KINH KIM QUANG MINH VĂN CÚ KÝ

QUYỂN 4

Sa-môn Thích Tri Lễ, ở núi Tứ Minh Đời Tống soạn.

(Phần đầu)

Giải thích nghĩa theo kinh để, có sáu.

Một là khen ngợi biển của bảy tướng lớn: Ba mươi hai tướng là lớn, tám mươi tướng quý là nhỏ. Vì mỗi tướng quý đều là pháp giới, đều là vô biên và không có đáy nên gọi là Biển. Tức là, câu đầu tiên khen ngợi tướng thứ mười bốn là sự mầu nhiệm của Kim Quang. Vì vậy, Đại sư nói là “Sắc trên hết”.

Hai là câu tiếp theo khen ngợi tướng thứ mười lăm là ánh sáng của thân.

Ba là một bài khen ngợi tướng thứ hai mươi tám là sự sâu xa của Phạm âm.

Bốn là một bài khen ngợi tướng thứ bảy mươi chín, là tóc màu xanh ngọc.

Năm là một bài khen ngợi tướng hai mươi hai là có đủ bốn mươi cái răng.

Sáu là một bài khen ngợi tướng hai mươi chín là mắt.

Bảy là một bài khen ngợi tướng chiếc lưỡi lớn mỏng, le ra phủ kín mặt đến mí tóc,

Tám là một bài tụng khen ngợi ba mươi mốt là tướng sợi lông trắng giữa hai đầu chân mày. Trong tám đoạn này, một đoạn là tướng nhỏ và bảy đoạn là tướng lớn.

Kế là “Lông mày nhỏ nhiệm v.v…” trở xuống là khen ngợi biển của hai tướng nhỏ.

Một bài đầu là khen ngợi tướng thứ ba, lông mày như hình trăng non.

Một bài tiếp theo là khen ngợi tướng thứ hai, mũi cao đẹp, lỗ không hiện ra. “Tu dương”: Tu là dài, dương là đưa lên. Tức là lông mày cao mà dài. Diện môn là miệng.

Ba là hai câu khen khắp cả biển của tướng lớn: Đã gọi là “thứ lớp

tối thượng” tức là khen ngợi khắp cả ba mươi hai tướng.

Bốn là “Đạt được mùi vị v.v…” trở xuống là khen ngợi về biển của tướng lớn.

Tiếp theo là hai câu khen ngợi tướng thứ hai mươi sáu, nước bọt trong cổ họng là đạt được mùi vị trên hết trong các mùi vị.

Hai là hai câu khen ngợi tướng thứ mười ba, lông hướng lên trên, màu xanh, mềm mại và xoay về bên phải.

Ba là “Cánh tay dài v.v…” trở xuống là bốn câu khen ngợi tướng thứ chín, lập tướng tay Ma-đằng.

Bốn là bốn câu “vầng Ánh sáng hình tròn, rộng một tầm v.v…” trở xuống là khen ngợi tướng thứ mười lăm, ánh sáng của thân và mặt, mỗi thứ phát ra xa một trượng. Ở đây nói một tầm là nói theo Đức Phật. Tuy đã là Ma-đằng tức là tương đương với mặt, mỗi thứ đều một trượng. Ánh sáng này đã là ánh sáng thường hằng, cho nên chúng ta suy nghiệm để biết rằng các tướng đều là tướng thường hằng. Nói “Khen ngợi tôn đặc”: Tức vì không cần phải có thân lớn, tướng nhiều mà chỉ cần do nghiệp thức y theo lý của Trung mà hiện khởi thì thân được nhìn thấy gọi là tôn đặc. Người học nên biết về điều ấy. Nếu đo lường thân trượng sáu này thì không đạt được bờ mé, nếu không đo lường vì cái được thấy là Như. Như căn phòng của Tịnh danh chỉ rộng chừng một trượng nhưng dung chứa được cả trăm ngàn người, trời, lại có thể dung chứa ba mươi hai ngàn tòa sư tử mà mỗi tòa cao đến tám mươi bốn ngàn do tuần.

Do-tuần, kích thước đầu tiên của căn phòng ấy không thay đổi là nhờ năng lực của ba giải thoát không thể suy nghĩ bàn luận làm nên. Nay vì khen ngợi tướng tôn đặc ngay nơi thân thường trụ thì lẽ nào nghĩa lại không như vậy. Lời nói “vắng lặng nhiệm mầu” ấy qủa là không sai. Văn kinh trừ bốn tướng lớn ấy ra có khi lại khen ngợi các tướng như phát ra ánh sáng, nhổ gốc khổ, cho niềm vui, nhân của hạnh nghiệp và quả của công đức, tất cả đều như văn kinh nhưng đều phải giải thích theo lợi ích mười phen. Dù cho có hai tướng nhỏ đi nữa thì cũng vì sự làm sáng tỏ của văn. Điều mà sớ không chỉ ra tức là vẻ mặt như vầng trăng là tướng thứ bốn mươi mốt mặt sạch như trăng tròn, thân không dơ bẩn tức là tướng thứ mười một thân sạch sẽ.

Năm là hai câu “Cánh tay thẳng đều v.v…” trở xuống là lại khen ngợi về biển của một tướng nhỏ, tức là tướng thứ mười bốn, ngón tay dài mịn và tròn, tức là đều, thẳng. Còn âm là dung. Sáu, hai câu “Tay chân v.v…” trở xuống là lại khen ngợi về biển của một tướng lớn: Tức là tướng thứ tư, tay chân mềm mại hơn hẳn các phần khác của thân. Ba  mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp có đủ thứ lớp của pháp giới Như. Tuy trí tuệ khéo kéo của Long Tôn lược bỏ nhưng cùng khắp.

Từ “Đi v.v…” trở xuống là khen ngợi khắp các loài: Sở dĩ số cát bụi của ba đời mà nói là một, bởi quá khứ không diệt mất, vị lai không sinh và hiện tại không dừng trụ. Pháp thân bình đẳng, Báo và Ứng chẳng khác nhau, một không lìa Nhiều, Nhiều không lìa Một. Chúng sinh và Phật mà còn chính là nhau thì lẽ nào Phật và Phật mà lại khác nhau. Vì thế, mà sư khen ngợi một loài ở trong tất cả. Đoạn văn này lại là đoạn văn khen ngợi thân tôn đặc. Vì sao? Vì bản sớ ở trước nói rằng: “Nếu thấy bốn đức “Phật đều là tôn đặc, một thân, một trí tuệ thì đó là thấy thân thường trụ. Vì chúng đệ tử chỉ có một, nếu thấy bốn vị Phật khác nhau thì tức là Ứng hóa. Vì chúng đệ tử nhiều. Như thế, ta biết rằng sớ chỉ y theo một thân, một trí và nghĩa của thường trụ là tướng của tôn đặc chứ chẳng cần phải nói về sự hiện khởi thân cao lớn. “Văn-thù hỏi Bát-nhã: chữ hỏi là sai, lẽ ra nên viết là nói. Nhà chú giải ngày nay y theo hai kinh để nói về Tam-muội Thường Tọa.

Một là Văn-thù nói Bát-nhã, hai là Văn-thù hỏi Bồ-đề. Văn được trích dẫn hôm nay là văn nói về Bát-nhã.

Từ “Bày biện v.v…” trở xuống là dứt bặt nói năng, khen ngợi, có hai:

Một là chia văn.

Hai là “mà có v.v…” trở xuống là giải thích theo văn, có hai:

Một là dứt bặt ngôn từ khiến bặt luôn cả tâm:

Kế phen là vẫn y theo môn phân biệt. Sự hơn kém của ba thân không lìa phân biệt mà có ý nghĩa dung nhiếp. Người học nên biết!

Kế là “Từ…” trở xuống là hồi hướng:

Một là xoay lại sự để hướng về lý tức là thật tế.

Hai là xoay lại Tự mà hướng về tha, tức chúng sinh tế.

Ba là xoay nhân để hướng về quả, tức là Bồ-đề tế. Nay thiếu Thật tế Bồ-đề bao gồm. Đó là đạo Vô thượng, vì bản tánh vốn là Vô thượng.

Kế là từ “Như v.v…” trở xuống là phát nguyện đời sau, có hai:

Một là chia văn lập ý. “Đến tại không xa”: Tức là Phẩm Thọ ký ở dưới. Một vạn Thiên tử đến từ cõi trời Đao-lợi.

Hai là tùy theo kinh để giải thích nghĩa, lại có:

Một là đêm nằm mơ, ngày nói về nguyện.

Hai là “Ta nên v.v…” trở xuống là vì người mà giữ lấy lời nguyện tịnh độ: Không tu sáu độ, không nhổ gốc khổ cho chúng sinh thì cõi nước không nhờ đâu được thanh tịnh. Nên biết rằng bốn sự tu tập và bốn tướng làm cho người tu thấy được ba thân của ta ở đời vị lai.

Ba là “dâng hiến v.v…” trở xuống là đều mong được thọ ký: Vì trống có nghĩa là tròn, rỗng và kêu. Nay khen ngợi một thể ba thân của Như Lai gọi là trống vàng, khen ngợi nhân duyên của Phật. Dùng nhân duyên ấy để hướng về quả địa gọi là dâng hiến chứ không nói về hình dáng của trống vàng thuộc về sự tướng.

Bốn là “Nếu có v.v…” trở xuống là lời nguyện “dưới hóa”.

Năm là “Ta chưa v.v….” trở xuống là lời nguyện “trên cầu”. Hai lời nguyện này đều giải thích về hai thứ lợi ích là Dứt ác, sinh thiện. Người học có thể thấy ở văn.

Từ “Tín v.v…” trở xuống là kết, hội ý việc của hai đời để giải thích về phẩm Không, như sau:

– Giải thích tựa đề, có hai:

– Y theo sự giải thích về có ở cả bốn thứ giáo để chỉ bày. “Không được nói về” tức là lấy sự phá hủy tướng làm nghĩa. Vì vậy, bốn thứ không trong giáo lý của một đời chẳng giống nhau. Nếu người học không phân biệt vấn đề này thì sẽ bị mê muội đối với danh và Lý. Vấn đề này lại chia làm hai.

– Y theo bộ để nêu ra bốn thứ, có hai:

Một chính là định về bốn thứ không “Diệt sắc nhập vào không”: Tức là giáo lý của ba tạng. Lại gửi (vào) sắc mà nói các pháp đều diệt. Đó là nói (nếu) phá kiến và ái (thì) ấm liền bất sinh. Để giải thích Thật hữu phải diệt mới nhập vào không. “ngay nơi sắc là không”: Tức là Thông giáo. Thể nhập nhân quả chẳng phải do bốn tánh sinh ra. Vì đã giải thích Huyễn hữu nên ngay nơi sắc là không. “Diệt bờ mé nhập vào không”: Tức là Biệt giáo. Trung đạo là không, chẳng những “Không hóa hữu mà cũng không hóa cả không nữa. Nhưng vì không biết rằng Trung có ở không và Hữu cho nên từng bước dứt bỏ hai bên rồi mới đi vào Không của Trung. “Chính biên là “không”: Tức là Viên giáo. Trung đạo có đủ đức tánh. Vậy, có Biên nào mà chẳng phải là Trung. Chỉ có giả, chỉ có không, cả ba đều bặt đối đãi, phá hủy tức khắc, dứt hết các tướng gọi là không của ngay nơi Biên.

Hai là “Kinh này v.v…” trở xuống là y theo bộ thì phải (có) bốn thứ: Phán giáo thuộc về Thông, ba thừa đều cùng sám hối. Trước thâu nhiếp ba tạng, sau có cả cả Biệt và Viên. Cái không của sự dẫn đến thành tựu, hợp lại mà nói về bốn thứ. Vì vậy, Tuệ của bốn thứ chẳng được không sáng tỏ.

Kế là “mà nay v.v…” trở xuống là xếp phẩm chỉ là Viên, lại có:

– Chỉ bày thẳng về vấn đề. Chỉ là Viên, có hai:

Một là y theo Lý để chỉ bày: Dùng bốn thứ để nhiếp cơ, đó là con đường phổ thông. Phẩm ở tại không của Viên thì đó mới là ý chỉ. Vì vậy, không của Trung được chỉ bày ở ngay nơi Biên.

Hai là “Vì sao v.v…” trở xuống là dẫn văn để chỉ bày: Các bộ Bát-nhã chỉ bày về không tuệ của ba giáo rất đầy đủ. Đồng thời lại lấy ba tạng làm phép quán của giúp đạo. Đó là vì người lợi căn của Văn trì mà nói rộng về tướng không, cơ của không tuệ này xét về Nghĩa trì tuy là lanh lợi nhưng vì Văn trì căn độn nên không nói rộng về bốn tướng không mà chỉ nói về một loại không tuệ của Trung ở ngay nơi biên.

Kế là “Lại nữa, không v.v…” trở xuống là chỉ bày sơ lược về tướng của Viên: Trung thọ nhận có danh của không nhưng ý lại là quét sạch tướng. Phàm phu chấp hữu tự nhiên ngăn ngại. Nhị thừa chứng Vô nên diệt độ như tro nguội trở về vắng lặng. Trung quán dứt bặt cái không niệm khiến cho hai biên hoàn toàn sạch hết. Y theo thứ lớp và không có thứ lớp mà chia ra Biệt và Viên, ở đây thì không thứ lớp.

Kế là “trực tiếp làm v.v… ” trở xuống là theo sáu câu so sánh với Trung để phân biệt, có hai:

Một là nói về ý nghĩa dùng câu: Nếu trực tiếp nói không là nghĩa của Trung đạo thì chẳng thể không hóa cả hai bên. Cho nên tà giáo Tiểu thừa và Biệt giáo đều nói song phi không đối với Hữu và Vô. Vì thế, kẻ mê tên gọi cho rằng “không” ấy giống với nay thì làm sao siêu ngộ được hai bên tức là không của Trung? Lại nữa, vì sợ họ cho rằng Viên và Thật hợp bàn về Trung đạo, đâu chỉ gọi là không nên Đại sư tạo ra tướng để phá tướng. Tướng của tu tức là ba cặp sáu câu để phân biệt. Nếu kẻ bị lẫn lộn về danh tướng của các pháp tướng mà không có sáu câu này thì chẳng thể phân biệt sự khác nhau và giống nhau.

Hai là “Không phá v.v…” trở xuống chính là dùng cú để giản biệt, có hai:

Một là nêu sáu câu: Song phi là Trung. “Chìm ở Trung gọi là lưu giữ song phi”: Vì tên gọi Trung đạo, tà giáo, Tiểu thừa ít thiết lập. Nếu là tên gọi song phi thì nơi nào cũng đều có. Vì thế, Đại sư đặc biệt dùng Trung đạo để so sánh với không của Viên hôm nay để phân biệt về vấn đề giống và khác. Lại nữa, Thể của không cú và song phi của ngoại đạo, Tiểu thừa và Biệt giáo là có thể nghĩ bàn, là Pháp có thể hủy hoại. Nếu song phi và không của Viên giáo mà lập thì nghĩa của các giáo đều bị diệt. Do đó, hai tên gọi của Viên thay nhau phá hủy hai tên gọi của các thứ giáo. Lại nữa, hai tên gọi của các tu tập thay nhau tu tập về Viên. Hai là trong hai thứ bơ mà ngoại đạo và Bồ-tát đi vào Viên. Nhị thừa, sơ tâm cũng có nghĩa tu tập. Hai thứ song này có hai, tên gọi các giáo đối với Viên có hơn kém khác nhau. Một song thứ ba thuộc giáo lý đương cơ của Viên. Vì khác tên nhưng giống Thể nên tức là nhau mà không nói về tu phá.

Hai là “Không phá v.v…” trở xuống là giải thích tướng của câu, gồm có:

– Giải thích tướng phá câu, có hai:

– Không phá Trung, có hai:

Một là chỉ bày khái lược: Vì lý quyết định giải thích, không gặp gọi là hoặc. Lẽ nào nghe về Song phi lại là thật lý. Bởi vì có thể hiểu rõ Thể của song phi thuộc phàm và tà là kiến hoặc, song phi của Nhị thừa là chỉ chứng Thiên chân, song phi của Biệt giáo là đã giữ gìn giáo đạo rồi mà còn chưa dung nhiếp với ba (giáo kia). Nếu lập ra cái không của Viên thì tất cả các loại Song phi ở trước đều bị tiêu diệt. Vì thế, Đại sư nói là “phá”.

Hai là “Phàm, Tà v.v…” trở xuống là giải thích chi tiết, như sau:

– Phá Song phi của Phàm, Tà, có hai:

– Chỉ chung tướng của thấy, có hai:

Một chính là chỉ bày.

Phức tứ: Phức cũng như trùng. Đó là đối với một câu lại quan niệm về Hữu và Vô. Tức là Chấp Hữu là Hữu, chấp Hữu là Vô. Cho đến song phi là Hữu, song phi là vô. Cái thấy có đủ, quan niệm của nó càng trở nên tinh xảo. Vì vậy, đối với mỗi câu đều sinh ra bốn niệm.

Hai là “Tuy đơn v.v…” trở xuống là kết sự sai lầm. Tuy ba loại bốn câu chuyển thành tinh xảo, nhỏ nhiệm nhưng vì chấp một loại Thật, còn các loại khác đều là nói dối nên kiến và ái càng dữ dội, nghiệp và khổ không bờ bến, mênh mông như biển.

Kế là “Tuy quan niệm v.v…” trở xuống chính là phá hoại thứ tư, có hai:

Một là chỉ bày về quan niệm nghiêng lệch bị phá: Song phi là hoặc, không đi vào Thật của chân và trung là luống dối.

Hai là “Vì thế, là v.v….” trở xuống là nói về có thể phá không của Viên.

Kế là phá song phi của Nhị thừa, có hai:

– Nói rộng về tướng chứng đắc, có hai:

Một là nói về tướng chứng đắc: Song phi của Nhị thừa tuy cẳhng

phải là thật của Trung nhưng quan điểm Đoạn, Thường đối với Chân lý. Chưa đến đảo châu báu, chỉ đến hóa thành thì làm sao an ổn được? “Phạm hạnh v.v…”: Vô học bốn trí, trong bốn chỉ thiếu “Sự sinh của ta đã chấm dứt”. Cho sự diệt độ v.v… là đầy đủ. Do ôm ấp quan niệm ấy nên không tìm cầu cái biết cùng khắp.

Hai là chỉ bày về bốn môn. A-tỳ-đàm: Hán dịch là Vô tỷ pháp, giải thích pháp quán của Hữu Môn. Năm vị là câu lân v.v… và một ngàn hai trăm vị A-la-hán đều đi vào môn này. Luận Thành Thật giải thích pháp quán của không môn. Tu-bồ-đề đi vào môn này. Côn-lặc: Hán dịch là Khiếp tạng. Luận này giải thích pháp quán của “Song diệu”. Vì vậy, đại luận chép: “Nếu không đạt được Bát-nhã ba-la-mật đa mà đi vào A-tỳ-đàm thì bị rơi vào Hữu và vô”. “Na-đà v.v…”. Thích luận nói về Phật diệt độ, A-nan hỏi Xa-nặc, Phật đáp: “Sau khi ta Niết-bàn, tánh ác của Xa-nặc sẽ dần dần điều phục. Ông nên nói kinh Đà-na-ca chiên diên cho ông ấy nghe”. Đó chính là song phi môn. Pháp quán của bốn môn là giả, người vốn là không. Tuy bốn môn chẳng khác nhau nhưng bốn tướng của Thật pháp lại khác nhau, Hữu môn thì niệm niệm sinh diệt. Không môn thì ba giả phù hư. Song diệc môn thì Hữu vô ung dung. Song phi môn thì cả hữu và Vô đều bị dứt diệt. Tùy căn cơ để y theo một loại quán thì sẽ phát khởi được Chân (Như). Ý của bốn môn thuộc ba tạng, đại khái là như vậy.

Kế là “lìa đoạn v.v…” chính là chỉ bày về sự phá hoại Trung, như sau:

– Chỉ bày về giả danh, Trung là đối tượng bị phá. Tên gọi Trung đạo đại khái có hai thứ:

– Lìa đoạn Thường gọi là Trung đạo: Hai thứ này có danh mà không có thể, thuộc hai thứ giáo ở trước.

Hai là Phật tánh gọi là Trung đạo: Loại này có thật thể, thuộc hai thứ giáo sau. Nay nói về hai cái thấy là Đoạn và Thường của song phi có được tên gọi Trung đạo. Nhưng thật sự thì hoàn toàn không phải là sắc tâm mầu nhiệm. Vì thế, chúng không có cái thể của Trung. Do đó mà tình tưởng không mất đi, ôm cái nghiêng lệch mà chấp chứng. Ở đây thì dùng cát, sạn mà nói là ngọc Lưu ly.

Tiếp là “Vì thế, là…” trở xuống là chỉ bày rốt ráo chẳng phải là chủ thể phá hủy. Đây là không tức Biên của Phẩm này. Nếu phát khởi được loại không này thì Trung thuộc giả danh bị hoại diệt. Đó chính là không phá chẳng phải hữu, chẳng phải vô.

Ba là Phá môn song phi của Biệt giáo, gồm có:

– Chỉ bày về cửa mê khởi sai lầm, có hai:

– Mê khởi sai lầm, có hai:

Một là Nêu ý: Căn tánh của hành giả thuộc biệt, so với Viên gọi là Độn. Chẳng phải bốn mà nói bốn gọi là khéo léo.

Dụ như chiếc bè: Ý của bốn môn nằm ở chỗ đi vào Lý. Ý của bè là vượt sông. Nếu chấp đắm môn để sinh khởi sự tranh đấu thì cũng như kẻ vác bè mà chạy trên đường. Vì thế, kinh Phật dụ nói: “Pháp còn nên xả bỏ huống chi là chẳng phải Pháp”.

Hai là “Không được v.v…” trở xuống là nói về sai lầm: Sai lầm đối với sự dung nhiếp là một mà chẳng phải ba.

Kế là “Niết-bàn v.v…” trở xuống là chỉ bày về tướng của bốn môn: vừa là sắc vừa chẳng phải sắc, là Song diệc môn. Chẳng phải sắc, chẳng phải là chẳng phải sắc là song phi môn.

Kế là “Nếu mỗi v.v…” trở xuống là nói vì sai lầm cho nên phải phá: Sự tranh chấp này là sai, tức biên chẳng có cách gì để phá được.

Kế là “bản mới dịch v.v…” dẫn chứng để chỉ bày về tướng sai lầm: kinh nói về vấn đề Sơ địa che chở cho địa tiền. “Đều có bốn môn”: Kinh nói: “Bồ-tát Sơ địa muốn thực hành con đường Hữu tướng”. Tức là Hữu môn: “Đối với pháp Vô tướng phải dụng nhiều năng lực” tức là không môn; “Một ý thì muốn nhập Niết-bàn, một ý thì lại muốn vào sinh tử” tức là song diệc môn; “Chưa tu hành đủ đối với Tạng mầu nhiệm và bí mật” tức là song phi môn. “Đại kinh… “ trở xuống là giải thích về sự đạt được của ngày nay để làm sáng tỏ sự sai lầm ở trước: Trước là thuộc Biệt môn, là tà kiến của tranh chấp chứ chẳng phải là tà kiến của ngoại đạo.

Kế là “Phi hữu v.v…” trở xuống là nói rõ trung phá không.

Tiếp là nói về câu của cùng tu, lại có:

Một là nói về các loại không tu tập của viên, cái thấy không của Phàm và tà, sự chứng về không của Nhị thừa và không môn của Biệt giáo đã tùy theo hai bên, nếu nghe về Trung của Viên thì tất cả đều phải quán Trung đạo ngay nơi Biên.

Hai là các loại song phi tu không của Viên: Nếu Tà, Tiểu và Biệt giáo thì dù nói là Song phi nhưng thành sự chấp tướng thì phải tu ba đế đều là không, gọi là rốt ráo không. Vì các loại song phi và các câu của không chẳng phải là con đường rốt ráo mà là chín pháp giới, cho nên tất cả đều phải tu tập pháp quán siêu việt của không và Trung thuộc Viên giáo để quy hướng về kho bí mật.

Ba là giải thích về câu của tướng tức tuy các kinh luận nói về không, nói về Trung, nhưng trong số lượng danh tướng nhiều ít, nếu cái không của tức Biên dứt sạch ba đế thì một thể khác tên của Viên giáo ở đây là nghĩa tương tức, không cần phải phá lẫn nhau và tu lẫn nhau.

Đầu tiên, nói về tính không hai của không và Trung thuộc Viên giáo, có hai:

Một là chỉ bày trực tiếp về không hai.

Hai là dẫn Bát-nhã để kết: Ba thứ Bát-nhã là Thật tướng, Quán chiếu và Danh tự. Vì ngay nơi ba là một nên là một pháp. Ngay nơi một là ba nên đặt tên làm sao đạt đến cùng cực. Nếu đạt được ý ấy thì tất cả sự khác nhau của danh từ đều là tức nhau.

“Nhưng, Bất v.v…” trở xuống là nói phẩm nay nói lược gọi là không, lời văn đơn giản mà nghĩa dồi dào v.v… Vì che chở cho người căn tánh linh lợi của Nghĩa trì nên dùng tên gọi đơn giản để nêu mục lục của phẩm.

Kế là “Phẩm này v.v…” trở xuống là nói về ý sau này, như sau:

  • Dẫn đạo thành Thượng phẩm, có hai:
  • Chính là chỉ bày, có hai:

Một là Dẫn dắt hai thứ dụng: Nếu người tu không nhận biết được ngay nơi biên là không thì sám chẳng phải là Vô sinh nên không phá hết điều ác, thì khen ngợi không xứng hợp với tánh, nên sự sinh khởi điều lành không được sâu. Vì điều lành không sâu nên lẽ nào lại thành trí đức? Ví không hết điều ác thì lẽ nào lại thành Dức dứt? Vì kẻ độn căn chưa liễu ngộ đối với ở trước nên đối với Phẩm nay mà thường nói về không tuệ để dẫn đoạn Sám và khen ngợi ở trước thành hai thứ dụng.

Hai là “Cũng là v.v…” trở xuống là thành ba chương. Sám và khen ngợi là dụng, như ở trước đã nói, “Dẫn dắt thành tông”: Nhân của muôn ngàn hạnh nhờ Vô sở đắc mới chứng được ba thân. Nếu không có loại rốt ráo không thì lẽ nào lại có vô sở đắc. Do đó, không của Viên dẫn dắt muôn ngàn hạnh thành tông chỉ của quả đức. “Dẫn dắt thành thể”: Pháp tánh rộng sâu, hiện hữu khắp tất cả các pháp. Và hai thứ Ngã nên sinh tử rộng mênh mông. Nay dùng hai thứ không dẫn dắt tất cả các Pháp mà làm thành thể của kinh.

Kế là “Vì vậy, giải thích v.v…” trở xuống là dẫn chứng: Luận nói rằng tất cả lấy Thể, Tông và Dụng mà gồm nhiếp trọn vẹn.

Kế là “Lại nữa, Thường v.v…” trở xuống là khai ngộ cho kẻ độn căn: không của Viên có đầy đủ đức, tất cả đều thanh tịnh. Vì vậy mà Đại sư bàn về nguồn cội của Thường và làm sáng tỏ về sự giác ngộ Thể. Hai thứ dụng của Sám và khen ngợi đều là pháp tuyệt đối thanh tịnh, thì

lẽ nào lại có một câu rời không của Viên? Như nói rằng “Tất cả chúng sinh đều là Bát-nhã” là chỉ có ý nghĩa ấy. Bậc lợi căn thì giải ngộ được nghĩa của không ở trên sự nghe. Nay, vì người độn căn chưa hiểu biết mà đặc biệt nói về sinh, pháp, Cảnh và quán đều không thể giúp đỡ cho họ thành tựu nghĩa trên.

Kế là giải thích về Văn, có hai:

Một là chia văn.

Hai là giải thích văn, có hai:

  • Giải thích về vấn đề “Muốn nói về không”, có hai:
  • Giải thích, có tám.
  • Giải thích về việc nói đầy đủ của các kinh khác, có hai:

Một là chỉ bày chung về tướng để làm sáng tỏ ý.

Hai là “Nếu chỉ cho v.v…” là nói riêng về chỉ cho nghĩa ở trước, có hai:

Một là y theo sự sai trái của thứ lớp các bộ.

Hỏi: Đại kinh nói: “Từ bơ sống sinh ra bơ chín” là dụ cho từ Phương đẳng mà sinh ra Ma-ha Bát-nhã. Vì vậy, ta biết rằng Bát-nhã có sau Phương đẳng. Kinh này đã thuộc Phương Đẳng thì lẽ nào lại chỉ rằng Bát-nhã đã được nói xong?

Hai là y theo phần sau cho đến hết là đáp, có hai:

Một chính là trả lời chung, có hai:

Kế dẫn giáo để trả lời chung, có hai:

Một là lập chung ý: Vì kinh này sau Phương đẳng nên Tín Tướng nghe chỉ ba tháng nữa Phật nhập diệt nên mới nghi ngờ. Do đó mà Đại sư chỉ vào Bát-nhã mà gọi là “Đã nói”.

Hai là “Lại nêu v.v… ” trở xuống là dẫn ba quyển kinh, như sau:

– Dẫn A-hàm, có hai:

Một chính là dẫn “Ở trước Phật mà đi”: Tức là bảy ngày trước khi nhập diệt. Sa-di Quân-đầu là đệ tử ngài Thân tử.

Hai là ở Linh Sơn chỉ có Pháp Hoa thọ ký cho Thanh văn thành Phật.

Kế là “Lẽ nào không v.v….” trở xuống là kết luận sự chỉ bày.

Kế là Dẫn Đại Phẩm, có hai:

Một chính là dẫn.

Hai là “Nên biết v.v…” trở xuống là kết luận sự chỉ bày, có hai:

“Lấy đó v.v…” trở xuống là xác định rõ ràng về sự kết luận là bác bỏ. Có hai:

“Kinh này trở xuống là chỉ bày về không ngại hai: Giải thích sơ

lược mà giải thích, có hai:

Kế là chỉ bày về sự đầy đủ và sơ lược của danh nghĩa thuộc Giáo môn, có hai:

Một là chỉ bày hai môn.

Hai là “Nên làm v.v…” là nói về bốn câu, có hai:

Một là chỉ bày trực tiếp về ba câu: “mười tám không v.v…”: Thể của không chỉ có một nhưng do dứt trừ các cảnh nên tùy theo cảnh mà đặt tên. Như lửa là một nhưng tùy theo vật bị đốt mà có các tên gọi khác nhau. Nghĩa ở dưới danh từ tất nhiên cũng phải khác. Vì vậy, do không có pháp bên trong mà gọi là Nội không, do không có pháp bên ngoài mà gọi là Ngoại không, không có mười tám cảnh gọi là mười tám không. Hai mươi không, hai mươi bốn không cũng giống như vậy. Do đó, danh và nghĩa đều lập đầy đủ về danh từ của một loại không. Chỉ giải thích sự dứt sạch cho nên danh nghĩa đều lược. Như pháp tánh, v.v… đều đặt tên rất nhiều, chỉ giải thích nghĩa của Bản tánh.

Hai là “Chỉ bày linh động về nghĩa thứ tư, có hai:

Một là nêu sự chỉ bày.

Hai là “Đến từ.. “ trở xuống là chứng minh lời giải thích: Chỉ lập hai thứ Không gọi là sơ lược. Danh từ này mời gọi là nghĩa khắp cả mười cõi. Vì từ Phàm đến Phật đều có chúng sinh và năm ấm.

Hỏi: Vị trí đến Thanh văn thì sinh và pháp đã không, vì sao Thích Luận nói rằng đến quả vị Phật vẫn còn chúng sinh và Pháp? Lẽ nào chỉ mình Phật là còn? Như thế, ý nghĩa của tên gọi Vô thượng là thế nào?

Đáp: Tuy Tiểu thừa bàn về không nhưng cuối cùng cũng trở về nguội thân bặt trí. Vì vậy, nhập Vô dư thì Sinh và Pháp dứt hẳn. Đại thừa nói về không thì thể của không là thường trụ, lại không chỉ có một loại giác tánh thường trụ, nên biết rằng tất cả Sinh và Pháp đều Thường trụ. Vì thế, Sinh và Pháp chưa không hóa thì phàm phu thô lậu yếu kém; nếu sinh và Pháp đã trở thành không thì cao hơn, rộng lớn hơn. Do vậy quả cùng cực thì không gì hơn sinh, Pháp. Đó gọi là sự rốt ráo của Không. Vì thế, Đại sư Kinh Khê nói: “Quả ba ngàn thành tựu đều gọi là Thường lạc. Nếu thiếu ba ngàn thì làm sao có Sinh, Pháp, Y và Báo”.

Kế là “Nay nói v.v…” trở xuống là giải thích danh thì sơ lược mà nghĩa thì đầy đủ của phẩm ngày nay, như sau:

  • Giải thích chúng sinh căn độn, có hai:
  • Xác định đầy đủ, sơ lược, lợi và độn, có hai:

Một là y theo Văn-thù để lập: Hợp với đầy đủ là Lợi, hợp với sơ lược là Độn.

Hai là “Lời nói ấy v.v… ” trở xuống là y theo Nghĩa trì để lật lại: Thân tử mới gặp A-kỳ nói kệ giải thích nghĩa của ba đế là khổ, tập, diệt khiến cho được mau chóng chứng đắc, nên không nói đạo đế. Thân tử vừa nghe liền ngộ được Sơ quả. Đến khi Thân tử nói lại cho Mục-liên thì nhờ nghe lại lần hai mới ngộ về Đạo đế. Nói một lần là sơ lược. Nói lại là đầy đủ. Điều ấy lẽ nào lại không phải sơ lược của Nghĩa trì là lợi mà đầy đủ là Độn ư?

Kế là “Kinh này v.v…” tro là chỉ bày về lợi và độn của cơ ngày nay, có hai:

Một là nói về ý của kinh: Tự thân không thể nắm giữ đầy đủ về sự giải thích danh và số, nên gọi là Độn căn.

Hai là chỉ bày về cơ ngày nay: Nếu nói về nghĩa thì nghe sơ lược mà ngộ gọi là Lợi căn. Kinh Vô Kiến chép: “Chúng sinh căn tánh độn” tức là nói rằng căn cơ ngày nay không thể ngộ được. Đối với Vô Lượng nghĩa cũng không ít hơn đối với trí tuệ, cũng y theo trí Văn trì ở đây cũng giống với luận Khởi Tín chép “Tìm kiếm ở luận đầy đủ, văn dài rườm rà. Vì người thích lời văn ít mà thâu nhiếp nhiều nghĩa nên soạn luận này”. Lại, “Cuối cùng, vì nghĩa sâu xa, rộng lớn của Chư Phật mà tôi đã thuận theo Tổng trì để nói phẩm này. “Nói sơ lược về Vô Lượng nghĩa không” đồng với “Tổng trì kia.” “Nói về nghĩa sâu xa v.v…”.

Kế là giải thích về nghĩa của Vô lượng không, có hai:

Một là y theo Chân và Trung để phân biệt Thiên chân và Đoạn diệt, không có sắc tâm. Đó là nghĩa không hữu lượng: Trung đạo có đủ sắc tâm vi diêu, sinh ra không cạn kiệt và dung nhiếp không bỏ sót, là thuộc về nghĩa không Vô lượng.

Hai là đứng ở lập trường kinh này để chỉ bày, đã nói về Pháp tánh mà tánh thì không thay đổi. “Đó là thật tướng của thường đức”: Tức là tướng của Trung, của Thật. Phẩm này nói: “Mong cầu Pháp thân chân thật ở Như Lai”. Bản dịch mới nói: “Pháp thân là thường hằng, là Thật”. Thật là ngã đức, sự tự tại của nó là vô cùng. Đã có Thường và Ngã thì lẽ nào lại thiếu Tịnh và Lạc? Bốn đức càng làm sáng tỏ nghĩa của không thuộc Vô lượng như sau:

  • Giải thích phương tiện lạ lùng và mầu nhiệm.
  • Giải thích về việc khởi các tâm Đại bi.
  • Giải thích về “nay Ta giảng nói”.
  • Giải thích về “Đều thấy được ý tưởng của chúng sinh.
  • Chính là nói về Không, có hai:
  • Chia văn lập ý, có hai:

Một là chia văn.

Hai là lập ý, có hai:

Một là chỉ bày trực tiếp: “Không có cảnh v.v…”: Cảnh của sinh và Pháp đều là ba đế siêu việt. Vì thế, Đại sư nói “Phép quán của hai thứ không” và Cảnh sinh ra pháp khởi sự quán sát thì sự quán sát ấy mới chân chính. Sự quán sát siêu việt chiếu soi thì cảnh ấy mới hiển bày. Nói đầy đủ về Cảnh và Quán khiến cho được chân chính, được sáng tỏ.

Hai là Dẫn chứng mười phen để xem xét: “Cảnh trí”: Cảnh tức là mười cảnh, Trí là mười thừa. Nói mười cảnh là:

  1. Cảnh của ấm và Nhập.
  2. Cảnh phiền não.
  3. Cảnh bệnh hoạn.
  4. Cảnh nghiệp tướng.
  5. Cảnh của việc ma.
  6. Cảnh Thiền định.
  7. Cảnh của các thứ quan điểm.
  8. Cảnh của Tăng thượng mạn.
  9. Cảnh Nhị thừa.
  10. Cảnh Bồ-tát.

Ấm là hiện tiền, còn Chín cảnh khác thì phải đợi đến sự phát khởi. Dẫu là hiện nay hay đợi phát thì tất cả đều phải tu tập quán trí của mười thừa. Nói mười thừa là:

  1. Quán sát cảnh không thể suy nghĩ bàn luận.
  2. Y theo Cảnh để phát tâm Bồ-đề.
  3. Khéo an định chỉ quán
  4. Phá pháp cùng khắp.
  5. Biết thông suốt và bít lấp.
  6. Điều phối Đạo phẩm.
  7. Đối trị giúp khai.
  8. Biết thứ lớp, vị trí.
  9. An nhẫn.
  10. Vô pháp ái.

Mười thừa này đều là mười thứ cảnh dứt bặt đối với sự nghĩ bàn. Vì vậy, năm phẩm có được quán sát dứt bặt của quán hạnh, Thập Tín đạt được sự dứt bặt của Tương tự luận, bốn mươi bốn vị dứt bặt Phần chứng luận, Diệu giác dứt bặt Cứu cánh luận. Văn ở dưới chép: “Tức là Tán chi tự nói gọi là nghĩa Mật”, đó gọi là Cảnh và trí đều không thể suy nghĩ bàn luận. Bản mới dịch nói “Pháp là Cảnh, Như là không khác.” Đều là nhắc lại. Bởi, Cảnh và Trí vốn không khác nhau nhưng vì tình thức mà khác nhau, nay lại không khác nhau. Đại sĩ Đông Dương nói:

Một là như thuộc bản tánh.

Hai là như sự dứt trừ kiến sử.

Vị trí không khác với cảnh nên gọi Như Như pháp. Vì cảnh không khác với trí nên gọi là Như Như trí. Nay đều nói đối với ý của không thể suy nghĩ bàn luận.

Kế là “Nói về không v.v…” trở xuống là theo văn giải thích nghĩa, gồm có:

Một là nói về cảnh của Không, có hai:

Một là chia văn lập ý, có hai:

Một là chia văn.

Hai là Lập ý, có năm:

Một là Chỉ bày trực tiếp về hai tướng: “Nói thật pháp”: đối với “Tịnh giả tướng là bất tịnh” là phép quán thuộc Sự. Nay vì đều quán sát về lý đối với năm ấm và người thuộc giả huyễn nên gọi là Thật pháp. “Thân tuy v.v…” trở xuống là nêu ra nghĩa giả tưởng.

Hai là “Cũng gọi v.v…” là chỉ bày về hai tên khác nhau. “Hạnh hạnh”: Trên hạnh của Tuệ lại thêm hạnh của việc tu tập thuộc sự. Vì vậy, Đại sư gọi là “Hạnh hạnh”. “giúp đạo” là dùng tưởng bất tịnh phá tham ở trong sự. Vì giúp cho chánh quán phá trừ chướng và hoặc thuộc Lý nên gọi là giúp đạo.

Ba là “Tiểu thừa v.v…” trở xuống là nói Đại Tiểu đều tu tập, có hai:

Một là Nói về ba thứ giải thoát của Tiểu thừa: không nói về Vô ngại giải thoát vì người của Câu thoát thấu đạt Điển tịch trong ngoài được gọi là Vô ngại. Nay vì nói về Chánh và Trợ nên lại nói về hai thứ.

Hai là Nói về Đại Tát-bà-nhã: Đại luận dịch là “Nhất thiết trí du hý thần thông”. Vì ở trong ba cõi mà đạt được Tự tại nên gọi là “Du hý”. Vì tu được thần thông nhiều hơn sự khởi phát của Cửu tưởng, Bối xả v.v… nên dùng Giả tưởng làm Pháp giúp đạo. Xe lớn của pháp hoa độ đủ cả trâu trắng nên gọi là Chánh đạo, dẫn dắt gọi là giúp. Chánh tuệ của Niết-bàn xa lìa mười tướng là sắc, thanh, hương vị, xúc, sinh, trụ, hoại, tướng nam và tướng nữ; Vì chủ thể xa lìa được sâu xa nên đối tượng được xa lìa chẳng phải là nhẹ “Lại nữa, để v.v…” trở xuống là giải thích về giúp đạo: Thiền thuộc Sự của tướng xương trắng v.v…, v.v…. tức là dùng ba phép quán đối với Cảnh của thiền thuộc sự để phá chướng ba hoặc, hiển bày ra Ngã tánh thành Tam-muội vương. Phối hợp tu tập giữa Chính và Trợ gọi là Pháp giới của đạt thiền và thấy thiền.

Kế là “Các kinh v.v…” trở xuống là nói về vấn đề kinh luận có đầy đủ, có sơ lược.

Kế tiếp là nói hai nghĩa của phẩm này đều sơ lược.

Kế là “Thật pháp v.v…” trở xuống là tùy thích, như sau:

  • Nói cảnh thật pháp, có hai:

Một là chia văn.

Hai là Tùy văn giải thích, lại có:

  • Nói về cảnh của quả khổ, có ba:
  • Cảnh của sinh không, có hai:
  • Giải thích: Thân là luống dối, có hai:
  • Vì đó là quan niệm sai lầm cho nên thuộc về luống dối, có hai:

Một là Cho rằng nhóm họp ấm mà có thân: “Bám níu ấm mà thành thân”. Năm ấm hòa hợp giả gọi là thân. Như nhóm họp năm ngón tay mà gọi là nắm tay. Phàm phu không nhận biết, chấp cái tên gọi là Giả ấy để làm ngã, v.v… Nếu nói đầy đủ thì có hai mươi sáu loại:

  1. Ngã.
  2. Chúng sinh.
  3. Thọ giả.
  4. Mạng giả
  5. Sinh giả.
  6. Dưỡng giả.
  7. Chúng số.
  8. Nhân.
  9. Tác giả.
  10. Sử tác giả.
  11. Khởi giả.
  12. Sử khởi giả.
  13. Thọ giả.
  14. Sử thọ giả.
  15. Tri giả.
  16. Kiến giả.

Nay sở dĩ Đại sư nói sơ lược là năm vì: Ngã ở trong pháp của ấm v.v… nếu tức là hoặc, nếu lìa hoặc mà cho rằng có cái Thật của Ngã và Ngã sở. Nhân: Ở trong ấm mà quan niệm sai lầm về Ngã, Nhân.

Chúng sinh: thì đối với ấm vọng chấp là ngã sinh ra.

Thọ giả: Đối với pháp của ấm v.v… mà quan niệm sai lầm rằng ta thọ quả báo trong một thời gian.

Tuổi thọ giả: Đối với các pháp ấm v.v… mà quan niệm sai lầm rằng mạng căn được liên kết, duy trì, không chấm dứt. Vì chấp như vậy nên mới chấp rằng có thân ta, gọi là “Thân kiến được sinh khởi”.

Hai là “Nếu Thể v.v…” trở xuống là thể vốn luống dối, không thể đạt được Vọng chấp có sinh nhưng sinh thật bất sinh. Vì thế, Sinh gọi là luống dối. Đã vốn bất sinh nên chấp thân vắng lặng. Lại giống như như không thể.

Kế là “Lại nữa, xem xét v.v…” trở xuống là xem xét lý do hoàn toàn luống dối, có hai:

Đầu tiên chính là kiểm chứng, có hai:

Một là Kiểm chứng về giả danh: “Do một niệm Vọng tưởng”: Đó là, lúc con trai gá vào thai thì thấy mẹ là cảnh chấp lấy, thấy cha là cảnh bị cạnh tranh; đối với mẹ thì khởi lòng tham, đối với cha thì khởi tâm sân; chất chảy ra của cha thì lại cho là của mình. Do niệm tưởng sai lầm ấy mà gá vào thai. Con gái thì trái lại, có nói đầy đủ như trong Đại kinh. “Khởi đầu của giả danh”, tên gọi nam nữ là do vọng tưởng này làm khởi đầu.

Hai là “Đó cũng v.v…” trở xuống là xem xét về lý do của Thật pháp, có hai:

Một là (Huyết) đỏ, (Tinh) trắng tức là di thể.

Ba tánh: tức là Thiện, ác và Vô ký.

Hai là “Lại nữa, Tinh v.v…” trở xuống là sáu đại, năm ấm: sáu đại là lý do mà Thật pháp y cứ. “Nếu hai thứ quán này v.v…” trở xuống là kết thúc sự chỉ bày: Thân là huyễn chất. Danh là giả danh. Đã do vọng tưởng và từ Tinh, huyết thì nghiệm ra thân được thành tựu kia gọi là luống dối.

Kế là Giải thích về “Giống như sự nhóm họp của Không”. Nghiệm lực Vô minh, nghiệp tức là Hành, đó là Vô minh duyên Hành, hoặc lúc mới gây nghiệp, hoặc lúc gá vào thai như trước đây nói về thức của trai hoặc gái khởi tham sân đối với cha mẹ, lấy chất chảy ra của cha mẹ mà cho là của mình, do vọng niệm đó mà được gá thai. Thể tức là di thể, tức là đỏ và trắng.

Kế là từ “sáu v.v…” trở xuống là thể hội cảnh của pháp không, gồm có:

– Lập ý chia văn, có hai:

Một là Lập ý.

Hai là chia văn.

– Theo văn giải thích, có hai:

– Giải thích sáu nhập, có bốn:

– Giải thích về sáu nhập, lại có:

Một là Giải thích hai tên.

Hai là “xem xét v.v…” trở xuống là kiểm chứng về ba việc: “Mạng, Noãn, Thức”: kinh Đại Tập chép: “Giai đoạn Ca-la-la có ba việc”. “Hơi thở vào ra” gọi là tuổi thọ. “Không thối không hư hoại” gọi là Noãn. Tức là do nghiệp giữ gìn Hỏa đại, sắc mềm thuộc Địa, Thủy v.v… không bị thối, nát vữa. Trong đây, tâm và ý gọi là Thức, tức là giác biết trong tên gọi là Sát-na. Ba pháp hòa hợp, từ lúc sinh ra cho đến lúc lớn lên không thêm, không bớt. “Bảy ngày thay đổi một lần”: Tức là nói lúc đang ở trong thai, bảy ngày đầu tiên gọi là Tạp uế trạng, như chất bơ đặc lại. Bảy ngày thứ hai gọi là Bào trạng, như bọc ung mụt. Bảy ngày thứ ba gọi là Ngưng kết trạng, như máu đọng. Bảy ngày thứ tư gọi là Ngưng lậu, vì đã hơi cứng. Bảy ngày thứ năm gọi là Hình vị, vì tứ chi khác nhau. Bảy ngày thứ sáu gọi là Mao phát trảo xỉ vị. Bảy ngày thứ bảy gọi là Cụ căn vị, vì đã đầy đủ năm căn, cộng với thức trước là ý căn thành đủ cả sáu căn.

Kế là “Thức y cứ v.v…” trở xuống là giải thích xóm làng.

Ba là “Trần đi theo v.v…” trở xuống là giải thích: Sự chấm dứt của Giặc kiết sử, do trần mà khởi kiết. Vì hại luôn tuệ mạng nên nói là giặc kiết sử.

Bốn là “Mắt thấy v.v…” trở xuống là giải thích “Vì không biết nên rình rập nhau”.

Kế là Từ “Mắt v.v…” trở xuống là giải thích mười hai nhập, có bốn:

Kế là y theo sự mở ra để phân biệt vô số: “Mở rộng Sắc thành mười”: Tức là năm căn và năm Trần. “Phần ít”: Tức là pháp nhập nhiếp vào hai thứ pháp.

Một là Tâm pháp: trừ tâm vương ra chỉ lấy các tâm sở thuộc tương ưng.

Hai là Phi tâm pháp: Tức là pháp quá khứ, hiện tại, vị lai và các hành thuộc Tâm bất tương ưng cùng ba pháp vô vi. Ở đây nói “Phần ít” tức là chẳng phải sắc thuộc quá khứ, vị lai ở trong tâm pháp. “Mở rộng tâm thành hai”: Đó là ý nhập và pháp nhập. Nhưng đối với pháp, Nhập cũng chỉ là phần ít. Tức là đối với hai thứ là pháp và Nhập thì chỉ nhiếp tâm pháp. Nay nói hai tức là nêu lên toàn bộ số.

Kế là “Trần Nhập v.v…” trở xuống là nói về tên gọi chung và riêng.

Kế tiếp là “Tương đương với một v.v…” trở xuống là giải thích về mỗi loại tự duyên.

Kế nữa là “Căn khác v.v…” trở xuống là giải thích về sự không duyên với loại khác.

Kế là “Theo tâm v.v…” trở xuống là giải thích về mười tám giới, có hai:

Một là phân biệt về số để giải thích danh từ.

Hai là Tùy theo văn để giải thích nghĩa, có ba:

Một là nói về thức hiện hữu ở các Căn: Truy tìm và duyên với quá khứ, dự toán đến vị lai. Trì sính giống như rong ruổi. “Như người v.v…” trở xuống là nêu điển hình: Ngồi yên trong một căn phòng mà tâm suy nghĩ khắp nơi trong thiên hạ. ái nhiễm trần duyên gọi là ngồi mà rong ruổi. Nếu tự chẳng phải cái không siêu việt thì chẳng thể dứt các tưởng rong ruổi. “Vì ngu v.v…” trở xuống là giải thích việc bị sáu tên cướp làm hại: Như Đại kinh chép”: Phẩm Đức Vương nói “Thí như có vị Vua đựng bốn con rắn độc trong cái hũ nhỏ rồi sai người chăm sóc, nuôi dưỡng. Nếu làm cho một con tức giận thì ta sẽ y theo pháp mà tru lục. Người giữ gắn liền vứt bỏ cái hũ nhỏ mà chạy trốn. Vua lại sai năm gã Chiên-đà-la cầm đao đuổi theo. Một kẻ giấu đao giả làm người thân thiện, nhưng người giữ rắn ấy không tin mà chỉ chạy vào một ngôi làng để trốn. Lúc vào làng rồi thì chẳng thấy người và vật nữa. Người ấy ngồi dưới đất và nghe trong hư không có tiếng nói rằng: “Đêm nay sẽ có sáu tên cướp hung ác đến đây”. Người ấy sợ hãi, liền bỏ chỗ đó mà đi. Trên đường đi gặp một dòng sông, nước sông tuôn chảy cuồn cuộn. Người giữ rắn liền dùng cây cỏ làm thành một chiết bè, cắt dòng chảy mà đi. Qua được bên kia sông rồi thì được yên ổn, không lo lắng nữa. Bồ-tát cũng giống như vậy, nghe kinh Niết-bàn mà quán sát thân như cái hũ nhỏ, bốn đại như rắn dữ, năm gã Chiên-đà-la tức là năm ấm, kẻ giả thân thiện tức là tham ái, xóm làng hoang vắng tức là sáu nhập; sáu tên cướp tức là sáu trần, sông tức là sông phiền não, chiếc bè tức là Đạo phẩm, đi đến bờ kia Thường, Lạc, Ngã Tịnh.

Hai là “Tâm thường v.v…” trở xuống là nói về tính chất thường tồn tại của Thức: Căn và Trần vừa đối liền biết”: Tức là đối trước trần liền biết. Dẫn luận để chứng minh cho nghĩa “liền biết” đã nói “tâm muốn nghe” tức là biết thức ở căn.

Ba là “Tâm xứ v.v…” trở xuống là nói thức thường đi về: “Chợt ra chợt vào”: Vì đối trước trần nên đi ra, không đối thì lập tức đi vào “Xuất nhập gián quan”: Pháp sư ứng nói: “Đó là nói về ra vào”. Cũng là dáng vẻ bày biện, sắp đặt”. Trang tử nói: “Tiểu trí phân biệt” Tức là cách trở, ngăn ngại. “Mổ một bỏ một”: Bỏ một mắt lại mổ lấy một mắt lưới. “Cách trở, ngăn ngại khó ra, được nói là Thường trụ”: Vì trần vừa đối diện thì biết ngay.

Kế là từ “Thân v.v…” trở xuống là kết về hai cảnh, có hai:

Một là nêu bày.

Hai là “Thân không v.v…” trở xuống là giải thích, có hai:

Một là Giải thích về hai câu đầu tiên để kết cảnh của sinh không: nuôi lớn tức là Dưỡng dục kiến, một trong mười sáu thứ kiến. Quan niệm sai lầm rằng ta có khả năng nuôi dạy người khác, lại quan niệm rằng ta là bậc cha mẹ nuôi dạy.

Hai là “Cũng không v.v…” trở xuống là giải thích hai câu sau để kết luận về cảnh của pháp không, có hai:

Kế là giải thích xa về không có chủ tể, có hai:

Một là kiểm chứng riêng: Tâm làm chủ tất nhiên là có khả năng chế tác và được tự tại. Đã bị người khác làm não hại thì cố nhiên là hai nghĩa chế tác và tự tại bị phá. Qua đó, chúng ta biết rằng tâm chẳng có chủ tể.

Hai là “hoặc có lúc v.v…” trở xuống là cùng suy về chủ: “Bốn thứ vi tế”. Tức là Sắc, Thanh, Hương vị và Xúc. Đại luận chép: “Địa có Sắc, Hương, Vị và Xúc. Nhưng vì đất nặng nên không tạo tác gì. Thủy ít có Hương nên động tác hơn hẳn Địa, Hỏa ít có Hương, Vị nên thế hơn hẳn Thủy. Phong có ít Sắc, Hương và Vị nên động tác hơn hẳn Hỏa”. “Tâm không ngang bằng”: Vì tâm so với bốn đại là không mượn sự sâu kín và hơn hẳn cho nên là chủ. Nhưng, nếu nói về làm não hại thì lại không thành chủ tể.

Kế là Giải thích tùy theo sự không tranh luận: Tuy do nhân duyên hòa hợp mà thành các pháp, nhưng vốn chẳng có Tư và Niệm thì làm gì có sự tranh đấu, kiện tụng, vì đều do quan niệm của tính thức mà bốn đại trở nên như rắn, sáu trần thành như cướp. Nếu quán vốn không thì các pháp đều vắng lặng, có ai là người tranh chấp, kiện tụng. Vì vậy, Đại sư dùng không tranh tụng để kết thúc Cảnh của pháp không.

Từ “Các v.v…” trở xuống là nói về cảnh của Tập nhân, có hai:

  • Chia văn đối biện, có hai:
  • Chia văn, đối biện, có hai:

Một là đối với giả tưởng để phân biệt: “Ba ở trước: Tức là Cảnh của Tập này tự lập ra ba khoa. Đó là tướng của Tập khởi là cảnh của chánh quán thuộc Tuệ hành. Một khoa sau là Giả tưởng, là cảnh của giúp đạo quán thuộc Hạnh hành. Chín hàng văn kinh này đã có sự nối liền nhau mà lại nói “Vì bốn đại dường như khó phân biệt” nên Đại sư so sánh ba khoa trước với một khoa sau mà nói về chánh và trợ để phân biệt chúng ta. “Lại nữa, một khoa trước”: Tức là lấy một khoa đầu tiên trong số ba khoa của Tập cảnh với Giả tưởng của khoa sau để nói về sinh diệt. Vì một khoa ở trước nói rằng “Từ sự hòa hợp của nhân và duyên mà có” đồng thời cho rằng “đất, nước, gió, lửa nhóm họp mà thành lập”, một khoa sau nói “Lúc hạt giống nước, lửa và gió tản mát, diệt hoại”; như vậy, lẽ nào lại chẳng phải tướng sinh diệt của bốn đại ư? Nhưng sở dĩ nói rằng “Sinh diệt đều từ sự vô minh của hạt giống” là vì muốn làm sáng tỏ sự sinh diệt này không lìa mê tối và luống dối. Do đó, đối với giai đoạn sinh ở trước thì nói là “Vì vọng tưởng nên sinh khởi”; đến giai đoạn Diệt ở sau thì nói là “Lúc tản mát và diệt hoại là chết”; đến phần phối hợp của chi thì nói “lo buồn khổ não”, đó là quả Vô minh và cũng là nhân vô minh. Vì vậy, luận chép: “Già chết có quả, đó là Vô minh, Vô minh có nhân, đó là chỉ cho già chết”. Do đó, sinh diệt đều xuất phát từ vô minh.

Hai là “Nếu trực tiếp v.v…” trở xuống là đối với Tiểu thừa mà nói: Vô minh sinh diệt như đã nói ở trên thì giáo lý nào mà không như vậy? Nếu muốn biết rõ thì phải nói về Tiểu và Diễn. Tiểu thừa nói rằng bốn đại thật sự sinh ra từ Vô minh và từ Vô minh mà diệt. Giảng nói bốn đại cùng có, vì thế của bốn đại thuộc Thông giáo trong ba loại giáo vốn là không. Vốn chẳng sinh diệt, do Vô minh nên thấy có sinh diệt; sinh của như huyễn, diệt của như huyễn. Thể của bốn đại thuộc Biệt giáo là Phật tánh. Do Vô minh nên bốn đại sinh diệt; Tánh chẳng sinh diệt nhưng tướng thì có sinh diệt, thể của bốn đại thuộc Viên giáo cũng là Phật tánh. Nhưng tánh vốn có đủ cả chín cõi, vì là bốn đại. Chín và bốn đại hoặc sinh hoặc diệt đều là pháp giới. Do đó, cả tánh và tướng đều bất sinh diệt, sinh diệt này không thể suy nghĩ bàn luận. Vì thế, kinh Pháp Hoa nói rằng “Tướng thế gian thường trụ”. Nghĩa của câu ấy đã như vậy thì giải thích ba giáo đều được sáng tỏ về “Vốn bất sinh mà sinh, Vốn không Diệt mà diệt. Sinh diệt chẳng hai mà hai”. Nay đã chẳng phải Thông và Biệt thì tất nhiên là nói theo Viên.

Kế là Từ “Các v.v…” trở xuống là tùy theo văn để giải thích nghĩa, có ba:

  • Nói về tướng tập khởi, có hai:
  • Y theo Sinh và Pháp để giải thích, có ba:

Một là phân biệt khổ từ Tập: Khổ là quả thế gian, Tập là nhân thế gian. Nhân quả đó đều sinh ra từ nhân duyên. Sự giải thích của hôm nay tuy liên quan đến quả khổ nhưng thật ra ý của sự giải thích ấy là làm sáng tỏ về nhân duyên của Tập.

Hai là “Ba loại trước v.v…” trở xuống là chia câu đối nghĩa.

Ba là “Tiểu thừa v.v…” trở xuống là phá nhân duyên của Tiểu thừa, có hai:

Một là nói về Tiểu thừa: Câu-xá nói: “Cực vi chẳng phải là vàng, cây, cỏ, dê, trâu, bụi v.v…” Tiểu thừa Hữu nên cho là Cực vi. Vì bắt đầu có mười phương phần nên chẳng phá Lân hư. Lấy đó làm nhân duyên.

Hai là “nay nói rõ v.v…” trở xuống là bác bỏ sai lầm. “Bụi nhỏ cũng hết”: Lân hư cũng phá. Hai trần đã phá nên nhân duyên cũng không thành.

Kế là “Nói nhân v.v…” trở xuống là y theo Sinh và Pháp để giải thích, có:

– Nhân duyên của giả danh, có ba:

Một là giải thích: Từ các thứ nhân duyên này nên dùng luận Khởi Tín để nói: “Vô minh làm nhân sinh ra ba tế, cảnh giới làm duyên ra sáu thô mới trọn vẹn. Ý của Sớ nói ba tế là Nghiệp tướng, Chuyển tướng và Hiện tướng. Tức là căn bản bất giác huân tập chân như sinh ra ba tướng. Vì vậy, Đại sư nói: “hoặc bên trong của Vô minh là nhân”. Nói sáu thô tức là nói về trí tướng, tương tục tướng, chấp thủ tướng, kế danh tự tướng, khởi nghiệp tướng và nghiệp hệ khổ tướng. Tức là Chi mạt bất giác khởi lên trí tướng v.v… đối với cảnh giới bên ngoài. Hai thứ chấp là Sinh và pháp gọi là ái nhiễm, đắm nhiễm đối với sự xúc chạm ở bên ngoài. Vì hai thứ bất giác huân tập vào hai thứ tâm chấp đắm thành khởi nghiệp. Vì thế, Đại sư nói “Do Vô minh nhuận ái tập mà nghiệp khởi lên”. Bỗng nhiên đều không phân biệt được, mê pháp giới của một mà thành Vô minh. “Nội hoặc, v.v…” lẽ nào có khả năng làm sáng tỏ không tuệ của Trung đạo hôm nay.

Hai là “Vì nghiệp v.v…” trở xuống là giải thích về hòa hợp mà có: “Vì nghiệp khởi”: Tức là khởi lên nghiệp tướng. “Thì có v.v…” trở xuống tức là nghiệp hệ khổ tướng. Ở đây nói quả của khổ tức là “Bám víu vào ấm mà thành người thuộc giả danh”.

Ba là “Một này v.v…” trở xuống là giải thích: “Không chắc, Thật. Do vô minh, ái”: Hai thứ bất giác làm nhân, tức là tâm thuộc chủ thể Sinh. Một niệm gá thai là quả Bất giác, gọi là tâm thuộc đối tượng được sinh. Chấp đắm nhân quả gọi là Bổn và Mạt. Đã là bất giác thì lẽ nào lại Chân Thật. Vì thế, Đại sư nói “Đều là luống dối không chắc, thật”.

Kế là “Vọng tưởng v.v…” trở xuống là Thật pháp, nhân duyên cũng là vọng tưởng: Một niệm gá thai so với trước là chẳng khác. Nhưng, trước thì Thành đối với người thuộc giả danh mà nay thì Thành đối với thật pháp. Giả và Thật hòa hợp mà thành một báo thân. Nhờ tu tập hai thứ không mà phá được hai thứ chấp nên chia làm hai cảnh. “Chủ của máy móc”: Như sự chuyển động của người giả bằng tượng gỗ có máy móc. Chủ tức là người điều khiển máy móc. Vì thế, dùng nghiệp nhân dụ cho tượng gỗ là cái được điều khiển. Lấy ấm quả dụ cho Sắc. Vì ấm giống như hình chất của tượng gỗ nên nói là đầy đủ máy móc. Ba ấm như động tác đi, lại của tượng gỗ. Ấm như người xem, cho nên nói là “Để tự vui đùa”.

Kế là “Tùy thời v.v…” trở xuống là nói về sự cắn nuốt, của Tập tướng, có hai:

Kế tiếp là Nhân quả đối thích, lại có:

Một là giải thích: “thêm bớt tàn hại, chiều dọc y theo mười thời”:

Đại kinh chép:

  1. Đắc dị của Ca-la-la.
  2. Thời dị của A-phù-đà.
  3. Thời dị của Bế thủ.
  4. Thời dị của Pháo.
  5. Thời dị của Sơ sinh.
  6. Thời dị của trẻ thơ.
  7. Thời dị của Đồng tử.
  8. Thời dị của Niên thiếu.
  9. Thời dị của thanh niên.
  10. Thời dị của già chết.

Lại, niệm niệm sinh diệt tuy ở tại tâm, nhưng chúng ta phải biết rằng bốn đại cũng có thêm bớt. Lại, vì các căn mới gọi là lúc sinh, nên lúc các căn chết lại ăn uống để bồi bổ máu, thịt làm mắt, nước mắt, lỗ tai v.v…

Kế là “Thí như v.v…” trở xuống là giải thích về “Bốn con rắn trong một cái hũ nhỏ, lại có:

  • Nói về bốn con rắn, có hai:

Một là y theo quả báo rắn để nói về bốn tướng: Rắn có các thứ quả báo như lực, đối địch, ốm và tuyệt v.v… có thể làm thí dụ cho bốn tướng thêm bớt của sinh, già, bệnh, chết.

Hai là “Như đó v.v…” là y theo nhân của rắn để nói về bốn phần: Bốn phần phiền não đều có độc hại tức là rắn. Do nhân đó mà chiêu cảm bốn tướng của bốn đại, như sau:

  • Chỉ bày riêng về sự chiêu cảm quả báo của bốn phần, có hai:

Một là Nói về sự sinh ra bốn đại.

Hai là “điềm lành v.v…” trở xuống là nói về bốn tướng: kinh nêu ra ba tướng. Sớ dùng Đẳng phần làm lệ chung đến tướng sinh.

Kế là Tổng kết về nghiệp của Tập đưa đến khổ. Sự giải thích về bốn con rắn ở trên tuy có nói về quả báo của khổ, nhưng vì ý là nói về nhân duyên của tập nên Đại sư Tổng kết rằng “Tướng của tập nghiệp là cắn”. Khiến cho Đại thêm bớt, công được quy về tập, là ý chính của kinh.

Kế là Nói về “Cùng một hũ nhỏ”, có hai:

Một là y theo Thân là hũ nhỏ. Thích tức là làm độc. Kinh nêu bốn con rắn để dụ cho bốn đại, ý là để sáng tỏ bốn phần có nghĩa của độc hại. Một phần có hai muôn một ngàn, bốn phần có tám mươi bốn ngàn, từ vô lượng kiếp đến nay sở dĩ tuệ mạng của pháp thân bị mất là do chúng. Đó là ý “Thân giữ bốn đại, Đại không khởi Tập, rắn không có nghĩa của độc, như chim ở trong lồng” mà Đại kinh có nói. Văn tiếp theo sẽ nêu lại. Vì giải thích sơ lược nên chú “v.v…”.

Hai là “Lại dùng v.v…” trở xuống là y theo nghiệp là cái hũ nhỏ: Vì Túc nghiệp vẫn còn nên bốn đại chưa tan rã. Lại nêu cái lồng chim để làm sáng tỏ về nghiệp, cái hũ nhỏ. Chúng ta nên biết rằng ý của bản sở ngày nay nêu nghiệp, giữ gìn Đại là làm sáng tỏ về Tập nhân, vì thế gọi là chim tâm. Chim dụ cho bốn phần rong ruổi theo sáu trần bên ngoài, thường tìm cầu sinh tử chứ không an định pháp thân. Nếu niệm nào của người cũng nghĩ đến việc phá giới tức là mong cầu địa ngục, tiêu diệt hẳn năm phần, nghiệp người của đời trước vừa hết thì rơi hẳn vào Nê-lê.

Thứ đến giải thích về tánh của Đại đều khác nhau, có hai:

Một là y theo một thân để giải thích. “Tánh khác v.v…”: Tuy nói rằng bốn đại hòa hợp làm thành thân, nhưng vì tánh của đại đã khác nhau thì làm sao hợp thành được? Đây là làm sáng tỏ vấn đề trong thành lập tức có hoại. Vọng tình chẳng biết đối với hoại nên chấp sự hợp thành, bao bọc và chấp mắc Tập của Sinh. “Bốn Đại đối với bốn phương”: làm sáng tỏ về bốn Đại ở bên trong có Tánh của bốn phương. Vì bốn phương Thăng và Giáng nên chúng ta nghiệm ra rằng Đại trái ngược nhau. Ý của “Đối với thời, Đối với Duy” cũng giống như vậy. Vì thể Tánh của bên trong cùng thời, phương ở bên ngoài vốn là một. Vì thế, nghĩa của Y, Chánh, Sắc, Tâm, Chiêu cảm thành nghĩa. Do vậy, kinh nay đặc biệt dùng bốn đại để làm rõ về nghiệp của Tập.

Hai là “hoặc nói v.v…” trở xuống là y theo sáu căn để giải thích: Bởi sáu căn đều là bốn đại tạo sắc.

Kế là Giải thích về diệt tất cả không còn dư. Cho đến “Cũng lấy người chết thì bốn đại phân tán liền nói rằng hơi thở, gió, hơi nóng, khí lực đã trở về phần trên; xương, thịt, máu, mồ hôi thì quay xuống dưới”. Cho đến “Tìm kiếm đều không có chỗ đi, vì vốn không đến. Nếu có đến, đi thì chẳng phải giáo lý của nay.

Tiếp là “Nếu quả v.v…” là kết do nghiệp của Tập: kinh nêu lên sự thăng trầm của bốn đại càng lắm chính là muốn nói về Thiện ác của Tập cảnh khác đường. Vì bốn đại không chỉ là ác mà còn có cả thiện hữu lậu.

Kế là nói về cảnh Thiện ác của Tập, có ba:

Một là Giải thích tâm thức: Người học về Tông nay phải biết về Cảnh và Quán. Nếu nói về Quán thì phải hiểu rõ ba Thức, là Thức thứ chín là Yêm-ma-la, là thức bất động. Thức này tương đương với Chánh nhân, Phật tánh. Có thể làm phép quán của trung. Thức thứ tám là Alại-da, là thức vô ký vô minh. Tánh của Vô minh là Liễu nhân Phật tánh, có thể thực hành phép quán Không. Thức thứ bảy là A-đà-na, là thức phân biệt, vì là tánh của hoặc nên tương đương với Duyên nhân Phật tánh, có thể thực hành phép quán về Giả. Ba thức này đã không hai, không khác với ba đức nên là kho bí mật. Do đó chúng thâu nhiếp tất cả các pháp và hiện hữu khắp nơi. Người tu tập phép quán của Viên chắc chắn biết được không có một tâm, một trần nào chẳng phải là ba thức. Tức là Lý siêu việt thuộc đối tượng được hiển ra lại là phép quán siêu việt thuộc chủ thể quán. Nếu nói về Cảnh thì chỉ quý cái gần, cái chủ chốt, chỉ lấy thức của kiến tư thuộc thức thứ sáu để làm cảnh giới. Vì biết ba thức siêu việt chưa bao giờ tạm lìa một kiến, một tư, nên ngay nơi tâm này mà lập ra ba phép quán vượt hơn để làm sáng tỏ về ba đế siêu việt. Tuy chỉ là một thứ Thức nhưng chẳng hề không dùng ba Thức mà làm phép quán, chưa từng không dùng ba Thức để làm Cảnh. Nếu nói rằng Tông chỉ của nay không làm sáng tỏ về ba Thức mà chỉ làm sáng tỏ về Lý của ba đế đối với Thức thứ sáu thì sự giải thích tựa đề của nay và sự mầu nhiệm kia chỉ bày về ba thức là ba phép quán vượt hơn làm sao có thể dùng được? Thì lấy cái gì ở một thức tâm mà làm ba đế ba quán. Vì vậy, nếu không có cái thấy thuộc thông suốt thì khó bàn về Tông chỉ của Viên. Nay vì làm sáng tỏ cảnh của Tập nên dẫn Lý có cả cả Tiểu của luận văn. Chỉ phân biệt một pháp có ba khả năng của tâm, ý, thức mà lập ra ba tên gọi. “Đối số gọi là Tâm”: Vì đối với tất cả số, các Đại đi chung v.v… nên gọi là Tâm Vương. “Thường sinh gọi là Ý”: Ý là chỗ nghiệp y cứ. Nghiệp y theo ý nên thường sinh khởi tất cả nhân quả. Vì nó có đủ ba Tánh, “Phân biệt gọi là Thức”: Vì nó nhận thức được về cảnh thuộc sở duyên nên gọi là Thức. “Lại nữa, nói v.v…” trở xuống tuy chỉ là một thứ Thức nhưng y theo sự khác nhau của ba thời mà lập ra ba tên gọi, không giống nhau với nghĩa, chỉ y theo một thời có đối số thường sinh ra sự phân biệt của sự giải thích ở trước. Trước là giải thích theo nguyên tắc chiều ngang. Ở đây giải thích theo nguyên tắc chiều Dọc. Đầu tiên là sinh khởi Cực vi, kế là khởi sự chấp đắm dần dần. Sau cùng, khởi sinh lại càng rõ ràng hơn. Như vậy lẽ nào lại chẳng phải chiều Dọc?

Kế là giải thích về hai tánh: Tánh có hai nghĩa:

Một là Chân Lý không thay đổi gọi là Tánh.

Hai là theo duyên nhiễm tập gọi là Tánh. Sự nói về Tánh ở đây là y theo Tánh thuộc Nhiễm tập. Hai tánh ấy hiện hữu khắp tâm, ý, thức.

Mỗi loại đều có hai tánh ấy.

Thiện là giải thích về thô tháo, loạn động, có hai: – Chính là giải thích về thô tháo, loạn động.

Một là y theo tâm Vương và tâm Sở để giải thích.

Hai là “Lại nữa, như v.v…” là y theo sự lôi kéo của nghiệp để giải thích, có hai:

Kế là nói về sự lôi kéo của nghiệp, có hai:

Một là Nói về hai thứ lôi kéo.

Hai là “Cũng là v.v…” trở xuống là giải thích theo lệ chung về tùy nghiệp, tức tương đương với bốn câu. Nếu hiểu được hai thứ lôi kéo tức là biết được thọ báo.

Kế là “Thủy, hỏa v.v…” trở xuống là nói về Cảnh của giả tưởng, có hai:

  • Chính là giải thích về tướng, có hai:
  • Giải thích lúc tản mát, hoại diệt, có hai:

Một là giải thích Bất tịnh của Đại và Tiểu: Vì phá được dục tình giúp cho Chánh quán được lập ra nên gọi là giúp đạo.

 

 

(Phần cuối)

Hai là “Nếu chính v.v…” trở xuống là nói về công năng, lại có:

– Nói về việc phá dục để giúp cho Chính, có hai:

Một là Chỉ bày sơ lược.

Hai là Chỉ bày chi tiết, có ba:

Một là dẫn Thích luận để làm rõ về Chính: “Ba thứ giải thoát”: Đó là Không, Vô tướng, Vô tác. Từ ba quả được chứng mà gọi là cửa giải thoát. Giải thoát và Niết-bàn tuy là hai tên gọi nhưng thể chỉ có một. “Đạo phẩm là pháp mở cửa”. Tiểu thừa thì dùng mười sáu phép quán làm ba cửa giải thoát. Phẩm ngày nay thì lại Chính là Không, Chính là Giả, Chính là Trung để làm ba cửa giải thoát. Muốn mở cửa này thì hành giả phải dùng Đạo phẩm điều phối mà tu tập. Như dùng bốn thứ Niệm xứ để tu tập Chính là Không, Chính là Giả, Chính là Trung và bốn Chánh cần. Cho đến điều phối tám Chánh để tu tập cũng giống như thế. Nghĩa của sự điều phối bảy khoa thuộc ba thứ giải thoát ở Tiểu thừa cũng giống như vậy. Nghĩa là đều lấy đạo phẩm làm pháp mở cửa. “Chín thứ tưởng là”:

  1. Tưởng trương phình.
  2. Tưởng hư hoại.
  3. Máu loang lổ.
  4. Mủ rửa nát.
  5. Bầm tím.
  6. Ăn.
  7. Tản mát.
  8. Xương.
  9. Thiêu đốt.

Nếu theo Tiểu thừa thì có hai thứ người:

Một là Người thuộc Hoại pháp, chỉ cầu dứt khổ thì chỉ tu đến loại tưởng thiêu đốt, thành người của Tuệ giải thoát.

Hai là Người thuộc bất hoại pháp, chỉ trụ ở tưởng xương mà không tiến đến tưởng thiêu đốt, có xuất ra ánh sáng v.v… có đầy đủ công đức, thành người thuộc Câu giải thoát. Nay nói về Bồ-tát thấy Thật tướng của Thiền gọi là tu đạt thiền, khác hẳn với Tiểu thừa. Tuy Đại, tiểu có khác nhau nhưng đều dùng Bất tịnh để giúp cho sự khai mở ba cánh cửa giải thoát.

Kế là chỉ bày sự tiến tu để nói về sự lớn lao của lực. Đầu tiên là tu tập bất tịnh, tiến lên tám bối và hoàn toàn Bất tịnh. Sở dĩ nói lớn là vì nếu chỉ quán Chánh báo của thân mình và thân người thì gọi là bất tịnh ở phạm vi nhỏ, tức là chín quán tưởng. Nếu quán cả y báo gọi là hoàn toàn bất tịnh. Đó là “Nhà như gò mả”, “Tiền bạc như rắn chết”, “canh như nước tiểu”, “cơm như dòi tửa” “áo như da hôi thối”, “Núi như đống thịt”, “Ao hồ như sông mủ”, “Vườn rừng như xương khô”, “Sông biển như giòng nước ô uế” v.v… Tất cả đều hoàn toàn bất tịnh, cùng còn gọi là “Xả bỏ hoàn toàn”. Bối tức là quay lưng với năm thứ dục tinh khiết. Xả là xả bỏ tâm chấp đắm.

Kế là dẫn sự làm sáng tỏ về đối trị của Đại kinh để nói về muốn được giải thoát, năng lực đối trị mạnh thì mau chóng phát khởi vô lậu.

Kế đến là “Không này v.v…” trở xuống là nói về Trợ và Chính của hai không, có ba:

Một là Y theo nghĩa để chỉ bày chung.

Hai là dẫn kinh để chỉ bày riêng. “Tám thứ sắc xuất ra ánh sáng”: Đó là tám thứ sắc gồm đất, nước, lửa, gió, xanh, vàng, đỏ và trắng. Pháp Giới Thứ Đệ nói: “Thấy sắc của đất như đất Vàng, Xanh trong sạch, thấy sắc của nước như nước sâu lắng trong, thấy sắc của Lửa như lửa không khói thanh tịnh, thấy sắc của gió như gió không bụi trong sạch, Thấy sắc của màu Xanh như núi Kim Tinh, thấy sắc của màu Vàng như hoa Bồ-bặc, thấy sắc của màu đỏ như ráng đỏ vào sáng mùa Xuân, thấy sắc của màu trắng như tuyết kha bối.

Ba là “Đó là y theo v.v…” trở xuống là kết thành trợ chính, để đối trị dục: Tu tập thiền mà dùng Chánh quán của Nhị không để biết rõ cảnh bất tịnh. Vì là pháp giới nên chẳng thấy người giả và thật pháp ở xương, ánh sáng. Phối hợp Chính và Trợ này để tu tập mới là pháp giúp đỡ cho sự khai mở của Đại thừa.

Thứ đến là nói về quán nhị không của Sinh và Pháp, lại có:

  • Chia văn lập nghĩa, có hai:

Một là chia văn.

Hai là Lập nghĩa, gồm có:

  • Nói về đế và duyên vốn là đại, có hai:
  • Nói về thông với đại, có bốn:

Một là y theo chuyên ở Tiểu để hỏi: Nay nói về không của Viên thì làm sao được dùng bốn đế của Thanh văn và Nhân duyên của Bíchchi-phật?

Hai là y theo chung với đại để đáp: Đức Phật nói về Đế và Duyên là che chở có cả Nhị thừa, Bồ-tát của Đại và Tiểu. Vì chúng có ở cả bốn thứ giáo. Như con đường lớn của thế gian, những người nhỏ kém cùng đi chung chứ không nhất định là thuộc người nhỏ bé.

Ba là Hỏi lại tức là ý chung “Thế nào là bốn chữ”.

Bốn là “Niết-bàn v.v…” trở xuống là giải thích chi tiết, có hai:

Một là Nói về đặt tính chung của bốn đế: “Thuở xưa, ta v.v…”: Thuở xưa là lúc còn là phàm phu, vì đối với ba thừa Đức Phật không thấy chân lý của bốn thứ bốn đế nên lại trôi lăn trong sinh tử phần đoạn. Vì văn của kệ chưa hoàn tất nên nay dẫn ra đầy đủ. Do đó, Đại sư chú, “v.v…”. Phàm phu có khổ nhưng không có Đế”: Tuy bị đau khổ dữ dội nhưng lại không cho đó là điều đáng lo lắng, vì họ không nhận biết rằng đó là khổ. Do đó, Thanh văn vừa có khổ, vừa có Đế. Đây là tương đương với sự không hiểu được Vô sinh của ba tạng, cho nên nói là khổ. Vì có thể xét biết nên gọi là Khổ đế. “Bồ-tát v.v…”: Ba thứ giáo là Thông v.v… đều đạt được Như huyễn, đều thoát được khổ, ở chỗ không có khổ. “Nhưng có Chân-đế. Sớ của Chương An nói: “Chân là Chân thật, vì vậy, biết chính là hai thứ chân thật của thứ lớp và không thứ lớp. “Chư Phật v.v…”: Quả Phật là Tròn đầy, cùng cực, rốt ráo thật. Qua đó, chúng ta biết rằng trí bốn thứ giáo tuy có cạn, sâu nhưng đều y theo bốn đế. “Sở dĩ v.v…” trở xuống là lại trích dẫn hai thứ bốn đế để giải thích thành hai ý trước. “Nhị thừa v.v…” có hạn lượng: Vì Tạng và Thông chẳng biết Như Lai tạng nên bốn đế được quán sát cuối cùng thành có hạn lượng. Vì Bồ-tát thuộc Biệt và Viên biết được Tạng tánh nên bốn đế được quán sát đều là vô hạn lượng “Nhưng gồm có hạn lượng”: Vì sâu thì chắc chắn biết được cạn. Hành giả Biệt giáo quán lượng và vô lượng theo thứ lớp. Hành giả của Viên quán sát bốn thứ bốn đế trong một niệm.

Hai là “Đại kinh v.v…” là nói về nhân duyên chung với bốn đế: Vì đều quán sát mười hai nhân duyên nhưng do trì có sâu cạn khác nhau nên đạt được đạo Bồ-đề có bốn thứ cao thấp. Ý của bốn trí ở kinh kia là làm sáng tỏ về bốn giáo. Vì vậy, chúng ta biết rằng nhân duyên không thuộc về Tiểu thừa.

Kế là “Lại có v.v…” trở xuống là nói chỉ có Đại, gồm có:

– Nói về vấn đề chỉ là pháp của Bồ-tát, có hai:

Một là Dẫn kinh: “Nho đồng”: Nho tức là Nhân (lòng nhân). Tức là nói đồng tử Nhân, Hiền. “Tập-Ứng”: Tức là tu tập ứng hợp với vô tướng. Bốn đế, Nhân duyên, mỗi loại đều nêu lên đầu và cuối mà đều lượt bỏ phần giữa. Vì vậy, Đại sư nói “Cho đến Đế Duyên”. Đã là pháp nhẫn là pháp tương ưng của Bồ-tát nên chúng ta suy ra rằng Nhị thừa của Lý sâu không sánh bằng ba loại Thông và Diễn. Nay dùng sự tương ưng của Đế, Duyên thuộc Viên giáo mà làm thành Không tuệ ngày nay.

Hai là “Nên biết v.v…” trở xuống là kết thúc sự chỉ bày.

Kế là Nói về cái thấy cạn cợt của Nhị thừa, có ba:

Một là Nói về Thanh văn: Nếu so với nhân duyên thì tức là dùng bảy chi mà làm chung một thứ khổ, vẫn dùng năm chi làm chung một tập. Lại nữa, Khổ và Tập không chia ra quá khứ, vị lai mà chỉ sơ hiện tại có tính cách chung. Vì căn tính chậm lụt nên Pháp tướng sơ lược chung.

Hai là Nói về Bích-chi-phật: mở ra tướng chung của Thanh văn thành tướng riêng. “Năm của hiện tại”: là Thức, Danh sắc, sáu nhập, Xúc và Thọ. “Hai thuộc Vị lai”: là Sinh và già. Chết là Khổ thuộc tướng riêng. “Hai thuộc quá khứ”: đó là Vô minh và Hành. “Ba thuộc hiện tại”: Đó là ái, Thủ và Hữu. Đây là Tập thuộc tướng riêng. Lại mở rộng ba đời không chỉ có hiện tại. Vì vậy, Đại sư nói “Sơ lược quả và Nhân, trong phần mở rộng có thể so sánh ba thứ”. Như vậy thì ba đời đều có mười hai chi. Vì dùng phước để tài bồi cho Trí nên được quán riêng.

Ba là “Tuy là v.v…” trở xuống là bác bỏ về cạn, có hai:

Một chính là bác bỏ Nhị thừa: Vì ba môn học được tu tập là không vì chúng sinh, không thành tự pháp của Phật nên gọi là tự điều phục, tự độ. Đại luận chép: “Giới của Nhị thừa gọi là tự điều phục. Định gọi là Tự độ, Tuệ gọi là tự thanh tịnh. Duyên giác tuy có chút phần Từ bi nhưng vì không thể làm lợi ích rộng lớn nên cũng gọi là Tự.

Hai là “Cùng Bồ-tát v.v…” trở xuống là so sánh để làm rõ vấn đề Bồ-tát chưa chia ra Quyền và Thật mà chỉ là Bồ-tát khác với Nhị thừa.

Thứ đến là “Nay nêu v.v…” trở xuống là nói về tích và Thể khác nhau, có hai:

Một là y theo cùng ở ba thừa để nói về quán thuộc tích.

Hai là y theo Bồ-tát thuộc không cùng chung để nói về quán thuộc Thể: Thật sự có dứt trừ không là tích, Hữu thuộc huyễn chính là không, gọi là Thể, các bản văn có nói. Nay nói Hữu thuộc Huyễn chính là Trung gọi là Thể, tức là dùng Thật diệt và Không của huyễn để gọi là tích. Vì chưa đạt được thật thể của các pháp nên nghĩa của Thể không thành tựu. Do nói rằng các pháp cuối cùng là vô thường nên chỉ là nghĩa của Chiết. Nay nói mỗi pháp trong các pháp đều Thường trụ. Đã thấy được thật thể của pháp nên gọi là Thể siêu việt. Nghĩa đầu tiên chia như sau:

  • Giải thích riêng, có hai:
  • Y theo Nhị thừa để nói về quán, có hai:
  • Phép quán Sinh không, có hai:

Một là Nêu thí dụ để suy.

Hai là “Ngã nhân v.v…” trở xuống là đứng về pháp để xem xét: Vì mỗi loại đều suy về không nên dẫu có hợp lại cũng là không. Vì nhóm họp hư không để làm thành Sắc. “Chính là ấm v.v…” trở xuống là lại xem xét ngay nơi lìa khiến khó được.

Kế là “Tuy cầu v.v…” trở xuống là pháp quán không, có hai:

Một là Nói pháp tồn tại: Nối tiếp thí dụ trước để làm sáng tỏ về người không còn nhưng Pháp vẫn hiện hữu.

Hai là “Lại phải v.v…” trở xuống là dùng quán để phân tích, có hai:

Một chính là nói về loại suy Pháp không: Trước khi chính thức xem xét Pháp không thì đầu tiên là phân tích Sắc ấm. Kế đó, “Niệm trước v.v…” trở xuống là phân tích bốn ấm, không có Tưởng và Thọ là vì xếp chúng vào Hành và Thức.

Hai là “Đã không v.v…” trở xuống là kết cả hai thứ không: Tuy có trí nhưng nếu không có cảnh thì trí sẽ tự mất. Vì vậy, cả cảnh và trí đều nói là “Không đạt được”.

Kế là “Chung với Bồ-tát v.v…” trở xuống là lấy Bồ-tát để làm lệ có cả kết: Trước đây nói về quán của tích là Pháp của ba tạng. Vì đối với phẩm này, quán của Thổ thuộc về Viên nên xếp Bồ-tát độn căn của thông giáo chẳng thể thể nhập Trung, cũng thuộc vào phép quán của tích. Do đó, Đại sư nói “Bồ-tát cũng như vậy”.

Kế đến là “Đó là v.v…” trở xuống là tổng kết vì sao nói tự hành, vì người khác khác nhau” là bởi Bồ-tát Thông giáo đối với hai thứ quả của Nhị thừa mà chia thành hai hạnh.

Thứ đến là y theo Bồ-tát thuộc về không chung để làm sáng tỏ phép quán của Thể, lại có:

Một là Chỉ bày chung về sự khác với trước: Nói khác Bồ-tát không có nghĩa là Biệt giáo mà là hành giả của Viên khác với Thiên và Tiểu nên gọi là Biệt. Vì thế, Đại sư nói là “khác hẳn nhau”.

Hai là “Như thấy v.v…” trở xuống là nói kỹ về tướng của quán, có:

  • Nói về Pháp của thể thuộc về không siêu việt, có hai:

Một là Lập dụ để làm sáng tỏ: Nhưng văn Ví dụ gương mà bóng có lạm với Thông. Người học phải biết là ý của Viên. Thông của có sáu cõi để làm gương và bóng. Biệt và Viên gồm mười cõi để làm gương và bóng. Tuy Biệt là mười cõi nhưng chín cõi là do tu mà thành. Vì tu mà thành là không thật nên giống như gương và bóng. Viên thì biết rằng Tánh đức của mười cõi là sẵn có. Vì sẵn có, đoạt sự tu thành không có công đức nên như gương và bóng. Môn không hai chép: “Nhân của Huyễn đã tròn đầy nên quả của gương và bóng tròn đầy. Vì giải như thế nên nói “Huyễn thể, Thể chỉ là giải”. Trong gương ngoài gương”: Giải thích do nhân duyên hình thành tức là nắm tay trong gương chỉ cho không thật. Cũng giải nhân duyên thuộc năng thành tựu tức là nắm tay ở ngoài gương chỉ cho tính không thật.

Hai là “Chúng sinh v.v…” trở xuống là đứng ở pháp quán, lại có:

  • Nói về Sinh và Pháp đều không, có hai:

Một là nói về quán: Nào là Giả, nào là Thật đều vốn bất sinh. Không thì đều là không.

Hai là “Như đại v.v…” trở xuống là dẫn chứng: Ngã là Giả nhân, Sắc là Thật pháp. Hai tánh đều là không, Nhân và Pháp chẳng khác nhau. Vì thế gọi là “Như”.

Kế là “Đời nay v.v…” trở xuống là cả nhân và quả đều vắng lặng, có hai:

Một là Nói về quán: Năm thứ quả đã là cái được sinh do nhân duyên nên có thể hợp với nắm tay ở trong gương chỉ cho tính không thật. Hai thứ nhân đã là nhân duyên thuộc chủ thể sinh, có thể hợp với nắm tay ở ngoài gương chỉ cho tính không thật.

Hai là “Văn ở dưới v.v…” trở xuống là dẫn chứng: Đương thể của Giả và Thật tức là Không, Giả và Trung gọi là bản tánh vắng lặng. Từ Vô thỉ gắng gượng chấp chặt gọi là giả thật sinh ra, gọi là do vô minh nên có. Đã biết nhân diệt thì lẽ nào quả lại không diệt.

Tiếp theo là “Tuy bất v.v…” trở xuống là chỉ bày về trí của ba đế siêu việt. Ngay nơi Không, Giả và Trung mà quán không. Vì chính là không nên chẳng đạt được Sinh và Pháp của sáu cõi. Vì chính là Giả nên không đạt được Sinh và Pháp của Nhị thừa. Vì chính là trung nên chẳng đạt được Sinh và Pháp của Bồ-tát, Phật. Vì quét sạch hoặc của mười cõi nên cả Cảnh và Trí đều gọi là “chẳng đạt được”. Nhưng có thể xem xét kỹ lưỡng về Sinh và Pháp của mười cõi hai thứ Cảnh, hai thứ trí đều gọi là thông đạt hoàn toàn. Cảnh là Tục siêu việt, vì không có tướng nên không có cái bị nhiễm. Trí là không siêu việt; vì không có duyên nên chẳng có cái để làm cho trong sạch. Vì không nhiễm, không trong sạch là xứng với hợp với tính chất lìa niệm của Bổn nên cả hai bên cùng biến mất, chính thức đi vào Trung đạo tự nhiên cùng soi chiếu.

Kế là kết sự hiển bày ra tròn đầy của ba đế. Ba đức, ba đế khai sáng ngay nơi Niệm. Nêu một là có đủ cả ba. Thể không có thứ lớp, làm sáng tỏ tính chất không trước sau, không giác ngộ mà giác ngộ, gọi là bậc đại giác ngộ.

Kế đến là “Cùng với đó v.v…” trở xuống là tương ứng với thể của kinh: Đức Phật chỉ bày hai thứ không để làm sáng tỏ Thể của Pháp tánh. Nếu không chiếu soi ba đế thì lẽ nào lại xứng với tính chất vô lượng sâu xa của pháp tánh? Vì thế, chúng ta biết sự giải thích của hôm nay tương ưng với Tánh. Tánh này gọi là kho báu Kim cương. Nếu Chiếu soi nghiêng lệch thì đức không có đầy đủ.

Kế là “Đó là v.v…” trở xuống là y theo người để chỉ bày: Vì vậy, chúng ta biết rằng Thể của nay không chỉ là thể không mà phải thể nhập ba đế mới được gọi là Thể riêng.

Kế là “Các Tiểu v.v…” trở xuống là phê bác sự sai lầm về ý của các sư, lại có:

– Chính là bác bỏ sự sai lầm, có hai:

Một là Bác bỏ các sư Tiểu thừa: Hữu môn của Tỳ-đàm nói là giữ Lân hư. Không môn của Thành thật nói là phá lân hư. Dẫu là giữ hay phá cũng đều là chia chẻ để diệt hai thứ hoặc là kiến và ái. Người mở mang truyền bá sai lầm về ý nên mỗi môn đều sinh ra quan niệm cố định. Vì khởi lên Kiến và Tư nên thuộc về Đoạn và Thường giống như người ngoại đạo kia hoàn toàn chẳng phải là tích thật sự.

Hai là Bác bỏ các sư Đại thừa: Các kinh Bát-nhã v.v… nói về tất cả các pháp như huyễn tức là không. Rốt ráo không này, ba đế lanh lợi, các sư không thấu đạt nên giải thích là Đãn không. Vì chẳng phải chính là giả nên không thể du hý thần thông. Vì chẳng phải trung nên không thể giải thích về tri kiến của Phật. Vì chẳng phải là cái biết của Phật nên không đạt được ba trí một tâm. Vì chẳng phải là cái thấy của Phật nên chẳng thể có đủ năm thứ mắt. Tuy y theo giáo Lý của Đại thừa nhưng Lý thì ngang với Tiểu thừa. Ở trong Tiểu thừa mà giốngvới người phá hoại pháp. Tiến tu thiêu tưởng hoại diệt xương người, đã không thực hành quán luyện huân tu thì không cách nào thành tựu được ba minh, sáu thông. “Ba minh”: mắt Trời, Túc mạng, Lậu Tận. Cộng thêm Thiên nhĩ, Tha tâm, Thân như ý thì thành sáu thông. “Nguyện trí đảnh thiền”: Vì thiền siêu việt, vô cùng cao thượng nên gọi là Đảnh. Nguyện muốn biết sự việc ba đời, tùy nguyện cho nên biết, được gọi là Nguyện trí đảnh.

Kế là Dẫn kinh để chỉ bày. Thủ là mở đầu kinh. Tụ là cuối kinh. Pháp thân Như Lai tức là pháp thân về mặt quả, Trí và dứt đều có đủ. Nay, dùng niệm hiện tiền của hai thứ không để tìm cầu. Thể của Niếtbàn vô thượng có đủ ba đức. Đều không hai, không khác với pháp tánh tánh của vô lượng sâu xa. Vì thế, cái được giải thích ở đầu và cuối vô cùng sâu rộng.

Tiếp là “Lẽ nào có thể v.v…” trở xuống là kết luận không dùng: Tà kiến của người đời tức là Chấp đoạn của “Cái không ngu si” và Ngoại đạo chấp đoạn. tích của Tiểu thừa tuy là Chính giáo nhưng vì không có phương tiện Bát-nhã nên rơi vào Đoạn và Thường. Thể pháp của Đại thừa tuy trọn vẹn, đầy đủ nhưng các sư chỉ làm cái Thể của thiên không. Nếu đã đồng với phép quán của Tuệ giải thoát ở Tiểu thừa thì làm sao hiểu được không của chính tức Biên?

Kế là “Thiện nữ v.v…” trở xuống là y theo nghĩa để giải thích văn, gồm có:

  • Nói về tu tập nhân. Hai không quán Gồm có:
  • Y theo khổ và tập để nói về quán không, có hai:
  • Sinh không, có hai:

Một là chia văn.

Hai là giải thích nghĩa, lại có:

  • Đối cáo khuyến phát, có hai:
  • Giải thích về Thiện nữ, có hai:
  • Y theo bốn Tất-đàn để giải thích. Gồm:

Một là Thế giới.

Hai là “Lại nữa, thời v.v…” trở xuống là vì người.

Ba là “Lại nữa, Nam v.v…” trở xuống là Đối trị.

Bốn là “Lại nữa, Phật v.v…” trở xuống là Đệ-nhất-nghĩa.

Kế là “Đó là v.v…” là kết thành nhân duyên. Giải thích về “Nêu quán”.

Kế là “Các pháp v.v…” trở xuống là chỉ cho cảnh ở trên, có hai:

Một là Giải thích các pháp: “Danh mục tuy lược”: Chỉ nói “Các pháp” tức là đã gồm nhiếp tất cả các cảnh nói ở trên.

Hai là Giải thích về “Như thị”, có hai:

Một là nêu ba nghĩa: “Chính thức nói về quán sát chung”: Hai thứ không quán ở dưới đi qua cảnh của Đế và Duyên để làm sáng tỏ riêng về sự tu tập quán thuộc Không, Giả và Trung. Ba thứ quán này đều được gọi là Cảnh của Đế. Nay, một loại “Như thị” là chỉ bày chung về ba thứ quán. “Có ba nghĩa”. Nêu ở ba pháp, tức là tương đương với nghĩa như của ba quán.

Hai là “Như sự v.v…” trở xuống là chỉ ra và giải thích ba nghĩa, có hai:

Một là Chỉ ra và Giải thích: Tức là chỉ Thượng, Hạ ở trong văn để giải thích tướng của ba pháp. Giả tưởng chỉ cho Thượng, hai thứ khác chỉ cho Hạ. Vì cả Thượng và Hạ đều là Cảnh không thể suy nghĩ bàn luận nên đều chỉ ra là pháp như.

Hai là “Lại nữa, sự v.v…” trở xuống là Dung nhiếp, đầu tiên là Tục, là Trung chân thật. Kế là Trung, tức là Tục chân thật. Sau cùng là Chân, chính là Tục và Trung. Vì dùng ba đức siêu việt làm ba đế nên ba loại này chẳng phải một, chẳng phải khác. Vì Như thị nói là thị nên được gọi chính là giải thích về phép quán chung. Lấy “cũng là một, khác” mà làm các pháp. Đã lấy chẳng phải một, chẳng phải khác làm phép quán thuộc năng quán thì vừa là một, vừa là khác mà là Cảnh thuộc sở quán. Cảnh và quán không hai, cuốn lại và duỗi ra không ngăn ngại nhau.

Kế là “Nơi nào v.v…” trở xuống chính là quán, gồm có:

  • Giải thích chung về bốn câu, có ba:
  • Y theo hai câu để nói về quán không, có hai:
  • Giải thích câu đầu tiên, có hai:

Một là đứng ở năm ấm để quán: Nói “chỉ ra” tức là đã dùng “Như thị” để chỉ bày chung về ba phép quán. Nay vì dùng bốn câu để chỉ bày ba phép quán nên đều nói là “chỉ ra”. Nay vì xem xét không có nghĩa của Người nên tương xứng với lý quán.

Hai là “Lại nữa, Quả v.v…” trở xuống là quán nhân quả.

Kế là “Người đã v.v…” trở xuống là điển hình câu tiếp theo.

Kế nữa là “Bản tánh v.v…” trở xuống là y theo câu thứ ba để nói về trung quán: “Chẳng lấy Bản tánh làm chủ thể quán”. Tức là chẳng phải Trung quán. Nghĩa là tất cả các pháp chẳng phải Lý, chẳng phải Sự gọi là bản tánh. Vì, chẳng có riêng nên Pháp Hoa nói rằng: “Từ xưa đến nay, tự thân các pháp thường là tướng vắng lặng”. Bát-nhã tán 50 chép rằng: “Pháp giới bình đẳng chân thật. Phật không độ chúng sinh”. Vì vốn chẳng có Vô minh thì lẽ nào lại có chúng sinh? Vốn chẳng có Không tuệ thì lẽ nào lại có Phật? Đã không có chúng sinh và Phật thì làm gì có cái gọi là Độ. Chẳng phải pháp, chẳng phải lập, Song Phi cũng mất gọi là Vốn vắng lặng.

Tiếp là “Vô minh v.v…” trở xuống là y theo câu thứ tư để nói về Giả quán, gồm có:

  • Do mê mà lập, có hai:
  • Chính là giải thích, có hai:

Một là y theo trực tiếp của Sự và Lý để giải thích: Tuy các pháp tức là bản tánh vắng lặng nhưng do có tánh nhiễm nên khởi lên ô nhiễm thuộc về sự. Do phá nhiễm thuộc Sự nên lập ra không Tuệ. Vì muốn làm tiêu mất cả nhiễm và Tịnh nên lập ra tức Trung. Thuốc và bệnh này đều do Vô minh.

Hai là “dùng hữu v.v…” trở xuống là y theo mê ngộ để giải thích: Sinh và Pháp là sự thành tựu của quả. Vì hoặc nghiệp nên Đại sư nói rằng “Vì có Vô minh v.v…”. “Đã có v.v…” trở xuống là muốn không hóa cả Sinh và Pháp thì phải nói về ba phép quán. “Giúp cho phép quán thuộc về Sự”: Sự thuộc giúp đạo là phép quán thuộc về Tưởng. Tức là Bất tịnh, Lưu dật v.v… Cái giúp cho chính đạo đó tức là phép quán khế Lý của hai thứ không. Tu tập cả hai thứ Chính và Trợ là để làm sáng tỏ một tánh. Vì thế, Đại sư lập ra phép quán chẳng phải Sự, chẳng phải Lý. “Sự đó v.v…” trở xuống là dùng ngày nay để biết về ba mà nghiệm ra rằng Vô minh là sự không biết, thuộc về Sự. “Cả ba đều là Sự”: Tức là ở sự tu tập. Môn không hai chép: “Tuy tu đủ cả chín”.

Kế là “Tịnh danh v.v…” trở xuống là dẫn chứng: Vì bệnh thật sự của chúng sinh mà sinh ra bệnh quyền biến của Bồ-tát. “Thị hiện ý của bệnh”: Tức là vì muốn nói về thuốc của Pháp.

Kế nữa là “Nếu biết v.v…” trở xuống là do ngộ mà đều tiêu mất: Nếu biết không bị bệnh thì dùng ba món thuốc để làm gì. Đó là ý tiêu mất của phẩm Không.

Lại nữa, “Nhưng Ngã v.v…” trở xuống là giải thích riêng về câu thứ nhất, lại có:

– Nói về sự chấp thuộc Người là cái được phá, có hai:

Một là Chỉ bày chung về tướng Ngã: (Ngã) là pháp đầu tiên trong năm trụ, là chủ của ba cõi. Nếu người phá được Ngã thì dù có khởi lên kiết sử đi nữa cũng không đọa vào bốn đường. Vì vậy, Đại sư nói “Sâu nặng”. Tiểu thừa, Đại thừa đều quý trọng Vô ngã. Nếu không dứt trừ Ngã thì Thánh hiền của bốn giáo đều không có đường nhập vào. Vì vậy, Đại sư nói: “Chướng lớn” “Phàm phu v.v…” trở xuống là nói về chỗ sinh khởi Ngã: Đầu tiên là cùng khắp sáu tác, kế là cùng khắp sáu độ.

Hai là “Nếu nhóm họp v.v…” trở xuống là chỉ bày riêng về lợi độn, có hai:

Một là Độn: “Bám vào di thể của kẻ khác để khởi”: Đó là hoặc thuộc Câu sinh. Cùng sinh ra với thân gọi là hoặc Câu sinh. Như các loài bò bay máy cựa thật sự không tìm tòi về Lý nhưng vẫn giương càng, vểnh râu, trợn mắt tự cho là vĩ đại. Thấp bé, phàm hèn vì sao lại thường chấp cái thấy. Đi, đứng, ngồi, nằm đều khởi tâm Ngã. Vì lúc nào cũng tự khởi nên gọi là Sơ độn.

Hai là “Nếu chấp v.v…” trở xuống là lợi, có hai:

Một là nói về Lợi thuộc một: “Khởi chấp thuộc pháp trần”: Tức là hoặc thuộc phân biệt. Vì đối với ý căn nên gọi là Pháp trần. Vì phân biệt nên sinh ra loại hoặc thuộc mê lý. Đây gọi là Lợi sử. Sơ quả của Tạng, Kiến địa của Thông, Sơ trụ của Biệt và Sơ tín của Viên, đều dứt trừ loại hoặc này.

Hai là nói về tướng trạng, gồm:

  • Nói sơ lược về mười Sử, có hai:
  • Chính là giải thích về tướng của Sử, có hai:

Một là nói mười là Cành, Lá: “Chấp một pháp”: bất luận là Tà, Chánh, Đại, Tiểu, Thiên, Viên, nếu chỉ chấp một câu tức là sinh ra mười sử. Năm thứ Sử trước là Lợi, năm thứ Sử sau là độn, tức là độn ở trong lợi.

Hai là “mười sử v.v…” trở xuống là nói Ngã là căn bản.

Kế là “Dẫu làm cho v.v…” trở xuống là chỉ bày cả về nhân, có hai:

Một là Nói về có đủ loại tuệ của tà thiền: Trường Trảo tức là Câuhy-la, là cậu ngài Thân tử. Vì siêng nang học hỏi đến nỗi không rảnh để cắt móng tay nên người đương thời gọi Phạm chí Trường Trảo (Móng tay dài). Ông ấy là người có căn tánh lanh lợi và là bậc cao hiển nhất trong số những người ngoại đạo nên kinh nêu ra. “Diệp phúc” (Bụng có che lá sắt): luận Kim Thất Thập nói: “Trong số ngoại đạo của Ưulâu Tăng khư có một người đứng đầu đến nước kim địa. Đầu ông ta đội thau lửa, bụng quấn lá sắt để luận nghị với Tăng”. “Hỏi vặn về đá”: Đại luận quyển hai mươi sáu chép: “Tát-già Ni-kiền-tử vặn hỏi người” v.v… cho đến “Cây, gỗ, ngói, đá chảy mồ hôi v.v…” “Đến Phi tưởng”: Như Uất-đầu-lam-phất vì đã đến Hữu đảnh nên gọi là “Sắp ra”. Vì bị

đọa vào loài chồn bay nên gọi là “Lại quay trở lại”.

Hai là “Như thế v.v…” trở xuống là nói về vấn đề chẳng thể phá Ngã: Còn chẳng phải là nội phạm của Tiểu thừa thì lẽ nào lại ngang với sự phá hủy Ngã của hàng Sơ quả. Hai Lại nói đầy đủ về Ngã kiến: Đó là, tức Sắc là Ngã, lìa sắc có Ngã, Ngã lớn sắc nhỏ, Sắc ở trong Ngã. Sắc lớn Ngã nhỏ, Ngã ở trong Sắc; Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng giống như vậy. Mỗi loại ấm trong năm ấm đều có bốn thứ Ngã kiến nên có hai mươi Ngã kiến.

Kế là “Nếu một v.v…” trở xuống là nói về không tuệ thuộc năng phá, có hai:

  • Nói chung về Không tuệ, có hai:
  • Đứng ở lập trường cảnh và trí để nói về Sinh không, có hai:
  • Chỉ bày riêng, có hai:

Một là tìm ở Cảnh của ấm. Lại đứng ở bốn câu gồm: tức là ấm, lìa ấm, Trung ấm có Ngã, trong Ngã có ấm để tìm kiếm: “Ngã đó không đúng”: Tức là Phép quán thuộc năng phá. Y theo sự phối hợp của nghĩa thì phải nói là cùng khắp hai mươi loại. Vì năng thể quán là tâm ở bên trong. Vì thế, ấm thuộc sở quán gọi là Cảnh ở bên ngoài chứ chẳng phải là thân khác.

Hai là “Nhưng chúng v.v…” là nói về sự kiểm chứng của trí quán sát: năm ấm thuộc sở quán sát đã lập ở năm thì trí thuộc chủ thể quán tự nhiên mà thành năm. Mỗi ấm trong năm ấm đều có bốn thứ trí thì lẽ tất nhiên là sẽ chấp đắm Ngã. Vì thế, hành giả cũng phải phá cả hai mươi thứ thân kiến.

Kế là “Trong và Ngoài v.v…” trở xuống là tổng kết: Lấy Số để làm sáng tỏ quán khiến cho Trí không mất đi.

Kế tiếp là “Tỳ-đàm v.v…” trở xuống là y theo Đại, Tiểu để quán về người và Pháp, có ba:

Một là Tỳ-đàm: “Ngã kiến là nhân của Cộng v.v…” Tức là Cộng nghiệp, Biệt nghiệp. Hợp lại có bốn câu, nói sơ lược thì “Cộng v.v…” là Hữu môn, nói về sự tìm cầu Ngã ở trong ấm. Ngã thì không, ấm lại có; Ngã và Pháp chia ra hai. Vì vậy, ngã kiến suy nghĩ trước sau mà khởi. Ngã tức là chúng sinh. Tư là Thật Pháp. Vì thế, ngộ được Sinh không nhưng chưa được Pháp không.

Hai là Thành thật: Không môn này nói về vấn đề nhóm họp ấm mà thành Ngã. Vì thế, Ngã kiến suy nghĩ khởi lên Thời của không khác. Do đó mà Ngộ cả Sinh không Pháp không.

Ba là Đại thừa: “Ngã kiến có đủ các pháp”: Tục tức là Trong chân thì pháp nào chẳng có. Tánh của Ngã như Tánh của Sắc, Sinh không tức là Pháp không.

Kế là “Phá hai v.v…” trở xuống là nói riêng về ba quán: Đã nói “Ngã kiến có đủ các pháp” hợp với ba đế mà phá Ngã kiến. Cho nên Đại sư dùng ba câu ở trên để phá, có:

– Chính là phá Nhân ngã, có ba:

Một là y theo Lý quán để kiểm chứng.

Hai là “Nếu làm v.v…” trở xuống là y theo chẳng phải Sự, chẳng phải Lý để kiểm chứng: Ngã kiến tức là Trung thì lẽ nào lại lưu giữ bốn mươi chấp thuộc Cảnh và Trí.

Ba là “Nếu làm v.v…” trở xuống là y theo Sự quán để kiểm chứng: Vì Văn kinh đã nói là “Vô minh”, cho nên kẻ có tâm ái chấp mạnh thì phải thực hành quán giúp đạo Bất tịnh. Quán tà kiến, tâm ác là ấm bẩn ác. Nếu là người có tâm lành, thẳng thắn thì hổ thẹn với Nghĩa thiện của bậc Thánh nhập vào phương tiện vị, chưa hiểu rõ Chân lý là làm ẩn tàng, chìm mất ấm. Thiện ác tuy khác nhau nhưng điều chứa phá được kiến thì lẽ nào lại có cái tâm của kiến không y theo Sắc? Vì sắc sẽ bại hoại nên Đại sư nói là “Bất tịnh”. Cảnh Bất tịnh thì nơi nào mà gọi là có Người. Nghĩa vị phương tiện của nay tương xứng với năm phẩm.

Kế là “Nếu đạt được v.v…” trở xuống là lại tìm về Ngã, Pháp, có hai:

Một là nói về được ngộ, tìm kiếm Pháp để phá Tư: Tuy quán tu tập viên mãn nhưng hoặc thô thiển thì lại có các hoặc không trừ. Nếu dùng ba quán để xem xét quả thì khó đạt được. Người dứt được kiến hoặc thì đi vào Sơ tín. Kẻ lại ở nơi ba đế mà tu tập hai mươi quán thì phá được Pháp Chấp tức là tư hoặc. Từ vị Nhị tín mà tiến đến Lục tín.

Hai là “Nếu chưa v.v…” trở xuống là nói về chưa ngộ thì tìm Pháp để phá kiến, như sau:

– Chuyển sang Chấp Thật pháp, có hai:

Một chính là nói về Vượt mà đi vào: Phép quán siêu việt phá trừ kiến nhưng chưa trừ kiến hoặc. Tuy chưa trừ được kiến nhưng sự quán sát đã có sức mạnh nên điều phục được ái hoặc đối với giả danh như Ngã chấp vượt mà nhập vào Thật pháp.

Hai là Dẫn kinh và sự việc: “Trùng khuất bộ”: Phải do chân trước dời được chân sau mới giả gọi là phục. Hoặc lại khởi kiến đối với Thật pháp như con trùng kia.

Kế là “Phải thật v.v…” trở xuống là khuyên lại tu về quán: nên thực hành hai mươi quán ngay nơi năm ấm để làm sáng tỏ bản tánh của ngã, làm cho không tuệ sáng ra. Tùy độ đi vào xứ để quán theo gọi là “Thực hành khắp nơi”.

Kế nữa là nói về Pháp không, gồm có:

  • Y theo văn kinh để giải thích về sự thành tựu ba quán, có hai:
  • Chính là giải thích, có hai:

Một là Lập ý chia văn: Ngã kiến chính là có đủ các pháp thì lẽ nào quán về Sinh không mà lại chẳng hóa thật pháp. Vì hạng độn căn chưa hiểu nên nói nay nói lại.

Hai là “Như thị v.v…” trở xuống là tùy theo văn để giải thích nghĩa, lại có:

Trước là nói về ngay nơi pháp là không, có hai:

Một là khi thì về Cảnh và Quán.

Hai là “nếu bốn v.v…” trở xuống là nói về tu quán, gồm:

  • Đứng ở pháp để nói về không, có hai:

Một chính là nói về Không: Đuổi theo một để tìm cầu sự kiểm chứng. “Không nên động v.v…”. Đất động thì thành tánh của gió. Hơi nóng thì thành tánh của lửa. Sử ký nói: “Dương tiềm phục nên không thể phát ra. Âm ép ngặt nên không thể bốc lên, do đó mà có động đất”. Chú: “Chứng tức là bay lên”. Mùa Đông tức là hơi nóng ở trong đất. Vì thế, Lễ Ký nói: “Người xưa vào mùa Hè thì làm tổ, mùa Đông thì làm hang”. Núi vững chắc thì thành tánh của đất, vì sóng động nên thành tánh của gió. Trinh tức là bền chắc. Tro lửa bền chắc thì thành tánh của đất. Chạm vách rồi ngừng thì thành tánh của nước.

Hai là Dẫn kinh để chứng minh: “Tánh của nước không dừng trụ”: Tức là không giữ ẩm thấp. “Lửa từ duyên mà sinh”: Đã nương duyên mà sinh thì chẳng thể giữ tánh nóng của nó. “Tánh của gió là không ngăn ngại”. Vì không ngăn ngại nên không thể giữ sự chuyển động của nó. “Mỗi một v.v…” trở xuống là vì bốn đại đều không có bản tánh nên đều đi vào bờ mé của như thật. Hai giáo trước lấy không làm như thật. Hai giáo sau lấy Trung làm Như thật. Nay lấy Thật tế của Trung thuộc Viên làm chính.

Kế là “Kiểm chứng phần trên v.v…” trở xuống là đối với Sinh để giải thích về quán.

Hai là “Vốn tự v.v…” trở xuống là nói về ngay nơi Pháp là Trung, như sau:

– Pháp của hai câu vốn tựa Trung, có hai:

Một là giải thích về tánh không sinh diệt: Vì trung đầu tiên chưa chia ra ba làm sáng tỏ đối với Tánh là Trung đạo. “Vốn không có bốn

đại”: Tức là chẳng phải nói rằng chỉ có một mà hoàn toàn không có bốn đại. Bởi vì cả Đại và ấm đều là Như Lai tạng. Vì tánh thể thường trụ, vốn không có tướng sinh nên gọi là “vốn không”. Đã chẳng có pháp Sinh thì sẽ hội hợp với cái gì để gọi là hòa hợp và không hòa hợp. Vì thế nên không thể tan rã, hoại diệt. Do vậy mà chẳng nói về không. Nghĩa của sự bàn luận về Trung như vậy được sáng tỏ.

Hai là “Vốn tự v.v…” trở xuống là nói rằng chẳng phải do quán mà khiến được như vậy: Tướng của thế gian xưa nay vốn thường trụ thì lẽ nào lại dùng trí của quán để chấm dứt sinh diệt, sau đó mới có bất sinh diệt? Đó được gọi là ngay nơi sự là Lý. Cũng gọi là ngay nơi Biên mà là Trung.

Kế là Ba câu làm sáng tỏ do quán để giải thích, có hai:

Một chính là chỉ bày: Tánh tuy vốn vậy nhưng muốn dứt mê thì phải nhờ quán. Sở dĩ nói tánh của Nhân duyên là bởi Dục là nhân, thầy và giáo là duyên. Nhân duyên thành quán đạt được ba đế thuộc bản tánh. Các Đại tức là Không, Giả và Trung. Vì, Từ xưa đã bất sinh.

Hai là Dẫn chứng: Vô minh chuyển liền biến thành minh, gọi là đèn Bồ-đề. Nếu không nhờ năng lực của nhân duyên cảm ứng thì lẽ nào lại dứt trừ Vô minh? Vì thế, chúng ta biết rằng thành Phật hoàn toàn do mượn nhân duyên.

Kế là “Hòa hợp v.v…” trở xuống là nói về ngay nơi pháp là giả, có hai:

Một là Thành sự trái với lý.

Hai là “Pháp đó v.v…” trở xuống là thành sự tu tập thuộc về chiếu soi tánh: “Vì pháp đó có”: Tức là nhân quả của mê mờ đối với hoặc, “Thể có v.v…” Là ba đế. “Tức là Không v.v…” trở xuống là ba phép quán. Cảnh và Quán đều do sự hòa hợp của nhân quả thuộc sự mê mờ đối với hoặc mà có.

Kế là “Ba quán v.v…” trở xuống là kết về quán: Ba đoạn văn kinh hợp với ba quán. Biết Tông chỉ của ngày nay khế hội với tâm của Phật thì lẽ nào chúng ta lại không tin?

Tiếp theo là “Lại thực hành v.v…” là vì hạng độn căn mà lại phá về pháp chấp: Trước đây, lúc giải thích về Sinh không đã nói về vượt mà nhập vào Thật pháp. Có thể hạng lợi căn hiểu nhưng sợ rằng kẻ độn căn vẫn còn mê mờ, cho nên Đại sư lại lấy Vô duyên từ để nói lại về tướng của chúng, như sau:

  • Nói về Pháp chấp, có hai:
  • Dựa vào Báo để khởi tâm ái kiến, gồm có:

Một là Y theo Đại và ấm để khởi lên bốn chấp: Tất cả ngoại đạo và hành giả của bốn chấp này.

Hai là “Bốn chấp v.v…” trở xuống là do bốn Chấp mà sinh ra thì cả bốn thứ đều thuộc về Hữu. Kiến đã y theo Sắc thì sự hòa hợp tương đương với chính là lìa, Sắc ngã, Ngã sắc. Kiến y theo bốn ấm tức lìa cũng như vậy.

Ba là “Ngã sinh v.v…” trở xuống là y theo Ngã kiến mà sinh ra mười sử. Như trong “Sinh không” nói bốn phương chiêu cảm trở xuống là nhân mười sử mà cảm vời sinh tử. Dẫu y theo Đại và ấm thuộc tánh cụ của Viên giáo để khai mở bốn môn đi nữa, nhưng nếu ai chấp đắm một cửa mà sinh Ngã kiến, khởi hoặc tạo nghiệp chiêu cảm khổ ở vị lai thì chẳng khác gì sinh tử của ngoại đạo kia. Đại sư chính vì hành giả đương thời mà trình bày về bốn chấp.

Kế là “hoặc, đó v.v…” trở xuống là chỉ cho tâm của kiến gọi là ấm ô uế. Năm ấm này đều trở thành kiến chấp. Vì thế, tất cả đều ô uế.

Nhất định quy về Hữu thì lẽ nào lại là Pháp không?

Kế là “Tâm không v.v…” trở xuống là nói về không quán, có ba:

Một là Nói về không y cứ là quên bốn chấp, tức là tâm không y theo ấm. Bốn giáo cũng như vậy. Nay nói về Tông chỉ của Viên để luận về không y cứ. Tức là ấm bẩn dơ là trí thuộc chủ thể quán. Như thế thì có ấm nào để y cứ, có chấp nào để phá và ai là chủ thể quán, đồng thời cũng không có điều được nguyện. Vấn đề tâm không y theo ấm nay lược nói.

Hai là “vắng lặng v.v…” trở xuống là nói rằng khế hợp với Lý thì có các đức: Ba thứ Bát-nhã cùng với ba thân của Mâu-ni ở Kim quang minh là chẳng hai, chẳng khác. Nếu chẳng dùng ba loại Bát-nhã ấy để làm ba loại quán thì không cách gì thấy được.

Ba là “Hành giả v.v…” trở xuống là nói loại quán ấy nhanh chóng phục hồi căn bản. Quán Sinh và Pháp đều dùng ba quán một niệm để quán là cũng như ôm ngọc, khôi phục lại lý của Pháp tánh thuộc Kim quang minh giống như hướng về đất nước cũ. Trong hai thứ ba đời có thể bước lên Trụ của Viên, có thể dùng để bảo nhậm.

Kế là nói về Nhị không quán là sinh và Pháp thuộc mười hai nhân duyên, lại có:

  • Chia văn lập ý, có hai:

Một là chia văn: mười hai chi này chia ra Sinh và Pháp là vì thuận theo văn kinh ở đây. Chi đầu tiên đã gọi là Vô minh thì vì danh tức là giả danh nên thuộc cảnh của Sinh. Vô minh tức là Ngã chấp. luận Khởi Tín nói: “Chấp đắm tướng danh tự”. Từ đây trở xuống là chỉ trực tiếp cho Sắc và Tâm. Vì từ Hành đến già và chết đều không ra khỏi Sắc và Tâm của năm ấm. Vì tuy nghĩa đã rõ nhưng vẫn sợ người học không tin nên Đại sư dẫn Thích luận theo từng đoạn để chứng thành ai là người già, chết. Nếu hỏi rằng “Ai? “thì đáp là “Tôi”. Vì thế, chúng ta biết rằng cả Ai và “Tôi” đều là giả danh. Kinh nói “Gọi là v.v…” thầm hợp với luận. Luận đã gọi là Sinh không thì lẽ nào kinh lại không như vậy? Như thế, cái gọi là già chết đó tức là chỉ ngay cho Sắc và tâm, là Pháp của già và chết. Kinh chẳng nói là Danh cũng hợp với luận.

Hai là “Nhưng mười v.v…” trở xuống là lập ý, lại có:

  • Phân biệt chung về tướng mạo nhân duyên, có hai:

Một là Nêu lên.

Hai là “ba đời v.v…” trở xuống là giải thích, có ba:

Một là ba đời. “Quá khứ phá thần thường”: Vì quá khứ đã diệt nên không thường tru.Ở “Hiện tại phá thần ngã” Vì năm thứ quả đều do sự hòa hợp của năm ấm nên không có ngã. “Vị lai phá thần đoạn”. Vì vị lai có quả nên chẳng phải đoạn diệt. “Đều nói là Thần”: Bên ngoài chấp thân, “thần có Đoạn, Thường v.v…”. Vì ý nghĩa của ba đời này thế gian đều truyền bá. Đại sư nói: “Người thường sử dụng”.

Hai là Quả báo: Vì mười nhân duyên trước thuộc về hiện tại, hai nhân duyên sau thuộc vị lai. Hai đời hợp lại thành mười hai. Nhưng, văn nói: “Khởi đầu và cuối cùng của một kỳ hạn”. Lại y theo Vô minh, Hành tại thời điểm khởi đầu của một kỳ hạn, vì theo nhau nên nói là “Khởi đầu và cuối cùng chứ không phải chỉ nói “Ở trong một đời”. Nhân duyên thuộc quả báo này xuất xứ từ kinh Đại tập. Bởi vì, ở thân Trung ấm, đối với cha mẹ mà sinh tâm tham ái là Vô minh. Hơi thở ra vào là Hành. Từ chi Thức trở đi nghĩa giống với ba đời.

Ba là Một niệm, có:

Một là Giáo lý được y cứ.

Hai là “Như nhãn v.v…” là nói về Hành tướng, có hai:

Một chính là giải thích về tướng, có hai:

Một là Đối với Trần để giải thích trực tiếp: “Sáu Xứ sinh tham”: Vì Nhãn thức ô nhiễm nên âm thầm lôi kéo các thức đều có tâm tham. Do đó, Phổ Hiền quán nói: “Vì tham mùi thơm nên các thức phân biệt, chỗ nào cũng đều nhiễm trước”. “Một ngày v.v…” Một căn đối trước trần liền khởi lên mười hai nhân duyên. Sáu căn nối nhau đối trước trần suốt cả ngày đêm thì có niệm nào mà không khởi lên mười hai nhân duyên. Mỗi nhân duyên thành nhân thì tất cả nhân duyên đều vời lấy

51 quả. Xoay lăn như bánh xe, trói buộc như lưới.

Hai là “Nay lại v.v…” trở xuống là lại tìm về sự sinh khởi của nhân: “Phép quán của nhân duyên có cả cả ba đời”: Ý suy tìm Vô minh của quá khứ là nhân sinh ra quả hiện tại. Trên quả hiện tại lại khởi nhân của hoặc. Vì Đại sư muốn Vô minh không khởi ngay bây giờ nên tìm hai nơi khởi lên tướng Vô minh là quá khứ và hiện tại. Văn gồm có hai:

Một là nghịch suy nhân của quá khứ: “Từ Danh và Sắc mà khởi”: Tức là vì đầu tiên của năm loại quả, vì năm ấm đã có đủ. Vì Chi Thức chưa có đủ năm ấm nên không nói. Cùng cực của nhân quá khứ là ở Vô minh. Nay quán Vô minh là ý muốn làm cho quán trở thành loại tri giác ngộ hoàn toàn. Nhưng, nói rằng Vô minh chắc chắn là có, v.v… thì trí thuộc chủ thể phá lại chuyển thành Vô minh, thuốc trở thành bệnh. Vì vậy, Đại sư nói “Chấp đắm bốn câu đều là Vô minh. Lẽ nào Vô minh làm duyên mà lại không sinh ra Hành, Thức ư? “Như nói ở trước”: sáu nhập đến già, chết đều đã được nói như văn ở trước chỉ bày trực tiếp.

Hai là “Lại nữa, quán v.v…” trở xuống là thuận quy về quả hiện tại: “Đối với thọ v.v… đó”: Vì Chi Thọ là chi cuối cùng của năm quả. Vì vậy mà hành giả quán đến đó. Nếu sinh tâm chấp đắm thì thành ra một niệm mười hai nhân duyên. “Hoặc có Thọ v.v…”: Tức là tâm Vô minh không hiểu biết. Các chi Hành, Thức v.v… một niệm thành tựu.

Kế là “Như thế v.v…” trở xuống là than rằng khó biết: Tuy suy tìm, xem xét Nghịch thuận là ở một niệm nhưng mười hai chi của Nghịch thuận tự nhiên có đủ. Vì thế mà cành ngọn hiện hữu khắp các hữu giống như đại thọ còn không thể biết huống chi là có thể chặt? Nói “Đại thọ” là: Bà-sa nói: “Hai chi của quá khứ là rễ, năm chi của hiện tại là Chất, ba chi ở hiện tại là Hoa, hai chi ở vị lai là Quả”. “Bố quán”: Văn tuyển chú: “Bố quán” là dáng vẻ dài và nhiều. “Từ” là nói từ nước mà cùng thông suốt. Hán Thư nói: “Bố quán giống như bố lộ, tức là chỗ thiếu sót thì đều bày ra”.

Tiếp là “Kinh nay v.v…” trở xuống là chỉ bày sơ lược về Cảnh Quán của kinh nay, có hai:

Một là Nói về ý của kinh: “Chỉ nêu Sinh và Pháp làm cảnh”: Tức là dùng Vô minh của giả danh làm cảnh của Sinh không; dùng Hành, Thức, Sắc, Tâm, v.v… là cảnh của pháp không. Hai cảnh của Nhân duyên này có cả cả bốn thứ giáo quán. Ý của nay là ở Viên.

Hai là “Nhân dùng v.v…” Là chỉ bày về Cảnh và Quán, có:

– Chỉ bày về Cảnh, có hai:

Một là Lập dụ.

Hai là Pháp hợp: “Dính mắc vào Giả danh”: Không đạt được ba đế mà khởi lên cái chấp luống dối về Ngã; Giống như xoay đầu cây nhang thành vòng tròn. Vì thế, Đại sư nói là “Không dừng nghỉ”. Vòng tròn do lửa mà có. Và, giả danh do thật pháp mà có. Vì mê tối nên không thấu đạt rằng Sắc tâm tức là Không, Giả và Trung gọi là mê mờ đối với ấm và Nhập. Nói “Lửa củi” tức là nói về tàn lửa.

Kế là “Nếu biết v.v…” trở xuống là chỉ bày về quán, có hai:

Một là Lập dụ.

Hai là “Vòng lửa v.v…” trở xuống là hợp Pháp: Quán sinh, quán pháp đều là Không, Giả và Trung, tức là Nhị không quán của vòng lửa, cả hai đều không.

Kế tiếp là “Sinh không v.v…” trở xuống là y theo nghĩa để giải thích văn, như sau:

  • Nêu ra tướng của cảnh, có hai:
  • Cảnh của sinh không, có hai:

Một là chia văn.

Hai là giải thích về nghĩa, lại có:

  • Dùng ba phép quán của Sinh không ở trước để giải thích nghĩa. Vì thế, Sớ không có lời văn.

Kế là “Hành thức v.v…” trở xuống là cảnh của Pháp không: “Theo lệ chung thì lẽ ra có ba loại”. Hành chính là Không, Giả và Trung cho đến già chết chính là Không, Giả và Trung. Vì lời nói của Phật khéo sơ lược, so với trước thì có thể nhận biết.

Kế nữa là “Các thứ khổ v.v…” trở xuống là đưa ra tướng của quán, có:

  • Y theo văn kinh để chỉ bày về quán, có hai:
  • Chính là chỉ bày, có hai:

Một là Chỉ văn.

Hai là “Các thứ khổ v.v…” trở xuống là giải thích về nghĩa, có ba:

Một là Nói về Trung quán: “Hành nghiệp của các thứ khổ” là chỉ cho Sinh và Pháp ở trên. Vì thể hiện tiền siêu việt nên không thể nghĩa bàn. Cả Sinh và Pháp đều chẳng phải là Không hay Hữu. Thấu đạt được như vậy gọi là Trung quán. Loại quán này không thấy sự trôi lăn của sinh tử là có bờ mé. Có lúc dừng nghỉ. Vì sinh tử chính là pháp giới nên không có bờ mé. Vì sinh tử đều là thường trụ nên không dừng nghỉ.

Hai là “Vốn không v.v…” trở xuống là nói về quán Không.

Ba là “Không khéo v.v…” trở xuống là nói về quán Giả: Sự không khéo suy nghĩ ở trước tức là hai chi của quá khứ. Sự không khéo suy nghĩ ở đây tức là ba chi của hiện tại. Kinh, “tâm hành”: Tức là suy nghĩ ở trên. Nay là nêu bệnh thì tất nhiên là phải đối với thuốc. Nhờ vậy mà quán Giả được sáng tỏ.

Hai là “Tuy gọi v.v…” trở xuống là kết khuyến, danh thì nghiêng lệch nhưng nghĩa thì trọn vẹn: Danh thì chỉ nói là không, nhưng nghĩa lại là chính là Không, Giả và Trung, vì nghĩa đã nhất định tương xứng nên Đại sư nói là khế hợp một cách tự nhiên với kinh. Danh và nghĩa của sinh không, Pháp không đều như vậy. Vì thế, Đại sư khuyên người tu nên chấm dứt nghi tình. Nhưng phải biết rằng toàn bộ kho bí mật là Sinh, là Pháp. Vì thế, Sinh và Pháp đều là ba đức. Do vậy, Hành giả quán chủ thể và đối tượng của Sinh và Pháp đều là ba đức. Tên gọi của cảnh và quán tuy khác nhau nhưng thể của chúng là một. Bởi thế, hai của chủ thể và đối tượng tức là chẳng phải hai. Đó là quán Nhị không của kinh này.

Kế là vì người căn tánh độn mà nói lại, có hai:

Một là Đặc biệt chỉ bày về quán không, có hai: Riêng chỉ cho Giả và Trung. Bởi vì, người Sơ tâm đối với Giả thì gọi là Thật pháp. Khởi kiến và ái càng mạnh, việc chướng đạo lại nặng. Do vậy, Đại sư đặc biệt trình bày về quán không mà không nói về Giả và Trung. Đây giống với ba con đường của quán và giải trong phần giải thích tựa đề. Chánh quán của chánh quán thì chỉ nêu danh mà thôi. Nhưng, đối với ba độc, sáu tác của Giả và Thật thì lần lượt phá hủy bốn tánh, từng bước hiển bày hai không. Bởi vì người mới thực hành tinh tấn càng dày nên Đại sư chỉ bày về Chân không để làm yếu thuật. Văn đầu tiên gồm có:

  • Chỉ bày, có hai:
  • Suy tìm về Nhân và Pháp, có hai:

Một là Suy tìm về Nhân. “Nếu Giả danh v.v…” trở xuống là đối với Thật pháp mà xô dẹp không có bốn tánh. “Nay v.v…” trở xuống là bốn tánh bị xô dẹp, sự chấp đắm có mỏng đi đôi chút. Chỉ gọi là Giả danh nhưng lại phải đối với bốn tánh mà xem xét sự khó được của bây giờ. Nhân thuộc đối tượng được chiêu cảm đã không có tướng sinh thì bốn tánh của danh tự thuộc chủ thể chiêu cảm cũng biến mất. Ý nghĩa của sự chỉ bày sơ lược về Nhân chẳng phải như vậy.

Hai là Quán pháp, có hai:

Một là Suy tìm rộng: dùng danh sắc hiện tại so sánh với nghiệp của nhân thuộc các Hữu đã được tạo ra từ vô thỉ là không có hạn lượng. Vì không có sự gội nhuần của hoặc nên không thọ thân đời sau. Do đó, Đại sư nói là “bất sinh”. Mỗi việc đều có v.v… “Như hòa hợp hai cái không thì lẽ nào lại sinh ra một Sắc”?

Hai là “Đã không v.v…” trở xuống là suy tìm theo chiều dọc: Cái chấp do quan niệm về pháp giống như sự xả bỏ

Một là nắm lấy một của con trùng gập chân. Vì sinh bị phá nên liền chấp vô sinh. Như vậy cũng là tánh chấp. Chấp Song diệc và Song phi cũng đều y theo Sinh. (Sinh) đã không có Lý lại chấp là Diệt, cũng thành bốn Chấp. Tám câu trên đều nói rằng “Bất đắc” tức là quán Không. “vô diệt vô sinh”: Kiểm chứng về Diệt và Sinh đều không có mới được gọi là Vô sinh của Thật pháp.

Hai là “Vì vô sinh v.v…” trở xuống là nói về sự thành tựu của quán, có hai:

Một là Nói về sự vắng bặt của hai chấp, chấp ấm thành người. Vì thật sự vô sinh nên giả danh thì hoại. Đối với Giả Vô ngã, các kiến đều mất. Thật đã không có nhân thì làm sao không hoại được?

Hai là “Đã không v.v…” trở xuống là nêu hai ví dụ để chỉ bày: “Không nhen lửa dụ cho không chấp pháp không có khói dụ cho Thật pháp bất sinh. Múa trong mặt trời dụ cho không Tâm nắm lấy Pháp. Đó cũng không bánh xe dụ cho bất sinh ra ngã kiến.

Trước là “Là lược v.v…” trở xuống là kết.

Kế là “Trung quán v.v…” trở xuống là chỉ riêng về Trung và Giả. Nói “thọ ký v.v…”: nói đủ thì như trong “Chỉ quán Giả Trung phá pháp”, Hành giả nên biết. Nay nói về ba quán tu đầy đủ về hai không. Chỉ vì kiến hoặc của kẻ độn căn quá nặng nên Đại sư chỉ riêng về không để đối trị với loại hoặc này. Nếu loại hoặc này mất thì hai đế sẽ tự hiển bày. Vì thế, đối với Trung và Giả thì chỉ chỉ bày riêng mà thôi.

Kế nữa là “Ngã đoạn v.v…” trở xuống là giải thích về dụng của hai thứ không về mặt quả, có hai:

Một là chia văn.

Hai là “Tất cả “trở xuống là giải thích về nghĩa, như sau:

  • Nói về sự thành tựu tự hành, có hai:
  • Nói về sự tròn đầy của bốn đức, có hai:

Một là giải thích về Nhân và Pháp.

Hai là Sự thành tựu về quán, có hai:

Trước là y theo Nhân và Pháp để giải thích văn, có hai:

Một là Nói về sự thành tựu của phép quán không. “Giải thích về mười triền”: Sân, Phú, Thụy, Miên, Hý, Trạo, Vô tàm, Vô quý, Khan, tật. Phẫn nộ. Tức giận gọi là Sân, Che giấu tội của mình gọi là Phú, Ý thức hôn mê gọi là Thụy, Năm giác quan tối tăm gọi là Miên, Vui đùa gọi là Hý, Ba nghiệp thô tháo, vọng động gọi là Trạo. Khởi lầm lỗi ở chỗ khuất mà không tự hổ thẹn gọi là Vô tàm. Làm điều sai ở chỗ công khai mà không sợ thẹn với người khác gọi là Vô quý. Không bố thí tiền của và Pháp là san. Tâm tư bực bội vì sự vinh hoa của người khác gọi là Tật. Phiền não tức là tư hoặc. Tuy kiến và Tư đều gọi chung là phiền não nhưng nay Đại sư lấy Tư hoặc làm đại biểu là để tránh bớt phiền phức.

Hai là “Nhị thừa v.v…” trở xuống là y theo Đại và Tiểu để giải thích về sự dứt trừ, có hai: nói về sự dứt trừ hết hay không hết của Đại và Tiểu, có hai:

Một là Nói về Nhị thừa đoạn chung dư riêng: Danh số của tất cả phiền não thuộc giới nội đều chung với giới ngoại. Nhưng dùng cái làm chướng ngại Không và Trung để phân chia thì biết được cái chung, cái riêng. Thiên nữ rải hoa trong thất ngài Tịnh Danh, Thanh văn thì bị hoa dính trên thân, còn Bồ-tát thì không. Vì vậy, Thanh văn bị quở trách rằng “Vì chưa hết kiết sử nên hoa dính vào thân”. Đó là mới đoạn phần chung chứ chưa dứt phần riêng.

Hai là “Mà nói v.v…” là nói về vấn đề đối với Phật địa thì chung và riêng đều dứt sạch, có hai:

Một chính là chỉ bày: Tuy nói rằng Bồ-tát có khả năng dứt trừ hết kiến hoặc thuộc phạm vi riêng nhưng thật ra thì chưa dứt trừ rốt ráo như Đức Phật. Nếu đạt đến địa vị Phật thì chẳng những dứt hết phần riêng mà còn dứt hết cả phần chung. Vì sao? Vì kiến và Tư là cái được thành tựu của hạt giống, tập khí khác nhau của chúng sinh trong sáu đường ở khắp các cõi nước trong mười phương. Nhân địa chưa dứt trừ tận bờ mé, chỉ có Phật mới hoàn toàn dứt trừ đầy đủ. Vì vậy, Đại sư nói: “Cả Chung và Riêng rốt ráo đều ở tại Phật”.

Hai là Dẫn chứng: Bản thể của Sinh và Pháp thuộc Tánh đức là vô thường, vì hai thứ chấp là chung và riêng mà thành thấp kém. Bậc Diệu giác đã dứt sạch hai thứ chấp nên đều là vô thường. Vì thế, Đại sư nói là “Giả và Thật của vô thường là điều mà ở giai vị Phật không bị mê hoặc”.

Kế là “Kinh luận v.v…” trở xuống là giải thích về có dứt trừ hay không dứt trừ của Phật địa, có hai:

Một là Nói về có dứt trừ: Trí thì lấy sự giác ngộ tuyệt đối làm Thượng thượng. hoặc thì dùng sự mê muội cùng cực làm Thượng thượng. Nay do sự mê tối sắp hết, chỉ còn lại sự nhỏ nhiệm nên gọi là Hạ hạ.

Bởi thế, luận Khởi Tín nói: “Tâm giác ngộ vừa khởi v.v… Tâm không có tướng đầu tiên (Sơ)”. Vì xa lìa niệm sâu kín nên tâm thường trụ. Vì hoặc sâu kín nên khó phân biệt, khó dứt trừ. Do vậy, bậc trí thượng thượng mới đoạn hết hoặc thuộc hạ hạ. “Năng lực Vô minh rộng lớn”: Tuy hoặc nhỏ nhiệm nhưng có công năng ngăn chướng Diệu giác. Do đó, kinh Hoa Nghiêm nói rằng công đức mà vị Bồ-tát Quán đảnh có được là như một ụ đất, công đức của bậc Diệu giác thì như đất của bốn thiên hạ. Sự ngăn chướng do Vô minh sau cùng như thế thì lẽ nào năng lực của nó lại không lớn? Nếu trí Phật không phát khởi thì loại hoặc ấy không tiêu mất. “Tuệ thuộc một niệm tương ưng”: Tức là sự giác ngộ hoàn toàn. “Chính và Tập đều hết”: Bao gồm cả chung và riêng.

Hai là “Có người nói v.v…” trở xuống là nói về sự không dứt trừ “Thượng sĩ thuộc Hữu”: Tức là Đẳng giác. Ở giai vị này, hành giả phải tu loại Thiền thanh tịnh tịnh, dứt niệm sâu kín. Do vậy Đại sư gọi là “Đoạn”. Thượng sĩ thuộc Vô”: Tức là giai vị Diệu giác. Đã không còn tu, chứng thì có gì để dứt trừ?

Kế là “nay là v.v…” trở xuống là dùng Tất-đàn để điều phối. Vấn đề có dứt hay không này mỗi phần đều đọc thấy ở văn của giáo. Nhân sư chấp đắm nên tranh luận mãi không dứt. Nay dùng ý hợp với căn cơ của bốn thứ Tất-đàn để điều phối khiến cho sự tranh luận không còn lý do sinh khởi. Cõi nước là cảnh vực. Tức là hợp với thế giới, nơi ở của căn cơ; Tùy nơi ở mà thích nghe về trí Phật có dứt hay không dứt để sinh tâm hoan hỷ. Thời tức là Đối trị; Tùy thời hợp với nghĩa của có dứt hay không dứt để phá ác. Người tức là Vi nhân; Tùy người nên dùng dứt hay không dứt để sinh điều lành. Ngộ tức là Đệ-nhất-nghĩa; Tùy ngộ dứt hay không dứt mà đi vào Lý. Vì bốn thứ căn cơ ấy mà nói là có hai nghĩa. Luận bàn về trí của Phật thì không thể nói năng, suy nghĩ.

Kế nữa là “Chứng Vô v.v…” trở xuống là nói về sự tròn đầy của hai con đường chính và trợ. Chứng được Sinh và Pháp Vô thượng từ hai thứ Không gọi là con đường Vô thượng. Do sự phối hợp tu tập giữa công hạnh của trợ thuộc về Sự và Chính nên được gọi là công đức mầu nhiệm.

Tiếp là “Mở của cam lộ v.v…” trở xuống là nói về sự tròn đầy của dức dứt, có hai:

Một là Giải thích sơ lược về Cam lộ: Lấy bốn thứ là Mạng v.v… theo thứ lớp để so sánh với Thường, Lạc, Ngã và Tịnh.

Hai là “Nhưng đây v.v…” là giải thích đầy đủ về các loại bốn câu.

Trước là đối với bốn vị trí của Hoa nghiêm, có hai:

Một chính là đối: Tuy Hoa nghiêm gồm cả Biệt, nhưng nay chỉ lấy Viên của nó. Bởi vì ba mươi vị của Biệt chưa có được Cam lộ.

Hai là “Hạ địa v.v…” trở xuống là giải nghi: Vì sợ người sau nghi ngờ nên Đại sư giải thích, giáo hóa, khiến cho người khác có sở đắc giống như mình.

Kế là “Lại nữa, Thông v.v…” trở xuống là đối với bốn trí của Bátnhã: Tuy luận giải thích nhiều nhưng vẫn còn chung với cả ba giáo. Bốn giáo của nay đều từ Cam lộ mà nói nên chính xác là ở Viên. Lấy Nhất tâm ba trí quyết trạch tất cả tướng gọi là Đạo Tuệ mở cửa. Nhất tâm ba trí lập ra tất cả Pháp gọi là Đạo chủng tuệ nêu bày đồ dùng. Nhất tâm ba trí cùng phủ nhận sự quét sạch vè lập bày gọi là Nhất thiết trí đi vào thành. Nhất tâm ba trí cùng chiếu soi cả quét sạch và thiết lập gọi là Nhất-thiết-chủng-trí ở trong phòng. Do bốn thứ trí ấy mà trụ nơi Niếtbàn, làm cho chúng sinh đạt được bốn thứ trí ấy gọi là “Ăn mùi vị”.

Kế nữa là Đối với “Đại sự” của Pháp Hoa: Tri kiến của Phật ở Pháp Hoa là Cam lộ ở đây khai v.v… của Pháp Hoa đối với bốn câu ở đây. Chỉ có Ngộ, Nhập là có khác đôi chút với Nhập, Xứ. Nhưng, xét về nghĩa thì giống nhau.

Kế tiếp là Đối với bốn đức Niết-bàn: Trước đây dùng bốn đức để giải thích về nghĩa Cam lộ. Nay dùng bốn đức để đối với văn của khai v.v… Có sự khác nhau đó.

Thứ đến là “suy đại v.v…” trở xuống là nói về sự thành tựu của giáo hóa kẻ khác, như sau:

– Chia văn lập ý, có hai:

Một là chia văn.

Hai là “Các kinh khác v.v…” trở xuống là lập ý, có hai:

Một là Nói về Trí định tướng thành. “Trước hiện thần thông”: Tức là khiến cho kẻ khác trọng pháp thích nghe. “Sau hiện thần thông”: Tức là làm cho kẻ khác y theo pháp để tu hành. Vì vậy, trước nói là để mở sau, sau nói là để thành tựu trước.

Hai là “Tu nhân v.v…” trở xuống là nói về Nhân quả đồng loại. Chánh đạo của hai không thuộc về trí đức. giúp đạo của hai không thuộc về Dức dứt. Tức là hai thứ nhân là Duyên và Liễu. Nếu chẳng có hai nhân này thì làm sao chứng được hai quả.

Tiếp là “nói pháp v.v…” trở xuống là y theo nghĩa để giải thích văn, lại có:

  • Nói về việc xoay bánh xe pháp giáo hóa người khác, có hai:
  • Nói về nói pháp, có hai:

Một là Chỉ bày chung.

Hai là “Thổi ốc v.v…” trở xuống là giải thích riêng, lại có:

Một là Giải thích riêng về con ốc, cho nên gọi: Đại kinh nói: “Thổi vỏ ốc”, tức là biết thời. “Phàm tánh thuộc khổ Nhẫn”: Tức là Nội phàm Thượng trong Nhẫn vị đối với khổ đế trở xuống là lưu lại một hạnh một duyên. Đó là phàm tánh. Chánh tánh của bậc Thánh gọi là Sơ quả. “Nói về pháp Đại thừa”: Tức là chỉ dùng Viên giáo làm Đại thừa. Đổi tánh nghiêng lệch của phàm và Thánh. Lục địa của Thông giáo là Thánh, Thập Hướng của Biệt giáo, Thập tín của Viên giáo là Nội phàm. Vì chưa hiển lý nên tất cả đều gọi là Tánh nghiêng lệch. Thất địa của Thông giáo đến đây thì được biết về Viên, tất cả đều được đổi tên vị trí. Ba người đều phá Vô minh, thấy Tánh viên dung của Trung đạo.

Hai là “Kích đại v.v…” trở xuống là nói về sự đánh trống răn đe người tiến tới”: Tức là phép của quân trận. Binh quyền nói: “Nghe tiếng thì tiến lên. Nghe tiếng kim loại thì ngừng lại”. Trống thì làm trang nghiêm quân chúng khiến họ tiến lên phía trước, là đốc suất, là dẫn dắt. “Vị trí ở Tu đạo”: Tức là Sơ quả tiến lên Nhị quả của nay. “Vị trí của Thông giáo là ở Bát địa”. Trước đây giải thích đổi hiệu là Thất địa phá Vô minh. Nay tiến lên Bát địa là tăng Đạo tổn sinh. Biệt giáo nên nói là Nhị địa, Viên giáo nên nói là Nhị trụ mới gọi là tiến lên Tu đạo. Nay sở dĩ nói Thập hạnh, Sơ trụ là vì sợ người học nhầm lẫn, hoặc là Đại sư có ý riêng. “Chân thật tu đạo”: Tức là Bát địa thuộc Thông, Nhị địa thuộc Biệt và Nhị trụ của Viên. Vì vậy, Đại sư nói “hoặc tiến v.v…”. Địa luận cho Sơ địa là Kiến đạo, Nhị địa đến Thất địa gọi là Tu đạo. Bát, Cửu và Thập địa là Vô học đạo. Địa luân tuy là vị trí của Biệt nhưng theo lệ chugn của Viên thì có thể biết.

Ba là Giải thích về đốt đuốc: Thông giáo trở xuống đều dùng giáo lý tương đương để giáo hóa giai vị khác. Ở đây nói Bát địa là chẳng phải lấy sự nhận và tiếp mà chỉ y theo giáo lý phù hợp ý của Thập hướng cũng giống như vậy. Vì trong thì tu tập Trung quán mà ngoài cũng ra khỏi Giả. “Viên tại Sơ trụ”: Vì trăm cõi làm Phật phổ môn thị hiện. Viên nói theo thắng thì lấy chân thuộc từng phần. Chỉ quán gọi là “Vị trí Chân ra khỏi Giả, “Đều là v.v…” trở xuống là kết luận sự chỉ bày về ba vị trí. Đạo là nói về sự giáo hóa người ngoài. Quán là nói về sự thực hành bên trong. Đây là bao gồm cả sự bất đồng của ba giáo. Các văn khác chỉ nói ở lập trường của Thông.

Bốn là Giải thích về tuôn xuống cơn mưa: Phù sơ tức là Sum suê.

Thời trạch tức là Lúc mưa. Đại hằng là sông Căng-già.

Kế là “Nếu được v.v…” trở xuống là theo điển hình của bốn kinh ở trên.

Kế nữa là “Một loại này v.v…” trở xuống là lấy Ngang và Dọc để kết. “Dọc thì bắt chước vị trí các kinh”. Tức là, ở trước tuy tên gọi bốn kinh là rời, nhưng là vị trí của Viên thuộc Trụ, Hạnh, Hướng và Địa. Vì thế, Đại sư gọi là Dọc. “Ngang thì nói về tất cả các vị trí”: Tức là nhiếp các vị trí của Phàm, Thánh thuộc cả bốn giáo như sự giải thích văn ở trước. “ v.v…”: Vì Bộ là ở Phương đẳng nên vấn đề giáo hóa người khác ở đây phải bao gồm cả bốn ích lợi. Ý chỉ của vấn đề Ngang thì nhiếp tất cả các vị ở trong ấy.

Kế tiếp là “Trong này v.v…” trở xuống là giải thích chung về nghĩa chính: Ba thứ trước gọi là Đại. Một loại sau gọi là Thắng. Vì Thắng cũng là Đại nên Đại sư nói là “Đều nói là Đại”. “Con đường phổ thông v.v…” trở xuống là nếu lấy tên gọi chung thì chỉ ở pháp của Đại, nhưng xét về nghĩa thì cùng trở về Viên. Đối với bốn bản kinh thì nghĩa của chúng lại càng hợp.

Thứ đến là “nay ta v.v…” trở xuống là nói về Thần thông, như sau:

– Nói về sự phá bỏ oán, có hai:

Một là nói về phiền não là oán.

Hai là “Ma là v.v…” trở xuống là nói về Thiên ma là chính.

Kế là nói về Dọc, cờ phướn “Cao vượt hơn các công hạnh”: tức là cờ Pháp Tam-muội. Công đức muôn hạnh đều là quyến thuộc, đều quy về nguồn cội. Vì là Tam-muội của muôn hạnh nên so sánh với các công hạnh. “Binh so với Mao”: Tay chỉ gọi là Mao.

Thượng thư nói: “Tay trái cầm cái búa lớn màu vàng. Tay phải cầm chén rượu.”

Binh quyền nói: “Tướng quân bèn cầm v.v…” là chỉ vào quân chúng mà thề”. Lại nói: “Nghe tiếng trống thì tiến lên. Nghe tiếng kim khí thì dừng lại. Tùy theo sự chỉ đạo mà Năm trân được điều chỉnh”.

Kế là “Ba đức v.v…” trở xuống là nêu ra thể của Tam-muội: Nếu Thể của Tam-muội chẳng phải Dọc, chẳng phải Ngang thì làm sao xuất ra các công hạnh, làm sao xô dẹp được năm trụ, làm sao phá được Thiên ma? Thể và Dụng của loại Vô ký thần thông là như vậy.

Tiếp là “Từ Độ v.v…” trở xuống là nói về sự giáo hóa người của bốn thệ nguyện rộng lớn, có hai:

Một là Sự chỉ bày về nghĩa của các văn còn lại. “Tuy lại v.v…”:

Đã y theo bốn đế mà lại vận dụng bốn hoằng. Bốn đế đã thường hằng thì lẽ nào Thệ nguyện lại dừng nghỉ. Ý của người thuộc nhân cầu thành Phật là ở sự lợi sinh. Nay đã thành tựu được điều mong cầu thì lẽ nào lại quên sự cho và nhổ. “Bốn hoằng là v.v…” trở xuống là chỉ bày về Thệ nguyện có chỗ y cứ: Thệ nguyện tức là Vô duyên từ bi. Cảnh là bốn đế Vô tác, hành tướng của Vô duyên và Vô tác như thế nào? Thế độ chúng sinh, Vì sinh tử là Niết-bàn. Thề dứt phiền não, vì phiền não là Bồ-đề. Thề học Pháp môn, vì ngay nơi hoặc mà thành tựu Trí. Thề thành Phật đạo, vì thành tựu Diệt ở ngay Sinh. Nếu không vận thì làm sao độ được tất cả và mong cầu mãi mãi?

Hai là “Vượt các v.v…” trở xuống là tùy theo nghĩa để giải thích văn, có bốn:

Một là khiến cho vượt qua khổ đế: Kinh nói dứt trừ hẳn ba thứ ác tức là ba con đường. chúng ta phải y theo mười phen để nói về vượt qua, nói về dứt trừ.

Hai là khiến cho dứt trừ Tập đế: chúng ta phải hiểu rõ rằng năm trụ đốt cháy chúng sinh của mười cõi.

Ba là làm cho chứng Diệt: chúng ta phải chia ra để nói về bốn thứ Cam lộ. Quy nạp mà giải thích thì chỉ có một loại là Viên, Thường.

Bốn là Làm cho an trụ nơi Đạo đế, gồm có:

Một là y theo Đàn để nói về Đế: Không chỉ thực hành về Đàn là có đủ bốn đế mà cả năm Độ khác cũng đều có đủ. Năm loại không y theo Đế thì bất động lưu xuất. Như vậy thì làm sao có Độ? Hành giả lại phải biết rằng nay y theo Vô tác.

Hai là “Vô lượng v.v…” trở xuống là giải thích văn kinh.

Ba là “Luận nói v.v…” trở xuống là Đàn nhiếp sáu độ: Đại luận quyển mười hai giải thích về Đàn độ rằng: “Nếu Bồ-tát thực hành đàn độ thì sẽ sinh ra sáu độ. Lúc ấy, gọi là Sự tròn đầy của Đàn độ. Thế nào gọi là Bố thí sinh ra Đàn độ? Vì có Hạ, Trung và Thượng. Nếu lấy thức ăn, món uống thô dở để bố thí thì gọi là Hạ. Lấy áo quần, vật báu mà bố thí thì gọi là Trung đàn. Nếu đem đầu mắt, máu thịt, đất nước, tài sản, vợ con để bố thí thì gọi là Thượng. Thế nào gọi là Bố thí mà sinh ra Thi-la Độ? Bồ-tát suy nghĩ rằng vì chúng sinh chẳng biết bố thí, đời sau nghèo cùng nên làm điều ác. Nếu thực hành bố thí thì đời sau có phước không bị thiếu thốn thì nên Trì giới. Vì sao gọi là bố thí sinh Nhẫn độ? Lúc Bồ-tát bố thí, người giận ghét mắng; hoặc là cầu xin quá nhiều, hoặc xin không đúng lúc, hoặc không nên xin mà xin. Lúc bấy giờ, Bồ-tát nên nghĩ rằng: Sự bố thí của ta hôm nay là vì mục đích tìm cầu con đường của Phật, không do ai xúi giục ta bố thí cả mà do ta tự làm. Vì vậy, ta lại sinh tâm sân hận? Suy nghĩ như vậy rồi Bồ-tát liền thực hành nhẫn nhục. Thế nào gọi là bố thí sinh Tấn độ? Lúc bố thí, Bồ-tát thường thực hành tinh tấn, muốn thực hành hai thứ Thí. Bồ-tát siêng năng tìm cầu Tài và Pháp để mong sao cho được đầy đủ. Thế nào gọi là bố thí sinh Thiền độ? Lúc Bồ-tát bố thí thì sẽ dứt trừ tham lẫn mà thực hành Nhất tâm, dần dần dứt được năm cái. Đó gọi là Thiền độ. Lại nữa, Tâm y theo bố thí mà đi vào Sơ thiền cho đến Diệt định. Thế nào gọi là bố thí sinh Trí độ? Lúc Bồ-tát bố thí, biết là có quả báo mà không nghi ngờ, phá được Tà kiến, Vô minh. Lại nữa, Bồ-tát lại phân biệt Tinh và bất tinh, quả báo có được của sự bố thí khác nhau. Đó gọi là Sinh ra Trí. Do đó gọi là nghĩa của Đàn nhiếp sáu độ. Năm Độ còn lại cũng thu nhiếp lẫn nhau. Vì chẳng phải ý của văn nay nên lại nói về Đàn. Vì bố thí là đầu của sáu đàn nên thuộc về sinh tiện lợi.

Bốn là “Xả thân v.v…” trở xuống là lấy bờ kia để kết: Sinh tử là bờ mé trước, Niết-bàn là bờ mé sau. Thân mạng và tài sản, ba thứ này thuộc về Sự. Vì quán sát ba thứ này và tâm thuộc chủ thể quán, cảnh thuộc đối tượng quán. Ngay nơi ba luân tức là không, giả, trung cho nên bằng với ba đức của Niết-bàn. Ở đây dùng nhân thường để ghi nhận quả thường, nếu không như thế thì đâu được không hoại thường trụ. Thực hành Đàn như thế gọi là Ba-la-mật. Ba đức vô lượng cho nên Đàn ca theo chiều dọc. Ba đức vô lượng cho nên Đàn rộng theo chiều ngang. Căn cơ này thích sơ lược, cho nên Như Lai khéo nói một đàn vâng tu các hạnh, nên biết rõ điều đó. Nói quả rồi thì thực hành Đàn để làm lợi ích chúng sinh, chẳng lẻ hành nhân nghe mà không tu ngay hay sao?

 

Trang: 1 2 3 4 5 6