Kinh Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn Phật
(Đại Bát nhã Ba La Mật đa Kinh)
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Phật Tử Bùi Đức Huề và Phật Tử Bùi Anh Tuấn dịch năm 2015
Kinh Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn Phật, quyển thứ một trăm hai mươi chín.
Thứ hai mươi bảy phần ba mươi Phẩm Hiệu lượng công Đức phần đầu.
Lại tiếp theo Thế Tôn ! Nếu các người nam thiện, người nữ thiện. Muốn được luôn thấy các thân Trí tuệ, thân Sắc thân, thân Pháp của tất cả Như Lai, Ứng, Chính Đẳng Giác hiện ra nói Pháp vi diệu, ở vô số vô biên Thế giới mười phương. Đang với Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn rất sâu như thế. Cúng dưỡng cung kính, tôn trọng ca ngợi. Chí tâm lắng nghe nhận giữ, đọc khen, tinh siêng tu học, suy nghĩ như lý. Rộng vì chúng sinh Có tình nói giảng truyền bá khắp.
Thế Tôn ! Nếu các người nam thiện, người nữ thiện. Muốn được luôn thấy các thân Trí tuệ, thân Sắc thân, thân Pháp của tất cả Như Lai, Ứng, Chính Đẳng Giác Hiện tại ở trong Đất Phật này. Đang với Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn rất sâu như thế. Cúng dưỡng cung kính, tôn trọng ca ngợi. Chí tâm lắng nghe nhận giữ, đọc khen, tinh siêng tu học, suy nghĩ như lý. Rộng vì chúng sinh Có tình nói giảng truyền bá khắp.
Thế Tôn ! Nếu các người nam thiện, người nữ thiện. Muốn được luôn thấy các thân Trí tuệ, thân Sắc thân, thân Pháp của tất cả Như Lai, Ứng, Chính Đẳng Giác Ba đời mười phương. Đang với Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn rất sâu như thế. Cúng dưỡng cung kính, tôn trọng ca ngợi. Chí tâm lắng nghe nhận giữ, đọc khen, tinh siêng tu học, suy nghĩ như lý. Rộng vì chúng sinh Có tình nói giảng truyền bá khắp.
Thế Tôn ! Nếu các người nam thiện, người nữ thiện tu hành Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Nên dùng tính Pháp với các Như Lai, Ứng, Chính Đẳng Giác, tu thuận theo nghĩ nhớ Phật.
Thế Tôn ! Tính Pháp có hai. Một là Có làm. Hai là Không có làm. Thế nào tên là tính Pháp Có làm ? Gọi là biết như thực Trí tuệ bản thân, Trí tuệ chúng sinh Có tình, Trí tuệ mệnh đó, Trí tuệ sinh đó, Trí tuệ nuôi dưỡng đó, Trí tuệ Sĩ Phu, Trí tuệ Chúng sinh, Trí tuệ Bồ Tát, Trí tuệ Học trò nhỏ, Trí tuệ người làm, Trí tuệ nhận đó, Trí tuệ biết đó, Trí tuệ thấy đó. Hoặc Trí tuệ Sắc thân, Trí tuệ Nhận, Trí tuệ Tưởng nhớ, Trí tuệ Làm, Trí tuệ Biết. Hoặc Trí tuệ nơi Mắt, Trí tuệ nơi Tai, Trí tuệ nơi Mũi, Trí tuệ nơi Lưỡi, Trí tuệ nơi Thân, Trí tuệ nơi Ý. Hoặc Trí tuệ nơi Sắc thân, Trí tuệ nơi Tiếng nói, Trí tuệ nơi Hương, Trí tuệ nơi Vị, Trí tuệ nơi Xúc chạm, Trí tuệ nơi Pháp. Hoặc Trí tuệ cảnh giới Mắt, Trí tuệ Cõi Sắc thân, Trí tuệ cảnh biết của Mắt và Trí tuệ chạm biết của Mắt, Trí tuệ các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mắt. Hoặc Trí tuệ cảnh giới Tai, Trí tuệ cảnh giới Tiếng nói, Trí tuệ cảnh biết của Tai và Trí tuệ chạm biết của Tai, Trí tuệ các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Tai. Hoặc Trí tuệ cảnh giới Mũi, Trí tuệ cảnh giới Hương, Trí tuệ cảnh biết của Mũi và Trí tuệ chạm biết của Mũi, Trí tuệ các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mũi. Hoặc Trí tuệ cảnh giới Lưỡi, Trí tuệ cảnh giới mùi Vị, Trí tuệ cảnh biết của Lưỡi và Trí tuệ chạm biết của Lưỡi, Trí tuệ các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Lưỡi. Hoặc Trí tuệ cảnh giới Thân, Trí tuệ cảnh giới Xúc chạm, Trí tuệ cảnh biết của Thân và Trí tuệ chạm biết của Thân, Trí tuệ các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Thân. Hoặc Trí tuệ cảnh giới Ý, Trí tuệ Cõi Pháp, Trí tuệ cảnh biết của Ý và Trí tuệ chạm biết của Ý, Trí tuệ các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Ý. Hoặc Trí tuệ Cõi Đất, Trí tuệ Cõi Nước, Trí tuệ Cõi Lửa, Trí tuệ Cõi Gió, Trí tuệ Cõi Rỗng, Trí tuệ Cõi Biết. Hoặc Trí tuệ của Ngu tối, Trí tuệ Làm, Trí tuệ Biết, Trí tuệ Sắc thân giả, Trí tuệ sáu Nơi, Trí tuệ Xúc chạm, Trí tuệ Nhận, Trí tuệ Yêu, Trí tuệ Lấy, Trí tuệ Có, Trí tuệ Sinh, Trí tuệ Già, Chết, Buồn than, Khổ, Lo buồn. Hoặc Trí tuệ Nhiều Bố thí tới Niết Bàn, Trí tuệ Nhiều Giới hạnh sạch tới Niết Bàn, Trí tuệ Nhiều Yên nhịn tới Niết Bàn, Trí tuệ Nhiều Tinh tiến tới Niết Bàn, Trí tuệ Nhiều nghĩ Tĩnh lặng tới Niết Bàn, Trí tuệ Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Hoặc Trí tuệ Rỗng bên trong, Trí tuệ Rỗng bên ngoài, Trí tuệ Rỗng bên trong ngoài, Trí tuệ Rỗng của trống rỗng, Trí tuệ Rỗng lớn nhất, Trí tuệ Rỗng của nghĩa tốt, Trí tuệ Rỗng của Có làm, Trí tuệ Rỗng của Không có làm, Trí tuệ Rỗng của thành quả, Trí tuệ Rỗng của không giới hạn, Trí tuệ Rỗng của tan rời, Trí tuệ Rỗng của không biến đổi, Trí tuệ Rỗng của bản tính, Trí tuệ Rỗng của tự tướng, Trí tuệ Rỗng của cùng hình tướng, Trí tuệ Rỗng của tất cả Pháp, Trí tuệ Rỗng của không thể được, Trí tuệ Rỗng của không tính, Trí tuệ Rỗng của Tự tính, Trí tuệ Rỗng của tự tính không có tính. Hoặc Trí tuệ Chân Như, Trí tuệ Cõi Pháp, Trí tuệ tính Pháp, Trí tuệ tính không ảo vọng, Trí tuệ tính không biến đổi, Trí tuệ tính Bình đẳng, Trí tuệ tính rời sinh, Trí tuệ yên định Pháp, Trí tuệ dừng ở Pháp, Trí tuệ thực tế, Trí tuệ Cõi khoảng không, Trí tuệ Cõi không nghĩ bàn. Hoặc Trí tuệ Khổ Chân lý bậc Thánh, Trí tuệ Tập hợp khổ Chân lý bậc Thánh, Trí tuệ mất khổ Chân lý bậc Thánh, Trí tuệ Đạo mất Khổ Chân lý bậc Thánh. Hoặc Trí tuệ bốn nghĩ Tĩnh lặng, Trí tuệ bốn Vô lượng, Trí tuệ bốn Định Không có Sắc thân. Hoặc Trí tuệ tám Giải thoát, Trí tuệ tám nơi tốt, Trí tuệ chín Định tiếp theo, Trí tuệ mười khắp nơi. Hoặc Trí tuệ bốn dừng ở nghĩ nhớ, Trí tuệ bốn cắt đứt đúng, Trí tuệ bốn Thần biến, Trí tuệ năm Căn, Trí tuệ năm Lực, Trí tuệ bảy loại nhánh hiểu, Trí tuệ tám nhánh Đạo Thánh. Hoặc Trí tuệ môn Giải thoát Rỗng, Trí tuệ môn Giải thoát không có hình tướng, Trí tuệ môn Giải thoát không có nguyện. Hoặc Trí tuệ năm Mắt, Trí tuệ sáu Thần thông. Hoặc Trí tuệ mười Lực của Phật, Trí tuệ bốn Không đâu sợ, Trí tuệ bốn Hiểu không trở ngại, Trí tuệ Từ lớn nhất, Trí tuệ Bi lớn nhất, Trí tuệ Vui lớn nhất, Trí tuệ Bố thí lớn nhất, Trí tuệ mười tám không cùng Pháp Phật. Hoặc Trí tuệ Pháp không quên mất, Trí tuệ thường dừng ở tính vứt bỏ. Hoặc Trí của Tất cả Trí tuệ, Trí của Trí tuệ của hình tướng Đạo, Trí của Trí tuệ của tất cả hình tướng. Hoặc Trí tuệ tất cả môn Đà La Ni, Trí tuệ tất cả môn Tam muội. Hoặc Trí tuệ Tu Đà Hoàn, Trí tuệ Tư Đà Hàm, Trí tuệ A Na Hàm, Trí tuệ A La Hán. Hoặc Trí tuệ Hướng Tu Đà Hoàn quả Tu Đà Hoàn, Trí tuệ Hướng Tư Đà Hàm quả Tư Đà Hàm, Trí tuệ Hướng A Na Hàm quả A Na Hàm, Trí tuệ Hướng A La Hán quả A La Hán. Hoặc Trí tuệ Duyên Giác, Trí tuệ Duyên Giác Bồ Đề. Hoặc Trí tuệ Bồ Tát Bồ Tát lớn, Trí tuệ hạnh Bồ Tát Bồ Tát lớn. Hoặc Trí tuệ Chính Biến Tri, Trí tuệ Bình Đẳng Chính Đẳng Bồ Đề. Hoặc Trí tuệ Pháp thiện, Trí tuệ Pháp không thiện, Trí tuệ Pháp không ghi nhớ. Hoặc Trí tuệ Pháp Quá khứ, Trí tuệ Pháp Tương lai, Trí tuệ Pháp Hiện tại. Hoặc Trí tuệ thuộc Cõi Tham muốn, Trí tuệ thuộc Cõi Sắc thân, Trí tuệ thuộc Cõi Không có Sắc thân. Hoặc Trí tuệ Pháp có học, Trí tuệ Pháp không học, Trí tuệ Pháp có học sai, không có học sai. Hoặc Trí tuệ Pháp do cắt đứt thấy, Trí tuệ Pháp do cắt đứt tu, Trí tuệ Pháp do cắt đứt sai. Hoặc Trí tuệ Pháp có Sắc thân, Trí tuệ Pháp không có Sắc thân. Hoặc Trí tuệ Pháp có thấy, Trí tuệ Pháp không có thấy. Hoặc Trí tuệ Pháp có đối trị, Trí tuệ Pháp không có đối trị. Hoặc Trí tuệ Pháp Có thấm bẩn, Trí tuệ Pháp Không có thấm bẩn. Hoặc Trí tuệ Pháp Có làm, Trí tuệ Pháp Không có làm. Hoặc Trí tuệ Pháp có tội, Trí tuệ Pháp không có tội. Hoặc Trí tuệ Pháp Thế gian, Trí tuệ Pháp ra ngoài Thế gian. Hoặc Trí tuệ Pháp bẩn loạn, Trí tuệ Pháp Thanh tịnh. Các loại như thế cùng với Trí tuệ của vô lượng môn. Đều cùng tên là tính Pháp Có làm.
Thế nào tên là tính Pháp Không có làm ? Gọi là Tất cả Pháp không sinh không mất, không dừng không khác, không bẩn không sạch, không tăng không giảm, không hình tướng, Không có làm, tự tính không có tính.
Thế nào tên là tự tính không có tính ? Gọi là không có tính bản thân. Không có tính chúng sinh Có tình. Không có tính mệnh đó. Không có tính sinh đó. Không có tính nuôi dưỡng đó. Không có tính Sĩ phu. Không có tính chúng sinh. Không có tính Bồ Tát. Không có tính Học trò nhỏ. Không có tính người làm. Không có tính nhận đó. Không có tính biết đó. Không có tính thấy đó. Hoặc không có tính Sắc thân. Không có tính Nhận, Tưởng nhớ, Làm, Biết. Hoặc không có tính nơi Mắt. Không có tính nơi Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý. Hoặc không có tính nơi Sắc thân. Không có tính nơi Tiếng nói, Hương, Vị, Xúc chạm, Pháp. Hoặc không có tính cảnh giới Mắt. Không có tính Cõi Sắc thân, cảnh biết của Mắt và chạm biết của Mắt, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mắt. Hoặc không có tính cảnh giới Tai. Không có tính cảnh giới Tiếng nói, cảnh biết của Tai và chạm biết của Tai, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Tai. Hoặc không có tính cảnh giới Mũi. Không có tính cảnh giới Hương, cảnh biết của Mũi và chạm biết của Mũi, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mũi. Hoặc không có tính cảnh giới Lưỡi. Không có tính cảnh giới mùi Vị, cảnh biết của Lưỡi và chạm biết của Lưỡi, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Lưỡi. Hoặc không có tính cảnh giới Thân. Không có tính cảnh giới Xúc chạm, cảnh biết của Thân và chạm biết của Thân, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Thân. Hoặc không có tính cảnh giới Ý. Không có tính Cõi Pháp, cảnh biết của Ý và chạm biết của Ý, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Ý. Hoặc không có tính Cõi Đất. Không có tính Cõi Nước, Lửa, Gió, Rỗng, Biết. Hoặc không có tính Ngu tối. Không có tính Làm, Biết, Sắc thân giả, sáu Nơi, Xúc chạm, Nhận, Yêu, Lấy, Có, Sinh, Già, Chết, Buồn than, Khổ, Lo buồn. Hoặc không có tính Nhiều Bố thí tới Niết Bàn. Không có tính Nhiều Giới hạnh sạch, yên Nhịn, Tinh tiến, nghĩ Tĩnh lặng, Trí tuệ tới Niết Bàn. Hoặc không có tính Rỗng bên trong. Không có tính Rỗng bên ngoài, Rỗng bên trong ngoài, Rỗng của trống rỗng, Rỗng lớn nhất, Rỗng của nghĩa tốt, Rỗng của Có làm, Rỗng của Không có làm, Rỗng của thành quả, Rỗng của không giới hạn, Rỗng của tan rời, Rỗng của không biến đổi, Rỗng của bản tính, Rỗng của tự tướng, Rỗng của cùng hình tướng, Rỗng của tất cả Pháp, Rỗng của không thể được, Rỗng của không tính, Rỗng của Tự tính, Rỗng của tự tính không có tính. Hoặc không có tính Chân Như. Không có tính Cõi Pháp, tính Pháp, tính không ảo vọng, tính không biến đổi, tính Bình đẳng, tính rời sinh, yên định Pháp, dừng ở Pháp, thực tế, Cõi khoảng không, Cõi không nghĩ bàn. Hoặc không có tính Khổ Chân lý bậc Thánh. Không có tính Tập hợp khổ, mất khổ, Đạo mất Khổ Chân lý bậc Thánh. Hoặc không có tính bốn nghĩ Tĩnh lặng. Không có tính bốn Vô lượng, bốn Định Không có Sắc thân. Hoặc không có tính tám Giải thoát. Không có tính tám nơi tốt, chín Định tiếp theo, mười khắp nơi. Hoặc không có tính bốn dừng ở nghĩ nhớ. Không có tính bốn cắt đứt đúng, bốn Thần biến, năm Căn, năm Lực, bảy loại nhánh hiểu, tám nhánh Đạo Thánh. Hoặc không có tính môn Giải thoát Rỗng. Không có tính môn Giải thoát không có hình tướng, môn Giải thoát không có nguyện. Hoặc không có tính năm Mắt. Không có tính sáu Thần thông. Hoặc không có tính mười Lực của Phật. Không có tính bốn Không đâu sợ, bốn Hiểu không trở ngại, Từ lớn nhất, Bi lớn nhất, Vui lớn nhất, Bố thí lớn nhất, mười tám không cùng Pháp Phật. Hoặc không có tính Pháp không quên mất. Không có tính thường dừng ở tính vứt bỏ. Hoặc không có tính Tất cả Trí tuệ. Không có tính Trí tuệ của hình tướng Đạo, Trí tuệ của tất cả hình tướng. Hoặc không có tính tất cả môn Đà La Ni. Không có tính tất cả môn Tam muội. Hoặc không có tính Tu Đà Hoàn. Không có tính Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán. Hoặc không có tính Hướng Tu Đà Hoàn quả Tu Đà Hoàn. Không có tính Hướng Tư Đà Hàm quả Tư Đà Hàm, Hướng A Na Hàm quả A Na Hàm, Hướng A La Hán quả A La Hán. Hoặc không có tính Duyên Giác. Không có tính Duyên Giác Bồ Đề. Hoặc không có tính Bồ Tát Bồ Tát lớn. Không có tính hạnh Bồ Tát Bồ Tát lớn. Hoặc không có tính Chính Biến Tri. Không có tính Bình Đẳng Chính Đẳng Bồ Đề. Hoặc không có tính Pháp thiện. Không có tính Pháp không thiện, Pháp không ghi nhớ. Hoặc không có tính Pháp Quá khứ. Không có tính Pháp Hiện tại, Tương lai. Hoặc không có tính Pháp thuộc Cõi Tham muốn. Không có tính Pháp thuộc Cõi Sắc thân. Không có tính Pháp thuộc Cõi Không có Sắc thân. Hoặc không có tính Pháp không học. Không có tính Pháp không học, học sai, không học sai. Hoặc không có tính Pháp do cắt đứt thấy. Không có tính Pháp do cắt đứt tu, do cắt đứt sai. Hoặc không có tính Pháp có Sắc thân. Không có tính Pháp Không có Sắc thân. Hoặc không có tính Pháp có thấy. Không có tính Pháp không thấy. Hoặc không có tính Pháp có đối trị. Không có tính Pháp không có đối trị. Hoặc không có tính Pháp có thấm bẩn. Không có tính Pháp không có thấm bẩn. Hoặc không có tính Pháp Có làm. Không có tính Pháp Không có làm. Hoặc không có tính Pháp có tội. Không có tính Pháp không có tội. Hoặc không có tính Pháp Thế gian. Không có tính Pháp ra ngoài Thế gian. Hoặc không có tính Pháp bẩn loạn. Không có tính Pháp Thanh tịnh. Không có như thế cùng với tính của vô lượng môn. Rỗng, toàn bộ không có, không có hình tướng, không có trạng thái, không có nói, không có giảng, không có hiểu, không có biết. Như thế tên là tự tính không có tính. Tự tính không có tính của các Pháp như thế. Đều cùng tên là tính Pháp Không có làm.
Khi đó Phật bảo Ngọc Hoàng Đế Thích nói rằng : Như thế, đúng như thế ! Như được Ngài nói.
Kiêu Thi Ca ! Như Lai, Ứng, Chính Đẳng Giác Quá khứ. Đều do Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn rất sâu như thế. Đã chứng Bình Đẳng Chính Đẳng Bồ Đề. Như Lai, Ứng, Chính Đẳng Giác Tương lai. Đều do Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn rất sâu như thế. Đang chứng Bình Đẳng Chính Đẳng Bồ Đề. Tất cả Như Lai, Ứng, Chính Đẳng Giác Hiện tại ở vô lượng vô số vô biên Thế giới mười phương. Đều do Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn rất sâu như thế. Hiện nay chứng Bình Đẳng Chính Đẳng Bồ Đề.
Kiêu Thi Ca ! Đệ tử Thanh Văn của Như Lai, Ứng, Chính Đẳng Giác Quá khứ. Cũng do Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn rất sâu như thế. Đã được quả Tu Đà Hoàn. Đã được quả Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán. Đệ tử Thanh Văn của Như Lai, Ứng, Chính Đẳng Giác Tương lai. Cũng do Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn rất sâu như thế. Đang được quả Tu Đà Hoàn. Đang được quả Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán. Đệ tử Thanh Văn của tất cả Như Lai, Ứng, Chính Đẳng Giác Hiện tại ở vô lượng vô số vô biên Thế giới mười phương. Cũng do Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn rất sâu như thế. Hiện nay được quả Tu Đà Hoàn. Hiện nay được quả Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán.
Kiêu Thi Ca ! Duyên Giác Quá khứ cũng do Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn rất sâu như thế. Đã chứng Duyên Giác Bồ Đề. Duyên Giác Tương lai cũng do Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn rất sâu như thế. Đang chứng Duyên Giác Bồ Đề. Duyên Giác Hiện tại cũng do Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn rất sâu như thế. Hiện nay chứng Duyên Giác Bồ Đề. Cớ là sao ?
Kiêu Thi Ca ! Ở trong tạng bí mật Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn như thế. Do rộng nói Pháp tương ứng với Ba Bậc. Tuy nhiên nói được này, do dùng không đâu được làm Phương tiện. Do không có tính, không có hình tướng làm Phương tiện. Do không sinh không mất làm Phương tiện. Do không bẩn không sạch làm Phương tiện. Do không tạo ra không làm ra làm Phương tiện. Do không vào không ra làm Phương tiện. Do không tăng không giảm làm Phương tiện. Do không lấy không bỏ làm Phương tiện. Nói được như thế, do vì đời tục. Do được nghĩa sai. Sở dĩ thế nào ? Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn như thế, Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn sai, không có Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn sai. Niết Bàn này sai, Niết Bàn kia sai, chảy ở giữa sai. Trên bộ sai, dưới nước sai. Cao sai, thấp sai. Bình đẳng sai, không Bình đẳng sai. Có hình tướng sai, không có hình tướng sai. Thế gian sai, ra ngoài Thế gian sai. Có thấm bẩn sai, không có thấm bẩn sai. Có làm sai, Không có làm sai. Có tội sai, không có tội sai. Có Sắc thân sai, không có Sắc thân sai. Có thấy sai. Không có thấy sai. Có đối trị sai, không có đối trị sai. Thiện sai, không thiện sai. Có ghi nhớ sai, không có ghi nhớ sai. Quá khứ sai, Tương lai sai, Hiện tại sai. Thuộc Cõi Tham muốn sai, thuộc Cõi Sắc thân sai, thuộc Cõi Không có Sắc thân sai. Học sai, không học sai, không phải học sai không học sai. Cắt đứt thấy sai, cắt đứt tu sai, không phải cắt đứt sai. Có sai, Rỗng sai. Cảnh giới sai, Trí tuệ sai.
Kiêu Thi Ca ! Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn như thế. Không cùng với các Pháp Phật. Không cùng với Pháp Bồ Tát. Không cùng với Pháp Duyên Giác. Không cùng với Pháp Tu Đà Hoàn. Không cùng với Pháp Tư Đà Hàm. Không cùng với Pháp A Na Hàm. Không cùng với Pháp A La Hán. Không bỏ Pháp sinh khác.
Thời Ngọc Hoàng Đế Thích lại báo cáo Phật nói rằng :
Thế Tôn ! Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn như thế. Là Nhiều tới Niết Bàn lớn nhất. Là Nhiều tới Niết Bàn Bình Đẳng. Là Nhiều tới Niết Bàn không sánh bằng.
Thế Tôn ! Bồ Tát Bồ Tát lớn tu hành Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn rất sâu như thế. Tuy biết cảnh giới hạnh tâm của tất cả chúng sinh Có tình khác nhau, mà không được bản thân. Không được chúng sinh Có tình, mệnh đó, sinh đó, nuôi dưỡng đó, Sĩ phu, tính cầm lấy hướng tới, Bồ Tát, Học trò nhỏ, người làm, nhận đó, biết đó, thấy đó.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó cũng không được Sắc thân. Không được Nhận, Tưởng nhớ, Làm, Biết. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó cũng không được nơi Mắt. Không được nơi Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó cũng không được nơi Sắc thân. Không được nơi Tiếng nói, Hương, Vị, Xúc chạm, Pháp.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó cũng không được cảnh giới Mắt. Không được Cõi Sắc thân, cảnh biết của Mắt và chạm biết của Mắt, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mắt.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó cũng không được cảnh giới Tai. Không được cảnh giới Tiếng nói, cảnh biết của Tai và chạm biết của Tai, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Tai.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó cũng không được cảnh giới Mũi. Không được cảnh giới Hương, cảnh biết của Mũi và chạm biết của Mũi, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mũi.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó cũng không được cảnh giới Lưỡi. Không được cảnh giới mùi Vị, cảnh biết của Lưỡi và chạm biết của Lưỡi, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Lưỡi.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó cũng không được cảnh giới Thân. Không được cảnh giới Xúc chạm, cảnh biết của Thân và chạm biết của Thân, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Thân.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó cũng không được cảnh giới Ý. Không được Cõi Pháp, cảnh biết của Ý và chạm biết của Ý, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Ý.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó cũng không được Cõi Đất. Không được Cõi Nước, Lửa, Gió, Rỗng, Biết. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó cũng không được Ngu tối. Không được Làm, Biết, Sắc thân giả, sáu Nơi, Xúc chạm, Nhận, Yêu, Lấy, Có, Sinh, Già, Chết, Buồn than, Khổ, Lo buồn.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó cũng không được Nhiều Bố thí tới Niết Bàn. Không được Nhiều Giới hạnh sạch, yên Nhịn, Tinh tiến, nghĩ Tĩnh lặng, Trí tuệ tới Niết Bàn.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó cũng không được Rỗng bên trong. Không được Rỗng bên ngoài, Rỗng bên trong ngoài, Rỗng của trống rỗng, Rỗng lớn nhất, Rỗng của nghĩa tốt, Rỗng của Có làm, Rỗng của Không có làm, Rỗng của thành quả, Rỗng của không giới hạn, Rỗng của tan rời, Rỗng của không biến đổi, Rỗng của bản tính, Rỗng của tự tướng, Rỗng của cùng hình tướng, Rỗng của tất cả Pháp, Rỗng của không thể được, Rỗng của không tính, Rỗng của Tự tính, Rỗng của tự tính không có tính.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó cũng không được Chân Như. Không được Cõi Pháp, tính Pháp, tính không ảo vọng, tính không biến đổi, tính Bình đẳng, tính rời sinh, yên định Pháp, dừng ở Pháp, thực tế, Cõi khoảng không, Cõi không nghĩ bàn.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó cũng không được Khổ Chân lý bậc Thánh. Không được Tập hợp khổ, mất khổ, Đạo mất Khổ Chân lý bậc Thánh.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó cũng không được bốn nghĩ Tĩnh lặng. Không được bốn Vô lượng, bốn Định Không có Sắc thân.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó cũng không được tám Giải thoát. Không được tám nơi tốt, chín Định tiếp theo, mười khắp nơi.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó cũng không được bốn dừng ở nghĩ nhớ. Không được bốn cắt đứt đúng, bốn Thần biến, năm Căn, năm Lực, bảy loại nhánh hiểu, tám nhánh Đạo Thánh.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó cũng không được môn Giải thoát Rỗng. Không được môn Giải thoát không có hình tướng, không có nguyện.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó cũng không được năm Mắt. Không được sáu Thần thông. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó cũng không được mười Lực của Phật. Không được bốn Không đâu sợ, bốn Hiểu không trở ngại, Từ lớn nhất, Bi lớn nhất, Vui lớn nhất, Bố thí lớn nhất, mười tám không cùng Pháp Phật. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó cũng không được Pháp không quên mất. Không được thường dừng ở tính vứt bỏ.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó cũng không được Tất cả Trí tuệ. Không được Trí tuệ của hình tướng Đạo, Trí tuệ của tất cả hình tướng.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó cũng không được tất cả môn Đà La Ni. Không được tất cả môn Tam muội. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó cũng không được Tu Đà Hoàn. Không được Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó cũng không được Hướng Tu Đà Hoàn quả Tu Đà Hoàn. Không được Hướng Tư Đà Hàm quả Tư Đà Hàm, Hướng A Na Hàm quả A Na Hàm, Hướng A La Hán quả A La Hán.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó cũng không được Duyên Giác. Không được Duyên Giác Bồ Đề.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó cũng không được Bồ Tát Bồ Tát lớn. Không được Pháp Bồ Tát Bồ Tát lớn. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó cũng không được Chính Biến Tri. Không được Pháp Chính Biến Tri. Cớ là sao ? Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn này sai, do có nơi được cho nên mà hiện ra. Sở dĩ thế nào ? Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn rất sâu đều không có tự tính, cũng không thể được. Có thể được, do được và tính, tướng, hai nơi dựa vào đều Rỗng, cho nên không thể được.
Khi đó Phật bảo Ngọc Hoàng Đế Thích nói rằng : Như thế, đúng như thế ! Như được Ngài nói. Cớ là sao ?
Kiêu Thi Ca ! Bồ Tát Bồ Tát lớn dùng không đâu được làm Phương tiện. Đêm dài tu hành Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn rất sâu. Còn không được Bồ Đề và chúng sinh Có tình. Huống chi được Bồ Tát Bồ Tát lớn ! Bồ Tát Bồ Tát lớn này đã không thể được. Được Pháp Bồ Tát Bồ Tát lớn ra sao ! Bồ Tát và Pháp còn không thể được. Huống chi được các Phật và các Pháp Phật !
Thời Ngọc Hoàng Đế Thích lại báo cáo Phật nói rằng :
Thế Tôn ! Bồ Tát Bồ Tát lớn do chỉ thực hành Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Cũng thực hành năm Nhiều tới Niết Bàn khác phải không ?
Phật nói rằng : Kiêu Thi Ca ! Bồ Tát Bồ Tát lớn dùng không đâu được làm Phương tiện. Thực hành đầy đủ sáu loại Nhiều tới Niết Bàn. Khi thực hành Bố thí, không được Bố thí đó. Không được người nhận. Không được Bố thí và vật Bố thí. Khi thực hành Giới hạnh sạch, không được Giới hạnh sạch. Không được Giới hạnh ác. Không được giữ lấy Giới hạnh sạch đó. Khi thực hành Yên nhịn, không được Yên nhịn. Không được tức giận. Không được làm Yên nhịn đó. Khi thực hành Tinh tiến, không được Tinh tiến. Không được lười nhác. Không được làm Tinh tiến đó. Khi thực hành nghĩ Tĩnh lặng, không được nghĩ Tĩnh lặng. Không được tán loạn. Không được làm nghĩ Tính lặng đó. Khi thực hành Trí tuệ, không được Trí tuệ. Không được Trí tuệ ác. Không được làm Trí tuệ đó.
Lại tiếp theo Kiêu Thi Ca ! Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn rất sâu của Bồ Tát Bồ Tát lớn là quý, là dẫn hướng. Tu luyện tất cả Nhiều tới Niết Bàn. Giúp cho nhanh đầy đủ. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó khi thực hành Bố thí. Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn rất sâu là quý, là dẫn hướng. Do tu không đâu cầm lấy nương nhờ Nhiều Bố thí tới Niết Bàn nhanh được đầy đủ. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó khi thực hành Giới hạnh sạch. Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn rất sâu là quý, là dẫn hướng. Do tu không đâu cầm lấy nương nhờ Nhiều Giới hạnh sạch tới Niết Bàn nhanh được đầy đủ. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó khi thực hành Yên nhịn. Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn rất sâu là quý, là dẫn hướng. Do tu không đâu cầm lấy nương nhờ Nhiều Yên nhịn tới Niết Bàn nhanh được đầy đủ. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó khi thực hành Tinh tiến. Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn rất sâu là quý, là dẫn hướng. Do tu không đâu cầm lấy nương nhờ Nhiều Tinh tiến tới Niết Bàn nhanh được đầy đủ. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó khi thực hành nghĩ Tĩnh lặng. Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn rất sâu là quý, là dẫn hướng. Do tu không đâu cầm lấy nương nhờ Nhiều nghĩ Tĩnh lặng tới Niết Bàn nhanh được đầy đủ. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó khi thực hành Trí tuệ. Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn rất sâu là quý, là dẫn hướng. Do tu không đâu cầm lấy nương nhờ Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn nhanh được đầy đủ.
Lại tiếp theo Kiêu Thi Ca ! Bồ Tát Bồ Tát lớn đó với tất cả Pháp. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn do không cầm lấy nương nhờ. Giúp cho tu luyện nhanh được đầy đủ.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó với Sắc thân. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Với Nhận, Tưởng nhớ, Làm, Biết. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Do Nhân duyên này không đâu cầm lấy nương nhờ. Giúp cho tu luyện nhanh được đầy đủ.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó với nơi Mắt. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Với nơi Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Do Nhân duyên này không đâu cầm lấy nương nhờ. Giúp cho tu luyện nhanh được đầy đủ.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó với nơi Sắc thân. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Với nơi Tiếng nói, Hương, Vị, Xúc chạm, Pháp. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Do Nhân duyên này không đâu cầm lấy nương nhờ. Giúp cho tu luyện nhanh được đầy đủ.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó với cảnh giới Mắt. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Với Cõi Sắc thân, cảnh biết của Mắt và chạm biết của Mắt, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mắt. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Do Nhân duyên này không đâu cầm lấy nương nhờ. Giúp cho tu luyện nhanh được đầy đủ.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó với cảnh giới Tai. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Với cảnh giới Tiếng nói, cảnh biết của Tai và chạm biết của Tai, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Tai. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Do Nhân duyên này không đâu cầm lấy nương nhờ. Giúp cho tu luyện nhanh được đầy đủ.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó với cảnh giới Mũi. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Với cảnh giới Hương, cảnh biết của Mũi và chạm biết của Mũi, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Mũi. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Do Nhân duyên này không đâu cầm lấy nương nhờ. Giúp cho tu luyện nhanh được đầy đủ.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó với cảnh giới Lưỡi. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Với cảnh giới mùi Vị, cảnh biết của Lưỡi và chạm biết của Lưỡi, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Lưỡi. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Do Nhân duyên này không đâu cầm lấy nương nhờ. Giúp cho tu luyện nhanh được đầy đủ.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó với cảnh giới Thân. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Với cảnh giới Xúc chạm, cảnh biết của Thân và chạm biết của Thân, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Thân. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Do Nhân duyên này không đâu cầm lấy nương nhờ. Giúp cho tu luyện nhanh được đầy đủ.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó với cảnh giới Ý. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Với Cõi Pháp, cảnh biết của Ý và chạm biết của Ý, các Nhận là Duyên sinh do chạm biết của Ý. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Do Nhân duyên này không đâu cầm lấy nương nhờ. Giúp cho tu luyện nhanh được đầy đủ. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó với Cõi Đất. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Với Cõi Nước, Lửa, Gió, Rỗng, Biết. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Do Nhân duyên này không đâu cầm lấy nương nhờ. Giúp cho tu luyện nhanh được đầy đủ.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó với Ngu tối. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Với Làm, Biết, Sắc thân giả, sáu Nơi, Xúc chạm, Nhận, Yêu, Lấy, Có, Sinh, Già, Chết, Buồn than, Khổ, Lo buồn. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Do Nhân duyên này không đâu cầm lấy nương nhờ. Giúp cho tu luyện nhanh được đầy đủ.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó với Rỗng bên trong. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Với Rỗng bên ngoài, Rỗng bên trong ngoài, Rỗng của trống rỗng, Rỗng lớn nhất, Rỗng của nghĩa tốt, Rỗng của Có làm, Rỗng của Không có làm, Rỗng của thành quả, Rỗng của không giới hạn, Rỗng của tan rời, Rỗng của không biến đổi, Rỗng của bản tính, Rỗng của tự tướng, Rỗng của cùng hình tướng, Rỗng của tất cả Pháp, Rỗng của không thể được, Rỗng của không tính, Rỗng của Tự tính, Rỗng của tự tính không có tính. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Do Nhân duyên này không đâu cầm lấy nương nhờ. Giúp cho tu luyện nhanh được đầy đủ.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó với Chân Như. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Với Cõi Pháp, tính Pháp, tính không ảo vọng, tính không biến đổi, tính Bình đẳng, tính rời sinh, yên định Pháp, dừng ở Pháp, thực tế, Cõi khoảng không, Cõi không nghĩ bàn. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Do Nhân duyên này không đâu cầm lấy nương nhờ. Giúp cho tu luyện nhanh được đầy đủ.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó với Khổ Chân lý bậc Thánh. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Với Tập hợp khổ, mất khổ, Đạo mất Khổ Chân lý bậc Thánh. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Do Nhân duyên này không đâu cầm lấy nương nhờ. Giúp cho tu luyện nhanh được đầy đủ.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó với Nhiều Bố thí tới Niết Bàn. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Với Nhiều Giới hạnh sạch, yên Nhịn, Tinh tiến, nghĩ Tĩnh lặng, Trí tuệ tới Niết Bàn. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Do Nhân duyên này không đâu cầm lấy nương nhờ. Giúp cho tu luyện nhanh được đầy đủ. Bồ Tát Bồ Tát lớn đó với bốn nghĩ Tĩnh lặng. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Với bốn Vô lượng, bốn Định Không có Sắc thân. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Do Nhân duyên này không đâu cầm lấy nương nhờ. Giúp cho tu luyện nhanh được đầy đủ.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó với tám Giải thoát. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Với tám nơi tốt, chín Định tiếp theo, mười khắp nơi. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Do Nhân duyên này không đâu cầm lấy nương nhờ. Giúp cho tu luyện nhanh được đầy đủ.
Bồ Tát Bồ Tát lớn với bốn dừng ở nghĩ nhớ. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Với bốn cắt đứt đúng, bốn Thần biến, năm Căn, năm Lực, bảy loại nhánh hiểu, tám nhánh Đạo Thánh. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Do Nhân duyên này không đâu cầm lấy nương nhờ. Giúp cho tu luyện nhanh được đầy đủ.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó với môn Giải thoát Rỗng. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Với môn Giải thoát không có hình tướng, không có nguyện. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Do Nhân duyên này không đâu cầm lấy nương nhờ. Giúp cho tu luyện nhanh được đầy đủ.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó với năm Mắt. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Với sáu Thần thông. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Do Nhân duyên này không đâu cầm lấy nương nhờ. Giúp cho tu luyện nhanh được đầy đủ.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó với mười Lực của Phật. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Với bốn Không đâu sợ, bốn Hiểu không trở ngại, Từ lớn nhất, Bi lớn nhất, Vui lớn nhất, Bố thí lớn nhất, mười tám không cùng Pháp Phật. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Do Nhân duyên này không đâu cầm lấy nương nhờ. Giúp cho tu luyện nhanh được đầy đủ.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó với Pháp không quên mất. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Với thường dừng ở tính vứt bỏ. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Do Nhân duyên này không đâu cầm lấy nương nhờ. Giúp cho tu luyện nhanh được đầy đủ.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó với Tất cả Trí tuệ. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Với Trí tuệ của hình tướng Đạo, Trí tuệ của tất cả hình tướng. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Do Nhân duyên này không đâu cầm lấy nương nhờ. Giúp cho tu luyện nhanh được đầy đủ.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó với tất cả môn Đà La Ni. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Với tất cả môn Tam muội. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Do Nhân duyên này không đâu cầm lấy nương nhờ. Giúp cho tu luyện nhanh được đầy đủ.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó với Tu Đà Hoàn. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Với Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Do Nhân duyên này không đâu cầm lấy nương nhờ. Giúp cho tu luyện nhanh được đầy đủ.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó với Hướng Tu Đà Hoàn quả Tu Đà Hoàn. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Với Hướng Tư Đà Hàm quả Tư Đà Hàm, Hướng A Na Hàm quả A Na Hàm, Hướng A La Hán quả A La Hán. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Do Nhân duyên này không đâu cầm lấy nương nhờ. Giúp cho tu luyện nhanh được đầy đủ.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó với Duyên Giác. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Với Duyên Giác Bồ Đề. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Do Nhân duyên này không đâu cầm lấy nương nhờ. Giúp cho tu luyện nhanh được đầy đủ.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó với Bồ Tát Bồ Tát lớn. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Với hạnh Bồ Tát Bồ Tát lớn. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Do Nhân duyên này không đâu cầm lấy nương nhờ. Giúp cho tu luyện nhanh được đầy đủ.
Bồ Tát Bồ Tát lớn đó với Chính Biến Tri. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Với Bình Đẳng Chính Đẳng Bồ Đề. Dùng không đâu được làm Phương tiện. Tu luyện Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn. Do Nhân duyên này không đâu cầm lấy nương nhờ. Giúp cho tu luyện nhanh được đầy đủ.
Kiêu Thi Ca ! Như toàn bộ cành nhánh, thân gốc, hoa lá, củ quả của các cây. Tuy có đủ các loại thân hình, màu sắc khác nhau. Như ảnh Bóng che của nó đều không khác nhau. Nhiều Giới hạnh sạch, yên Nhịn, Tinh tiến, nghĩ Tĩnh lặng, Trí tuệ tới Niết Bàn như thế, tuy đều có khác. Mà do Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn hút nhận. Hồi hướng Trí của Tất cả Trí tuệ. Dùng không đâu được làm Phương tiện, cho nên cũng không có khác nhau.
Khi đó Ngọc Hoàng Đế Thích báo cáo Phật nói rằng :
Thế Tôn ! Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn thành đạt công Đức rộng lớn rất tốt như thế. Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn thành đạt tất cả công Đức rất tốt như thế. Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn thành đạt vô lượng công Đức rất tốt như thế. Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn thành đạt đầy đủ công Đức rất tốt như thế. Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn thành đạt vô biên công Đức rất tốt như thế. Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn thành đạt công Đức rất tốt không hợp như thế. Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn thành đạt công Đức rất tốt không hết như thế. Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn thành đạt công Đức rất tốt không có phân hạn như thế. Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn thành đạt công Đức rất tốt không sánh bằng như thế. Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn thành đạt công Đức rất tốt khó nghĩ bàn như thế. Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn thành đạt công Đức rất tốt không thể nói như thế.
Thế Tôn ! Nếu các người nam thiện, người nữ thiện viết chép Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn rất sâu như thế, các vật báu nghiêm đẹp. Dùng vô lượng đủ các loại tua hoa đẹp nhất, hương rắc hương bôi, quần áo, chuỗi ngọc, cờ báu lọng phướn, các loại tốt đẹp, châu báu, kĩ nhạc, đèn sáng. Hết cả toàn bộ cúng dưỡng cung kính, tôn trọng ca ngợi. Dựa vào lời Kinh này, suy nghĩ như lý. Có các người nam thiện, người nữ thiện. Viết chép Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn rất sâu như thế, cho người khác nhận giữ, giúp cho truyền bá rộng khắp.
Phật nói rằng : Kiêu Thi Ca ! Ta lại hỏi Ngài. Tùy ý Ngài trả lời. Nếu các người nam thiện, người nữ thiện từ người khác cầu được Xá Lợi của Phật. Dùng hộp báu đựng đặt ở nơi cao đẹp. Lại giữ lấy vô lượng đủ các loại tua hoa đẹp nhất, hương rắc hương bôi, quần áo, chuỗi ngọc, cờ báu lọng phướn, các loại tốt đẹp, châu báu, kĩ nhạc, đèn sáng. Hết cả toàn bộ cúng dưỡng cung kính, tôn trọng ca ngợi. Có các người nam thiện, người nữ thiện từ người khác cầu được Xá Lợi của Phật. Phân phát cho người khác, cho phép như hạt cải. Giúp cho họ kính nhận, như Pháp đặt yên. Lại dùng vô lượng đủ các loại tua hoa đẹp nhất, hương rắc hương bôi, quần áo, chuỗi ngọc, cờ báu lọng phướn, các loại tốt đẹp, châu báu, kĩ nhạc, đèn sáng. Hết cả toàn bộ cúng dưỡng cung kính, tôn trọng ca ngợi. Ý này thế nào ? Hai loại tụ Phúc trước sau như thế, việc nào được nhiều ?
Ngọc Hoàng Đế Thích nói rằng : Thế Tôn ! Như hiểu của Con, nghĩa Pháp được Phật nói.
Nếu các người nam thiện, người nữ thiện từ người khác cầu được Xá Lợi của Phật. Dùng hộp báu đựng đặt ở nơi cao đẹp. Lại giữ lấy vô lượng đủ các loại tua hoa đẹp nhất, hương rắc hương bôi, quần áo, chuỗi ngọc, cờ báu lọng phướn, các loại tốt đẹp, châu báu, kĩ nhạc, đèn sáng. Hết cả toàn bộ cúng dưỡng cung kính, tôn trọng ca ngợi. Có các người nam thiện, người nữ thiện từ người khác cầu được Xá Lợi của Phật. Phân phát cho người khác, cho phép như hạt cải. Giúp cho họ kính nhận, như Pháp đặt yên. Lại dùng vô lượng đủ các loại tua hoa đẹp nhất, hương rắc hương bôi, quần áo, chuỗi ngọc, cờ báu lọng phướn, các loại tốt đẹp, châu báu, kĩ nhạc, đèn sáng. Hết cả toàn bộ cúng dưỡng cung kính, tôn trọng ca ngợi. Hai tụ Phúc này, việc sau được nhiều. Cớ là sao ? Tất cả Như Lai, Ứng, Chính Đẳng Giác vốn dùng Đại Bi, xem các chúng sinh Có tình. Muốn với Xá Lợi của các Phật được kính về cúng dưỡng, mà được độ thoát. Dùng lực Tam muội Dụ Kim Cương. Phá nhỏ thân Kim Cương, giúp cho như hạt cải. Lại dùng Thần lực Đại Bi sâu rộng thêm giữ. Xá Lợi của Phật như thế, giúp cho sau khi Như Lai vào Niết Bàn. Có được một hạt, lượng như hạt cải. Đủ các loại cúng dưỡng, Phúc của họ vô biên. Ở trong Người Trời nhận các vui sướng. Thậm chí cuối cùng được hết giới hạn khổ. Vì vậy cho người khác đó, Phúc của họ được nhiều.
Kinh Nhiều Trí tuệ tới Niết Bàn Phật, quyển thứ một trăm hai mươi chín.