KINH PHÁP THIỀN BÍ YẾU
Hán dịch: Đời Diêu Tần, Pháp sư Cưu-ma-la-thập
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
QUYỂN THƯỢNG
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá, cùng đại chúng Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị; lại có năm trăm Đại đức Thanh văn, như các Tôn giả Xá-lợi-phất, Mụckiền-liên, Ma-ha Ca-diếp, Ma-ha Ca-chiên-diên…
Bấy giờ, trong thành Vương xá có Tỳ-kheo tên là Ma-ha Cahy-la-nan-đà, thông minh nhiều trí đến gặp Đức Phật, đảnh lễ và đi nhiễu quanh ngài bảy vòng. An trú trong thiền định nên Đức Thế Tôn yên lặng không nói. Thấy Phật nhập định, Ca-hy-la-nan-đà liền đến gặp Tôn giả Xá-lợi-phất, đảnh lễ và thưa:
–Đại đức Xá-lợi-phất! Xin Tôn giả giảng giải rộng về nghĩa cốt yếu chánh pháp cho con nghe.
Tôn giả Xá-lợi-phất liền nói pháp Tứ đế, phân biệt ý nghĩa từ một lần cho đến bảy lần mà tâm nghi của Ca-hy-la-nan-đà vẫn chưa được khai ngộ. Lần lượt như vậy, vị ấy lễ khap năm trăm vị Thanh văn, cầu xin các Tôn giả giảng nói nghĩa cốt yếu của chánh pháp. Các vị Thanh văn mỗi vị đều nói pháp Tứ đế cho Tỳ-kheo ấy đến bảy lần mà tâm ông cũng chưa tỏ ngộ.
Ca-hy-la-nan-đà bèn trở lại đảnh lễ Phật. Lúc này, Đức Thế
Tôn xuất định, thấy Ca-hy-la-nan-đà đảnh lễ dưới chân, nước mắt như mưa, cầu xin Thế Tôn:
–Mong Ngài hãy chuyển bánh xe chánh pháp cho con.
Đức Thế Tôn lại thuyết Tứ Chân Đế cho ông nghe từ một lần đến bảy lần, nhưng ông ta vẫn chưa hiểu. Nghe Phật giảng được Pháp nhãn trong sạch, nên năm trăm vị Thiên tử mang hoa trời đến cúng dường và bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Hôm nay nhờ Tỳ-kheo Ca-hy-la-nan-đà nên chúng con đã sung sướng được điều lợi ích của pháp, được thấy pháp như pháp và đã chứng quả Tu-đà-hoàn.
Nghe chư Thiên nói, Ca-hy-la-nan-đà ôm lòng hổ thẹn, nghẹn ngào, rầu rĩ không nói, gieo mình xuống đất như thái sơn sụp đổ, liền ở trước Phật, nằm rạp trên mặt đất sám hối với Đức Phật.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục, trịch áo bày vai phải, đảnh lễ Đức Phật, nhiễu quanh Phật ba vòng quỳ xuống chắp tay, bạch:
–Bạch Thế Tôn! Tỳ-kheo Ca-hy-la-nan-đà có nhân duyên gì mà sinh ra được thông minh, bốn luận Tỳ-đà, kinh điển lìa bỏ sự kiềm chế của thế gian, mặt trời, mặt trăng và các vì sao, tất cả các kỹ nghệ không gì là không thông đạt. Lại có tội gì mà từ lúc xuất gia đến nay, trải qua nhiều năm mà vẫn chưa nếm được mùi vị của Phật pháp. Đức Thế Tôn đích thân thuyết pháp cho mà ông ta như người điếc, không nghe, không chứng. Năm trăm bậc đại tướng trong Phật pháp, nói pháp cho ông ta nghe cũng không đạt ích lợi. Cúi xin Đức Thế Tôn nói rõ nhân duyên trước kia của Tỳ-kheo này.
Lúc A-nan hỏi, Phật liền mỉm cười, có ánh sáng năm màu từ trong miệng chiếu ra, nhiễu quanh Phật bảy vòng rồi đi vào đỉnh đầu.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Ông phải lắng nghe và ghi nhớ kỹ, ta sẽ giải thích rõ cho ông.
A-nan bạch Phật:
–Xin vâng, con rất muon nghe!
Phật bảo A-nan:
–Vào thời quá khứ cách đây vô kiếp có Đức Phật hiệu là Nhiên Đăng gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Tỳ-kheo Ca-hy-la-nan-đà ở trong giáo pháp của Phật ấy là một Tỳ-kheo tên là A-thuần-nan-đà, thông minh, nhiều trí. Do thông minh nên ông ta kiêu mạn, buông lung, không tu tập bốn Niệm xứ. Khi chết, ông ta bị đọa vào địa ngục Hắc ám, từ địa ngục ra sinh làm loài rồng, loài voi. Trong năm trăm lần thọ thân, ông thường làm vua loài rồng, năm trăm thân thường làm vua loài voi. Khi bỏ thân súc sinh, nhờ trước đây đã xuất gia, giữ giới ông được sinh lên cõi trời. Khi hết tuổi thọ nơi cõi trời ông sinh vào nhân gian. Nhờ trước kia đã đọc tụng ba Tạng kinh điển nên nay được gặp Phật. Vì trước đây buông lung, không tu bốn Niệm xứ cho nên đời nay không thể giác ngộ.
Bấy giờ, Tỳ-kheo Ca-hy-la-nan-đà, nghe Phật nói như vậy liền từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ xuống chắp tay bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Cúi xin Đức Thế Tôn cho con cách buộc giữ niệm.
Phật bảo Ca-hy-la-nan-đà hãy lắng nghe và ghi nhớ kỹ:
–Hôm nay ông muốn hỏi Như Lai về chánh pháp cam lồ để diệt giặc loạn tâm, thuốc trị bệnh phiền não của ba đời chư Phật để đóng tất cả các cửa phóng dật, khắp vì trời người mở tám con đường chân chánh, ông phải quán sát cho đúng, chớ để tâm rối loạn.
Lúc Phật nói lời này, trong chúng có năm mươi Tỳ-kheo già cũng bạch A-nan:
–Hôm nay Đức Thế Tôn muốn nói pháp trừ bỏ phóng dật, chúng con cũng muốn theo học pháp này, cúi xin Tôn giả bạch với Phật giảng nói pháp này cho chúng con.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
–Ta nay ở tại vườn trúc Ca-lan này thuyết pháp buộc niệm cho Tỳ-kheo Ca-hy-la-nan-đà, chẳng phải vì các ông mà còn vì những người phóng dật trong đời vị lai nữa.
Phật bảo Tỳ-kheo Ca-hy-la-nan-đà:
–Ông nghe lời ta dạy, cẩn thận chớ để quên mất. Kể từ ngày nay, ông tu pháp Sa-môn. Pháp Sa-môn là phải ở nơi vắng vẻ, yên tịnh, trải tọa cụ ngồi kiết già, sửa lại y phục, ngồi ngay thẳng trịch y bày vai phải, bàn tay trái đặt trên bàn tay phải, nhắm mắt, đầu lưỡi chống lên vòm hầu, định tậm khiến cho an trụ, không để phân tán. Đầu tiên, buộc niệm tại ngón chân trái, quán thật kỹ nửa đốt ngón chân tưởng như phồng lên, xem kỹ khiến cho hết sức rõ ràng. Sau đó tưởng như chỗ phồng vỡ ra và thấy nửa đốt xương hết sức trắng và sạch, như có ánh sáng trắng.
Thấy việc này rồi, tiếp đó quán một đốt xương khiến thịt tách ra, thấy một đốt xương hết sức ro ràng như có ánh sáng trắng.
Phật bảo Ca-hy-la-nan-đà:
–Như vậy gọi là pháp buộc niệm.
Ca-hy-la-nan-đà nghe Phật dạy hoan hỷ phụng hành.
Quán một đốt rồi tiếp đó quán hai đốt. Quán hai đốt rồi tiếp đó quán ba đốt. Quán ba đốt rồi tâm rộng lớn dần dần, lúc ấy nên quán năm đốt, thấy năm đốt chân như có ánh sáng trắng, xương trắng rõ ràng. Buộc tâm mhư vậy không cho phân tán, nếu tâm tán loạn thì thu giữ trở về, như niệm nửa đốt trước đây.
Khi tưởng niệm thành tựu, toàn thân ấm áp, bên dưới tim nóng. Lúc được tưởng này thì gọi là tâm dừng lại. Tâm đã dừng rồi lại phri tưởng khiến thịt ở mu bàn chân trắng như ngọc kha hay tuyết hết sức rõ ràng. Niệm tưởng này thành rồi thì quán sát xương gót chân, khiến thịt vạch ra hai bên thấy xương gót chân rất sáng và trắng.
Kế đó, quán xương ống quyển khiến thịt rớt xuống, thấy xương ống quyển rất trong, trắng. Rồi lại quán xương đầu gối khiến cho trong trắng rõ ràng. Tiếp đến, quán xương đùi khiến hết sức trắng. Sau đấy quán xương hông, tưởng mỗi bên hông thịt rớt ra hai hướng, chỉ thấy xương hông trắng như ngọc kha, như tuyết cho đến thấy xương sống rất rõ ràng.
Rồi lại quán xương vai, tưởng như thịt vai bị dao cắt, từ vai đến cùi chỏ, từ cùi chỏ đến cổ tay, từ cổ tay đến bàn tay, từ bàn tay đến đầu ngón tay, đều khiến thịt tách ra hai bên và thấy xương trắng của nửa thân. Tiếp đó quán da đầu. Quán da đầu rồi thì quán da mỏng, quán da mỏng xong thì quán màng mô não. Quán màng não rồi thì quán não. Quán não rồi thì quán mỡ, quán yết hầu, quán phổi.
Quán phổi rồi thấy tim, phổi, gan, ruột già, ruột non, tỳ, thận, sinh tạng, thục tạng, bốn mươi hộ trùng ở trong sinh tạng cai quản tám mươi ức trùng nhỏ. Mỗi con trùng đều sống trong các mạch. Số sinh ra từ trứng gồm có ba ức. Miệng chúng ngậm sinh tạng. Mỗi con trùng đều có bốn mươi chín đầu. Đầu đuôi của chúng nhỏ như cây kim.
Hai mươi hộ trong số các con trùng này là trùng lửa, được sinh ra từ tinh chất của hỏa. Hai mươi hộ là trùng gió được sinh từ phong đại. Các con trùng này ra vào các mạch, đùa giỡn thỏa thích. Trùng lửa làm gió hoạt động, trùng gió làm lửa hoạt động, hô hấp lẫn nhau làm chín sinh tạng. Lên xuống qua lại có bảy lần.
Các con trùng này đều có bảy mặt phát ra lửa và bảy tai hút lửa. Chúng động thân để làm chín sinh tạng, sinh tạng chín rồi chúng trở vào các mạch.
Có mươi hộ trùng cai quản ba ức trùng nhỏ thân đỏ như lửa. Trùng có hai mươi đầu, mỗi đầu có bốn miệng ngậm thục tạng. Hành giả phải quán thấy chúng trong tất cả các mạch máu. Thấy việc này rồi, lại thấy các trùng từ yết hầu ra, lại thấy ruột non, gan, phổi, tỳ, thận đều đổ vào ruột già, ra khỏi yết hầu và rớt xuống đất.
Niệm tưởng này thành rồi thì liền thấy ở khoảng đất trước mặt nơi có nước tiểu và phân hôi hám, các con giun, sán quấn quýt lẫn nhau. Miệng chúng chảy ra máu mủ đầy dẫy sự bất tịnh.
Tưởng này thành tựu rồi, tự thấy thân mình như người tuyết trắng, từng đốt xương chống đỡ lẫn nhau. Nếu thấy màu vàng và đen thì phải hối trách. Hối trách rồi tự thấy trên xương mình sinh ra da và da đó đều rớt xuống tụ lại ở khoảnh đất phía trước. Đống da đó lớn dần, mới đầu như cái bát, dần dần như cái vò, rồi như lầu Càn-thátbà, hoặc lớn hoặc nhỏ tùy theo tâm. Nó dần dần lớn như một quả núi và có các con trùng mổ ăn quả núi này, làm máu mủ chảy ra, có vô số trùng bơi lội trong mủ.
Núi da ấy dần dần mục rã chỉ còn chút ít, các con trùng giành nhau ăn. Có bốn quỷ Dạ-xoa từ trong đất bất ngờ hiện ra, nơi mắt phát lửa. Lưỡi chúng như rắn độc. Mỗi con quỷ có sáu đầu khác nhau. Đầu thứ nhất như núi, đầu thứ hai như mèo, đầu thứ ba như hổ, đầu thứ tư như sói, đầu thứ năm như chó, đầu thứ sáu như chuột. Hai tay của nói giống như vượn. Mười đầu ngón tay của nó đều có bốn đầu rắn độc, một đầu phun nước, một đầu phun đất, một đầu phun đá và một đầu phun lửa. Chân trái nó giống như quỷ Cưu-bàn-trà, chân phải nó giống quỷ Tỳ-xá-xà, hiện hình xấu xí rất đáng sợ. Bốn con Dạ-xoa này mỗi con mang chín loại xác chết, từng hàng từng lớp ở trước hành giả.
Phật bảo Tỳ-kheo Ca-hy-la-nan-đà:
–Đây là cảnh giới đầu tiên của pháp quán tưởng bất tịnh.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Ông hãy thọ trì những lời này đừng để quên mất, phải mở rộng pháp cam lồ của các bậc Thánh nơi ba thừa cho chúng sinh đời vị lai.
Nghe Phật dạy, Ca-hy-la-nan-đà quán kỹ từng thứ một, trải qua chín mươi ngày không đổi tâm tưởng. Đến ngày rằm tháng bảy Tăng tự tứ xong, các Tỳ-kheo lễ Đức Thế Tôn rồi trở về chỗ nghỉ.
Vào buổi chiều, vị ấy lần lượt tu đắc bốn quả Sa-môn, ba minh, sáu thông đều được đầy đủ, tâm rất hoan hỷ, đảnh lễ Phật và thưa:
–Bạch Thế Tôn! Hôm nay nhờ tư duy, nhờ chánh định, nhờ nương vào pháp Tam-muội mà nguyên nhân tái sinh đã hết, không còn thọ thân sau, con đã biết đạo chân thật, nhất định sẽ thành tựu phạm hạnh thanh tịnh. Bạch Thế Tôn! Người thọ dụng pháp cam lồ này giống như uống cam lồ, cúi xin Thế Tôn hãy giảng rộng lại.
Thế Tôn bảo Tỳ-kheo Ca-hy-la-nan-đà:
–Ông nay đã thật chứng pháp này, phải làm mười tám pháp biến hóa theo ý ông.
Ca-hy-la-nan-đà liền trụ trong hư không thực hiện mười tám
pháp biến hóa theo ý mình.
Các Tỳ-kheo thấy Tỳ-kheo Ca-hy-la-nan-đà có nhiều tâm ngã mạn mà còn điều phục được, theo lời Phật dạy, buộc tâm một chỗ, không theo các căn, thành A-la-hán. Khi ấy, trong hội chúng có một ngàn năm vị Tỳ-kheo nhiều loạn tâm, thấy việc này rồi đều hoan hỷ liền đến gặp Phật, lần lượt thọ nhận giáo pháp.
Vì Tỳ-kheo Ma-ha Ca-hy-la-nan-đà kiêu mạn này lần đầu tiên chế ra pháp buộc niệm, lúc này Đức Thế Tôn giảng dạy cho bốn chúng:
–Hoặc Tỳ-kheo hoặc Tỳ-kheo-ni, hoặc nam cư sĩ, hoặc nữ cư sĩ, từ nay về sau ai muốn cầu đạo vô vi phải buộc tâm niệm một chỗ. Nếu để tâm này rong ruổi theo sáu căn, giống như khỉ vượn, không biết hổ thẹn, phải hiểu người này là hạng Chiên-đà-la, chẳng phải dòng dõi Hiền thánh.
Tâm nếu không được điều thuận, thì quỷ coi ngục ở địa ngục A-tỳ thường sai khiến người ấy. Người ác như vậy trong nhiều kiếp không do đâu mà được độ. Giặc loạn tâm này là nguyên nhân khiến ta sinh vào ba cõi và đọa vào ba đường ác.
Các Tỳ-kheo nghe Phật dạy đều hoan hỷ phụng hành.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Ông có thấy Tỳ-kheo Ma-ha Ca-hy-la-nan-đà nhờ quán Bất tịnh mà được giải thoát không? Ông phải khéo thọ trì và giảng rộng cho mọi người.
A-nan thưa:
–Bạch Thế Tôn! Con xin vâng lời!
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Hãy lắng nghe và ghi nhớ kỹ.
Pháp quán thứ hai là buộc niệm trên trán, quán kỹ trong trán giống như móng tay lớn, cẩn thận đừng thay đổi ý tưởng. Quán trán như vậy khiến sinh an trụ, không sinh các tưởng, chỉ tưởng trên trán. Sau đó, tự quán xương đầu, thấy xương đầu trắng như màu pha lê. Như vậy dần dần thấy xương trắng, toàn thân trắng sạch, trong suốt, thân thể nguyên vẹn, từng đốt xương chống đỡ lẫn nhau và thấy các chất bất tịnh tụ lại ở khoảnh đất trước mặt như đã nói ở phần trên. Khi quán Bất tịnh thành tựu, cẩn thận đừng hủy bỏ thân mạng, phải dạy đổi pháp quán khác.
Pháp quán khác là: Tưởng trong các đốt xương phát ra ánh sáng trắng rực rỡ giống như núi tuyết. Thấy việc này rồi, đống bất tịnh phía trước bị quỷ Dạ-xoa nuốt mất.
Lại phải tưởng phía trước có một bộ xương người rất trắng. Tưởng này thành rồi thì tưởng hai bộ xương. Thấy hai bộ xương rồi thì thấy ba bộ xương. Thấy ba bộ xương rồi thì thấy bốn bộ xương. Thấy bốn bộ xương rồi thì thấy năm bộ xương, như vậy cho đến thấy mười bộ xương. Thấy mười bộ xương rồi thì thấy hai mươi bộ xương. Thấy hai mươi bộ xương rồi thì thấy ba mươi bộ xương. Thấy ba mươi bộ xương rồi thì thấy bốn mươi bộ xương. Thấy bốn mươi bộ xương rồi thì thấy xương người đầy một phòng ở phía trước, phía sau, bên phải, bên trái xếp hàng hướng vào nhau, chúng giơ tay trái hướng về hành giả.
Lúc ấy, hành giả quán rộng thêm thấy xương người đầy trong nhà lớn, từng hàng hướng vào nhau, trắng như ngọc kha, đều giơ tay phải hướng về hành giả.
Tâm dần dần rộng lớn, hành giả thấy xương người đầy trong một khoảng đất, xếp hàng hướng vào nhau, đều giơ tay phải hướng về hành giả.
Tâm rộng lớn dần, hành giả thấy xương người đầy trong một do-tuần, xếp hàng hướng vào nhau và giơ tay phải hướng về hành giả.
Thấy trong một do-tuần rồi, cho đến thấy trong một trăm dotuần đầy xương người xếp hàng hướng vào nhau, đều giơ tay phải hướng về hành giả.
Thấy trong một trăm do-tuần rồi thì thấy cho đến xương người đầy trong cõi Diêm-phù-đề, xếp hàng hướng vào nhau và giơ tay phải hướng về hành giả.
Thấy xương người đầy trong cõi Diêm-phù-đề rồi thì thấy xương người đầy trong cõi Phất-bà-đề xếp hàng hướng vào nhau, đều giơ tay phải hướng về hành giả.
Thấy trong cõi Phất-bà-đề rồi, thì thấy xương người đầy trong cõi Cù-da-ni xếp hàng hướng vào nhau và giơ tay phải hướng về hành giả.
Thấy trong cõi Cù-da-ni rồi, thì thấy xương người đầy trong cõi Uất-đan-việt xếp hàng hướng vào nhau đều giơ tay phải hướng về hành giả.
Thấy xương người đầy trong bốn cõi rồi thân tâm yên ổn, không còn kinh sợ. Tâm dần dần rộng lớn, thấy một trăm cõi Diêmphù-đề, trong đó đầy xương người xếp hàng hướng vào nhau đều giơ tay phải hướng về hành giả.
Thấy một trăm cõi Diêm-phù-đề rồi, tiếp đó thấy xương người đầy trong một trăm cõi Phất-bà-đề xếp hàng hướng vào nhau, đều giơ tay phải hướng về hành giả.
Thấy một trăm cõi Phất-bà-đề rồi, kế đó thấy xương người đầy trong một trăm cõi Cù-da-ni xếp hàng hướng vào nhau, đều giơ tay phải hướng về hành giả.
Thấy một trăm cõi Cù-da-ni rồi, kế đó thấy xương người đầy trong một trăm cõi Uất-đan-việt xếp hàng hướng vào nhau, đều giơ tay phải hướng về hành giả.
Thấy việc này rồi, thân tâm an lạc, không còn kinh sợ, tâm tưởng được lợi ích.
Hành giả thấy xương người đầy trong thế giới Ta-bà. Chúng buông thỏng hai tay, mười ngón thả lỏng. Chúng đứng thẳng hướng về hành giả.
Thấy việc này rồi, xuất định, nhập định, hành giả thường thấy xương người, núi, sông, đá vách, tất cả sự vật trên thế gian đều biến hóa giống như xương người.
Thấy việc này rồi, hành giả thấy bốn dòng sông lớn ở bốn phương, nước chảy xiết màu trắng như sữa và thấy các bộ xương người lặn hụp trong đó.
Lúc tưởng này thành tựu, sám hối trở lại, hành giả chỉ thấy nước vọt lên không trung. Hành giả lại phải khởi tưởng khiến nước yên lặng.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Đây gọi là pháp Tam-muội tâm tưởng ánh sáng trắng phát ra từ xương trắng của phàm phu, cũng gọi là pháp tưởng tâm hối hận cảnh giới sinh tử của phàm phu. Nay vì Ca-hy-la-nan-đà, vì ông và tất cả chúng sinh ở đời vị lai, ta nói pháp Tam-muội ánh sáng trắng phát ra từ xương trắng để thu giữ tâm loạn, vượt biển sinh tử, ông phải giữ gìn chớ để quên mất.
Khi Đức Thế Tôn nói lời này xong, liền hiện Tam-muội ánh sáng trắng với tất cả tướng mạo khiến Tôn giả A-nan được thấy chúng. Tôn giả A-nan nghe Phật nói, hoan hỷ phụng hành. Đây gọi là cảnh giới đầu tiên của pháp quán Bạch cốt.
Phật bảo Tôn giả A-nan tưởng này thành tựu rồi lại dạy tưởng khác. Tưởng khác là tự quán thân mình thành một bộ xương người, hết sức trắng sạch, khiến đầu lộn xuống vào giữa xương đùi, chú tâm một chỗ, thể hiện rất rõ ràng.
Tưởng này thành tựu rồi, quán khắp bốn phía quanh thân đều có xương người. Sau đó, ở khoảnh đất phía trước, tưởng một bộ xương trắng giống như chính mình, đầu gập xuống vào giữa xương đùi.
Tưởng một bộ rồi kế đó tưởng hai bộ. Tưởng hai bộ rồi kế đó tưởng ba bộ. Tưởng ba bộ rồi kế đó tưởng bốn bộ. Tưởng bốn bộ rồi kế đó tưởng năm bộ. Tưởng như vậy cho đến mười bộ. Hành giả thấy xương người đầy trong một phòng, chúng đều gập đầu xuống vào giữa xương đùi. Thấy một phòng rồi hành giả thấy cho đến một trăm phòng đầy ngập xương người. Chúng đều gập đầu xuống vào giữa xương đùi. Thấy một trăm phòng rồi hành giả thấy xương người đầy trong một do-tuần. Chúng đều gập đầu xuống vào giữa xương đùi. Thấy trong một do-tuần rồi lại thấy cho đến vô lượng bộ xương trắng đều gập đầu xuống vào giữa xương đùi.
Tưởng này thành rồi, thấy các bộ xương người nằm ngang dọc ở khoảnh đất phía trước, hoặc thấy bể đầu, hoặc thấy gãy cổ, hoặc thấy đảo lộn, hoặc thấy uốn cong vẹo, hoặc thấy gãy lưng, hoặc là duỗi chân, hoặc là co chân, hoặc là xương chân chia làm hai phần, hoặc thấy xương đầu gập vào trong ngực, hoặc thấy xương đầu nằm ngửa rụt lại. Chúng nằm ngổn ngang tại khoảnh đất phía trước, bao khắp trên dưới, đầy ngập một phòng.
Tưởng này thành rồi, hành giả thấy vô lượng vô biên các bộ xương trắng hoặc lớn hoặc nhỏ, hoặc nguyên vẹn hoặc không nguyên vẹn nằm ngổn ngang. Các việc như vậy đều phải trụ tâm quán kỹ, hết sức rõ ràng.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Hành giả thấy việc này rồi thì phải tự tư duy: Trước đây xương vốn nguyên vẹn mà bây giờ bị phân tán nằm ngổn ngang, không the ghi nhận. Bộ xương trắng này còn không chắc chắn nên biết thân ta cũng là vô ngã. Quán kỹ việc này rồi, nên tự tư duy ngay đống xương nằm ngổn ngang này chỗ nào có thân ta và thân người. Khi ấy hành giả tư duy về vô ngã, thân ý hanh thông, an ổn hỷ lạc.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Tưởng này thành rồi lại phải dạy khiến tâm rộng lớn làm cho hành giả thấy xương ngổn ngang trong cõi Diêm-phù-đề và thấy bên ngoài xương này có lửa dữ bao quanh bốn mặt. Hành giả thấy lửa lớn nổi lên, hừng hực cháy lan, thiêu đốt các bộ xương nằm rải rác. Tướng trạng lửa như vậy hoặc có đám lửa giống như dòng nước, ánh lửa rực rỡ tung hoành giữa các bộ xương, hoặc có đám lửa giống như núi lớn đến từ bốn phía.
Tưởng này thành rồi, hành giả rất kinh sợ, lúc xuất định, thân thể bốc hơi nóng, phải thâu tâm trở lại quán xương như trước, quán một bộ xương trắng rất rõ ràng. Lúc hành giả nhập định, không thể tự xuất định, phải nhờ tiếng khảy móng tay, sau đó mới xuất định.
Tưởng này thành tựu rồi, phải tự khởi niệm mà nói: Ta từ vô số kiếp đến nay, tạo các phiền não, bị nghiệp dẫn dắt, khiến nay thấy lửa này phát ra. Hành giả phải nghĩ lửa này có từ bốn đại. Thân ta trống rỗng, bốn đại không chủ, lửa dữ này phát ra từ không, thân ta thân người cũng đều là không, như lửa này sinh ra từ vọng tưởng để đốt cháy cái gì? Thân ta và lửa đều là vô thường.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Hành giả phải hết lòng quán kỹ các pháp như vậy, quán hư không không có lửa, cũng không có các bộ xương. Người thực hành pháp quán này thân không sợ hãi, thân ý yên tịnh hơn trước kia nhiều.
Bấy giờ Tôn giả A-nan nghe Phật nói, hoan hỷ phụng hành.
Tưởng này thành tựu gọi là hoàn tất pháp quán Bạch cốt thứ hai.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Quán bộ xương trắng thứ hai xong rồi, phải dạy pháp buộc niệm.
Trước hết phải buộc tâm trên ngón cái chân trái, nhất tâm quán kỹ ngón chân cái khiến thịt bầm xanh chảy rữa, giống như mặt trời nướng da thịt, dần dần lên đến đầu gối, rồi đến đùi. Quán chân trái rồi, quán chân phải cũng như vậy. Quán chân phải rồi kế đó quán đến hông, đến lưng, đến cổ, đến đầu, đến mặt, đến ngực. Tất cả các phần của toàn thân đều bầm đen và rỉ nước giống như mặt trời nướng da thịt. Hành giả quán kỹ thân mình thấy có tràn đầy chất bất tịnh giống như đống phân và nước tiểu. Tưởng một thân xong rồi phải tưởng hai thân. Tưởng hai thân rồi lại phải tưởng ba thân. Tưởng ba thân rồi lại tưởng bốn thân. Tưởng bốn thân rồi phải tưởng năm thân. Tưởng năm thân rồi phải tưởng mười thân. Tưởng mười thân rồi thấy thân người bầm đen, xếp hàng ngang dọc đầy trong một phòng. Chúng bầm đen và rỉ nước giống như ánh nắng đốt da thịt hoặc như đống phân và nước tiểu. Thấy một phòng rồi lại thấy hai phòng. Thấy hai phòng rồi lại thấy cho đến vô lượng các người bất tịnh tràn đầy trong thế giới Ta-bà ở tất cả sáu phương.
Tưởng này xong rồi hành giả tự nghĩ: “Đời trước ta tham dâm, ngu si, không tự giác ngộ, nhiều năm phóng dật, đắm nhiễm sắc tình không có hổ thẹn, theo đuổi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Nay thấy thân ta tràn đầy bất tịnh, thân người cũng vậy, có gì đáng ưa?”
Thấy việc này rồi hết sức nhàm chán thân, hổ thẹn tự trách: Lúc xuất định thấy đồ ăn uống cũng như phân và nước tiểu, rất là gớm ghiếc.
Kế đó dạy pháp quán khác, là phải khởi niệm tưởng. Lúc niệm tưởng thành tựu, thấy bên ngoài thân, trong khoảnh các chất bất tịnh vây bốn mặt, thình lình lửa cháy như ngọn lửa phát ra lúc đốt nóng đồ vật, sắc nó màu trắng như bóng nắng phản chiếu lại trên các chất dơ bẩn.
Thấy việc này rồi hành giả rất hoan hỷ, do hoan hỷ nên thân tâm khinh an, nhu hòa, tâm được sáng tỏ, hỷ lạc khác thường.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Đây là pháp quán hổ thẹn tự trách thứ ba.
Tôn giả A-nan nghe Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Tưởng này thành tựu gọi là hoàn tất pháp quán Hổ thẹn về chất nước bất tịnh thứ ba.
Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Tưởng này thành tựu rồi, lại phải dạy buộc niệm trên ngón chân cái, xem kỹ ngón chân cái tưởng nó phồng lên. Thấy nó phồng rồi lại tưởng nó bị rã nát, rồi lại tưởng máu mủ xanh, đen, đỏ, trắng. Máu mủ này rất hôi thối, khó có thể chịu được. Như vậy, dần dần tưởng đến đầu gối, đến đùi, chúng đều phình lên, rã nát chảy ra chất bất tịnh.
Quán chân trái rồi, chân phải cũng như vậy. Như vậy lần lần quán đến hông, đến lưng, đến cổ, đến đầu, đến mặt, đến ngực, các chi tiết của toàn thân đều phình trương và rã nát xanh, đỏ, đen, trắng, chất mủ chảy ra hôi hám, dơ bẩn không thể chịu được.
Tưởng một thân thành rồi phải tưởng hai thân. Tưởng hai thân thành rồi phải tưởng ba thân. Tưởng ba thân thành rồi phải tưởng bốn thân. Tưởng bốn thân thành rồi phải tưởng năm thân. Tưởng năm thân thành rồi phải tưởng mười thân. Tưởng mười thân xong rồi, thấy các người phình trướng đầy khắp một phòng. Chúng đều bị rã nát, các chất mủ xanh, đen, đỏ, trắng đều chảy ra hôi hám, dơ bẩn, không thể chịu được. Lại phải tưởng đến một do-tuần. Tưởng một do-tuần rồi, tưởng cho đến một trăm do-tuần. Tưởng một trăm do-tuần rồi, thấy đầy khắp mặt đất và hư không ở tam thiên đại thiên thế giới có các thây người phình trương mục rã, các chất mủ xanh, đen, đỏ, trắng chảy ra, tràn đầy dơ bẩn, không thể chịu được.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Bấy giờ hành giả thấy việc này rồi, tự quán thân mình tràn đầy bất tịnh quán nơi thân người cũng lại như vậy, phải nghĩ rằng: “Thân ta rất đáng chán, nó đầy ngập chất bất tịnh.”
Quán kỹ điều đó rồi, hành giả lo sợ cái họa sinh tử, tâm trở nên kiên cố tin sâu vào nhân quả, xuất định, nhập định thường hay thấy chất bất tịnh nên chán ghét muốn xả bỏ thân này. Lúc tưởng điều ấy, tự thấy toàn thể da thịt của thân mình như lá mùa thu rơi rụng. Hành giả thấy thịt rơi xuống đất rồi, tâm liền kinh động, sinh ra sợ hãi, thân tâm chấn động không thể tự an, nhiệt độ trong người nóng bức như người bệnh sốt, bị cơn khát hành hạ. Lúc xuất định, hành giả như người đi vào nơi đồng trống vào mùa hè, khát mà không có nước uống, thân thể rất mệt nhọc. Tưởng này thành tựu rồi, đến lúc ăn thấy thức ăn giống như tử thi trương sình, thấy nước uống giống như máu mủ. Tưởng này thành tựu rồi thì rất nhàm chán thân, quán trong và ngoài thân không tìm được một chỗ sạch.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Lại phải dạy cho hành giả pháp quán tưởng khác, đừng vứt bỏ thân mang và phát triển sự vô sở đắc.
Pháp quán khác là phải ở bên ngoài, cách xa chỗ dơ bẩn hôi hám là một vật sạch, dạy hành giả buộc tâm tưởng một vật sạch, tâm và mắt thấy biết rõ liền muốn đến đó để mà lấy. Như vậy, dần dần chỗ thấy rộng rãi, bên ngoài các chất bất tịnh, có các đất sạch như đất bằng lưu ly. Thấy chỗ tịnh này rồi liền muốn đi đến. Chỗ thấy càng xa rộng ý không thể đạt được.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Bấy giơ phải dạy hành giả như vậy và nói: “Việc mà ông thấy đều là tưởng bất tịnh. Nên biết tưởng bất tịnh là các vật uế tạp xen nhau, khởi lên từ điên đảo, đều do hành động điên đảo trong đời trước mà có thân này. Nguồn gốc của thân này là chủng tử bất tịnh. Ông nay có thật thấy sự bất tịnh ấy không? Tuy thấy bất tịnh, thấy trong sạch ở ngoài nhưng phải biết sự trong sạch này và sự bất tịnh không thể dừng lâu, chỉ do nương theo các căn và nhớ tưởng mà thấy như vậy. Thân bất tịnh này thuộc các nhân duyên, duyên hợp tức có, duyên lìa liền không. Việc mà ông thấy cũng thuộc duyên tưởng. Tưởng thành thì có, tưởng mất liền không. Như tâm tưởng này từ nam tình ra nhập lại tâm ông, duyên vào các dục mà có tưởng ấy. Tưởng bất tịnh này không từ đâu đến, không đi về đâu. Ông phải quán kỹ từng thứ bất tịnh, tìm cầu cái ngã ấy hoàn toàn không thể được.
Thế Tôn nói ta va người đều là không tịch, huống chi là bất tịnh. Quở trách tâm đủ kiểu như vậy, khiến tâm quán không, thấy tóc, lông, móng, răng đều không, thình lình xả các vật bất tịnh, trụ ý như trước, quán xương người trở lại.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Ông phải nhớ lời này, đừng để quên mất pháp quán Bất tịnh này và các pháp quán tưởng khác.
Tôn giả A-nan nghe lời dạy, hoan hỷ phụng hành.
Lúc tưởng này thành tựu gọi là hoàn tất pháp quán Thân trương phình máu mủ và các pháp quán tưởng khác.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Tưởng này thành tựu rồi, kế đó phải dạy buộc niệm một chỗ, ngồi ngay thẳng chú tâm quán kỹ ngón cái chân phải, khiến da trên ngón chân lơp lớp nối nhau, da dày da mỏng rực sáng cả trong lẫn ngoài. Có một lớp mô mỏng cũng phải quán kỹ quán sát đến hông, đến lưng, đến cổ, đến đầu, đến mặt, đến ngực, toàn thân đều như vậy. Da mỏng, da dày rực sáng trong ngoài, lớp lớp nối nhau như vật bị rạch, bị thối, da nó phình trương không thể nói hết.
Mỗi lỗ chân lông trong thân đều có trăm ngàn vô lượng các chất nước mủ dơ bẩn, giống như giọt mưa, từ lỗ chân lông chảy ra mau như mưa rào, trong ngoài đều chảy, máu mủ tràn ngập, rất là dơ bẩn không thể chịu được. Nó giống ao mủ, cũng giống ao máu trong đó đầy trùng.
Tưởng này thành tựu rồi, phải quán trong ngực và toàn thân là trùng, giống như đống trùng. Lại quán ngón chân cái phình trướng lên, mủ vỡ ra, mủ xanh, mủ vàng, mủ đỏ, mủ đen, mủ hồng, mủ xanh lục, mủ trắng chảy ra trộn với phân và nước tiểu, có các con trùng đùa giỡn trong đó, dơ bẩn hối hám không thể chịu nổi. Vì thế hành giả chán ghét thân này, không tham đắm các dục, không muốn thọ sinh.
Khi tưởng này thành tựu, thấy quỷ Dạ-xoa, thân như núi lớn, đầu tóc bù xù như rừng gai nhọn. Nó có sáu mươi mắt giống như ánh chớp, có bốn mươi miệng. Miệng có hai mươi nanh mọc ngược lên như lá phướn lửa. Lưỡi giống rưng kiếm le ra đến đầu gối. Tay nó cầm gậy sắt giống núi dao như muốn đánh người. Có nhiều con như vậy chẳng phải chỉ một con.
Lúc thấy việc này hành giả rất kinh sợ, thân tâm đều kinh động. Tướng mạo như vậy đều do đời trước hủy phạm giới cấm, làm các điều ác căn bản, vô ngã cho là ngã, vô thường cho là thường, bất tịnh cho là tịnh, phóng dật nhiễm đắm tham thọ các dục, đối với các pháp khổ lại tưởng là an lạc, đối với các pháp không lại sinh tưởng điên đảo, đối với thân bất tịnh lại cho là tịnh, sống bằng tà mạng không kể vô thường.
Tưởng này thành tựu rồi, lại phải dạy hành giả: Ông chớ kinh sợ, quỷ Dạ-xoa này là cảnh giới ác độc trong tâm ác của ông, chúng khởi lên từ sáu đại, do sáu đại tạo thành. Nay ông phải quán kỹ sáu đại.
Sáu đại là đất, nước, gió, lửa, không, thức. Ông phải tư duy kỹ từng thứ một. Thân ông là đất chăng? Là lửa chăng? Là gió chăng? Là thức chăng? Là không chăng? Quán kỹ từng thứ như vậy, xem thân này hình thành từ đại nào và tan rã từ đại nào. Sáu đại không chủ, thân cũng không có bản ngã, nay ông vì sao lại sợ Dạ-xoa?
Như tâm tưởng ông không từ đâu đến, không đi về đâu, tâm tưởng thấy Dạ-xoa cũng như vậy. Vì thế, chỉ cần ngồi ổn định tâm ý. Giả sử Dạ-xoa đến đánh ông, ông cũng vui mừng chấp nhận, quán kỹ về vô ngã, trong pháp vô ngã không có tưởng kinh sợ, chỉ nên chánh tâm, ngồi kiết già quán kỹ bất tịnh cùng với Dạ-xoa. Quán một thành tựu rồi lại quán hai. Như vậy dần dần cho đến vô lượng quán kỹ từng thứ khiến cho rõ ràng.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Ông phải giữ gìn pháp quán Da mỏng bất tịnh đừng để quên mất.
Tôn giả A-nan nghe lời dạy hoan hỷ phụng hành.
Lúc tưởng này thành tựu, gọi là hoàn tất pháp quán Da mỏng thứ năm.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Tưởng này thành tựu rồi, lại phải dạy hành giả buộc niệm trên ngón cái chân phải, quán kỹ ngón chân khiến nó phình trương lên, từ chân đến đầu như túi da thổi phồng, phình trương đen bóng, máu bầm xanh khó chịu đựng và trùng màu trắng đầy trong đó như là hạt gạo. Trùng có bốn đầu, chúng đuổi nhau và mổ ăn lẫn nhau. Da, thịt, xương tủy đều sinh ra trùng. Trùng ăn hết tất cả ngũ tạng, chỉ còn da dày ở bên ngoài xương. Da mỏng da dày giống như tơ lụa, cac con trùng ra vào như xuyên qua lá trúc, ra vào liền liền làm da muốn lủng. Trong mắt ngứa ngáy có vô số trùng đục mắt muốn ra sống trên vành mắt. Chín lỗ trên thân cũng lại như vậy. Bấy giờ, các con trùng từ da dày ra vào trong da mỏng, da liền lủng hết, trùng đều rơi xuống đất, rất nhiều không thể đếm được. Chúng làm thành một đống lớn giống như núi trùng phía trước hành giả. Chúng ăn nuốt lẫn nhau, hoặc là quấn lẫn nhau. Hành giả thấy nhiều trùng rồi, lại phải buộc niệm quán kỹ một trùng khiến con trùng này ăn hết các con trùng. Đã ăn trùng rồi, chỉ còn lại một con trùng. Tâm nó lớn dần, hành giả thấy một con trùng lớn như một con chó, thân thể khốn đốn, mũi cong như sừng hiện trước hành giả. Mắt nó màu đỏ như hòn sắt nóng. Thấy việc này rồi, hết sức kinh sợ phải tự nhớ lại thân ta vì sao bỗng nhiên như vậy, làm việc thế này, đầu tiên thấy các con trùng ăn nuốt lẫn nhau, nay thấy trùng này hình thể hôi xấu, ăn nuốt lẫn nhau rất là đáng sợ.
Lúc tưởng này thành tựu, phải tự quán thân, ta và các con trùng vốn không nay có, đã có lại trở về không, như sự bất tịnh này từ tâm tưởng sinh ra, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không là ta, cũng không là người. Như cái thân này do sáu đại và các nhân duyên hòa hợp lại mà thành, sáu đại ly tán, thân cũng không còn. Trước đây các con trùng không từ đâu đến, không đi về đâu, đống trùng thân ta có gì là thật, trùng không chủ tể, ta cũng vô ngã. Lúc tư duy điều này, thấy mắt con trùng nhỏ dần.
Thấy việc này rồi, thân tâm vui vẻ, an lạc hơn trước gấp bội.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Ông nên khéo thọ trì pháp quán Trùng tu tập và Da dày này đừng để quên mất.
Nghe Phật nói, Tôn giả A-nan hoan hỷ phụng hành.
Tưởng này thành tựu gọi là hoàn tất pháp quán Trùng tụ tập và Da dày thứ sáu.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Lại phải trụ ý buộc niệm một chỗ quán kỹ ngón cái chân phải, quán thật kỹ từ chân đến đầu, khiến da thịt đều tiêu hết. Ruột, dạ dày, bụng, gan, phổi, tim, tỳ, thận, tất cả năm tạng đều rơi xuống đất, chỉ còn gân xương liên kết lẫn nhau. Một lớp mô mỏng còn dính nơi xương, có màu rất đỏ hoặc như bùn đọng, hoặc như nước đục, quán tưởng về nước đục, đem nước đục rửa da, từ chân đến đầu đều làm như vậy. Hành giả tự quán thân mình hết sức rõ ràng. Quán thân mình rồi, lại quán một thân khác giống y như mình đang đứng ở khoảnh đất trước mặt.
Tưởng một thân xong rồi lại phải tưởng hai thân. Tưởng hai thân xong rồi phải tưởng ba thân. Tưởng ba thân xong rồi phải tưởng bốn thân. Tưởng bốn than xong rồi phải tưởng năm thân. Tưởng năm thân xong rồi phải tưởng cho đến mười thân. Tưởng mười thân rồi thấy khắp trong một phòng đều như vậy. Xương người màu đỏ, hoặc có màu bùn đọng, hoặc có màu nước đục, dùng nước đục rửa da như vậy rất nhiều, dần dần rộng lớn đầy một do-tuần. Tưởng một do-tuần rồi tưởng hai do-tuần. Tưởng hai do-tuần rồi dần dần rộng lớn tưởng một trăm do-tuần. Tưởng một trăm do-tuần rồi tưởng cho đến tam thiên đại thiên thế giới, trong đó đầy xương người màu đỏ, hoặc có màu bùn đọng, hoặc có màu nước đục, dùng nước đục rửa da bao quanh trên dưới, tràn đầy khắp nơi.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Ông nay quán kỹ tưởng màu đỏ này đừng để quên mất.
Tôn giả A-nan nghe Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Lúc tưởng này thành tựu gọi là hoàn tất pháp quán tưởng màu đỏ, màu bùn đọng, nước đục tầy rửa da thứ bảy.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Lại phải dạy cho hành giả buộc tâm trụ ý quán ngón cái chân trái, từ chân đến đầu như người mới chết có màu vàng úa, phải quán thân mình cũng lại như vậy. Thấy màu vàng úa rồi phải khiến cho màu vàng biến thành màu xanh đỏ. Lúc tưởng này thành tựu, thấy trên mặt đất có một người mới chết có màu vàng, đỏ. Thấy một thây người rồi thấy hai thây. Thấy hai thây rồi thì thấy ba thây. Thấy ba thây rồi thì thấy bốn thây. Thấy bốn thây rồi thì thấy năm thây.
Thấy năm thây rồi, tâm tưởng bén nhạy thường thấy thân mình như người mới chết. Tưởng như vậy thành tựu, thấy tất cả mọi người đầy cõi Diêm-phù-đề giống như người mới chết. Tưởng này thành tựu rồi, quán rộng thêm ra, thấy tam thiên đại thiên thế giới, trong đó đầy người mới chết, tự thấy thân mình và thân người không khác nhau. Lúc tưởng này thành tựu, tâm ý bừng sáng, tham dục mỏng dần.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Ông phải quán kỹ tưởng mới chết này đừng để quên mất.
Tôn giả A-nan nghe Phật nói hoan hỷ phụng hành.
Lúc tưởng này thành gọi là hoàn tất pháp quán tưởng mới chết thứ tám.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Lại phải dạy hành giả buộc niệm trụ ý quán kỹ ngón cái chân trái từ chân đến đầu khiến tâm không tán loạn, thấy rõ ràng từng loại xương trong thân, chúng chống đỡ và duy trì lẫn nhau, không có cái nào bị rơi rớt, lông tóc, móng, răng đều đầy đủ, trắng sáng. Thấy thân mình rồi, quán đi quán lại tưởng khiến trắng sạch.
Tưởng một thân rồi, lại tưởng hai thân. Tưởng hai thân rồi lại tưởng ba thân. Tưởng ba thân rồi, lại tưởng bốn thân. Tưởng bốn thân rồi lại tưởng năm thân. Cứ như vậy tưởng cho đến mười thân. Tưởng mười thân rồi lại thấy trong một phòng bao khắp trên dưới đều là xương người, lông tóc, móng, răng đầy đủ trắng như ngọc kha, như tuyết. Thấy một phòng rồi lại thấy một trăm phòng. Thấy một trăm phòng rồi lại thấy một cõi Diêm-phù-đề. Thấy một Diêm-phùđề cho đến thấy tam thiên đại thiên thế giới, trong đó đầy xương người, lông tóc, móng, răng đầy đủ trắng như ngọc kha, như tuyết. Lúc tưởng này thành tựu tâm ý an ổn, vui mừng gấp bội lúc bình thường.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Ông phải khéo quán tưởng xương thân đầy đủ đừng cho quên mất.
Tôn giả A-nan nghe Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Lúc tưởng này thành tựu gọi là hoàn tất pháp quán thân đầy đủ thứ chín.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Lại dạy hành giả buộc tâm trụ ý quán kỹ hai đốt ngón cái chân phải, khiến tâm chuyên chú không bị phân tán. Quán hai đốt khiến lìa nhau, chỉ có móng chân còn dính lại. Quán hai đốt rồi từ đầu đến chân đều khiến như vậy, khiến từng đốt lìa nhau, chỉ có móng chân còn dính lại. Từ đầu đến chân ba trăm sáu mươi ba đốt quán kỹ từng thứ một, khiến chúng lìa nhau. Nếu không đủ nên trụ tâm quán kỹ khiến các đốt lìa nhau chỉ có móng chân còn dính lại.
Quán thân mình rồi, phải quán thân người. Quán một rồi quán hai. Quán hai rồi quán ba. Quán ba rồi quán bốn. Quán bốn rồi quán năm. Quán năm rồi quán cho đến vô lượng các bộ xương trắng, từng đốt lìa nhau chỉ có móng chân còn dính lại. Thấy việc này rồi, lại thấy ở bốn phương có rất nhiều xương người cũng lại như vậy.
Lúc thành tựu pháp quán này, phải tự nhiên thấy bên ngoài xương người giống biển lớn an tĩnh trong suốt. Tâm hành giả sáng suốt nhạy bén, thấy đủ loại ánh sáng nhiều màu nhiễu quanh bốn bên. Thấy việc này rồi, tâm ý tự nhiên an ổn, vui vẻ, thân tâm thanh tịnh không còn buồn vui.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Ông phải quán rõ ràng chắc chắn pháp quán từng đốt lìa nhau này, đừng để quên mất.
Tôn giả A-nan nghe Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Pháp quán này thành tựu gọi là hoàn tất pháp quán từng đốt lìa nhau thứ mười.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Tưởng này thành tựu rồi, lại phải dạy buộc niệm trụ ý, quán kỹ hai đốt của ngón cái chân phải, khiến từng đốt lìa nhau khoảng chừng ba ngón, quán ánh sáng trắng trụ ở ngón chân. Nếu ngồi ban đêm thì tưởng ánh sáng mặt trăng, nếu ngồi ban ngày thì tưởng ánh sáng mặt trời, liên kết các xương đừng cho phân tán.
Từ chân đến đầu, ba trăm sáu mươi ba đốt đều khiến lìa nhau như ba ngón vậy, dùng ánh sáng trắng níu giữ không cho phân tán. Nếu ngồi ban ngày dùng ánh mặt trời mà giữ. Nếu ngồi ban đêm dung ánh mặt trăng mà giữ, quán giữa các đốt đều phóng ra ánh sáng trắng. Lúc thành tựu pháp quán này, phải tự nhiên thấy một vị Phật cao một trượng sáu ở trong ánh sáng mặt trời. Ánh sáng bao khắp một tầm, trái, phai, trên, dưới cũng đều một tầm. Thân thể màu vàng ròng, toàn thân sáng rực chói lọi trang nghiêm. Ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp đều rực rỡ. Mỗi mỗi tướng tốt đều thấy rõ ràng, như Phật còn ở đời không khác. Lúc thấy điều này cẩn thận đừng làm lễ, cần phải an tâm quán kỹ các pháp, phải nghĩ rằng: “Phật nói các pháp không đến không đi, tất cả tánh tướng đều không tịch, chư Phật Như Lai là thân giải thoát. Thân giải thoát là chân như, trong pháp chân như không thấy, không đắc.” Lúc tưởng điều này tự nhiên thấy tất cả chư Phật. Nhờ thấy Phật, tâm ý thông suốt, lặng lẽ vui sướng.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Ông quán kỹ xương trắng phát sáng này đừng để quên mất.
Tôn giả A-nan nghe Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Quán này thành tựu gọi là hoàn tất pháp quán xương trắng phát sáng thứ mười một.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Thành tựu pháp quán này rồi lại phải dạy buộc tâm trụ ý quán kỹ xương sườn. Ở giữa xương sườn dùng sức định tâm quán một đài cao, tự thấy thân mình như một người bằng ngọc trắng đang ngồi kiết già, dùng ánh sáng xương trắng chiếu khắp tất cả, lúc quán điều này làm cho rất rõ ràng. Ngồi đài này rồi, như người có thần thông, ở trên đỉnh nùi Tu-di, quán thấy bốn phương, không có chướng ngại, tự thấy thân cũ rõ ràng, thấy các xương người trắng như ngọc kha, như tuyết, xếp hàng hướng vào nhau, thân thể đầy đủ, không chút khiếm khuyết đầy tam thiên đại thiên thế giới. Đây gọi là Tưởng ánh sáng trắng thành tựu.
Kế đó, quán xương nằm theo chiều dọc, cũng đầy tam thiên đại thiên thế giới. Lại thấy xương nằm theo chiều ngang cũng đầy tam thiên đại thiên thế giới. Thấy xương người màu xanh, từng hàng hướng vào nhau, đầy cả tam thiên đại thiên thế giới. Lại thấy xương màu đen, từng hàng hướng vào nhau, đầy cả tam thiên đại thiên thế giới. Lại thấy người phình trương từng hàng hướng vào nhau, đầy cả tam thiên đại thiên thế giới. Lại thấy người cùi, lại thấy người thân đầy máu mủ, tràn ngập tam thiên đại thiên thế giới. Lại thấy người toàn thân mục rã, có trùng ra vào đầy tam thiên đại thiên thế giới. Lại thấy người có da mỏng bọc thân đầy tam thiên đại thiên thế giới. Lại thấy người có xương da liền nhau đầy tam thiên đại thiên thế giới. Lại thấy người có màu đỏ như máu đầy tam thiên đại thiên thế giới. Lại thấy người có màu như nước đục, đầy tam thiên đại thiên thế giới. Lại thấy người có màu như bùn đọng, đầy tam thiên đại thiên thế giới. Lại thấy người có bộ xương trắng, lông tóc, móng, răng liên kết nhau, chỉ có móng chân còn dính lại, xương người như đầy tam thiên đại thiên thế giới. Kế đó, thấy người có các đốt xương, lìa ra hai hướng khoảng chừng ba ngón có ánh sáng trắng phát ra đầy tam thiên đại thiên thế giới. Kế đó thấy bộ xương trắng phân tán, chỉ có ánh sáng trắng liên kết với nhau đầy tam thiên đại thiên thế giới.
Phải thấy nhiều bộ xương người màu trắng như vậy không thể kể hết.
Lúc thành tựu pháp quán ấy, phải nghĩ rằng: Thân này của ta khởi từ bốn đại, cành, lá, hạt giống đều hết sức bất tịnh như vậy, rất là đáng chán.
Cảnh giới như thế khởi từ tâm ta, tâm tưởng liền thành, không tưởng không thấy, phải biết tưởng này chính là giả quán, thấy từ hư vọng, thuộc các nhân duyên. Ta nay phải quán nhân duyên các pháp.
Vì sao gọi là nhân duyên các pháp. Nhan duyên các pháp là sinh ra từ bốn đại. Bốn đại là đất, nước, gió, lửa. Lại phải quán gió lớn này nổi dậy từ bốn phương. Mỗi một phong đại giống như rắn lớn, mỗi con có bốn đầu, hai trên hai dưới, trong nhiều tai của chúng đều phát gió ấy. Lúc quán này thành tựu, gió biến thành lửa, mỗi con rắn độc phun ra núi lửa. Núi ấy cao lớn rất là đáng sợ. Có các Dạ-xoa ở trong núi lửa, động thân nuốt lửa, lỗ chân lông phát ra gió. Biến trạng như vậy đầy khắp một phòng. Khắp một phòng rồi lại khắp hai phòng. Khắp hai phòng rồi dần dần rộng lớn đầy khắp một do-tuần. Đầy một do-tuần rồi đầy khắp hai do-tuần. Đầy hai do-tuần rồi đầy khắp ba do-tuần. Đầy ba do-tuần rồi đầy khắp cõi Diêm-phù-đề. Hành giả thấy các Dạ-xoa ở trong núi lửa, nuốt lửa gánh núi, lỗ chân lông phát ra gió, rong chạy khắp nơi trong khắp cõi Diêm-phù-đề. Lại nữa, quỷ Dạ-xoa đáng sợ áp bức hành giả, lúc thấy điều này tâm rất kinh sợ, xin đổi pháp quán.
Pháp quán khác là trước tiên quán tượng Phật cao một trượng sáu ở trong ánh lửa.
Lúc tưởng này thành tựu, lửa dần dần cạn, biến thành hoa sen. Rất nhiều núi lửa như vàng ròng tụ tập rực sáng trong ngoài. Các quỷ Dạ-xoa giống người bằng ngọc trắng, chỉ có phong đại chuyển động xoay tròn, thổi các hoa sen. Vô số hóa Phật trụ trong hư không, phóng ánh sáng lớn như núi kim cương.
Lúc ấy, các ngọn gió yên tịnh không lay động. Bốn con rắn độc trong miệng phun nước năm sắc đầy khắp một giường. Đầy một giường rồi đầy hai giường. Đầy hai giường rồi đầy ba giường. Như vậy cho đến đầy khắp một phòng. Đầy một phòng rồi lại đầy hai phòng. Đầy hai phòng như vậy rồi đầy ba phòng. Như vậy cho đến đầy khắp mười phòng. Nước đầy mười phòng rồi, thay nước năm sắc trong mỗi sắc đều có ánh sáng trắng như cái phướn bằng pha lê. Nó có mười bốn lớp từng đoạn đều không. Nước trắng phun ra trụ trong hư không. Lúc tưởng này thành tựu, hành giả tự thấy trong thân tâm có một con rồng độc. Rồng có sáu đầu, nó cuốn quanh tim bảy vòng. Hai đầu phun nước, hai đầu phun lửa, hai đầu phun đá, trong tai phát ra gió. Các lỗ chân lông trong thân đều sinh ra chín mươi chín rắn độc. Các loại rắn như vậy, hai trên hai dưới. Các con rồng phun nước, từ dưới chân tuôn ra chảy vào dòng nước trắng.
Như vậy, lần lần đầy một do-tuần đều thấy việc này. Đầy một do-tuần rồi đầy hai do-tuần. Đầy hai do-tuần rồi đầy ba do-tuần. Như vậy cho đến đầy cõi Diêm-phù-đề. Đầy cõi Diêm-phù-đề rồi, lúc ấy rồng độc từ rốn chui ra, dần dần lên trên chui vào trong mắt. Từ mắt ra trụ lên đỉnh đầu.
Bấy giờ, trong nước có một cây lớn, cành lá sum suê che khắp tất cả. Rồng độc như vậy không lìa thân ta, lè lưỡi trên cây. Trên lưỡi rồng có tám trăm con quỷ. Hoặc có quỷ thần trên đầu đội núi, hai tay như rắn, hai tay giống chó. Lại có quỷ thần, đầu giống đầu rồng, các lỗ chân lông trong thân có trăm ngàn mắt, trong mắt phát lửa, răng như núi đao lăn lộn trên đất. Lại có các con quỷ, mỗi mỗi con có chín mươi chín đầu. Chúng đều có chín mươi chín tay. Hình dáng đầu rất là xấu xí, giống như dã can, hoặc giống như chồn, hoặc giống như mèo, hoặc là như cáo, hoặc là như chuột. Cổ các con quỷ này đều mang khỉ vượn. Các quỷ ác này đùa giỡn trong nước, có con leo trèo nhảy nhót trên cây. Có quỷ Dạ-xoa trên đầu bốc lửa. Các con vượn dùng nước dập lửa nhưng không dập được, lửa càng thêm mạnh.
Lửa dữ như vậy từ trong nước thình lình rực cháy bên cạnh phướn bằng pha lê, đốt phướn bằng pha lê như nấu vàng ròng. Mỗi ngọn lửa lần lượt nhiễu quanh thân mười vòng, ở trên hành giả như cái lọng bằng vàng ròng. Có màn lưới giăng khắp trên cây và lọng bằng vàng ròng nó đầy đủ ba lớp.
Bấy giờ, dưới đất bỗng có bốn con ác quỷ lớn, có trăm ngàn tai, tai phát ra lửa, nước. Các lỗ chân lông trong thân phun ra các hạt bụi li ti. Trong miệng thổi ra gió đầy khắp thế giới. Có tám vạn bốn ngàn quỷ La-sát, hai nanh mọc ngược lên cao một do-tuần.
Trong các lỗ chân lông của thân, sét đánh nổi lửa, rất nhiều con như vậy chạy giỡn trong nước.
Lại có hổ, chó sói, sư tử, báo, chim, thú, từ lửa vọt ra chạy giỡn trong nước.
Lúc thấy việc này, từng bộ xương đầy khắp thế giới Ta-bà đều
cử động tay phải. Các La-sát tay cầm thiết xoa xúc các xương người dồn lại một chỗ.
Bấy giờ, trong xương người chín màu xếp hàng theo thứ lớp đến chỗ hành giả. Trăm ngàn cảnh giới rất nhiều như vậy không thể kể hết.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Lúc tưởng này thành tựu gọi là quán bốn đại, ông phải khéo thọ trì đừng cho quên mất.
Tôn giả A-nan nghe Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Lúc tưởng này thành tựu, gọi là quán địa đại, quán hỏa đại, quán phong đại, quán thủy đại thứ mười hai, cũng gọi là cảnh giới chín mươi tám xứ.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Tưởng này thành tựu rồi, lại phải dạy buộc niệm trụ ý quán kỹ xương sườn bên hông. Tưởng các xương sườn trắng như ngọc kha như tuyết. Thấy xương sườn rồi, thấy xương toàn thân, từng đốt nương nhau trở nên sáng sạch, trắng như pha lê, thấy các chi tiết lớn nhỏ của một bộ xương đều sáng như gương pha lê. Hỏa đại, phong đại, thủy đại, địa đại, các cảnh giới này đều hiện ra ở trong một đốt. Lúc tưởng này thành tựu, thấy đất phương dưới, từ giường trở xuống dần dần mở ra. Thấy đất dưới một giường rồi, lại thấy đất dưới hai giường. Thấy đất dưới hai giường rồi, lại thấy đất dưới ba giường, kế đó thấy trong một phòng. Thấy trong một phòng rồi lại thấy trong hai phòng. Thấy trong hai phòng rồi dần dần thấy trong ba phòng. Thấy trong ba phòng rồi dần dần thấy đất trong mot sân dần dần mở ra. Lúc thấy việc này, phải quán kỹ đến phương dưới không có chướng ngại.
Trong phong luân phương dưới có các luồng gió nổi dậy, các Dạ-xoa kia đều nuốt gió này. Nuốt gió này rồi các lỗ chân lông tren thân đều sinh quỷ Cưu-bàn-trà. Mỗi quỷ Cưu-bàn-trà phun ra các núi lửa, đầy đại thiên thế giới. Trong các núi ấy lại có nhiều cô gái đẹp, đánh trống, tấu nhạc, đàn ca trước hành giả. La-sát lại đến tranh nhau bắt họ để ăn. Hành giả thấy rồi rất là kinh sợ không thể kiềm chế được, lúc xuất định luôn luôn bị đau tim, xương đỉnh đầu muốn vỡ. Nhiếp tâm vào định đều thấy cảnh giới bốn đại như trước. Thấy cảnh giới này rồi, nhờ định lực bốn đại, tự thấy thân thể trắng như người ngọc, lửa khởi lên mỗi đốt, nước chảy dưới từng đốt, trong tai phát ra gió, trong mắt có mưa đá.
Thấy việc này rồi, có mười con rắn độc ở trên mặt đất, thân dài lớn năm trăm do-tuần, có một ngàn hai trăm chân, chân giống rồng độc, thân phát ra lửa lăn lộn trên đất. Lúc tưởng này thành tựu, phải chí tâm sám hối tội trước. Lúc xuất định không được nói nhiều, phải ở nơi vắng vẻ, nhất tâm buộc niệm chỉ trừ lúc ăn. Lại phải sám hối uống các bơ thuốc, sau đó mới đổi pháp quán này.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Pháp quán này gọi là quán bốn đại thứ hai, ông phải thọ trì đừng để quên mất.
Tôn giả A-nan nghe Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Lúc tưởng này thành tựu, gọi là hoàn tất pháp quán các kết sử căn bản thứ mười ba.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Lúc tưởng này thành tựu lại phải thay đổi pháp quán. Pháp quán khác là:
Khi hỏa đại phát động phải khởi tưởng núi, phải tưởng các núi giống như sương giá bị lửa làm tan. Lửa dữ như vậy rất là mạnh mẽ. Lúc lửa hừng mạnh thân thể bốc nóng. Lại tưởng rồng làm mưa dập tắt lưa dữ. Lại phải tưởng đá nát ra như bụi. Rồng lại thổi gió tụ tập các hạt bụi cho đến khi thành núi. Vô số cây rừng, gai góc đều tự nhiên sinh. Bấy giờ nước trắng đầy đủ năm màu chảy trong các cây gai. Nước như vậy trụ trên đỉnh núi giống như băng tích tụ, ngưng lại không động. Tưởng này thành tựu gọi là pháp quán khác thứ mười bốn.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di được chánh định Tam-muội, ông phải dạy đổi pháp quán dừng để quên mất. Pháp quán bốn đại này, nếu có người chứng đắc được, Phật cho dùng sữa và thịt. Lúc ăn thịt rửa không cho còn mùi vị và phải tưởng như vào thời đói phải ăn thịt con. Nay thân này nếu không ăn thịt sẽ phát cuồng và chết. Cho nên, Phật dạy các Tỳ-kheo ở nước Xá-vệ, vì tu thiền định được ăn ba loại thịt thanh tịnh.
Tôn giả A-nan nghe Phật nói, hoan hỷ phụng hành.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Dạy đổi pháp quán rồi, lại phải dạy buộc tâm trụ ý như trước, quán kỹ xương sườn, lại khiến trắng sạch hơn trước nhiều lần. Ở giữa hai đốt nhờ sáng và sạch được thấy tất cả các việc dơ xấu.
Lúc tưởng này thành tựu, phải tự quán thân thành một bộ xương người, trong mỗi đốt trắng sạch, sáng tỏ như gương pha lê. Tất cả xương người ở trong cõi Diêm-phù-đề và cảnh giới có được nhờ quán bốn đại đều ở trong một đốt xương. Thấy việc này rồi hành giả thấy các xương người đến từ phía Đông, xếp hàng theo thứ lớp hướng về phía hành giả nhiều như vi trần. Cũng như phương Đông, các bộ xương trắng khắp thế giới Ta-bà đều xếp hàng theo thứ lớp hướng về phía hành gia. Phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng và phương trên dưới cũng lại như vậy. Lại có xương người màu xanh, xếp hàng theo thứ lớp hướng vào nhau khắp cõi Diêm-phù-đề. Dần dần rộng lớn cho đến phương Đông, khắp thế giới Ta-bà, phương Nam, Tây, Bắc bốn hướng và phương trên dưới cũng lại như vậy.
Lại có xương người màu bùn đọng, xếp hàng theo thứ lớp hướng vào nhau khắp cõi Diêm-phù-đề. Dần dần rộng lớn cho đến phương Đông, khắp thế giới Ta-bà, phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng và phương trên, dưới cũng lại như vậy.
Lại có xương người màu nước đục xếp hàng theo thứ lớp hướng vào nhau khắp cõi Diêm-phù-đề. Dần dần rộng lớn cho đến phương Đông, khắp thế giới Ta-ba, phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng và phương trên, dưới cũng lại như vậy.
Lại có xương người màu đỏ, xếp hàng theo thứ lớp hướng vào nhau khắp cõi Diêm-phù-đề. Dần dần rộng lớn cho đến phương Đông, khắp thế giới Ta-bà, phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng và phương trên, dưới cũng lại như vậy.
Lại có xương người màu hồng, xếp hàng theo thứ lớp hướng vào nhau khắp cõi Diêm-phù-đề. Dần dần rộng lớn cho đến phương Đông, khắp thế giới Ta-bà, phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng và phương trên, dưới cũng lại như vậy.
Lại có xương người dính đầy máu mủ, xếp hàng theo thứ lớp hướng vào nhau khắp cõi Diêm-phù-đề. Dần dần rộng lớn cho đến phương Đông, khắp thế giới Ta-bà, phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng và phương trên, dưới cũng lại như vậy.
Lại có xương người màu vàng, xếp hàng theo thứ lớp hướng vào nhau khắp cõi Diêm-phù-đề. Dần dần rộng lớn cho đến phương Đông, khắp thế giới Ta-bà, phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng và phương trên, dưới cũng lại như vậy.
Lại có xương người màu xanh lục, xếp hàng theo thứ lớp hướng vào nhau khắp cõi Diêm-phù-đề. Dần dần rộng lớn cho đến phương Đông, khắp thế giới Ta-bà, phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng và phương trên, dưới cũng lại như vậy.
Lại có xương người màu tím, xếp hàng theo thứ lớp hướng vào nhau khắp cõi Diêm-phù-đề. Dần dần rộng lớn cho đến phương Đông, khắp thế giới Ta-bà, phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng và phương trên, dưới cũng lại như vậy.
Lại có xương người màu khác nhau, giữa hai đốt khắp trong các đốt chảy ra các loại mủ gớm ghiếc mười sáu mùi, xếp hàng theo thứ lớp hướng vào nhau khắp cõi Diêm-phù-đề. Dần dần rộng lớn cho đến phương Đông, khắp thế giới Ta-bà, phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng và phương trên, dưới cũng lại như vậy.
Lúc tưởng này thành tựu, hành giả kinh sợ, thấy các Dạ-xoa muốn đến ăn mình.
Bấy giờ, phải thấy các xương người từng đốt nổi lửa. Từng ngọn lửa bừng lên khắp thế giới Ta-bà. Lại thấy trên đỉnh các bộ xương vọt ra các loại nước như là phướn cờ bằng pha lê. Lại thấy tất cả lửa trên đầu xương biến thành núi đá. Tai các con rồng phát ra gió thổi lửa động núi. Các ngọn núi quay quần trên hư không như người thợ gốm quay bánh xe của mình không ngừng nghỉ.
Thấy việc này rồi, hành giả rất kinh sợ. Do kinh sợ có một ức quỷ gánh núi phun lửa, hình dạng khác nhau đến chỗ người ấy.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Nếu có Tỳ-kheo an trụ trong chánh niệm, tu không phóng dật,
lúc thấy việc này phải dạy các pháp quán không, vô ngã. Khi xuất định cũng khuyên họ thường đến hỏi người trí về nghĩa Không sâu xa. Nghe nghĩa Không rồi phải tự quán sát thân ta nương sự hòa hợp bất tịnh của cha mẹ, gan ràng rịt, máu lấp đầy, ba mươi sáu vật ô nhiễm bất tịnh thuộc các nghiệp duyên khởi lên từ vô minh. Nay quán thân này không một thứ đáng ưa như vật mục rã.
Lúc tư duy như vậy, các bộ xương người đều đến áp bức ta, phai giơ tay phải vỗ các bộ xương mà nghĩ rằng: “Như xương người này hiện từ tưởng hư vọng và phân biệt, thân ta cũng vậy sinh từ bốn đại, lấy làng xóm là sáu nhập là chỗ cư trú, huống gì các xương sinh ra từ hư vọng.”
Lúc nghĩ điều ấy, các bộ xương người tan nát như bụi, tích tụ trên đất như núi tuyết trắng. Có một con rắn lớn bỗng nhiên nuốt ăn rất nhiều bộ xương người màu sắc lẫn lộn. Ở trên núi tuyết đó, có một người nữ bằng ngọc trắng, thân thể đoan chánh, cao ba mươi sáu do-tuần, cổ đỏ như lửa, mắt có ánh sáng trắng.
Bấy giờ, nước màu trắng và các tràng phan bằng pha lê đều tự nhiên nhập vào đỉnh người bằng ngọc trắng. Các loại rồng, quỷ, rắn, sư tử, chồn, mèo đều kinh sợ bỏ chạy. Vì sợ lửa lớn, chúng tìm đến bên dưới của cây. Chín mươi chín con rắn trong các lỗ chân lông của thân đều ở trên cây.
Khi đó, rồng độc uốn lượn quanh cây, lại thấy voi đen đứng dưới cây.
Lúc thấy việc này, nên chí tâm sám hối cả sáu thời, không thích nói nhiều, phải ở chỗ vắng, để tư duy các pháp không. Trong các pháp không, không đất, không nước, cũng không gió lửa. Sắc là điên đảo từ pháp huyễn sinh ra. Thọ là nhân duyên sinh từ các nghiệp. Tưởng là điên đảo, là pháp không trụ. Thức là không thấy thuộc các nghiệp duyên, sinh do hạt giống tham ái, quán kỹ các loại như vậy của thân này. Địa đại là từ không thấy có, không cũng thấy không, vì sao cho tưởng cứng là đất. Phân tích như vậy, cái gì là đất?
Quán điều đó rồi, gọi là quán đất bên ngoài. Quán kỹ từng thứ thấy địa đại không chủ. Lúc tưởng điều này thấy núi xương trắng lại càng tan rã giống như vi trần. Chỉ có xương người ở trong vi trần có các ánh sáng trắng duy trì lẫn nhau. Trong ánh sáng trắng lại sinh các loại ánh sáng bốn màu. Trong ánh sáng lại nổi lửa dữ thiêu đốt các Dạ-xoa. Các Dạ-xoa bị lửa áp bức đều vọt lên cây, chưa đến cây bị voi đen chà đạp. Dạ-xoa phun lửa đốt chân voi đen. Lúc ấy, voi đen rống lên như sư tử rống, diễn thuyết pháp không, vô thường, vô ngã và thuyết thân này là pháp hư hoại, không bao lâu sẽ diệt. Voi đen thuyết rồi đánh nhau với Dạ-xoa. Dạ-xoa cầm thiết xoa đâm tim voi đen. Voi đen lại rống lên một tiếng làm động đất, làm gốc, thân, cành, lá của cây đại thọ nhất thời lay động. Rồng cũng phun lửa muốn thiêu cây này. Các con rắn kinh sợ phùng mang. Mỗi con đều duỗi chín mươi chín đầu để cứu lấy cây này. Dạ-xoa lại càng kinh sợ, tay cầm khối đá lớn muốn ném vào voi đen. Voi đen liền đưa vòi bắt khối đá ném lên trên cây. Đá rơi trên cây giống như núi đao. Dạ-xoa ấy vọt thân, nhảy mạnh, các lỗ chân lông trong thân xuất ra các rồng độc. Rồng độc có bốn đầu phun ra khói lửa, rất là đáng sợ.
Tưởng này thành tưu rồi, tự thấy quả tim trong thân mình sâu như hang giếng. Trong giếng có rắn độc phun trên dưới. Có hạt châu ma-ni hiện ở trên giếng được treo trên hư không bằng mười bốn sợi tơ. Bấy giờ, các con rắn độc ngửa miệng nuốt hạt châu nhưng không thể được, bị rơi lăn dưới đất, mê muội không biết gì.
Lúc ấy, lửa từ miệng nhập vào đảnh. Hành giả nếu thấy việc này phải sám hối, xin được ăn uống tùy ý để điều hòa bốn đại, khiến hết sức yen ổn phải ngồi trong phòng kín, nơi không có tiếng chim.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di thành tựu pháp quán này gọi là pháp quán địa đại, phải cần buộc niệm, cẩn thận không buông lung. Nếu tu không buông lung, tiến bộ mau hơn nước chảy, sẽ được đảnh pháp. Tuy có biếng nhác nhưng không bị đọa vào ba đường ác nữa. Khi xả bỏ thân này, qua đời khác sẽ sinh vào cõi trời Đâu-suất, được gặp Bồ-tát Di-lặc thuyết pháp khổ, không, vô thường cho nghe, hốt nhiên ý thông tỏ, đắc quả A-nahàm.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Nay ông phải nhận kỹ pháp quán địa đại, cẩn thận đừng để quên mất, thuyết giảng rộng rãi cho tất cả chúng sinh đời vị lai.
Tôn giả A-nan nghe Phật dạy hoan hỷ phụng hành.
Đắc pháp này gọi là hoàn tất pháp quán địa đại thứ mười bốn, cũng gọi là phân biệt tướng mạo bốn đại, cũng gọi là thấy tướng thô của năm ấm. Người có trí tuệ cũng có thể tự biết kết sử của mình nhiều ít.
Trong bốn Niệm xứ gọi là Thân niệm xứ, chỉ thấy ngoài thân chưa thấy trong thân. Trong bốn phần cảnh giới của Thân niệm xứ đây là phần đầu tiên. Thành tựu pháp quán này, thân tâm an lạc ít tranh cãi.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Tưởng này thành tựu rồi, kế đó phải quán lửa ngoài thân có từ nhân duyên, có duyên thì khởi, duyên lìa thì diệt. Các lửa như vậy, không từ đâu tới, không đi về đâu, thình lình biến diệt, không dừng một chỗ. Lúc nghĩ điều này, lửa bên ngoài đều tắt, không hiện trở lại.
Hành giả phải tư duy các loại nước bên ngoài, ao, sông suối nhờ sức rồng biến hóa tạo thành, nay ta vì sao chợt thấy nước này. Các loại nước ấy không từ đâu đến, không đi về đâu. Lúc nghĩ như vậy, nước bên ngoài không hiện.
Hành giả lại phải khởi niệm gió này cùng với hư không chứa đựng tiếng gầm rống của các con rồng, nhờ vào nhân duyên nên có tưởng ấy, không ở trong, không ở ngoài cũng không ở chính giữa, do tâm điên đảo nên có cái thấy sai lầm này. Lúc nghĩ như vậy, gió bên ngoài không khởi.
Lại phải buộc niệm, tư duy về xương sườn trong thân, thấy xương trong thân trắng như ngọc kha như tuyết. Trong mỗi đốt đều hiện ba mươi sáu vật dơ xấu, bất tịnh. Hoặc thấy da trên thân giống như túi da đầy dẫy bất tịnh. Nó có vô lượng chỗ lở loét và trăm ngàn ung nhọt. Các mủ rỉ rả chảy ra không dứt ngay ở trên đầu bộ xương rất là đáng chán. Hoặc thấy ngũ tạng trong thân đều chảy vào ruột già. Ruột già phình trương, mục rã, vỡ ra, khó chịu nổi.
Bấy giờ, nhờ định lực, xuất định, nhập định, hành giả thấy tất cả thân người và mình đều do chất bất tịnh tụ tập. Thấy các người nữ thân như trùng, chó, dơ xấu, bất tịnh, tự nhiên hành giả được tưởng không tham sắc.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Lúc tưởng này thành tựu gọi là quán bốn đại bên ngoài thứ mười bốn, cũng gọi là tạm hiểu về việc học quán không.
Phật bao Tôn giả A-nan:
–Ông phải thọ trì lời ta dạy cẩn thận đừng để quên mất.
Tôn giả A-nan nghe Phật nói hoan hỷ phụng hành.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Tưởng này thành tựu rồi lại phải buộc niệm, quán kỹ địa đại trong than, các vật trong thân như xương lông, móng, tóc, ruột, dạ dày, bụng, gan, tim, phổi, các vật cứng chắc đều là địa đại, chúng do tinh khí tạo thành.
Sở dĩ biết đất bên ngoài vô thường là nhờ thí dụ về đại địa được nêu sau đây: Lúc hai mặt trời xuất hiện, đại địa cháy khô. Lúc ba mặt trời xuất hiện sông, ao, hồ đều cạn. Bốn mặt trời xuất hiện, biển lớn cạn hết hai phần ba. Năm mặt trời xuất hiện, biển lớn khô hết. Sáu mặt trời xuất hiện, đại địa bốc lửa. Bảy mặt trời xuất hiện, đại địa cháy sạch. Đất bên ngoài còn vậy, thế nó không lâu dài, huống chi đất trong thân lại chắc chắn sao?
Bấy giờ, hành giả phải tự tư duy: Nay thân này của ta, tóc là ta chăng? Móng là ta chăng? Xương là ta chăng? Ngũ tạng là ta chăng? Quán kỹ các chi tiết của thân như vậy đều không ngã. Hành giả tự quán các xương, quán kỹ từng thứ xem xương này sinh từ chỗ nào. Lúc tinh cha huyết me hòa hợp, lúc như giọt sữa, lúc như Yếtla-la, lúc như là An-phù-đà, các thời như vậy chỗ nào có xương. Phải biết xương vốn không nay có, đã có trở về không. Xương này đồng với tướng hư không. Đất bên ngoài vô thường, đất bên trong cũng vậy. Lúc tư duy như thế, xét kỹ thân mình tất cả các xương tự nhiên tan hết giống như vi trần. Lúc nhập định, quán xương chỉ thấy nơi có cốt, không thấy tướng của cốt. Lúc xuất định, thấy thân như trước không khác.
Lại phải quán lửa trong thân có từ lửa bên ngoài. Lửa bên ngoài vô thường, không có tạm dừng, nay lửa trong thân ta do đâu nóng lâu dài. Lúc quán điều này, lửa trên các xương đều tắt.
Lại phải quán nước trong thân. Nước trong thân ta có nhờ nước bên ngoài. Nước bên ngoài vô thường, thế nó không bền lâu. Nước trong thân cũng vậy, nhờ duyên mà có, vậy chỗ nào có nước là chất bất tịnh tụ họp.
Gió bên ngoài không thường, thể nó không bền lâu. Nó sinh do nhân duyên, rồi lại diệt theo duyên. Nay gió trong thân ta họp thành một cách giả tạo, gượng ép làm cơ quan, chỗ nào có gió, gió khởi từ vọng tưởng và là cái thấy điên đảo.
Lúc tư duy như vậy, không thấy gió trong thân. Gió có trong tai các con rồng đều diệt không hiện. Tư duy kỹ lưỡng đủ loại như vậy, chỗ nào có người và đất, nước, gió, lửa. Quán đất này là pháp hư hoại. Quán lửa này giống như huyễn. Quán gió này khởi lên từ điên đảo. Quán nước này hiện từ tưởng hư vọng. Lúc quán điều ấy, hành giả thấy thân giống như cây chuối, bên trong không chắc thật, hoặc tự thấy tâm như bọt trên nước, nghe các âm thanh bên ngoài giống như tiếng trong hang. Khi quán điều ấy, thấy tất cả ánh lửa trên các xương, thấy nước có ánh sáng trắng, thấy gió của các con rồng đều ở một chỗ.
Hành giả quán thân yên lặng, không biết tướng của thân, lặng tâm an ổn, lặng lẽ, an lạc.
Cảnh giới như vậy gọi là cảnh giới của bốn đại thứ mười lăm.
QUYỂN TRUNG
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Nay ông phải chí tâm thọ trì pháp quán bốn đại, chớ để quên mất và giảng rộng cho tất cả chúng sinh đời vị lai.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan nghe Phật nói, hoan hỷ phụng hành.
Lúc quán điều này, do học quán không, thân suy nhược, tâm mệt mỏi, hành giả nên dùng bơ sữa và các loại thuốc bổ. Lúc vào sâu trong thiền định, nên quán tưởng bồi bổ. Pháp quán tưởng bồi bổ là tự quán thân mình khiến từng lớp da bọc nhau giống như cây chuối, sau đó an tâm tưởng như đảnh đầu tự mở ra, lại phải khuyến khích Thích, Phạm, Hộ Thế, chư Thiên khiến đem bình vàng đựng đầy thiên dược. Thích Đề-hoàn Nhân bên trái, chư Thiên Hộ Thế bên phải, đem thiên dược rót vào đỉnh đầu tràn đầy toàn thân. Ngày đêm sáu thời hành giả thường tưởng điều này. Lúc xuất định hành giả xin các loại thuốc bổ, ăn uống thức ăn ngon thường ngồi yên ổn vui vẻ gấp bội.
Tu pháp bồi bổ thân ấy, trải qua ba tháng, sau đó lại niệm cảnh giới khác. Nhờ sức của thiền định, chư Thiên hoan hỷ, Thích Đềhoàn Nhân thuyết cho nghe pháp không, vô ngã sâu xa, khen ngợi hành giả, đảnh lễ và dâng thiên dược cho hành giả uống. Lúc xuất định dung mạo tươi vui, thân thể mịn màng như xoa dầu mỡ. Thấy việc này gọi là cảnh quán bốn đại thứ mười sáu.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Tưởng này thành tựu rồi, lại phải dạy buộc niệm trụ ý, khiến quán ngoại sắc, tất cả sắc từ đâu sinh ra. Lúc quán điều ấy, thấy năm sắc bên ngoài như ánh sáng ngũ sắc nhiễu quanh thân mình. Lúc tưởng ấy hiện tự quán lồng ngực của thân, xương ngực lần lần sáng sạch như gương pha lê, nó sáng tỏ đáng yêu. Lai thấy từng thứ sắc bên ngoài sáng như ánh mặt trời.
Lúc thành tựu quán này, bốn phương tự nhiên sinh bốn con voi đen. Voi đen rống lớn đạp các sắc diệt mất, các sắc như vậy đều diệt trên đất. Màu đen, màu vàng ở trên hư không đáng yêu hơn bình thường gấp bội. Bấy giờ, voi lớn dùng vòi quấn cây. Bốn con voi đứng bốn phía muốn nhổ cây này nhưng không thể làm cây lay động. Lại cũng có bốn con voi dùng vòi quấn cây, cũng không thể làm lay động.
Thấy việc này rồi, lúc xuất định, hành giả phải ở chỗ yên tĩnh, hoặc là ở nơi gò mả, hoặc bên gốc cây, hoặc nơi A-lan-nhã, che thân kín đáo, phải nên yên lặng xin thuốc tốt để bồi bổ thân mình. Lại phải trải qua ba tháng tu tập pháp, dùng thuốc bồi bổ thân như trên, một lòng tinh tấn như cứu lửa cháy đầu, tâm không phóng dật, không khởi tâm vi phạm đối với giới đã thọ, ngày đêm sáu thời sám hối các tội, lại tư duy thân không, ngã không, quán kỹ từng thứ một như cảnh giới trước, hết sức rõ ràng. Lúc tưởng này thành tựu, xương ngực dần dần sáng, giống như hạt thần châu, sáng suốt từ trong ra ngoài.
Rắn độc trong tim lại nhảy lên, trụ trong hư không. Trong miệng nó có lửa muốn nuốt hạt châu ma-ni, nhưng cuối cùng không nuốt được. Nó rớt xuống đất như trước tự đập vào đất, thân tâm mê man, buồn bã trông về bốn phương.
Bấy giờ, các con voi lại tranh nhau chạy đến chỗ cây. Các Dạxoa, La-sát, thú dữ, rồng độc đều phun độc đánh với voi đen. Voi đen dùng vòi quấn cây, cất tiếng rống mà kéo. Lúc voi kéo cây, các con rồng, Dạ-xoa phun độc tiến tới đánh, không dám nghỉ ngơi.
Khi đó, trên đất có một con sư tử, hai mắt sáng rực giống như kim cương, đột nhiên nhảy ra đánh với các con rồng. Các con rồng liền vọt lên trụ trong không trung. Voi cố kéo cây không ngừng nghỉ, làm đất dần dần lay động.
Lúc đất động, hành giả phải quán đất này từ không mà có chẳng phải là pháp chắc thật, đất này như thành Càn-thát-bà, như bóng nắng, nó sinh ra từ hư vọng, vì duyên gì mà lay động.
Khi nghĩ điều này trong thân mình tự nhiên xương ngực, mặt dần dần sáng sạch, hành giả thấy mọi thứ có trong thế gian đều rõ ràng. Lúc thành tựu pháp quán này, hành giả như cầm gương sáng tự soi mặt mình. Bấy giờ, hành giả thấy tất cả các hình sắc và các chất bất tịnh bên ngoài thân và cũng thấy tất cả các chất bất tịnh bên trong thân. Tưởng ấy thành tựu gọi là quán thân niệm xứ thứ mười bảy.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Ông nên thọ trì văn nghĩa của pháp quán đảnh thân niệm xứ này, cẩn thận đừng để quên mất. Ông hãy mở cửa pháp cam lồ và diễn thuyết rộng rãi cho tất cả chúng sinh đời vị lai.
Tôn giả A-nan nghe Phật dạy hoan hỷ phụng hành.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Tưởng này thành tựu rồi lại phải dạy hành giả buộc niệm tư duy quán kỹ xương mặt, tự thấy xương mặt như gương bằng ngọc trắng, trong ngoài đều trong sạch, sạch như là gương sáng.
Dần dần rộng lớn thấy xương toàn thân giống như gương pha lê, trong ngoài đều sạch. Tất cả các sắc đều hiện ơ trong, phút chốc thấy thân như người bằng ngọc trắng. Lại thấy trong lặng như lưu ly, trong ngoài đều trong, tất cả các sắc đều hiện ở trong. Lại thấy thân mình như người bằng bạc trắng, chỉ có da mỏng tồn tại. Da ấy rất mỏng mỏng hơn cả kiếp bối cõi trời, trong ngoài rực sáng.
Lại thấy thân mình như người bằng vàng ròng trong ngoài đều không. Lại thấy thân mình như người bằng kim cương.
Lúc thấy điều này, voi đen càng nhiều, dùng vòi quan cây đem hết sức lực nhưng không thể làm cây lay động. Khi ấy các con voi gầm rống, kinh động đại địa.
Đại địa lay động, có núi kim cương từ đất phương dưới vọt ra trụ ở trước hành giả. Bấy giờ, hành giả thấy bốn bên mình có núi kim cương, thấy đất trước mặt giống như kim cương. Lại thấy các con rồng tìm đến bên trên và dưới của cây phun ra ngọc kim cương. Cây rất chắc chắn, voi không thể lay động. Chỉ có nước năm sắc từ trên cây chảy ra, chảy ngược lên cành cây, từ ngọn cây chảy xuống lá cây, cho đến thân cây cũng có nước chảy.
Từ giữa núi kim cương nước phân tán từ khắp đại địa, bên dưới đất kim cương cho đến núi kim cương.
Nước năm sắc này phóng ánh sáng năm màu, hoặc lên hoặc xuống thay đổi không thường.
Bấy giờ, voi đen ra từ núi kim cương muốn nuốt nước ấy. Các con rồng phun độc đánh với voi lớn. Khi ấy các con rắn chui vào tai rồng, hợp sức với rồng chiến đấu với voi đen. Voi đen dùng hết sức ghì kéo, cũng không hề gì.
Thấy việc này rồi, ánh sáng của các loại nước đều phát ra âm nhạc, hoặc có biến hóa giống như Thiên nữ, ca ngâm múa hát rất là đáng ưa. Người nữ này đẹp đẽ, cõi trời cõi người không ai so sánh được. Âm nhạc của nàng ấy tạo ra cùng với âm thanh vi diệu, trên trời Đao-lợi cũng không sánh được. Hóa nữ như vậy làm các tài nghệ số đến ức ngàn vạn không thể nói hết.
Lúc thấy việc này, hành giả cẩn thận đừng bám víu theo, cần phải buộc tâm, niệm sự bất tịnh trước đây. Khi xuất định phải đến gặp người trí hỏi về nghĩa không sâu xa. Người trí phải thuyết pháp không, vô ngã cho hành giả.
Bấy giờ, hành giả lại phải buộc niệm như trước, tự quán xương thân, tự thấy xương ngực, sáng sạch đáng ưa, tất cả bất tịnh đều hiện ở trong.
Thấy việc ấy rồi, hành giả lại phải tư duy: Như ta ngày nay tóc là ta chăng? Móng là ta chăng? Xương là ta chăng? Răng là ta chăng? Sắc là ta chăng? Thức là ta chăng? Hành giả quán kỹ từng thứ: Vô minh là ta chăng? Hành là ta chăng? Thức là ta chăng? Danh sắc là ta chăng? Lục nhập là ta chăng? Xúc là ta chăng? Thọ là ta chăng? Ái là ta chăng? Thủ là ta chăng? Hữu là ta chăng? Sinh là ta chăng? Lão là ta chăng? Hoặc Tử là ta chăng? Lúc thân tan rã, các trùng mổ ăn ta là chỗ nào?
Nếu sinh là ta niệm niệm không dừng, ở trong sinh không có tưởng thường trụ nên biết sinh này chẳng phải là ta.
Nếu đầu là ta, tám mảnh xương đầu, phân tách đều khác nhau, trong não sinh trùng, quán trong đầu này thật là vô ngã.
Nếu mắt là ta trong mắt không thật, nó do đất và nước họp lại, mượn lửa làm sự sáng, nhờ gió mà chuyển động. Lúc mắt bị tan rã, chim quạ, chim khách đều đến ăn, các trùng gây lở loét cùng nhau mổ ăn, hãy quán kỹ mat ấy.
Nếu tim là ta, tim chuyển động nhờ sức gió không lúc nào dừng nghỉ, lại có sáu con rồng họp ở trong tim này, có vô lượng chất độc, tim là nguồn gốc, loại bỏ chất độc ấy. Tim cùng với tâm tánh đều từ không mà có, vọng tưởng gọi là ngã.
Các pháp như vậy, đất, nước, gió, lửa; sắc, hương, vị, xúc, và mười hai duyên chọn kỹ từng thứ một chỗ nào có ta. Quán thân vô ngã vì sao có ngã sở.
Ngã sở là: Sắc xanh là ngã, sắc vàng là ngã, sắc đỏ là ngã, sắc trắng là ngã, sắc đen là ngã. Năm sắc này có từ chỗ yêu thích, sinh theo chỗ dính mắc, ô nhiễm do tham cầu, sinh từ sông lão tử, khởi theo giặc ái ân, hiện theo nhận thức ngu si. Các sắc như vậy thật chẳng phải là ta. Mê hoặc chấp chặt vào chúng sinh, sai lầm nói đó là ngã. Thấy sai lầm về chúng sinh gọi đó là ngã sở. Tất cả như huyễn, chỗ nào có ngã, ở trong pháp huyễn sao có ngã.
Tư duy điều này, hành giả tự thấy xương thân sáng sạch đáng yêu, tất cả những việc muốn thấy trong thế gian đều hiện ở trong. Lại thấy thân mình như người bằng lưu ly, trong ngoài đều không, như người đội tràng phan bằng lưu ly, ngước nhìn trên không trung thấy hết tất cả.
Bấy giờ, đối với trong thân và ngoài thân mình, nhờ quán không, học pháp vô ngã, hành giả tự thấy chân của mình giống như ống lưu ly, cũng thấy phương dưới và các việc mình mong thấy ở tất cả thế gian.
Khi tưởng này thanh tựu, đất trước mặt hành giả sáng sạch đáng yêu như bằng lưu ly, rất là sáng suốt. Người trì giới đầy đủ thấy đất sáng sạch như cung điện của Phạm vương.
Người không đủ oai nghi tuy thấy đất sạch nhưng chỉ giống như thủy tinh.
Tưởng ấy thành tựu, có vô lượng trăm ngàn vô số Dạ-xoa, Lasát đều hiện ra từ đất, tay cầm sừng dê trắng mai rùa và đá trắng đập núi kim cương.
Khi ấy trên núi có năm quỷ thần, ngàn đầu, ngàn tay, tay cầm ngan kiếm đánh với La-sát. Rắn độc đều phun độc vây quanh núi này. Lại có các thiếu nữ ca vịnh cầu khẩn, làm các điệu bộ hỗ trợ núi này. Nếu thấy việc ấy hành giả phải nhất tâm quán sát. Lúc các thiếu nữ này hiện phải quán các thiếu nữ này giống các chiếc bình bên ngoài đẹp đẽ nhưng bên trong đựng đầy đồ hôi hám bất tịnh. Chúng sinh ra từ hư vọng, không từ đâu đến, không đi về đâu, do tội duyên nghiệp ác đời trước mà ta thấy các thiếu nữ có tướng mạo như vậy. Các thiếu nữ này là vọng tưởng của ta trong vô số đời, duyên theo nhân tham ái, thấy từ hư vọng, phải nên chí tâm quán pháp vô ngã. Thân ta vô ngã, thân người cũng vậy. Nay chỗ thấy thuộc các nhân duyên, ta không mong cầu. Ta quán thấy thân này vô thường tan rã, cùng không ngã sở, chỗ nào có người cùng với chúng sinh. Tư duy điều này rồi hành giả nhất tâm quán kỹ pháp không vô ngã.
Lúc quán vô nga ở ranh giới vùng đất kim cương, tại phương trên có bốn quỷ thần lớn tự nhiên đến gánh núi kim cương. Các Dạxoa, La-sát cũng đến giúp quỷ này phá núi kim cương. Khi ấy, núi kim cương từ từ bị phá hủy, trải qua nhiều thời gian, dần dần hết sạch chỉ còn đất kim cương.
Bấy giờ, các con voi và các quỷ ác họp sức kéo cây, cây kiên cố khó lay động. Thấy việc này rồi, hành giả lại hoan hỷ, sám hối các tội. Sám hối tội rồi hành giả buộc niệm như trước quán người lưu ly. Trên đất lưu ly sinh bốn hoa sen ở bốn bên. Hoa này màu vàng cũng có ngàn cánh, đài bằng kim cương, có một tượng vàng ngồi kiết già, thân tướng đầy đủ, ánh sáng tròn đầy.
Ở phương Đông, Nam, Tây, Bắc cũng lại như vậy. Lại tự thấy thân lưu ly càng thêm sáng sạch, trong ngoài thông suốt không có các chướng ngại. Các vị hóa Phật đầy khắp trong thân ngoài thân. Các vị hóa Phật đều phóng ánh sáng. Ánh sáng ấy vi diệu như ức ngàn mặt trời, rực rỡ xinh đẹp đầy khắp tất cả tam thiên đại thiên thế giới trong đó có đầy hóa Phật. Mỗi hóa Phật có ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp. Mỗi một tướng tốt đều phóng ngàn ánh sáng. Ánh sáng ấy rất sáng giống như trăm ngàn mặt trời, mặt trăng hòa hợp. Trong mỗi ánh sáng có vô số Phật như vậy dần dần lan rộng ra đếm không thể hết.
Nơi mỗi ngọn lửa lại có gấp bội vô số hóa Phật. Các hóa Phật đó xoay tròn nhập vào trong thân người bằng lưu ly. Bấy giờ, hành giả tự thấy thân mình như núi bảy báu, cao rõ khả quan lại rất uy nghiêm, như núi Tu-di bằng đủ loại bảo vật. Ánh sáng của núi phản chiếu rõ ràng trên đất kim cương.
Khi ấy, đất kim cương lại càng sáng rõ giống như hạt châu mani màu tím và xanh biếc của trời Diêm-ma. Thân lại càng sáng sạch như vô số ánh sáng chư Phật hóa thành đài báu cũng nhập vào đỉnh đầu người bằng lưu ly.
Lại thấy đất trước mặt ở núi Thiết vi, bên trong có đầy các Đức Phật đang ngồi kiết già trên đài sen, ở trên đất và hư không, ở khoảng giữa cũng không thiếu. Mỗi vị hóa Phật thân đầy khắp thế giới. Các vị hóa Phật ấy không có ngăn ngại nhau. Lại thấy các núi Thiết vi sạch như lưu ly, không có tư tưởng chướng ngại. Hành giả thấy cõi Diêm-phù-đề, núi sông, đá vách, cây cối, gai góc tất cả đều là các vị hóa Phật vi diệu. Tâm dần dần rộng lớn thấy tam thiên đại thiên thế giới, hư không và đất tất cả đều là hình Phật vi diệu.
Khi ấy, hành giả chỉ quán vô ngã, cẩn thận chớ khởi tâm đuổi theo các hình tượng Phật, lại phải tư duy: Tôi nghe Phật nói chư Phật Như Lai có hai thân, một là Sinh thân, hai là Pháp thân. Nay Phật mà ta thấy đã không phải là Pháp thân, lại chẳng phải là Sinh thân, là cái thấy tưởng tượng giả dối, khởi lên từ hư vọng. Chư Phật không đến, ta cũg không đi. Vì sao chỗ này bỗng sinh hình tượng Phật?
Nói lời ấy, hành giả chỉ phải tự quán thân mình vô ngã, cẩn thận đừng đuổi theo các hình tượng hóa Phật. Lại phải quán kỹ nay thân này là của ta, lúc trước bất tịnh, chín lỗ mủ chảy, gân liên kết, máu lấp đầy, sinh tạng thục tạng, đại tiện tiểu tiện, tám vạn hộ trùng. Mỗi mỗi trùng lại có tám mươi ức trùng nhỏ làm quyến thuộc. Thân như vậy có gì là sạch. Tư duy như vậy, tự thấy thân mình giống như cái túi da. Xuất định cũng thấy trong thân không có xương, da của thân giống như cái túi, quán thân người khác cũng như cái túi da.
Thấy điều này, hành giả phải đến gặp người trí học hỏi các pháp khổ. Nghe pháp khổ rồi, quán kỹ thân này thuộc các nhân duyên phải có khổ do sinh. Đã thọ sinh rồi, sầu bi khổ não, ân ái xa lìa, oán ghét gặp nhau, các khổ như vậy là pháp khổ của thế gian. Nay thân này của ta không bao lâu sẽ bại hoại, ở trong lưới khổ, thuộc giống sinh tử, các giặc gió đao, đi theo thân ta, địa ngục A-tỳ lửa dữ cháy mạnh sẽ thiêu đốt ta. Ta phải trải qua nhận các hình thể xấu ác như lạc đà, lừa, heo, chó tất cả súc sinh và các cầm thú.
Các khổ như vậy gọi là khổ bên ngoài. Nay trong thân ta tự có bốn con rồng độc và vô số rắn độc. Mỗi con rắn có chín mươi chín đầu. La-sát, quỷ ác, Cưu-bàn-trà và các ác quỷ… tap hợp ở tim ta. Thân tâm như vậy hết sức bất tịnh, là đống xấu ác, hạt giống của ba cõi nảy mầm không dứt. Vì sao ta nay ở trong bất tịnh mà sinh tưởng tịnh, đối với vật hư vọng lại cho là kim cương, ở chỗ không có Phật lại tưởng ra hình tượng Phật. Tánh tướng các hành ở tất cả thế gian đều vô thường không lâu thì diệt hết. Như thân này của ta trong khoảnh khảy móng tay cũng sẽ bị bại hoại. Dùng tưởng hư vọng này đối với bất tịnh, thấy là tịnh một cách giả dối hư ngụy.
Tư duy điều ấy, tự thấy thân mình sạch như lưu ly. Các tướng túi da tự nhiên biến mất, quán thân và ngã trọn không thể được, chỉ thấy bốn phương có các con voi đen giẫm đạp đất trước mat. Tất cả kim cương ở trước mắt đều bị bể nát. Hành giả thấy rễ cây dưới đất cho đến phương dưới, rễ cây rất nhiều không thể đếm hết.
Bấy giờ, voi đen dùng vòi quấn cây như trước, vô lượng các con rồng và Dạ-xoa đánh nhau với voi đen. Voi dữ ghì đạp, các quỷ thần buồn bực lăn lộn dưới đất. Ở trong hư không có các quỷ thần số ấy rất nhiều, tay cầm đao luôn trợ giúp voi đen muốn nhổ cây này.
Nhiều thời gian như vậy một số gốc cây động. Lúc cây này động hành giả tự thấy đất dưới giường tự nhiên chấn động. Ngày ngày như vậy suốt chín mươi ngày. Như vậy hành giả nên xin các thức ăn ngon và các loại thuốc bổ để bồi bổ thân thể. Hành giả, ngồi ngay ngắn yên ổn như pháp trước, thấy cảnh như trước, từ cảnh giới ban đầu, quán kỹ từng thứ một, quán đi quán lại trải qua mười sáu lần hết sức sáng sạch.
Đã sáng sạch rồi lại buộc niệm trở lại, quán thân khổ, không, vô thường, vô ngã tất cả đều không.
Nghĩ như vậy, hành giả quán thân không thấy thân, quán ngã không thấy ngã, quán tâm không thấy tâm.
Khi ấy, bỗng nhiên hành giả thấy đại địa này cùng với núi sông, đá, vách tất cả đều không. Lúc xuất định như người tỉnh rượu hành giả phải chí tâm tu pháp sám hối, lễ bái nằm rạp trên đất, buông bỏ pháp quán này. Lúc lễ bái chưa cất đầu dậy, tự nhiên thấy ảnh chân thật của Như Lai dùng tay xoa đầu khen là Pháp tử:
–Lành thay! Lành thay! Ông nay khéo quán pháp không của chư Phật.
Do thấy hình Phật, tâm rất hoan hỷ tỉnh ngộ trở lại. Bấy giờ Tôn giả Ma-ha Tân-đầu-lô cùng năm trăm A-la-hán bay đến trước hành giả giảng rộng pháp không sâu xa cho hành giả nghe.
Do thấy năm trăm Tỳ-kheo Thanh văn, tâm rất hoan hỷ hành giả đảnh lễ sám hối, lại thấy ảnh Tôn giả Xá-lợi-phất, Ma-ha Mụckiền-liên-dạ-na và một hai năm mươi Thanh văn. Bấy giờ thấy ảnh Phật Thích-ca Mâu-ni. Thấy ảnh Phật Thích-ca Mâu-ni rồi lại được thấy anh sáu vị Phật thời quá khứ. Lúc này ảnh các vị Phật sáng tỏ khả quan như gương pha lê. Mỗi vị đều giơ tay phải xoa đảnh hành giả.
Chư Phật Như Lai tự nói danh hiệu. Vị Phật thứ nhất nói ta là Tỳ-bà-thi. Vị thứ hai nói ta là Thi-khí. Vị thứ ba nói ta là Tỳ-xá. Vị thứ tư nói ta là Câu-lưu-tôn. Vị thứ năm nói ta là Ca-na-hàm Mâu-ni. Vị thứ sáu nói ta là Ca-diếp-tỳ. Vị thứ bảy nói ta là Phật Thích-ca Mâu-ni, là Hòa thượng của ông. Ông quán pháp không, ta đến chứng minh cho ông. Sáu vị Phật Thế Tôn hiện ra trước mặt để chứng minh cho hiểu biết của hành giả.
Lúc Phật nói lời ấy, thấy sắc thân Phật hết sức rõ ràng, cũng thấy sáu Phật hết sức rõ ràng. Bấy giờ bảy Đức Phật đều có ánh sáng phóng ra từ tướng bạch hào của bậc Đại nhân giữa hai chân mày. Ánh sáng rực rỡ chiếu thế giới và thân lưu ly đều sáng rõ.
Chư Phật hiện tướng này, các lỗ chân lông trong thân đều phóng ánh sáng lớn. Vô số chư Phật đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới. Đất và hư không đều có màu hoàng kim. Các vị Thế Tôn ấy có vị bay, có vị hiện mười tám pháp biến hóa, có vị đi kinh hành, có vị an trú trong thiền định, có vị ngồi im lặng, có vị phóng ánh sáng lớn, chỉ có Bậc Đại Hòa Thượng Thích-ca Mâu-ni thuyết bốn Chân đế, phân biệt nghĩa không của các pháp khổ, không, vô thường, vô ngã cho hành giả.
Sáu vị Phật quá khứ cũng phân biệt mười hai nhân duyên, hoặc lại giảng rộng ba mươi bảy phẩm trợ đạo, khen ngợi Thánh hạnh.
Bấy giờ, hành giả thấy Phật nghe pháp, tâm sinh hoan hỷ nên tự tư duy chư Phật Thế Tôn có hai loại thân. Nay Phật mà ta thấy là sắc thân Phật chứ không phải năm phần Pháp thân giải thoát tri kiến của Như Lai.
Tư duy như vậy, lại phải sám hối siêng năng không giải đãi, ngày đêm sáu thời thường tu Tam-muội. Hành giả phải nghĩ rằng sắc thân này như huyễn, như mộng như bóng nắng, như quay bánh xe lửa, như thành Càn-thát-bà, như âm vang của tiếng kêu cho nên Phật dạy: “Tất cả pháp hữu vi như mộng huyễn ảo ảnh, như sương cũng như chớp. Các pháp như thế ta phai quán kỹ từng thứ hết sức rõ ràng.”
Quán điều ấy nếu có một số ít hóa Phật tồn tại, hành giả lại phải quán không. Do quán không, hóa Phật liền diệt chỉ còn lại bảy vị.
Bấy giờ bảy vị Phật cùng đại chúng Thanh van quyến thuộc giảng rộng ba mươi bảy pháp phẩm trợ Thánh đạo cho hành giả nghe. Nghe pháp này rồi thân tâm hoan hỷ, hành giả lại quán kỹ về pháp vô thường, khổ, không, vô ngã.
Lúc quán điều này, voi dữ rống lên, kéo cây lay động. Lúc cây mới động, thấy đất trong một phòng chấn động sáu cách. Lại có Dạxoa đâm chết voi đen. Rất nhiều voi đen nằm chết trên đất, không lâu thì rã nát. Mủ trắng, mủ đen, mủ xanh, mủ vàng, mủ xanh lục, mủ tím, mủ đỏ máu đỏ chảy ra làm bẩn đất. Lại có các con bọ hung đến tập hợp ở trên đó. Lại có các con trùng trong mắt phát ra lửa thiêu đốt chết bọ hung.
Bấy giờ, ngoài biên của đất kim cương ở phương dưới có năm banh xe kim cương và năm người bằng kim cương ở giữa bánh xe, tay phải cầm kiếm kim cương, tay trái cầm chày kim cương. Họ dùng chày đập đất, dùng kiếm chặt cây.
Thấy rõ việc ấy, đại địa dần dần lay động, thấy đất trong thành chấn động sáu cách. Thấy một thành rồi lại thấy hai thành, dần dần rộng lớn thấy một do-tuần. Thấy một do-tuần rồi lại thấy rộng lớn khắp tam thiên đại thiên thế giới, tất cả đất đều lay động. Lúc đất động phía Đông cao vọt lên, phía Tây sụt xuống. Phía Tây cao vọt lên, phía Đông sụt xuống. Phía Nam nhô lên, phía Bắc chìm xuống. Phía Bắc nhô lên, phía Nam chìm xuống. Chính giữa nhô lên, xung quanh chìm xuống. Xung quanh nhô lên, chính giữa chìm xuống.
Khi đất ấy lay động, thấy rễ cây đại thọ cho đến ngoài biên kim cương.
Lúc này, người kim cương dùng đao chặt rễ cây khiến rễ cây đứt. Rễ cây đứt, các con rồng, con rắn đều phun lửa theo cây mà leo lên. Bấy giờ lại có rất nhiều La-sát chất củi trên cây. Người bằng kim cương dùng chày kim cương chặt cành cây gãy. Lúc đập cây này phải đập từ một chày cho đến tám vạn bốn ngàn chày, cành cây mới gãy.
Bấy giờ, đầu chày tự nhiên phát lửa thiêu đốt hết cây này. Chỉ có ruột của cây như chày kim cương, từ đỉnh của tam giới xuống đến bờ cõi kim cương không thể lay động.
Hành giả đắc pháp quán ấy, xuất định được an lạc, xuất định nhập định tâm thường an tĩnh, vắng lặng không có tưởng buồn vui, lại siêng năng tinh tấn ngày đêm không nghỉ. Do tinh tấn nên Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni cùng với sáu Phật quá khứ hiện ra trước mặt, giảng cho hành giả nghe pháp Tam-muội Không, Tam-muội Vô nguyện và Tam-muội Vô tác.
Nghe xong, hoan hỷ theo lời Phật dạy, hành giả quán kỹ pháp không như dòng nước lớn chảy, không bao lâu đắc đạo A-la-hán.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Pháp quán tưởng bất tịnh này là đại cam lồ, diệt sự tham dục, hay trừ tâm bệnh kết sử của chúng sinh. Ông khéo thọ trì cẩn thận đừng để quên mất. Nếu sau khi Phật diệt độ Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nghe Thánh pháp cam lồ quán đảnh này, có thể thâu giữ các căn, chí tâm buộc niệm, quán kỹ thân phần, tâm không phân tán, gom tâm khiến an trụ, trải qua thời gian ngắn, người này qua đời, được sinh lên trời. Nếu lại có người theo lời Phật dạy, buộc niệm quan kỹ một móng một ngón khiến tâm an trụ, phải biết người này trọn không đọa lạc vào ba đường ác.
Nếu lại có người buộc niệm quán kỹ, thấy xương trắng toàn thân. Lúc người này qua đời, sinh lên trời Đâu-suất, gặp Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ hiệu là Di-lặc, gặp vị Thiên này rồi, theo đó thọ lạc. Khi Di-lặc thành Phật được nghe pháp này lần đầu tiên, người đó liền đắc quả A-la-hán, ba Minh, sáu Thông, đủ tám Giải thoát.
Nếu lại có người, quán bất tịnh này được đầy đủ sẽ thấy ảnh chân thật của Phật ở trên thân mình, nghe Phật thuyết pháp được hết các khổ.
Bấy giờ Tôn giả A-nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh y phục đảnh lễ Phật, chắp tay quỳ xuống bạch Phật:
–Kính thưa Thế Tôn! Làm sao thọ trì điều cốt yếu của pháp này, đặt tên pháp này là gì?
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Đây gọi là pháp quán thân bất tịnh và các chất ô uế, cũng gọi là pháp quán về vô ngã, không, để phá ngã. Ông phải khéo thọ trì, phân biệt giảng nói rộng rãi cho chúng sinh khổ trược, nhiều tham dâm ở đời vị lai.
Phật nói lời này, Thích, Phạm, Hộ Thế và vô số Thiên tử mang hoa thiên Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha mạn-thù-sa, rải trên Phật và đại chúng, rồi đảnh lễ, tán thán Phật:
–Như Lai ra đời rất là hiếm có, có thể hàng phục được tà kiến kiêu mạn của Ca-hy-la-nan-đà, cũng thuyết pháp thuốc cam lồ cho chúng sinh đời vị lai trừ tham dâm, tăng trưởng hạt giống cõi trời, làm cho Tam bảo không bị gián đoạn. Lành thay Đức Thế Tôn thích nói pháp này! Long thần, Dạ-xoa, Càn-thát-bà cũng cùng với chư Thiên tán thán Phật. Tôn giả A-nan, Tỳ-kheo Ca-hy-la-nan-đà và ngàn Tỳ-kheo, vô lượng chư Thiên, tám bộ chúng nghe lời Phật dạy hoan hỷ phụng hành, lễ Phật rồi lui ra.
Đắc quán ấy, gọi là mười sắc bất tịnh, cũng gọi là Tam-muội phân biệt cảnh giới các trùng, là cửa bất tịnh đầu tiên, có mười tám phương pháp, tánh các cảnh giới không thể nói đủ. Lúc nhập Tammuội, tự nhiên sẽ hoàn tất pháp quán thứ mười tám ấy.
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật trụ ở vườn Kỳ thọ Cấp cô độc thuộc nước Xávệ. Khi ấy Thế Tôn cùng với một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo hội đủ. Lúc ấy, trong hội chúng có một Tỳ-kheo tên là Thiền-nanđề, thông đạt thiền định sâu xa đã lâu, thành A-la-hán, ba Minh, sáu Thông và tám Giải thoát đều đầy đủ. Vị ấy liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y áo, chắp tay quỳ xuống, bạch Phật:
–Ngày nay Như Lai hiện ở thế gian, lợi lạc cho tất cả. Sau khi Phật diệt độ, Phật không còn tại thế, trong bốn bộ chúng người có nghiệp chướng, lúc buộc niệm, cảnh giới không hiện ở trước mặt. Phiền não như vậy và tất cả tội từ Đột-kiết-la cho đến trọng tội, người muốn sám hối phải làm sao để trừ các tướng tội đó?
Nếu lại có người, sát sinh, tà kiến muốn tu chánh niệm làm sao diệt được chướng ngại của tà kiến, sát sinh, phiền não ác.
Nói lời này rồi, như núi Thái sơn sụp đổ, năm vóc sát đất đảnh lễ Đức Phật và thưa:
–Bạch Thế Tôn! Xin hãy vì con giảng nói khiến cho tất cả chúng sinh đời vị lai thường được chánh niệm, không lìa Hiền thánh.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn giống như từ phụ vỗ về con mình, bảo vị ấy:
–Lành thay, lành thay! Thiện nam, ông hành tâm Từ cùng tương ưng với Từ, nay đầy đủ đại Bi, thành tựu căn vô lậu, lực, giác, đạo. Nay ông hỏi pháp trừ tội cho tất cả chúng sinh ở đời vị lai, hãy lắng nghe và ghi nhớ kỹ.
Khi ấy, Đức Thế Tôn phóng ánh sáng từ đỉnh đầu, sắc vàng
của ánh sáng này có năm trăm hóa Phật, nhiễu quanh Phật bảy vòng, chiếu sáng vàng rực khắp rừng Kỳ-đà, hiện tướng này rồi nhập vào đảnh Phật.
Lúc này, Đức Thế Tôn dạy Thiền-nan-đề và A-nan:
–Ông phải dạy chúng sinh nhiều tội lỗi, nghiệp chướng ở đời vị lai để diệt trừ tội phải niệm Phật. Nhờ niệm Phật sẽ trừ được nghiệp chướng, báo chướng, phiền não chướng.
Người niệm Phật trước hết phải ngồi ngay ngắn, xếp hai tay, nhắm mắt, cong đầu lưỡi lên vòm hầu, nhất tâm cột niệm, chuyên chú khiến không phân tán. Tâm đã định rồi trước phải quán tượng. Người quán tượng phải khởi tưởng niệm quán ở khoảng đất trước mặt hết sức trắng sạch, tưởng nó rộng khoảng hai trượng vuông, rồi khiến nó sáng sạch thêm giống như gương sáng. Thấy khoảng đất trước mặt rồi, thấy đất bên trái cũng khiến cho sáng sạch, thấy đất bên phải cũng khiến cho sáng sạch, và thấy đất phía sau cũng khiến cho sáng sạch. Hành giả khiến cho đất ở bốn phương bằng phẳng như lòng bàn tay. Mỗi phương đều tưởng đất rộng hai trượng khiến cho hết sức sáng sạch.
Đất đã sáng rồi lại nhiếp tâm quán, tưởng một hoa sen ở khoảnh đất phía trước. Hoa ấy có ngàn cánh được trang trí bằng bảy báu. Lại phải tưởng tượng vàng cao một trượng sáu, khiến tượng này ngồi kiết già trên hoa sen. Thấy tượng này rồi phải quán kỹ nhục kế trên đảnh, thấy nhục kế trên đảnh có tóc màu xanh biếc, mỗi sợi tóc kéo ra dài một trượng ba. Lúc buông trở lại tóc mềm mại xoay về bên phải. Có ánh sáng lưu ly trụ trên đảnh Phật, mỗi lỗ chân lông chỉ mọc một sợi lông. Hành giả quán tám vạn bốn ngàn lông đều hết sức rõ ràng. Thấy việc ấy rồi, kế quán mặt của tượng, mặt tượng tròn đầy như mặt trăng rằm. Oai quang càng rõ rệt phân chia rõ ràng. Lại quán trán rộng bằng phẳng. Chính giữa chân may có tướng bạch hào trắng như ngọc kha, như tuyết, hoặc có hạt châu bằng pha lê, mềm mại xoay sang bên phải.
Lại quán lỗ mũi của tượng giống như cái thoi đúc bằng vàng hoặc như mỏ con chim ưng. Ngay trên mặt lại quán miệng của tượng, môi có màu đỏ rất đẹp như trái Tần-bà-la. Kế đó quán răng tượng có đủ bốn mươi cái răng vuông, trắng, bằng phẳng, trên răng có ánh sáng phát ra trắng như trân châu. Màu hồng ở giữa răng phát ra ánh sang hồng. Kế đó quán cổ của tượng giống như ống lưu ly phát ra sắc vàng một cách rõ ràng. Kế đó quán chữ vạn đầy đủ công đức ở ngực tượng, các nét in trong đó hết sức rõ ràng, từng nét phát ra ánh sáng đầy đủ năm sắc.
Kế đó quán cánh tay của tượng như vòi con voi chúa, mềm mại đáng yêu. Rồi quán mười ngón tay so le theo đúng vị trí hai tay nắm nhau. Trên tay sinh màu sắc như ánh sáng lưu ly. Lông đều hướng lên trên, móng như đồng đỏ, trên móng màu vàng. Trong móng màu hồng như núi đồng đỏ hòa hợp với vàng ròng.
Tiếp theo là quán màng lưới trong lòng bàn tay giống như lưới bằng trân châu, nắm lại thì không hiện. Quán tay của tượng rồi, quán thân tượng đang ngồi ngay ngắn yên ổn giống như núi vàng ròng, không ngã ngã lui, ngồi ngay thẳng. Lại quán cẳng chân của tượng giống đùi con nai chúa, tròn đầy, thon, thẳng. Kế đó quán mu bàn chân bằng phẳng, đầy đặn và êm mịn, dưới chân có hoa sen đầy đủ ngàn căm xe. Trên chân có lông màu xanh biếc như lưu ly, lông đều hướng lên trên. Ngón chân ngay ngắn từng ngón tiếp nhau, móng màu đồng đỏ. Ở đầu ngón chân cũng có hình bánh xe ngàn căm. Màng lưới giữa ngón chân giống như lụa mịn, giống như chân nhạn chúa.
Các việc như vậy cùng với ánh sáng của thân, ánh sáng chân thật, ánh sáng đảnh, ánh sáng có hóa Phật, chư Thiên, Tỳ-kheo và cùng các hóa Bồ-tát. Những hóa thân này như bánh xe lửa xoay tròn chạy theo ánh sáng.
Như vậy, nghịch quán là quán từ chân quán ngược lên trên cho đến nhục kế nơi đỉnh đầu. Thuận quán là quán từ đinh xuống chân. Quán tượng như vậy khiến tâm rõ ràng, chuyên chú thấy một tượng Phật. Thấy một tượng Phật rồi lại phải quán thấy hai tượng. Lúc thấy hai tượng khiến thân tượng Phật thành lưu ly, phát ra ánh sáng khác màu, từng ngọn lửa lần lượt như thiêu núi vàng, hóa tượng nhiều vô số. Thấy hai tượng rồi lại thấy ba tượng. Thấy ba tượng rồi lại thấy bốn tượng. Thấy bốn tượng rồi lại thấy năm tượng. Thấy năm tượng rồi lại thấy mười tượng. Thấy mười tượng rồi tâm trở nên bén nhạy. Thấy cõi Diêm-phù-đề và khắp trong bốn biển. Phàm phu tâm hẹp không được khiến cho rộng. Nếu người rộng lớn, thâu tâm khiến trở lại nội trong bốn biển, lấy núi Thiết vi làm giới hạn.
Hành giả thấy trong bien này đầy tượng Phật, ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp đều khiến rõ ràng. Mỗi một tướng tốt có vô số ánh sáng. Nếu ở các ánh sáng nhơ bẩn bất tịnh, từ tội báo mà có hành giả lại phải dùng hương thơm rải trên đất làm thơm sạch. Hết sức khiêm nhường tu các pháp sám hối. Lại phải an tâm chánh niệm một chỗ, quán tượng như trước không duyên các việc khác, quán kỹ giữa lông mày của tượng. Quán giữa lông mày của tượng rồi kế đó lần lượt quán các tượng còn lại. Mỗi một tướng tốt đều khiến cho rõ ràng. Nếu không rõ ràng phải sám hối, làm các việc khổ nhọc sau đó nhiếp tâm quán tượng như trước, thấy các tượng Phật, sắc thân trang nghiêm, ba mươi hai tướng tốt đều được đầy đủ, đều ngồi trên hoa đầy khắp trong bốn biển.
Thấy tượng ngồi rồi lại phải tác niệm, Thế Tôn khi còn tại thế, mang bát cầm tích trượng, vào làng khất thực, giáo hóa nơi nơi, dùng phước độ chúng sinh. Nay ta vốn tội gì mà chỉ thấy tượng ngồi mà không thấy tượng đi. Nghĩ như vậy rồi lại sám hối. Đã sám hối rồi lại thâu giữ tâm như trước, buộc niệm quán tượng. Lúc quán tượng thấy tượng ngồi đều đứng dậy, thân cao lớn một trượng sáu, ngay thẳng không nghiêng ngã, ánh sáng của thân đều đầy đủ. Thấy tượng đứng rồi lại thấy tượng đi, ôm bát cầm gậy, oai nghi đĩnh đạt, chư Thiên đại chúng cũng đều vây quanh. Lại có cac tượng bay trên hư không phóng ánh sáng màu vàng đầy trong hư không giống như đám mây vàng lại giống như núi vàng. Tướng hảo không gì sánh bằng.
Lại thấy các tượng ở trong hư không hiện mười tám pháp biến hóa, trên than ra nước, dưới thân ra lửa hoặc hiện thành thân lớn ở đầy khắp hư không, lớn lại hiện nhỏ như hạt cải, đi trên đất như đi trên nước, đi trên nước như đi trên đất, ở trong hư không vọt lên phía Đông lặn mất ở phía Tây, vọt lên phía Tây lặn mất phía Đông, vọt lên phía Nam lặn xuống phía Bắc, vọt lên phía Bắc lặn xuống phía Nam, vọt lên ở giữa lặn xuống xung quanh; vọt ở xung quanh lặn xuống ở giữa, vọt lên ở trên lặn xuống ở dưới; vọt lên ở dưới lặn xuống ở trên, đi đứng nằm ngồi tự tại theo ý muốn.
Thấy việc này rồi, hành giả lại phải nghĩ: “Thế Tôn còn tại thế dạy các Tỳ-kheo, nằm nghiêng bên hông phải, ta nay cũng quán các tượng nằm, thấy các tượng xếp Tăng-già-lê, nằm gối vào khuỷu tay phải và nghiêng về hông phải. Dưới hông tự nhiên sinh ra cái giường màu vàng, chiên-đàn màu vàng, các loại tạp sắc, các hoa sen vi diệu làm tấm trải giường. Phía trên có cờ phướn báu phủ lên các anh lạc. Phật phóng ánh sáng lớn đầy trong tràng phan báu giống như hoa sen vàng, hoặc giống trăng sao. Vô lượng ánh sáng giống như đám mây tròn, sáng tỏ ở trên không, trong có hóa Phật đầy khap hư không.”
Thấy các tượng nằm rồi lại phải nghĩ: “Trong quá khứ có Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni chỉ có một thân giáo hóa chúng sinh, trụ tại đời bốn mươi chín năm rồi nhập đại Niết-bàn giống như củi hết lửa tắt, vĩnh viễn nhập vào Vô dư Niết-bàn. Ta nay dùng tâm tưởng tượng, do tưởng nên thấy nhiều Phật. Nhiều Phật này không từ đâu đến không đi về đâu, từ tâm tưởng mà ta vọng thấy điều này.
Lúc tưởng điều ấy, các tượng dần dần tiêu diệt hết chỉ thấy một tượng ngồi một mình trong đài hoa, tượng này ngồi kiết già. Quán kỹ tượng này thấy ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp đều rõ ràng.
Thấy tượng này, gọi là pháp Quán tượng. Phật bảo Tôn giả Thiền-nan-đề và A-nan:
–Sau khi Phật diệt nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưubà-di nào muốn sám hối, muốn diệt tội, tuy Phật không còn tại thế nhưng buộc niệm quán kỹ hình tượng thì các nghiệp ác, tội lỗi thì chóng được thanh tịnh.
Quán tượng ấy rồi, lại phải quán từ trong rốn tượng phóng ra một ánh sáng. Ánh sáng đó màu vàng chia làm năm luồng. Một luồng chiếu bên trái, một luồng chiếu bên phải, một luồng chiếu phía trước, một luồng chiếu sau lưng và một luồng chiếu bên trên.
Năm luồng ánh sáng như vậy, trên mỗi ánh sáng đều có hóa
Phật. Tướng Phật theo thứ lớp đầy khắp trong hư không. Lúc thấy tướng này, hóa Phật hết sức rõ ràng.
Lại thấy hóa Phật lên đến cõi trời Phạm thiên, đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới. Ở tam thiên đại thiên thế giới thấy ánh sáng sắc vàng như núi vàng ròng trong ngoài không ngăn ngại.
Thấy việc ấy rồi, tâm ý an lạc, thấy tượng ngồi phía trước như ảnh thật của Phật. Thấy ảnh Phật rồi lại phải nghĩ: Đây chỉ là ảnh thôi, do oai lực của Thế Tôn, trí tuệ tự tại hiện ra việc này, ta nay nên quán kỹ Phật thật. Bấy giờ bỗng nhiên hành giả thấy thân Phật vi diệu như lưu ly trong sạch, bên trong có kim cương, ở trong kim cương có ánh sáng màu vàng rực, cùng nhau phản chiếu thành các tướng hảo, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp giống như dấu vẽ, sáng rõ phân minh, vi diệu thanh tịnh không thể nói hết.
Vị Phật ấy đứng trong không trung, tay cầm bình rưới nước. Trong bình đựng nước giống như cam lồ. Nước ấy có năm sắc, năm ánh sáng thanh tịnh giống như hạt châu lưu ly, mềm mại trơn láng rót vào đinh hành giả đầy khắp trong thân. Hành giả tự thấy trong thân chỗ mà có nước tiếp xúc tám mươi hộ trùng chết dần dần rơi xuống. Trùng đã chết rồi thân thể mềm mại, tâm ý vui vẻ, hành giả lại phải tự nghĩ rằng: Như Lai là đấng cha lành, dùng nước pháp cam lồ thượng vị mà rót vào đảnh con, pháp quán đảnh này nhất định không hư dối. Bấy giờ, lại phải khởi niệm tưởng: “Cúi xin Thế Ton thuyết pháp cho con.” Người mà tội nghiệp đã trừ thì nghe được Phật thuyết pháp. Pháp mà Phật thuyết là bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác chi và tám Chánh đạo. Ba mươi bảy pháp ấy được phân biệt từng thứ giảng cho hành giả nghe. Thuyết pháp này rồi, Phật lại dạy quán khổ, không, vô thường, vô ngã. Dạy pháp này rồi, do thấy Phật được nghe diệu pháp, tâm ý được khai mở, hành giả như nước thuận dòng không lâu thì thành đạo quả A-la-hán.
Người có nghiệp chướng nặng thì chỉ thấy Phật cử động miệng nhưng không nghe thuyết pháp giống như người điếc không biết gì. Bấy giờ hành giả lại phải thực hành sám hối. Đã sám hối rồi năm vóc sát đất khóc lóc với Phật trải qua nhiều ngày, tu các công đức sau đó mới nghe Phật thuyết pháp. Tuy nghe pháp nhưng không hiểu nghĩa. Lại thấy Thế Tôn dùng bình tưới nước rót lên đảnh hành giả. Màu nước đổi thay thuần màu kim cương, vào từ trên đảnh mỗi sắc đều khác nhau xanh, vàng, đỏ, trắng. Các tướng dơ bẩn cũng hiện ở trong. Nước từ đảnh vào xuống thẳng trong thân ra theo gót chân chảy vào trong đất. Đất ấy lập tức biến thành ánh sáng rộng một trượng, nhập sâu dần vào trong đất, đến thẳng mé nước. Đến mé nước rồi lại phải tác ý đi theo ánh sáng này. Lại quán nước này bên dưới toàn là hư không. Lại phải quán dưới khoảng khong có đất bằng lưu ly xanh biếc, dưới đất lưu ly có đất sắc vàng, dưới đất sắc vàng có đất kim cương, dưới đất kim cương lại thấy hư không, thông suốt, rỗng lặng, chẳng có thứ gì. Thấy việc này rồi, hành giả nhiếp tâm trở lại quán một tượng Phật như trước. Bấy giờ ánh sáng của Phật kia càng rõ ràng không thể nói hết. Vị Phật lại đem nước trong bình rót vào đảnh hành giả. Ánh sáng của nước ấy cũng như đã nói ở trên. Hành giả quán như vậy bảy lần.
Phật bảo Tôn giả Thiền-nan-đề:
–Đây gọi là quan tượng Tam-muội, cũng gọi là niệm Phật định, lại gọi là trừ tội nghiệp, kế đó gọi là cứu phá giới, khiến cho người hủy hoại giới cấm không mất thiền định.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Ông phải khéo thọ trì pháp quán đảnh Tam-muội quán Phật này, phân biệt rộng rãi cho tất cả chúng sinh đời vị lai. Lúc Phật nói lời này, Tôn giả Thiền-nan-đề, các Thiên chúng và một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo đều thưa:
–Hôm nay Đức Thế Tôn thuyết pháp trừ tội cho các chúng sinh nhiều loạn tâm. Cúi xin Đức Thế Tôn mở cửa cam lồ, khiến các chúng sinh sau khi Phật diệt độ được nhập Niết-bàn.
Nghe Phật nói pháp Tam-muội quán Phật ấy, Tỳ-kheo Thiềnnan-đề thân tâm hoan hỷ, ngay lúc ấy đắc vô lượng môn Tam-muội, ý giải thông suốt, thành A-la-hán, ba Minh, sáu Thông, đều đầy đủ.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Tưởng này thành tựu gọi là Tam-muội quán Phật thứ mười chín, cũng gọi là pháp Quán đảnh. Ông khéo thọ trì cẩn thận đừng để quên mất và giảng rộng rãi rõ ràng cho tất cả chúng sinh đời vị lai.
Phật nói lời ấy, các Tỳ-kheo nghe Phật nói, hoan hỷ phụng hành.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Người nhiều tham dâm, tuy được quán Phật Tam-muội này nhưng cũng vô ích không thể đắc được đạo quả Hiền thánh. Kế đó phải dạy hành giả tự quán thân mình, làm như pháp đã dạy ở trước, trở lại làm một bộ xương người khiến cho trong suốt và hết sức trắng giống như núi tuyết. Lại phải buộc niệm trụ ý tại rốn, hoặc ở giữa thắt lưng theo hơi thở ra vào. Hít vào đếm một, thở ra đếm hai, hít vào đếm hai thở ra đếm ba, hít vào đếm ba thở ra đếm bốn, hít vào đếm bốn thở ra đếm năm, hít vào đếm năm thở ra đếm sáu, hít vào đếm sáu thở ra đếm bảy, hít vào đếm bảy thở ra đếm tám, hít vào đếm tám thở ra đếm chín, hít vào đếm chín thở ra đếm mười, rồi trở lại từ đầu theo hơi thở vào ra cho đến số mười thì xả và dừng lại.
Bấy giờ, tâm ý yên lặng không khởi niệm. Hành giả tự thấy da của thân giống cái túi bằng lụa. Thấy việc này rồi không thấy xương thân, không biết chỗ của tâm. Bấy giờ lại phải dạy khởi tưởng, trở lại khiến tâm chú ý trong thân, các chi tiết trong thân thể như người bằng ngọc trắng. Đã thấy điều này rồi, lại phải buộc niệm tại đốt xương lớn của xương sườn giữa hông khiến tâm không tán loạn. Bấy giờ lại phải tự nhiên thấy trên thân có một tướng sáng lớn như đồng tiền, dần dần rộng lớn như cá lớn ma-già tụ tập khắp nơi. Lại giống như mây trắng có ánh sáng trắng như gương pha lê. Anh sáng mạnh dần, toàn thân sáng tỏ. Lại có ánh sáng tròn đầy giống như bánh xe, trong ngoài đều sáng hơn cả mặt trời.
Thấy việc này rồi lại phải như trước, hít vào đếm một, thở ra đếm hai, hít vào đếm hai thở ra đếm ba, hít vào đếm ba thở ra đếm bốn, hít vào đếm bốn thở ra đếm năm, hít vào đếm năm thở ra đếm sáu, hít vào đếm sáu thở ra đếm bảy, hít vào đếm bảy thở ra đếm tám, hít vào đếm tám thở ra đếm chín, hít vào đếm chín thở ra đếm mười, hoặc đơn hoặc kép dài ngắn tùy ý. Buộc niệm như vậy ở chỗ kín khiến tâm không tán loạn.
Lại phải buộc niệm như trước quán đốt xương lớn giữa hông. Lúc quán đốt xương lớn định tâm không khuấy động lại tự thay thân càng sáng rõ hơn trước kia nhiều lần như đồng tiền lớn vậy.
Hành giả lại càng tinh tấn gấp bội, liền lại thấy ánh sáng trong thân tăng gấp bội, như rửa sạch miệng bình, vật sáng trên thế gian không ví dụ dược.
Thấy việc này rồi, hành giả chuyên cần tinh tấn gấp bội, tâm không thoái lui biếng nhác, lại thấy ánh sáng đang ở trước ngực như gương sáng vậy. Lúc thấy ánh sáng này hành giả phải chuyên cần tinh tấn như cứu lửa cháy đầu, ân cần không ngừng nghỉ, liền thấy ánh sáng này càng thêm rực rỡ. Bảo châu của chư Thiên cũng không thể sánh được. Ánh sáng ấy thanh tịnh không có các vết xước bẩn và có bảy màu. Từng ánh sáng có bảy màu tư trong ngực phát ra nhập vào trong ánh sáng.
Lúc tướng này hiện, hành giả rất hoan hỷ, tự nhiên vui sướng tâm rất yên ổn không có vật gì có thể làm thí dụ. Hành giả lại phải tinh tấn, tâm không biếng nhác nghỉ ngơi, thấy ánh sáng như mây nhiễu quanh thân bảy vòng. Mỗi một ánh sáng ấy hóa thành bánh xe ánh sáng, ở trong bánh xe ánh sáng tự nhiên thấy tướng mạo căn bản của mười hai nhân duyên, nếu không tinh tấn, giải đãi biếng nhác thì phạm giới khinh cho đến tội Đột-kiết-la, liền thấy ánh sáng tối đen giống như vách tường, hoặc thấy ánh sáng này giống như tro than, lại thấy ánh sáng này giống cái áo vá cũ kỹ hư rách. Đó là ý buông lung khinh tội nhỏ mà gây chướng ngại ánh sáng vô lậu của Thánh hiền.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Pháp môn quán bất tịnh quán đảnh này, các bậc Thánh hiền dạy các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nếu có muốn tu các pháp của bậc Thánh hiền phải quán kỹ các pháp khổ, không, vô thường, vô ngã, nhân duyên như là học sổ tức, khiến tâm không tán loạn. Hành giả phải siêng giữ giới, nhất tâm nhiếp giữ, đối với tội nhỏ cũng phải hổ thẹn và chuyên cần sám hối, cho đến tội nhỏ cũng cẩn thận đừng che giấu. Nếu che giấu tội sẽ thấy ánh sáng như gỗ mục nát.
Thấy rõ việc ấy, liền biết mình đã phạm giới, lại phải hổ thẹn, sám hối, tự trách, quét dọn, rải hương thơm trên đất, làm các việc khổ nhọc, lại phải cúng dường cung kính sư trưởng, phụ mẫu. Đối xử cha mẹ như đối với Phật hết sức cung kính. Hành giả lại phải theo thầy và cha mẹ, cầu thệ nguyện rộng và nói rằng: “Tôi nay cúng dường sư trưởng, cha mẹ. Nguyện nhờ công đức này mà con đời đời được giải thoát. Hổ thẹn như vậy và tu các công đức rồi đếm hơi thở như trước, trở lại thấy ánh sáng này sáng tỏ đáng yêu như trước không khác.”
Hành giả lại phải buộc niệm quán kỹ đốt xương lớn giữa hông, khiến tâm an định không có phân tán. Giả sử có loạn tâm lại phải tự trách, hổ thẹn sám hối. Đã sám hối lại thấy ánh sáng trong rốn đầy đủ bảy màu giong như bảy báu, phải khiến ánh sáng này hợp làm một ánh sáng trắng, đẹp đáng yêu.
Thấy việc ấy rồi, trở lại dạy buộc niệm tư duy như trước, quán bộ xương trắng trắng như ngọc kha, như tuyết. Đã thấy bộ xương trắng rồi, lại phải dạy buộc niệm trụ ý ở trên đỉnh bộ xương, thấy đỉnh bộ xương tự nhiên phóng quang. Ánh sáng đó rất mạnh giống ngọn lửa mạnh, dài, ngắn, thô, tế nối thẳng như cây giáo dài, từ trên đỉnh ấy lộn ngược rơi xuống nhập vào xương đỉnh, từ xương đỉnh ra nhập vào xương cổ, từ trong xương cổ ra nhập vào trong ngực, từ xương ngực ra trở vào trong rốn, từ trong rốn ra liền vào trong đốt xương lớn của xương sườn. Nhập vào trong đốt xương lớn rồi, ánh sáng liền diệt mất. Ánh sáng diệt mất rồi, ngay lúc đó có một đám mây ánh sáng lớn tự nhiên trang nghiêm bằng các vật báu và hoa báu thanh tịnh. Bên trên phía trong các màu sắc có một vị Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni, ánh quang minh đầy đủ có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, mỗi mỗi tướng đều phóng ngàn ánh sáng. Ánh sáng này rất sáng như ức ngàn mặt trời sáng rực rỡ chói lọi. Phật ấy cũng thuyết pháp bốn Chân đế. Phật có ánh sáng trụ trước hành giả dùng tay xoa đầu.
Hóa Phật lại dạy:
–Đời trước ông do nhân duyên tham dục, sân hận, ngu si theo đuổi các việc ác. Do vô minh che lấp khiến ông đời đời thọ thân sinh tử. Ông nay nên quán các việc tiều tụy héo gầy trong thân ông, các lửa ngoài thân đều diệt hết.
Nói lời này rồi, hóa Phật dạy trở lại pháp quán bất tịnh như trước, quán các trùng trong thân chết và rơi xuống. Thấy việc này rồi, hành giả lại phải nổi lửa thiêu đốt các con trùng. Trùng đã không chết lại tự thấy thân như pha lê trắng, trắng đẹp tự nhiên.
Thấy ánh sáng rồi từ trên đầu phát ra ánh sáng. Ánh sáng ấy lớn, nhỏ, thô, tế như cây giáo, khiến cho nó dài một trượng năm. Lại phải nghĩ khiến đầu hướng về phía sau, lại nghĩ khiến cổ hướng về phía sau, khiến thân đều đảo ngược dùng đầu chống xương sườn đối diện với đốt xương lớn ở rốn. Thấy việc ấy, lại phải quán kỹ khiến bộ xương trắng cùng màu với ánh sáng. Đã cùng màu rồi, hành giả thấy ánh sáng ngay ngắn, có trái cây đủ loại màu. Thấy trái cây rồi lại thấy các ánh sáng từ đầu trái cây ra có anh sáng màu trắng. Ánh sáng ấy rực rỡ như đám mây báu màu trắng. Các bộ xương người ấy có màu trắng đẹp không khác ánh sáng.
Lại thấy các bộ xương bị gãy vỡ rơi rớt, hoặc có bộ xương đầu rơi xuống đất, có bộ xương các đốt xương đều bị phân tán, có bộ xương xương trắng trong toàn thân giống như gió mạnh thổi mưa tuyết, tụ lại hoặc phân tán không nhất định, giống như sấm chớp thoạt hiện thoạt mất.
Các xương người này rớt xuống đất thành đống, giống như núi đất, tợ như mạt vụn của cây mục, tụ tập một chỗ. Hành giả tự quán thấy ở trên núi đất có khí tự nhiên phát ra, lên đến hư không giống như mây khói. Màu nó trắng tươi đầy khắp hư không, xoay qua bên phải rồi tụ tập trở lại cùng một chỗ. Lúc thấy việc ấy, lại phải dạy tưởng một xương người. Hành giả thấy bộ xương người này thân có chín màu, chín nét rõ ràng. Trong mỗi một nét có xương người chín màu, sắc nó sáng tươi không thể nói hết. Mỗi mỗi xương người lại phải khiến thân thể đầy đủ sáng tỏ, phản chiếu vào trong bộ xương người phía trước làm không chướng ngại.
Quán điều này rồi, lại phải quán trong mỗi sắc giống như lưu ly, không có các chướng ngại. Ở trong sắc có chín mươi chín màu, mỗi một màu lại có rất nhiều xương người chín màu. Các bộ xương ấy có đủ loại tướng tánh, nó không giống nhau, không trở ngại lẫn nhau.
Thấy việc ấy rồi, nên siêng năng tinh tấn diệt tất cả ác. Rõ việc này rồi, đám mây ánh sáng tụ tập lúc trước giống như bình đất, đến nhập vào thân đó, từ rốn nhập vào, đã nhập vào rốn rồi vào trong xương sườn, vào xương sườn rồi tự thấy thân mình không khác xưa bình phục như cũ. Xuất nhập định nhờ đếm hơi thở, thường thấy việc trên.
Lúc thấy việc này, lại phải dạy trở lại, buộc tâm trụ ý ngay ở trong ánh sáng lỗ rốn của mình, không cho tâm tan loạn. Bấy giờ tâm ý hết sức an ổn. Đã an ổn rồi lại tự học phân biệt kỹ càng các thánh giải thoát.
Bấy giờ lại thấy bảy Phật quá khứ thuyết pháp cho hành giả. Pháp được thuyết là pháp bốn Chân đế, pháp năm thọ ấm, không, vô ngã, vô ngã sở.
Khi ấy chư Phật cùng với các Hiền thánh, thường đến trước hành giả dạy các chủng loại pháp, cũng dạy Tam-muội quán không, vô ngã, vô tác, vô nguyện. Chư vị dạy:
–Này Pháp tử! Nay ông phải quán kỹ: sắc, thanh, hương, vị, xúc đều vô thường, không được dừng lâu, mau chóng như điện, tức thời biến mất, cũng lại như huyễn hóa giống như bóng nắng, như ánh lửa lúc nóng, như thành Càn-thát-bà, như chỗ thấy trong mộng, tỉnh ra không biết nó ở đâu, như đục đá thấy tia sáng, biến mất trong chốc lát, như chim bay trên không không thể tìm dấu vết, như tiếng vang không có người đáp. Nay ông cũng phải quán như vậy. Tam giới như huyễn cũng như biến hóa, ở đây liền thấy trong thân và ngoài thân, trống rỗng không có sở hữu, như chim bay trên không, không vướng vào đâu. Tâm vượt ba cõi quán các thế gian, núi Tu-di, biển lớn đều không dừng lâu cũng như huyễn hóa. Hành giả tự quán thân mình, không thấy tưởng của thân liền nghĩ rằng: Thế giới vô thường, ba cõi không an, chỗ nào có thân và đối tượng của mắt. Các sắc dục này và các nữ nhân, từ điên đảo khởi lên, lầm thấy là đáng yêu, thật ra chúng là pháp mục rã bại hoại một cách mau chóng. Ôi nữ sắc giống như gông cùm làm lao nhọc thần thức của người, kẻ phàm phu ngu muội yêu mến bám víu, không biết chán biết đủ, không thể tư tách ra, không tránh khỏi gông cùm, không chặt đứt được xiềng xích.
Hành giả đã biết tướng của pháp, biết pháp trống không, các sắc dục này giống như giặc thù, có gì đáng mến tiếc. Chúng cũng giống như lao ngục chắc chắn kín đáo khó thoát.
Ta nay quán không nhằm lìa ba cõi, quán thấy thế gian như bọt nổi trên nước, chắc chắn phải bị diệt. Tâm không các tưởng biết rõ các pháp ở thế gian là tai họa phiền lụy nặng nề. Phàm phu mê hoac đến chết không giác ngộ, không biết các khổ, mê đắm khó thoát, mặc tình lừa dối không chỗ nào là không đến.
Ta nay quán nữ sắc hư dối ấy, như âm vang của tiếng gọi, cũng như bóng trong gương, tìm cầu không thể được. Quán nữ sắc này là ở chỗ nào, vọng kiến suy kém tai hại lừa dối các phàm phu, gây hại ngày càng nhiều.
Nay quán sắc này giống như chùm hoa rơi rụng theo gió, không từ đâu xuất hiện, không đi về đâu, huyễn hoặc không thật, người ngu tham ưa dính mắc. Nay quán sắc này, tất cả vô thường như người bệnh hủi được lương y trị hết bệnh. Ta nay quán khổ, không, vô thường, thấy sắc tướng này đều không chắc thật, nghĩ các phàm phu rất là đáng thương xót. Họ đắm nhiễm sắc ấy, trọng vọng không biết chán, đam mê vướng mắc, say đắm vô cùng, vì các ân ái mà làm nô bộc, muốn lấy giáo đâm mình, làm đau đớn xương tủy, gông cùm ân ái ràng buộc thân.
Nghĩ như vậy roi, lại quán tất cả đều trống không, các dâm dục này, các tình trạng của sắc đều từ năm ấm bốn đại mà sinh. Năm ấm không chủ, bốn đại vô ngã, tánh tướng đều không, các thứ đó do đâu mà có.
Lúc quán điều này, trí tuệ sáng tỏ, thấy thân rất sáng như hạt châu ma-ni, không có trở ngại trong suốt như kim cương, trong sạch sáng tỏ như con nai phá lưới thì thoát khỏi sự khổ ách do người thợ săn đem lại. Hành giả quán ngũ ấm tánh tướng đều sạch, quán sáu đại như chim bay lượn trên cao, thân không có chỗ nương cậy do nuốt phải lưỡi câu sắc dục, chủ động để vượt qua, xa lìa nữ sắc không khởi tình dục, tự nhiên vượt khỏi các biển dâm dục. Tất cả các ket sử giống như các con cá, đuổi bắt lẫn nhau để rơi vào hố đen tối. Vô minh lão tử bị lửa trí tuệ thiêu đốt. Quán sự dơ bẩn của sắc, xấu xí bất tịnh, giống như huyễn hoặc không có tạm dừng, vĩnh viễn xa lìa sự ô nhiễm của sắc không bị sắc trói buộc nữa.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, những người tham dâm nhiều, trước hết phải dạy quán Phật khiến lìa các tội, sau đó mới dạy buộc niệm, khiến tâm không tán loạn. Tâm không tán loạn đó là phương pháp sổ tức. Pháp sổ tức này là thuốc trị bệnh tham dâm, là chỗ thực hành của Đấng Pháp Vương Vô Thượng. Ông phải khéo thọ trì cẩn thận đừng để quên mất. Tưởng này thành tựu gọi là hoàn tất pháp quán Sổ tức thứ hai mươi.
Bấy giờ Tôn giả A-nan và Thiền-nan-đề cùng các Tỳ-kheo khen Phật nói, hoan hỷ phụng hành.
*******************************************************************
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở nước Xá-vệ, du hành giáo hóa tới thôn Đa-la. Đến nơi ấy rồi, Phật cùng với một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo vào thôn khất thực. Sau khi thọ trai xong, chư vị đứng bên gốc cây, rửa chân xếp y bát, trải ngọa cụ và ngồi kiết già.
Bấy giờ, trong chúng có một Tỳ-kheo tên là Ca-chiên-diên, có một đệ tử tên là Bàn-trực-ca, xuất gia đã lâu, trải qua tám trăm ngày đọc tụng một bài kệ mà không thể thông đạt. Ngày đêm sáu thời, Tỳ-kheo ấy thường tụng lời này “dứt ác hành thiện, tu không phóng dật” chỉ tụng lời này nhưng cuối cùng không thể nhớ.
Bấy giờ Tôn giả Ca-chiên-diên đem hết đạo lực của mình dạy dỗ đệ tử cũng không làm cho đệ tử hiểu được. Tôn giả liền đến gặp Phật, đảnh lễ nhiễu quanh Phật ba vòng, bạch Phật:
–Như Lai xuất thế, lợi ích rất nhiều, làm lợi lạc cõi trời, người, phổ độ tất cả, chỉ riêng đệ tử con chưa được nhận lãnh, cúi xin Đức Thế Tôn hãy khai ngộ cho con làm cho ông ấy được giải thoát.
Phật bảo Tôn giả Ca-chiên-diên:
–Hãy lắng nghe và ghi nhớ kỹ! Hôm nay ta sẽ nói cho ông nghe nhân duyên ngày xưa.
Ca-chiên-diên thưa:
–Bạch Thế Tôn! Con rất muốn nghe.
Phật bảo Ca-chiên-diên:
–Trong quá khứ cách đây chín mươi mốt kiếp có Phật Thế Tôn tên là Tỳ-bà-thi gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vo Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Phật ấy xuất thế giáo hóa chúng sinh, xong việc độ người rộng khắp, Phật nhập Niết-bàn. Sau khi Phật diệt độ, có một Tỳ-kheo thông minh nhiều trí, đọc tụng tam tạng, ỷ giỏi sinh ra kiêu mạn, tán loạn phóng dật. Có người nào theo học, Tỳ-kheo ấy không chịu dạy bảo, chỉ chuyên lừa dối, cao ngạo, không tu chánh niệm.
Sau khi chết, Tỳ-kheo ấy bị đọa vào địa ngục Hắc ám, trải qua chín mươi kiếp thường ở chỗ tối, ngu muội không có trí. Do sức nơi công đức xuất gia trước đây, từ địa ngục ra ông ấy được sinh lên trời. Tuy sinh lên trời, ánh sáng nơi cung trời và các đồ dùng đều đen tối, thấp kém hơn chư Thiên. Do tụng Tam tạng, khi hết tuổi thọ ở cõi trời, ông ấy sinh ở cõi Diêm-phù-đề và được gặp Phật đang tại thế. Vì trước đây cao ngạo nên tuy gặp Phật, ông ấy không hiểu pháp tướng. Ta nay phải thuyết các phương pháp dạy pháp buộc niệm cho ông ấy.
Bấy giờ, Tôn giả Ca-chiên-diên bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Cúi xin ngài hãy thuyết Chánh pháp cho Tỳkheo Bàn-trực-ca ngu si này và tất cả chúng sinh ngu si loạn tưởng ở đời vị lai.
Phật bảo Tỳ-kheo Bàn-trực-ca:
–Từ ngày nay, ông phải thường ở chỗ yên tĩnh, nhất tâm ngồi ngay ngắn, xếp tay nhắm mắt, thu giữ thân, khẩu, ý cẩn thận đừng để phóng dật, ông vì phóng dật nhiều kiếp phải chịu lao khổ lâu dài. Ông phải quán kỹ các pháp theo lời ta dạy.
Khi ấy theo lời Phật dạy, Bàn-trực-ca ngồi ngay ngắn buộc tâm.
Phật bảo Tỳ-kheo Bàn-trực-ca:
–Nay ông phải quán kỹ đốt xương ngón chân cái, khiến tâm không di động, lam cho trên đốt ngón chân dần dần phồng lên, lại khiến phình trương lên, lại phải dùng ý khiến chỗ phình trương này dần dần lớn như cái bát đậu. Ông phải dùng ý khiến nó phình trương, mục rã, da thịt tách ra hai bên, mủ vàng chảy ra. Ở giữa mủ vàng máu chảy ràn rụa. Trên một đốt da thịt thối nát hết, chỉ thấy đốt xương ngón chân phải trắng như ngọc kha, như tuyết.
Thấy một đốt rồi, từ chân phải dần dần rộng lớn cho đến nửa thân, phình trương, rã nát, mủ vàng chảy ra. Khiến da thịt ở nửa thân đều tách ra hai bên, chỉ thấy xương của nửa thân trong sáng và trắng.
Thấy nửa thân rồi, lại thấy toàn thân, tất cả đều phình trương và rã nát rồi, máu mủ đáng ghét và thấy các loại trùng đùa giỡn trong đó, đủ loại như vậy cũng như ở trên.
Quán thấy một rồi lại thấy hai, thấy hai rồi lại thấy ba, thấy ba rồi lại thấy bốn, thấy bốn rồi lại thấy năm, thấy năm rồi thấy cho đến mười, tâm dần dần rộng lớn cho đến thấy trong một phòng. Thấy trong một phòng rồi cho đến thấy một thiên hạ. Thấy một thiên hạ rồi, nếu rộng lại thu nhiếp khiến trở về, quán một như trước. Quán xong rồi lại phải dời ý tưởng, buộc niệm quán kỹ chót mũi. Quán chót mũi rồi, tâm không phân tán. Nếu không phân tán quán xương như trước.
Lại phải tưởng da thịt trong thân do tinh khí bất tịnh của cha mẹ hòa hợp tạo thành. Thân như thế nay là hạt giống bất tịnh. Lại phải dạy buộc niệm quán răng. Trong thân của người chỉ có răng này màu trắng. Xương trong thân ta trắng như răng này vậy.
Tâm tưởng trở nên sắc bén, thấy răng dài lớn giống như thân thể. Bấy giờ lại phải dời tưởng quán trên trán, khiến xương trắng trên trán giống như ngọc kha, như tuyết. Nếu không trắng lại phải đổi pháp quán cửu tưởng, rộng nói như pháp quán cửu tưởng.
Lúc quán pháp ấy, nếu là người độn căn, trải qua một tháng cho đến chín mươi ngày quán kỹ việc này, sau đó mới thấy; nếu là người lợi căn thì một niệm thấy liền. Thấy việc này rồi, lại phải quán đốt xương trắng trong hông. Thấy rồi liền quán xương người đủ màu như trước. Pháp này không thành lại phải dạy quán tâm Từ. Quán tâm Từ là rộng nói như bốn Tam-muội. Dạy tâm Từ rồi lại dạy quán xương trắng. Nếu thấy việc khác thận trọng chớ đuổi theo chỉ khiến tâm thấu suốt rõ ràng, thấy bộ xương trắng như núi tuyết trắng. Nếu thấy vật khác kliền khởi tâm diệt trừ, phải nghĩ: Như Lai Thế Tôn dạy ta quán xương, vì sao lại có tưởng cảnh giới khác. Ta nay phải nhất tâm quán xương. Thấy xương trắng rồi khiến tâm trong lặng, không có các tưởng bên ngoài, thấy khắp tam thiên đại thiên thế giới trong đó đầy xương người. Thấy xương người này rồi, mỗi mỗi đều diệt quán khổ như trước.
Bấy giờ, nghe Phật dạy lời này, Tỳ-kheo Bàn-trực-ca quán kỹ từng thứ, tâm không phân tán, thấu suốt rõ ràng ngay lập tức đắc đạo A-la-hán, ba Minh, sáu Thông, đủ tám Giải thoát. Vị ấy tự nhớ Tam tạng đã học trong đời trước, hết sức rõ ràng không lẫn lộn.
Bấy giờ, nhờ Tỳ-kheo ngu si cao ngạo Bàn-trực-ca, Đức Thế Tôn chế pháp quán xương trắng thanh tịnh này.
Phật bảo Tôn giả Ca-chiên-diên:
–Tỳ-kheo Bàn-trực-ca ngu si này nhờ buộc niệm mà thành Ala-hán huống gì là người trí mà không tu thiền sao.
Lúc ấy, Đức Thế Tôn mới nói kệ:
Thiền là pháp cam lồ
Tâm định diệt các ác
Trí tuệ dứt ngu si
Trọn không tho thân sau.
Bàn-trực-ca ngu si
Còn chứng nhờ tâm định
Huống gì các người trí
Sao không siêng buộc niệm.
Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Ca-chiên-diên và Tôn giả A-nan:
–Nay các ông phải thọ trì lời ta dạy, dùng diệu pháp này độ khắp chúng sinh. Nếu có chúng sinh ngu si đời sau, kiêu mạn cao ngạo, chúng sinh tà kiến ác độc mà muốn tọa thiền từ pháp quán của Ca-hy-la-nan-đà ban đầu cho đến pháp quán tượng của Thiền-nanđề, lại phải học kỹ pháp quán của Tỳ-kheo Bàn-trực-ca này, sau đó tự quán thân mình, thấy các xương trắng như ngọc, như tuyết.
Bấy giờ, xương người nhập vào thân trở lại thấy tất cả xương trắng, phóng ánh sáng rồi tan mất. Thấy việc này rồi tâm ý hành giả tự nhiên vui vẻ, điềm tĩnh không có niệm khởi. Lúc xuất định trên đảnh thường ấm áp, trong lỗ chân lông thường phát ra các mùi thơm, xuất nhập định hành giả thường nghe diệu pháp, kế đó lại tự thấy thân thể an vui khoái lạc nhan mạo tươi tỉnh, thường ít ngủ nghỉ, thân không bệnh tật khổ sở.
Được Noãn pháp này, hành giả thường tự cảm thấy dưới tim ấm áp, tâm thường an lạc.
Nếu người đời sau muốn học thiền, từ pháp bất tịnh đầu tiên cho đến pháp này. Đắc pháp này gọi là Noãn pháp.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Sau khi Phật diệt độ nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di ở trong đời ô trược muốn học pháp chánh thọ, tư duy tư pháp buộc niệm quán bất tịnh ban đầu cho đến pháp này gọi là Noãn pháp.
Nếu đắc được pháp này gọi là hoàn tất Noãn pháp thứ hai mươi mốt.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Nay ông phải giữ gìn Noãn pháp mà đệ tử của Ca-chiên-diên hỏi phải cẩn thận đừng để mất.
Bấy giờ A-nan bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Chúng sinh đời sau nếu có người có thể thọ trì Tam-muội này, nhất tâm yên ổn thành tưu Noãn pháp, người đó làm sao tự biết được.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Nếu có quán kỹ các tướng kết sử, từ pháp bất tịnh ban đầu cho đến pháp này tự biết thân tâm đều ấm áp, từng tâm nói tiếp không có các phiền nao, sân hận, nhan sắc vui vẻ. Đây gọi là Noãn pháp.
Lại nữa, A-nan! Nếu có hành giả có được Noãn pháp rồi kế đó phải dạy buộc niệm ở giữa các xương trắng đều có ánh sáng trắng. Lúc thấy ánh sáng trắng xương trắng tan mất. Nếu cảnh giới khác hiện ở phía trước lại phải nhiếp tâm quán trở lại ánh sáng trắng thấy các ánh sáng trắng và từng ngọn lửa cháy lan ra đầy khắp thế giới. Hành giả tự quán thân mình lại càng sáng sạch, hơn cả pha lê và núi tuyết, tự thấy xương người mỗi cái đều phân tán.
Khi quán điều này nên định tâm cho lâu. Tâm định lâu rồi phải tự thấy trên đỉnh có ánh sáng lớn giống như ánh lửa phát từ não ra.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Nếu thấy việc này lại phải dạy quán từ đầu đến chân, quán đi quán lại tất cả mười bốn lần.
Quán điều ấy rồi, xuất định nhập định, thường thấy trên đỉnh phát ra lửa như ánh sáng vàng ròng. Các lỗ chân lông cũng phát ra ánh sáng vàng như rải lúa vàng, thân tâm an lạc. Ánh sáng vàng rực như vậy nhập trở vào đỉnh đầu. Đó gọi là Đảnh pháp.
Nếu có hành giả, được pháp quán ấy thì có thể thành tự pháp quán đảnh.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Ông khéo thọ trì pháp quán đảnh này giảng rộng cho tất cả chúng sinh đời vị lai.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan nghe Phật dạy hoan hỷ phụng hành.
Thành tựu pháp này gọi là hoàn tất pháp Quán đảnh thứ hai mươi hai.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Tưởng này thành tựu rồi, lại phải dạy buộc niệm quán các xương trắng, khiến các xương đã phân tán như gió thổi tuyết tụ lại một chỗ, tự nhiên thành đống trắng như núi tuyết. Nếu thấy việc này đắc đạo không khó. Nếu có người đời trước phạm giới hay đời này phạm giới thì thấy đống xương phân tán giống như tro đất hoặc là thấy các vật màu đen ở trên đó. Những người này lại phải sám hối, tự nói lỗi mình với người trí.
Đã sám hối rồi, thấy trên đống xương có ánh sáng trắng cho
đến cõi Vô sắc. Xuất định nhập định thường được an lạc, tham muốn ái dục trước đây dần dần mỏng đi.
Hành giả lại phải quán, tìm ngược lại như trước, thấy chín lỗ máu mủ chảy và vật bất tịnh hết sức rõ ràng. Tâm không nghi ngờ hối tiếc. Lại giống như giữa xương sinh ra lửa thiêu các bất tịnh. Bất tịnh đã hết ánh sáng vàng phát ra, nhập trở lại đỉnh đầu. Lúc ánh sáng nhập vào đỉnh, thân thể khoái lạc, không thể lấy gì để ví dụ được.
Đắc pháp quán ấy gọi là hoàn tất pháp phương tiện quán trợ đảnh thứ hai mươi ba.
Lại phải dạy buộc niệm trụ ý tự quán thân mình giống như bó cỏ. Lúc xuất định cũng thấy thân mình giống như cây chuối, từng lớp da bao nhau. Lại tự quán các lá chuối giống như túi da, trong thân như không khí cũng không thấy xương. Xuất định nhập định thường thấy việc này thân thể gầy yếu.
Lại phải dạy tự quán thân, tự trở lại như bó cỏ khô, thân thể vững bền. Đã thấy thân vững bền rồi, hành giả lại phải uống bơ sữa, ăn uống điều độ, sau đó quán thân trở lại giống như cái túi không, có lửa từ trong thiêu hết thân này. Thiêu hết thân rồi, lúc nhập định thường thấy ánh sáng lửa, quán thấy lửa rồi, thấy ở bốn phương tất cả lửa khởi lên, xuất định nhập định thân nóng như lửa. Hành giả thấy hỏa đại này, từ các chi tiết khởi lên, tất cả lỗ chân lông đều phát ra lửa. Lúc xuất định cũng tự thấy thân như đống lửa, thân thể bốc nóng không thể tự giữ gìn. Bấy giờ bốn phương có núi lửa lớn đều đến tập hợp trước hành giả. Hành giả tự thấy thân mình hợp với ngọn lửa. Đây gọi là tưởng về lửa.
Lại phải khiến lửa thiêu thân cháy sạch. Lửa đã thiêu rồi, lúc nhập định quán thân không có thân, thấy thân đều bị lửa thiêu hết. Lửa thiêu sạch rồi, tự nhiên biết trong thân không có ngã, tất cả kết sử đều giống như vậy không thể nói hết. Đây gọi là tưởng về lửa, hỏa đại chân thật, là hoàn tất pháp quán hỏa đại thứ hai mươi bốn.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Ông phải khéo thọ trì pháp quán hỏa đại vô ngã này. Pháp quán hỏa đại này gọi là lửa trí tuệ thiêu các phiền não. Ông phải khéo thọ trì và giảng rộng cho tất cả chúng sinh đời vị lai.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan nghe Phật dạy hoan hỷ phụng hành.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Nếu có hành giả nào thành tựu pháp quán hỏa đại này rồi, lại phải dạy buộc niệm tư duy, khiến buộc niệm ngay chót mũi, quán xem lửa này từ đâu khởi. Lúc quán lửa này tự thân mình đều không có ngã; đã không có ngã, lửa tự nhiên diệt. Lại phải nghĩ: Thân ta vô ngã, tứ đại không chủ, các kết sử này và kết sử căn bản từ điên đảo khởi, điên đảo cũng không, vì sao trong pháp không lầm thấy lửa trong thân.
Lúc quán điều ấy, hành giả không tìm được lửa và ngã. Đây gọi là quán hỏa đại vô ngã.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Ông khéo thọ trì pháp quán hỏa đại này, phân biệt và giảng rộng cho tất cả chúng sinh đời vị lai.
Nghe Phật dạy Tôn giả A-nan hoan hỷ phụng hành.
Đó gọi là hoàn tất pháp quán thứ hai mươi lăm.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Lúc ta thấy lửa diệt, đầu tiên diệt từ mũi, sau đó thân thể nhất thời đều diệt. Lửa trong tim trong thân, tám mươi tám kết sử cũng đều bị diệt. Trong thân mát mẻ, điều hòa, ổn định. Hành giả tự giác ngộ sâu sắc, thấu suot rõ ràng, quyết chắc là không có ngã. Xuất định nhập định thường biết trong thân không có bản ngã của ta.
Đây gọi là hoàn tất pháp diệt không còn ngã.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Lại phải dạy pháp quán Quán đảnh. Pháp quán Quán đảnh là tự thấy thân mình như ánh sáng lưu ly, vượt khỏi ba cõi, thấy có Phật thật, dùng nước trong bình tắm, từ đảnh rót xuống đầy khắp trong thân. Thân đã đầy rồi, tay chân cũng đầy từ trong rốn chảy ra ở trên đất trước mặt, Phật thường rót nước. Bấy giờ, Đức Thế Tôn rót nước vào đảnh rồi, nước đi hết vào trong thân, nước từ trong rốn chảy ra giống như lưu ly. Màu xanh của nó giống như ánh sáng lưu ly xanh biếc, khí sáng đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới.
Nước ra hết rồi, lại phải dạy buộc niệm xin Phật Thế Tôn rót nước vào đảnh lại cho con. Bấy giờ tự nhiên thấy thân như khí, rộng lớn vượt khỏi ba cõi. Hành giả thấy nước từ đảnh đầu vào, thấy thân to lớn ngang bằng với nước, tràn đầy trong nước. Lại tự thấy rốn giống như hoa sen, có dòng suối chảy vọt ra, đầy khắp trong thân, vây lấy thân như cái ao.
Có các hoa sen, mỗi một hoa sen có ánh sáng bảy màu, ánh sáng ấy diễn thuyết các pháp khổ, không, vô thường, vô ngã tiếng như Phạm âm.
Lúc tướng này hiện, lại phải dạy xếp tay nhắm mắt, nhất tâm ngồi ngay thẳng, từ trên đảnh tự quán trong thân không thấy xương. Xuất định nhập định tự thấy thân mình như bình lưu ly.
Hành giả lại phải khởi niệm, tưởng bốn con rồng độc lớn ở trong tim mình. Thấy trong tim mình có lỗ chân lông mở ra, có sáu loại rồng, mỗi con rồng có sáu đầu, đầu nó phun độc giống như thổi lửa đầy khắp trong ao ở trên hoa sen.
Mỗi mỗi ánh sáng của hoa nhập vào đảnh của rồng. Lúc ánh sáng nhập vào đảnh, rồng độc tự tiêu tan, chỉ có nước lơn tràn đầy trong thân.
Khi tưởng ấy thành tựu gọi là quán hoa thất giác. Tuy thấy tưởng này hành giả vẫn chưa thông đạt đối với thiền định sâu xa, lại phải dạy đếm hơi thở như trên khiến tâm an ổn, lặng lẽ, không khởi niệm. Lúc tưởng này thành tựu gọi là quán bốn đại tương ưng.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Ông phải khéo thọ trì pháp quán bốn đại tương ưng với bảy Giác ý này, cẩn thận đừng để quên mất, phân biệt rộng rãi cho tất cả chúng sinh đời vị lai, diễn bày giảng nói cho bốn chúng.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan nghe Phật dạy hoan hỷ phụng hành.
Lại phải dạy buộc niệm, trụ ý quán kỹ thủy đại, từ lỗ chân lông ra đầy khắp thân. Xuất định nhập định hành giả thấy thân như cái ao có nước màu xanh lục. Nước xanh như vậy, giống như dòng suối chảy trên đỉnh núi, từ đỉnh mà ra, từ đỉnh mà vào.
Hành giả thấy bảy bông hoa toàn là màu kim cương, phóng ánh sáng màu vàng có người kim cương, tay cầm kiếm bén chém vào sáu con rồng trước kia. Lại thấy các ngọn lửa từ miệng các con rồng phát ra, khắp thân lửa cháy, nước khô cạn hết, lửa liền tắt sạch..
Lửa nước diệt hết rồi, tự thân mình dần dần rất trắng giống như kim cương. Xuất định nhập định tâm ý khoái lạc, như uống váng sữa hoặc ăn đề hồ, thân tâm an lạc lại phải dạy quán thứ khác, quán cảnh giới bên ngoài. Do sự tưởng tượng tự nhiên thấy có một cây sinh ra trái ngọt kỳ lạ. Trái cây ấy có bốn màu, bốn ánh sáng đều đầy đủ.
Cây ăn trái như vậy như cây lưu ly, đầy khắp tất cả. Thấy cây này rồi rộng thấy tất cả bốn loài chúng sinh bị lửa đói áp bức đều đến xin.
Thấy rồi, hành giả vui mừng, sinh tâm thương xót liền khởi tâm từ, coi những người đến xin này như cha mẹ mình, chịu khổ não lớn, nay ta phải làm gì để cứu vớt họ.
Nghĩ như vậy, liền tự quán thân, trở lại như máu mủ ở trước, lại làm thịt chia thành từng đoạn đem bố thí cho những chúng sinh đói.
Các ngạ quỷ này, tranh nhau lấy ăn, ăn đã no rồi, liền chạy tán loạn bốn hướng.
QUYỂN HẠ
Bấy giờ, hành giả lại phải tự quán thân mình và thân người. Thân ta và thân người sinh ra từ điên đảo, thật không có ngã sở. Nếu có ngã thì tại sao có các ngạ quỷ đến bên cạnh ta. Bấy giờ có vô lượng ngạ quỷ, thân nó cao lớn vô lượng vô biên, đầu như núi Thái sơn, cổ như sợi tơ sợi tóc, bị lửa đói hành hạ kêu gọi xin thức ăn.
Thấy việc ấy rồi, hành giả phải khởi tâm Từ, đem thân bố thí cho quỷ. Ngạ quỷ nhận rồi nuốt ăn thân thể ấy liền được no đủ.
Rõ việc này rồi phải quán nhiều ngạ quỷ đi quanh thân bốn vòng. Hành giả lại đem thân cho các ngạ quỷ ăn như trước. Thấy việc này rồi lại dạy nhiếp thân khiến tâm không tán loạn tự quán thân mình là đống bất tịnh.
Lúc quán điều ấy tự thấy máu mủ và thịt của thân mình từng miếng từng miếng rã ra tụ lại ở khoảng đất phía trước và thấy các chúng sinh tranh nhau lấy ăn những thứ ấy.
Đã thấy việc này, lại phải tự quán thân mình từ các khổ sinh ra, từ các khổ mà có, là pháp bại hoại không lâu sẽ bị tiêu diệt, làm thức ăn cho ngạ quỷ.
Khi quán tưởng ấy, chợt thấy trong thân, chỗ quả tim có lửa dữ thiêu trên ao trước mặt, tất cả hoa sen và các ngạ quỷ với những hình dạng xấu xí và nước ao đều bị đốt hết.
Rõ về việc này rồi, lại phải dạy quán kỹ thân mình hoàn toàn đầy đủ như trước, thân thể bình phục.
Lại quán sát tất cả các lỗ chân lông trên thân, vận dụng tâm từ biến máu thành sữa từ lỗ chân lông chảy ra trên đất như cái ao đầy ngập cả sữa.
Lại thấy nhiều ngạ quỷ đến trên ao này nhưng vì tội đời trước nên không uống được.
Bấy giờ, với tâm Từ hành giả coi quỷ như con, muốn cho chúng uống sữa. Do tội của quỷ biến sữa thành mủ. Ngay lúc ấy hành giả lại khởi tâm Từ.
Do tâm Từ, từ trong các lỗ chân lông trên thân, tổng số sữa đó chảy ra nhiều hơn trước gấp bội. Hành giả nghĩ: “Các ngạ quỷ này bị đói khổ hành hạ sao lại không uống.”
Bấy giờ, có ngạ quỷ hình thù cao lớn đến mười do-tuần, cất chân dặm chân, tiếng chân như tiếng năm trăm cỗ xe, đến trước hành giả than rằng: “Đói, đói”.
Hành giả liền dùng tâm Từ bố thí sữa cho ngạ quỷ uống. Lúc uống vào miệng sữa biến thành mủ. Tuy là mủ nhưng nhờ tâm Từ của hành giả, ngạ quỷ liền được no đủ.
Thấy quỷ no rồi, hành giả lại tự quán thân, liền tự thấy thân, dưới chân phát lửa thiêu đốt các chúng sinh nói trước đây và các cây cháy sạch.
Khi ấy, nếu thấy nhiều loại khác, phải trở lại buộc niệm quán kỹ thân mình, khiến tâm không động yên tịnh không có niệm khởi. Đã không có niệm tưởng, hành giả phải phát thệ nguyện, nguyện sau này không còn tái sinh, không thích thân sau, không ưa thế gian.
Thệ nguyện rồi, bỗng thấy đất trước mặt giống như lưu ly, thấy dưới lưu ly có nước màu hoàng kim. Hành giả tự thấy thân mình y như là đất lưu ly và cùng màu với nước. Nước ấy ấm áp, trong nước sinh cây như cây bảy báu, cành lá sum suê. Trên cây có bốn quả, tiếng của quả ấy phát ra như tiếng linh, diễn thuyết khổ, không, vô thường, vô ngã.
Nghe âm thanh ấy rồi, hành giả tự thấy thân mình chìm ở trong nước, qua đến chỗ cây, hành giả tự quán kỹ thân mình, thấy nước từ trên đỉnh chảy ra đầy tràn ao lưu ly.
Trong chốc lát lại có lửa bùng lên, trong lửa sinh gió giống như lưu ly. Lại thấy trên đỉnh, từ đỉnh đến chân trở nên chắc chắn giống như kim cương. Lại có lửa phát ra thiêu sạch kim cương, nước ấm khô cạn hết.
Hành giả lại tự quán thân, trước khi có thịt trong thân, chợt thấy trong ao có cành cây lá đầy đủ, ngọn cây có trái. Trái ấy có âm thanh như tiếng linh, diễn thuyết các pháp khổ, không, vô thường, vô ngã, thanh tịnh. Trái cây kỳ diệu như vậy, có âm thanh hay, hương vị đầy đủ nay tôi phải ăn.
Tưởng điều ấy xong, hành giả liền ngước lên níu cây, hái trái cây ăn, vừa ăn xong một trái hành giả cảm thấy vị nó ngon ngọt không gì sánh được.
Đã ăn trái cây rồi, hành giả thấy cây khô kiệt, ba trái còn lại vẫn có ánh sáng. Sau khi ăn trái cây, thân tâm điềm đạm, không có tưởng buồn vui. Hành giả tự quán tâm thức là pháp hư hoại có từ các khổ. Thức là nhân duyên là nguồn gốc các khổ.
Nay quán thức này như bọt trên nước không có tạm dừng, bốn đại không chủ, thân không có ngã, thức không chỗ dựa. Hành giả quán kỹ các pháp như vậy bốn mươi chín lần, quán kỹ tâm thức là pháp bại hoại.
Bấy giờ, hành giả tự thấy thân mình trắng như ngọc kha, như tuyết, do từng đốt xương chống đỡ nhau.
Lại phải dạy hành giả dùng tay phải xoa bóp thân này, thấy thân như bụi, xương vụn như phấn, như đất, như bụi phấn.
Lại phải dạy quán thân như hơi, có từ hơi thở, thân như túi khí không có tạm dừng.
Lại phải dạy tự quán lại thân, làm một bộ xương người như trước.
Thấy xương người rồi, tự quán thân mình, phân tán như trước giống như bụi bặm, như người dùng phấn để thoa trên đất.
Bỗng thấy trên đất có xương người màu xanh, hành giả lại quán như trước, đem bụi xương người này thoa trên đất.
Lại quán thân như bụi màu xanh, bụi biến thành xương người, xương ấy biến thành màu đen, lại phải dùng bột thoa trên đất như trước.
Lại tự quán thân giống như đất đen, thấy trong đất đen có bốn con rắn đen, mắt đỏ như lửa. Rắn đến áp bức thân phun độc muốn hại nhưng không thể hại được, lại biến thành lửa tự thiêu thân mình.
Bấy giờ, trên không trung có âm thanh tự nhiên, thường thuyết các pháp khổ, không, vô thường, vô ngã. Lúc thấy việc này, tám mươi đầu của mỗi con rắn độc đều lửa đốt, trên không trung tự nhiên có nước rưới lên thân rắn độc làm lửa tắt hết, tất cả tám mươi tám đầu đều tiêu tan. Lúc xuất định hành giả cảm thấy thân an lạc, lặng lẽ không có niệm khởi.
Lại phải tự quán thân mình không có tướng cao lớn, bỗng quán thấy thân tự nhiên cao lớn, sáng rực xinh đẹp như núi bảy báu. Hành giả tự thấy thân mình như hạt châu ma-ni. Bấy giờ hành giả lại phải quán pháp không như trên.
Luc quán pháp không, hành giả tự thấy thân mình vui vẻ, nhu nhuyến, khoái lạc không gì bằng.
Từ trên hoa sen phía trước, ánh sáng màu bảy báu nhập vào tim mình, ở trong hạt châu ma-ni, đầy đủ mười luồn có bảy màu. Bấy giơ trên đảnh có ánh sáng tự nhiên, giống như đám mây sắc vàng, cũng như cái lọng báu có màu giống bạc từ trên đảnh vào, che phía trên ánh sáng của hạt châu ma-ni. Xuất định nhập định thường thấy việc này. Thấy việc này rồi tự nhiên hành giả thấy không còn sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, uống rượu.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Sau khi Phật diệt độ, bốn bộ đệ tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưubà-tắc, Ưu-bà-di nào làm pháp quán này gọi là chánh quán thứ hai mươi sáu, cũng gọi là đắc đạo Tu-đà-hoàn. Nếu được pháp quán này, phải xét kỹ sự thật, khien thân tự nhiên lìa năm điều ác, hợp với kinh điển, không trái giới luật, thân theo luật, đây gọi là tướng của Tu-đà-hoàn.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan nghe Phật dạy hoan hỷ phụng hành.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Nếu có hành giả đắc pháp quán này phải nên che giấu kỹ, chớ tuyên truyền lung tung, cần phải nhất tâm siêng năng tinh tấn.
Siêng năng tinh tấn rồi, lại phải quán kỹ địa đại. Pháp quán địa đại cũng như nói ở trên. Quán địa đại roi, lại dạy quán thủy đại.
Quán thủy đại là tự quán thân mình, quán các chất nước trong thân, thân như lưu ly kiên cường khó hư hoại.
Nếu thấy thân mình đều là nước phải dạy đổi pháp quán, nếu lại thấy thân thành lưu ly hết cũng dạy đổi pháp quán, quán đại địa trở thành lưu ly còn thân giống như làn khí nhẹ, thấy nước từ trong mắt hiện ra. Nếu thấy việc này gọi là quán bốn đại vi tế.
Lại phải dạy hành giả khiến từ đầu trở xuống đầy cả nước, thấy nước chảy ra từ trong mắt và không rơi xuống đất. Hành giả tự thấy mắt mình như bọt nổi trên mặt nước, và ở trong đó cũng đầy cả nước.
Nếu thấy việc thế này, nước trên đầu không ấm, không lạnh, điều hòa ổn định. Nếu nước ấm là quán sai lầm. Màu nước trong vắt không ấm, không mát.
Kế đó, lại quán nước từ hông trở lên, không ấm, không lạnh, lại quán yết hầu như ống lưu ly, nước nhập vào trong ngực, rồi xuống đến bụng và cho đến đầu gối đừng cho vào cánh tay, khiến nước trong suốt như pha lê. Nếu cảm thấy nước ấm đó là quán đúng. Tưởng này thành rồi, lại dạy cho thông suốt các đốt xương của tứ chi, nước đầy trong đó như bình lưu ly đựng nước. Dần dần rộng lớn thấy đầy một giường, người ngoài cũng thấy, nếu thấy nước này trong và lạnh đó là nước chân thật. Nếu thấy tướng khác không gọi là chân thật.
Hành giả nhập vào thủy quán Tam-muội, dần dần rộng lớn đầy trong một phòng, nước đều trong suốt như khí lưu ly, dần dần rộng lớn, biến khắp tam thiên đại thiên thế giới.
Thấy việc ấy rồi, phải ở chỗ yên tĩnh, nhất tâm ngồi ngay ngắn, khiến cho tất cả bạn đồng tu đều thanh tịnh không cho náo loạn. Bấy giờ lại có lửa đỏ rực ở trên nước. Hành giả phải suy nghĩ nước này từ đâu sinh ra và làm sao để hết.
Nếu nói ta là nước, thân ta vô ngã, trước đã quán vô ngã, nay từ trong pháp không, nước từ đâu phát ra. Lúc nghĩ điều này, tánh nước như khí, mất dần mất dần từ trên đỉnh xuống, nước từ từ cạn hết, chỉ còn lại da của thân. Hành giả tự thấy thân mình hết sức mỏng, không gì sánh được, nó như bó cỏ vi trần.
Lại thấy trong thân bỗng nhiên có lửa thiêu thân cháy hết. Hành giả quán thân không có ngã sở, vĩnh viễn không có ngã, ta và chúng sinh tất cả đều không. Khi ấy tâm ý hành giả lặng yên rất là vi tế không thể ví dụ được. Lúc tưởng này thành tựu gọi là quán vô ngã chân thật thứ hai mươi bảy, cũng gọi là tưởng diệt thủy đại, cũng gõi là Tu-đà-hoàn hướng, các pháp giới Hiền thánh vi tế khác cũng không vi diệu bằng, không thể nói hết.
Lúc hành giả ngồi, tu các Tam-muội, lúc được Tam-muội vô ngã sẽ tự nhiên thấy Phật.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Ông khéo thọ trì cảnh giới thủy đại vi diệu chân thật này giảng rộng cho tất cả chúng sinh đời vị lai.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan nghe Phật dạy hoan hỷ phụng hành.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Đắc pháp quán này rồi lại dạy pháp quán thủy đại. Pháp quán thủy đại này hết sức vi tế khiến cho thủy đại hợp với hỏa đại, thấy thân như hơi, như bóng lưu ly. Hành giả quán bốn bên của rốn đều có lửa nổi dậy và thấy ánh lửa giống như ánh sáng mặt trời. Nếu thấy trên rốn có ánh lửa nổi dậy, hoặc có lửa từ mũi ra, hoặc có lửa từ miệng ra, hoặc từ tai, từ mắt ra một tùy ý. Nếu thấy việc này thấy tất cả lửa phát ra từ lỗ chân lông. Sau khi lửa phát có nước màu xanh lục nối theo sau lửa. Hành giả tự thấy trong thân nước lên, lửa xuống, lửa lên, nước xuống, quán thân không có thân.
Lúc tưởng ấy thành tựu, hành giả thấy lửa, nước trong thân không ấm, không lạnh, thân tâm yên lặng, an trụ không chướng ngại. Đây gọi là quả Tư-đà-hàm cũng gọi là cảnh giới thật tướng. Lúc thấy việc này xuất định, nhập định hành giả thường không thấy thân. Lúc nhập định, người ngoài cũng thấy nước lửa từ chân lông ra, từ chân lông vào. Người nhiều tham dâm thấy lửa vào từ trên đỉnh và ra từ thân căn sau đó mới đầy khắp thân thể và thấy nước cũng như vậy. Lại phải tự quán lửa trên đầu như cái lọng bằng đám mây sắc vàng Diêm-phù-đàn-na, hoặc thấy dưới thân như hoa bảy báu, trong tâm yên lặng, an ổn, khoái lạc, các việc vui ở thế gian không thể sinh được.
Khi xuất định, thân cũng an lạc, khiến chúng sinh bên ngoài thấy sắc vàng ánh sáng vàng của thiền định Tam-muội yên ổn, chư Thiên, Đế Thích cung kính lễ bái va nói: “Đại đức, nay đã hết khổ, nhất định sẽ chứng quả Tư-đà-hàm.” Nghe rồi hành giả hoan hỷ tu thân, thiền định, tâm không bị ràng buộc chướng ngại, an ổn khoái lạc, vui chơi trong vô ngã Tam-muội, dần dần nhập vào môn Tammuội Không. Các Tam-muội Vô nguyện, Vô tác đều có trong hiện tại. Cảnh giới vi diệu thù thắng như vậy lúc tọa thiền, ở trong thiền định hành giả tự nhiên phân biệt được.
Nếu là người độn căn, Đại Sư Thế Tôn hiện ra trước mặt thuyết pháp cho. Nhờ thấy Phật, nghe pháp được hoan hỷ. Ngay lúc đó hành giả liền đắc đạo Tư-đà-hàm. Hành giả lại phải chí tâm quán lại pháp trước, trải qua hai mươi lăm lần sáng suốt nhạy bén.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Ông khéo thọ trì pháp quán thủy đại thứ hai mươi chín này, cẩn thận đừng để quên mất. Người đắc pháp này cũng gọi là Tư-đàhàm, cũng gọi là khéo qua lại. Do duyên nghiệp thiện căn đời trước, gặp được pháp hành thanh tịnh của Thiện tri thức, ông sẽ đắc đạo Tư-đà-hàm này.
Bấy giờ nghe Phật nói, Tôn giả A-nan hoan hỷ phụng hành.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nếu đắc được pháp quán thủy đại vi diệu này rồi lại phải dạy pháp quán hỏa đại đặc biệt tối thắng, vi diệu an ổn.
Lúc thực hiện pháp quán ấy, hành giả tự thấy ánh sáng lửa vi diệu ở trong rốn, cái bệ của nó như hoa sen. Màu của nó như hoa hòa hợp ngàn vạn ức vàng Diêm-phù-đàn-na.
Thấy việc này rồi, lại phải dạy quán lửa trong thân. Khi quán lửa trong thân, hành giả thường tự thấy lửa trong tim có ánh sáng hơn cả trăm ngàn vạn ức hạt minh nguyệt thần châu. Ánh sáng của tâm thanh tịnh cũng lại như vậy. Xuất định nhập định hành giả như người cầm hạt châu sáng đi đường sợ người thấy nhưng thật ra chỉ ở trong tâm tự biết rõ như vậy, người khác không thấy. Dần dần rất sáng, thấy thân giống như gương sáng bằng pha lê, thấy tâm cũng sáng rực như viên ngọc thần châu minh nguyệt. Hành giả sợ người khác thấy thật ra người khác không thấy việc ấy.
Lúc nhập định do tâm sáng hành giả thấy tướng thô của tam thiên đại thiên thế giới, thấy núi Tu-di của cõi Diêm-phù-đề và nước biển lớn đều rõ ràng. Lại thấy hạt châu ma-ni vương trong biển lớn, hạt châu ma-ni ấy phát ra các ngọn lửa.
Thấy việc này rồi, khi ấy Phật giang rộng chín loại định theo thứ lớp cho hành giả. Chín loại định theo thứ lớp đó là: chín vô ngại, tám Giải thoát. Các pháp quán như vậy không phải đã thọ nhận trước mà do Phật hiện trước mặt và tự thuyết cho hành giả nghe.
Người lợi căn nghe Phật thuyết pháp trong chín đạo vô ngại, ngay lúc đó liền đắc đạo A-la-hán, vượt hẳn quả vị A-na-hàm, giống như da trắng dễ nhuộm màu.
Nếu là người độn căn, lại phải dạy pháp quán phong đại. Pháp quán phong đại là thấy tất cả gió hết sức vi tế. Vật vi tế ở trong vi tế có thể dùng mắt tâm thấy mà không hề nói đủ. Gió lại xen lẫn với lửa, lửa lại xen lẫn với gió, nước vào trong lửa, gió vào trong nước, lửa vào trong gió, gió, lửa, nước đều theo lỗ chân lông tự tại như ý.
Hoặc lại có gió đầy đủ mười màu, như ánh sáng mười báu, từ lỗ chân lông phát ra, vào từ trong đảnh, phát ra từ trong rốn, vào từ dưới chân, phát ra trong tất cả thân phần, vào từ giữa chân mày, ra từ giữa chân mày, vào từ tất cả bộ phận của thân.
Vô lượng cảnh giới đủ loại như vậy, ánh sáng của Thánh hiền, hạt giống như Thánh hiền, các pháp Thánh hiền đều khởi ra từ phong đại và nhập vào từ trong phong đại này. Pháp quán phong đại này đầy đủ tướng mạo của cảnh giới vi diệu, chỉ có A-la-hán mới có thể phân biệt rộng rãi không thể nói hết, lúc hành giả ngồi sẽ tự nhiên thấy. Nếu thấy việc này, hành giả trừ bỏ bớt các phiền não thành A-na-hàm. Pháp quán phong đại này gọi là tướng cảnh giới tương ưng với A-na-hàm thứ ba mươi.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Ông khéo thọ trì pháp quán cảnh giới phong đại tối thắng tương ưng với A-na-hàm này, cẩn thận dừng để quên mất.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan nghe lời Phật nói hoan hỷ phụng hành.
****************************************************
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở tại khu lâm viên, vườn Kỳ thọ Cấp cô độc, cùng với một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo, khi ấy Tôn giả Maha Ca-diếp có một đệ từ là con một nhà tu khổ hạnh phái Ni-kiền Tử ở thành Vương xá tên la A-kỳ-đạt-đa, cầu Tôn giả Ma-ha Ca-diếp xuất gia học đạo, tu hành khổ hạnh, giữ đủ mười hai hạnh Đầu-đà, trải qua năm năm đắc quả A-na-hàm nhưng không thể vượt lên thành A-la-hán, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến gặp Tôn giả Ca-diếp, chỉnh y phục, chắp tay đảnh lễ Ma-ha Ca-diếp, bạch rằng:
–Thưa Hòa thượng, con theo Hòa thượng tu hành tinh tấn như cứu lửa cháy đầu, đã năm năm rồi, nay bị dừng lại ở quả A-na-hàm, thân tâm mệt mỏi không the tiến lên Vô thượng giải thoát, cúi xin Hòa thượng dạy cho con cách tu nhanh.
Bấy giờ, Tôn giả Ma-ha Ca-diếp liền nhập Tam-muội, quán tâm Tỳ-kheo, biết Tỳ-kheo chưa dứt sạch các lậu, hoặc, từ đây mạng sẽ sinh lên cõi trời A-na-hàm. Xuất khỏi Tam-muội, Tôn giả Ca-diếp dạy:
–Pháp tử! Nay thân tâm ta tất cả đều tự tại, ta nhập vào Tammuội tự tại, quán nghiệp báo đời trước của ông, thấy ông không có duyên thành đạo A-la-hán ngay nơi thân mày.
A-kỳ-đạt nghe lời ấy rồi, buồn rầu khóc như mưa, bạch:
–Thưa Hòa thượng! Ngày nay con không muốn sinh Thiên, như người bệnh nặng cầu sức vô thường, con sợ sinh tử cũng lại như vậy.
Tôn giả Ca-diếp bảo:
–Pháp tử! Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Phàm sự ác độc của sinh tử, giống như lửa dữ, thiêu cháy tất cả, rất là đáng chán, ta quán căn cơ của con không được thấu suốt. Nay có Thế Tôn và các Tỳ-kheo ở rừng Kỳ-đà, ta và con cùng đến gặp Phật.
Lúc này, vị Tỳ-kheo đó đắp y mang bát, theo Ca-diếp đến rừng Kỳ-đà gặp Đức Phật. Thấy Đức Phật thân như núi vàng ở giữa đại chúng, oai đức tự tại, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp đều đầy đủ. Hai vị lễ Phật, nhiễu quanh Phật bảy vòng, lui ra đứng một phía, rồi quỳ xuống chắp tay bạch:
–Bạch Thế Tôn! Đệ tử của con là A-kỳ-đạt-đa, theo con tu mười hai hạnh Đầu-đà, trụ trong thiền định sâu xa, đến quả A-nahàm thì không thể tăng tiến, làm cạn biển phiền não. Cúi xin Đức Thiên Tôn dạy môn giải thoát trong sạch, cam lồ quán đảnh sâu xa cho con.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Tỳ-kheo A-kỳ-đạt:
–Lành thay, lành thay! A-kỳ-đạt-đa! Ông muốn hỏi việc này, ta sẽ phân biệt, nêu rõ sự giải thoát cho ông, ông hãy lắng nghe và ghi nhớ kỹ. Vô số đời quá khứ có Phật tên là Đại Quang Minh gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.
Vị Phật ấy ra đời thị hiện ba cách giáo hóa chúng sinh, độ người rộng khắp. Trong đời tượng pháp có một nước tên là Ba-la-nại, nhà vua tên là Phạm-ma-đạt-đa. Vua có một Thái tử tên là Nhẫn Nhục Khải, phát tâm cầu đạo quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồđề sâu xa, một cách chắc chắc để mong đạt Nhất thiết chủng trí, tự thề không sát sinh, tu mười nghiệp lành, không có tâm chán ghét đối với sáu Ba-la-mật.
Bấy giờ, trong nước ấy có một trưởng giả tên là Nhật Nguyệt Âm có nhiều quyền lực. Ông ta chỉ có một con, đứa con bỗng gặp phải bệnh nóng, phong đại vào tim làm cuồng loạn mất trí, tay cầm gươm bén chạy vào làng giết hại chúng sinh.
Lúc ấy, do thương xót con, trưởng giả kia nâng lò hương trong tay, đến bên ngoài bốn cửa thành, đốt hương, rải hoa phát đại thệ nguyện, nói: “Thế gian nếu có Thần tiên, Thánh nhân, y sư, chú thuật sư, người nào có thể cứu con tôi, tôi sẽ đem tất cả của cải dâng cho.”
Khi ấy, Thái tử ra khỏi thành dạo chơi, thấy đại trưởng giả tu
tâm Từ cầu nguyện cho con ben sinh tâm hoan hỷ, nói: “Đại trưởng giả này siêng tu tâm từ khắp vì tất cả mà con của ông ấy lại mắc bệnh nặng, xin chư Thần tiên đều phát khởi Từ bi đến xứ này cứu con ông trưởng giả.”
Thái tử nói xong liền có một bậc Đại tiên tên là Quang Vị, từ núi Tuyết bay đến gặp trưởng giả, bảo trưởng giả: “Tai nạn của con ông do bệnh nóng phát ra, do bệnh nóng sinh sân hận dữ dội, tim mạch đều mở, phong đại vào tim cho nên phát cuồng. Bệnh như vậy theo kinh sách Tiên dạy: Người mà phong đại Biến động, cần phải dùng tim và máu của người thiện nam không có sân nhuế thoa vào thân, phải dùng tủy của thiện nam ăn như đậu nành mới có thể trừ khỏi.”
Lúc này, trưởng giả nghe Tiên nhân dạy, liền đảnh lễ Thái tử ngay giữa đường mà thưa: “Bậc Đại tiên của trời đất nói: Tai nạn của con tôi phải dùng máu của xương tủy của người có tâm từ, không sân nhuế mới có thể khỏi bệnh. Nay tôi muốn tự đâm thân mình chảy máu cho con ăn, chẻ xương lấy tủy cho nó uống, xin Thái tử chấp nhận cho việc này.”
Thái tử bảo: “Trưởng giả! Tôi nghe Phật dạy nếu có chúng sinh nào làm cha mẹ khổ não sẽ bị đọa vào địa ngục lớn không có lúc ra. Vì sao trưởng giả lại tự hại thân mình. Muốn cho đứa con hết bệnh, trưởng giả phải chờ đợi chốc lát, tôi sẽ làm phương tiện lớn cho trưởng giả.”
Trưởng giả nghe Thái tử dạy tâm rất hoan hỷ, lễ Thái tử rồi trở về nhà, tìm cách khiêng con đem đến cho Thái tử. Thái tử gặp rồi dùng đề hồ tưới lên anh ta. Khi ấy, Tiên nhân bảo Thái tử: “Giả sử dùng thuốc cây rưới lên cho người nam này trải qua chín mươi chín ngày cũng không thể hết bệnh, phải có máu của người có tâm Từ không sân hận.”
Khi ấy, Thái tử tự tư duy: “Trừ thân ta, những chúng sinh khác đều nổi sân. Nay ta làm việc cứu các bệnh khổ giúp đỡ thân sinh tử để cầu Phật đạo. Ở trong đời vị lai nếu được thành Phật, ta sẽ thí Pháp thân thường mạng này.”
Thệ điều ấy rồi, Thái tử liền đâm thân lấy máu thoa lên người
con ông đại trưởng giả kia, bổ xương lấy tủy cho anh ta uống. Sau khi uống, con trưởng giả liền khỏi bệnh. Do xương bị chặt, Thái tử mê man, ngã lăn trên đất.
Lúc này trời đất chấn động sáu cách, Thích, Phạm, Hộ Thế, vô số chư Thiên đều cùng nhau bay xuống chỗ Thái tử, bảo: “Nay Ngài dùng thân cứu bệnh cho chúng sinh muốn cầu việc gì? Muốn cầu Đế Thích, Ma vương, Phạm Thiên hay Chuyển luân thánh vương. Trong ba cõi muốn cầu đạt gì?”
Thái tử bạch với Đế Thích: “Nay điều tôi cầu không phải là sự hào quý tôn vinh trong ba cõi. Điều tôi cầu là nguyện thành tựu đạo quả Bồ-đề vô thượng.”
Bấy giờ, Đế Thích nghe điều này mới bảo Thái tử: “Nay ông đâm thân, chẻ xương, lấy tủy, thân thể run rẩy, có hối hận không?”
Thái tử liền đứng dậy thệ: “Từ lúc mới chích thân cho tới giờ, nếu tôi không có một chút hối hận nào bằng cọng lông sợi tóc thì khiến cho thân thể tôi bình phục như xưa.”
Thệ điều ấy rồi, thân thể Thái tử bình phục như xưa không khác.
Bấy giờ, Đế Thích thấy việc ấy, bèn bạch Thái tử: “Uy đức Thái tử, đặc biệt kỳ lạ không thể sánh được. Ông có ý chí rất mạnh mẽ, chắc chắn sẽ được thành Phật. Lúc Thái tử thành Phật xin độ tôi trước.”
Đế Thích thề như thế xong, Thái tử mặc nhiên nói kệ:
Nguyện lúc tôi thành Phật
Rộng độ khắp người trời
Thân tâm không ngăn ngại
Thương yêu khắp tất cả,
Cũng độ cho các ông
Khiến các loại chúng sinh
Đều trụ Đại Niết-bàn
Vĩnh viễn thọ diệu lạc.
Thái tử nói kệ rồi, chư Thiên mưa hoa cúng dường, lại mưa vô lượng trăm ngàn trân bảo chất đầy bức vách của cung điện. Được trân bảo rồi Thái tử đem bố thí, bố thí không dứt, tu đầy đủ các pháp Ba-la-mật được thành Phật.
Phật bảo Ca-diếp:
–Vua nước Ba-la-nại khi ấy, nay chính là phụ vương Duyệtđầu-đàn, trưởng giả Nguyệt Âm lúc ấy chính là Ma-ha Ca-diếp, con ông trưởng giả khi ấy chính là Tỳ-kheo A-kỳ-đạt, thái tử Nhẫn Nhục Khải lúc đó nay chính là Phật Thích-ca Mâu-ni. Đế Thích lúc ấy nay chính là Tôn giả Xá-lợi-phất.
Phật bảo Tôn giả Ca-diếp:
–Tỳ-kheo A-kỳ-đạt trong quá khứ do bị loạn động về phong đại, bị phát cuồng mà không biết, nên nay nhập định về bốn đại, ở trong định về gió, tâm nghi ngờ không hành được. Giả sử người này nhập vào định phong đại quán bốn đại, đầu sẽ bể thành bảy mảnh, tim bị vỡ mà chết. Phải dạy người này tu tâm Từ.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn dạy Tỳ-kheo A-kỳ-đạt:
–Ông nay phải quán tất cả chúng sinh đều bị năm khổ bức bách, ông nên sinh tâm Từ lớn, muốn thoát khỏi các khổ, quán sắc, thọ tưởng, hành, thức đều khổ, không, vô thường, vô ngã.
Tỳ-kheo A-kỳ-đạt nghe Phật nói điều này, hốt nhiên tâm ý bừng ngộ, ngay lúc ấy đắc đạo A-la-hán, ba Minh, sáu Thông, tám Giải thoát đều đủ. Liền ở trước Phật vọt thân lên không trung hiện bày mười tám pháp biến hóa. Làm mười tám pháp biến hóa rồi lien từ không trung hạ xuống đảnh lễ Phật, bạch rằng:
–Bạch Thế Tôn! Hôm nay ngài nói nhân duyên trước kia cho con nghe và thuyết tâm Từ, giảng rộng bốn Đế. Con nhờ Phật lực liền phá nghiệp kết của ba đời, thành A-la-hán, cúi xin Thiên Tôn hãy vì chúng sinh xấu ác ở đời vị lai, do tội nơi nghiệp ác, sinh trong đời năm ô trược, chúng sinh hư vậy nếu tu Đầu-đà, hành các thiền định đắc A-na-hàm, như tâm bị nghi ngờ, ngừng lại không thực hành được, phải tu pháp gì để lìa bờ khổ.
Phật bảo Tỳ-kheo A-kỳ-đạt:
–Hãy lắng nghe và ghi nhớ kỹ, hôm nay vì ông A-kỳ-đạt, rộng vì tất cả chúng sinh đời vị lai, Như Lai giảng rộng từ A-na-hàm đến A-la-hán. Ở khoảng giữa nếu có cảnh giới vi tế nào, phải tự phân biệt. Nếu người bệnh phong nhiều lúc nhập định phong đại, do phong đại thường phát bệnh cuồng, phải dạy quán Phật. Dạy quán Phật là dạy quán mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng, pháp tam Niệm xứ, đại Từ, đại Bi của Đức Như Lai. Lúc quán pháp này tự nhiên thấy được vô lượng sắc thân, tướng tốt vi diệu, hoặc có chư Phật bay trên không trung, làm mười tám pháp biến hóa, hoặc có chư Phật mỗi một tướng hảo, hiện khắp vô lượng trăm ngàn biến hóa. Lúc thấy việc này phải khởi tâm cung kính cúng dường, tưởng ra hương hoa, rải khắp chư Phật, sau đó phải tự tư duy: năm ấm bốn đại trong thân ta đều vô thường, sinh diệt không ngừng, cành nhánh kết sử và kết sử căn bản đều vô thường. Niệm đến mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng, đại Từ, đại Bi của Phật, công đức trang nghiêm như vậy trang nghiêm nơi sắc thân, giống như bình báu đựng bảo châu như ý, nhờ sức hạt châu báu trang sức bình này. Hạt châu không ngã sở bình cũng không trụ, chỉ vì chúng sinh. Phật cũng như vậy, không có sắc tánh cùng với sắc tướng, giải thoát thanh tịnh.
Nay vì sao ta quán mười Lực của Như Lai, lực thị xứ phi xứ, cho đến lực lậu tận, mười tám pháp Bất cộng, đại Từ, đại Bi làm sao có thể thấy được vô lượng hình tướng có màu sắc. Tưởng điều này rồi, hành giả thấy tượng vàng ròng đầy khắp thế giới Ta-bà, trong bốn oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm đều nói pháp khổ, không, vô thường, vô ngã.
Tuy thấy việc này, hành giả lại phải khởi ý tưởng chư Phật ấy đều do các công đức nơi giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng, đại Từ, đại Bi, tam Niệm xứ hợp lại thành làm sao có sắc. Lúc tưởng điều này quán kỹ từng thứ, khiến tất cả Phật thân tâm không ngại, cũng không có tưởng về sắc, tự thấy thân mình như mây trên không trung. Hành giả quán năm thọ ấm không có các tánh tướng, bỗng nhiên vui mừng thấy thân trở lại, như đám hoa sen bao vây tam thiên đại thiên thế giới, thấy các Phật ngồi, ngồi bên trên hoa của mình, thuyết cho nghe các pháp môn không, vô ngã, vô nguyện, vô tác, mười bốn cảnh giới Thánh hiền sâu xa.
Phật bảo Tỳ-kheo A-kỳ-đạt:
–Nếu có hành giả thấy việc này rồi, phải dạy tâm Từ là: quán địa ngục một cách thận trọng. Bấy giờ hành giả liền thấy mười tám địa ngục, xe lửa, lò than, núi đao, rừng kiếm. Chúng sinh thọ khổ đều là cha mẹ đời trước của mình, là quyến thuộc, dòng họ thân thích hoặc là thầy trò, bè bạn thân thiết. Hành giả thấy từng người bị lửa dữ ở địa ngục A-tỳ đốt thân, hoặc lại có người từng phần từng phần phát ra lửa, hoặc leo lên rừng kiếm, hoặc đạp lên núi đao, hoặc gieo mình vào vạc nước sôi, hoặc hụp lặn trong sông tro, hoặc uống nước phân sôi, hoặc ăn hòn sắt nóng, hoặc uống nước đồng nóng chảy, hoặc nằm trên giường sắt nóng, hoặc ôm cột đồng cháy, hoặc vào rừng kiếm làm nát thân vô số lần, hoặc móc mắt vô số lần, đem hòn sắt nóng đặt trên mí mắt, hoặc thấy ngạ quỷ thân hình cao lớn vài chục do-tuần, ăn lửa than hoặc uống máu mủ biến thành nước đồng sôi, toàn thân bốc cháy, dưới gót chân nước đồng chảy ra, hoặc giữa núi Thiết vi u ám tối tăm chúng sinh đầy trong đó, hình trạng giống như La-sát, ăn nuốt lẫn nhau. Thấy các Dạ-xoa lõa hình đen ốm, hai nanh mọc ngược lên, trên đầu lửa cháy, đầu chúng như đầu trâu, trên đầu sừng mưa ra như máu. Lại thấy hổ, sói, sư tử, các cầm thú ác ăn nuốt lẫn nhau. Lại thấy tất cả súc sinh khổ, hoặc thấy A-tula cắt đứt tai, mũi chịu các việc khổ. Lại thấy tất cả chúng sinh ở ba cõi bị dục sai sử đều bị khổ não.
Hành giả quán cõi trời Vô tưởng, giống như ánh chớp, ảnh tượng, huyễn hóa, không lâu sẽ bị đọa vào trong địa ngục lớn. Tóm lại mà nói tất cả chúng sinh thuoc hai mươi lăm cõi trong Tam giới đều có các nghiệp khổ não trong ba đường.
Khi ấy, hành giả quán thấy chúng sinh thọ khổ ở tam đồ rõ ràng như xem lòng bàn tay. Hành giả khởi Từ bi sâu xa, sinh tâm thương xót, thấy các chúng sinh đời trước làm nghiệp ác cho nên chịu ác báo. Thấy việc này rồi, hành giả buồn khóc như mưa, muốn cứu hộ, tuy đem hết tâm lực nhưng không thể cứu giúp.
Bấy giờ, trong tâm rất thương xót, ghét tai hoạn sinh tử, không nguyện ở lâu, tâm sinh kinh sợ như có người cầm dao muốn đến hại mình. Thấy việc này rồi hành giả lại khởi lòng Từ bi, muốn cứu giúp người khổ như không biết làm cách nào.
Khi ấy, hành giả tự suy nghĩ: các chúng sinh khổ này do vô minh, vô minh duyên với hành, hành duyên với thức, thức duyên với danh sắc, danh sắc duyên với lục nhập, lục nhập duyên với xúc, xúc duyên với thọ, thọ duyên với ái, ái duyên với thủ, thủ duyên với hữu, hữu duyên với sinh, sinh duyên với lão, tử, ưu bi, khổ não.
Bấy giờ, hành giả tự tư duy vô minh này từ chỗ nào đến, do sinh bằng trứng, bằng thai đầy cả tam giới. Hành giả quán vô minh này nhờ địa đại mà được trưởng thành, dựa vào phong đại mà hoạt động. Nhờ đại địa mà thân thể chắc chắn không hư hoại, hỏa đại chiếu sáng làm trưởng thành, thủy đại có tính chất kết hợp làm thành các vật. Tác động như vậy là vì tánh phong đại hoạt động không dừng tánh nước trôi nổi, tánh lửa nóng nảy, tánh đất cứng chắc. Tánh bốn đại này hai lên, hai xuống. Các phương cũng hai, phương Đông thành tánh sắc ấm, phương Nam thành tánh thọ ấm, phương Tây thành tánh tưởng ấm, phương Bắc thành tánh hành ấm, phương trên thành tánh thức ấm. Năm thọ này dựa vào vô minh mà có, từ xúc mà sinh ra, do nhân duyên ưa tiếp xúc sinh ra các thọ, thọ làm nhân duyên sinh ái, thủ, hữu, hữu làm nhân duyên nên sinh ba cõi, chín mươi tám sử và các kết nghiệp, trói buộc chúng sinh không có kỳ ra.
Các nghiệp như vậy có từ vô minh, sinh ra dựa vào si, ái. Vô minh này nguồn gốc của nó từ đâu sinh ra khắp ba cõi làm sự trói buộc đối với các chúng sinh. Ta hãy quán vô minh để biết tướng của nó từ chỗ nào phát ra. Vô minh này là địa đại hay là từ địa đại hay hợp với địa đại, hay là sinh từ địa đại. Tánh đất vốn không, suy ra đại địa không chủ, cái gì là vô minh, khởi tưởng si, ái duyên theo hành mà có. Các hành này và các thủ hữu là khởi từ phong đại, từ thủy đại sinh ra, từ hỏa đại chiếu sáng. Bốn đại như vậy, quán kỹ từng thứ, các đại này thật không tánh tướng, giống như có thật. Vì sao lại lôi kéo chúng sinh trói trong ba cõi bị phiền não lớn thiêu đốt.
Tư duy điều này rồi, hành giả sợ hãi sinh tử, sợ sự sung sướng khi sinh lên cõi trời. Hành giả quán các Thiên cung như mộng, như huyễn, như sương cũng như điện, như âm vang rộng thấy tất cả chúng sinh trong ba cõi như cái vòng xoay tròn, chịu khổ vô cùng. Thấy việc ấy rồi, hành giả buồn rầu không vui. Thế gian như dòng sông chảy mạnh, muốn cầu đạo Niết-bàn ngay trong từng sát-na phải mong muốn giải thoát. Khi ấy lại phải dạy quán sổ tức: hít vào đếm một, thở ra đếm hai, hít vào đếm hai thở ra đếm ba, hít vào đếm ba thở ra đếm bốn, hít vào đếm bốn thở ra đếm năm, hít vào đếm năm thở ra đếm sáu, hít vào đếm sáu thở ra đếm bảy, hít vào đếm bảy thở ra đếm tám, hít vào đếm tám thở ra đếm chín, hít vào đếm chín thở ra đếm mười, đếm mười rồi đếm một trăm, đếm một trăm rồi đếm một ngàn, tùy theo hơi thở nhiều ít, nhiếp tâm trụ theo hơi thở.
Bấy giờ, hành giả tự thấy thân mình như trăm ngàn vạn ức hoa sen, tất cả đều héo úa, gió đến từ bốn phía thổi bay đi biến thành lưu ly, như bình lưu ly. Hành giả tự thấy tâm như cây hoa lớn, từ bờ kim cương ở phương dưới, lên đến đỉnh của ba cõi, có bốn quả. Quả ấy vi diệu như hạt châu như ý, có sáu loại ánh sáng chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới. Lúc thấy việc này, hành giả thấy bờ kim cương cho đến đỉnh ba cõi ở phương trên trong đó có đầy chư Phật và các đại đệ tử quyến thuộc vây quanh. Hoặc có chư Phật bay trên hư không, trên thân ra nước, dưới thân ra lửa, vọt lên ở phía Đông chìm xuống phía Tây, vọt lên ở phía Tây chìm xuống phía Đông, vọt lên ở phía Nam chìm xuống phía Bắc, vọt lên ở phía Bắc chìm xuống phía Nam, vọt lên ở giữa chìm xuống xung quanh, vọt lên xung quanh chìm xuống ở giưa, hoặc hiện thân lớn đầy khắp hư không, lớn hiện nhỏ lại như hạt cải, biến hiện tự tại theo ý không ngăn ngại.
Hoặc thấy các Thanh văn, nhập bốn đại định, thân như đống lửa, trên ngọn lửa giống như ánh vàng đựng các nước màu. Lại thấy thân mình nhập định như các vị ấy. Bấy giờ phải dạy hành giả rằng: “Tuy rằng ông thấy là nhiều Phật và các Thanh văn, ông nên quán sát các Thế Tôn là thân vô tướng, là đại giải thoát, là quả vô học. Ông nên khéo nhiếp tâm đếm hơi thở như trước. Pháp sổ tức này có mười sáu cách không thể nói đủ.”
Hành giả đã đếm hơi thở rồi, tâm ý điềm tĩnh yên lặng không thấy nữa. Lại phải dạy hành giả quán hoa sen tâm, giống như cây hoa trên cây có trái như hạt châu ma-ni, hiện sáu loại ánh sáng. Ánh sáng ấy sáng rỡ, từ đỉnh ba cõi chiếu xuống bờ đất kim cương ở phương dưới. Hành giả thấy rễ cây hoa tâm rủ gần tới đất thật sâu vô cùng.
Bấy giờ, phải quán Pháp thân chư Phật, Pháp thân chư Phật có nhờ sắc thân, sắc thân giống như bình vàng, Pháp thân giống như hạt châu ma-ni. Cần phải quan kỹ trong sắc thân mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bat cộng, đại Từ, đại Bi vô ngại giải thoát, trí thần vô lượng, cảnh giới tuyệt diệu, chẳng phải là chỗ thấy của mắt, chẳng phải là chỗ nghĩ của tâm, tất cả các pháp không đến không đi, không trụ không hoại giống như có thật. Phàm phu ngu si bị giặc lớn lão tử truy đuổi, vọng kiến điên đảo, vì điên đảo nên bị đọa lạc trong tam đồ, vào sông ái dục, bị dòng nước chảy xiết cuốn trôi, chìm đắm trong ba cõi. Nay ta vì sao cùng với phàm phu vọng tưởng thấy Phật.
Đại Hòa thượng của ta là Phật Thích-ca Mâu-ni, khi xưa đem đầu, mắt, tủy, não, quốc thành, vợ con ra bố thí, làm trăm ngàn việc khổ hạnh để cầu pháp giải thoát. Nay ngài được thoát khỏi sinh tử, trụ vào Đại Niết-bàn, yên tịnh rốt ráo không sinh trở lại. Như pháp Phật đời quá khứ, trú ở chỗ thường lạc, không đến cũng không đi, trí tuệ hiện tiền, bất động yên lặng vô vi.
Thân được thành tựu nhờ trí tuệ ấy phải có tưởng gì và vì sao biến động. Nay điều ta thấy hiện từ vọng tưởng thuộc các nhân duyên cho nên gọi là pháp sắc tướng điên đảo. Lúc tư duy điều này, tất cả chư Phật và chư Hiền thánh yên lặng ẩn thân, không còn hiện nữa, chỉ còn lại một vị Phật có bốn đệ tử lớn làm thị giả.
Khi ấy, Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni dạy pháp quán bốn đại thanh tịnh cho hành giả. Ngài bảo:
–Pháp tử! Các Hiền thánh ba đời ở quá khứ, lúc quán hạnh này, tự nhiên đều quán pháp quán phong đại.
Quán phong đại là trước tiên quán trong thân, từ cây hoa tâm sinh ra một làn gió nhẹ, lần lần tăng trưởng biến khắp thân thể, khắp thân thể rồi từ lỗ chân lông ra, đầy khắp trong phóng. Đầy khắp trong phòng rồi thấy một làn gió đầy trong một nhà lớn, lại thấy dần dần đầy trong một khoảng đất, đầy trong một khoảng đất rồi lại tăng thêm đầy trong một do-tuần. Đầy một do-tuần rồi, lại đầy hai dotuần. Đầy hai do-tuần rồi lại đầy ba do-tuần. Đầy ba do-tuần rồi lại đầy bốn do-tuần. Đầy bốn do-tuần rồi lại đầy năm do-tuần. Đầy năm do-tuần rồi dần dần rộng lớn đầy mười do-tuần. Gió nhẹ vừa biến động dần dần rộng lớn đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới, lên đến đỉnh, xuống đến nền kim cương, biến khắp các nơi rồi trở lại nhập vào đảnh, khiến cho tất cả hoa lá của cây hoa tâm ấy dần dần héo rụng. Hành giả tự thấy thân mình như gương pha lê chiếu sáng trong ngoài. Bấy giờ lại phải dạy quán thủy đại.
Quán thủy đại là trước hết quán trong thân, từ ngọn của cây hoa tâm phát ra một dòng nước nhỏ, như khí lưu ly dần dần rộng thêm giống như đám mây màu trắng đầy khắp trong thân. Khắp trong thân rồi, từ sáu căn ra, nước vọt lên trên đỉnh nhiễu quanh thân bảy vòng như mâu trắng bay, mưa xuống từng giọt. Nước ấy mềm mại, đầy khắp một giường, đầy một giường rồi dần dần rộng lớn đầy khắp một phòng, đầy một phòng rồi đầy trong một nhà, đầy trong một nhà rồi đầy trong một thành, đầy trong một thành rồi đầy mười khoảng đất, đầy mười khoảng đất rồi đầy trăm khoảng đất, đầy trăm khoảnh đất rồi đầy một do-tuần. Nước có màu trắng như ánh sáng lưu ly, hơi của nó vi tế hơn cả sắc cảnh của phàm phu. Dần dần rộng lớn đầy hai do-tuần. Đầy hai do-tuần rồi đầy ba do-tuần. Đầy ba dotuần rồi đầy bốn do-tuần. Đầy bốn do-tuần rồi đầy năm do-tuần. Đầy năm do-tuần dần dần rộng lớn roi đầy mười do-tuần, dần dần rộng lớn đầy một cõi Diêm-phù-đề, đầy một cõi Diêm-phù-đề rồi dần dần rộng lớn đầy tam thiên đại thiên thế giới, trên đến đỉnh ba cõi, dưới xuống đất nền kim cương.
Tướng nước như vậy hơi của nó như mây nhập trở vào đảnh. Thấy việc này rồi lại phải dạy quán hỏa đại. Quán hỏa đại là tự quán ngọn cây hoa tâm ở trong thân, giữa các hoa lá có ngọn lửa nhỏ, giống như ánh sáng vàng, ra từ chót tim đầy khắp trong thân, từ lỗ chân lông ra dần dần rộng lớn đầy khắp một giường. Đầy một giường rồi đầy trong một phòng. Đầy trong một phòng rồi dần dần rộng lớn đầy trong một nhà. Đầy trong một nhà rồi đầy trong một thành. Đầy trong một thành rồi đầy trong mười khoảnh đất. Đầy mười khoảnh đất rồi đầy trăm khoảnh đất. Đầy trăm khoảnh đất rồi đầy một do-tuần, màu lửa biến thành trắng như ánh sáng trân châu, lại càng tươi trắng, núi pha lê, núi tuyết cũng không sánh được. Ánh sáng hồng chiếu lẫn lộn làm cho rực rỡ dần dần rộng lớn đầy hai dotuần, đầy hai do-tuần rồi đầy ba do-tuần, đầy ba do-tuần rồi đầy bốn tuần, đầy bốn do-tuần rồi đầy năm do-tuần, dan dần rộng lớn đầy một trăm do-tuần, đầy một trăm do-tuần rồi dần dần rộng lớn đầy một cõi Diêm-phù-đề, đầy một cõi Diêm-phù-đề dần dần rộng lớn đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới, trên đến đỉnh tam giới, dưới đến nền kim cương, rồi nhập trở vào đỉnh.
Thấy rõ việc ấy, lại dạy quán địa đại. Quán địa đại là tự thấy các hoa của cây tâm trong thân, dần dần rộng lớn, như mây kim cương đầy khắp trong thân. Đầy trong thân rồi lại đầy một giường. Đầy một giường rồi đầy trong một phòng. Đầy trong một phòng rồi dần dần rộng lớn đầy trong một nhà lớn. Đầy trong một nhà lớn rồi đầy trong một thành. Đầy trong một thành rồi đầy trong mười khoảnh đất. Đầy mười khoảnh đất rồi đầy trăm khoảnh đất. Đầy trăm khoảnh đất rồi đầy một do-tuần, đầy một do-tuần rồi, màu nó biến thành màu xanh dần dần rộng lớn biến khắp hai do-tuần, khắp hai do-tuần rồi đầy ba do-tuần, khắp ba do-tuần rồi đầy bốn tuần, khắp bốn do-tuần rồi đầy năm tuần, khắp năm do-tuần rồi dần dần rộng lớn đầy một trăm do-tuần, đầy một trăm do-tuần rồi dần dần rộng lớn đầy một cõi Diêm-phù-đề, đầy một cõi Diêm-phù-đề dần dần rộng lớn đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới, trên đến đỉnh tam giới, dưới đến nền kim cương, rồi nhập trở vào đỉnh.
Thấy việc ấy xong, lại dạy quán địa đại trở lại. Quán địa đại như mây kim cương, khó có thể phá tan, làm sao để diệt trừ. Lúc thấy điều này, thấy Phật Thích-ca Mâu-ni ngồi tòa kim cương cùng với năm trăm quyến thuộc đệ tử tôn quý ngồi trước hành giả, đồng thanh ca ngợi Diệt đế. Nghe lời này rồi hành giả phải quán đại địa Từ nhân duyên khởi, do vô minh duy trì, vô minh không có tánh, si ái không chủ, nhân duyên hư ngụy, giả gọi là vô minh, ái, thủ, hữu… đều thuộc tướng này. Lúc tư duy điều này, hành giả thấy trong tự tâm, trên ngọn các cây hoa dần dần lửa phát ra thiêu đám mây kim cương. Mỗi một đám mây ở giữa các lá hòa lẫn với lửa đầy khắp trong thân, đầy trong thân rồi địa và hỏa đều biến động đầy khắp một giường. Đầy một giường rồi đầy trong một phòng. Đầy trong một phòng rồi dần dần rộng lớn đầy trong một nhà lớn. Đầy trong một nhà lớn rồi đầy trong một thành. Đầy trong một thành rồi đầy trong mười khoảnh đất. Đầy mười khoảnh đất rồi đầy tram khoảnh đất. Đầy trăm khoảng đất rồi đầy một do-tuần, đầy một do-tuần rồi đầy hai do-tuần, đầy hai do-tuần rồi đầy ba tuần, đầy ba do-tuần rồi đầy bốn tuần, đầy bốn do-tuần rồi đầy năm tuần, đầy năm do-tuần rồi dần dần rộng lớn đầy một trăm do-tuần, đầy một trăm do-tuần rồi dần dần rộng lớn đầy một cõi Diêm-phù-đề, đầy một cõi Diêm-phùđề. Địa và hỏa hai đại ấy có tánh khác nhau, tác động lẫn nhau, đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới, trên đến đỉnh tam giới, dưới đến nền kim cương, rồi nhập trở vào đỉnh.
Thấy việc ấy xong, lại dạy quán phong đại. Quán phong đại là tự quán trong thân giữa cây hoa tâm phát ra gió màu tím, thủy đại theo vào diet màu gió này khiến gió cùng màu với nước. Gió làm nước vọt lên đầy khắp trong một thân, dần dần rộng lớn đầy một giường. Đầy một giường rồi đầy trong một phòng. Đầy trong một phòng rồi đầy trong một nhà. Đầy trong một nhà rồi đầy trong một thành. Đầy trong một thành rồi đầy một do-tuần, đầy một do-tuần rồi hai đại gió nước, tánh nó khác nhau, gió thổi nước này thành giống như bọt lưu ly, màu nó rực rỡ, cổ động lẫn nhau đầy khắp hai dotuần, đầy hai do-tuần rồi đầy ba tuần, đầy ba do-tuần rồi đầy bốn tuần, đầy bốn do-tuần rồi đầy năm tuần, đầy năm do-tuần rồi dần dần rộng lớn đầy một trăm do-tuần, đầy một trăm do-tuần rồi dần dần rộng lớn đầy một cõi Diêm-phù-đề, đầy một cõi Diêm-phù-đề dần dần rộng lớn đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới, trên đến đỉnh tam giới, dưới đến nền kim cương.
Thấy việc này rồi hành giả tự thấy tất cả lỗ chân lông trong thân đều có lửa nổi dậy, ánh sáng lửa này đầy khắp ba cõi, ra ngoài ba cõi như hoa sen vàng ròng, trên hoa có quả xen lẫn trong lá. Trong ánh sáng ấy quả diễn thuyết từ đó, mười hai nhân duyên, pháp vượt sinh tử.
Lại thấy trong thân tất cả nước nổi dậy, nước ấy ấm và thấm khắp, từ lỗ chân lông chảy ra chảy khắp ba cõi, biến khắp tất cả. Màu nước phát ra ánh sáng chiếu sáng đỉnh của tam giới, nhập vào trong ánh sáng lửa phát ra tư quả ấy.
Lại thấy trong thân tất cả gió nổi dậy đầy khắp trong thân từ lỗ chân lông ra dần dần rộng lớn, thổi rất mau đầy khắp ba cõi hóa làm đám mây vàng nhập vào trong ánh sáng của quả ấy.
Rồi có hơi đất rất mong manh, đầy khắp bốn đại. Thấy việc này rồi phải dạy quán kỹ năm ấm, trước hết là quán sắc ấm, sắc ấm này dựa vào địa đại mà có, địa đại không nhất định sinh ra từ vô minh, vô minh làm nhân duyên vọng thấy gọi là sắc. Quán sắc tướng này, hư ngụy không thật, cũng không chỗ sinh, hiện ra nhờ nhân duyên. Nhân duyên có tánh không, sắc ấm cũng vậy. Thọ, tưởng, hành, thức, tánh tướng đều không, bên trong không có gì là chắc thật. Quán năm ấm này thật không có nhân duyên, cũng không có thọ hữu. Bốn đại như vậy vì sao tăng trưởng trong khắp ba cõi.
Lúc tư duy điều ấy, thấy lửa phát ra từ tất cả lỗ chân lông, đầy khắp ba cõi rồi nhập trở vào từ tất cả lỗ chân lông.
Lại thấy tất cả địa đại, giống như đám mây kim cương hiện ta từ tất cả lỗ chân lông đầy khắp ba cõi rồi nhập trở vào theo tất cả lỗ chân lông.
Lại thấy thủy đại giống như bụi bặm từ tất cả cac lỗ chân lông chảy ra, đầy khắp ba cõi, rồi nhập trở vào theo tất cả các lỗ chân lông.
Lại thấy phong đại từ tất cả lỗ chân lông thổi ra một cách yếu ớt, đầy khắp ba cõi, rồi trở vào theo tất cả các lỗ chân lông.
Lại thấy phong đại từ tất cả các lỗ chân lông thổi ra một cách yếu ớt, đầy khắp ba cõi rồi nhập trở vào theo tất cả các lỗ chân lông.
Bốn đại như vậy từ lỗ chân lông ra theo lỗ chân lông vào, tới
lui qua lại, trải qua tám trăm lần. Thấy việc này rồi, hành giả đếm hơi thở như trước, nín thở mà trụ trải qua từ một đến bảy ngày. Khi ấy thấy đại địa dần dần trống rỗng, thấy dưới một giường dần dần trống rỗng, thấy một phòng dần dần trống rỗng, thấy một phòng rồi, thấy một nhà dần dần rỗng không, thấy một nhà rồi thấy một thành dần dần rỗng không, thấy một thành rồi thấy mười khoảnh đất dần dần rỗng không, thấy mười khoảnh đất rồi thay một trăm khoảnh đất dần dần rỗng không, thấy một trăm khoảnh đất rồi thấy một do-tuần đất dần dần rỗng không, thấy một do-tuần đất rồi thấy hai do-tuần đất dần dần rỗng không, thấy hai do-tuần đất rồi thấy ba do-tuần đất dần dần rỗng không, thấy ba do-tuần đất rồi thấy bốn do-tuần đất dần dần rỗng không, thấy bốn do-tuần đất rồi thấy năm do-tuần đất dần dần rỗng không, thấy năm do-tuần đất rồi thấy cho đến mười do-tuần đất dan dần rỗng không, thấy mười do-tuần đất rồi thấy cho đến một trăm do-tuần đất dần dần rỗng không, thấy một trăm do-tuần đất rồi thấy cho đến cõi Diêm-phù-đề tám ngàn đất dần dần rỗng không. Thấy cõi Diêm-phù-đề roi thấy cõi Phất-bàđề mười ngàn do-tuần đất dần dần rỗng không. Thấy cõi Phất-bàđề rồi thấy cõi Cù-da-ni ba vạn do-tuần đất dần dần rỗng không. Thấy cõi Cù-da-ni rồi thấy cõi Uất-đàn-việt bốn vạn do-tuần đất dần dần rỗng không. Thấy cõi Uất-đàn-việt rồi thấy núi Tu-di, bốn biển lớn, núi, sông, đá vách, tất cả vật cứng chắc được thấy trong bốn thiên hạ đều dần dần rỗng không. Thấy bốn thiên hạ rồi, tâm dần dần rộng khắp đầy tam thiên đại thiên thế giới, các vật cứng chắc, đại địa núi sông, đá vách tất cả đều rỗng không, tâm không có chỗ tựa.
Bấy giờ, tự nhiên thấy nền kim cương có mười bốn vách kim cương từ dưới kim cương luân tự nhiên vọt lên, va động lẫn nhau, đến trước hành giả. Trên chóp các hoa vi diệu của cây hoa tâm, tự nhiên lửa nổi dậy thiêu các hoa lá. Bốn quả trên cây rớt xuống đỉnh hành giả, theo đỉnh mà vào trụ ở trong tim. Bấy giờ tâm hành giả bỗng nhiên sáng rực thấy các việc bị che đậy bên ngoài.
Lại có sáu con voi màu đen, đạp phá đại địa, hút nước uống, gió thổi giết chết voi. Tai voi phát lửa thiêu hết các con voi.
Bốn con rắn độc chạy lên ngọn cây, thấy có một người giống như đại lực sĩ chặt cây ấy, xuống đến nền kim cương, lên đến đỉnh tam giới, khiến cây lay động, bốn hạt minh châu trong tâm hành giả lại phát lửa lớn thiêu hết rễ cây. Lúc ấy cây đại tho nát như bụi. Hành giả thấy rồi nghĩ: “Ta nay quán nước, lửa, gió cùng với thủy đại tất cả đều vô thường, biết diệt trong chốc lát, phải tự quán bốn đại trong thân ta, lửa không dứt, đất nước, gió cũng lại như vậy. Tướng vô minh này không có sở hữu, giả ngụy điên đảo giống như sương, như bóng nắng, thuộc về ba cõi duyên với si, ái, nhớ nghĩ pháp sinh ra ba mươi ba lần, chuyển thành chín trăm chín mươi chín lần, lần lượt niệm thô tướng ket sử có chín mươi tám loại, cành nhánh, hạt giống đầy khắp ba cõi. Vì những kết sử này mà phải chịu thọ sinh vô cùng hoặc đọa địa ngục, lửa dữ đốt thân hoặc làm ngạ quỷ, nuốt nước đồng sôi, ăn hòn sắt nóng, trong tram ngàn đời không nghe đến nước, lúa, hoặc làm súc sinh, lạc đà, lừa heo, chó nhiều không thể biết, thọ khổ trong loài người, các nạn chẳng phải là một, rất nhiều tai nạn như vậy đều do si, ái mà ra.
Nay quán si, ái tánh không có chỗ có. Lúc nghĩ như vậy, Phật Thích-ca Mâu-ni phóng ánh sáng sắc vàng cùng với quyến thuộc Thanh văn vây quanh, bảo hành giả:
−Nay ông có biết không, sắc tướng hư dối vắng lặng, thọ tưởng hành thức cũng lại như vậy, ông nên quán kỹ Tam-muội không, vô tác, vô nguyện.
Tam-muội Không là quán tánh của sắc và tất cả pháp không có sở hữu, các cái không như vậy gọi là Tam-muội không.
Tam-muội Vô nguyện là quán tánh Niết-bàn, vắng lặng không tướng, quán tướng sinh tử đều giống như có thật. Lúc quán điều này không muốn sinh tử, không ưa Niết-bàn, quán nguồn gốc sinh tử rỗng không, quán tánh tướng Niết-bàn cũng đồng với không, không có hòa hợp đó gọi là vô nguyện Tam-muội.
Tam-muội Vô tác là không thấy tâm, không thấy thân, và các oai nghi có chỗ tác dụng, không thấy Niết-bàn có khởi tánh tướng, chỉ thấy diệt đế thông đạt không có sở hữu.
Bấy giờ, hành giả nghe Phật Thế Tôn thuyết Tam-muội Không, Vô tướng, Vô nguyện ấy, thân tâm yên tĩnh đi vào trong ba cửa không trong khoảng thời gian giống như tráng sĩ co duỗi cánh tay, theo tiếng giảng liền được vượt khỏi chín mươi ức sinh tử, không còn kết sử thành A-la-hán, không thọ thân sau, phạm hạnh đã lập, biết thật như đạo, ý giải thông suốt, không còn trở lại cảnh giới khác nữa, hết lậu hoặc tự nhiên đắc trí tuệ thông suốt. Ngũ thông còn phải nhờ tu chứng lục thông, rộng nói như trong A-tỳđàm.
Khi Đức Thế Tôn thuyết pháp Thánh hiền cho Tỳ-kheo A-kỳđạt, khiến tâm tương ưng với không, với cảnh giới phân biệt tướng của mười nhất thiết nhập roi, vị ấy mặc nhiên yên ổn nhập vào Tam-muội vô tránh, phóng các ánh sáng chiếu khắp Thế Tôn. Bấy giờ, hai trăm năm mươi Tỳ-kheo, ở trong chúng hội tâm ý được khai mở thành A-la-hán. Năm mươi Ưu-bà-tắc phá hai mươi ức kết sử thành Tu-đà-hoàn. Đại chúng trời, người nghe lời Phật dạy đều hoan hỷ.
Lúc này, Tôn giả A-nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy bạch Phật rằng:
–Bạch Thế Tôn! Như Lai ban đầu vì Ca-hy-la-nan-đà nói pháp môn Bất tịnh, vì Tỳ-kheo Thiền-nan-đề nói pháp Sổ tức, vì Tỳ-kheo A-kỳ-đạt nói pháp Bốn đại, các pháp môn vi diệu như vậy làm sao để thọ trì, phải dùng tên gì để chỉ dạy cho đời sau?
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Kinh này tên là Pháp Thiền Bí Yếu, cũng tên là Pháp Môn Quán Bạch Cốt, cũng tên là Cửu Tưởng Theo Thứ Lớp, cũng gọi là Pháp Quán Tạp Tưởng, cũng gọi là Phương Pháp A-na-bát-na, cũng gọi là Tưởng Bốn Quả Theo Thứ Lớp, cũng gọi là Phân Biệt Cảnh Giới, thọ trì như vậy cẩn thận chớ quên mất.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Sau khi ta diệt độ, nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoama-na, Sa-di, Sa-di-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào muốn học pháp của ba đời chư Phật đoạn giống sinh tử, vượt sông phiền não, làm cạn biển sinh tử, diệt hạt giống ái, dưt các sông kết sử, chán năm thứ dục lạc, ưa Niết-bàn, thì nên học pháp quán này. Công đức của pháp quán này như núi Tu-di, phát ra các ánh sáng, chiếu bốn cõi, người thực hành pháp quán này đầy đủ quả Sa-môn cũng lại như vậy.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Sau khi ta diệt độ nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào muốn học pháp này, phải lìa bốn việc ác.
Những gì là bốn:
- Giữ gìn giới cấm một cách thanh tịnh, không phạm các oai nghi. Đối với giới của năm chúng nếu có chỗ sai phạm phải chí tâm sám hối cho thanh tịnh, giới thanh tịnh rồi gọi là trang nghiêm phạm hạnh.
- Xa lìa chỗ ồn ào, ở một mình nơi yên tịnh, buộc tâm một chỗ, ít muốn nói phap, tu hành mười hai hạnh Đầu-đà một cách chín chắn, tâm không mệt mỏi chán nản, như cứu lửa cháy đầu.
- Phải quét tháp và làm sạch nền đất, bố thí cây đánh răng và que vệ sinh và làm các việc khổ nhọc để trừ tội chướng.
- Ngày đêm sáu thời thường ngồi không nằm, không ưa ngủ nghỉ, dựa lưng vào những vật nằm nghiêng, thích ở giữa mả, dưới cây, nơi A-lan-nhã, ăn như nai ăn, im lặng như nai.
Nếu có người nào trong bốn chúng thực hành bon pháp này nên biết người này là nhà khổ hạnh. Khổ hạnh như vậy không lâu sẽ được bốn quả Sa-môn.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Nếu có bốn chúng tu tập pháp buộc niệm cho đến quán thấy xương trắng của một phần nhỏ đầu ngón tay, ngón chân hết sức rõ ràng. Nếu thấy một ngón một móng, hoặc thấy tất cả các xương trắng phải biết người này do tâm sắc bén sau khi chết, nhất định sinh lên Đâu-suất-đà thiên, diệt tất cả khổ đau hoạn nạn của ba đường ác. Người này tuy chưa giải thoát nhưng không đọa ác đạo. Phải biết công đức của người này không mất và người này đã lìa được khổ nạn trong ba đường, huống gì quán đủ các bộ xương người màu trắng. Ai thấy bo xương người này, tuy chưa giải thoát công đức vô lậu, phải biết người này đã thoát khỏi tai nạn khổ nguy hiểm ở ba đường, tám nạn. Phải biết người này đời đời sinh ra đều được thấy Phật, tương lai sẽ gặp Phật Di-lặc ở hội Long hoa, nghe pháp lần đầu tiên liền được chứng quả giải thoát.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào sống trong Phật pháp, vì lợi dưỡng tham cầu không biết chán mà làm hành động ác bằng cách dối trá: thật sự không tọa thiền, buông lung thân, khẩu, hành động phóng dật. Do tham lợi dưỡng, tự nói tọa thiền, Tỳkheo như vậy phạm tội Thâu-lan-giá. Phạm rồi không chịu khai tội, không tự hối cải, không bao lâu, liền phạm mười ba Tăng tàn. Nếu trải qua một ngày đến hai ngày, phải biết Tỳ-kheo này là giặc trong trời, người, là La-sát quỷ quái chắc chắn sẽ đọa ác đạo vì phạm tội rất nặng.
Nếu Tỳ-kheo-ni chưng diện tà mị, muốn cầu lợi dưỡng như mèo rình chuột, tham cầu không chán, thật không tọa thiền, tự nói tọa thiền, buông lung thân khẩu, hành động phóng dật vì tham cầu lợi dưỡng tự nói tọa thiền. Tỳ-kheo-ni như vậy phạm Thâu-lan-giá. Phạm rồi không chịu khai tội, không tự cải hối, không bao lâu liền phạm Tăng tàn, nếu trải qua một ngày đến hai ngày, phải biết Tỳkheo-ni này là giặc trong trời, người, là La-sát quỷ quái chắc chắn sẽ đọa vào đường ác, vì phạm tội rất nặng.
Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni thật không thấy xương trắng, cho đến quán sổ tức, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni phỉnh gạt trời, rồng, quỷ, thần, lừa dối người đời. Những người ác này là dòng giống của Ba-tuần. Do vọng ngữ, tự nói tôi đắc pháp quán bất tịnh cho đến pháp đảnh. Người nói dối này sau khi chết, nhất định sẽ đọa vào địa ngục A-tỳ mau hơn mưa đá. Thọ mạng một kiếp, từ địa ngục ra, đọa trong loài ngạ quỷ, trong tám ngàn năm, nuốt hòn sắt nóng, từ ngạ quỷ ra đọa trong loài súc sinh, sống thường chở nặng, chết lại bị lột da. Trải qua năm trăm đời sinh trở lại trong loài người, mù, điếc, câm, ngọng, gù lưng, tàn phế, bị trăm thứ bệnh thường đi theo mình. Người đó phải trải qua các khổ như vậy không thể nói hết.
Nếu Ưu-bà-tắc thật không tọa thiền tự nói tọa thiền, thật không tu phạm hạnh tự nói tu phạm hạnh, Ưu-bà-tắc này mắc tội thất ý, không có việc bất tịnh nào không làm, đọa lạc vào hạng Chiên-đà-la hôi thối, làm bạn với người ác, là hạt giống mục nát, không sinh ra mầm thiện. Do tham lợi dưỡng cầu nhiều không chán, trải qua một ngày cho đến năm ngày phạm đại vọng ngữ. Người đại ác này là tay chân của Ba-tuần, là hạng Chiên-đà-la, đồng loại với La-sát đồ tể, nhất định sẽ đọa vào ba đường ác. Ưu-bà-tắc này lúc sắp mạng chung mười tám địa ngục xe lửa, lò than do các việc ác biến hóa ra nhất thời nghinh đón người ấy. Người ấy nhất định sẽ đọa vào ba nẻo ác không còn nghi ngờ.
Nếu Ưu-bà-tắc thật không được pháp quán Bất tịnh, cho đến pháp Noãn, lại khởi tăng thượng mạn ở trong đại chúng nói rằng ta đã đắc pháp quán Bất tịnh cho đến Noãn pháp, phải biết Ưu-bà-tắc này là giặc trong trời người, phỉnh gạt Thiên long bát bộ trong thế gian. Ưu-bà-tắc này sau khi chết sẽ đọa vào địa ngục A-tỳ mau hơn mưa đa, mãn một đại kiếp, hết tuổi thọ ở địa ngục sẽ sinh trong loài ngạ quỷ, trải qua tám ngàn năm, nuốt hòn sắt nóng, từ ngạ quỷ ra đọa trong loài súc sinh, sống thường chở nặng, chết lại bị lột da, trải qua năm trăm thân, sinh lại trong loài người, điếc, mù, câm, ngọng, ốm gầy, trăm thứ bệnh già yếu thường đi theo mình, trải qua kho như vậy, không thể nói hết.
Nếu Ưu-bà-di bày điều khác lạ để mê hoặc mọi người, thật không tọa thiền tự nói tọa thiền, Ưu-bà-di này mắc tội thất ý, không có việc bất tịnh nào không làm, đọa lạc trong hạng Chiên-đà-la hôi thối, làm bạn với người ác, là quyến thuộc của ma, nhất định sẽ đọa trong ba đường ác. Ưu-bà-di này mắc tội rồi không chịu bày tỏ, không chịu hối cải, trải qua một ngày cho đến năm ngày tham cầu không biết chán. Thật chẳng phạm hạnh, tự nói là phạm hạnh, thật chẳng tọa thiền tự nói tọa thiền. Người đại ác này nhất định sẽ bị đọa trong ba đường ác, theo nghiệp thọ sinh.
Nếu Ưu-bà-di thật chẳng được pháp quán Bất tịnh, cho đến Noãn pháp, lại ở giữa đại chúng khởi tăng thượng mạn, nói lời như vầy: tự nói ta đã đắc pháp quán Bất tịnh cho đến Noãn pháp, Ưu-bàdi này là giặc trong trời người, sau khi chết nhất định sẽ bị đọa vào địa ngục A-tỳ mau hơn mưa đa. Mãn một đại kiếp, thọ mạng ở địa ngục hết, sinh trong loài ngạ quỷ, trải qua tám ngàn năm, nuốt hòn sắt nóng, từ ngạ quỷ ra, đọa trong súc sinh, sống thường chở nặng, chết lại bị lột da, trải qua năm trăm đời, sinh trở lại trong loài người, đui, điếc, câm, ngọng, già yếu tàn tật trăm thứ bệnh theo bên mình, trải qua các khổ như vậy, không thể nói hết.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào buộc niệm trụ ý, tâm thường tán loạn, ngồi ngay ngắn, giữ chánh định, trụ ý một chỗ, đóng kín các căn. Người này do định lực của tâm niệm an trụ, nên không còn lệ thuộc vào ngoại cảnh, xả thân sang đời sau sinh len trời Đâu-suất gặp Di-lặc, câu hội với Di-lặc. Lúc hạ sinh xuống Diêm-phù-đề ở hội Long hoa thứ nhất, nghe pháp lần đầu liền ngộ đạo giải thoát.
Lại nữa, này A-nan! Sau khi Phật diệt độ, trong đời ác trược nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào thật tu phạm hạnh, hành mười hai hạnh Đầu-đà trang nghiêm thân tâm, thực hành pháp niệm định, tu pháp quán bạch cốt, quán bất tịnh, nhập cảnh giới sâu xa, mắt tâm sáng nhạy, thông đạt pháp thiền, bốn chúng như vậy làm tăng trưởng Phật pháp, làm Chánh pháp không bị hoại diệt.
Hành giả phải giữ kín thân, khẩu, ý giống như có người ngộ bệnh thân tâm, lương y cho toa phải uống đề hồ. Bấy giờ người bệnh liền đến nhà vua xin đề hồ. Vua thương xót lấy đề hồ đem cho người ấy, nhân đó mới chỉ cho người bệnh cách uống đề hồ, phải ở phòng kín nơi không có gió, bụi mà uống nó, uống rồi ngậm miệng ổn định khí tứ đại khiến cho được điều độ.
Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nào uống thuốc cam lồ quán đảnh này, chỉ trừ bậc thầy giáo thọ biết pháp, không được tùy tiện nói với người khác về việc ấy. Nếu nói với người khác, liền mất cảnh giới ấy, lại phạm mười ba Tăng tàn.
Nếu các bạch y muốn hành thiền định đắc năm thần thông còn không nên nói với những người khác rằng tôi đắc tất cả những bí pháp thần thông, chú thuật của tiên, huống gì là người xuất gia thọ giới cụ túc, nếu đắc Bất tịnh quán cho đến Noãn pháp, không được tùy tiện nói việc ấy với người khác, nếu nói với người khác liền mất cảnh giới khiến nhiều chúng sinh sinh tâm nghi hoặc đối với Phật pháp.
Cho nên ta nay ở trong chúng này dạy các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nếu đắc pháp quán Bất tịnh cho đến Noãn pháp pghải kín đáo tu hành, khiến tâm sáng suốt, chỉ nói với người trí hoặc bậc thầy giáo thọ, không được truyền rộng nói với người khác. Nếu nói với người khác vì lợi dưỡng ngay lúc đó liền phạm mười ba Tăng tàn. Phạm tội rồi không sám hối, tâm không tàm quý, cũng phạm trọng tội như đã nói ở trên.
Lại nữa, A-nan! Sau khi Phật diệt độ, hiện tiền không Phật, bốn đệ tử ai cầu giải thoát đắc pháp quán Bất tịnh, phải giấu kín đáo đừng cho người khác biết. Ví như có người bần cùng, cô độc sinh vào đời ác trược, phụ thuộc vào nhà vua vô đạo. Người ban cùng kia đào đất để tìm nước, do nhân duyên đời trước, chợt gặp kho tàng giấu kín, lấy nhiều trân bảo, vì sợ vua ác, người đó giấu của báu này, không cho người khác biết, chỉ ở chỗ kín lấy trân bảo này cung cấp cho vơ con, âm thầm hưởng khoái lạc.
Sau khi Phật diệt độ, bốn đệ tử được vui thiền định, cũng lại như vậy phải giấu kín nó không được rộng nói, nếu ai rộng nói sẽ phạm trọng tội.
Lại nữa, này A-nan! Ví như trưởng giả chỉ có một người con, nó bị bệnh rất nặng: tóc, lông mày rụng sạch. Khi ấy trưởng giả tự nghĩ: “Ta nay kém phước chỉ có một đứa con bị bệnh nặng phải tìm lương y ở đâu?”
Nghĩ rồi, trưởng giả bỏ ra nhiều tiền của tìm kiếm lương y. Do phước đời trước trưởng giả gặp được một thầy thuốc biết nhiều toa thuốc.
Trưởng giả thưa:
–Cúi xin Đại sư hãy khởi đại Từ bi, tôi có một đứa con gặp tai hoạn đã lâu, cúi xin Đại sư trị bệnh này cho hết hẳn. Nay trong nhà tôi có nhiều tài sản của báu giống như Tỳ-sa-môn Thiên vương ở phương Bắc, nếu đứa con bớt bệnh, trừ thân tôi ra, tất cả đều xin dâng cho thầy không dám trái nghịch.
Bấy giờ, lương y kia bảo trưởng giả:
–Nay ông có thể tạo nhà kín bảy tầng, hết sức kín đáo. Sau đó mới có thể cho con ông uống thuốc. Uống thuốc này rồi, không được gặp người khác, không được nói với người khác, trải qua bốn trăm ngày đứa nhỏ mới hết bệnh.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Sau khi Phật diệt độ, bốn đệ tử của Phật nếu tu thiền định cầu giải thoát như người bệnh nặng, theo sự chỉ bảo của lương y, phải ở nơi yên tĩnh hoặc là nơi gò mả, hoặc là bên gốc, hoặc là nơi A-lannhã tu hành các đạo Hiền thánh sâu xa, phải giữ gìn kín thân miệng, ở trong nội tâm tu bốn Phạm hạnh, tu bốn Niệm xứ, tu bốn Chánh cần, tu bốn Như ý túc, tu năm Căn, tu năm Lực, tu bảy Giác chi, tu tám Thánh đạo, tu bốn Thiền. Tu bốn Vô lượng tâm, tâm du nhập vào vô lượng môn Tam-muội không hết sức sâu xa cho đến đắc sáu Thần thông. Các loại công đức thắng diệu như vậy chỉ phải nhất tâm, lặng lẽ mà thực hành, cẩn thận chớ khoa trương, trước mọi người mình đắc pháp thượng nhân. Nếu nói đắc pháp Thượng nhân, thì như đã nói ở trên, nhất định sẽ bị đọa vào địa ngục A-tỳ.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Sau khi ta nhập Niết-bàn, một trăm năm đầu, pháp Bất tịnh quán này lưu hành ở cõi Diêm-phù-đề, thu giữ những người phóng dật cho quán Tứ đế, trong một ngày tu quán vô thường số người được giải thoát giống như ta còn ở đời không khác.
Sau khi hai trăm năm, ở cõi Diêm-phù-đề này chỉ có một phần hai trong số bốn bộ đệ tử tu quán vô thường đắc đạo giải thoát.
Sau ba trăm năm, chỉ có một phần tư trong số bốn bộ đệ tử tu quán vô thường, được đạo giải thoát.
Sau bốn trăm năm, chỉ có một phần năm trong số bốn bộ đệ tử tu quán vô thường, được đạo giải thoát.
Sau năm trăm năm, chỉ có một phần mười trong số bốn bộ đệ tử tu quán vô thường, được đạo giải thoát.
Sau sáu trăm năm, trong số bốn bộ đệ tử chỉ có một phần trăm đệ tử tu quán vô thường, được đạo giải thoát.
Sau bảy trăm năm, bốn bộ đệ tử chỉ có một phần ngàn tu quán vô thường, được giải thoát.
Tám trăm năm, chỉ có một phần vạn trong số bốn bộ đệ tử tu quán vô thường, đắc đạo giải thoát.
Chín trăm năm, chỉ có một phần ngàn vạn tu quán vô thường được giải thoát.
Một ngàn năm, trong bốn bộ đệ tử, trong ức phần chỉ có mười người, trăm người tu quán vô thường được đạo giải thoát.
Hơn một ngàn năm quán pháp vô thường tuy còn lưu hành trong cõi Diêm-phù-đề, chỉ có một hoặc hai người trong ức ức ngàn vạn đệ tử tu quán vô thường, được đạo giải thoát.
Sau một ngàn năm trăm năm, nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưubà-tắc, Ưu-bà-di nào khen ngợi rộng nói pháp quán khổ, không, vô thường, vô ngã, có nhiều chúng sinh ôm lòng ganh ghét, hoặc dùng đao chặt, hoặc dùng ngoi đá đánh đập người kia, mắng rằng người này ngu si ở thế gian, chỗ nào có pháp quán khổ, không, vô thường, vô ngã, thân thể trắng sạch vô cùng, tại sao lại nói thân là bất tịnh, ông là người đại ác thật đáng đuổi đi. Lúc tướng này hiện trong trăm ngàn người, không có một người tu quán vô thường. Lúc tướng này hiện, cây phướn pháp sụp đổ, mặt trời trí tuệ lặn mất, tất cả chúng sinh mù tối không có mắt. Phật Thích-ca Mâu-ni tuy có đệ tử nhưng y ca-sa mà họ đắp giống như lá cờ gắn lên đầu cây tự nhiên biến thành màu trắng. Các Tỳ-kheo-ni giống như dâm nữ rao bán nữ sắc để sinh sống. Các Ưu-bà-tắc như Chiên-đà-la, sát sinh vô độ, các Ưu-bà-di tà dâm không đạo đức, lừa dối trăm cách. Lúc tướng này hiện, Chánh pháp vô thượng của Phật Thích-ca Mâu-ni mất vĩnh viễn không còn nữa.
Phật bảo Tôn giả A-nan:
–Ông đem lời Phật dạy, giảng rộng, phân biệt nghĩa lý của nó cho bốn bộ đệ tử đời vị lai, đừng để quên mất.
Lại nữa, này A-nan! Ông phải giảng giải lời này cho các chúng sinh đời vị lai. Pháp lớn của Như Lai không lâu sẽ lạc mất. Các ông đối với Phật pháp phải siêng năng tinh tấn, phải quán các pháp khổ, không, vô thường, vô ngã.
Lúc Phật nói lời này, tám ngàn Thiên tử tỏ ngộ về lý vô thường, xa lìa trần cấu, đắc Pháp nhãn trong sạch. Năm trăm Tỳkheo liền ở trên tòa không chấp thọ các pháp, dứt hết lậu hoặc, ý được thông suốt, thành A-la-hán.
Khi ấy, Tỳ-kheo A-kỳ-đạt và một ngàn hai trăm năm mươi Tỳkheo, chư Thiên, long thần nghe Phật nói pháp môn quán vô thường này, tâm khai, ý giải, đều thấu suốt khổ, không, vô thường, đảnh lễ Phật, hoan hỷ phụng hành.