Đ a n g t i d l i u . . .

Kinh Nhiều Trí Tuệ Tới Niết Bàn Phật Quyển 71

Kinh Nhiều Trí Tuệ Tới Niết Bàn Phật Quyển 71

Kinh Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn Phật
(Đại Bát nhã Ba La Mật đa Kinh)
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Phật Tử Bùi Đức Huề và Phật Tử Bùi Anh Tuấn dịch năm 2015

 

Kinh Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn Phật, quyển thứ bảy mươi mốt.

Thứ hai phần mười chín Phẩm Quan sát hạnh phần đầu.

Thế Tôn ! Nhiều Bố thí tới Niết Bàn không sinh, liền là Nhiều Bố thí tới Niết Bàn sai. Nhiều Giới hạnh sạch, yên Nhịn, Tinh tiến, nghĩ Tĩnh lặng, Trí tuệ tới Niết Bàn không sinh, liền là Nhiều Giới hạnh sạch, yên Nhịn, Tinh tiến, nghĩ Tĩnh lặng, Trí tuệ tới Niết Bàn sai. Sở dĩ thế nào ? Nhiều Bố thí tới Niết Bàn với Không sinh không có hai, không có hai phần. Nhiều Giới hạnh sạch, yên Nhịn, Tinh tiến, nghĩ Tĩnh lặng, Trí tuệ tới Niết Bàn với Không sinh không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không sinh một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế Nhiều Bố thí tới Niết Bàn không sinh, liền là Nhiều Bố thí tới Niết Bàn sai. Nhiều Giới hạnh sạch, yên Nhịn, Tinh tiến, nghĩ Tĩnh lặng, Trí tuệ tới Niết Bàn không sinh, liền là Nhiều Giới hạnh sạch, yên Nhịn, Tinh tiến, nghĩ Tĩnh lặng, Trí tuệ tới Niết Bàn sai.

Thế Tôn ! Bốn nghĩ Tĩnh lặng không sinh, liền là bốn nghĩ Tĩnh lặng sai. Bốn Vô lượng, bốn Định Không có Sắc thân không sinh, liền là bốn Vô lượng, bốn Định Không có Sắc thân sai. Sở dĩ thế nào ? Bốn nghĩ Tĩnh lặng với Không sinh không có hai, không có hai phần. Bốn Vô lượng, bốn Định Không có Sắc thân với Không sinh không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không sinh một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế bốn nghĩ Tĩnh lặng không sinh, liền là bốn nghĩ Tĩnh lặng sai. Bốn Vô lượng, bốn Định Không có Sắc thân không sinh, liền là bốn Vô lượng, bốn Định Không có Sắc thân sai.

Thế Tôn ! Tám Giải thoát không sinh, liền là tám Giải thoát sai. Tám nơi tốt, chín Định tiếp theo, mười khắp nơi không sinh, liền là tám nơi tốt, chín Định tiếp theo, mười khắp nơi sai. Sở dĩ thế nào ? Tám Giải thoát với Không sinh không có hai, không có hai phần. Tám nơi tốt, chín Định tiếp theo, mười khắp nơi với Không sinh không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không sinh một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế tám Giải thoát không sinh, liền là tám Giải thoát sai. Tám nơi tốt, chín Định tiếp theo, mười khắp nơi không sinh, liền là tám nơi tốt, chín Định tiếp theo, mười khắp nơi sai.

Thế Tôn ! Bốn dừng ở nghĩ nhớ không sinh, liền là bốn dừng ở nghĩ nhớ sai. Bốn cắt đứt đúng, bốn Thần biến, năm Căn, năm Lực, bảy loại nhánh hiểu, tám nhánh Đạo Thánh không sinh, liền là bốn cắt đứt đúng thậm chí tám nhánh Đạo Thánh sai. Sở dĩ thế nào ? Bốn dừng ở nghĩ nhớ với Không sinh không có hai, không có hai phần. Bốn cắt đứt đúng thậm chí tám nhánh Đạo Thánh với Không sinh không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không sinh một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế bốn dừng ở nghĩ nhớ không sinh, liền là bốn dừng ở nghĩ nhớ sai. Bốn cắt đứt đúng thậm chí tám nhánh Đạo Thánh không sinh, liền là bốn cắt đứt đúng thậm chí tám nhánh Đạo Thánh sai.

Thế Tôn ! Môn Giải thoát Rỗng không sinh, liền là môn Giải thoát Rỗng sai. Môn Giải thoát không có hình tướng, không có nguyện không sinh, liền là môn Giải thoát không có hình tướng, không có nguyện sai. Sở dĩ thế nào ? Môn Giải thoát Rỗng với Không sinh không có hai, không có hai phần. Môn Giải thoát không có hình tướng, không có nguyện với Không sinh không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không sinh một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế môn Giải thoát Rỗng không sinh, liền là môn Giải thoát Rỗng sai. Môn Giải thoát không có hình tướng, không có nguyện không sinh, liền là môn Giải thoát không có hình tướng, không có nguyện sai.

Thế Tôn ! Năm Mắt không sinh, liền là năm Mắt sai. Sáu Thần thông không sinh, liền là sáu Thần thông sai. Sở dĩ thế nào ? Năm Mắt với Không sinh không có hai, không có hai phần. Sáu Thần thông với Không sinh không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không sinh một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế năm Mắt không sinh, liền là năm Mắt sai. Sáu Thần thông không sinh, liền là sáu Thần thông sai.

Thế Tôn ! Mười Lực của Phật không sinh, liền là mười Lực của Phật sai. Bốn Không đâu sợ, bốn Hiểu không trở ngại, Từ lớn nhất, Bi lớn nhất, Vui lớn nhất, Bố thí lớn nhất, mười tám không cùng Pháp Phật không sinh, liền là bốn Không đâu sợ thậm chí mười tám không cùng Pháp Phật sai. Sở dĩ thế nào ? Mười Lực của Phật với Không sinh không có hai, không có hai phần. Bốn Không đâu sợ thậm chí mười tám không cùng Pháp Phật với Không sinh không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không sinh một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế mười Lực của Phật không sinh, liền là mười Lực của Phật sai. Bốn Không đâu sợ thậm chí mười tám không cùng Pháp Phật không sinh, liền là bốn Không đâu sợ thậm chí mười tám không cùng Pháp Phật sai.

Thế Tôn ! Chân Như không sinh, liền là Chân Như sai. Cõi Pháp, tính Pháp, tính không ảo vọng, tính không biến đổi, tính Bình đẳng, tính rời sinh, yên định Pháp, dừng ở Pháp, thực tế, Cõi khoảng không, Cõi không nghĩ bàn không sinh, liền là Cõi Pháp thậm chí Cõi không nghĩ bàn sai. Sở dĩ thế nào ? Chân Như với Không sinh không có hai, không có hai phần. Cõi Pháp thậm chí Cõi không nghĩ bàn với Không sinh không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không sinh một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế Chân Như không sinh, liền là Chân Như sai. Cõi Pháp thậm chí Cõi không nghĩ bàn không sinh, liền là Cõi Pháp thậm chí Cõi không nghĩ bàn sai.

Thế Tôn ! Bình Đẳng Chính Đẳng Bồ Đề không sinh, liền là Bình Đẳng Chính Đẳng Bồ Đề sai. Tất cả Trí tuệ, Trí tuệ của hình tướng Đạo, Trí tuệ của tất cả hình tướng không sinh, liền là Tất cả Trí tuệ, Trí tuệ của hình tướng Đạo, Trí tuệ của tất cả hình tướng sai. Sở dĩ thế nào ? Bình Đẳng Chính Đẳng Bồ Đề với Không sinh không có hai, không có hai phần. Tất cả Trí tuệ, Trí tuệ của hình tướng Đạo, Trí tuệ của tất cả hình tướng với Không sinh không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không sinh một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế Bình Đẳng Chính Đẳng Bồ Đề không sinh, liền là Bình Đẳng Chính Đẳng Bồ Đề sai. Tất cả Trí tuệ, Trí tuệ của hình tướng Đạo, Trí tuệ của tất cả hình tướng không sinh, liền là Tất cả Trí tuệ, Trí tuệ của hình tướng Đạo, Trí tuệ của tất cả hình tướng sai.

Thế Tôn ! Pháp không quên mất không sinh, liền là Pháp không quên mất sai. Thường dừng ở tính vứt bỏ không sinh, liền là thường dừng ở tính vứt bỏ sai. Sở dĩ thế nào ? Pháp không quên mất với Không sinh không có hai, không có hai phần. Thường dừng ở tính vứt bỏ với Không sinh không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không sinh một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế Pháp không quên mất không sinh, liền là Pháp không quên mất sai. Thường dừng ở tính vứt bỏ không sinh, liền là thường dừng ở tính vứt bỏ sai.

Thế Tôn ! Tất cả môn Đà La Ni không sinh, liền là tất cả môn Đà La Ni sai. Tất cả môn Tam muội không sinh, liền là tất cả môn Tam muội sai. Sở dĩ thế nào ? Tất cả môn Đà La Ni với Không sinh không có hai, không có hai phần. Tất cả môn Tam muội với Không sinh không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không sinh một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế tất cả môn Đà La Ni không sinh, liền là tất cả môn Đà La Ni sai. Tất cả môn Tam muội không sinh, liền là tất cả môn Tam muội sai.

Thế Tôn ! Sắc thân không mất, liền là Sắc thân sai. Nhận, Tưởng nhớ, Làm, Biết không mất, liền là Nhận, Tưởng nhớ, Làm, Biết sai. Sở dĩ thế nào ? Sắc thân với Không mất không có hai, không có hai phần. Nhận, Tưởng nhớ, Làm, Biết với Không mất không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không mất một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế Sắc thân không mất, liền là Sắc thân sai. Nhận, Tưởng nhớ, Làm, Biết không mất, liền là Nhận, Tưởng nhớ, Làm, Biết sai.

Thế Tôn ! Nơi Mắt không mất, liền là nơi Mắt sai. Nơi Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý không mất, liền là nơi Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý sai. Sở dĩ thế nào ? Nơi Mắt với Không mất không có hai, không có hai phần. Nơi Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý với Không mất không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không mất một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế nơi Mắt không mất, liền là nơi Mắt sai. Nơi Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý không mất, liền là nơi Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý sai.

Thế Tôn ! Nơi Sắc thân không mất, liền là nơi Sắc thân sai. Nơi Tiếng nói, Hương, Vị, Xúc chạm, Pháp không mất, liền là nơi Tiếng nói, Hương, Vị, Xúc chạm, Pháp sai. Sở dĩ thế nào ? Nơi Sắc thân với Không mất không có hai, không có hai phần. Nơi Tiếng nói, Hương, Vị, Xúc chạm, Pháp với Không mất không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không mất một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế nơi Sắc thân không mất, liền là nơi Sắc thân sai. Nơi Tiếng nói, Hương, Vị, Xúc chạm, Pháp không mất, liền là nơi Tiếng nói, Hương, Vị, Xúc chạm, Pháp sai.

Thế Tôn ! Cảnh giới Mắt không mất, liền là cảnh giới Mắt sai. Cõi Sắc thân, cảnh biết của Mắt và chạm biết của Mắt, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mắt không mất, liền là Cõi Sắc thân thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mắt sai. Sở dĩ thế nào ? Cảnh giới Mắt với Không mất không có hai, không có hai phần. Cõi Sắc thân thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mắt với Không mất không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không mất một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế cảnh giới Mắt không mất, liền là cảnh giới Mắt sai. Cõi Sắc thân thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mắt không mất, liền là Cõi Sắc thân thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mắt sai.

Thế Tôn ! Cảnh giới Tai không mất, liền là cảnh giới Tai sai. Cảnh giới Tiếng nói, cảnh biết của Tai và chạm biết của Tai, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Tai không mất, liền là cảnh giới Tiếng nói thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Tai sai. Sở dĩ thế nào ? Cảnh giới Tai với Không mất không có hai, không có hai phần. Cảnh giới Tiếng nói thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Tai với Không mất không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không mất một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế cảnh giới Tai không mất, liền là cảnh giới Tai sai. Cảnh giới Tiếng nói thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Tai không mất, liền là cảnh giới Tiếng nói thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Tai sai.

Thế Tôn ! Cảnh giới Mũi không mất, liền là cảnh giới Mũi sai. Cảnh giới Hương, cảnh biết của Mũi và chạm biết của Mũi, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mũi không mất, liền là cảnh giới Hương thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mũi sai. Sở dĩ thế nào ? Cảnh giới Mũi với Không mất không có hai, không có hai phần. Cảnh giới Hương thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mũi với Không mất không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không mất một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế cảnh giới Mũi không mất, liền là cảnh giới Mũi sai. Cảnh giới Hương thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mũi không mất, liền là cảnh giới Hương thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mũi sai.

Thế Tôn ! Cảnh giới Lưỡi không mất, liền là cảnh giới Lưỡi sai. Cảnh giới mùi Vị, cảnh biết của Lưỡi và chạm biết của Lưỡi, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Lưỡi không mất, liền là cảnh giới mùi Vị thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Lưỡi sai. Sở dĩ thế nào ? Cảnh giới Lưỡi với Không mất không có hai, không có hai phần. Cảnh giới mùi Vị thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Lưỡi với Không mất không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không mất một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế cảnh giới Lưỡi không mất, liền là cảnh giới Lưỡi sai. Cảnh giới mùi Vị thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Lưỡi không mất, liền là cảnh giới mùi Vị thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Lưỡi sai.

Thế Tôn ! Cảnh giới Thân không mất, liền là cảnh giới Thân sai. Cảnh giới Xúc chạm, cảnh biết của Thân và chạm biết của Thân, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Thân không mất, liền là cảnh giới Xúc chạm thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Thân sai. Sở dĩ thế nào ? Cảnh giới Thân với Không mất không có hai, không có hai phần. Cảnh giới Xúc chạm thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Thân với Không mất không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không mất một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế cảnh giới Thân không mất, liền là cảnh giới Thân sai. Cảnh giới Xúc chạm thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Thân không mất, liền là cảnh giới Xúc chạm thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Thân sai.

Thế Tôn ! Cảnh giới Ý không mất, liền là cảnh giới Ý sai. Cõi Pháp, cảnh biết của Ý và chạm biết của Ý, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Ý không mất, liền là Cõi Pháp thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Ý sai. Sở dĩ thế nào ? Cảnh giới Ý với Không mất không có hai, không có hai phần. Cõi Pháp thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Ý với Không mất không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không mất một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế cảnh giới Ý không mất, liền là cảnh giới Ý sai. Cõi Pháp thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Ý không mất, liền là Cõi Pháp thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Ý sai.

Thế Tôn ! Cõi Đất không mất, liền là Cõi Đất sai. Cõi Nước, Lửa, Gió, Rỗng, Biết không mất, liền là Cõi Nước, Lửa, Gió, Rỗng, Biết sai. Sở dĩ thế nào ? Cõi Đất với Không mất không có hai, không có hai phần. Cõi Nước, Lửa, Gió, Rỗng, Biết với Không mất không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không mất một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế Cõi Đất không mất, liền là Cõi Đất sai. Cõi Nước, Lửa, Gió, Rỗng, Biết không mất, liền là Cõi Nước, Lửa, Gió, Rỗng, Biết sai.

Thế Tôn ! Khổ Chân lý bậc Thánh không mất, liền là Khổ Chân lý bậc Thánh sai. Tập hợp khổ, mất khổ, Đạo mất Khổ Chân lý bậc Thánh không mất, liền là Tập hợp khổ, mất khổ, Đạo mất Khổ Chân lý bậc Thánh sai. Sở dĩ thế nào ? Khổ Chân lý bậc Thánh với Không mất không có hai, không có hai phần. Tập hợp khổ, mất khổ, Đạo mất Khổ Chân lý bậc Thánh với Không mất không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không mất một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế Khổ Chân lý bậc Thánh không mất, liền là Khổ Chân lý bậc Thánh sai. Tập hợp khổ, mất khổ, Đạo mất Khổ Chân lý bậc Thánh không mất, liền là Tập hợp khổ, mất khổ, Đạo mất Khổ Chân lý bậc Thánh sai.

Thế Tôn ! Ngu tối không mất, liền là Ngu tối sai. Làm, Biết, Sắc thân giả, sáu Nơi, Xúc chạm, Nhận, Yêu, Lấy, Có, Sinh, Già, Chết, Buồn than, Khổ, Lo buồn không mất, liền là Làm thậm chí Già, Chết, Buồn than, Khổ, Lo buồn sai. Sở dĩ thế nào ? Ngu tối với Không mất không có hai, không có hai phần. Làm thậm chí Già, Chết, Buồn than, Khổ, Lo buồn với Không mất không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không mất một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế Ngu tối không mất, liền là Ngu tối sai. Làm thậm chí Già, Chết, Buồn than, Khổ, Lo buồn không mất, liền là Làm thậm chí Già, Chết, Buồn than, Khổ, Lo buồn sai.

Thế Tôn ! Rỗng bên trong không mất, liền là Rỗng bên trong sai. Rỗng bên ngoài, Rỗng bên trong ngoài, Rỗng của trống rỗng, Rỗng lớn nhất, Rỗng của nghĩa tốt, Rỗng của Có làm, Rỗng của Không có làm, Rỗng của thành quả, Rỗng của không giới hạn, Rỗng của tan rời, Rỗng của không biến đổi, Rỗng của bản tính, Rỗng của tự tướng, Rỗng của cùng hình tướng, Rỗng của tất cả Pháp, Rỗng của không thể được, Rỗng của không tính, Rỗng của Tự tính, Rỗng của tự tính không có tính không mất, liền là Rỗng bên ngoài thậm chí Rỗng của tự tính không có tính sai.  Sở dĩ thế nào ? Rỗng bên trong với Không mất không có hai, không có hai phần. Rỗng bên ngoài thậm chí Rỗng của tự tính không có tính với Không mất không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không mất một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế Rỗng bên trong không mất, liền là Rỗng bên trong sai. Rỗng bên ngoài thậm chí Rỗng của tự tính không có tính không mất, liền là Rỗng bên ngoài thậm chí Rỗng của tự tính không có tính sai.

Thế Tôn ! Nhiều Bố thí tới Niết Bàn không mất, liền là Nhiều Bố thí tới Niết Bàn sai. Nhiều Giới hạnh sạch, yên Nhịn, Tinh tiến, nghĩ Tĩnh lặng, Trí tuệ tới Niết Bàn không mất, liền là Nhiều Giới hạnh sạch, yên Nhịn, Tinh tiến, nghĩ Tĩnh lặng, Trí tuệ tới Niết Bàn sai. Sở dĩ thế nào ? Nhiều Bố thí tới Niết Bàn với Không mất không có hai, không có hai phần. Nhiều Giới hạnh sạch, yên Nhịn, Tinh tiến, nghĩ Tĩnh lặng, Trí tuệ tới Niết Bàn với Không mất không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không mất một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế Nhiều Bố thí tới Niết Bàn không mất, liền là Nhiều Bố thí tới Niết Bàn sai. Nhiều Giới hạnh sạch, yên Nhịn, Tinh tiến, nghĩ Tĩnh lặng, Trí tuệ tới Niết Bàn không mất, liền là Nhiều Giới hạnh sạch, yên Nhịn, Tinh tiến, nghĩ Tĩnh lặng, Trí tuệ tới Niết Bàn sai.

Thế Tôn ! Bốn nghĩ Tĩnh lặng không mất, liền là bốn nghĩ Tĩnh lặng sai. Bốn Vô lượng, bốn Định Không có Sắc thân không mất, liền là bốn Vô lượng, bốn Định Không có Sắc thân sai. Sở dĩ thế nào ? Bốn nghĩ Tĩnh lặng với Không mất không có hai, không có hai phần. Bốn Vô lượng, bốn Định Không có Sắc thân với Không mất không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không mất một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế bốn nghĩ Tĩnh lặng không mất, liền là bốn nghĩ Tĩnh lặng sai. Bốn Vô lượng, bốn Định Không có Sắc thân không mất, liền là bốn Vô lượng, bốn Định Không có Sắc thân sai.

Thế Tôn ! Tám Giải thoát không mất, liền là tám Giải thoát sai. Tám nơi tốt, chín Định tiếp theo, mười khắp nơi không mất, liền là tám nơi tốt, chín Định tiếp theo, mười khắp nơi sai. Sở dĩ thế nào ? Tám Giải thoát với Không mất không có hai, không có hai phần. Tám nơi tốt, chín Định tiếp theo, mười khắp nơi với Không mất không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không mất một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế tám Giải thoát không mất, liền là tám Giải thoát sai. Tám nơi tốt, chín Định tiếp theo, mười khắp nơi không mất, liền là tám nơi tốt, chín Định tiếp theo, mười khắp nơi sai.

Thế Tôn ! Bốn dừng ở nghĩ nhớ không mất, liền là bốn dừng ở nghĩ nhớ sai. Bốn cắt đứt đúng, bốn Thần biến, năm Căn, năm Lực, bảy loại nhánh hiểu, tám nhánh Đạo Thánh không mất, liền là bốn cắt đứt đúng thậm chí tám nhánh Đạo Thánh sai. Sở dĩ thế nào ? Bốn dừng ở nghĩ nhớ với Không mất không có hai, không có hai phần. Bốn cắt đứt đúng thậm chí tám nhánh Đạo Thánh sai với Không mất không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không mất một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế bốn dừng ở nghĩ nhớ không mất, liền là bốn dừng ở nghĩ nhớ sai. Bốn cắt đứt đúng thậm chí tám nhánh Đạo Thánh sai không mất, liền là bốn cắt đứt đúng thậm chí tám nhánh Đạo Thánh sai.

Thế Tôn ! Môn Giải thoát Rỗng không mất, liền là môn Giải thoát Rỗng sai. Môn Giải thoát không có hình tướng, không có nguyện không mất, liền là môn Giải thoát không có hình tướng, không có nguyện sai. Sở dĩ thế nào ? Môn Giải thoát Rỗng với Không mất không có hai, không có hai phần. Môn Giải thoát không có hình tướng, không có nguyện với Không mất không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không mất một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế môn Giải thoát Rỗng không mất, liền là môn Giải thoát Rỗng sai. Môn Giải thoát không có hình tướng, không có nguyện không mất, liền là môn Giải thoát không có hình tướng, không có nguyện sai.

Thế Tôn ! Năm Mắt không mất, liền là năm Mắt sai. Sáu Thần thông không mất, liền là sáu Thần thông sai. Sở dĩ thế nào ? Năm Mắt với Không mất không có hai, không có hai phần. Sáu Thần thông với Không mất không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không mất một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế năm Mắt không mất, liền là năm Mắt sai. Sáu Thần thông không mất, liền là sáu Thần thông sai.

Thế Tôn ! Mười Lực của Phật không mất, liền là mười Lực của Phật sai. Bốn Không đâu sợ, bốn Hiểu không trở ngại, Từ lớn nhất, Bi lớn nhất, Vui lớn nhất, Bố thí lớn nhất, mười tám không cùng Pháp Phật không mất, liền là bốn Không đâu sợ thậm chí mười tám không cùng Pháp Phật sai. Sở dĩ thế nào ? Mười Lực của Phật với Không mất không có hai, không có hai phần. Bốn Không đâu sợ thậm chí mười tám không cùng Pháp Phật với Không mất không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không mất một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế mười Lực của Phật không mất, liền là mười Lực của Phật sai. Bốn Không đâu sợ thậm chí mười tám không cùng Pháp Phật không mất, liền là bốn Không đâu sợ thậm chí mười tám không cùng Pháp Phật sai.

Thế Tôn ! Chân Như không mất, liền là Chân Như sai. Cõi Pháp, tính Pháp, tính không ảo vọng, tính không biến đổi, tính Bình đẳng, tính rời sinh, yên định Pháp, dừng ở Pháp, thực tế, Cõi khoảng không, Cõi không nghĩ bàn không mất, liền là Cõi Pháp thậm chí Cõi không nghĩ bàn sai.  Sở dĩ thế nào ? Chân Như với Không mất không có hai, không có hai phần. Cõi Pháp thậm chí Cõi không nghĩ bàn với Không mất không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không mất một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế Chân Như không mất, liền là Chân Như sai. Cõi Pháp thậm chí Cõi không nghĩ bàn không mất, liền là Cõi Pháp thậm chí Cõi không nghĩ bàn sai.

Thế Tôn ! Bình Đẳng Chính Đẳng Bồ Đề không mất, liền là Bình Đẳng Chính Đẳng Bồ Đề sai. Tất cả Trí tuệ, Trí tuệ của hình tướng Đạo, Trí tuệ của tất cả hình tướng không mất, liền là Tất cả Trí tuệ, Trí tuệ của hình tướng Đạo, Trí tuệ của tất cả hình tướng sai. Sở dĩ thế nào ? Bình Đẳng Chính Đẳng Bồ Đề với Không mất không có hai, không có hai phần. Tất cả Trí tuệ, Trí tuệ của hình tướng Đạo, Trí tuệ của tất cả hình tướng với Không mất không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không mất một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế Bình Đẳng Chính Đẳng Bồ Đề không mất, liền là Bình Đẳng Chính Đẳng Bồ Đề sai. Tất cả Trí tuệ, Trí tuệ của hình tướng Đạo, Trí tuệ của tất cả hình tướng không mất, liền là Tất cả Trí tuệ, Trí tuệ của hình tướng Đạo, Trí tuệ của tất cả hình tướng sai.

Thế Tôn ! Pháp không quên mất không mất, liền là Pháp không quên mất sai. Thường dừng ở tính vứt bỏ không mất, liền là thường dừng ở tính vứt bỏ sai. Sở dĩ thế nào ? Pháp không quên mất với Không mất không có hai, không có hai phần. Thường dừng ở tính vứt bỏ với Không mất không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không mất một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế Pháp không quên mất không mất, liền là Pháp không quên mất sai. Thường dừng ở tính vứt bỏ không mất, liền là thường dừng ở tính vứt bỏ sai.

Thế Tôn ! Tất cả môn Đà La Ni không mất, liền là tất cả môn Đà La Ni sai. Tất cả môn Tam muội không mất, liền là tất cả môn Tam muội sai. Sở dĩ thế nào ? Tất cả môn Đà La Ni với Không mất không có hai, không có hai phần. Tất cả môn Tam muội với Không mất không có hai, không có hai phần. Cớ là sao ? Do Pháp không mất một sai, hai sai, nhiều sai, khác sai. Vì thế tất cả môn Đà La Ni không mất, liền là tất cả môn Đà La Ni sai. Tất cả môn Tam muội không mất, liền là tất cả môn Tam muội sai.

Thế Tôn ! Sắc thân không hai, liền là Sắc thân sai. Nhận, Tưởng nhớ, Làm, Biết không hai, liền là Nhận, Tưởng nhớ, Làm, Biết sai.

Thế Tôn ! Nơi Mắt không hai, liền là nơi Mắt sai. Nơi Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý không hai, liền là nơi Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý sai.

Thế Tôn ! Nơi Sắc thân không hai, liền là nơi Sắc thân sai. Nơi Tiếng nói, Hương, Vị, Xúc chạm, Pháp không hai, liền là Tiếng nói, Hương, Vị, Xúc chạm, Pháp sai.

Thế Tôn ! Cảnh giới Mắt không hai, liền là cảnh giới Mắt sai. Cõi Sắc thân, cảnh biết của Mắt và chạm biết của Mắt, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mắt không hai, liền là Cõi Sắc thân thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mắt sai.

Thế Tôn ! Cảnh giới Tai không hai, liền là cảnh giới Tai sai. Cảnh giới Tiếng nói, cảnh biết của Tai và chạm biết của Tai, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Tai không hai, liền là cảnh giới Tiếng nói thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Tai sai.

Thế Tôn ! Cảnh giới Mũi không hai, liền là cảnh giới Mũi sai. Cảnh giới Hương, cảnh biết của Mũi và chạm biết của Mũi, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mũi không hai, liền là cảnh giới Hương thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mũi sai.

Thế Tôn ! Cảnh giới Lưỡi không hai, liền là cảnh giới Lưỡi sai. Cảnh giới mùi Vị, cảnh biết của Lưỡi và chạm biết của Lưỡi, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Lưỡi không hai, liền là cảnh giới mùi Vị thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Lưỡi sai.

Thế Tôn ! Cảnh giới Thân không hai, liền là cảnh giới Thân sai. Cảnh giới Xúc chạm, cảnh biết của Thân và chạm biết của Thân, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Thân không hai, liền là cảnh giới Xúc chạm thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Thân sai.

Thế Tôn ! Cảnh giới Ý không hai, liền là cảnh giới Ý sai. Cõi Pháp, cảnh biết của Ý và chạm biết của Ý, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Ý không hai, liền là Cõi Pháp thậm chí các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Ý sai.

Thế Tôn ! Cõi Đất không hai, liền là Cõi Đất sai. Cõi Nước, Lửa, Gió, Rỗng, Biết không hai, liền là Cõi Nước, Lửa, Gió, Rỗng, Biết sai.

Thế Tôn ! Khổ Chân lý bậc Thánh không hai, liền là Khổ Chân lý bậc Thánh sai. Tập hợp khổ, mất khổ, Đạo mất Khổ Chân lý bậc Thánh không hai, liền là Tập hợp khổ, mất khổ, Đạo mất Khổ Chân lý bậc Thánh sai.

Thế Tôn ! Ngu tối không hai, liền là Ngu tối sai. Làm, Biết, Sắc thân giả, sáu Nơi, Xúc chạm, Nhận, Yêu, Lấy, Có, Sinh, Già, Chết, Buồn than, Khổ, Lo buồn không hai, liền là Làm thậm chí Già, Chết, Buồn than, Khổ, Lo buồn sai.

Thế Tôn ! Rỗng bên trong không hai, liền là Rỗng bên trong sai. Rỗng bên ngoài, Rỗng bên trong ngoài, Rỗng của trống rỗng, Rỗng lớn nhất, Rỗng của nghĩa tốt, Rỗng của Có làm, Rỗng của Không có làm, Rỗng của thành quả, Rỗng của không giới hạn, Rỗng của tan rời, Rỗng của không biến đổi, Rỗng của bản tính, Rỗng của tự tướng, Rỗng của cùng hình tướng, Rỗng của tất cả Pháp, Rỗng của không thể được, Rỗng của không tính, Rỗng của Tự tính, Rỗng của tự tính không có tính không hai, liền là Rỗng bên ngoài thậm chí Rỗng của tự tính không có tính sai.

Thế Tôn ! Nhiều Bố thí tới Niết Bàn không hai, liền là Nhiều Bố thí tới Niết Bàn sai. Nhiều Giới hạnh sạch, yên Nhịn, Tinh tiến, nghĩ Tĩnh lặng, Trí tuệ tới Niết Bàn không hai, liền là Nhiều Giới hạnh sạch, yên Nhịn, Tinh tiến, nghĩ Tĩnh lặng, Trí tuệ tới Niết Bàn sai.

Thế Tôn ! Bốn nghĩ Tĩnh lặng không hai, liền là bốn nghĩ Tĩnh lặng sai. Bốn Vô lượng, bốn Định Không có Sắc thân không hai, liền là bốn Vô lượng, bốn Định Không có Sắc thân sai.

Thế Tôn ! Tám Giải thoát không hai, liền là tám Giải thoát sai. Tám nơi tốt, chín Định tiếp theo, mười khắp nơi không hai, liền là tám nơi tốt, chín Định tiếp theo, mười khắp nơi sai.

Thế Tôn ! Bốn dừng ở nghĩ nhớ không hai, liền là bốn dừng ở nghĩ nhớ sai. Bốn cắt đứt đúng, bốn Thần biến, năm Căn, năm Lực, bảy loại nhánh hiểu, tám nhánh Đạo Thánh không hai, liền là bốn cắt đứt đúng thậm chí tám nhánh Đạo Thánh sai.

Thế Tôn ! Môn Giải thoát Rỗng không hai, liền là môn Giải thoát Rỗng sai. Môn Giải thoát không có hình tướng, không có nguyện không hai, liền là môn Giải thoát không có hình tướng, không có nguyện sai.

Thế Tôn ! Năm Mắt không hai, liền là năm Mắt sai. Sáu Thần thông không hai, liền là sáu Thần thông sai.

Thế Tôn ! Mười Lực của Phật không hai, liền là mười Lực của Phật sai. Bốn Không đâu sợ, bốn Hiểu không trở ngại, Từ lớn nhất, Bi lớn nhất, Vui lớn nhất, Bố thí lớn nhất, mười tám không cùng Pháp Phật không hai, liền là bốn Không đâu sợ thậm chí mười tám không cùng Pháp Phật sai.

Thế Tôn ! Chân Như không hai, liền là Chân Như sai. Cõi Pháp, tính Pháp, tính không ảo vọng, tính không biến đổi, tính Bình đẳng, tính rời sinh, yên định Pháp, dừng ở Pháp, thực tế, Cõi khoảng không, Cõi không nghĩ bàn không hai, liền là Cõi Pháp thậm chí Cõi không nghĩ bàn sai.

Thế Tôn ! Bình Đẳng Chính Đẳng Bồ Đề không hai, liền là Bình Đẳng Chính Đẳng Bồ Đề sai. Tất cả Trí tuệ, Trí tuệ của hình tướng Đạo, Trí tuệ của tất cả hình tướng không hai, liền là Tất cả Trí tuệ, Trí tuệ của hình tướng Đạo, Trí tuệ của tất cả hình tướng sai.

Thế Tôn ! Pháp không quên mất không hai, liền là Pháp không quên mất sai. Thường dừng ở tính vứt bỏ không hai, liền là thường dừng ở tính vứt bỏ sai.

Thế Tôn ! Tất cả môn Đà La Ni không hai, liền là tất cả môn Đà La Ni sai. Tất cả môn Tam muội không hai, liền là tất cả môn Tam muội sai.

Thế Tôn ! Sắc thân nhập vào số Pháp ảo vọng không hai. Nhận, Tưởng nhớ, Làm, Biết nhập vào số Pháp ảo vọng không hai.

Thế Tôn ! Nơi Mắt nhập vào số Pháp ảo vọng không hai. Nơi Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý nhập vào số Pháp ảo vọng không hai.

Thế Tôn ! Nơi Sắc thân nhập vào số Pháp ảo vọng không hai. Nơi Tiếng nói, Hương, Vị, Xúc chạm, Pháp nhập vào số Pháp ảo vọng không hai.

Thế Tôn ! Cảnh giới Mắt nhập vào số Pháp ảo vọng không hai. Cõi Sắc thân, cảnh biết của Mắt và chạm biết của Mắt, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mắt nhập vào số Pháp ảo vọng không hai.

Thế Tôn ! Cảnh giới Tai nhập vào số Pháp ảo vọng không hai. Cảnh giới Tiếng nói, cảnh biết của Tai và chạm biết của Tai, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Tai nhập vào số Pháp ảo vọng không hai.

Thế Tôn ! Cảnh giới Mũi nhập vào số Pháp ảo vọng không hai. Cảnh giới Hương, cảnh biết của Mũi và chạm biết của Mũi, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mũi nhập vào số Pháp ảo vọng không hai.

Thế Tôn ! Cảnh giới Lưỡi nhập vào số Pháp ảo vọng không hai. Cảnh giới mùi Vị, cảnh biết của Lưỡi và chạm biết của Lưỡi, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Lưỡi nhập vào số Pháp ảo vọng không hai.

Thế Tôn ! Cảnh giới Thân nhập vào số Pháp ảo vọng không hai. Cảnh giới Xúc chạm, cảnh biết của Thân và chạm biết của Thân, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Thân nhập vào số Pháp ảo vọng không hai.

Thế Tôn ! Cảnh giới Ý nhập vào số Pháp ảo vọng không hai. Cõi Pháp, cảnh biết của Ý và chạm biết của Ý, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Ý nhập vào số Pháp ảo vọng không hai.

Thế Tôn ! Cõi Đất nhập vào số Pháp ảo vọng không hai. Cõi Nước, Lửa, Gió, Rỗng, Biết nhập vào số Pháp ảo vọng không hai.

Thế Tôn ! Khổ Chân lý bậc Thánh nhập vào số Pháp ảo vọng không hai. Tập hợp khổ, mất khổ, Đạo mất Khổ Chân lý bậc Thánh nhập vào số Pháp ảo vọng không hai.

Thế Tôn ! Ngu tối nhập vào số Pháp ảo vọng không hai. Làm, Biết, Sắc thân giả, sáu Nơi, Xúc chạm, Nhận, Yêu, Lấy, Có, Sinh, Già, Chết, Buồn than, Khổ, Lo buồn nhập vào số Pháp ảo vọng không hai.

Thế Tôn ! Rỗng bên trong nhập vào số Pháp ảo vọng không hai. Rỗng bên ngoài, Rỗng bên trong ngoài, Rỗng của trống rỗng, Rỗng lớn nhất, Rỗng của nghĩa tốt, Rỗng của Có làm, Rỗng của Không có làm, Rỗng của thành quả, Rỗng của không giới hạn, Rỗng của tan rời, Rỗng của không biến đổi, Rỗng của bản tính, Rỗng của tự tướng, Rỗng của cùng hình tướng, Rỗng của tất cả Pháp, Rỗng của không thể được, Rỗng của không tính, Rỗng của Tự tính, Rỗng của tự tính không có tính nhập vào số Pháp ảo vọng không hai.

Thế Tôn ! Nhiều Bố thí tới Niết Bàn nhập vào số Pháp ảo vọng không hai.

Nhiều Giới hạnh sạch, yên Nhịn, Tinh tiến, nghĩ Tĩnh lặng, Trí tuệ tới Niết Bàn nhập vào số Pháp ảo vọng không hai.

Thế Tôn ! Bốn nghĩ Tĩnh lặng nhập vào số Pháp ảo vọng không hai. Bốn Vô lượng, bốn Định Không có Sắc thân nhập vào số Pháp ảo vọng không hai.

Thế Tôn ! Tám Giải thoát nhập vào số Pháp ảo vọng không hai. Tám nơi tốt, chín Định tiếp theo, mười khắp nơi nhập vào số Pháp ảo vọng không hai.

Thế Tôn ! Bốn dừng ở nghĩ nhớ nhập vào số Pháp ảo vọng không hai. Bốn cắt đứt đúng, bốn Thần biến, năm Căn, năm Lực, bảy loại nhánh hiểu, tám nhánh Đạo Thánh nhập vào số Pháp ảo vọng không hai.

Thế Tôn ! Môn Giải thoát Rỗng nhập vào số Pháp ảo vọng không hai. Môn Giải thoát không có hình tướng, không có nguyện nhập vào số Pháp ảo vọng không hai.

Thế Tôn ! Năm Mắt nhập vào số Pháp ảo vọng không hai. Sáu Thần thông nhập vào số Pháp ảo vọng không hai.

Thế Tôn ! Mười Lực của Phật nhập vào số Pháp ảo vọng không hai. Bốn Không đâu sợ, bốn Hiểu không trở ngại, Từ lớn nhất, Bi lớn nhất, Vui lớn nhất, Bố thí lớn nhất, mười tám không cùng Pháp Phật nhập vào số Pháp ảo vọng không hai.

Thế Tôn ! Chân Như nhập vào số Pháp ảo vọng không hai. Cõi Pháp, tính Pháp, tính không ảo vọng, tính không biến đổi, tính Bình đẳng, tính rời sinh, yên định Pháp, dừng ở Pháp, thực tế, Cõi khoảng không, Cõi không nghĩ bàn nhập vào số Pháp ảo vọng không hai.

Thế Tôn ! Bình Đẳng Chính Đẳng Bồ Đề nhập vào số Pháp ảo vọng không hai. Tất cả Trí tuệ, Trí tuệ của hình tướng Đạo, Trí tuệ của tất cả hình tướng nhập vào số Pháp ảo vọng không hai.

Thế Tôn ! Pháp không quên mất nhập vào số Pháp ảo vọng không hai. Thường dừng ở tính vứt bỏ nhập vào số Pháp ảo vọng không hai.

Thế Tôn ! Tất cả môn Đà La Ni nhập vào số Pháp ảo vọng không hai. Tất cả môn Tam muội nhập vào số Pháp ảo vọng không hai.

Thời Xá Lợi Phất hỏi Thiện Hiện nói rằng : Được Bồ Tát Bồ Tát lớn tu hành Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn nói, khi quan sát các Pháp như thế.

Vì sao gọi là Bồ Tát Bồ Tát lớn ? Vì sao gọi là Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn ? Vì sao gọi là quan sát các Pháp ?

Khi đó Cụ Thọ Thiện Hiện trả lời Xá Lợi Phất nói rằng : Như Tôn Giả nói vì sao gọi là Bồ Tát Bồ Tát lớn vậy ?

Xá Lợi Phất ! Vì loại chúng sinh Có tình cầu Phật Bồ Đề, cũng có Bồ Đề, cho nên tên là Bồ Tát. Họ biết như thực tất cả hình tướng Pháp, mà không cầm lấy nương nhờ, cho nên lại tên là Bồ Tát.

Xá Lợi Phất nói rằng : Vì sao Bồ Tát Bồ Tát lớn hay biết như thực tất cả hình tướng Pháp, mà không cầm lấy nương nhờ ?

Thiện Hiện trả lời nói rằng :

Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Bồ Tát lớn biết như thực hình tướng Sắc thân, mà không cầm lấy nương nhờ. Biết như thực hình tướng Nhận, Tưởng nhớ, Làm, Biết, mà không cầm lấy nương nhờ.

Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Bồ Tát lớn biết như thực hình tướng nơi Mắt, mà không cầm lấy nương nhờ. Biết như thực hình tướng nơi Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý, mà không cầm lấy nương nhờ.

Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Bồ Tát lớn biết như thực hình tướng nơi Sắc thân, mà không cầm lấy nương nhờ. Biết như thực hình tướng nơi Tiếng nói, Hương, Vị, Xúc chạm, Pháp, mà không cầm lấy nương nhờ.

Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Bồ Tát lớn biết như thực hình tướng cảnh giới Mắt, mà không cầm lấy nương nhờ. Biết như thực hình tướng Cõi Sắc thân, cảnh biết của Mắt và chạm biết của Mắt, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mắt, mà không cầm lấy nương nhờ.

Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Bồ Tát lớn biết như thực hình tướng cảnh giới Tai, mà không cầm lấy nương nhờ. Biết như thực hình tướng cảnh giới Tiếng nói, cảnh biết của Tai và chạm biết của Tai, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Tai, mà không cầm lấy nương nhờ.

Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Bồ Tát lớn biết như thực hình tướng cảnh giới Mũi, mà không cầm lấy nương nhờ. Biết như thực hình tướng cảnh giới Hương, cảnh biết của Mũi và chạm biết của Mũi, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mũi, mà không cầm lấy nương nhờ.

Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Bồ Tát lớn biết như thực hình tướng cảnh giới Lưỡi, mà không cầm lấy nương nhờ. Biết như thực hình tướng cảnh giới mùi Vị, cảnh biết của Lưỡi và chạm biết của Lưỡi, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Lưỡi, mà không cầm lấy nương nhờ.

Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Bồ Tát lớn biết như thực hình tướng cảnh giới Thân, mà không cầm lấy nương nhờ. Biết như thực hình tướng cảnh giới Xúc chạm, cảnh biết của Thân và chạm biết của Thân, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Thân, mà không cầm lấy nương nhờ.

Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Bồ Tát lớn biết như thực hình tướng cảnh giới Ý, mà không cầm lấy nương nhờ. Biết như thực hình tướng Cõi Pháp, cảnh biết của Ý và chạm biết của Ý, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Ý, mà không cầm lấy nương nhờ.

Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Bồ Tát lớn biết như thực hình tướng Cõi Đất, mà không cầm lấy nương nhờ. Biết như thực hình tướng Cõi Nước, Lửa, Gió, Rỗng, Biết, mà không cầm lấy nương nhờ.

Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Bồ Tát lớn biết như thực hình tướng Khổ Chân lý bậc Thánh, mà không cầm lấy nương nhờ. Biết như thực hình tướng Tập hợp khổ, mất khổ, Đạo mất Khổ Chân lý bậc Thánh, mà không cầm lấy nương nhờ.

Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Bồ Tát lớn biết như thực hình tướng Ngu tối, mà không cầm lấy nương nhờ. Biết như thực hình tướng Làm, Biết, Sắc thân giả, sáu Nơi, Xúc chạm, Nhận, Yêu, Lấy, Có, Sinh, Già, Chết, Buồn than, Khổ, Lo buồn, mà không cầm lấy nương nhờ.

Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Bồ Tát lớn biết như thực hình tướng Rỗng bên trong, mà không cầm lấy nương nhờ. Biết như thực hình tướng Rỗng bên ngoài, Rỗng bên trong ngoài, Rỗng của trống rỗng, Rỗng lớn nhất, Rỗng của nghĩa tốt, Rỗng của Có làm, Rỗng của Không có làm, Rỗng của thành quả, Rỗng của không giới hạn, Rỗng của tan rời, Rỗng của không biến đổi, Rỗng của bản tính, Rỗng của tự tướng, Rỗng của cùng hình tướng, Rỗng của tất cả Pháp, Rỗng của không thể được, Rỗng của không tính, Rỗng của Tự tính, Rỗng của tự tính không có tính, mà không cầm lấy nương nhờ.

Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Bồ Tát lớn biết như thực hình tướng Nhiều Bố thí tới Niết Bàn, mà không cầm lấy nương nhờ. Biết như thực hình tướng Nhiều Giới hạnh sạch, yên Nhịn, Tinh tiến, nghĩ Tĩnh lặng, Trí tuệ tới Niết Bàn, mà không cầm lấy nương nhờ.

Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Bồ Tát lớn biết như thực hình tướng bốn nghĩ Tĩnh lặng, mà không cầm lấy nương nhờ. Biết như thực hình tướng bốn Vô lượng, bốn Định Không có Sắc thân, mà không cầm lấy nương nhờ.

Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Bồ Tát lớn biết như thực hình tướng tám Giải thoát, mà không cầm lấy nương nhờ. Biết như thực hình tướng tám nơi tốt, chín Định tiếp theo, mười khắp nơi, mà không cầm lấy nương nhờ.

Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Bồ Tát lớn biết như thực hình tướng bốn dừng ở nghĩ nhớ, mà không cầm lấy nương nhờ. Biết như thực hình tướng bốn cắt đứt đúng, bốn Thần biến, năm Căn, năm Lực, bảy loại nhánh hiểu, tám nhánh Đạo Thánh, mà không cầm lấy nương nhờ.

Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Bồ Tát lớn biết như thực hình tướng môn Giải thoát Rỗng, mà không cầm lấy nương nhờ. Biết như thực hình tướng môn Giải thoát không có hình tướng, không có nguyện, mà không cầm lấy nương nhờ.

Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Bồ Tát lớn biết như thực hình tướng năm Mắt, mà không cầm lấy nương nhờ. Biết như thực hình tướng sáu Thần thông, mà không cầm lấy nương nhờ.

Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Bồ Tát lớn biết như thực hình tướng mười Lực của Phật, mà không cầm lấy nương nhờ. Biết như thực hình tướng bốn Không đâu sợ, bốn Hiểu không trở ngại, Từ lớn nhất, Bi lớn nhất, Vui lớn nhất, Bố thí lớn nhất, mười tám không cùng Pháp Phật, mà không cầm lấy nương nhờ.

Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Bồ Tát lớn biết như thực hình tướng Chân Như, mà không cầm lấy nương nhờ. Biết như thực hình tướng Cõi Pháp, tính Pháp, tính không ảo vọng, tính không biến đổi, tính Bình đẳng, tính rời sinh, yên định Pháp, dừng ở Pháp, thực tế, Cõi khoảng không, Cõi không nghĩ bàn, mà không cầm lấy nương nhờ.

Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Bồ Tát lớn biết như thực hình tướng Bình Đẳng Chính Đẳng Bồ Đề, mà không cầm lấy nương nhờ. Biết như thực hình tướng Tất cả Trí tuệ, Trí tuệ của hình tướng Đạo, Trí tuệ của tất cả hình tướng, mà không cầm lấy nương nhờ.

Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Bồ Tát lớn biết như thực hình tướng Pháp không quên mất, mà không cầm lấy nương nhờ. Biết như thực hình tướng thường dừng ở tính vứt bỏ, mà không cầm lấy nương nhờ.

Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Bồ Tát lớn biết như thực hình tướng tất cả môn Đà La Ni, mà không cầm lấy nương nhờ. Biết như thực hình tướng tất cả môn Tam muội, mà không cầm lấy nương nhờ.

Thời Xá Lợi Phất hỏi Thiện Hiện nói rằng : Vì sao tên là tất cả hình tướng Pháp ?

Thiện Hiện trả lời nói rằng : Nếu do các hạnh, hình tướng, trạng thái hiện ra, biết các Pháp như thế. Là Sắc thân, là tiếng nói, là hương thơm, là mùi vị, là xúc chạm, là Pháp, là bên trong, là bên ngoài, là có thấm bẩn, là không có thấm bẩn, là Có làm, là Không có làm. Tên các loại này là tất cả hình tướng Pháp.

Khi đó Cụ Thọ Thiện Hiện lại trả lời Xá Lợi Phất nói rằng : Như Tôn Giả nói, thế nào gọi là Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn vậy ?

Xá Lợi Phất ! Có Trí tuệ tốt đẹp xa rời Có được. Cho nên tên là Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn.

Xá Lợi Phất nói rằng : Việc này với Pháp ra sao mà được rời xa ?

Thiện Hiện trả lời nói rằng : Việc này với tất cả Phiền não thấy hướng tới mà được rời xa. Việc này với tất cả sáu Đạo ác, bốn loại sinh, mà được rời xa. Việc này với tất cả Bóng che, Cõi giới, các nơi, mà được rời xa. Cho nên tên là Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn.

Lại nữa Xá Lợi Phất ! Có Trí tuệ tốt đẹp bỏ đến nơi Có được. Cho nên tên là Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn.

Xá Lợi Phất nói rằng : Việc này với Pháp ra sao, mà được bỏ nơi đến ?

Thiện Hiện trả lời nói rằng :

Xá Lợi Phất ! Việc này với tính thực của Sắc thân, mà được bỏ nơi đến. Với tính thực của Nhận, Tưởng nhớ, Làm, Biết, mà được bỏ nơi đến. Cho nên tên là Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn.

Xá Lợi Phất ! Việc này với tính thực của nơi Mắt, mà được bỏ nơi đến. Với tính thực của nơi Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý, mà được bỏ nơi đến. Cho nên tên là Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn.

Xá Lợi Phất ! Việc này với tính thực của nơi Sắc thân, mà được bỏ nơi đến. Với tính thực của nơi Tiếng nói, Hương, Vị, Xúc chạm, Pháp, mà được bỏ nơi đến. Cho nên tên là Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn.

Xá Lợi Phất ! Việc này với tính thực của cảnh giới Mắt, mà được bỏ nơi đến. Với tính thực của Cõi Sắc thân, cảnh biết của Mắt và chạm biết của Mắt, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mắt, mà được bỏ nơi đến. Cho nên tên là Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn.

Xá Lợi Phất ! Việc này với tính thực của cảnh giới Tai, mà được bỏ nơi đến. Với tính thực của cảnh giới Tiếng nói, cảnh biết của Tai và chạm biết của Tai, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Tai, mà được bỏ nơi đến. Cho nên tên là Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn.

Xá Lợi Phất ! Việc này với tính thực của cảnh giới Mũi, mà được bỏ nơi đến. Với tính thực của cảnh giới Hương, cảnh biết của Mũi và chạm biết của Mũi, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mũi, mà được bỏ nơi đến. Cho nên tên là Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn.

Xá Lợi Phất ! Việc này với tính thực của cảnh giới Lưỡi, mà được bỏ nơi đến. Với tính thực của cảnh giới mùi Vị, cảnh biết của Lưỡi và chạm biết của Lưỡi, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Lưỡi, mà được bỏ nơi đến. Cho nên tên là Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn.

Xá Lợi Phất ! Việc này với tính thực của cảnh giới Thân, mà được bỏ nơi đến. Việc này với tính thực của cảnh giới Xúc chạm, cảnh biết của Thân và chạm biết của Thân, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Thân, mà được bỏ nơi đến. Cho nên tên là Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn.

Xá Lợi Phất ! Việc này với tính thực của cảnh giới Ý, mà được bỏ nơi đến. Với tính thực của Cõi Pháp, cảnh biết của Ý và chạm biết của Ý, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Ý, mà được bỏ nơi đến. Cho nên tên là Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn.

Xá Lợi Phất ! Việc này với tính thực của Cõi Đất, mà được bỏ nơi đến. Với tính thực của Cõi Nước, Lửa, Gió, Rỗng, Biết, mà được bỏ nơi đến. Cho nên tên là Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn.

Xá Lợi Phất ! Việc này với tính thực của Khổ Chân lý bậc Thánh, mà được bỏ nơi đến. Với tính thực của Tập hợp khổ, mất khổ, Đạo mất Khổ Chân lý bậc Thánh, mà được bỏ nơi đến. Cho nên tên là Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn.

Xá Lợi Phất ! Việc này với tính thực của Ngu tối, mà được bỏ nơi đến. Với tính thực của Làm, Biết, Sắc thân giả, sáu Nơi, Xúc chạm, Nhận, Yêu, Lấy, Có, Sinh, Già, Chết, Buồn than, Khổ, Lo buồn, mà được bỏ nơi đến. Cho nên tên là Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn.

Xá Lợi Phất ! Việc này với tính thực của Rỗng bên trong, mà được bỏ nơi đến. Với tính thực của Rỗng bên ngoài, Rỗng bên trong ngoài, Rỗng của trống rỗng, Rỗng lớn nhất, Rỗng của nghĩa tốt, Rỗng của Có làm, Rỗng của Không có làm, Rỗng của thành quả, Rỗng của không giới hạn, Rỗng của tan rời, Rỗng của không biến đổi, Rỗng của bản tính, Rỗng của tự tướng, Rỗng của cùng hình tướng, Rỗng của tất cả Pháp, Rỗng của không thể được, Rỗng của không tính, Rỗng của Tự tính, Rỗng của tự tính không có tính, mà được bỏ nơi đến. Cho nên tên là Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn.

Xá Lợi Phất ! Việc này với tính thực của Nhiều Bố thí tới Niết Bàn, mà được bỏ nơi đến. Với tính thực của Nhiều Giới hạnh sạch, yên Nhịn, Tinh tiến, nghĩ Tĩnh lặng, Trí tuệ tới Niết Bàn, mà được bỏ nơi đến. Cho nên tên là Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn.

Xá Lợi Phất ! Việc này với tính thực của bốn nghĩ Tĩnh lặng, mà được bỏ nơi đến. Với tính thực của bốn Vô lượng, bốn Định Không có Sắc thân, mà được bỏ nơi đến. Cho nên tên là Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn.

Xá Lợi Phất ! Việc này với tính thực của tám Giải thoát, mà được bỏ nơi đến. Với tính thực của tám nơi tốt, chín Định tiếp theo, mười khắp nơi, mà được bỏ nơi đến. Cho nên tên là Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn.

Xá Lợi Phất ! Việc này với tính thực của bốn dừng ở nghĩ nhớ, mà được bỏ nơi đến. Với tính thực của bốn cắt đứt đúng, bốn Thần biến, năm Căn, năm Lực, bảy loại nhánh hiểu, tám nhánh Đạo Thánh, mà được bỏ nơi đến. Cho nên tên là Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn.

Xá Lợi Phất ! Việc này với tính thực của môn Giải thoát Rỗng, mà được bỏ nơi đến. Với tính thực của môn Giải thoát không có hình tướng, không có nguyện, mà được bỏ nơi đến. Cho nên tên là Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn.

Xá Lợi Phất ! Việc này với tính thực của năm Mắt, mà được bỏ nơi đến. Với tính thực của sáu Thần thông, mà được bỏ nơi đến. Cho nên tên là Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn.

Xá Lợi Phất ! Việc này với tính thực của mười Lực của Phật, mà được bỏ nơi đến. Với tính thực của bốn Không đâu sợ, bốn Hiểu không trở ngại, Từ lớn nhất, Bi lớn nhất, Vui lớn nhất, Bố thí lớn nhất, mười tám không cùng Pháp Phật, mà được bỏ nơi đến. Cho nên tên là Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn.

Xá Lợi Phất ! Việc này với tính thực của Chân Như, mà được bỏ nơi đến. Với tính thực của Cõi Pháp, tính Pháp, tính không ảo vọng, tính không biến đổi, tính Bình đẳng, tính rời sinh, yên định Pháp, dừng ở Pháp, thực tế, Cõi khoảng không, Cõi không nghĩ bàn, mà được bỏ nơi đến. Cho nên tên là Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn.

Xá Lợi Phất ! Việc này với tính thực của Bình Đẳng Chính Đẳng Bồ Đề, mà được bỏ nơi đến. Với tính thực của Tất cả Trí tuệ, Trí tuệ của hình tướng Đạo, Trí tuệ của tất cả hình tướng, mà được bỏ nơi đến. Cho nên tên là Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn.

Xá Lợi Phất ! Việc này với tính thực của Pháp không quên mất, mà được bỏ nơi đến. Với tính thực của thường dừng ở tính vứt bỏ, mà được bỏ nơi đến. Cho nên tên là Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn.

Xá Lợi Phất ! Việc này với tính thực của tất cả môn Đà La Ni, mà được bỏ nơi đến. Với tính thực của tất cả môn Tam muội, mà được bỏ nơi đến. Cho nên tên là Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn.

Xá Lợi Phất ! Như thế gọi là Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn.

Kinh Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn Phật, quyển thứ bảy mươi mốt.

0 0 Phiếu
Xếp Hạng Bài Viết
Đăng ký
Thông báo về
guest

0 Bình Luận
Mới nhất
Cũ nhất Được bình chọn nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả ý kiến