dĩ khách trần chi sở ế chướng, bất khứ bất lai ngưng trụ giác quán, đế quán Phật tánh bất hữu bất vô, vô kỷ vô tha phàm Thánh không hai, kim cương tâm địa kiên trụ bất di, vắng lặng vô vi hữu phân biệt, thị danh Lý nhập”. Đại Lực Bồ-tát chép: Vì sao hai nhập bất sanh ở tâm, tâm vốn bất sanh làm sao có nhập? Đức Phật nói: Hai nhập – một gọi là Lý nhập hai gọi là Hành nhập. Lý nhập là tin sâu sắc rằng chúng sanh không khác chân tánh, không là Một là không chung nhau, chỉ vì các chướng ngại che động khách trần, không đi không đến ngưng lại an trụ giác quán, quán sát kỹ càng Phật tánh chẳng phải có – không phải không có, không có mình – không có người khác phàm Thánh không hai, nơi tâm Kim cương kiên quyết an trụ không di động, vắng lặng vô vi không có phân biệt, đây gọi là Lý nhập.
Luận chép: Dưới đây là hỏi – đáp nói riêng. Trong phần hỏi có hai: trước hỏi – sau chất vấn. Trong phần đáp cũng có hai: Trước đáp – sau khơi thông. Trong đáp có ba: Nhắc lại số nêu ra tên gọi lần lượt phân rõ tướng. Trong này nói Lý nhập: Thuận theo lý tin hiểu chưa được chứng hành nên gọi là Lý nhập, địa vị ở Địa tiền. Hành nhập: Chứng lý tu hành nhập vào vô sanh hành nên gọi là Hành nhập, địa vị ở Địa thượng. Trong văn Lý nhập có bốn câu. Từ “Tín sâu sắc v.v… ” trở xuống cho đến “bị chướng che lấp”, là Thập Tín nhập vào. Bất nhất: Nghĩa là tướng chúng sanh không khác chân tánh nhưng không phải là một. Bất cọng: Vì không phải vừa là một vừa là khác. Câu thứ hai nói “Không đến, không đi lắng đọng an trụ giác quán”, là Thập Trụ nhập vào, hiểu rằng chúng sanh Không cho nên không đến không đi, đối với môn nhân không an trụ tâm vắng lặng đó giác ngộ xét kỹ Phật tánh không có đi – đến (khứ lai). Câu thứ ba nói “Quán kỹ Phật tánh chẳng phải có chẳng phải không”, là Thập Hạnh nhập vào, đã đạt được pháp không dựa vào môn pháp Không quán sát kỹ càng Phật tánh, vì chẳng thể có pháp tướng, chẳng thể không có Không tánh. Câu thứ tư chép: “Không có tự, tha phàm Thánh không hai v.v… ”, là nói về vị thập Hồi Hướng, lý nhập đã đạt được – tự tha bình đẳng Không nên tâm giống như Kim cương kiên quyết an trụ không lui sụt. Trong kinh Phạm Võng gọi là Thập Kim Cương, trong kinh Nhân vương gọi là Thập Kiên Tâm, là tên gọi khác của Thập Hồi Hướng.
Kinh: “Hành nhập giả tâm bất khuynh ỷ, ảnh vộ lưu dịch, ư sở hữu xứ tịnh niệm vô cầu, phong cổ bất động do như đại địa, quyên ly tâm ngã cứu độ chúng sanh, vô sanh vô tướng bất thủ bất xả”. Hành nhập là tâm không nghiêng về nương dựa, hình ảnh không có trôi lăn thay đổi, đối với tất cả nơi chốn ý niệm vắng lặng không có mong cầu, gió lay chẳng động giống như mặt đất, vứt bỏ xa lìa tâm ngã cứu độ chúng sanh, không có sanh khởi – không có tướng trạng – không lấy không bỏ.
Luận chép: Đây là nói về hành chứng nhập của Địa thượng – Tâm chẳng ngã nghiêng, dựa dẫm: Vì như lý trí tâm không níu bám duyên, vì thế tâm bám víu kéo duyên không thể sanh khởi. Ảnh không trôi lăn thay đổi: Cảnh như lý xa lìa ba thời gian (tam thế), vì thế cảnh tượng chuyển đổi không còn hiện nữa. Tất cả phước lạc thế gian cho đến quả Bồ-đề đại Niết-bàn, đối với tất cả điều này đều không mong cầu, vì thông suốt bình đẳng không có bên này bên kia, cho nên không bị gió cảnh giới làm cho dao động, là nói về tự lợi hành nhập. Từ “Bỏ lìa v.v…” trở xuống là khiến cho người khác nhập vào thật hành, vì chứng hai Không xa lìa tướng người – pháp, có thể rộng khắp mọi nơi cứu độ tất cả. Tuy tâm bất sanh khởi, cũng không có cảnh tướng, nhưng không giữ lấy tánh vắng lặng đó mà thường không xả bỏ đối với tất cả chúng sanh. Vì điều này cho nên nói là không lấy không bỏ. Hai hành như vậy gọi là hành nhập.
Kinh: “Bồ-tát! Tâm vô xuất nhập, vô xuất nhập tâm, nhập bất nhập cố cố danh vi nhập”. Này Bồ-tát! Tâm không có ra vào, không có ra vào tâm, vì vào không vào, cho nên gọi là nhập vào.
Luận chép: Đây là phần thứ hai khơi thông các vấn nạn kia. Tâm chứng lý xa lìa sanh diệt không trước không sau cho nên tâm không có ra vào. Đã không có ra vào cũng không có tâm ra vào của ngày xưa cho nên không có ra vào tâm. Lìa bỏ ngày xưa có ra tâm, nhập vào tâm, tâm nhập vào cái không thể ra vào này nên nói là Nhập bất nhập nên gọi là nhập. Như vậy vấn nạn trước đây hiểu được dễ dàng.
Kinh: “Bồ-tát! Như thị nhập pháp, pháp tướng bất không, bất không chi pháp, pháp bất hư khí, hà dĩ cố? Bất vô chi pháp, cụ túc công đức, phi tâm phi ảnh, pháp nhĩ thanh tịnh”. Này Bồ-tát! Như vậy nhập vào pháp, pháp tướng chẳng thể không, pháp chẳng thể không pháp chẳng thể giả dối bỏ đi, tại vì sao? Vì pháp chẳng thể không có, đầy đủ công đức, chẳng phải tâm chẳng phải ảnh, pháp nhĩ thanh tịnh.
Luận chép: Dưới đây là phần thứ ba xa lìa sai lầm về chủ động nhập vào. Trong đó có hai: Sơ lược và giải thích rộng. Đây chính là nói lược. Như vậy nhập vào pháp: Nghĩa là hội nhập thật tế không có pháp ra vào, là chẳng thể không có pháp – năng sở bình đẳng xa lìa các sai lầm tai họa – đầy đủ các công đức. Phi tâm phi ảnh: Vì tâm – cảnh bình đẳng xa lìa năng sở. Pháp nhĩ thanh tịnh: Vì xa lìa các tướng không có trước – không có sau.
Kinh: “Đại Lực Bồ-tát ngôn: Vân hà phi tâm phi ảnh pháp nhĩ thanh tịnh? Phật ngôn: Không như chi pháp, phi tâm thức pháp, phi tâm sử sở hữu pháp, phi không tướng pháp, phi sắc tướng pháp, phi tâm bất tương ưng pháp, phi tâm vô vi tương ưng pháp, phi sở hiện ảnh, phi sở hiển thị, phi tự tánh phi sai khác – phi danh – phi tướng nghĩa, hà dĩ cố? Như cố. Phi như chi pháp, diệc vô vô như, vô hữu vô như, phi vô như hữu, hà dĩ cố? Căn lý chi pháp, phi lý phi căn, ly chư tranh luận, bất kiến kỳ tướng. Bồ-tát như thị tịnh pháp, phi sanh chi sở sanh sanh, phi diệt chi sở diệt diệt”. Bồ-tát Đại Lực chép: Thế nào là chẳng phải tâm – chẳng phải ảnh – pháp nhĩ thanh tịnh? Đức Phật nói: Pháp của Không Như, chẳng phải pháp của tâm thức, chẳng phải các pháp của tâm sai khiến sở hữu, chẳng phải pháp Không tướng, chẳng phải pháp Sắc tướng, chẳng phải pháp bất tương ưng của tâm, chẳng phải pháp tương ưng tâm vô vi, chẳng phải các ảnh tượng hiện bày, chẳng phải những gì hiển bày, chẳng phải tự tánh – chẳng phải sai khác – chẳng phải danh – chẳng phải tướng nghĩa, tại vì sao? Vì là Như, nên pháp “không phải Như”, cũng không có, không có Vô như, chẳng phải Vô Như có, tại vì sao? Vì pháp của căn – lý, chẳng phải lý – chẳng phải căn, xa lìa các sự tranh luận về không thấy tướng đó. Này Bồ-tát, tịnh pháp như vậy, là chỗ sanh của chẳng phải sanh mà sanh, chỗ diệt của chẳng phải diệt mà diệt.
Luận chép: Dưới đây là phần thứ nhất mở rộng giải thích về xa lìa sai lầm. Đầu tiên hỏi – kế là đáp – thứ ba lĩnh hội – thứ tư nói về. Trung phần đáp có hai: Trước là giải thích về câu “chẳng phải tâm, chẳng phải ảnh”, sau là giải thích về câu “Pháp nhĩ thanh tịnh”. Trong phần đầu cũng có hai: Trước là trình bày nhập vào pháp lìa bỏ các tâm ảnh, sau là trình bày tâm ảnh không gì không phải Như lý. Trong phần đầu chép: “Pháp của Không Như”: Là lúc hội nhập thật tế xa lìa các tướng nói là không, năng sở bình đẳng nói là Như. Như vậy nhập vào pháp lìa bỏ các tâm ảnh. Tâm ảnh sai khác đại khái có sáu cặp: 1. Tâm và tâm sở là một cặp. 2. Hư không và sắc là một cặp. 3. Bất tương ưng hành và các vô vi là một cặp. . Ảnh hưởng cùng với bản chất là một cặp. . Tự tánh sai khác là một cặp. 6. Danh ngôn cùng với tướng nghĩa là một cặp. Trong sáu cặp này thì một cặp đầu tiên là chủng loại của tâm năng duyên, năm cặp sau là chủng loại ảnh sở duyên. Lìa bỏ sáu cặp này cho nên chẳng phải tâm ảnh. Như thứ tự các câu đó có sáu cặp: Chẳng phải tâm thức pháp”: Vì lìa bỏ tám thức tâm. “Chẳng phải tâm sử sở hữu pháp: Vì lìa bỏ sáu địa vị tâm sở hữu pháp. Chẳng phải không tướng pháp”: Lìa bỏ vô sắc tướng hư không pháp. “Chẳng phải sắc tướng pháp”: Lìa bỏ ba thứ sắc: Hiển, hình và biểu. “Chẳng phải tâm bất tương ưng pháp”: Lìa bỏ hai mươi bốn bất tương ưng Hành. “Chẳng phải tâm vô vi tương ưng pháp”: Lìa bỏ bảy loại vô vi pháp còn lại. Dựa vào tâm sở hiển bày cho nên gọi là tâm vô vi. Tướng của ba thứ vô vi tương ưng pháp cho nên gọi là Tương ưng pháp. Cũng lìa bỏ ba thứ Chân như pháp ấy là vì trong môn nhập chứng không có ba sai khác. “Chẳng phải ảnh hiện”: Vì lìa bỏ ảnh tượng của phần đồng pháp vốn có, đã hiển hiện của phương tiện quán. “Chẳng phải sở hiển thị”: Cũng lìa bỏ những pháp cốt toả của bản chất đã hiển thị của ảnh tượng. “Chẳng phải tự tánh”: Vì lìa bỏ tự tánh của các sắc tâm v.v… “Chẳng phải sai khác”: Vì lìa bỏ các tướng sai khác của vô thường. “Chẳng phải danh”: Vì lìa bỏ các tướng năng thuyên danh, cú, văn. “Chẳng phải tướng nghĩa”: Vì lìa bỏ tướng sở thuyên về danh và nghĩa của danh thích đáng. Tại vì sao lìa bỏ tướng sáu cặp này: Vì năng sở bình đẳng không có sai khác cho nên nói là Vì như. Từ “Pháp chẳng phải Như v.v… ” về sau là phần thứ hai nói về tâm -ảnh- pháp không có gì không thể như lý. “Pháp chẳng phải như”: Nghĩa là trước đây pháp tướng vốn chẳng phải sáu cặp. “Cũng không có vô như”: Vì Như lý thông suốt khắp nơi. “Không có Vô Như”: Vì không có một pháp nào có tướng mà không như lý ấy. “Chẳng phải Vô như có”: Giả sử có pháp vô Như có thể được làm có. Đã chẳng phải pháp của không phải Như thì không thật có là có. Từ “Vì sao?..”trở xuống là giải thích về nghĩa chẳng phải có (phi hữu). Căn ấy là gốc cây (thụ căn) dụ cho hạt giống. Lý ấy là thớ gỗ (mộc lý) dụ cho hiện pháp. Như quả Am la nói trong dụ trước kia. Lìa các tranh luận về không thấy tướng đó: Vì cầu mong giác tuệ không có gì đạt được. Hai phần trên đây mở rộng về chẳng phải tâm – ảnh. Từ “Tịnh pháp như vậy v.v… ” trở xuống là kế đến mở rộng về pháp nhĩ thanh tịnh. Là chỗ sanh của phi sanh mà sanh. Câu dưới cũng vậy. Vì lìa tướng diệt nên thể chẳng phải diệt: Vì lìa bỏ tướng sanh cho nên Thể chẳng phải sanh. Cũng vậy pháp thanh tịnh lìa bỏ tướng hữu vi vô sanh vô diệt vô thỉ vô chung. Căn cứ vào nghĩa này cho nên pháp nhĩ thanh tịnh.
Kinh: “Đại Lực Bồ-tát ngôn: Bất khả tư nghị! Như thị pháp tướng bất hợp thành bất độc thành, bất ki bất bạn, bất tụ tán bất sanh diệt, diệc vô lai tướng cập dĩ khứ tướng, không thể nghĩ bàn”. Đại Lực Bồtát chép: Không thể nghĩ bàn! Như vậy pháp tướng không hòa hợp mà thành – không riêng rẽ mà thành, không ràng buộc không phụ hoạ, nhóm không tán bất sanh diệt, cũng không có tướng xảy ra cho đến tướng lìa bỏ, không thể nghĩ bàn.
Luận chép: Đây là phần thứ ba lĩnh ngộ hiểu rõ. Chẳng hợp thành ấy là chẳng phải tâm- chẳng phải tâm sở, vì tâm và tâm sở Thể khác nhau tương ưng. Chẳng riêng lẽ thành ấy là chẳng phải tự tánh – chẳng phải sai khác, vì hai nghĩa này riêng không có hai Thể. Chẳng buộc ràng là vì chẳng phải danh, chẳng phải nghĩa, danh nghĩa làm khách lẫn nhau. Chẳng phụ họa là chẳng phải ảnh, chất, vì ảnh chất tương tự nhau mà làm bạn. Chẳng tụ tán là vì chẳng phải Không – chẳng phải sắc, vì nhóm hợp là sắc – tán hoại là Không. Chẳng sanh diệt là vì chẳng phải bất tương ưng – chẳng phải vô vi, vì bất tương ưng thành là sanh khởi, các vô vi pháp diệt đi mà hiển bày. Đây là lĩnh hội nghĩa về lìa bỏ sáu cặp nói trước đây. Cũng không có tướng đến là vì sanh ra từ chỗ sanh của phi sanh. Cho đến tướng mất là vì chỗ diệt của phi diệt. Là lĩnh hội về “Pháp nhĩ thanh tịnh” nói sau đó. Đầu tiên nói Bất khả tư nghị: là như của chẳng phải như, lìa tâm mà nói. Sau nói bất khả tự nghị là lìa tâm của tâm cũng lìa bỏ cả hai.
Kinh: “Phật ngôn: Như thị! Bất khả tư nghị, bất khả nghị. Tâm tâm diệc như thị, hà dĩ cố? Như bất dị tâm tâm bổn như cố”. Đức Phật nói: Đúng vậy! Không thể nghĩ bàn, không thể nghĩ bàn Tâm tâm cũng như vậy, tại vì sao? Vì Như chẳng khác tâm – tâm vốn là Như.
Luận chép: Đây là phần thứ tư nói về thành tựu. Như thứ tự đó nói về về hai thứ câu Bất tư nghị kia. Cái gọi là Tâm ấy, nghĩa là tâm nhập vào chứng thật, tâm của vô tâm nhập vào nơi không thể nhập vào cho nên Bất tư nghị. “Như chẳng khác tâm” là giải thích Bất tư nghị ở trước, “Vì tâm vốn Như” là giải thích bất tư nghị ở sau.
Kinh: “Chúng sanh Phật tánh bất nhất bất dị, chúng sanh chi tánh bổn vô sanh diệt, sanh diệt chi tánh tánh bổn Niết-bàn, tánh tướng bổn như như vô động cố”. Phật tánh và tánh chúng sanh không phải một không phải khác, tánh của chúng sanh vốn bất sanh diệt, tánh của sanh diệt là tánh vốn có Niết-bàn, tánh tướng vốn là Như Như không có biến động.
Luận chép: Dưới đây là phần thứ tư lìa bỏ ngằn mé đã Nhập. Trong đó có hai: Trước là nói về Phật tánh lìa bỏ ngằn mé một khác, sau là hiển bày Như Như lìa bỏ ngằn mé Hữu – Vô. Trong phần đầu có hai: trình bày Sơ lược và nói rộng. Đây chính là nói lược, trong này cũng có hai. Trước là lìa bỏ một khác, sau là giải thích lìa bỏ khác. Lìa một khác:
Nghĩa là vì chúng sanh cùng Phật tánh không một mà cũng không phải khác. Nói Phật tánh ấy là Chân như Phật tánh. Như trong kinh Niết-bàn chép: “Phật tánh ấy gọi là Đệ nhất nghĩa Không, hoặc là một hoặc là khác đều có sai lầm”. Tánh của chúng sanh vốn bất sanh diệt: Dưới đây giải thích nghĩa về lìa khác vì nghĩa của không một (bất nhất dễ dàng có thể thấy. Câu này trình bày con người không khác nhau Phật tánh. “Tánh của sanh diệt là tánh vốn có Niết-bàn”: Là nói về sanh tử không khác Niết-bàn. Tánh tướng vốn như như không động: Là tánh người của chúng sanh (nhân tánh) sanh diệt mà pháp tướng xưa nay là Như cho nên không khác.
Kinh: “Nhất thiết pháp tướng tùng duyên vô khởi, khởi tướng tánh như như vô sở động, nhân duyên tánh tướng tướng bổn không vô, duyên duyên không không vô hữu duyên khởi, nhất thiết duyên pháp hoặc tâm vọng kiến, hiện bổn bất sanh duyên bổn vô cố, tâm như pháp hoặc tâm vọng kiến, hiện bổn bất sanh duyên bổn vô cố, tâm như pháp lý tự thể không vô, như bỉ không vương bổn vô trụ xứ, phàm phi chi tâm vọng phân biệt kiến”. Tất cả pháp tướng từ duyên không khởi lên, khởi lên tướng tánh Như Như không hề bị biến động, nhân duyên tánh tướng – tướng vốn là không không có, duyên duyên Không Không không có duyên khởi, tất cả duyên pháp mê hoặc tâm vọng nhìn thấy, hiện tại vốn bất sanh – duyên vốn không có, Lý của Tâm – Như – Pháp tự Thể không có, như chúa tể hư không kia vốn không có trụ xứ, tâm của phàm phu vọng phân biệt mà thấy.
Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai nói rộng. Trong đó chỉ mở rộng về nghĩa lìa bỏ mé khác. Tất cả pháp tướng từ duyên mà sanh ra, tất cả quả pháp từ duyên mà có cho nên chính là không có sanh khởi, khởi lên tướng tánh Như Như không hề bị biến động. Xuống dưới nói về năng khởi các duyên cũng Không. Nhân duyên tánh tướng, tướng vốn vắng lặng không có: Vì hạt giống nhân duyên không gì vốn có. Duyên duyên không không không có duyên khởi: Sở duyên duyên pháp chẳng phải một mà rất nhiều chẳng gì không đều là Không cho nên nói Không Không. Vì vậy cho nên không có năng khởi của duyên. Tất cả duyên pháp hoại tâm vọng kiến: Nghĩa là Tăng thượng duyên và vô gián duyên chỉ là tâm vọng nhìn thấy cho nên cũng Không. Hiện vốn bất sanh duyên vốn không có: Kết thành hai không, Duyên vốn hiện rõ quả xưa nay bất sanh, năng khởi các duyên xưa nay không có. Lý của tâm như pháp tự thể vắng lặng không có: Trước nói về nhân quả là pháp sở thủ, pháp sở thủ không có cho nên tâm năng thủ cũng Không. Như nói của phápsở thủ đạo lý Không, Thể của tâm năng thủ cũng vậy. Bên trên là pháp nói, dưới đây dẫn thí dụ. Nói không vương là Không có hai thứ: 1. Không giới, nghĩa là Sắc sáng tỏ – tối tăm. 2. Không vương, nghĩa là pháp hư không làm nơi nương dựa cho tất cả Sắc. Như vị vua là nơi nương tựa của mọi người dân vì thế nói hư không gọi là không vướng. Như thế không vướng vốn không có trụ xứ mà phàm phu vọng suy nghĩ phân biệt, hư không nơi này -hư không nơi kia chỉ là luống dối thấy chấp. Không có đây, kia, nhân quả các pháp nên biết rằng cũng thế, vọng tâm giữ lấy không có nhân – không có quả, đều là dựa theo nhân quả biến kế sở chấp, mà làm thí dụ về chỗ vọng thấy này.
Kinh: “Như như chi tướng bổn bất hữu vô, hữu vô chi tướng kiến duy tâm thức. Bồ-tát! Như tâm chi tánh, bất vô tự thể, tự thể bất hữu, bất hữu bất vô. Bồ-tát! vô bất vô tướng, phiênngôn nói địa, hà dĩ cố? Chân như phi pháp hư khóang vô tướng, phi nhị sở cập”. Tướng của Như Như vốn chẳng thể có – không tướng của có – không nhìn thấy chỉ là Tâm thức. Này Bồ-tát! Tánh của tâm Như, chẳng thể không có tự thể, tự thể chẳng thể có, chẳng thể có – chẳng thể không có. Này Bồ-tát! Không có gì chẳng thể không có tướng, chẳng phải nơi ngôn nói, tại vì sao? Vì pháp của Chân Như rộng rãi khóang đãng không có tướng, chẳng phải nơi đạt đến của hai sở hành tầm tứ.
Luận chép: Đây là phần thứ hai nói về pháp Như Như lìa bỏ ngằn mé có – không. Trong đó có bốn: Câu đầu tiên chính thức nói về Như Như lìa bỏ ngằn mé. Câu kế là trở lại đưa ra có ngằn mé là vọng. Thứ ba dẫn ra tâm lìa bỏ ngằn mé làm ví dụ. Thứ tư trở lại trình bày Như Như xa lìa ngôn từ. Trong phần thứ ba nói “Tánh của tâm Như”: Cũng như Thể tánh của nhất tâm vậy. “Chẳng thể không có tự thể”: Nghĩa là vì lìa bỏ ngằn mé không có tự Thể giống như sừng thỏ. “Tự thể chẳng thể có”: Nghĩa là lìa bỏ ngằn mé có tự Thể giống sừng trâu. Chẳng phải nói là Tha tướng không có cho nên chẳng thể có – do đó nói tự Thể chẳng thể có mà thôi. “Chẳng thể có, chẳng thể không có”: Chẳng thể có tức là chẳng thể không có, chẳng thể không có tức là chẳng thể có. Căn cứ vào nghĩa này cho nên lại kết hợp trình bày vậy. Tâm – Pháp như nhất chẳng thể có – chẳng thể không có, lý của Như Như cũng giống như vậy, vì thế cho nên đầu câu nói là Tâm Như. Từ “Không có gì chẳng thể không có tướng, không phải chỗ ngôn nói v.v… ” trở xuống là phần thứ tư trở lại nói về đạo lý Như Như xa lìa ngôn từ. “Không có gì chẳng thể không có tướng”: Nói về “Vốn chẳng thể có không có” trong câu đầu tiên, vì chẳng phải là nơi các loại lời lẽ yên ổn đạt tới. “Chẳng phải hai sở hành hiểu kịp”: Vì chẳng phải sở hành của hai thứ tầm, tứ. Hai pháp tầm, tứ là ngôn ngữ đạt tới. Chẳng phải là hai sở hành này cho nên không phải chỗ của ngôn từ nói năng.
Kinh: “Hư không cảnh giới, nội ngoại bất trắc, lục hành chi sĩ nãi năng, tri chi”. Cảnh giới hư không, trong ngoài không thể suy lường, người có đức hạnh của sáu hành mới có thể biết được.
Luận chép: Dưới đây là phần lớn thứ ba về tầng bậc địa vị của Nhập. Trong đó có bốn: 1. Nói về sở nhập sâu xa. 2. Nêu ra hành của vị năng nhập. 3. Nói riêng về tầng bậc địa vị. . Đối chiếu nói về tâm Nhập. Trong phần đầu chép: “Hư không cảnh giới”: Nghĩa là pháp của Như Như rộng rãi khóang đãng không có tướng cho nên gọi là Hư không. Nội ngoại chẳng thể lường: Nghĩa là hai mươi tám bậc Thánh nội đạo và chín mươi lăm loại trong ngoại đạo, hạng phàm Thánh này không thể nào suy lường được. Trong phần thứ hai nói “Bậc sĩ của sáu hành mới có thể biết”: Là nêu ra tầng bậc địa vị hai Nhập của hàng Bồ-tát.
Kinh: “Đại Lực Bồ-tát ngôn: Vân hà lục hành nguyện vi nói chi. Phật ngôn: Nhất giả thập tín hành, nhị giả thập trụ hành, tam giả thập hạnh hành, tứ giả thập hồi hướng hành, ngũ giả thập địa hành, lục giả đẳng giác hành. Như thị hành giả nãi năng tri chi”. Bồ-tát Đại Lực chép: Thế nào là sáu hành, nguyện giảng nói cho điều đó! Đức Phật nói: Một là thập Tín hành, hai là thập Trụ hành, ba là thập Hạnh hành, bốn là thập Hồi hướng, năm là thập Địa hành, sáu là Đẳng Giác hành. Người thật hành như vậy mới biết được.
Luận chép: Đây là phần thứ ba nói riêng về tầng bậc địa vị. Chỉ có hiển bày hành vị mà không nói về quả vị đó, cho nên không chọn lấy địa vị của Diệu Giác. Trong sáu Hành này thì bốn địa vị trước là Lý nhập của tầng bậc dưới thấp, hai địa vị sau là Hành nhập sai khác. Trong đó nghĩa sơ lược ở kinh Bổn Nghiệp, nghĩa phân biệt rộng, xuất xứ từ giáo Hoa Nghiêm.
Kinh: “Đại Lực Bồ-tát ngôn: Thật tế giác lợi vô hữu xuất nhập, hà đẳng pháp tâm đắc nhập thật tế? Phật ngôn: Thật tế chi pháp pháp vô hữu tế, vô tế chi tâm tắc nhập thật tế”. Bồ-tát Đại Lực nói: Thật tế giác lợi không có ra vào, pháp – tâm hạng nào có thể hội nhập thật tế? Đức Phật nói: Pháp của thật tế – pháp không có ranh giới, tâm không có ranh giới thì hội nhập thật tế.
Luận chép: Đây là phần thứ tư đối chiếu nói về tâm Nhập. Trong câu hỏi nói “Thật tế giác lợi không có ra vào”: Nêu lên hai địa vị sau đạt được hai lợi hành và lý tương xứng với nghĩa không có ra vào. Pháp tâm hạng nào có thể hội nhập thật tế: Trong đó chính là hỏi về tâm – pháp năng nhập. Trong trả lời nói “Pháp của thật tế pháp không có ranh giới”: Là nêu lên pháp sở nhập. Vì pháp như thế không có ranh giới (vô tế), chiều dọc thì không có thời gian trước sau không có bắt đầu không có cuối cùng cho nên lìa bỏ thời gian ba đời, chiều ngang thì không có ranh giới, đây kia không chính giữa không bên cạnh cho nên lìa bỏ nơi chốn sáu phương; rất sâu không có bến bờ không có giới hạn nào không thể xa lìa, rộng lớn không có ranh giới không có nơi nào không thể cùng khắp. Đầy đủ bốn nghĩa này cho nên nói là vô tế. Tâm của năng nhập cũng có đủ bốn nghĩa, cho nên đối với thật tế không có nơi nào không thể hội nhập. Nên biết rằng thật tế xa lìa ngằn mé năng sở, tâm cũng như thế xa lìa ranh giới năng sở, tức là không có hội nhập đó mới có thể hội nhập được, thì gọi là nghĩa không thể nghĩ bàn.
Kinh: “Đại Lực Bồ-tát ngôn: Vô tế tâm trí, kỳ trí vô nhai, vô nhai chi tâm, tâm đắc tự tại, tự tại chi trí đắc nhập thật tế; như bỉ phàm phu nhuyến tâm chúng sanh, kỳ tâm đa suyễn dĩ hà pháp ngự linh đắc kiên tâm đắc nhập thật tế?”. Bồ-tát Đại Lực nói: Tâm trí không có ranh giới, trí đó không bến bờ, tâm không bến bờ, tâm được tự tại, trí của tự tại được hội nhập thật tế, nếu như phàm phu kia tâm chúng sanh yếu hèn, tâm đó nhiều vội vã thì dùng pháp gì điều khiển làm cho tâm được vững chắc có thể hội nhập thật tế?
Luận chép: Dưới đây là phần lớn thứ tư về phương tiện hội nhập. Nhập phương tiện: Địa vị ở tại bốn địa vị Địa tiền, phương tiện quán bên trong môn lý nhập. Trong đó có hai: Trước là nói về phương tiện năng nhập, sau là nói về phương tiện thắng lợi. Trong phần đầu cũng có hai: Trước sơ lược – Sau mở rộng. Trong phần sơ lược trước là hỏi, trong hỏi cũng có hai: 1. Lĩnh hội đối với trước đây. 2. Hỏi đối với sau đó. Trong lĩnh hội nói “vô tế” là vì Thể của tâm không có ranh giới. Vô nhai là Dụng của trí không có bến bờ.
Kinh: “Phật Ngôn: Bồ-tát! Bỉ tâm suyễn giả dĩ nội ngoại sử, tùy sử lưu chú, trích lịch thành hải, thiên phong cổ lãng, đại long kinh hãi, kinh hãi chi tâm cố linh đa suyễn. Bồ-tát! Linh bỉ chúng sanh tồn tam thủ nhất, nhập Như-lai thiền, dĩ thiền định cố tâm tắc vô suyễn”. Đức Phật nói: Này Bồ-tát! Tâm kia là vì kiết sử trong ngoài, tùy theo kiết sử trôi lăn rót vào. Nhỏ giọt dần thành biển, gió trời làm nổi sóng, rồng lớn kinh hãi, tâm kinh hãi cho nên khiến nhiều vội vã. Này Bồ-tát! Khiến cho chúng sanh kia giữ lại Ba là vâng theo một, nhập vào Như-lai thiền, vì thiền định cho nên tâm sẽ không có vội vàng.
Luận chép: Trong phần trả lời có hai: Trước là đưa ra các tướng sửa trị chướng, sau là chỉ rõ phương tiện có thể sửa trị. Trong phần đầu nói “Tâm suyễn” là tâm kinh sợ không yên ổn hơi thở ra vào rất nhanh nói là đa suyễn, để dụ cho sáu Thức thay đổi biến động không dừng. Nội ngoại sử: Vì bốn sử Mạt-na bên trong duyên với tự ngã, sáu sử ý thức bên ngoài duyên theo các cảnh. Tùy sử chảy rót: Nghĩa là các tiểu tùy phiền não như phẫn hận v.v… những đại tùy phiền não chìm xuống nổi lên đó, và trung tùy phiền não vô tàm quý tùy theo các sử di chuyển chứa nhóm rót vào Thức hiện tại. Nhỏ giọt dần thành biển: Bởi các sử, tùy Hoặc vốn có tất cả hiện hành đều xông ướp Thức hiện tại chứa nhóm sâu rộng. Gió trời làm nổi sóng: Nghiệp lực sở cảm cảnh giới sáu trần mặc ý chuyển vận hiện hành cho nên gọi là gió trời kích động, biển cả tùy miên khơi dậy làn sóng bảy Thức cho nên nói làm cho nổi sóng. Rồng lớn kinh hãi: Năng lực Vô minh trụ địa của nó lớn nhất trụ ở đáy biển tùy miên của bổn thức cho nên gọi là Rồng lớn. Như vậy vô minh trái với vắng lặng thường, có thể tăng thêm tâm của thô động cho nên nói là kinh hãi. Do các duyên này làm cho tâm thường gấp gáp. Đây là khiến cho biết những tướng sửa trị về chướng. Từ đây trở xuống là chỉ ra phương tiện có thể sửa trị đó. Giữ lại ba là phương tiện có thể ngăn dứt gió trời. Giữ lại một là phương tiện có thể chế phục rồng lớn. Nhập Như-lai thiền ấy là phương tiện chủ yếu sửa trị thường vội vàng.
Kinh: “Đại Lực Bồ-tát ngôn: Hà vị tồn tam thủ nhất nhập Như-lai thiền? Phật ngôn:Tồn tam giả tồn giải thoát, thủ nhất giả thủ nhất tâm như, nhập Như-lai thiền giả lý quán tâm như, nhập như thị địa tức nhập thật tế”. Đại Lực Bồ-tát chép: Cái gì là giữ lại ba là vâng theo một là nhập vào Như-lai thiền? Đức Phật nói: Giữ lại ba là giữ lại ba giải thoát, vâng theo một là vâng theo một tâm như, nhập vào Như-lai thiền ấy là lý quán tâm như, nhập vào nơi như vậy tức là nhập vào thật tế.
Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai mở rộng hiển bày phương tiện. Có ba lần hỏi – đáp. Trong lần đầu tiên này nêu chung lên số. Thủ nhất tâm như: Trong pháp Nhất tâm có hai chủng loại. Nay trước tiên vâng theo môn tâm chân như, để chế phục thế lực của con rồng lớn vô minh, vì vô minh chính là không nhận ra Nhất tâm Như. Trong này Thủ ấy là lúc nhập vào vắng lặng tuân giữ cảnh Nhất Như, lúc đi ra không đánh mất tâm của Nhất vị, cho nên nói là Thủ Nhất. Như trong phần Thập Hạnh của kinh Bổn nghiệp chép: “Thập là vì tự tại xoay bánh xe Đại pháp. Đó gọi là Bồ-tát Tam bảo. Bồ-tát lúc bấy giờ ở tại trí Trung đạo đệ nhất là giác bảo, tất cả các pháp bất sanh khởi dao động qua lại tức là pháp bảo; thường lưu động trong sáu đường hòa hợp cùng với chúng sanh sáu đường, gọi là Tăng bảo, đưa chuyển tất cả chúng sanh chảy vào biển cả Phật pháp”. Xét rằng: Ba thời không mất đi một vị Trung đạo chính là công dụng tuân giữ một của pháp quán này. Pháp quán này ở tại địa vị Thập Hạnh. Các môn khác về sau hiển rõ nên trong này không luận đến.
Kinh: “Đại Lực Bồ-tát ngôn: Tam giải thoát pháp thị hà đẳng sự, lý quán Tam-muội tùng hà pháp nhập? Phật ngôn: Tam giải thoát giả hư không giải thoát – kim cương giải thoát – Bát-nhã giải thoát. Lý quán tâm giả tâm như lý tịnh vô khả bất tâm. Đại Lực Bồ-tát ngôn: Vân hà tồn dụng vân hà quán chi? Phật ngôn: Tâm sự không hai thị danh tồn dụng, nội hành ngoại hành xuất nhập không hai, bất trụ nhất tướng tâm vô đắc thất, nhất bất nhất địa tịnh tâm lưu nhập, thị danh quán chi”. Bồtát Đại Lực chép: Pháp của ba giải thoát là sự việc như thế nào lý quán Tam-muội từ pháp nào hội nhập? Đức Phật nói: Ba giải thoát ấy là Hư không giải thoát – Kim cương giải thoát – Bát-nhã giải thoát. Lý quán tâm ấy là tâm như lý thanh tịnh không có gì có thể chẳng là tâm. Bồ-tát Đại Lực chép: Thế nào còn dụng, thế nào quán sát? Đức Phật nói: Tâm và sự không hai thì gọi là còn dụng, nội hành ngoại hành ra vào không hai, không trụ vào một tướng thì tâm không có được mất, nơi một không một mà tâm thanh tịnh trôi lăn hội nhập thì gọi là quán sát.
Luận chép: Hai lần hỏi đáp này nói riêng về quán hành. Trong phần trả lời trước nói “Ba giải thoát”: Tức là ba tuệ thâu nhiếp tám giải thoát cho nên gọi là Giải thoát. Như trong phần Thập Trụ của kinh Bổn Nghiệp chép: “Sáu là được chư Phật che chở. Gọi là tám giải thoát quán: Văn tuệ đạt được hai tướng nội giả – ngoại giả không thật có, là một giải thoát, Tư tuệ bên trong năm ấm pháp – bên ngoài tất cả pháp không thật có là hai giải thoát, Tu tuệ sáu quán đầy đủ sắc giới năm ấm Không là ba giải thoát, bốn Không năm ấm và diệt định quán không thật có; năm là giải thoát như tướng. “Xét rằng: Tám giải thoát quán sơ lược có hai môn: Nếu căn cứ sự tướng chỉ có Tu tuệ quán, thì chung cả Nhị Thừa, như nơi khác giải thích. Nếu dựa theo ba tuệ quán Nhân Không – Pháp Không, là quán Đại thừa Như văn đây nói. Giải thoát đầu tiên là trong có sắc tướng, bên ngoài quán các sắc, nghĩa là bên trong còn các sắc, pháp tướng năm ấm quán sát Nội Ngã Không, bên ngoài còn các sắc quán sát chúng sanh Không, Không này dễ dàng nhập vào là sở đắc của văn Tuệ, vì thế nói “Văn tuệ đắc nội giả, ngoại giả hai tướng không thật có”. Không xả bỏ các sắc, dùng quán không có tựa như hư không cho nên không xả bỏ sắc tướng, giải thích đây là Hư không giải thoát. Giải thoát thứ hai: Bên trong không có sắc tướng – ngoài quán sát các sắc. Trong xả bỏ các pháp tướng năm ấm sắc… bên ngoài quán tất cả núi sông đều không, các pháp cõi Dục không có pháp nào không là Không, Không này khó hiểu – là pháp quán của Tư Tuệ, vì thế nói là “Tư Tuệ pháp năm ấm bên trong tất cả pháp, bên ngoài không thật có”. Suy xét tìm tòi phân tích làm rõ các pháp trong ngoài, giống như Kim cương san bằng các sắc pháp, vì thế cho nên gọi là Kim cương giải thoát. Sáu thứ giải thoát sau đều là Tu tuệ. Quán tất cả các pháp của hai cõi trên đều Không cho nên nói là Tu Tuệ. Sáu quán đều là Tu tuệ dựa vào Định mà phát khởi, vì thế cho nên gọi chung là Bátnhã giải thoát. Sáu thứ trong đó sai khác về tướng. Thứ ba gọi là Tịnh giải thoát: Thân tác chứng năm ấm cõi sắc sáng ngời sạch sẽ vắng lặng, quán tất cả đều Không vì thế gọi là Tịnh giải thoát. Tự bên trong đã chứng gọi là thân tác chứng, nói là “Đầy đủ sắc giới ngũ ấm không là ba giải thoát”. Thứ tư gọi là Không xứ giải thoát: Vì quán không xứ năm ấm đều không, cho đến Phi Tưởng giải thoát cũng như thế. Quán diệt định pháp cũng không thật có, cho nên gọi là Diệt tận giải thoát, đều từ những xả bỏ để lập ra lên tên gọi đó, vì vậy nói là “Bốn không năm ấm và diệt định quán đều không thật có”. Năm là giải thoát như tướng. Như vậy ba tuệ quán Nhân Không – Pháp Không, chế phục lìa bỏ hai ràng buộc hiện hành của hai chấp cho nên gọi là giải thoát. Đã xả bỏ tất cả giả pháp trong ngoài, có thể ngăn dứt các cảnh gió tự nhiên thổi đến kích động. Trong Lý quán nói “Tâm như lý tịnh không có gì không thể là tâm: Vì thuận theo lý vô tướng nên tâm không có phân biệt. Trong phần trả lời sau nói “Tâm sự không hai gọi là còn dụng”: Đây gọi là còn lại ba công dụng hơn hẳn khả năng. Nếu người chưa đạt được ba công dụng giữ lại ba, tâm yên lặng quán Không vượt qua sự thất niệm, giữ lấy ngã và Ngã sở đắm vào cảnh trái thuận, gió tự nhiên làm cho dao động nên tâm và sự đều khác nhau. Nếu người có thể tu tập thành thục ba giải thoát, ra khỏi quán vượt qua sự quán khí thế hãy còn không giữ lấy tướng của tự – tha, không đắm vào cảnh tốt – xấu, vì vậy không bị gió trời kích động. Vào ra cùng quên tâm – sự không hai, như vậy mới gọi là công dụng giữ lấy ba, là quán như tu ở tại địa vị Thập Tín, dụng còn lại được thành tựu ở tại địa vị Thập Trụ, như trong phần Thập Trụ vị của kinh Bổn Nghiệp lập ra pháp quán này. Từ “Nội hành v.v… “ về sau là trả lời câu hỏi thứ hai để trình bày tướng quán. Nội hành là tiến hành nhập vào quán vắng lặng chiếu soi. Ngoại hành là tiến hành ra khỏi quán cảm hóa người khác. Hoặc là ra hoặc là vào không mất đi Trung đạo cho nên nói là Không hai. Như trong phần thập Hướng của kinh Bổn Nghiệp chép: “Hòan toàn dùng tuệ tự tại cảm hóa tất cả chúng sanh, đó gọi là Trung đạo đệ nhất nghĩa đế. Trong chốn Bát-nhã mà quán sát, thấu suốt tất cả các pháp mà không có hai, tuệ đó từng bước chuyển nhập vào Thánh địa cho nên gọi là Tương tự đệ nhất nghĩa quán, mà không phải thật sự Trung đạo đệ nhất nghĩa đế quán”, cho đến nói rộng ra. Không thể trụ nhất tướng là vì hai đế quán. Tâm không có được mất là vì bình đẳng quán. Vì dựa vào hai thứ phương tiện quán này, tiến vào trong dòng nước pháp tuôn chảy của sơ Địa, cho nên nói nơi một, không là một mà tịnh tâm lưu nhập…” Như kinh đó nói chép: “Tam quán ấy là từ Giả nhập vào Không gọi là Nhị đế quán, từ Không nhập vào Giả gọi là Bình đẳng quán, là hai quán phương tiện đạo. Dựa vào hai Không quán này được nhập vào Trung đạo đệ nhất nghĩa quán, cả hai soi chiếu hai đế tâm tâm vắng lặng tiến vào trong dòng nước pháp tuôn chảy của Sơ Địa”, cho đến nói rộng ra. Xét rằng: Hai đế quán trong này là xả bỏ Tục quán sát Chân, chính là phương tiện của Chánh thể trí. Bình đẳng quán là dung hòa Chân quán sát Tục, tức là phương tiện của Hậu đắc trí. Quán sát tục như huyễn hóa không giữ lấy được, mất không thích hợp không chối bỏ cho nên gọi là Bình đẳng. Nói nơi một, không là một là tên gọi khác của Sơ Địa. Vì sao như vậy? Vì Sơ Địa tức là Thập địa, ngay một lúc lập tức nhập vào mười tầng pháp giới. Thập Địa chính là Sơ Địa, vì thẳng thắn dùng khắp nơi đầy đủ (biến mãn) làm Sơ môn nhập vào. Vì Thập Địa chính là Sơ địa cho nên gọi là Nhất, Sơ Địa chính là Thập Địa cho nên Bất nhất. Vì thế cho nên gọi là “nơi một, không là một”. Dựa vào hai phương tiện để làm sạch tâm đó, từ đây trôi lăn nhập vào một nơi Một là không phải một. Vì điều này cho nên nói Tịnh tâm lưu nhập. Trong này chỉ mở rộng hai quán trước sau, một quán ở giữa theo đó có thể biết được.
Kinh: “Bồ-tát! Như thị chi nhân bất tại nhị tướng, tuy bất xuất gia bất trụ tại gia cố, tuy vô pháp phục bất cụ trì giới Ba-la-đề-mộc-xoa, bất nhập Bố tát năng dĩ tự tâm vô vi tự tứ nhi hoạch Thánh quả, bất trụ nhị thừa nhập Bồ-tát đạo, hậu đương mãn địa thành Phật Bồ-đề”. Này Bồtát! Người như vậy không còn hai tướng, tuy chẳng xuất gia mà không trụ ở tại gia, tuy không có pháp phục, không thể giữ gìn đầy đủ giới Bala-đề-mộc-xoa, không nhập vào bố tát mà có thể dùng tự tâm vô vi tự tứ mà đạt được Thánh quả, không trụ Nhị thừa mà nhập vào đạo Bồ-tát, về sau sẽ đầy đủ địa vị thành tựu Bồ-đề quả Phật.
Luận chép: Dưới đây là phần lớn thứ hai về phương tiện thắng lợi. Trong đó có bốn: 1. Thắng lợi đạt được quả. 2. Thắng lợi được cung cấp. 3. Thắng lợi không có tai họa. . Thắng lợi không trụ lại. Đây chính là thắng lợi thứ nhất đạt được quả. Trong phần đầu cũng có bốn loại thắng lợi: 1. Thắng lợi lìa bỏ ngằn mé, vì không rơi vào tướng hai bên đạo tục. Như kinh nói “Người như thế … cho đến “không trụ ở tại gia”. 2. Thắng lợi tự tại, vì không bị sự ràng buộc của giáo môn và giới luật, có thể dùng tự tâm phân định đạo lý, vắng lặng thuận theo tự nhiên mà không có gì không làm. Như kinh nói “Tuy không có pháp phục v.v…” cho đến “Mà được Thánh quả”. 3. Thắng lợi nhập đạo, như kinh nói “Không trụ Nhị thừa mà nhập Bồ-tát đạo”. . Thắng lợi đạt được quả, vì như kinh nói “Về sau sẽ viên mãn thành tựu Bồ-đề quả Phật”.
Kinh: “Đại Lực Bồ-tát ngôn: Bất khả tư nghị! Như thị chi nhân phi xuất gia phi bất xuất gia, hà dĩ cố nhập Niết-bàn trạch, trước Như-lai y, tọa Bồ-đề tòa? Như thị chi nhân nãi chí Sa-môn nghi ưng kính dưỡng. Phật ngôn: Như thị hà dĩ cố? Nhập Niết-bàn trạch tâm khởi ba cõi, trước Như-lai y nhập pháp không xứ, tọa Bồ-đề tòa đăng chánh giác nhất địa. Như thị chi nhân tâm siêu nhị ngã, hà huống Sa-môn nhi bất kính dưỡng?”. Đại Lực Bồ-tát chép: Không thể nghĩ bàn! Người như vậy chẳng phải xuất gia – chẳng phải không xuất gia, tại vì sao nhập vào nhà Niết-bàn, mặc áo Như-lai, ngồi tòa Bồ-đề? Người như vậy cả đến Sa-môn nên thuận theo cung kính hầu hạ Đức Phật nói: Đúng vậy, vì sao? Vì nhập vào nhà Niết-bàn tâm vượt khỏi ba cõi, mặc áo Như-lai nhập vào chỗ pháp Không, ngồi tòa Bồ-đề bước lên Nhất địa Chánh giác. Người như vậy tâm vượt trên hai ngã, huống chi Sa-môn mà không cung kính hầu hạ?
Luận chép: Dưới đây là thắng lợi thứ hai được cung dưỡng. Vì đạt được ba đức thù thắng có thể làm ruộng phước, tiếp nhận sự cung dưỡng của tất cả đạo tục. Ngay nơi văn có ba: Đầu tiên nói về ruộng phước bậc Bồ-tát, kế đến biểu hiện Nhị thừa không thấy, sau cùng biểu hiện Bồ-tát thường thấy. Trong phần đầu chính là nói rõ ba thứ ruộng phước: Vào nhà Niết-bàn tâm khởi trên ba cõi là còn lại ba cái dụng của ba giải thoát, ba cõi vắng lặng gọi là nhà Niết-bàn là nơi thanh tịnh yên tâm dừng ở. Quán ba giải thoát nhập vào ba cõi Không mà không giữ lấy sự chứng, trở lại khởi trên thế tục tâm cảm hóa khắp nơi ba cõi cho nên nói là tâm vượt khỏi ba cõi. Tâm vượt khỏi ba cõi mà không nhiễm sắc trước tức là còn lại dụng. Mặc áo Như-lai, vào xứ pháp không tức là quán tuân thủ Nhất tâm như. Nghĩa là khi trải qua ba cõi hóa độ khắp nơi, mặc áo nhẫn nhục mà không mệt chán, trở về nhập vào pháp không tuân giữ Nhất tâm như, Như kinh Pháp Hoa chép: “Áo nhu hòa nhẫn nhục”. “Ngồi tòa Bồ-đề bước lên Chánh giác nhất địa” là tâm Lý quán của Như-lai thiền, gọi là ngồi ở pháp Không, tiến tu phương tiện đạt được chân quán bước lên Sơ Địa Chánh giác, như kinh Pháp Hoa chép: “Các Pháp Không làm tòa”. Như vậy ba địa vị đều quán hai không, người ngã – pháp ngã hai chấp này điều phục diệt sạch cho nên nói Tâm siêu vượt nhị ngã. Vượt trên hai Ngã cho nên Đoạn đức đầy đủ, tu tập ba Quán cho nên Trí đức cũng đầy đủ, vì thế thường có thể làm ruộng phước cho đạo tục.
Kinh: “Đại Lực Bồ-tát ngôn: Như bỉ nhất địa cập dữ không hải, nhị thừa chi nhân vi bất kiến dã. Phật ngôn: Như thị! Bỉ nhị thừa nhân vị trước Tam-muội, đắc Tam-muội thân, ư bỉ không hải nhất địa, như đắc tửu bệnh hôn túy bất tỉnh nãi chí số kiếp do bất đắc giác, tửu tiêu thỉ ngộ phương tu thị hành, hậu đắc Phật thân”. Đại Lực Bồ-tát chép: Như Nhất địa kia cùng với biển Không, người Nhị thừa không thấy. Đức Phật nói Đúng vậy! Người hàng Nhị Thừa mê đắm Tam-muội, được Tam-muội thân, đối với biển Không Nhất địa kia, như bệnh được rượu mê mẫn say sưa không tỉnh ngộ cho đến nhiều kiếp hãy còn không thể nào giác ngộ, tỉnh rượu mới hiểu ra – mới tu tập hạnh này, về sau đạt được thân Phật.
Luận chép: Dưới đây là phần thứ hai người Nhị thừa không thấy. Trong đó có hai: Trước hỏi – sau trả lời. Trong câu hỏi nói Nhất địa, đó là Địa đã bước lên. Thập Địa chính là Sơ Địa gọi là Nhất Địa. Biển Không là Không của ba quán trước đã nhập vào sâu thẳm rộng lớn nên gọi là biển. Trong phần trả lời nói Như thị là vì thừa nhận không thấy, xuống dưới giải thích lý do không thấy của hàng Nhị thừa. Đắm vào vị Tam-muội: Vì vui mừng đắm vào tĩnh lự thiền định mà hướng đến vắng lặng. Đắc Tam-muội thân: Như những niềm vui hướng về nhập định diệt tâm, nhờ đó nhập vào Niết-bàn khôi thân diệt trí, trí tâm diệt sạch nơi chốn nên thể diệt định sanh ra ngăn dứt tâm pháp của tâm. Như vậy gọi là Đắc Tam-muội thân. Mừng vui vắng lặng huân tập ở trong bổn Thức, vì vậy không hiểu ra biển Không Nhất địa. Như người bệnh nghiện rượu say sưa, chẳng tỉnh cho đến nhiều kiếp còn không được biết: Người hàng Tu-đà-hoàn trụ tám muôn kiếp, cả đến La-hán trụ hai muôn kiếp, hàng Phật Bích Chi trụ mười ngàn kiếp, trụ ở tại Niết-bàn mà không giác ngộ. Nay toàn bộ cùng nói là cho đến nhiều kiếp: Rượu mới tu hành này: tùy theo vui mừng đắm vào đó huân tập dày mỏng, trạng thái mê đắm mất dần và chấm dứt có thể trở lại khởi tâm, lúc tâm
khởi lên thì tâm quay lại nhập vào Đại thừa, mới tu tập ba thứ quán hành như trước. Như kinh Lăng già tụng rằng: “Ví như người mê mẫn say sưa, tỉnh rượu sau đó hiểu ra, đạt được Thể vô thượng của Phật, là Pháp thân chân thật của mình” cho đến giải thích rộng.
Kinh: “Như bỉ nhân giả tùng xả Xiển-đề tức nhập lục hành, ư hành địa sở nhất niệm tịnh tâm, quyết định minh bạch, Kim cương trí lực, A-bệ-bạt-trí, độ thoát chúng sanh, từ bi vô tận”. Như hạng người kia thuận theo xả bỏ Xiển-đề lập tức nhập vào sáu hành, hướng về nơi hành địa nhất niệm tịnh tâm, quyết định rõ ràng, trí lực Kim cương, Abệ-bạt-trí, độ thoát chúng sanh, từ bi không cùng tận.
Luận chép: Đây là nói về người thuộc chủng tánh Bồ-tát, thuận theo xả bỏ chướng ngại bất tín của Xiển-đề, lập tức nhập vào Thập Tín – bậc đầu tiên của sáu hành, ở tại nơi Hành Địa tu tập liền phát khởi một niệm tâm thanh tịnh, tức là Sơ phát tâm của Thâp Trụ. Quyết định rõ ràng: Nghĩa là các hành trong sáng của địa vị Thập Hạnh. Kim cương trí lực: Nghĩa là trí lực vững chắc của Thập Hồi Hướng. A-bệ-bạt-trí: Nghĩa là từ sơ Địa trở lên thật sự chứng đạt không còn lui sụt. Độ thoát chúng sanh từ bi vô tận: Chính là hạnh lợi tha ở tại địa vị trước, vì để phân biệt hàng Nhị thừa không thể thật hiện.
Kinh: “Đại Lực Bồ-tát ngôn: Như thị chi nhân ưng bất trì giới, ư bỉ Sa-môn ưng bất kính ngưỡng. Phật ngôn: Vị nói giới giả bất thiện mạn cố, hải ba lãng cố, như bỉ tâm địa bát thức hải trừng, cửu thức lưu tịnh phong bất năng động, ba lãng bất khởi, giới tánh đẳng không, trì giả mê đảo. Như bỉ chi nhân, thất lục bất sanh, chư tập diệt định, bất ly tam Phật nhi phát Bồ-đề, tam vô tướng trung thuận tâm huyền nhập, thâm kính tam bảo bất thất oai nghi, ư bỉ Sa-môn bất vô cung kính. Bồ-tát! Bỉ nhân giả bất trụ thế gian động bất động pháp, nhập tam nhóm không, diệt tam hữu tâm”. Đại Lực Bồ-tát chép: Người như vậy lẽ ra không trì giới, đối với Sa-môn kia cũng không nên kính mến. Đức Phật nói: Là vì người nói giới khinh mạn bất thiện, vì sóng nước biển khơi, như nơi tâm kia, biển tám thức lắng trong, dòng chín Thức sạch sẽ, gió không thể xao động, sóng nước không tung lên, giới tánh đều là không, người trì giữ mê muội trái lại. Giống như hạng người kia, mạt na – ý thức bất sanh khởi, các tập diệt định, không lìa ba Phật mà phát khởi Bồ-đề, trong ba vô tướng thuận theo tâm sâu xa nhập vào, rất tôn kính Tam bảo không làm mất oai nghi, đối vơi Sa-môn kia không thể không cung kính. Này Bồ-tát! Bậc Nhân giả kia không trụ vào pháp động, bất động của thế gian, nhập vào ba nhóm không diệt sạch tâm ba cõi.
Luận chép: Đây là thắng lợi thứ ba xa lìa tai họa, nghĩa là xa lìa tai họa nhân quả của phàm phu. Trong đó đầu tiên hỏi “Nên là không trì giới”: Vì như trước nói rằng “Không thể trì đầy đủ giới Ba-la-đềmộc-xoa”. Đối với Sa-môn kia cũng nên không kính ngưỡng: Đã không trì giới cho nên không cần phải cung kính người trì giới. Trong trả lời có hai: Trước là thừa nhận câu hỏi trước đó, kế đến làm mất đi câu hỏi sau. Trong phần đầu chép: “Vì người nói giới”: Vì người nói giới chính là các vị Thanh-văn. Cậy mình trì giới coi thường những người phá giới, vì thế nói khinh mạn bất thiện, là vì người này chưa đạt được các pháp không. Trong biển cả tùy miên, sóng bảy Thức xoay chuyển, cho nên nói “Sóng nước biển khơi”, là nêu lên sai lầm của người trì giới. “Như tâm địa kia”: Nghĩa là tâm của Bồ-tát chứng các pháp Không nhập vào đại địa. Hai chấp tùy miên phân biệt khởi lên bên trong Thức thứ tám đều đã diệt sạch không còn, cho nên nói “Biển tám thức lắng trong”. Trí vô phân biệt chứng nhập Bổn giác từng địa thêm lớn xa lìa các tạp nhiễm, cho nên chép: Dòng chín thức trong sạch. Bổn giác chính là thức thứ chín cho nên tâm vô phân biệt chẳng phải cảnh làm cho dao động vì thế “gió không thể dao động”, không thể dao động cho nên nhiễm bảy Thức bất sanh khởi, do đó nói “Sóng nước không tung lên”. Người này đã chứng tất cả Pháp Không, bảy chi giới tánh thông suốt đều vắng lặng, cho nên nói “Giới tánh đều không”. Nhưng người hàng Thanh-văn không đạt được pháp Không, chấp có giới tánh cậy vào tự mình có thể trì giữ, cho nên nói “Người trì giữ mê trái lại”. Đây là trả lời câu hỏi trước nói không trì giới mà lại không phải sai lầm. Từ “Như kia v.v…” trở xuống kế là trả lời câu hỏi sau để trình bày không có khinh mạn. “Thất, lục bất sanh”: Vì Mạt-na thức bốn Hoặc không hiện hành cho nên hạt giống Kiến Hoặc đã đoạn diệt. “Các tập diệt định”: Các thức sanh khởi từng tâm đã nhóm hợp đều diệt sạch không còn sau đó nhập vào Lý định. “Không lìa ba Phật mà phát Bồ-đề”: là nói từ khi phát tâm đến nay tâm cung kính rộng khắp sanh khởi, Như-lai-tạng Phật là các chúng sanh dựa vào nơi ấy phát tâm cho nên không thể khinh mạn. “Trong ba vô tướng thuận tâm sâu xa hội nhập”: Lúc đạt được Hành Nhập nhổ sạch gốc rễ vô minh, như trước đã nói thuận theo nhất tâm pháp mà đi sâu vào trong ba giải thoát. Do nghĩa này cho nên rất tôn kính Tam bảo. Nghĩa là hình tượng Phật, pháp thuần khiết vốn có… bốn loại Tăng v.v… chẳng có gì không tôn kính, cho nên đối với Sa-môn không thể không cung kính. Vì dựa vào ba Phật mà phát tâm cho nên nhổ sạch gốc rễ kiêu mạn trừ bỏ chủng loại vô minh. Trên đây nói về lìa bỏ các nhân tai họa đó, từ đây xuống dưới là nói về xa lìa tai họa của các quả đó. “Không trụ ở pháp động bất động của thế gian: Quả giàu có vui mừng của trời người cõi Dục gọi là pháp Động, vì quả thiện phân tán, Quả vắng lặng yên tĩnh của cõi sắc và vô sắc gọi là Pháp Bất động, vì quả thiện ổn định. Đối với nơi ấy không mê đắm cho nên nói là không trụ. Nhập ba nhóm không: Như trước đã nói, xoay vòng liên tục thêm vào cho nên gọi là nhóm. Không phải chỉ không mê đắm cũng làm cho bất sanh khởi, vì điều này cho nên nói là “diệt sạch tâm ba cõi”.
Kinh: “Đại Lực Bồ-tát ngôn: Bỉ nhân giả ư quả mãn túc đức Phật, Như-lai-tạng Phật, hình tượng Phật, như thị Phật sở nhi phát Bồ-đề tâm, nhập tam tụ giới bất trụ kỳ tướng, diệt tam hữu bất cư tịch địa, bất xả khả chúng nhập bất điều địa, không thể nghĩ bàn”. Đại Lực Bồ-tát chép: Bậc Nhân giả ấy hướng về vị Phật đầy đủ công đức quả vị viên mãn, vị Phật trong Như-lai-tạng, vị Phật bằng hình tượng, đối với các vị Phật như vậy mà phát tâm Bồ-đề nhập vào ba nhóm giới không trụ vào tướng đó, diệt sạch tâm ba cõi không ở chỗ vắng lặng, không xả bỏ được chúng nhập vào chỗ không điều hòa, không thể nghĩ bàn.
Luận chép: Đây là Phần thắng lợi thứ tư không có trụ lại. Trong đó có hai: Trước là lĩnh ngộ những điều nói ở trên, sau là nói lên không có trụ lại. Trong phần lĩnh ngộ có hai câu – Trước là lĩnh ngộ câu “Không lìa ba vị Phật”. Vị Phật đầy đủ công đức, quả vị viên mãn: Là Thỉ giác rốt ráo muôn đức tròn đầy. Như-lai-tạng Phật: Là vì tất cả chúng sanh vốn có Bổn giác. Hình tượng Phật: là vàng – đồng – bùn – gỗ có thể biểu hiện tôn tượng, cho nên, nhân quả sự lý không có điều gì rơi sót. “Nhập ba nhóm giới, không trụ vào tướng đó: Là lĩnh ngộ câu “Giới tánh đều không” trước đây. Bốn duyên nhập vào giới, không mê đắm tướng giới, ba nhóm bốn duyên sẽ nói trong phẩm sau. Từ đây trở xuống chính là nói về thắng lợi vô trụ. Tuy trở lại nhập vào ba Không nhóm, diệt sạch tâm ba cõi mà không dừng lại nơi vắng lặng. Sáu độ trải rộng khắp nơi cư trụ của chúng sanh nhiều vội vã gọi là nơi không điều hòa. Từ các hoặc giữ lại dựa vào nghiệp không trói buộc hướng về nơi ấy thọ sanh nên gọi là Nhập. Nói Lưu hoặc: Nghĩa là không nhanh chóng diệt hết. Như người tiểu thừa ở trong thời gian ba vô số đại kiếp dần dần mà dứt trừ, lúc đạt được Bồ-đề mới dứt sạch hoàn toàn. Không thể cho rằng từ Kim cương trở xuống là hoàn toàn không dứt trừ nên gọi là Lưu!
Kinh: “Nhĩ thời Xá Lợi Phật, tùng tòa nhi khởi tiền nói kệ ngôn: Cụ túc Bát-nhã hải, bất trụ Niết-bàn thành, như bỉ diệu liên hoa, cao nguyên phi sở xuất, chư Phật vô lượng kiếp, bất xả chư phiền não, độ thế nhiên hậu đắc, như nê hoa sơ xuất, như bỉ lục hành địa, Bồ-tát chi sở tu, như bỉ tam nhóm không, Bồ-đề chi trực đạo”. Lúc bấy giờ Xá-lợiphất, đứng lên chỗ ngồi bước đến phía trước nói kệ: Biển Bát-nhã Vốn tràn đầy, thành Niết-bàn không dừng lại, như hoa sen tuyệt diệu kia, không sinh ra từ cao nguyên, chư Phật trong vô lượng kiếp, không bỏ các phiền não, cứu độ thế gian chứng đạt sau, như hoa mọc lên từ bùn, như địa vị sáu hành kia, là pháp tu của Bồ-tát, như ba nhóm không nơi ấy, là đường thẳng đến Bồ-đề.
Luận chép: Dưới đây là phần thứ ba Thân tử lĩnh ngộ hiểu rõ đề làm cho chúng Tiểu thừa phát tâm rộng lớn. Trong đó có hai: 1. Lĩnh ngộ hiểu rõ. 2. Thuật về thành tựu. Trong phần Một cũng có hai: Ba tụng ở trước tụng về những điều giảng nói trước đây, hai tụng sau đó bày tỏ tự mình phát tâm. Trong phần đầu có ba: 1. Hai tụng trước tụng về vô trụ đạo; 2. Có hai câu tụng về địa vị sáu hành; 3. Hai câu cuối cùng tụng về Tam Nhóm không. Trong phần mốt nói “Biển Bát-nhã đầy đủ” ấy là vì ba giải thoát có đủ ba Tuệ. Không trụ thành Niết-bàn: Vì diệt sạch tâm ba cõi không cư trụ vắng lặng. Bất sanh từ cao nguyên”: Như người Nhị thừa kia lìa bỏ bùn phiền não, tám muôn kiếp… không thể phát tâm. Không bỏ các phiền não”: Vì không giống như hàng Nhị thừa trong nhị nhị sanh gấp rút đoạn hết”. Như hoa mọc tử bùn: Vì từ các hoặc giữ lại nhập vào nơi không điều hòa, ở tại trong đó tu tập đầy đủ Bồ-tát hạnh. Dựa vào đây có thể chứng được quả vị Bồ-đề cho nên nói là “Hành ba nhóm”. Ở tại văn có thể biết.
Kinh: “Ngã kim trụ bất trụ, như Phật chi sở nói, lai sở hoàn phục lai, cụ túc nhiên hậu xuất, phục linh chư chúng sanh, như ngã nhất vô nhị, tiền lai hậu lai giả, tất linh đăng chánh giác”. Nay con trụ nơi không trụ, như những điều Đức Phật nói, nơi đến tiếp tục đến, đầy đủ rồi mới vượt ra, trở lại khiến các chúng sanh, như con hoàn toàn không hai, người đến trước – người đến sau, đều khiến bước lên chánh giác.
Luận chép: Đây là phần thứ hai nói tự mình phát tâm. Trong đó có hai: Đầu là hai câu nói về địa vị phát tâm hiện tại, sau là một tụng rưỡi nói về hạnh tu tập sau đó. Con nay trụ nơi không trụ: là hiện nay nghe Đức Phật giảng nói xong phát tâm rộng lớn chính là trụ ở tâm không trụ, vào chỗ vắng lặng. “Nơi đến tiếp tục đến”: Là nơi từ vô thỉ trôi lăn đến con lìa bỏ trước đây, nay vẫn tiếp tục đến để nhập vào ba cõi cứu độ chúng sanh, bến bờ định lực vươn dài nên sự thọ thân tùy theo những nơi thích hợp đó mà thị hiện. “Đầy đủ rồi sau ra”: Sau khi tất cả hạnh Bồ-tát đầy đủ mới vượt ra xa rồi thân này đạt được thân Phật. Nói người trước là người gốc lành đã thành thục từ quá khứ. Nói người sau là người ở đời vị lai mới thành thục gốc lành. Vì vậy cùng tận thời gian vị lai không dừng nghỉ.
Kinh: “Nhĩ thời Phật cáo Xá-lợi-phất ngôn: Bất khả tư nghị! Nhữ đương ư hậu thành Bồ-tát đạo, vô lượng chúng sanh siêu sanh tử hải”. Lúc bấy giờ Đức Phật bảo Xá-lợi-phất biết: Không thể nghĩ bàn! Ông sẽ thành tựu đạo Bồ-tát về sau này, vô lượng chúng sanh vượt qua biển cả sanh tử.
Luận chép: Phần thứ hai nói về thành tựu, ấn chứng những điều giảng nói đó.
Kinh: “Nhĩ thời đại chúng giai ngộ Bồ-đề, chư tiểu chúng đẳng nhập ngũ không hải”. Lúc ấy đại chúng đều giác ngộ Bồ-đề, các chúng Tiểu thừa đều nhập vào biển năm không.
Luận chép: Đây là phần lớn thứ tư nói đại chúng đương thời được lợi ích. Nói đại chúng là chúng Đại thừa. Ngộ Bồ-đề là tâm thức tỉnh nhập vào nhất địa bồ-đề. Các Tiểu chúng gọi là chúng Thanh-văn, được nhập vào ba thứ môn chân như.