KINH KIM QUANG MINH VĂN CÚ KÝ

QUYỂN 2

Sa-môn Thích Tri Lễ, ở núi Tứ Minh Đời Tống soạn.

Phần đầu

Kế là “Lại nữa v.v…” trở xuống là nói về sự lý của năm giới lại phân biệt Thiên và Viên, ở trên tuy mở bày chung về nghĩa của năm giới là bao gồm, thâu nhiếp cả cạn và sâu. Nếu không nói về Sự, Lý, Thiên, Viên thì làm sao người học nhận thức được rõ về tướng trạng của trì và Phạm. Ở đây tự chia như sau.

– Giới bất sát, có:

– Chỉ bày rõ ràng, có hai:

Một là chỉ bày chung về Sự, Lý, Trì, Phạm: Vì muốn cho hành giả dung bất sát thuộc Lý mà trì Bất sát thuộc Sự, mới gọi là Sơ tâm trì giới Cụ túc. Nay, nói về Thể pháp, phải riêng trung của không, thể pháp tức là không là thuộc phép quán của thiên; so với Viên là Sát, phải thể hội các pháp đều là Trung đạo, tướng thế gian đều là Thường. Đó là giới Bất sát của lý mà ở đây nói. Vì muốn làm sáng tỏ về ý ấy nên từ người, trời mà giải thích về sự cùng cực của Viên. Vì thế, Tiên sư nói: “nhân quả có nhiều thứ khác nhau”.

Hai là “Nếu làm v.v…” trở xuống là nói về sự được mất của Thiên, Viên, gồm có:

Một là Thiên, có:

– Người, trời chỉ có sự, như sau:

Một là người giữ giới cạn thấp nên phải thêm sự ngăn dứt tâm. Như trâu ngựa nếu không có dây cương và ách thì chúng sẽ buông tuồng, nếu không có gậy để nhắc nhở thì sẽ đạp lúa má. Điều ấy dụ cho việc nếu không tác ý thì đối với cảnh thành ra phạm. Quả báo một trăm hai mươi năm là tuổi thọ ở phương trên. Các căn của loài người chỉ rõ về mắt thường. Tâm như nước sông, tự nhiên rót vào biển tịnh giới. Bất luận là Định hay Cộng chỉ có quả báo là sáu tầng trời cõi Dục. Vì số năm của người so với tầng trời thứ sáu là tương đương nên chỉ được mắt thường, mắt Trời chứ không có tuệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn, các căn khác cũng dễ biết. “Nếu thêm v.v…” trở xuống là ba thừa thêm Lý, có hai:

Một là Nghĩa của Nhị thừa nhiếp cả Tạng và Thông: Kinh Niếtbàn lấy sự kiện xuất hiện trước của ngoại đạo với thầy thuốc củ, sự xuất hiện sau của Như Lai dụ cho thầy thuốc khách. Giới do Đức Phật chế gọi là giới khách. Ngoài giới thuộc về sự còn thêm Tu tùy đạo và giới Vô trước. Vị trí của giới này cùng cực nên chỉ dạy cho người nguội thân bặt trí mà không nói có quả báo. Nay y theo Đại thừa sinh về cõi Phương tiện nhận tuổi thọ của Biến dịch. Các văn không nói về thời hạn tuổi thọ của cõi này mà chỉ nói về sự thay đổi của nhân quả. Ở đây nói rằng bảy trăm A-tăng-kỳ hẳn là sau kiếp số ấy mới đi vào Thật báo. Nếu tại cõi này mà phá hoặc Trần sa thì cũng có được Pháp nhãn. Nay nói về hành giả Nhị thừa vừa sinh về đó chỉ đạt được Tuệ nhãn.

Hai là “Nếu v.v…” trở xuống là Bồ-tát, có hai:

Một chính là chỉ bày: Nghĩa xứng với thứ lớp tu tập đối với Đạo cộng v.v… của ba đế thuộc Biệt giáo. Thường tức là quán Giả, tức là cái được khen ngợi bởi Trí và giới Tự tại. Vô thường tức là không tuệ, tức là Tùy đạo và giới Vô trước. Trước là Không, kế là Giả. Nay theo ngôn ngữ thì không tuệ kế theo. “Nói Đẳng Tuệ”: Tức là Trung tuệ. Đó là Tùy định và giới phần Cụ túc. Đạt được hai thứ đó là đang ở Sơ địa. Sinh về cõi Thật báo gọi là biển Hoa tạng. Phật nhãn hiển từng phần của bốn thứ nhãn là dung thông. Vì vậy gọi là đạt được từng phần bốn thứ nhãn. Các căn cũng như vậy. Tuổi thọ là Tuệ mạng, đã thuộc ý căn. Kinh nói: “Các căn còn gọi là tuổi thọ”. Vì thế, phải nói chung.

Hai là “So sánh v.v…” trở xuống là kết về sự so sánh. Giáo này so với Phật có hai ý. Nếu hợp với giáo thì so nhân với quả, Phần và Mãn khác nhau. So với Viên giáo thì Biệt giáo trước sau là pháp của Bồ-tát. So với Viên thì trước sau đều là pháp Phật. Vì vậy, Tiên sư nói gọi là “Không đầy đủ và tổn giảm”.

Kế là “Nếu v.v…” trở xuống là Viên, gồm có:

– Chỉ bày về tướng, có:

– Nói về đắc ý trì, có hai:

Một là Nêu bày khái lược: Sự trì tức là không giết hại thân mạng chúng sinh. Sự trì này giống với giới của Thiên tiểu, Luân vương. Nhưng, lý do của bất sát thì hoàn toàn khác với Thiên v.v… Đoạn văn tiếp theo là nói rõ về Lý quán.

Hai là “Lại nữa, trì v.v…” trở xuống là nói đầy đủ về lý trì, có ba:

Một là y theo Thể để nói về trì: Nếu không giải thích về tánh có đủ chín cõi của loại bất sát thuộc về lý này mà chỉ nói rằng “thể đạt được các pháp tức là lý, toàn sóng là nước” thì vẫn là lẫn lộn với Thông và Biệt, chưa làm sáng tỏ về Viên tu. Vì thế, Đại sư Kinh Khê nói: “Nếu không bàn về “Đầy đủ “thì thuộc về Biệt giáo”. Cho nên phải thể đạt được thân giả hợp, ba hoặc si ái. Thật pháp của ba khoa đều là tánh sẵn có, tánh không khác nhau. Vì vậy, gọi là Một tướng. Tánh không tối tăm ràng buộc gọi là, giải thoát sáng suốt. Đã là tánh đầy đủ thì làm sao có giết hại? Si ái là con. Giả thật là quả. Toàn thể là tánh thì lẽ nào tánh lại là sinh diệt? Sự quán sát mầu nhiệm như vậy thì chướng tức là đức. Không đợi đến sự chuyển, trừ mới là trì đối với giới bất sát thuộc về lý.

Hai là “Thành v.v…” trở xuống là xứng tánh được quả báo. Từ Sơ trụ trở lên đến Diệu giác đều được gọi là thành tựu trí tuệ, ở trong Thường tịch quang. Đây là y báo, chánh báo của phần mãn. Quả báo đời sau của vô sinh chỉ là hiện báo. Cho nên gọi là thường thọ, vắng lặng không tổn giảm. Năm nhãn đầy đủ, các căn cũng như vậy, lìa bỏ không đầy đủ. Nếu nói về dụng bên ngoài thì sáu căn thông suốt nhau. Lược nêu về sự tự tại của mắt và tai. Hiện tuổi thọ của mười cõi, hoặc dài hoặc ngắn, tuổi thọ tự tại.

Ba là “Là v.v…” trở xuống là kết thúc phần nêu bày về nhân quả, có hai: “Lại nữa, Viên v.v…” trở xuống là nói về Đắc ý phạm, có hai:

Một là Nêu chung về hai thứ phạm: nếu không giải thích về tánh cụ của Phạm thuộc sự và Lý thì trái với Dụng và Pháp môn sát. Nhưng dùng tâm thương xót hiện ra tướng trái nghịch mà giải thích. Lẽ nào ở đây công hạnh của Bồ-tát thuộc ba loại giáo trước lại không thể làm được? Vì vậy, Phổ môn sớ nói về Pháp môn thế nào là thành tựu. Vì thế, thường niệm Quán âm. Như thế, chúng ta biết là phải đạt được ý của tánh sát thì Từ mới là Vô duyên. Vì vậy, Tiên sư nói “Duy sát, Duy từ gọi là Đắc ý Phạm.

Hai là “Như Tiên v.v…” trở xuống là nêu riêng về hai tướng, có hai:

Một là Dẫn người để nói về Sát thuộc sự. Phẩm Thánh Hạnh trong Đại kinh, Phật nói bổn sinh, từng làm vua, tên là Tiên Dự. Vua ưa thích Đại thừa. Lúc bấy giờ, thế gian không có Phật nên vua thờ Bà-la-môn làm thầy suốt mười hai năm. Sau đó, vua liền khuyên thầy mình phát tâm Bồ-đề nhưng vị Bà-la-môn ấy không tin và chê bai chánh pháp, vua liền giết chết. Tuy vậy, vua cũng không đọa vào địa ngục, vì không 35 có tội giết hại. Đến phẩm Phạm Hạnh, Đức Phật nói quả Từ tâm, trụ ở Nhất tử địa. Ca-diếp hỏi rằng nếu Bồ-tát trụ nơi Nhất tử địa thì tại sao thuở xưa, lúc làm vua, Phật lại giết Bà-la-môn?

Đức Phật nói rằng vì ta với tâm yêu mến mà giết chứ không có tâm ác. Các vị Bà-la-môn chết đi sẽ đọa vào địa ngục A-tỳ. Họ liền khởi lên ba ý nghĩ.

  1. Tự biết mình từ loài người mà đến.
  2. Biết là địa ngục.
  3. Tự biết vì chê bai chánh pháp nên bị vua giết.

Nhớ lại đến việc ấy rồi liền tin tưởng Đại thừa. Lúc mất sẽ sinh về thế giới Cam Lộ Cổ Vương, tuổi thọ ở đó đến mười kiếp. Như vậy, thuở xưa ta đã cho Bà-la-môn ấy sống đến mười kiếp, tại sao lại gọi là giết? Nhưng, chúng ta phải hiểu rõ đối với pháp môn Sát khiến cho sự ái niệm trở thành lòng từ Vô duyên mới hợp với câu “Duy sát Duy từ” của Sớ văn.

Hai là “Lại làm v.v…” trở xuống là y theo kinh để nói về sát thuộc Lý, có hai:

Một chính là giải thích: trước y theo sự “Không cắt đứt mạng sống” gọi là giữ giới bất sát. Nay, nói về “có cắt đứt” nên nói rằng “phạm sát”. Viên giáo tự nói về hai nghĩa của cắt đứt và không cắt đứt là đồng thời. Đã nói sáu tức, vì sáu nên có đoạn, vì tức nên không cắt đứt. Cũng có thể chỉ y theo một chữ Tức để nói rõ về hai nghĩa. Thể của chướng là đức nên không có chướng để nói. Nay là nghĩa của cắt đứt mà chướng đã tức là đức thì chướng đâu bị cắt đứt. Ở đây là nghĩa không bị cắt đứt. Vì vậy, Phiền não tức Bồ-đề, sinh tử tức Niết-bàn. Sự mầu nhiệm của đoạn và không đoạn nằm ở trong đó. Các kinh Đại thừa nói về pháp quán Viên đốn của hai cánh cửa ấy. Nay y theo có đoạn gọi là Sát thuộc lý. Vì vậy nói là “Bẻ gãy, chấp chước”. Là lấy nghiệp và các phiền não làm đối tượng bị đoạn. Thần cây dụ cho người tu quán. Kiếp lửa dụ cho trí thuộc chủ thể quán. Vì vậy cuốn Đại luận ba mươi nói: “Thí như cây lớn ở ngoài đầm trống là nơi đậu và ngủ của những con chim, một con Bồ câu đến sau và đậu trên một cành, cây liền gãy. Thần đầm hỏi lý do, thần cây đáp: Con chim này từ cây kẻ thù của tôi bay đến. Nó ăn trái Ni-câu. Nếu phân của nó rơi xuống đất thì cây ác lại sinh ra và sự làm hại của cây ấy là vô cùng. Vì vậy, sự an toàn do vứt bỏ một cành là rất lớn. Bồ-tát cũng giống như vậy, đối với hoặc nghiệp của ma và ngoại đạo thì không có gì đáng sợ nhưng lại sợ Nhị thừa. Nhị thừa đối với Bồ-tát cũng như con chim bồ câu kia; họ phá hoại tâm Đại thừa, diệt trừ hẳn tâm Phật thừa”. Văn nay chỉ lấy con chim kẻ thù, đắm lụy chung, v.v… Về “Kiếp hỏa v.v…”: Cũng là văn của Đại luận. Luận thứ hai nói: Tuy Nhị thừa phá hết nhưng hơi ba độc vẫn còn, vì sức của lửa yếu. Đức Phật đã dứt sạch ba độc, mãi không còn sót như kiếp hỏa thiêu núi Tu-di thì tất cả đất đều cháy mà không còn tro khói”. Nay nói rằng trí Phật tức là trí tròn đầy. Đoạn trừ ấm, Nhập, Giới thì sinh tử tức là Niết-bàn. Y theo tức mà nói về Đoạn thì gọi là Đắc ý phạm. Sự đoạn và phá của lý quán gọi là không trì giới. Đó là thật chứng. Nghĩa của Lý phạm ở dưới đều thành tựu. Tất cả trần lao là hạt giống Như Lai. Đó là chủng thuộc tánh, cũng là hạt giống đối địch. Nếu như không phải tánh chủng thì làm sao gọi là hạt giống Phật được? Vì trí tức là tánh nên sự tu nhiễm vốn là luống dối. Vốn luống dối gọi là Diệt. Tức là Lý sát.

Hai là “Thành v.v…” trở xuống là có quả báo. Vì hai thứ phạm thuộc Sự và Lý đã thuận với Pháp môn sát hại thuộc tánh, cho nên thành tựu Pháp sát tức là được Pháp thân, Ứng thân vào chín cõi hiện ra thân cao hoặc thấp, căn thiếu hoặc đủ. Đó là tự tại dùng phần của hạt nhân chân chính mà đạt được quả rốt ráo.

Trước v.v… trở xuống là kết thúc sự cao quý. Trước là bác bỏ sự hèn kém. Người và trời là sự gần, Tạng và Thông thì lý cạn, Biệt giáo thì thứ lớp, vì vậy mà hạn hẹp và bít lấp. Những con đường ấy đều chẳng phải là sự không hai của Tu và Tánh, là con đường thông đạt. Chỉ có thật giới của Viên, một nhiếp tất cả, rộng lớn vô biên. Chính ngay nơi sự là trung, sâu xa khó dò. Con đường tắt phàm phu và Tiểu thừa định phải hiểu sự khác nhau giữa nghịch và thuận, đồng với Trung của mười cõi gọi là Giới rốt ráo.

Kế là “Không v.v…” trở xuống là kết thúc lời trách. Trước là kết thúc sự bao gồm, sau là trách cứ sự hẹp.

Kế là “Lại nữa v.v…” trở xuống là nói về giới Bất sát. Y theo lý để nói về trộm cắp. Y theo kinh A-hàm giải thích Tiểu thành Đại. Người và trời thì chấp Hữu, Tạng và Thông thì chấp không, Biệt giáo thì chấp Đản trung. Tóm lại, đều là vật của người nếu chẳng phải trộm cắp thì là gì? Kinh Tịnh danh chép: “Không chấp là Bồ-đề, vì xả bỏ sự phan duyên.

Kế là “Nếu v.v…” trở xuống là nói riêng về sự được mất của Thiên viên, gồm có:

Một là Thiên, có:

– Người và Trời, có hai:

Một là bác bỏ sự trì thành phạm. Sự an vui luống dối là điều vừa ý của người và trời. Muốn thành tựu lý trì thì phải bác bỏ sự giới. Vì vậy, Tiên sư y theo quả báo do mong cầu để quở trách niềm vui thuộc Hữu lậu. Như trong bãi phân có quả Am-la, nếu là đứa bé hiểu biết thì không nên đòi ăn. Lạc tạp kiến tư như thức ăn ngon của thế gian, Được làm bằng thuốc độc nếu ăn thì mất mạng. Đó là thứ mà người có quán tu không mong cầu. Nghĩa là nếu được hoa báo, tâm không ưa thích mà sinh vui mừng thì làm sao gọi là phàm phu vì muốn trì giới.

Hai là “Nghèo v.v…” trở xuống là y theo văn kinh để nói về quả báo. “Bốn họ”: Tỳ-xá, Thủ-đà-la, Bà-la-môn và Sát-đế-lợi. Tuy trong loài người nói là hai họ thấp hèn, hai họ cao quý nhưng vì đã thiếu tài sản thánh nên cả bốn họ, ba cõi đều thuộc về nghèo cùng. Nước chảy là nước chuyển. Xoáy nước là nước sâu. Đem tâm hữu lậu mà trì giới để mong cầu quả vừa ý chính là bị khốn khổ bởi dòng nước xoáy chuyển của Hữu, ba cõi trôi lăn. Vì thế, Tiên sư nói là “Dòng Hữu”. Nếu không phải một nhân quả Hữu lậu có đủ ba thứ chướng trong bốn dòng có thể ngăn chướng sự thấy Phật là vị trời trong số nhưng vị trời thì cũng chướng ngăn đối với Đệ-nhất-nghĩa thiên. Lấy chướng để ngăn cản nên nghĩa là lìa bỏ. Đây là sự trì thành ở lý phạm. Y theo kinh thì sự cảm vời quả báo nghèo cùng khốn khổ, các vị trời lìa bỏ.

Kế là “Lại hai v.v…” trở xuống là Nhị thừa, có:

– Bác bỏ Lý trì thành phạm, có hai:

Một là y theo để tìm cầu, bác bỏ: Trí thì nêu cả bốn Đế, cảnh thì chỉ ở khổ. Đối với thân v.v… mà quán khổ v.v… là nhàm chán khổ sinh tử, ưa thích sự vui Niết-bàn. Ở Tiểu gọi là Trì, ở Đại gọi là Trộm cắp. Vì Niết-bàn mà sinh tâm ưa thích, tìm cầu. “Giới nhĩ”: là Yếu kém. Chỉ cần một mảy may tâm sinh liền rơi vào bốn Tánh. Đã có tánh lỗi thì đó là thuộc về sinh tử. Đối với Vô sở đắc mà sinh đắc, tưởng thành không cho mà lấy. Lẽ nào đó chẳng phải ăn trộm?

Hai là “Tức không v.v…” trở xuống là dẫn các kinh để bác bỏ. Phiền não là củi, trí tuệ là lửa, Thành thức ăn Niết-bàn chẳng phải chứng đắc phi thời. Đó là bác bỏ sự thủ chứng vội vã của Tiểu thừa là chứng đắc phi thời. Chẳng đợi Pháp Hoa nói về sở nhân thuộc đối tượng mà đối với Niết-bàn Tiểu thừa lại suy nghĩ chấp chứng. Căn tánh Đại thừa không phát như hạt giống bị cháy, bị hư. Vì thấy quả khổ nên dứt trừ các nhân của Tập. Vì tu phẩm của Đạo nên hướng về sự chấm dứt của Diệt. Như vậy tức là chẳng phải ngay nơi hoặc mà thành tựu trí, không dứt trừ, không tu tập; ngay nơi sinh mà thành Diệt không có khổ, không có tận. Vì vậy, Tiên sư nói là “Không cầu pháp”. Trung Luận nói: Chư Phật nói về pháp không vì độ người chấp Hữu. Nếu có người chấp không thì đó là người mà chư Phật không độ được”. “Thân cao ba trăm v.v…” trở xuống là dẫn Chim non của loài chim cánh vàng để làm dụ: Nhị thừa chỉ nghĩ đến ba thứ Tam-muội là Không, Vô tướng, Vô nguyện như thân cao ba trăm do-tuần. Không có hai thứ trí là Không và Giả thì giống như chẳng có hai cánh. Đọa vào ba hầm Vô vi như chim rơi xuống đất. Nếu “Chết v.v… là khổ thành quả A-la-hán. Nếu chết thì khổ thành quả Bích-chi.

Khổ v.v… đối với chết gọi là chết v.v… khổ nhưng thật sự chưa chết. hoặc nói rằng: Nhị thừa phương tiện là chết v.v… khổ, Thánh vị là chết khổ.

Lại nữa, người học là chết v.v… khổ, vô học là Chết khổ. Ba thứ Vô vi:

  1. Trạch diệt.
  2. Phi trạch diệt.
  3. Hư không.

Vì nêu chung nên nói là ba. Vô vi mà Nhị thừa chứng vốn là Trạch diệt. Nhưng luận này vốn xuất xứ từ Đại phẩm mà Đại luận giải thích. Luận nói rằng thân chim cánh vàng cao ba trăm do-tuần, có thể bay từ núi Tu-di này đến núi Tu-di khác. Lúc mới sinh ra loài chim này chưa hình thành hai cánh; vì muốn bay đi nên bị rơi xuống Diêm-phù-đề mà chịu chết, hoặc là khổ chết v.v… Nữa đường nó hối hận tự nghĩ rằng ta muốn trở lại cõi trời nhưng không thể tự cất mình lên được. Hình ảnh ấy vốn dụ cho Bồ-tát rơi vào địa vị Nhị thừa.

Nay, Tiên sư mượn hình ấy để dụ cho Nhị thừa.

Kế là “Pháp v.v…” trở xuống là dẫn kinh để nói về quả báo của ăn trộm. Không có được pháp thực của Đại thừa gọi là đói. Không có lực dụng lớn gọi là yếu đuối. Không có công đức lớn là gầy. Đối với Hữu thiện, Vô, Thiện mà khởi kiến tư là như mụt nhọt, ghẻ lở. Không thấy Phật ba thân một thể, không nghe pháp thuộc Viên đốn thì không rơi vào các số của ba Hiền, mười Thánh.

Kế là “Nếu v.v…” trở xuống là Bồ-tát, có hai:

Một là bác bỏ về thứ lớp thành phạm. Ba thứ Hạnh, Học và Đạo đối với Giới, Định, Tuệ. Nói thứ lớp tức là nói rằng cả ba đều chuyển theo Không, Giả và Trung. Vì ba đế dọc nên từ cạn đến sâu. Do đó, đuổi theo một là nói về thủ và xả. Sinh tử là đến, Không và Trung là đi. Vốn nói sinh tử đã gọi là đến. Đi rồi chở đến lập ra sinh tử, nên gọi là thành hai sự đến. Phá Hữu ra khỏi Cõi gọi là đi. Xả bỏ ngoài bìa, hướng về Trung gọi là lại đi. Sự đến và đi như vậy lẽ nào chẳng phải khuất nhục? Quán đế không khác nên lìa hai chấp tướng. Nay đã tu riêng nên dùng quán mà duyên với Đế, gọi là không cho mà lấy.

Hai là “Lấy rồi v.v…” trở xuống là y theo kinh để nói về quả báo của ăn trộm. Thủ và Xả đã là số thì chính quả báo ấy gọi là quả báo nghiệp trộm cắp nghèo cùng khốn khổ. Vì giáo của của Biệt và Viên giải thích về quả báo biến dịch, không y theo sự thay đổi về sinh. Niệm dấy động là nghiệp, Biến dịch là khổ. Vì vậy, Luận Khởi Tín nói: “Động thì liền có khổ, quả không lìa nhân, người sơ tâm không thể bặt dứt ngay sự nghĩ bàn. Vì vậy, khiến nghĩa tuy gần nhưng xa liền xả bỏ.

Kế là Viên, có hai:

Một là chỉ bày về tướng của Lý Trì: Chỉ có pháp quán của Viên mới lìa được sự không cho mà lấy một cách rốt ráo. Phép quán về sự dứt bặt là năm thứ không thọ. Tức là không thọ bốn biên và không thọ bất thọ. Nếu không dùng lý vượt lên để soi sáng đối với năm thứ bất thọ này thì sợ rằng sẽ lẫn lộn với giáo lý của Thiên. Vì vậy, trước là Tiên sư nói rằng: Hành giả Viên quán thật tướng các pháp”. Các pháp không ở ngoài Y báo và Chánh báo của Phật và chúng sinh. Đó là pháp của hai sự tu tập là nghịch và thuận. Toàn bộ sự tu tập chính là Tánh nên mỗi sự đều là tướng của Trung đạo, của Thật Tướng của Trung, của Thật chẳng phải là tướng đối đãi. Vì hành giả Viên quán về tướng này nên không có bốn thứ thọ. Chẳng những có cảnh dứt bặt sự đối đãi thuộc bốn câu mà còn dứt cả sự đối đãi của chủ thể và đối tượng thuộc cảnh và quán. Vì vậy sự quán của không thọ cũng không thọ. Đã đối với Sơ tâm thì tức là y theo Trung và Thật để tu năm thứ không nhận. Như vậy thì chỉ thuộc về Viên. Vì năm thứ không thọ nên gọi là không chấp là đại Bồ-đề luôn che chướng tất cả lời nguyện hữu duyên. Mỗi pháp đều là Trung. Ngoài cao không có thấp, ngoài thấp không có cao; có pháp để chấp, có pháp nào để xả bỏ?

Hai là “Như vậy v.v…” trở xuống là y theo để nói về quả báo. Tức là dùng sự giàu có thuộc lý để làm sáng tỏ sự không nghèo cùng. Vì giàu có nên không chấp. Vậy, làm sao có khốn khổ? Do không chấp nên sự nghĩ bàn liền dứt, Không trái với Đệ-nhất-nghĩa thiên tức là Ứng với “Chư thiên không lìa” của văn kinh.

Kế là “Hành giả của Viên v.v…” trở xuống là nói rõ về Đắc ý phạm. “Pháp môn trộm cắp”: Đó là Tánh ác là cái mà Phật tôn làm thầy nên gọi là Pháp. Trí do đó mà vào nên gọi là Pháp môn. Hành giả Viên giáo đạt được pháp môn nên nghịch thuận đều tự tại. Thường tạo tác trộm cắp thuộc lý thì cũng tạo tác về trộm cắp thuộc Sự. Văn này lược sư, so sánh với trường hợp của Sát, của Dâm; hợp với tướng của chúng. Nếu là nghĩa trộm cắp thuộc lý thì văn xuất xứ từ kinh Ươngquật. Kệ của kinh ấy nói: “Không cho là Bồ-đề. Không có trao cho là không cho mà tự lấy. Cho nên ta không cho mà lấy”. Ý đó là nói không bao giờ lấy là hoàn toàn lấy. Loại lấy này được gọi là như biển thâu nạp các dòng. Về bốn sự mang vác nặng, kinh Ương-quật nói thí như mặt đất mang vác gánh nặng.

  1. Sông biển lớn.
  2. Núi sơn.
  3. Cỏ cây.
  4. Chúng sinh.

Bồ-tát cũng như vậy. Chánh pháp trụ ở đời hơn tám mươi năm. Vì tất cả chúng sinh mà giảng nói về Như Lai tạng gọi là gánh đầu tiên, nặng hơn cả núi lớn. Nghe người ác chê bai, nhục mạ mà vẫn thường an nhẫn. Đó là gánh nặng thứ hai, nặng hơn cả đại thủy. Không có duyên mà giảng nói cho nhà vua, đại thần nghe về Như Lai tạng. Chỉ vì người thấp hèn mà kham nhẫn để giảng nói. Đó là gánh nặng thứ ba, nặng hơn chúng sinh. Giữ đến cùng chỗ biên địa, xấu ác, không được dừng ở nơi chỗ đầy đủ an vui. Đó là gánh nặng, nặng hơn cả cây cỏ”. Bốn gánh nặng của kinh Ương-quật dụ cho bốn việc. Quán ý của văn kinh này dường như dụ cho bốn hoằng.

Kế là “Trước v.v…” trở xuống là kết thúc sự thù thắng. “Cạn mà lại tắt nghẽn”: Lại tức là gồm ba: Giới bất dâm, có hai:

Một là chỉ bày về Trì và Phạm thuộc Sự và Lý “Chỉ bày về Sự và Lý”: Ý ở trì cả hai, dùng Sự giúp Lý, dùng Lý dắt dẫn Sự. Đã ở giai đoạn Mạt pháp thì công là ở Sự trì. Đây là ý của Niết-bàn phò luật. “Lý trì chìm vào nhiễm bất nhiễm”: Tâm quán cảnh khác gọi là pháp nhiễm. Cảnh là quán mới gọi là không nhiễm. “Nói các thứ là”: Sự tùy theo Lý quán. Tiểu, Đại, Thiên và Viên có đầy đủ như sự giải thích ở dưới.

Hai là “Nếu thiếu sót v.v…” trở xuống là nói về sự được mất của Thiên và Viên, gồm có:

– Thiên, có ba:

– Người, Trời, có hai:

Một là Sự nắm giữ của con người vì tâm chưa thuần nên giống như con vượn bị xiềng xích. “Bưng cái bát đựng dầu”: Đại kinh dụ như giữa mọi người đầy khắp cả hai mươi lăm dặm vuông, vua sai một vị quan bưng một cái bát đựng dầu đi qua đám đông ấy mà không được nghiêng đổ. Nếu đổ một giọt thì sẽ bị chém đầu. Vua lại sai một người rút gươm đi theo vị quan ấy. Vị quan chấp hành sắc chỉ của vua, tuy nhìn thấy năm dục nhưng tâm không tham đắm”. Đại kinh dùng hai mươi lăm dặm vuông để dụ cho hai mươi lăm Hữu. Rút gươm dụ cho Vô Thường. Văn này dụ cho phàm phu giữ giới. Rút gươm dụ cho tội của ba đường. Cắt bỏ sự thô của hiện tại, cầu sự nhỏ nhiệm của tương lai là giống như lấy thấp hèn để đổi cao quý.

Hai “Nếu là v.v…” trở xuống là trời, có hai:

Một là sáu tầng trời cõi Dục: Tuy văn nêu lên trời Đế Thích nhưng ý thì bao gồm cả sáu tầng trời.

Hai là “Nếu dứt v.v…” trở xuống là Bát Địa: dùng pháp Sổ tức nhiếp tâm năm dục. Vì sinh Tứ thiền thọ niềm vui của Chi lâm. Cùng cực đến Hữu đẳng như nước cá, v.v… đâu biết Trường Thọ là một trong tám nạn. Nhiếp vào mùi vị của Thiền thì đều là dục nhiễm.

Kế là Nếu ghét v.v…” trở xuống là Nhị thừa, có hai:

Một là Ở Tiểu gọi là Trì: Biết khổ, dứt Tập như kẻ thù như rắn độc. Tu Đạo, chứng diệt như người thân, như châu báu. Chỉ tự điều phục nên đi hẳn. Vì không có bi tâm cứu độ nên không trở lui. Bốn phương và bốn bên gọi là gió tám phương. Hình ảnh ấy ví dụ cho bốn sự trái và bốn sự thuận của người, trời. Tức là Lợi, Suy, Hủy, Dự, Xưng, Cơ, Khổ, Lạc. Tu-di dụ cho tâm Nhị thừa.

Hai là “Nếu nghe v.v…” trở xuống là ở Đại gọi là Phạm. Tùy-lam, Hán dịch là Tấn mãnh (nhanh mạnh). Vào kiếp hoại, lúc ngọn gió này thổi lên có thể phá hủy núi Tu-di. Vì năm trần của hai vùng đất thuộc giới ngoại làm động Nhị thừa. Trong Đại luận nói Ca-diếp nghe tiếng đàn của Chân-ca-la mà không thể tự làm chủ. Ca-diếp liền nói rằng: “Gió tám phương không lay động được núi Tu-di. Nhưng, gió Tùy-lan đến thì nó phá núi Tu-di như phá cỏ mục. Năm dục của ba cõi ta đã dứt bỏ hoàn toàn, chúng không thể làm ta động tâm. Đây là năm dục sạch mầu của Bồ-tát. Ta không thể nào tự an định đối với sự việc này. “Ba thứ Bồ-tát “: Đây là Bồ-tát của Biệt so với Bồ-tát của Viên thì thành phạm; Duyên với Trung đạo của Đản mà sinh tâm ưa thích thuận theo. Nếu y vào Thập hạnh thì lui không nhận lấy Tiểu, lại không tiến lên để cầu viên. Như rơi xuống đỉnh núi nên gọi là Hữu đảnh. “Chiên-đàla”: Hán dịch là Nghiêm xí, là những người làm nghề mổ giết ở Ấn Độ, dùng nghiệp ác để tự trang nghiêm. Lúc đi tay lắc cái chuông nhỏ, cầm cây trúc làm bức nêu. Vì vậy y theo hai đặc trưng ấy mà gọi tên. “Nay

bác bỏ sự giải thích về Đãn Trung”. Đối với Bồ-tát thuộc Viên thì cũng như hạng ác của mổ giết thịt thú. Đã không có phương tiện của hai thứ quán tức Trung thì bị trói buộc bởi trí tuệ thuộc Trung của Giáo đạo. Đã trụ trong vô minh oán thù thì làm sao thắng được. Tuệ của sự tu tập của Biệt không có lợi ích Vô tác, so với sự thanh tịnh rốt ráo thì là pháp dục nhiễm. Thông thường, bác bỏ Biệt giáo phần nhiều là người trụ Hạnh và Thập tín, vì giai vị Hồi hướng có khả năng tu Viên.

Kế là Viên, như sau:

– Chỉ bày về tướng, gồm có:

– Nói về Đắc ý trì, có hai:

– Y theo nghĩa để chỉ bày, có ba:

Một là chỉ bày về Đế quán thuộc chủ thể thanh tịnh: Nhất tâm”: Tâm kiến tư. Quán tâm nhiễm ấy tức là tánh thanh tịnh. Tánh không cạn và hẹp, thấu đến nguồn khe của ba đế. Toàn đế phát quán tức là Không, Giả, Trung. Vì chính là không nên không bị nhiễm ở chỗ ô nhiễm. Vì “Chính là Giả” nên không bị nhiễm ở chỗ thanh tịnh. Vì “Chính là phủ định cả hai” nên không bị nhiễm ở hai bên. Vi “Chính là Chiếu soi cả hai” nên không bị nhiễm ở Trung đạo. Ba đế ba quán chỉ một Sát-na. Chủ thể, đối tượng chẳng khác nhau, Trung và Biên đều thanh tịnh.

Hai là “Chính là không v.v…” trở xuống là chỉ bày ái Kiến được thanh tịnh. Đế quán ở trên đều là Chủ thể thanh tịnh. Nay nói rõ rằng ái kiến mới là đối tượng được thanh tịnh. Chúng ta phải biết rằng đối tượng được thanh tịnh bao gồm trong Thông và Biệt. Phật, Bồ-tát v.v…. là ái kiến thuộc về thuận với đạo. Quán sâu “Chính là Trung” thì ái tự tiêu.

Ba là “Ba v.v…” trở xuống là chỉ bày về ba đế gọi là Tịnh. Thanh tịnh nghĩa là Không. “Rốt ráo không là “phải không cả ba đế để suy nghiệm về chủ thể không, chẳng thiếu ba quán. Vì chủ thể không của không nên sự thanh tịnh này cũng thanh tịnh; đối với Thông chẳng có sự bít lấp.

Kế là “Kinh v.v…” trở xuống là dẫn kinh để chứng minh, có hai:

Một là Dẫn văn kinh.

Hai là “Viên v.v…” trở xuống là hội ý của kinh: Kinh y theo vị trí để nói về trì chỉ có ở quả. Nay y theo Viên quán thì Sơ tâm có thể trì lập tức giới của Phật, quán sự không khác nhau của nhân quả Thật tướng. Nếu không như vậy thì làm sao dùng sự trang nghiêm của Như Lai để tự trang nghiêm?

Kế là “Viên v.v…” trở xuống là nói về Đắc ý phạm, có hai:

Một là Dẫn việc của các kinh, vì đã đạt được pháp môn nhiễm ái thuộc bản tánh nên có thể bị động ở môi trường của nhiễm thuộc Sự, cũng có khả năng thị hiện ở phép quán của nhiễm thuộc về Lý. Vì phép quán của nhiễm có thể lệ với sự chứng đắc nghĩa Bồ-đề nên nay lược bỏ. Nhưng y theo Hoa nghiêm mà đưa ra tướng nhiễm thuộc về Sự. “Thực hành giới bất nhiễm”: là tên gọi của Bồ-tát. “Trước là dùng móc dục để kéo ra”: ái dục như móc câu có thể lôi kéo người. Sau đó mới làm cho người bị kéo đạt được pháp giới của Dục, gọi là đi vào con đường của Phật.

Hai là “Đó là v.v…” trở xuống là nói về Lý của Dụng phạm: Chỉ có ba hạng người trên trụ mãi trong pháp môn Vô nhiễm của Tánh nhiễm, có năng lực thị hiện sự tu tập về nhiễm. Vì vậy, họ được gọi là Dục của chẳng phải dục và lại làm cho chúng sinh ngộ được tánh ngay nơi dục, nên được gọi là dùng dục để dứt dục. “Luận lấy Tiêu v.v…” chữ tiêu lẽ ra nên viết chữ tiêu có bộ mộc. Cùng viết là Tiết (cái lược). Thuyết văn nói: “Tiết là tâm”, tháo cái nêm ở trước thì phải mượn cái nêm sau. Vì vậy, Tiên sư nói “Dùng nêm để tháo nêm” “dùng âm thanh để dứt âm thanh”: Quyển bảy của Đại luận nói: “Ví như vị Tỳ-kheo chấp sự, đưa tay xướng lên nên đại chúng đều yên lặng”. Đó là dùng âm thanh để ngăn chặn âm thanh chứ chẳng phải tìm cầu âm thanh.

Kế là “Trước v.v…” trở xuống là kết thúc sự thù thắng. Bốn lần “Lại nữa v.v…” trở xuống là nói về giới nói dối, có hai:

Một là chỉ bày về Sự và Lý. “Hỏi: trong Sự, tội nói dối nặng”: Tức là chưa đạt được pháp của bậc Thánh mà nói biết, nói thấy! Nay Pháp môn giải thích đối với chưa chứng đắc nói là đã chứng đắc thì nào khác với Sự. Đáp: Bởi, giới thứ lớp tự biết chưa đạt được Pháp của bậc Thượng nhân nhưng vì nói đối với người khác là đã đạt, nên loại nói dối này trừ người Tăng thượng mạn. Nếu nói dối thuộc lý, nội tâm thật nói rằng đã chứng đắc. Tâm này tăng thượng và khinh mạn đối với kẻ khác là Tăng thượng mạn. Vì vậy, kinh Pháp Hoa nói: “Tỳ-kheo, Tỳ-kheoni tư cho là đã rốt ráo nên không có chí nguyện cầu Bồ-đề Vô thượng. Nên nhớ rằng đó là người Tăng thượng mạn”. Nay chưa hiểu về Lý của Viên nên đối với ba thứ giáo của người và trời, mỗi thứ giáo đều tự cho là Thật. Gọi là nói dối cũng là Tăng thượng mạn.

Hai là “Các v.v…” trở xuống là nói về Thiên, Viên, như sau:

  • Thiên, có ba:
  • Người và Trời, có hai:
  • Người, có hai:
  • Tướng của nói dối, có hai:

Một là ái: “Khổ bậc thấp”, tức là khổ nhẹ. Khổ của ba đường là nặng. Khổ của nhân gian là nhẹ. Phàm phu không biết, cho đó là an vui. Vì lấy khổ làm vui nên Tiên sư nói “Nghĩ là an vui một cách ngang trái”. Như người có tội của thế gian đáng ra là chết nhưng lại đem ngàn hình phạt để tha mạng. Thật chất của hình phạt là khổ. Vì được toàn mạng nên dưới những hình phạt liên tục ấy lai nghĩ là an vui. Lại nữa, như người bệnh sợ chết nên phải châm cứu. Thật chất của châm cứu là khổ, nhưng vì nói chữa bệnh nên đều nghĩ là an vui. Việc tám thứ khổ thay nhau nung nấu mà lại nói càn quấy là an vui cũng giống như vậy.

Hai là “Dục v.v…” trở xuống là kiến, đầy đủ như Đại kinh. Phàm phu ngoại đạo khinh mạn tự cao, dụ cho cờ phướn dọc. Miệng tuyên bố lời kiêu mạn dụ cho việc đánh trống. Đối với năm ấm, mỗi ấm đều khởi lên bốn chấp. Trong văn chỉ bày sơ lược về sắc ấm. Bốn ấm còn lại có thể dùng sắc ấm làm ví dụ. Câu thứ hai nên nói rằng “Lìa Sắc là Ngã”. Nay nói “Ngã tức là Sắc” là sự nhầm lẫn của văn. Trong Sắc có Ngã tức là Sắc lớn mà Ngã nhỏ. Trong Ngã có Sắc là Ngã lớn mà Sắc nhỏ. “Khởi sáu mươi hai”: Mỗi ấm trong năm ấm đều khởi lên bốn kiến chấp; cộng tất cả là hai mươi. Trải qua ba đời thành ra sáu mươi, quan điểm của họ không ngoài chấp thường và chấp đoạn, nên có sáu mươi hai thứ. Vì những lời nói của họ đều không thật giống như chuyện hài hước nên gọi là Hý luận. Do Hý luận ấy nên chẳng thấy được Chân không, Vì vậy nó phá Tuệ nhãn.

Kế là “Có miệng v.v…” trở xuống là kết thúc sự nêu bày về sai lầm của miệng. Kiến là Vọng tình phát sinh chuyển kế tức là hai lưỡi. Giảng nói về lý của Tà ác tức là ác khẩu. Khéo tô điểm cho lời nói tà tức là nói thêu dệt. Các kiến vốn là tà. Vì lấy tà làm chính để dối gạt người nên nói là nói dối. Thật ra, nói dối có đủ bốn thứ.

Kế là “Ba mươi v.v…” trở xuống là Trời. Phẩm Anh nhi hạnh trong Đại kinh nói: “Như lúc thấy đứa trẻ thơ kia khóc, cha mẹ nó liền lấy chiếc lá vàng cây Dương mà nói với nó rằng: Thôi, con nín đi! Ta sẽ cho con vàng. Đứa bé thấy chiếc lá rồi tưởng đó là vàng thật nên liền nín khóc. Nhưng lá dương ấy thật ra chẳng phải là vàng. Đối với trâu gỗ, ngựa gỗ, rối nam, rối nữ lúc thấy rồi, đứa bé ấy cũng nghĩ là nam, nữ v.v… và liền nín khóc. Như Lai cũng giống vậy. Vì chúng sinh gây ra điều ác nên Như Lai giảng nói cho họ nghe về Thường, Lạc, Ngã, Tịnh xinh đẹp trang nghiêm của cõi trời thứ ba mươi ba; thọ hưởng năm dục trong cung điện đẹp. Chúng sinh nghe rồi sinh tâm ưa thích nên không làm điều ác nữa mà siêng năng làm điều lành. Cõi trời thứ ba mươi ba quả thật là sinh tử, không có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Vì độ chúng sinh nên phương tiện nói là có. Đại sư Chương An giải thích rằng: “Đó là hợp bốn đức trên cõi trời. Lá dương dụ cho sự luống dối, vì màu sắc ít sáng. Cây Dương dụ cho sự luống dối, thể thường mềm mại. Trâu gỗ, Ngựa gỗ dụ cho sự an vui luống dối, vì có thể đùa giỡn. Rối nam, rối nữ dụ cho cái ngã luống dối, vì giống như người”. “Chẳng phải phiền não của ý tưởng nhỏ nhiệm”: Kia có mười loại tâm sở phương tiện nhỏ nhiệm”.

  1. Thọ tức là Thọ của Thức.
  2. Tưởng: Tức là Tưởng của Thức.
  3. Hành: Tức là hành của pháp.
  4. Xúc: Tức là Xúc của Ý.
  5. Tư, Tức là Tư của Pháp.
  6. Dục: Tức là muốn nhập định, xuất định.
  7. Giải thoát: Tức là thực hiện pháp giải thoát.
  8. Niệm: Tức là niệm Tam-muội.
  9. Định: Tức là Tâm đúng như pháp mà an trụ.
  10. Tuệ: Tức là Tuệ căn, tuệ lực.

Kế là Nhị thừa v.v… trở xuống, có hai:

Một là nêu ra tướng của hạnh. “Tranh nhau nhặt lấy ngói, sạn”: Dùng để dụ cho trường hợp “Mất ngọc trong ao mùa Xuân” của Đại kinh. Hồ mùa Xuân dụ cho cảnh đắm say dục lạc trần gian của chúng sinh. Mất ngọc dụ cho giải thoát của Viên có tính hôn mê tiềm ẩn. Tin giáo lý Tiểu thừa như đi xuống nước, tu quán như vọng tìm ngọc; Chỉ thấy Thiên chân gọi là rốt ráo, như được ngói sành mà lại cho là ngọc chân thật, nghĩ là được diệt độ an ổn, giống như vui mừng đem lên. Sinh thật ra chưa hết. Vì còn chịu Biến dịch, “Việc được làm chưa hoàn thành”: Vì chưa tu tập con đường của Phật. Rời độc mà nói về giải thoát là sự giải thoát của Tiểu thừa. Ngay nơi độc mà nói về giải thoát gọi là Đại Niết-bàn của sự giải thoát tất cả. Đức Phật vì người Tăng thượng chấp đắm ba độc cho là giải thoát nên nói là lìa. Thanh văn trụ trong sự giải thoát ấy mà bảo là giải thoát rốt ráo nhưng thật ra là chưa đạt được giải thoát hoàn toàn. Đó là dùng Tịnh danh đối với văn của Pháp Hoa mà nêu ra tướng nói dối.

Hai là “Chưa được v.v…” trở xuống là kết thành nói dối.

Kế là “Phật v.v…” trở xuống là Bồ-tát, có hai:

Một là Nêu bày hành tướng của Bồ-tát: Đức Phật nói về bốn pháp môn nhưng ý là ở nhất thật. Hành giả của biệt do căn độn nên ai cũng đều chấp một pháp môn, kia và đây đều cách ngại nhau.

Hai là “Phù v.v…” trở xuống là kết thành nói dối. Thật tướng các pháp lìa tướng nói năng, lìa tướng Tâm duyên. Vì Thể của các pháp hiện hữu cùng khắp, tánh dung thông nhiều và ít. Vậy, lẽ nào chúng ta dùng Không hoặc Hữu v.v… để khẳng định, nói là số của một hoặc hai v.v…? Ngôn ngữ, suy tư của giáo lý này đã sai thì thật lý không sai hay sao?

Kế là Viên, như sau:

Một là Nêu bày về tướng, có:

– Nói về Đắc ý trì, có hai:

Một là Nêu chung về tâm, miệng, Hành giả của Viên căn tánh lanh lợi, nghe nói về Không, Hữu, v.v… là đều biết tánh vốn sẵn có. Vậy, lẽ nào bốn pháp môn của Tánh cụ lại ngăn ngại nhau? Một cửa có đủ ba cửa. Ba cửa khác cũng giống như vậy. Xứng tánh mà quán, xứng tánh mà nói; đã đều là xứng tánh thì vì tánh dứt bặt nói năng, suy nghĩ nên quán tức là không quán và nói tức là không nói. Vì vậy, Cả quán và nói đều Như thật.

Hai là “Như v.v…” trở xuống là giải thích riêng về Tâm và Miệng, có hai:

Một là Nói về vấn đề tâm lìa các tướng mà quán đối tượng được quán không có ngoài, trong. hoặc y theo Tự tha, hoặc y theo căn trần, hoặc y theo tâm pháp, hoặc y theo pháp tánh đối lập với Vô minh; các phạm trù trong, ngoài, cả hai cũng và cả hai đều không v.v… ấy đều thành bốn tướng. Diệu quán đắc giải thoát đều lìa bốn tướng ấy, cũng không dùng pháp quán của bốn tướng để đạt được giải thoát. Tánh không chẳng phải là bốn tướng, chẳng phải không có bốn tướng. Hai hình thức không này gọi là lẫn lộn Thông giáo. Chúng ta phải đặt chân vào lý Viên để phân biệt loại Thiên không kia. Thế nào là Lý của Viên? Đó là các thứ bốn tướng không ngoài Bổn giác. Toàn thể Bổn là Thỉ thì chính cảnh là quán. Vậy, lẽ nào chúng ta lại chấp đắm kiểu một chiều về tánh của bốn tướng và tướng của không có bốn tướng? Chẳng phải hai hình thái không này trở xuống gọi là giải thoát.

Hai là “Như Thật v.v…” trở xuống là khẩu tương xứng với bốn thứ Thật mà nói, có hai:

Một là y theo pháp để nêu bày: bốn câu là thật v.v… cũng là tánh không ở ngoài Bổn giác. Vì giác tánh này là chân không tuyệt đối nên gọi là Thật. Vì áo có đủ duyên khởi nên gọi là Bất thật. Vì hai hình thái ấy không ngăn ngại nhau thành “Cả hai cũng là”. Vì hai hình thức ấy không có hai tướng nên chính là “Cả hai chẳng phải là”. Vì giác tánh không nghiêng lệch nên bốn tướng đều toàn phần. Thật nhiếp ba câu là một thật thì tất cả đều Thật. Bất thật nhiếp ba, hai câu còn lại cũng giống như vậy. Vì vậy, bốn câu đều gọi là tất cả. Sự giải thích của Viên tuy bàn luận về một câu, nhưng ngoài Một không còn gì khác nữa thì làm gì Có một để nói là không tương xứng với Tánh chân thật của Bổn giác? Vì thế, bốn câu đều được gọi là Như thật thuyết.

Hai là “Kinh v.v…” trở xuống là dẫn kinh để chứng minh. Sơ tâm nói viên không khác với quả. Vì vậy, Tiên sư dẫn Bổn Phật của Pháp hoa để làm chứng. Đức Phật lập Quyền tích và Thật Bổn đều xứng hợp với Chân như. Vậy, làm gì có một câu nào mà chẳng phải thật? Âm thanh mầu nhiệm của Tương tự vị phảng phất dường như tướng bí mật của miệng Đức Phật. Mở bày Tiểu thành Đại, thường dùng âm thanh Như thật của Phật mà nói khiến cho các chúng sinh khi nghe đều được đi vào Thật.

Kế là “Viên v.v…” trở xuống là nói về Đắc ý phạm, có hai:

Một là y theo người thuộc về quả để nêu bày: Vì tuy y theo quả để mở bày nhưng ý lại làm sáng tỏ về hạnh của Thỉ nên nói là người của Viên. “Pháp môn nói dối”. Tức là pháp môn mầu nhiệm khéo léo của tánh đức. “Xứng hợp với nói dối”. Tức là Vô mà nói hữu. Ý nói rằng sự khế hợp âm thầm của mười cõi vốn là nhất thừa, chẳng có tướng khác nhau giữa ba thừa. Vì quyền nên Đức Phật phân biệt mà nói là ba, làm cho các chúng sinh đều vì rốt ráo mà tự mong cầu sự chứng đắc, mau ra khỏi sinh tử. Như không có ba thứ xe mà nói có ba thứ xe khiến cho các đứa con ưa thích thú vui và nô đùa tranh nhau ra khỏi nhà lửa, Cõi trời không có hạnh phúc thường hằng mà nói có hạnh phúc thường hằng giống như dùng lá vàng dụ cho đứa trẻ nín khóc. Đó đều là dùng Pháp môn nói dối một cách khéo léo để làm việc lợi ích.

Hai là “Kinh v.v…” trở xuống là dẫn kinh để chứng minh: Trong kinh các pháp Vô hành, lúc Văn-thù nói về pháp môn bất động tướng xong,có hàng muôn vị trời trong hư không khen ngợi rằng: “Bạch Thế Tôn! Văn-thù gọi là Vô ngại Thi-lợi, Bất nhị Thi-lợi v.v…” Văn-thù nói với các vị trời rằng: “Hãy thôi! Hãy thôi! Này các vị trời! Các ông không nên chấp đắm sự phân biệt. Ta chẳng thấy các pháp Thượng, Trung, Hạ. Ta là Thi-lợi tham dục v.v…”. trích dẫn đầy đủ thì như bản sớ ngày nay. Các vị trời chỉ lấy pháp môn Tánh thiện để khen ngợi Vănthù. Vả lại, lẽ nào Đãn trung của Biệt giáo lại chẳng phải là tánh thiện? Nếu phải dứt trừ chín căn đó mới chứng đắc thì đó là thấy có Thượng, Trung và Hạ đối với pháp. Vì Văn-thù muốn làm sáng tỏ lý Viên đốn có đủ thiện ác và đều là pháp giới nên đặc biệt dùng ba độc để gọi. Nhưng ba độc v.v… tuy đều là Tánh cụ, chẳng khác mà khác. Đều là quyền của Thật, đều là pháp phương tiện mầu nhiệm. Vì vậy mỗi câu so với Thật mà nói là chẳng đúng, thành nghĩa nói dối. Tuy là nói dối nhưng đều là tánh Pháp môn sẵn có. Sự giảng giải của quan điểm ngày nay là vừa nghe về giả của người là liền nói chẳng phải tính. Tôi biết rằng người ấy chưa sinh khởi được sự giải ngộ về Viên.

Kế là “Đem v.v…” trở xuống là nói về ý nghĩa của Phạm: Giống với đoạn “Dùng nêm để tháo nêm” ở văn trước.

Kế là “Trước v.v…” trở xuống là kết thắng. Năm lần “Lại nữa v.v…” trở xuống là nói về giới uống rượu, có hai: Một là Chỉ bày về sự lý.

Hai là “Phù v.v…” Là nói về Thiên, Viên, gồm có:

– Người và Trời, như sau:

– Rượu thuộc sự ở cõi người, có hai:

Một là y theo giáo lý để nói về lỗi. Ba mươi sáu điều sai là xuất xứ từ kinh Sa-di giới. Đại luận chỉ nói ba mươi lăm lỗi. Kết thành bài tụng rằng: “Tài sản mất vời bệnh (3). Lõa lồ, xấu phơi bày (2). vô trí, được là mất (2). Nói giấu, phá sự nghiệp (2). Lúc tỉnh sầu, thân yếu (2). Sắc hoại, khinh cha mẹ (2). Sa-môn, Bà-la-môn (2). Và chú bác tôn trưởng (2). Không kính Phật, Pháp, Tăng (3). Gần kẻ ác xa hiền thiện (2). phá giới, không hổ thẹn (2). Không tình cảm, theo sắc (2). Người ghét, thân thuộc bỏ (2). Làm ác, bỏ pháp lành (2). người trí không kính tin (1). Xa Niết-bàn, cuồng si (2). Khi chết đọa đường ác (1). Làm người thường ngờ nghệch (1) rượu có ba mươi lăm lỗi là nói trong Đại luận có việc này.

“Năm trăm đời không có tay”: Kinh Phạm Võng nói: “hoặc là Phật tử, hoặc tự tay đem rượu cho người uống thì suốt năm trăm đời không có tay. Huống chi là tự mình uống”. Phục, giấu đều là ẩn. Vì tự nói điều kín đáo nên gọi là phát.

Hai là “Sai v.v…” trở xuống là tố cáo người tôn sùng. “Dẫn mãn”: Phú của Tả tư, Thục đô đời Tấn viết: “Hợp chén thúc chiếu. Dẫn đầy phạt nhau. Vui uống đêm nay. Một say nhiều tháng” Chú: Vì cuộc rượu sắp tàn nên cùng hợp chén uống rượu, kép chiếu lại gần. Dẫn là nắm giữ. Giữ cho đầy để phạt nhau. Vì rượu nồng, niềm vui cực độ nên say lụy cả tháng.

Tam quốc chí: Thượng thư nước Ngụy là Từ Mạc lén uống rượu đến say khướt. Lúc đó, đang cấm rượu. Hiệu úy Triệu Đạt hỏi về việc của Tào hỏi. Từ Mạc nói: “Đạt là Thái tổ của Bạch”. Thái tổ rất giận. Tướng quân Tiển Vu Phụ vượt qua Từ Mạc, tiến lên nói: “Tuy khách nói về rượu rằng: “Trong sạch là bậc Thánh, nghèo cùng là hiền nhân tánh của Mạc vốn cẩn thận, lời nói ấy tình cờ vì say mà nói”. Cuối cùng Từ Mạc được khỏi tội.

Đời Tấn, Tất Trác làm Sử bộ. Nhà bên cạnh gầy rượu đã chín. Sau khi Trác say, đêm ấy lại ăn cắp rượu dưới vò mà uống. Người giữ rượu bắt trói. Sáng mai mới biết là Sử bộ họ Tất. “Tự ký tên là Tửu đồ”: Tức là lấy Tửu đồ làm hiệu. Như Nguyên Kết đời Đường tự xưng là Tửu đồ. Bì Nhật Hưu tự xưng là loại Túy sĩ.

Tam Quốc Chí: Thái Trung Đại phu nước Ngô là Trịnh Tuyền, tự là Văn Uyên, người ở quận Đông. Ông là người học rộng, có chí lạ, tánh thích uống rượu. Đến lúc mất, ông nói với mọi người rằng phải chôn ta bên cạnh nhà làm đồ gốm. Khoảng một trăm năm sau thân thể ta biến thành đất, họ sẽ lấy đất ấy để làm bình đựng rượu.

“Trúc Bạch ghi chép”: Sử chí đều ghi những việc ấy. Đời xưa ai cũng đều ghi lời nói việc làm trên thẻ tre, thêu vào lụa là vì chưa có giấy. Đời sau gọi là Cố thật. Vì vậy, Gọi Sử tịch là tre, lụa. “Xưa nay ca hát”: Người xưa nay không tố cáo sự sai lầm của rượu mà lại thường làm nhạc, làm thơ để khen ngợi nó. “Không nên làm mà làm”: Bậc Thánh Dẫn mãn. trong là việc trong bình rượu của tửu đổ đều là say xưa, buông lung. Sự sai lầm của rượu quả là rất lớn.

Sự khuyến cáo, răn đe về rượu trong thượng thư vô cùng rõ ràng, vậy mà bốn kẻ Hiền ấy làm ngược lại. Đó là việc mà người quân tử không nên làm mà làm. “Không nên hát mà hát”: Người hiền xưa nay lẽ ra nên chỉ trích lỗi lầm của rượu, vậy mà họ lại dùng lời ca, thơ phú để khen ngợi nó. hoặc làm, hoặc ca hát, nếu chẳng phải là lỗi lầm của rượu thì là của ai?

Kế là “giải thích v.v…” trở xuống là rượu hoặc của ba cõi, có hai: Một là Chỉ bày riêng, có hai: Một là Dẫn luận để nói về say thuộc kiến, tức là văn quyển tám của Thích luận. Vua tức vua ở nước Nam Thiên Trúc.

Lừa dối: Nhĩ Nhã nói: Lừa dối tức là cuồng. Chữ Chu-Trương do phản.

Kế là “Lại v.v…” trở xuống là y theo dụ để nói về vấn đề say thuộc ai?

Kế là “ba v.v…” trở xuống là tổng kết.

Kế là Nhị thừa, có hai:

Một là Đoạn thông, Theo Biệt để nói về chủ thể say. “Chín mươi tám Sử”: Kiến hoặc có tám mươi tám tư hoặc có mười, “Bốn Trụ”: Kiến thuộc ba cõi hợp thành kiến trụ. Tư thuộc ba cõi, làm Tam Trụ địa. “Chưa nhổ hết gốc Vô minh”: Tức là dụ rượu với hoặc. “Người nửa sốt rét”: Bốn trụ đã dứt, nhưng Vô minh vẫn còn. Nửa lành nửa bệnh như người bị sốt rét. Đây cũng là dụ ở Đại kinh.

Hai là gồm phàm bác Tiểu để nói về cái mê. “Dẫn người say trở về”: Nghĩa là Đức Phật dẫn người say để dụ cho sự trở về Nhị thừa. Nghiên cứu trong phẩm Ai Thán, ta thấy các Tỳ-kheo nói ví dụ say để dụ cho phàm phu trôi lăn thấy vô thường là thường như người say. Vì Tiểu thừa tu tưởng vô thường nên như người tỉnh. Đức Phật liền dùng dụ ấy để ví dụ cho Tiểu thừa. Nghĩa là đối với Chân thường mà lại thấy là vô thường tức là nghĩa của say. Vì vậy, Tiên sư mới dẫn văn say quay về. Người hợp làm văn. “Thế gian v.v…” trở xuống là văn từ tỉnh lược.

Bốn đảo, bốn đức mỗi loại đều nêu lên hai để làm sáng tỏ lẫn nhau.

Kế là Bồ-tát, có hai:

Một là y theo Giáo đạo quán đều gọi là Không hoàn toàn, có ba:

Kế là Pháp. Sự đạt đến cùng cực của Biệt giáo chỉ phá mười hai phẩm Vô minh. Vì vậy, đối với Phật tánh, sự thấy không rõ ràng. Lại nữa, từ sơ tâm không biết năm trụ tức là Pháp giới, không gọi là Phật pháp, là hạnh Bồ-tát. Vì vậy, không có được sự thấy biết trọn vẹn đối với Phật tánh.

Kế là “Như v.v…” trở xuống là dụ. Thông thường, nêu năm việc xong xuôi để dụ cho sự thấy tánh không được trọn vẹn. Tàu buồm tức là thuyền lớn. Dụ này xuất xứ từ Đại kinh. Nhưng cả mười ví dụ kia đều dụ đối với Viên. Vì phân chia lược bỏ cùng cực nên nói là “Thấy hoàn toàn không trọn vẹn”. Nay dụ cho Biệt là có hai ý.

Một là Quả cùng cực của Biệt giáo chỉ ngang với hạnh thứ hai của Viên giáo. Vì vậy, Thấy hoàn toàn không trọn vẹn.

Hai là Tức là hai giáo lý đồng đắc ý, đức của nó là Đãn trung thuộc Thất ý. Nay vì y theo Thất ý nên dùng để dụ cho Biệt. Mười Dụ ở kinh Như Lai tạng cũng như vậy. Chỉ quán tại Biệt, Thập lục quán sớ giải mà lại sáng tỏ ở Viên.

Kế là “Như v.v…” trở xuống là hợp. Hai là “Vì vậy v.v…” trở xuống là nói ngoài sự giải thoát của Viên, tất cả đều gọi là tà kiến, vì chưa đạt được Chánh kiến của Trung thuộc về Viên.

Kế tiếp là Viên, như sau:

  • Nêu bày về tướng, gồm có:
  • Chỉ bày rõ về hành tướng, có hai:
  • Đắc ý trì, có hai:

Một là Vì xứng tánh mà quán nên được gọi là tỉnh ngộ. Ý của đoạn văn này là dùng quả đức mà làm hạnh của Thỉ một cách tức khắc, thấu suốt. Nếu chúng ta không nhận thức rõ ràng về thức thứ sáu là tánh ác thì làm sao hàng Sơ tâm tu tập được hạnh Như Lai tức là quán ngay kho bí mật? Mắt thường chính là Phật, không bao giờ thay đổi phép quán mà thấy Mâu-ni bình đẳng với Diệu đức. Đại sư Kinh Khê chỉ bày đích xác là phải nghe tánh ác mới tu tập tánh hạnh, không thể xem thường lời ấy.

Hai là “Là v.v…” trở xuống vì chế phục tròn đầy nên gọi là pháp trừ rượu. Chánh và Tập của năm trụ cùng ở trong một niệm. Chính hoặc là quán, ngoài quán không có Cảnh v.v… như mặt đất bị lật thì làm sao cây cỏ tồn tại được. Cũng như ánh sáng mặt trời không thể ở chung với bóng tối. Vậy pháp của rượu nào mà không dứt trừ được? Người ấy trì giói khinh, trọng, v.v… thuộc về Sự, cùng thực hành với giới thuộc về lý ở trên trong từng niệm mới được gọi là rốt ráo.

Kế là “Viên v.v…” trở xuống là Đắc ý phạm, có hai:

Một là Nói về vấn đề vì có trí lớn nên say thuộc về Lý. Thế nào gọi là Trí lớn? Đó là trực nhận về nhân quả của Chín cõi thuộc Tánh cụ. Vì vậy, Tiên sư gọi là Pháp môn uống rượu. Chân không thật tướng như luận Khởi Tín nói: “Một là tánh Chân như có hai thứ đức. Một là Như thật bất không. Vì thể của nó có đủ hằng sa số cùng đức, không thiếu sót một điều gì”. Vì giữ gìn tất cả sai lầm nên không giống như cái bình. Vì đức dụng không ngăn ngại nên không giống như rượu. Nhưng hằng sa tánh đức tức là Pháp môn Viên dung của mười pháp giới. Chín cõi chính là Phật thành ra tướng trì ở trước. Cõi Phật chính là chín thành tướng phạm của hiện nay. Vì vậy, tướng Phạm nói: “Biến hóa năm đường, tuyên dương gầm, rống”. Việc làm ấy như cái dụng của say rượu.

Hai là “Sáng v.v…” trở xuống là nói rõ vì có đại bi nên say thuộc về Sự. Ba-tư-nặc, Hán dịch là Hòa duyệt (Vui hòa). Sau khi uống rượu, việc đáng chết mà phán định sống nên gọi là nhiều ân đức.

Mạt-lợi là Chánh hậu của vua Ba-tư-nặc. Vua thường sân hận muốn giết người làm bếp. Các quan bàn với nhau rằng trong nước chỉ có người ấy, nếu giết rồi thì sẽ không có người biết làm bếp hợp với ý vua. Lúc ấy, hoàng hậu Mạt-lợi liền bày biện rượu thịt ngon. Bà tắm gội bằng hương thơm nổi tiếng, điểm trang thân thể, đem các kỹ nữ đi đến nơi ở của vua. Vua thấy hoàng hậu tâm sân liền biến mất. Hoàng hậu liền phái người dối truyền sắc chỉ của vua là không giết người làm bếp. Sau này vua Ba-tư-nặc đem việc ấy hỏi Phật: “Hoàng hậu là người giữ năm giới, mỗi tháng ăn chay sáu ngày, trong một ngày mà phạm hai giới là uống rượu và nói dối. Trong tám giới thì phạm đến năm giới. Đó là ăn quá ngọ, trang phục hương hoa, làm việc ca xướng, nằm giường cao rộng, uống rượu và nói dối. Vậy tội phá giới ấy là khinh hay trọng? Đức Phật nói: “Phạm như vậy là có công đức lớn. Vì sao? Vì là việc lợi ích! Xuất xứ từ kinh Vị Tằng Hữu quyển hạ. Đi vào quán rượu, tức là Cư sĩ Tịnh danh. Ba người trên đều là người ở vị trí cao, đều trụ ở pháp môn quyền phương tiện khéo léo của tánh ác nên đối với trì, Phạm mà có được sự tự tại, chúng ta không thể chỉ đem vấn đề từ niệm để giải thích. Nếu không có tánh nhiễm thì lẽ nào lòng từ lại là Vô duyên?

Kế là “Phù v.v…” kết được, bác bỏ mất: Nếu đạt được cái cửa của thiện ác thuộc tánh cụ thì nghịch thuận gì cũng đều đảm đương được. Mất cái cán quan trọng ấy thì dù trì hoặc phạm đều sai, như cầm lưỡi dao tự hại mình. Vấn đề quan trọng của được và mất chúng ta chẳng thể không thấu đáo.

Kế là “Trước v.v…” trở xuống là kết thúc về hơn: Nếu thiện ác đối đãi chia đường rẽ lối thì lẽ nào say và tỉnh lại là một? Chư Phật đã thể nhập cùng tận thì lẽ nào lại có sự nghiêng lệch?

Kế là “Phép quán trên v.v…” trở xuống là giải thích về quán tâm. Lẽ nào giới thuộc lý do sự luận bàn của Viên lại chẳng phải quán tâm. Nhưng vì văn trước là giải thích theo Giáo, mục đích chính là vì khai mở sự giải thích. Nay rút lấy một niệm tâm của người giữ năm giới thành tựu ở quán tâm; chính vì, lập hạnh ngay ở sự nghe mà tu. Môn sự tu phát thì người nói nên trao. Nếu không như vậy thì đến châu báu nào có lợi ích gì? Vấn đề này được chia làm hai:

Một là Phụ kèm với câu hỏi về Đế trí ở trên. Sự quán sát bốn Đế ở trên, mỗi phép quán đều phát ra giác biết nên nói là bốn Đức Phật. Nay nói về năm giới cũng có thể quán để thành năm Đức Phật hay không? Ý của câu hỏi là như vậy.

Hai là “Quán năm v.v…” trở xuống là y theo giới thể của nay để đáp. Nếu quán năm giới là Thật tướng của năm giới là cảnh được quán, cảnh của năm giới phát hiển trí gọi là năm Đức Phật. Thật tướng vô tướng mà còn khó nói là một thì lẽ nào lại chắc chắn là năm? Do phụ với năm giới, mỗi giới đều thấy thật lý nên dường như chia làm năm. Thật lý là gì? Đó là Bổn giác. Vì giác thể này vô duyên từ nên gọi là Bất sát. Không lấy nên không trộm cắp. Không nhiễm nên không dâm dục. Vì chân thật nên không luống dối. Vì hiểu rõ nên không uống rượu. Nay, hành giả của Viên dùng ba đế vượt ngoài thuận tánh để tu về Từ. Cho đến quán thuận tánh tu về Trí. Nói thì như vậy nhưng tu thì đồng thời, cho nên được gọi là quán Thật tướng của năm giới. Quán nối nhau thì toàn thể bản giác phát triển thành Thỉ giác gọi là năm Đức Phật. Danh tự quán, năm quán hạnh đã dứt trừ đều được gọi là phát.

Kế là “Tiếp theo v.v…”trở xuống là giải thích về văn của phiền não như sau:

Một là Phân tiết để nêu văn kinh.

Hai là “Trên v.v…” trở xuống là đối biện thượng và hạ, gồm có:

– Đối thượng hạ định thể, có hai:

Một là Đối quả báo ở trên nói về nghĩa tiện lợi: Báo phần nhiều y theo Sắc. hoặc thì chỉ ở tâm. Vì vậy, Tiên sư nói “Nghĩa tiện lợi”.

Hai là “Báo v.v…” trở xuống là cùng với nghiệp hạ mà nói về sự thể khác nhau, có hai:

Một là Khởi câu hỏi: Vì danh từ nghiệp Tham, Sân, Si trong mười điều ác giống như phiền não, làm sao phân biệt được?

Hai là “Số v.v…” trở xuống là giải thích chung, có hai:

Một là Dẫn số người để giải thích.

Hai là Cùng là số người nhưng dùng nhẹ nặng để phân chia đối với hoặc nghiệp.

Kế là sự giải thích của sự ngày nay, có hai:

Một là y theo tâm để nêu bày: Tâm v.v… chắc chắn phát động thân miệng, chiêu cảm quả báo gọi là Nghiệp; Vì dị phiền não không quyết định.

Hai là “Nếu v.v…” trở xuống là nhân sự nêu bày mà sinh nghi, có hai:

Một là nghi: nếu chắc chắn tâm phát động thân miệng gọi là nghiệp, sao xấu v.v… là cảnh bên ngoài, sao lại gọi là Nghiệp chướng? Nay chỉ bày về thể của Túc nghiệp. dưới sẽ nói về tướng của túc nghiệp. Nếu nói về lúc làm khởi thì lẽ nào lại không phải là Tâm, Sắc?

Hai là “Nếu v.v… trở xuống là đối thượng hạ nói về Chuyển. Hai chướng ở nhân, vì vậy dễ chuyển. Vì chướng của quả báo đã thọ nên khó chuyển. Nếu khó mà lại chuyển được thể thì phải dứt bỏ.

Kế là “Chung v.v…” trở xuống là y theo văn để nêu bày tướng! Gồm có hai:

Một là chung, Riêng: nói về chung thì có thể thấy. Nếu nói riêng

thì kiến hoặc chấp ngã ái chỉ là chấp về Sự. Hai thứ hoặc này đều có đủ ba độc. Ba độc của chấp ngã nếu không được toại nguyện thì sợ có nhiều lo buồn. Ba độc thuộc chấp đắm về Sự đã không chấp ngã, nhưng chỉ sợ không toại nguyện thì chắc chắn không lo buồn.

Hai là “Nay v.v…” trở xuống là chỉ cho rộng: Ký lục của Đại sư Chương An không thể nói rộng về tướng kiến tư. Từ đây về sau người giảng sẽ nói từng vấn đề. Cho nên Tiên sư chú “v.v…”.

Kế là “Ba sự phá v.v…” trở xuống là giải thích nghiệp chướng, có hai:

Một là chia tiết kinh.

Hai là giải thích nghĩa, có ba:

Một Định văn là nghĩa: Nghiệp đã làm sắp chiêu cảm ác báo. Vì vậy, có tướng khác để nói lên việc ấy. Nghiệm thì biết rằng câu này nói về nghiệp chướng.

Hai là “ác v.v…” trở xuống là giải thích khái lược về văn kinh. “có khách tinh riêng”: Vì năm tinh tú, hai mươi tám vì sao thường xuất hiện thì không phải sao xấu. “Cũng là v.v…” trở xuống là y theo tinh tú thường hằng: Mất hành độ thứ lớp của tinh tú cũng gọi là sao xấu. “Một phương có bảy”: Giác, Kháng, Thị, Phòng, Tâm, Vỹ, Ky. Phương Đông có Thương long Thất Tinh. Phương Bắc có Huyền vũ thất tinh, Khuê, Lũ, Vi, Mão, Tất, Chủy, Sâm. Phương Tây có Bạch hổ thất tú. Đông tỉnh có quỹ liễu thất tinh. Trương, Dực, Chẩn. Phương Nam chu điểu thất tú. Thông thường, vì sao của bốn phương đều là số nghịch. Tú âm là Tú về “Mất phần dã”: Chu quan nói: “Thiên tinh đều có phận dã của cả quốc gia. Giác, Kháng, Thị là Duyên châu. Phòng, Tâm là Dự châu. Vỹ, Ky là U Châu. Đẩu khiên ngưu, Vu nữ là Dương châu. Hư, Nguy là Thanh châu. Doanh thất, Đông bích là Tịnh châu. Khuê, Lũ, Vị là Từ châu. Mão, Tất là Dực châu. Chủy, Huề Sâm là Ích châu. Vinh hoặc là Hỏa tinh. Hán Thư Âm Nghĩa chép: “Tinh tú yêu mị gọi là Bột tinh, Cửu tinh, Trường tinh. Cũng gọi là Sàm trưởng”. Thích danh nói: “Ánh sáng kéo dài giống như cái chổi. Ý nói rằng ánh sáng của nó loang loáng tựa như cái chổi đang quét. Lại giống như đang mải mê nên còn gọi là Ma Chửu”. Tả truyện: Thông thường, lửa người gọi là lửa. Nước trời gọi là Tai”. Nay chỉ lấy sự trái thời tiết của gió, mưa, tuyết, sương mà đều gọi là Tai. Pháp tà là nói về kinh sách của ngoại đạo. “Cổ đạo” giải thích theo Sư thì đó là trên quỷ độc hại đối với người. Cổ là loài vật hại người. Thuyết văn nói Cổ là Cổ trong bụng. Lăng-nghiêm nói: “Tham, Sân là tội, tội người ấy hết rồi gặp Trùng giới hình gọi là Cổ độc quỷ”. Giải theo Lý thì đó là ba độc của tự tâm gọi là Cổ. Loại cổ này thường hại thân trong trăm, ngàn, muôn kiếp. Pháp thân tuệ mạng là đối tượng bị nó làm hại mãi mãi, so với sự làm hại của quỷ thì quỷ độc rất ít. Thân hình, âm thanh hôi thối xấu xa, ai thấy nghe đều sợ hãi.

Không thích ý là không vui hòa.

Ba là “Phù v.v…” trở xuống là khuyên chánh tín, có hai:

Một là nói về tướng thấy, biểu thị cho năm tội, có hai:

Một là y theo văn hiện nay để biểu thị. Thân, Lý tức là thân thiết, kiện tụng đấu tranh. Ngay trong tối tăm bị gia hại bởi pháp vua. U gọi là cảnh tối tăm.

Hai là“Kỳ v.v…” trở xuống là thông lệ cho các tướng khác cũng giống như vậy.

Hai là “Hành v.v…” trở xuống là răn đe hành giả hỏi với thầy tà. Lễ ký nói: “Rùa gọi là bói, Thi gọi là Đồng bóng. Bói và con đồng là để giải quyết sự nghi ngờ, định sư do dự”. Nay nói rằng “Bẻ cật tre”, Cật tre là nói đến Cật trúc. Tức là đếm cỏ thi, lấy quẻ, bẻ cật trúc làm văn. “Quản Công Minh”: Người đời Ngụy, tên là Lộ, Tự là Công Minh. Ông là người bói, hỏi đồng giỏi. Những người đến nhờ bói đều hiệu nghiệm. Nếu biết rằng quả báo ác là do tội mà kết, tội lại do tâm. Nếu sửa tâm cho chính đáng thì tội báo tự tiêu sạch. Không tu tập đức bên trong thì bói và hỏi đồng để làm gì? Ngô Thị Xuân Thu nói: “Lúc Tống Cảnh Công có sao Huỳnh hoặc trong tâm. Ông ta cho gọi Tử Vỹ đến hỏi lý do. Tử Vỹ nói: Đại vương sắp bị họa. Tuy thế, cũng được chuyển đến chỗ vị Tể tướng. Ông ấy nói: Tể tướng là người được sửa đổi cho quốc gia. Có thể thể dời sang người dân. Ông ấy nói: Nếu dân chết thì quả nhân làm vua với ai đây? Ai cho rằng ta là Vua? Tử Vỹ nói: Lời nói của Đại vương có ba điều chí đức. Như vậy, chắc chắn trời sẽ phù hộ cho Đại vương. Huỳnh hoặc phải dời đi ba nhà. Mỗi nhà phải đi chừng bảy dặm. Một dặm mất một năm. Như vậy, Đại vương sẽ kéo dài tuổi thọ thêm hai mươi mốt năm. Quả thật, Huỳnh hoặc dời ba nhà”. Huống chi người có thể nội quán pháp tánh, đạt được vốn không, bình đẳng giữa chúng sinh và Phật ở trong tâm, khởi từ bi nơi pháp giới thì lo gì sự biến động của sao xấu không bị diệt. Vì vậy, ở đoạn văn kế Tiên sư nói về phương pháp.

Kế là “Từ v.v…” trở xuống là nêu phương pháp: Nếu y theo sự khai mở đầu tiên thì chia làm bốn chương. Ở đây hợp với phương pháp năng phá thứ ba. Nay y theo trùng khoa.

 

Phần cuối

Từ “Các căn không đủ v.v…” trở xuống là trình bày về phẩm Không. Văn chia làm hai:

Một là ba bài rưỡi là nói về điều ác bị dứt bỏ. Tức là văn nói về ba thứ chướng. Hai bài rưỡi tiếp theo là nói về phương pháp năng phá. Tức là văn hiện nay. Nhưng, giải thích xong một bài rưỡi, Tiên sư lại y theo khai chương đầu tiên lấy một bài cuối làm bốn sự kết thành. Nhưng lấy nghĩa thành phân chương mà chia như sau:

Một là Chia kinh lập ý để thuận với trùng khoa nói là: “Năng không”.

Hai là “Trước v.v…” trở xuống là y theo ý để giải thích kinh, gồm có:

Một là Lập ý. Nhương tức là tạ. Lại, trừ tai ương là tế.

Hai là “Tẩy v.v…” trở xuống là giải thích kinh, có hai:

Một là Giải thích về ba câu trước: Vì muốn biết trí ở tại lời nói nên lấy việc nghe kinh làm Bát-nhã. Lại nữa, vì nghe kinh có trí tuệ, vì tâm có nhiễm ô nên dụng không tự tại. Nay đã thanh tịnh nên thành tựu sự giải thoát.

Hai là “trước khiến cho v.v…” trở xuống là giải thích ba câu sau: Cảnh của dốc lòng tức là hành xứ sâu xa. Nếu không nghĩ đến nơi ấy thì làm sao được gọi là dốc lòng?

Kế là “Phù v.v…” trở xuống là khuyến tín, có hai:

Một là y theo thân để trình bày về loại. Ba nghiệp đời nay là thân của biểu pháp. Nó vốn là thân máu huyết không sạch, kế là nêu lên hai ví dụ là gỗ thơm Chiên-đàn và Cây Y-lan có mùi hôi. Đại kinh nói rõ trường hợp vua A-xà-thế gây ra tội. Sau khi được thấy Phật, tội được tiêu trừ nên vua liền tự bày tỏ rằng: “Con thấy ở thế gian, từ hạt Y-lan mà sinh ra cây Y-lan, chứ chưa hề thấy Y-lan mà mọc cây Chiên-đàn. Hôm nay, con mới thấy từ hạt Y-lan mà sinh ra cây Chiên-đàn. Hạt Y37 lan là con. Cây Chiên-đàn là Vô căn tín trong tâm con”.

Hai là “Nay v.v…” trở xuống là y theo hạnh để mong cầu. Tuy ba nghiệp là gần mà ba đức là xa, nhưng nếu hành giả tu đúng khuôn phép thì sẽ thành tựu cái xa ngay nơi cái gần. Quy (hình) tròn, Cũ (hình) vuông. Mạnh Tử nói: “Thợ giỏi dạy người phải dùng khuôn phép”.

Kế là “Tẩy v.v…” trở xuống là Hạnh thành phá được chướng. Nếu đối với tắm gội v.v… mà không có sự quán sát của ba đức thì làm sao từ tạ tội ác của ba chướng?

Kế nữa là “Tự là v.v…” trở xuống là kết thành, có ba:

Một là Phân tiết để chỉ bày văn kinh.

Hai là “Năng v.v…” trở xuống chính là giải thích nghĩa kinh.

Ba là “Tịch v.v…” trở xuống là nói chi tiết về ý kinh, có bốn:

Một là Y theo văn hiện nay để chỉ bày về pháp: Tịch diệt là âm Hán. Niết-bàn là tiếng Phạm. Danh từ Niết-bàn mời gọi thể của ba đức. Vì vậy, chúng ta biết rằng Tịch diệt là sự thành tựu của ba đức.

Hai là “Trước v.v…” trở xuống là y theo hạnh thành thì đức hiển. Ba nghiệp đã tu tập hạnh của kinh Kim Quang Minh, thành trì khế hợp với lý của ba đức. Tu ở Danh tự quán hạnh tương tựa, đến giai vị phần chân đều đạt được gọi là chuyển chướng thành đức. Nếu không như vậy thì lẽ nào lại nói là thực hành kinh Phương đẳng?

Ba là “Báo v.v…” trở xuống là nói về sự chuyển chướng thành đức.

Bốn là “Trước gửi v.v…” trở xuống là nói kinh khéo léo khó hiểu được.

Kế là nói về lưu thông nói rõ giáo tướng: Sớ chỉ đại lược ở trên.

Kế là Nói về niệm nghi, có hai:

Một là Giải thích tựa đề của phẩm Thọ Lượng.

Hai chính là giải thích, có hai:

– Y theo ba vị Phật khó suy nghĩ để giải thích như sau:

Một là Phật vốn không có ba, chẳng những chỉ có Phật thuộc về pháp thân chẳng có thân, tuổi thọ mà ngay cả Báo và Ứng cũng không thể nói là ba. Vì, tất cả các pháp lìa tướng danh tự, nói năng.

Hai là “tùy thuận v.v…” trở xuống là tùy thế gian mà lập. Nếu chúng sinh có nhân duyên được lợi ích thì chư Phật liền tùy theo thế gian mà lập ra các danh, tướng. Chẳng những chỉ có Đức Phật thuộc Ứng thân là có lập ra thân và tuổi thọ mà ngay cả Pháp thân và Báo thân cũng có thể nói về ba loại này. Chúng ta phải biết rằng dầu không có ba nhưng không thể bớt một pháp nào. Tuy lập ra ba nhưng ba cũng không làm tăng thêm một pháp nào. Bởi hữu và Vô đều là Pháp giới. Vì vậy, Chân thì không, tục thì có, chân thì có, tục thì không, đều là Tất-đàn, đều làm cho ba thân đạt được bốn lợi ích. Văn ở đây chia làm hai:

Một là nêu ba thứ thân, mỗi thứ đều có ba thân.

Hai là giải thích ba Đức Phật, ba nghĩa, có hai:

Một là y theo nghĩa để phân biệt, có hai:

Một là Y theo tính chất dùng nhiếp, chính là của lý mà lại theo hai của tu, một của tánh khiến cho nghĩa dễ sáng tỏ. Pháp là Bổn giác, Báo là Thỉ giác. Thỉ Bổn hợp nhất mới có dụng của Ứng. Nói lượt đầu thì dường như Dọc. Người nói thì nên dùng đoạn văn chẳng phải Dọc, chẳng phải Ngang của tính chất dung nhiếp khéo thể hội ý nghĩa này. Đoạn văn “Khiến cho người nghe biết được ba thân viên mãn” gồm có:

Một là “Pháp thân v.v…” trở xuống là Đức Phật của Pháp, có hai:

Một là Giải thích riêng, có ba:

Một là Thân: Trí thuộc quả báo của Thỉ giác y theo Bổn giác mà thành. Vì vậy, Tiên sư dùng Pháp tánh làm thầy, nghiên cứu đến cùng cực thì Thỉ và Bổn vốn chỉ là một giác. Vì vậy, “Lại lấy pháp tánh làm thân”, cho nên ngài Mã Minh quy mạng Tam bảo. Tức là lấy thân Phật và Thể tướng v.v… làm pháp bảo. Các thứ thân ấy chẳng phải là thân được thu nhiếp bởi ba khoa là phần đoạn, Biến dịch, Sắc chất và Tâm trí. Chúng là do sự tu tập của các pháp năm ấm, v.v… thuộc thường trụ. Pháp này chẳng có tướng, chẳng thể nói khai thí. Vì chúng sinh nên Đức Phật gắng gượng gọi là Pháp thân.

Hai là “Pháp tánh v.v…” trở xuống là nói về thọ lượng: Sắc và tâm hòa hợp liền có quả báo tuổi thọ được giữ gìn nối tiếp. Thân đã chẳng phải ấm thì lẽ nào lại có mạng căn? Vì vậy mà gắng gượng chỉ bày rằng không dời đổi là tuổi thọ.

Ba là “Tuổi thọ này v.v…” trở xuống là nói về Lượng: Vì lượng y theo thân và thọ nên cũng đồng với sự gắng gượng.

Kế là “Đây tức là v.v…” trở xuống là giải thích chung. “Thân, Thọ và Lượng ở trên nói là chẳng phải là không vô”: Nếu y theo văn tiếp theo thì nghĩa hợp với “Cả hai đều không”. Vì Pháp thể của thọ lượng lìa hai bên và vượt hẳn Báo và Ứng. Gắng gượng đối với lý này mà lập ba thứ danh tự là Thân, Thọ và Lượng khiến cho chúng sinh mất tình thức.

Kế là “Báo thân v.v…” trở xuống là nói về Đức Phật của Báo, có như sau:

– Xưng Pháp có Báo, có hai:

Một là Dẫn kinh: Ở đây y theo sự thuận tu xứng hợp với lý Sự mà nói. Cái cảm được do tu hành giải thích nghĩa của Báo. Văn của Pháp Hoa chứng minh cho vấn đề báo của trí đức. Vì kinh ấy nói: “Ánh sáng của trí tuệ chiếu sáng vô lượng”. Nên văn của Niết-bàn chứng minh cho báo thuộc dức dứt, vì nói là đại Niết-bàn.

Hai là “Như v.v…” trở xuống là giải thích về nghĩa Báo của hai thứ do tu hành cảm được, đó là sự hợp nhất của Thỉ giác và Bổn giác. Tức là lấy Thỉ và Bổn làm Cảnh trí. Vì hai thứ giác ấy chẳng phải hai nên gọi là Như. “Mỗi loại đều hai Như”: Vì Như của Trí như Cảnh, Như của Cảnh như Trí. Lại gọi Bồ-đề là Như Như trí, làm chủ thể thầm hợp với Pháp tánh gọi là đối với Cảnh của Như như làm sự thầm Ứng hợp thuộc chủ thể lấy sự hợp nhất của nắp và hộp ở trước dụ cho nghĩa của tương xứng. Tuy nắp và hộp hợp nhau nhưng vẫn còn khe hở. Lại dùng nước và sữa dụ cho sự âm thầm. Đây là sự biến mất cả mà thành một tướng. Nghĩa của Thỉ giác và Bản giác là hai, nhưng Thể chỉ là một, thật sự giống như hai ví dụ đó.

Kế là “pháp thân v.v…” trở xuống là nói về sự y theo Báo mà lập ra ba loại: Tức là Thân, Tuổi thọ và Lượng. “ Trong ba thứ ấy, mỗi loại đều nói Pháp thân”. Vì sự thầm hợp của trí thuộc Báo vốn lìa pháp không có Báo cho nên là thân đầu tiên. “Nói không có thân”: Chẳng phải là Đức Phật thuộc Ứng không có thân thuộc phần hạn. “Không phải không có thân”: Chẳng phải Đức Phật thuộc Báo không có cái thân phần hạn. Lại nữa, không có thân tức là Phi hữu. Chẳng phải không có thân tức là Phi không. Pháp thân của Trung đạo là thể của Bổn giác. Thỉ giác thầm hợp với điều đó, chủ thể thầm hợp cũng mất vì tựu thành phép quán nên gượng gọi là Báo trí.

Kế là Thọ.

Kế là Lượng.

Tất cả đều như cái hang, tiếng vọng; lớn hay nhỏ là tùy theo âm thanh. Vì vậy, cả ba thứ này đều gọi là giống thuộc Ứng.

Kế tiếp là “Trí cùng v.v…” trở xuống là nói về y theo hai mà có Ứng, có ba:

Một là Pháp: Bất giác mất chỗ. Thỉ và Bổn như một. Vì vậy, nói là trí cùng thể thầm khế hợp. Vì thể của giác tự tại nên nói rằng “Có năng lực khởi phát công dụng vượt hơn”.

Hai là “Như nước v.v…” trở xuống là dụ cho vàng thật màu sắc tốt nhất: Phải hòa với thủy ngân mới bôi vào vật. Nếu thiếu một điều kiện ấy thì Vàng không có công dụng của bôi.

Ba là “Công đức v.v…” trở xuống là hợp công đức của Báo Trí để hợp với thủy ngân. pháp thân hợp với Vàng. Ứng hiện khắp nơi hợp với bôi vào sắc tượng.

Kế là “Có thể làm v.v…” trở xuống là nói về Ứng thân hiện hữu khắp cả ba vùng đất, có hai:

Một là nói về cả Báo và Ứng.

Hai là “Có lượng v.v…” trở xuống là chỉ khai thị về Ứng thân. “Nghĩa đầu tiên”: Báo do ở trên nói là chỉ nói về sự thầm hợp với pháp. Tức là Thọ dụng. Vàng là nói về sự hiện ra Ứng để người khác thọ dụng, là Ứng thuộc thường trụ. Vì vậy mà nói về cả Thân và Phi thân v.v… Thân tức là Sinh thân, vì có tướng của phần hạn nên gọi là Thân. Phi thân là Báo. Vì không có phần hạn nên gọi là Phi thân. Tiểu Bát-nhã nói: “Phật nói không có thân mới gọi là thân lớn”. Thân lớn tức là thân thuộc Tha thọ dụng. Vì thân không có phần hạn thì cho mạng là thường hằng nên là vô lượng. Tuổi thọ của thân có phần hạn thì vô thường nên có hạn lượng. Hai dụng của Ứng này là y theo hai lý của Chân và Trung mà trụ. Căn cơ thì y theo hai thức của Sự Nghiệp mà thấy. Vấn đề trụ lý rộng thì như sự giải thích của văn bản thuộc phẩm Trụ.

Hai là tức được trình bày rõ trong luận Khởi Tín. Vì ý luận quan trọng là ở Sự thức, vì nếu thấy thì nắm lấy phần hạn của sắc nên gọi là Ứng Phật. Nếu Nghiệp thức thấy thì sẽ lìa bỏ tướng của phần hạn. Vì vậy, đó là Báo thân. Hành giả nên biết rằng thân thường hằng nhiều vô lượng, Ứng với cả ba vùng đất. Vô thường có lượng chỉ Ứng với Đông cư. Vì sao? Vì căn cơ của thật báo chứng từng phần nên chỉ nói về thân tha thọ dụng. Hành giả của cõi phương tiện chỉ nhờ vào Biệt và Viên. Tướng Đức Phật mà họ thấy tuy nhỏ nhưng chẳng phải Sinh thân mà đều là Phật thuộc báo. Nếu cõi Đồng cư có Cơ thuộc bốn thứ giáo thì người căn cơ Biệt và Viên sẽ thấy được Phật thuộc báo. Vì vậy, Pháp Hoa nói rõ là thường ở tại Linh Sơn. Hoa Nghiêm nói pháp đến cùng tận thời gian vị lai. Và các vị Đại thừa thì được thân tôn đặc của Pháp tánh ngay nơi ứng tướng. Vì vậy, chúng ta biết rằng thân thường hằng ứng hiện khắp cả ba vùng đất, nếu là thân vô thường thì chỉ ứng hiện ở Đồng cư để đáp ứng với căn cơ thuộc Tạng và Thông cùng với chúng phàm phu. Nghĩa tiếp theo chia làm hai.

Một là Nói về hai nghĩa của Hữu lượng: “Ngoài Tự thọ dụng lại

có thân ở ba vùng đất” đã được nói trên kia đều gọi là Ứng thân. Tha thọ dụng khác của nó tuy y theo căn cơ để gọi là Ứng thân, nhưng đó là sự chiêu cảm của Thật nhân khắc phục mà gọi là Báo, chứ chẳng phải là dụng sai biệt hợp với căn cơ. Nếu nói về sự trục vật, tùy duyên, ngắn dài so le, Thân, Thọ và lượng thì phải đặt chân ở dụng thuộc vô thường của Đồng cư. Vì vậy, nay nêu riêng về tướng của Ứng thân. Nhưng, ở nơi hữu lượng mà mở ra hai thứ Lượng. Vì hai thứ lượng này y theo Đãn không của Sự thức để thấy nên chỉ thuộc về vô thường. Nếu y theo Bất không thuộc Nghiệp thức mà thấy thì ngay nơi toàn thể vô thường là thường. Như vậy thì hai dụng thường và vô thường cũng chính là lẫn nhau, hai con chim cùng bay đi. Nếu là hai vùng đất trên thì Cơ dừng, Ứng chuyển, cũng là vô thường. Vì chẳng phải là tám tướng mà lại nói là Thường. “Bảy trăm v.v…”: Kinh Thủ-lăng-nghiêm Tam-muội nói:

“Bồ-tát Kiên Thủ hỏi:

– Đức Phật sống được bao lâu?

Đức Phật bảo Bồ-tát ấy:

– Đi về hướng Đông, qua ba mươi hai ngàn cõi Phật, ở cõi nước Trang nghiêm, hỏi Đức Phật Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương.

Đức Phật ấy đáp:

– Tuổi thọ của ta cũng giống như Đức Phật Thích-ca, ông muốn biết ư? Ta sống đến bảy trăm A-tăng-kỳ kiếp.

Bồ-tát Kiên Thủ trở lại cõi Ta-bà bạch với Phật.

A-nan nói:

– Đức Phật ấy là tên gọi khác của Đức Phật Thích-ca.

Tuy căn cơ thù thắng thấy lâu dài, nhưng bảy trăm vẫn còn có thể đếm. Vì vậy, cũng là lượng của hữu lượng. Nếu là người và trời của Phật A-di-đà thì chẳng thể đếm. Vì vậy, tuổi thọ của họ là vô lượng của hữu lượng.

Kế là “Ứng Phật v.v…” trở xuống là kết Ứng Phật cũng giống như vậy: Đức Phật nào cũng đều đã Ứng viên mãn ba thứ thân. Ứng thân vào chúng sinh kia, tuổi thọ của chúng sinh có dài ngắn thì lẽ nào Đức Phật lại không thuận theo mỗi loại chúng sinh mà thị hiện hai thứ lượng. Vì vậy, Đức Phật A-di-đà hiện dài mà cũng có thể hiện ngắn. Đức Thích-ca hiện ngắn nhưng cũng có thể hiện dài, cho nên, Đại luận quyển ba mươi sáu chép: “Nên nhớ rằng Đức Phật Thích-ca cũng có cõi nước thanh tịnh như cõi Phật A-di-đà. Đức Phật A-di-đà cũng có cõi nước không trang nghiêm thanh tịnh như cõi Phật của Đức Thích-ca”.

Lại nữa, quyển ba mươi tám: “Vì cõi Diêm-phù này xấu ác nên Đức Phật Thích-ca ứng hiện ngắn, vì các nơi khác tốt đẹp nên tuổi thọ của Phật Ứng hiện dài”. Vì lẽ đó, phẩm thứ ba mươi hai kinh Niết-bàn nói: “Phương Tây cách đây ba mươi hai hằng hà sa, có cõi nước Vô thắng. Những sự trang nghiêm mà cõi nước ấy có được giống như thế giới Cực lạc. Ta từ cõi nước ấy mà xuất hiện ở thế gian”. Đó đều là tùy theo căn cơ chúng sinh.

Hai là “Nhưng, đó v.v…” trở xuống là y theo tính chất dung nhiếp và chính là của Lý, có hai:

Một là y theo sự dung nhiếp thuộc Lý: Ba thứ thân ở trên, cả ba đều là ở Tánh tức là cùng. Hai là Từ tu có tức là Biệt, không chia ra tu và tánh tức là một. Ba không dung nhiếp nhau tức là Dị. Vì là Biệt và Dị nên thuộc về Dọc. Vì cùng là một nên thuộc về Ngang. Nếu như vậy thì sai đối với Pháp thể được giải thích. Nếu chứng đạt được mầu nhiệm thì chỉ là một Pháp tánh. Nếu có khả năng thành tựu tánh thuộc một và Tu thuộc hai thì gọi là Ngay nơi một mà là Ba. Tu và tánh có đủ ba loại thân, một Tánh là Ngay nơi ba mà là một. Đó được gọi là “Toàn tánh tại tu. Toàn tu tại tánh”. Tánh không có cái bị dời đổi, Tu thường uyển chuyển mới hợp với văn mầu nhiệm thuộc chủ thể giải thích.

Hai là “Vì thế, dưới v.v…” trở xuống là dẫn văn để chứng minh. Văn kinh nói đủ rằng: “Nếu đi vào kinh này tức là đi vào Pháp tánh”. Như Pháp tánh sâu xa tức là đối với kinh Kim Quang Minh này mà được thấy Đức Thích-ca Mâu-ni. Vì vậy, trong Đại kinh nói rằng ba thứ Đức chẳng phải Dọc, chẳng phải Ngang gọi là Đại Niết-bàn. Nay ta an trụ trong ba pháp như vậy. Vì chúng sinh nên nói là nhập Niết-bàn”. Do đó, chúng ta biết rằng nếu không đạt được sự dung nhiếp mầu nhiệm của ba và một thuộc ba thân thì chẳng thể gọi là thấy Phật. Sự giải thích về ba Đức Phật của hôm nay đã được sự dung tức, mới hội được văn mầu nhiệm của kinh này.

Kế là “Chỉ tin v.v…” trở xuống là nói về sự khéo léo của hai chữ tựa đề, có như sau:

– Nói về ý, có hai:

– Từ “Ứng Phật dung nhiếp cả ba mà giải thích, có hai:

Một là Nói rõ vì Thiên mà nghi về sự thấy thể của Viên: Nghi của Thiên là tám mươi tướng là Ứng, có Lượng. Bốn Đức Phật nêu dụ nói về vô lượng của Ứng. Vô lượng đã phá mối nghi của hữu lượng tức là đạt được Pháp và Báo chẳng phải lượng cũng chẳng phải vô lượng. Đó là do chỗ nghi của Thiên mà thấy đối với thể của Viên.

Hai là “Nếu theo v.v…” trở xuống là giải thích về theo thể của Viên, không thiên đề, có hai:

Một là Chỉ về tướng thiên đề của Thiên.

Hai là “Mà nay v.v…” trở xuống là chỉ bày về ý của sự luận bàn của Viên: Vì không Thiên đề nên ba là hai chữ thọ lượng có thể giải thích.

Kế là “Lấy ý v.v…” trở xuống là y theo sự dung nhiếp của Đức Phật thuộc về Báo Phật, có ba:

Một là Nói về thể của Đức Phật thuộc Báo là Viên Dung: Ở trên y theo tựa đề của phẩm, hai chữ Thọ Lượng không nghiêng lệch Hữu hoặc Vô. Như vậy thì gồm nhiếp hai thứ Ứng. Có khả năng hiển bày Pháp và Báo theo chỗ tiện lợi của văn. “Nếu theo sự tiện lợi của nghĩa”: Văn nay đã lấy quả đức làm Tông, dùng sự hợp của Báo thân để giải thích đối với mục lục của phẩm. Lấy Báo thân ở trên thầm hợp với Ứng ở dưới thì nghĩa của ba thứ thân tự nhiên thành tựu. Vì vậy, hai chữ chính là ở báo thân.

Hai là “Lượng nghi v.v…” trở xuống là nói về nhân nghi mà đạt Viên, nghĩa Báo thân được sáng tỏ. Do bốn Phật dùng Ứng trường thọ để giải thích về nghi đoản thọ nên khiến cho Tín Tướng đạt được đối với Báo trí có đủ ba thân.

Ba là “Nhà chuyển về kinh v.v…” trở xuống là nói về từ Viên mà đề phẩm. Tựa đề gọi Thọ lượng, chính là ở Báo thân. Ở đây theo cái thấy được viên giải của Tín, Tướng. Tế giống như đang. Nêu một của Báo thân đối với các của ba thân.

Kế là “Từ đây v.v…” trở xuống là nêu bày về lập đề, gồm có:

– “Lại nữa, một v.v…” trở xuống là nói về sự giải thích lượt hai, lại có:

Một là Nêu bày về sự giải thích khác về thời. Vì Đại sư chẳng những một hồi giải thích cho nên đối với “Một thời” lại lập ra danh nghĩa riêng. Đại sư Chương An đã “Nghe” nên ghi chép cả.

Hai là “Cũng làm v.v…” trở xuống là nói về sự giải thích khác về tướng, có hai:

Một là Nêu bày về Chương môn: Huyền nghĩa: Văn Tuyển nói: “Tuấn triết huyền giám”. Chú: Huyền là Thông, ý nói rằng lìa văn khai thị chung về nghĩa của nó nên gọi là Huyền nghĩa. “Dẫn chứng”: Vì dù diệu ngộ đối với nghĩa nhưng lại thông hội với kinh nên dẫn văn làm chứng, giúp cho người sinh khởi niềm tin. “Trở về nguồn”: Phẩm đề là giòng phái, mục lục của kinh là nguồn. Ba thân làm sáng tỏ thọ lượng.

Không lìa Pháp tánh, nguồn Kim Quang Minh; nhiếp trở về nguồn này, khiến cho nghĩa được rốt ráo.

Hai là “Huyền nghĩa v.v…” trở xuống là y theo Chương đề giải thích như sau:

– Huyền nghĩa, có hai:

– Nêu thẳng về thọ lượng của ba thứ thân, có ba:

Một là Ứng thân, có ba:

Một là Thọ.

Hai là “Dài ngắn v.v…” trở xuống là Lượng.

Ba là “Giải thích này v.v…” trở xuống là kết. Nhân duyên: Cảm và Ứng làm nhân duyên lẫn nhau.

Kế là lại nữa, “Thọ v.v…” trở xuống là Báo thân, có ba:

Một là Thọ: Ngoài trí không có Cảnh, ngoài Cảnh không có Trí gọi là cùng đựng nhận. Vì đã dứt bặt chủ thể và đối tượng nên không phân biệt hộp và nắp. Đương thể của tuyệt đối gọi là Đại.

Hai là “Lượng v.v…” trở xuống là giải thích về Lượng. Cảnh và Trí đều hiện hữu khắp nơi gọi là tương ưng. Sự tương ứng này thật sự không có khe bờ. Nghĩa là nói đối với lượng.

Ba là “Giải thích này v.v…” trở xuống là kết.

Kế là “Lại nữa, Thọ v.v…” trở xuống là Pháp thân. Gồm có ba:

Một là Thọ: Pháp thân không thay đổi, không có quá khứ, vị lai và hiện tại; đó là nghĩa của chân thường, vĩnh cữu. Y theo nghĩa hằng cửu này mà giải thích về thọ của Pháp thân.

Hai là “Lượng là v.v…” trở xuống là Lượng. Cân nhắc cũng như đo lường. Tuổi thọ của Thường thật sự khó đo lường, gượng dùng “Cả hai đều chẳng phải” để đo lường. “Không nhiều v.v…” là đưa ra tướng của sự đo lường. Đầu tiên là chẳng phải số nhiều hoặc ít, kế là chẳng phải biết hoặc không biết. Thứ ba là chẳng phải nói hoặc không nói. Đó là làm sáng tỏ Pháp, Thọ là Cảnh không thể suy nghĩ bàn luận. Vì vậy. Đại luận nói: “Không thể suy nghĩ bàn luận tức là không quyết định”. Nếu lìa có thể nói mà cho rằng Pháp, Thọ quyết định không thể nói thì gọi là quyết định chẳng phải là không nghĩ bàn. Ý của “Cả hai đều không” Ở trên cũng giống như vậy. Đo lường như vậy gọi là sự đo lường của thường hằng vĩnh cữu. Lại nữa, số nhiều hoặc ít đo lường đối với Pháp, Thọ chẳng phải là dụng của dài và ngắn; cái biết cùng tận hay không cùng tận đo lường Pháp, Thọ thì thể của chúng chẳng phải là im lặng hay nói năng.

Ba là “Sự giải thích này v.v…” trở xuống là kết, có hai:

Một là “Lược v.v…” trở xuống là liền tạo ra ba thứ “Cả hai để hiển bày: Vì trước đã trực tiếp lấy Cảnh trí dài ngắn cùng nghĩa của cả hai đều không để nêu bày về ba thứ thọ lượng. Nhưng sợ rằng vẫn khó giải thích nên nay mỗi loại đều dùng hai nghĩa đo lường là vì muốn giúp cho hành giả biết tướng của Đức Phật. Văn chia làm ba. Lượt thứ nhất là hai nghĩa của Ứng Phật, lượt thứ hai là nghĩa của Báo Phật, Cảnh không phân biệt chứ chẳng phải nói là cảnh không ngơ, hoàn toàn không có tri giác. Đó là chỉ cho tâm thể vốn lìa niệm gọi là vô phân biệt. Ở đây lìa tâm niệm toàn thể giác ngộ, gọi là trí có phân biệt. Cảnh và Trí này rốt ráo xứng hợp nhau. Ngoài trí không có Cảnh, Cảnh có phân biệt. Ngoài cảnh không có trí, trí không có phân biệt. Cho nên cảnh chiếu nơi cảnh, trí vắng lặng nơi trí. Dùng hai nghĩa ấy làm sáng tỏ tướng của Báo thân. Lượt thứ ba là hai nghĩa của Pháp và Phật. Vì thể vốn không có tướng nên chẳng thể nói. Vì y theo nguồn từ để làm sáng tỏ đức nên có thể nói.

Kế là Dẫn chứng, gồm có:

– Dẫn văn ngày nay, có ba:

Một là Dẫn hai văn để chứng minh hai nghĩa của Ứng thân.

Hai là Dẫn ba văn để chứng minh hai nghĩa của báo thân. Hư không dụ cho sự giữ lấy thông với ở trước. Bất hoại dụ cho Ứng của vô lượng. Nay là dùng Vô tướng để chứng minh cho tính chất vô niệm của Cảnh.

Ba là Dẫn ba văn để chứng minh cho hai nghĩa của Pháp thân.

Hỏi: Ở trước nói rằng bốn dụ đều dụ cho Ứng thọ, đều là vô lượng. Vậy, tại sao nay lại trích dẫn để chứng minh cho Báo và Pháp.

Đáp: Chẳng phải toàn bộ Pháp, Báo là Ứng thân. Ứng thì chắc chắn đoạn diệt đâu thể ngắn dài không hề dừng nghỉ. Nay vì muốn hiển bày sự dung nhiếp mầu nhiệm của ba thứ thân nên phải dùng Ứng để chứng minh cho Pháp và Báo. Nếu người học không hiểu được ý ấy thì chẳng thể nào biết nhận sâu sắc về các thân đối cơ của Đại thừa.

Kế là Dẫn bản mới, có hai:

Một là chứng minh riêng về hai nghĩa của Ứng thân. Bà-la-môn Kiều-trần-như kia muốn có được xá-lợi Như Lai như hạt cải, hạt lúa. Đó là vì ông biết chín tuần nữa Như Lai sẽ diệt độ nên mới mong cầu. Điều ấy có thể chứng minh rằng tám mươi là hữu lượng. “Vương tử v.v…” trở xuống là Vương tử Lật-tỳ đáp Bà-la-môn. Tuy tức là Pháp, Báo nhưng lại từ phước báo để chứng minh thắng Ứng.

Hai là chứng minh chung về bốn nghĩa của Pháp và Báo. Tri tức

Báo thân, Cảnh tức là Pháp thân; có đủ bốn nghĩa, có biết và không biết, nói hoặc không nói nhưng chỉ nêu một để ngang bằng với ba nghĩa khác. Vì cả bốn nghĩa đều dứt bặt suy nghĩ nên có thể dùng chung cảnh giải thích là khó nghĩ bàn để chứng minh. Vì khiến cho nói lại ý này nên Trần Sư chú thích rằng v.v…

Kế là trở lại nguồn, gồm có:

Một là nói chung về ý: Nhưng Pháp, Báo và Ứng cùng Kim, Quang và Minh đều là danh của Pháp tánh đương thể; chúng vốn không có sự hơn kém. Vì kinh này chính thức dùng kim v.v… để nói lên Pháp tánh nên Đức Phật đề xướng đầu tiên để làm con mắt của kinh. Vì lẽ đó, Kim Quang Minh được làm tông, nguồn. Tất cả ba pháp đều thành dòng phái. Kim giải Thọ lượng nên phải y theo ba thân. Vì sợ rằng có sự giải thích riêng cho nên chỉ bày sự trở lại Tông.

Hai là “Lượt đầu tiên v.v…” trở xuống là chỉ bày tướng quay trở lại, có ba:

Một là Ứng trở lại.

Hai là “Thứ hai v.v…” trở xuống là Báo trở về Quang: Báo chắc chắn thầm hợp với Pháp. Vì vậy, ở mỗi câu đều trình bày cả Pháp và Báo. Đó là nêu lên trí thuộc đối tượng được thầm khế hợp, toàn là Pháp tánh, vắng lặng mà thường chiếu soi.

Ba là “thứ ba v.v…” trở xuống là Pháp trở về Kim: Lúc nói thường im lặng, lúc im lặng vẫn thường nói. Bốn đức tròn đầy mầu nhiệm, đâu có gì tổn hoặc ích. Toàn là Pháp tánh, đáng tôn trọng. Hợp lại để nói về tính chất dung nhiếp và chính tà, vì theo thông lệ ở trước nên lược bỏ.

Kế là “giải v.v…” trở xuống là y theo thông lệ tất cả: Nếu giải nghĩa Kim Quang Minh thuộc thể thì lẽ nào chỉ có nghĩa của ba thân quy về ba chữ? Vì tất cả Pháp tướng đều trở về nguồn này nên được một ngàn từ không tức là mười ngàn hoặc.

Kế là “Đã là v.v…” trở xuống là nói về gồm cả ý của Lục này. Thuyết hai thời đều làm sáng tỏ Diệu lý. Người học đời sau biết từ đầu để được khai ngộ? Vì muốn chỉ bày ý ấy nên chú: “v.v…”.

Kế đến là “Phẩm này v.v…” trở xuống chính là nói về nghi niệm, có hai:

Một là Tựa, nhập chánh phẩm để chỉ thuyết trên.

Hai là “Từ vua v.v…” trở xuống là lại theo ý của Tựa để giải thích về văn này, có hai:

Một là phân tiết văn kinh.

Hai là theo văn giải thích như sau:

– Nêu ra người. Gồm:

Một là nêu ra nơi chốn.

Giải thích theo Sự, như thông tự quán giải thích ra danh.

Hai là “Bồ-tát v.v…” trở xuống là nói về Vị: Phiên danh gọi là đạo tâm. Lại thường xuyên giáo hóa người khác nên gọi là đạo tâm lớn.

Công hạnh này dù bao trùm ba giáo trước. Vị của nay là ở Viên.

Ba là “Tín Tướng v.v…” trở xuống là nêu ra danh từ, có hai:

Một là Y theo danh để giải thích: Tín có cả Chân và Tự. Đã nói là Tín Tướng, tín thì chẳng phải Chân. Vì Tự tín là thật sự vì chứng minh cho tướng ở trước. Tam Hiền của Biệt giáo là Tự tín vị. Sơ địa trở lên mới được Chân tín. Bước lên trụ của Viên giáo thì liền được Chân tín. Tức là lấy Thập tín gọi là Tự tín. “Nói Thiết luân”: Kinh Bổn Nghiệp Anh Lạc dùng sáu thứ, luân để dụ cho sáu Nhân vị. Thiết luân là Thập tín, Đồng luân là Thập trụ, Ngân luân là Thập hạnh. Kim luân là Thập hướng. Lưu ly luân là Thập địa. Ma-ni luân là Đẳng giác. Tín dứt trừ kiến – Tư, được gọi là Thiết luân.

Hai là “Văn dưới v.v…” trở xuống là dùng tướng để xem xét. Cây gỗ dựng đứng tức là cây gậy của cái trống. Có chỗ viết là cái dùi trống.

Kế là “Lại nữa, Chân v.v…” trở xuống là nói về Tự Thông thượng vị. Phổ hiền v.v… giác cùng cực gọi là Tự. Vì vậy lập danh từ Hiền.

Kế đến là “Tín Tướng v.v…” trở xuống là nói về sự khó đo lường được cao hay thấp.

Tiếp là “Người vấn nạn v.v…” trở xuống là lập câu hỏi để nghiệm xét về Chân thật, như sau:

– Hỏi vặn về vị cao không có nghi, gồm:

– Vặn hỏi, có hai:

“Đây cũng v.v…” trở xuống là giải thích, có hai:

Một là y theo Quyền và Thật để giải thích: Vì người khác mà phát khởi là nghi, thuộc về sự chỉ bày của Quyền, chưa Biết rõ được Phật địa là nghi thuộc hạnh của Thật.

Hai là “Pháp Hoa v.v…” trở xuống, là dẫn hai kinh để chứng minh. Bổn và Tích của Pháp Hoa đều do sự hoài nghi của Di-lặc mà sinh khởi câu hỏi. Vì Bồ-đề của Bồ-tát Đại tập chưa cùng cực nên nói là “Chưa hoàn toàn”. Bản tánh Bồ-đề huân vào tâm làm khởi nghi, vì nghi nên cầu giải nghi, do đó nói là Bồ-đề dứt trừ kiến thì không có nghi, có hai:

Một là câu hỏi.

Hai là Đáp chung: nghi làm chướng ngại Chân. Trong chướng nghi của Biệt. Chưa đạt đến cùng cực của Trung đạo thì làm sao không nghi ngờ được.

Kế là “Quán giải v.v…” trở xuống là y theo nơi chốn để giải thích về Quán: nay nêu ra tên người thì quán làm sao theo nơi chốn được? Vì Quán và Pháp đều từ ấm mà khởi. Vì lấy thành Vương xá để cho ấm là tiện lợi nên nói theo nơi chốn. Dùng vua thiện ác để quán xét ngôi nhà vô ký. Chủ thể và đối tượng chẳng hai, Người và Pháp đều không, cái được làm sáng tỏ do hai hình thái không tức là Đại Niết-bàn. Đề phòng năm trụ mà chẳng chế ngự quân địch của hai hình thái chết thì lẽ nào thành lại hơn đây? Sơ tâm thuộc Danh tự quán, Niết-bàn thuộc về ấm, hậu tâm thuộc Diệu giác Niết-bàn rốt ráo. Ý của hôm nay là giải thích về Trụ xứ của sơ tâm. Nói về hậu tâm là chỉ bày về Diệu quán này giống như quả trí.

Kế là khen ngợi bốn thứ đức, gồm có:

– Khoa phán, có hai:

Một chính là chia khoa kinh.

Hai là Phán lại Vị: Thực là Gieo giống. Quý là hổ (thẹn), “ v.v…”: Khiến y theo sự khen ngợi về đức để xếp là đồng với Phổ hiền.

Kế là “Cúng dường v.v…” trở xuống là tùy theo để giải thích, có hai:

Một là Cúng dường Phật theo cách bên ngoài, có hai:

Kế là y theo Tài và Pháp để giải thích: Đại kinh nói: “Trong các sự cúng dường thì cúng dường Pháp là cao quý nhất. Cúng dường tiền của thì có cùng tận, còn cúng dường Pháp thì không cùng tận”.

Kế đến là y theo quán hạnh để giải thích. Một niệm vô minh toàn thể giác ngộ tâm giác ngộ ấy được gọi là Phật. Có đủ tư lương của nhân và duyên là nghĩa cúng dường Phật. ba ví dụ có thể thấy.

Tiếp là “Chủng thiện v.v…” trở xuống là hạt giống cội lành ở bên trong, như sau:

Một là Nói trực tiếp về ý nghĩa hạt giống lành, thể vốn là tâm giác ngộ gọi là đất Pháp tánh. Quán tánh Thỉ giác gọi là hạt giống. “Gieo các hạt giống lâu ngày ý nghĩa có thể biết. “Năm gốc lành ”: Đối với bản Pháp tánh sinh khởi Tín, Tiến, Niệm, Định, Tuệ bất động; cả năm đều không động gọi là năm căn. Gốc này sinh tướng của tự vị này cao nên gọi là thêm lớn.

Hai là “Thêm lớn v.v…” trở xuống là dùng việc gặp Phật để giải thích về hoàn thành, có hai:

Một là Nêu ba việc để thí dụ:

Hai là “Ví dụ về gió v.v…” trở xuống là dùng ba luân để phối hợp. Luân thuộc về Thân hiện thần thông làm kinh động tâm. Luân thuộc ý quán sát căn cơ, ánh sáng của trí chiếu soi. Luân thuộc về miệng giảng nói giáo lý, nước pháp nhuần gội.

Kế là “Lăng-nghiêm v.v…” trở xuống là nói về sự thêm lớn của ba thứ nhân: Lăng-nghiêm là quyết định nhân. Bát-nhã là tuệ liễu nhân. Pháp tánh là lý chánh nhân.

Kế là Sự tu, một là tánh chiếu phát nương lẫn nhau. Do tu mà chiếu tánh, do tánh mà phát khởi sự tu. Ba thứ nhân ấy thêm lớn, chuyển tự đi vào Chân, ở Chân mà Đạo thêm lớn. Tất cả đều được gọi là nói thêm về sự chuyển biến và hiển bày.

Kế đến là “Gieo trồng v.v…” trở xuống là kết thúc sự hoàn thành về đức của hai thứ.

Kế là “Từ là v.v…” trở xuống chính là nói về nghi ngờ đối với Tựa, có hai:

Một là Phân tiết kinh.

Hai là “Do có v.v…” trở xuống là tùy theo để giải thích, như sau:

– Lý do của sự sinh nghi, gồm có:

Một chính là đưa ra lý do nghi: Xa thì do chín mươi ngày trước nói về ma để mong diệt. Kinh này là phần sau cùng của hệ Phương Đẳng. Gần thì do nghe Đức Phật xướng lời tựa trong định ở Linh Sơn. Vì đã khởi động sự suy nghĩ nên liền sinh tâm niệm nghi ngờ. Tuy có hai lý do nhưng vì không có lời thề đánh vào nên sự nghi ngờ này không sinh.

Hai là “Do đâu v.v…” trở xuống là giải thích do nhân duyên gì? Gồm có hai:

Một là y theo ba tánh để phân chia nhân duyên. Nói chung về ba loại thì Chánh, Liễu và Nhân gọi là ba thứ nhân. Cùng ở Lý tánh, vì tu về Duyên và Liễu; mỗi loại trong ba loại đều là Duyên. Văn nay nói tắt là “Nhân nào, Duyên nào”. Phải hợp Tánh ba, chỉ gọi là Chánh để tương xứng với nhân. Duyên và Liễu trong Tu hợp với sáu mà làm hai. Vì đối nhân nên hợp với hai, làm Duyên để tương xứng với Duyên. Y theo nhân và duyên đó mà sinh ra nghi ngờ.

Hai là “Chính nhân v.v…” trở xuống là y theo Nhân duyên mà nghi về tuổi thọ: Chánh nhân thường hằng, mãi mãi nên là lý được làm sáng tỏ. Cảnh thuộc lý đã thường hằng thì toàn cảnh phát trí để làm chủ thể sáng tỏ. Như thế, lẽ nào Cảnh lại vô thường? Vì chủ thể làm sáng tỏ gồm cả Phước mà trí lại là Chính nên chỉ nói về Trí. Cảnh này, trí này đều chiêu cảm tuổi thọ thường hằng. Vì vậy, nghi tám mươi là nhân duyên gì.

Kế là “Vuông tám v.v…” trở xuống là giải thích về vuông tám mươi, có ba:

Một là Chỉ bày chung về tuổi thọ thuộc thế gian: “Phương dưới v.v…” trở xuống là đặc biệt nêu bày về phương giữa để biểu thị: Sự ứng hóa đều y theo lý để hiển hiện. Vì vậy, ngoài sự chắc chắn là trong biểu thị cho lý. Lẽ nào tuổi thọ thuộc phương giữa lại không nói lên bốn thứ đức. Tuy rằng ý của Phật rất nhỏ nhiệm, nhưng nay, Đại sư Trí Giả dựa vào bốn vị Phật sau để y theo Ứng mà làm sáng tỏ về thường. Vì vậy, Đại sư lấy cái được làm sáng tỏ để xem xét về chủ thể biểu thị. Như vậy là biết được ý của Phật.

Tiếp là “Tín Tướng v.v…” trở xuống là vì không biết về ý biểu thị nên nghi ngờ. Nếu Tín Tướng đạt được ý biểu thị ở trên thì sẽ thấy được ba thân có đủ cả bốn đức. Như thế, lẽ nào Tín Tướng lại nghi rằng Tích của Ứng chắc chắnlà ngắn hoặc dài để nghi ngược lại ràng “Nhân nào, Duyên nào?”.

Kế chính là sinh nghi, lại có:

– Y theo sự tương hỗ của Lý và Giáo mà nghi, có hai:

Một là Chấp giáo nghi Lý.

Hai là Chấp Lý nghi Giáo. Những điều do Đức Phật nói là Giáo thuộc chủ thể giải thích. Nhân quả của sống lâu là lý thuộc về đối tượng được giải thích, tức là đạo lý. Văn và nghĩa của sự chấp chặt lẫn nhau làm thành nghi hoặc rất dễ hiểu.

Kế là “Có hai v.v…” trở xuống là y theo văn kinh để chỉ bày đầy đủ, có:

– Giải thích về sự có hai nhân duyên, có hai:

Một là Đối với trước để giải thích về khác. “Trước” tức là kinh nói “Nhân gì, Duyên gì”. Sự giải thích ở trước đã lấy Chánh tánh làm nhân, tức là lấy Duyên và Liễu trong sự tu tập mà làm Duyên. Nay nói rằng sống lâu có hai nhân duyên. Đã là Phật tu, hai thiên Chỉ và Hành, mỗi thiên đều có đủ Duyên và Liễu. Tức là duyên thuộc chủ thể hiển rõ của văn trước. Nay đối với duyên trước tự làm nhân duyên. Vì vậy, khác với nhân duyên ở trước.

Hai là “Mười điều lành v.v…” trở xuống là y theo sự giải thích của nay, gồm:

– Y theo mười điều lành để giải thích sơ lược, như sau:

– Chính là trình bày về nhân duyên, có:

– Đối với mười điều lành, mỗi điều lành đều nói về chỉ và hành, có hai:

Một là Nêu lên sự chỉ bày.

Hai là “Không sát sinh v.v…” trở xuống là giải thích về tướng, có hai:

Một là y theo không sát sinh, không trộm cắp để giải thích, có hai:

Một là y theo sự phối hợp đầy đủ của hành tướng.

Hai là “Sự giải thích nay v.v…” trở xuống là nói về sự nêu chung của kinh này.

Kế là “Nếu có đủ v.v…” trở xuống là y theo thông lệ của tám mà nói về mỗi phần: Hai điều lành của Chỉ và Hành, mỗi điều đều có ba thứ khác nhau. Đó là Tự, Tha và Cộng.

Một là Tự hành: như văn nói: “Không sát sinh là Chỉ. Phóng sinh là Hành. Không sát sinh là Chỉ, Bố thí thức ăn là Hành”.

Hai là Chỉ và Hành thuộc sự giáo hóa kẻ khác: như văn nói: “Nếu không ngăn đoạt là Chỉ, phương tiện khuyến tu là Hành”. Nếu nói đầy đủ về mười loại chỉ hành, tức là không sát sinh, không trộm cướp như sớ đã nói. Tám loại tức là không dâm là phạm hạnh, không nói dối là Thành thật ngữ, không nói lời thêu dệt là Chất trực ngữ, không nói hai lưỡi là Hòa hợp sự tranh kiện, không ác khẩu là Thường thực hành lời mềm mỏng, không tham là Bất tịnh quán, không sân là Từ tâm quán, không si là Nhân duyên quán; tất cả đều là tự tu về Chỉ và Hạnh. Cả Tự và Tha cùng nói rõ: Tự thân không gây ra mười điều ác gọi là Chỉ, khuyên bảo người khác không gây mười điều ác gọi là Hạnh.

Kế là nay y theo v.v… trở xuống là đối với chỉ và hành mỗi thứ điều nói về nhân duyên, có hai:

Một là Nêu lên.

Hai là mạng v.v… trở xuống là giải thích, như sau:

– Y theo không sát sinh để nói về bốn thứ, gồm có:

Một là Nhân duyên thuộc chỉ và thiện: Nhân là gốc của thiện, Duyên là giúp đỡ. Vì thành tựu từ tâm nên dứt bỏ dụng cụ sát sinh.

Hai là thực v.v… trở xuống là nhân duyên để thành thiện: Y cứ theo chỉ thì rất dễ hiểu.

Kế là Không sát sinh v.v… trở xuống là theo thông lệ của chín điều lành đều như vậy.

Kế đến là Gồm có v.v… là kết sự chỉ bày về số của nhân duyên thuộc Chỉ thiện.

Kế tiếp là “Những điều đó v.v…” trở xuống là kết thành niệm nghi.

Kế là “Ở đây y theo v.v…” trở xuống là y theo năm thừa để giải thích đầy đủ, có hai:

Một là Kết trên khởi nay: Nếu chỉ nói về nhân quả của mười điều lành thì đó là lời nói cạn cợt một đường, đối với kinh thuộc Phương đẳng chưa được gọi là thỏa lòng. Đây là kết phần trên. Nay đúng ra nên y theo Chỉ Hành của Thế gian, xuất thế gian, Tiệm và Đốn mới gọi là nhân của Phật. Đó là khởi nay.

Hai là “người, trời v.v…” trở xuống là nói về sự chỉ bày chi tiết của nay như sau:

Kế là nói về giáo nghĩa, gồm có:

  • Không sát sinh, có hai:
  • Nói về hành tướng, có hai
  • Chỉ bày về tướng, chia làm hai:
  • Chính là chỉ bày, có hai:

Một là Chỉ bày chung về Mạng, Sát của năm thừa, nếu chỉ có năm sát sinh thì báo có được là mạng căn, điều lành này vô cùng cạn cợt. Nay giải thích về mạng của sự tu nhân thuộc năm thừa nên bao trùm cả sâu. Tiếng Phạm Ma-la, Hán dịch là Sát. Đó là vì nó thường hại điều lành, thuộc Thế gian và xuất thế gian của con người. “Đoạn v.v…” trở xuống là các Mạng, đều là nghiệp của ma.

Hai là “Nếu ngăn cản v.v…” trở xuống là nói riêng về Chỉ và Hành của người tu. Gồm bảy:

Một là người, trời: Sự này tức là Thiện của giới.

Hai là Nhị thừa thuộc Tam tạng giới.

Ba là Bồ-tát thuộc về Sự: Vì không thể đạt được Thể của ba luân là không nên việc thực hành sáu Độ đều được gọi là Sự.

Bốn là Nhị thừa thuộc Thông giáo.

Năm là Bồ-tát thuộc Thông giáo: Sai lầm của nói pháp gọi là Phi (Sai). Phế bỏ khiến không học gọi là Bác bỏ. Dưới chữ “Thể không” lẽ ra nên gọi là sáu Độ mới khác với Nhị thừa; có thể bị thoát hoặc bị lược bỏ.

Sáu là Bồ-tát thuộc Biệt giáo.

Bảy là Bồ-tát thuộc Viên giáo, có hai:

Một là Thuận hạnh cũng đoạn mạng của Phật, vì hàng Sơ tâm của giáo này tức là cõi Phật.

Hai là “Hành giả của Viên v.v…” trở xuống là nghịch hạnh, có hai:

Một là Nói về Nghịch: Hiểu được thuận, nghịch tu tức là tánh của nghịch và Thuận. Vì tánh không có khác nhau nên gọi là Một tướng. Vì vậy, Sát sinh thuộc sự của Tiên dự, là sát sinh thuộc Lý của quả Phật; Vì tức là Tánh nên điều là cái nhân của trường thọ. Duyên của Tiên dự thì như đã được giải thích trong năm giới ở trước.

Hai là “Đó đều là v.v…” trở xuống là nói về lý của thuận: người thuộc ba giáo trước đều là Hành thuộc Tiểu, là bởi Hành của bậc Sơ thuộc Biệt cũng giống với Tiểu. Vì vậy, tất cả họ đều không thể ngay nơi nghịch mà thuận.

Hai là “Như trên v.v…” trở xuống là giải thích chi tiết: Đầu tiên là từ người, trời, cuối cùng đến Viên giáo, Chỉ và Hành nếu không có nhân duyên thì điều lành không thành tựu. Nhưng lại y theo không sát sinh, phải trải qua chín điều còn lại, và tất cả pháp đều phải luận ở nhân duyên của Chỉ và Hành. Vì vậy mà nói là “Như biển”.

Kế là “Vì vậy, Đại v.v…” trở xuống là dẫn chứng: Nếu không nói như trên thì lẽ nào mỗi Độ đều có thể bố thí cho chúng sinh vô lượng tuổi thọ ư?

Kế là “tôi v.v…” trở xuống là thành niệm nghi:

Kế tiếp là Nói về cho thức ăn, lại có:

– Nói về Hành tướng, có hai:

Một là nói về Quyền và Thật của Pháp thuộc Sự, có hai:

Hai là nói về Thể của thức ăn thuộc Sự pháp, có hai:

Một là nói về tính chất nặng nhẹ của thức ăn thuộc Sự. Thực của y báo thì nhẹ, thực của Chánh báo thì nặng.

Hai là “Kinh nói v.v…” trở xuống là nói về Quyền và Thật của thức ăn thuộc pháp: Kinh tức là kinh này. Phẩm Lưu Thủy nói: “Đời vị lai, nên bố thí pháp thực”. Thế gian tức là người và trời, xuất thế gian là ba thứ giáo, Thượng thượng tức là Viên dụng.

Hai là “Bồ-tát v.v…” trở xuống là nói về tướng bố thí của Bồ-tát, gồm có:

Một là nói chung: “Xoay tà về chánh”: Khiến cho có niềm tin chân chánh đối với nhân quả. Manh nha tức là mở đầu. Tức là mới mở hạt giống, là gọi chung các thứ cỏ. Nuôi tức là dưỡng. Đại luận quyển bảy nói: “Như con của vị Quốc vương đứng ở chỗ cao và nguy hiểm, không thể cứu giúp, muốn tự mình rơi xuống đất. Vua liền sai người bày nệm gấm dày, lúc rơi xuống đất không bị chết”.

Hai là “dùng để trao v.v…” trở xuống là chỉ bày riêng, có bốn:

Một là trao món ăn thuộc người, trời.

Hai là “Đã giữ v.v…” trở xuống là trao món ăn thuộc ba tạng.

Ba là “Đã vào v.v…” trở xuống là ban cho món ăn thuộc Thông và Biệt.

Bốn là “Bày cái đói v.v…” trở xuống là ban món ăn thuộc Viên giáo: Vì không có thức ăn thuộc pháp Đại thừa nên gọi là nước đói. Pháp Viên đốn như món ăn của vua, chẳng phải là món ăn của người phổ thông. Thiện thiện là thức ăn ngon. “Phiền não v.v…” trở xuống là quán hoặc chính là trí. Như củi giúp cho lửa. Nhân của trí, duyên của hoặc nên sẽ thành tựu thức ăn bốn đức, khiến cho đệ tử thuộc bốn mươi mốt vị đều đạt được sở thích thuộc từng phần.

Kế là “Như vậy v.v…” trở xuống là kết thúc sự chỉ bày.

Kế tiếp là “Mỗi pháp v.v…” trở xuống là kết về nhân duyên của Chỉ và Hành.

Kế là “Đây, các v.v…” trở xuống là thành nghi niệm.

Kế là Nêu về quán hạnh: Nói chính xác về Vô minh tham ái của tâm ta, có thể sinh ra tất cả con cháu phiền não nên gọi là Cha mẹ. Nếu chúng ta chẳng thể rõ biết hai thứ đó là tánh ác thì phải dứt trừ và phá hủy mới gọi là Nghịch thuộc giáo. Nếu chúng ta quán Chính là tánh thì không lìa Si, ái mà toàn thể vẫn sáng sạch. Chủ thể quán và đối tượng được quán đều không thật có. Đã như hư không thì Si và ái đều vắng lặng. Vì thế gọi là Thiện thuộc Chỉ. Vì nơi vắng lặng mà quán sát khắp các tâm sở đều làm chúng được sáng sạch nên lại được gọi là Thiện thuộc Hành. Đó là quán tâm để thấy thuộc tính thường hằng của tất cả pháp. Lẽ nào lại không cảm được quả thường hằng của ba thân ư?

Hai là “Thân ta v.v…” trở xuống là giải thích về cốt tủy của thân ta, như sau:

  • Nói về hành tướng, gồm có:
  • Phân biệt Sự theo Pháp, có hai:

Một là Thân thuộc Sự, đối tượng được phân biệt: Đứng ở Sự để nói về thân thì có ai không hiểu. Vì vậy, nay sẽ phân biệt. Trí suy đến chín cõi đều chẳng phải là thân ta. Huống chi là quả báo sắc chất của con người.

Hai là “Thân ta v.v…” trở xuống là Pháp thân, cái được lấy: Đối tượng được lấy đã sâu nên suy nghiệm về cái được phân biệt ở trước chẳng những là quả báo thuộc về người. Nhưng, nếu có khả năng hiểu rõ được sắc tâm, Pháp giới mà xả thân thuộc về Sự thì chính là cái được lấy của nay. Nay phân biệt sự không thể hiểu rõ việc xả bỏ của Pháp 3 giới gọi là chẳng phải thân ta. “Phải biết rằng Thật tướng là thân ta”: Đây là nói chung. Nếu y cứ theo Thích luận thì y theo Thân thật tướng mà nói về giới, định, tuệ và tâm mầu nhiệm, thiện là da, máu, cốt, tủy. Tuy chia ra giới v.v… nhưng mỗi phần đều là toàn phần của Thật tướng.

Kế là “Vì kẻ khác v.v…” trở xuống là y theo Pháp để nói về Thí, lại có:

  • Thí thân thuộc về Thật, có năm:

Một là thí da: Vì kẻ khác mà truyền bá giới của Thật tướng. Ngăn che tội lỗi của hai bên, tu phước Trung đạo. Loại giới này không có tướng nên ngay cả trì còn khó được, lẽ nào lại lưu giữ nơi phạm. Thể đã vắng bặt cả hai nên gọi làbờ kia của Thi-la. Nói về giới như vậy mới gọi là bố thí da của Pháp thân. Huyết v.v… theo thể lệ như vậy.

Hai là “Nói các v.v…” trở xuống là bố thí Huyết: “Các thiền định”: Tức là chín loại Thiền, cũng là tất cả Thiền định thuộc hữu lậu, vô lậu đều đạt được thật tướng, đều thành vô ký hóa hóa Thần thông. Cho nên, đối với Diệt định mà hiện ra thân của mười cõi. Gọi là các uy nghi theo mô thức trước hợp lại mà nói rằng “chẳng định chẳng loạn”.

Ba là “Nói không v.v…” trở xuống là bố thí xương: Vì công thuộc chủ thể Chiếu không còn nên nói là chẳng phải trí. Vì toàn bộ hoặc thành trí nên gọi là “chẳng phải ngu”. Loại trí này sinh khởi việc nói hoặc không nói đều được. Vì chủ thể nói đã diệu nên khiến cho đối tượng nói đều đạt đến mảnh đất trí. “Mảnh đất trí”: Trí tức là đất, tức là Trí của Bản giác. Mảnh đất nơi trí y cứ là trí thuộc Thỉ giác. Tu và Tánh hợp nhất, hai nghĩa đều thành.

Bốn là “Đàn nhẫn v.v…” trở xuống là y theo thông lệ là nên bố thí thịt: Luận chỉ nói về ba học và lý được làm sáng tỏ. Về mặt nghĩa, Đại sư thêm ba pháp là Đàn, Nhẫn và Tiến nên thành ra nghĩa sáu Độ để tiêu giải về cốt, tủy, máu, thịt của kinh nay; khi ấy nghĩa mới được thứ lớp, đầy đủ. Người giảng nói nên mô phỏng theo ba học ở trước để làm sáng tỏ về tướng của “cả hai đều không phải”.

Năm là “Nói vô cùng v.v…” là bố thí tủy: Sự nói về giới v.v… ở trước đã đều là “Cả hai đều chẳng phải” thì lẽ nào lại không dứt trừ đối với con đường của ngôn ngữ và suy nghĩ. Nhưng, đó là bàn luận về hạnh, nay lại nói về lý. Tuy đều là thật tướng nhưng phải phân biệt chủ thể khế hợp và đối tượng được khế hợp. Sáu Độ tức là toàn bộ sóng của tánh ướt. Thiện tâm mầu nhiệm là tánh ướt ở trong sóng.

Kế là “Đem điều đó.. “. trở xuống là nói về bố thí thân thuộc về quyền, có ba:

Một là kết thật mở quyền: Dùng món ăn của pháp thuộc về viên để bổ sung bảy phương tiện đói khát của chúng sinh. Ngoài viên đốn ra, các pháp ngôn có được đều được gọi là thức ăn món uống dư thừa. Đó là lấy hơn so với kém.

Hai là “Tức là v.v…” trở xuống chính là nói về tướng của bố thí: Văn lược bỏ không nói. Bồ-tát thuộc ba thứ giáo, sáu Độ của Biệt giáo có thể gọi là Thức ăn thừa. Tủy là Trung đạo thì dứt khoát là thân của ta. Vì vậy, Tủy thừa chỉ ở Chân-đế.

Ba là Dẫn Pháp hoa để chứng minh cho “Thị giáo lợi hỷ”: Đại luận quyển năm mươi chín của nói: “thị” là chỉ bày cho người về sinh tử, Nếu bàn về ba thừa, sáu Độ giáo: Tức là dạy bảo rằng ngươi nên bỏ ác, làm lành. “Lợi”: Vì chưa đạt được mùi vị của pháp lành thì tâm sẽ lui sụt nên nói pháp lợi để dẫn dắt giúp người tu ra khỏi Hỷ (vui): Tùy theo điều được làm mà khen ngợi khiến cho tâm người tu được vui mừng. Dùng bốn việc ấy để trang nghiêm sự nói pháp.

Kế là “Như Lai v.v…” trở xuống là thành nghi niệm: Tùy theo ý và ngôn ngữ của người khác để bố thí món ăn thức uống thuộc quyền. Tùy theo tự thân mà bố thí thật.

Kế là Từ Đại v.v…”trở xuống là nói về lời tựa của sự hiện điềm lành, có:

  • Kết trước mở sau, có hai:

Một là Phân tiết kinh.

Hai là “dốc lòng v.v…” trở xuống là giải thích về ý, lại có:

  • Kết phần trước, có hai:

Một là nói về dốc lòng. Chí cũng như cùng cực. Tâm và Phật cùng một nguồn. Nay vì muốn niệm Phật nên phải đạt đến điểm cùng cực thật tế của tâm mình.

Hai là “Quán tâm v.v…”trở xuống là nói về niệm Phật: Quán tâm đã cùng cực nên sẽ đạt được trọn vẹn công đức của niệm Phật, không sát sinh, v.v… tất cả đều ngang bằng với hư không. Vì quán quá sâu nên liền thành niệm nghi. Hai là nói về sự mở ra phần sau: máy móc mầu nhiệm Ứng thì tướng lành liền hưng khởi. Hai chính là nói vế sự ứng hiện điềm lành, có hai: Một là trình bày về ý và chia văn, có ba:

Một là trình bày về ý, có hai: Một chính là trình bày “vì nhĩ.. “: Nhĩ tức là người biểu thị cho sự thêm lớn về phần nhân chân thật và cảm quả rốt ráo.

Hai là “Hỏi..” trở xuống là liệu về tác giả, có hai:

Một là hỏi.

Hai là đáp.

Kế là phân biệt người giảm, có hai:

Một là hỏi.

Hai là đáp, có hai:

Một là phân biệt thông theo Biệt.

Hai là “Tuy nhiên v.v…”trở xuống: Căn bản của lợi ích là ở người khác. Tín Tướng đã là người phát khởi tức là đồng với chư Phật mà làm. Vì là chủ thể Ứng nên biết rằng chủ thể cảm vốn ở tại các loại căn cơ. Vì vậy, Ứng với một người là Ứng với số nhiều.

Kế là Phân văn.

Kế là “tướng riêng v.v…” trở xuống là sắp xếp về Tướng, lại có:

  • Chính là phán, có hai:

Một là y theo mười nhân, một quả để phán.

Hai là “Lại nữa v.v…” trở xuống là y theo Thập địa, Nhất địa để phán.

Kế là “Hỏi v.v…” trở xuống là liệu giản, gồm có:

  • Y theo Tông chỉ của kinh để liệu giản, có:

Một là hỏi.

Hai là đáp.

  • Y theo Tự vị để phân biệt, có hai:

Kế là hỏi: Sự phán định về Tợ vị ở trước có hai ý nghĩa:

Một là y theo Thập Tín Tợ đối với Chân thuộc từng phần.

Hai là y Theo thể thức Tợ của Phổ hiền đối với Diệu giác. Như tướng lành của nay chắc chắn biểu thị cho Thập địa. Vậy, lẽ nào lại khiến cho Thập Tín bước lên Pháp Vân ngay? Lẽ nào lại khiến Phổ hiền đi vào Sơ địa?

Kế là Đáp: chúng ta nên biết rằng hai lần trở xuống, trong mỗi địa đều có đủ công đức của các Địa. Thập Tín phát khởi Chân thật, gặt hái được mười công đức của Thập (Địa). Đẳng giác cũng tiến mười đức của Hậu tâm. Đó là trước và sau đều thấm nhuần lợi ích của Thập (Địa). Vì vậy, y theo chiều Ngang và Dọc mà sắp xếp một cách tự nhiên.

Kế là “Tướng riêng v.v…” là y theo văn để giải thích về Tướng, có hai:

Một là Phân tiết văn để nói về mười tướng.

Hai là y theo biểu phát để giải thích về Tướng, có hai:

Một là chỉ bày lại về khuyến giới. Âm “Phỉ” Tức là Văn vẻ. Ý nói có thể dùng mười đoạn văn kinh để làm sáng tỏ về Chỉ. Y theo vào sự bình luận, nghĩ nghị mà mô phỏng tương tợ. Chứ không thể nói đầy đủ về hành tướng của nó. Vì vậy, nên nói “Chẳng thể dùng sự hoàn bị tất cả để trách cứ.”

Hai là “Căn phòng của v.v…” trở xuống là y theo Tướng để biểu thị cho đức, có hai:

Một là chiều Dọc biểu thị cho công đức Thập địa. “Thập địa, Địa này khai mở đầu tiên”: Đại phàm, Tiểu Thánh bị che lấp bởi Vô minh nên cảnh giới hạn cuộc và hẹp. Nay, vì phá hoại hoặc này nên dùng rộng để biểu thị.

Hai là “Đây đối với Giới”: y cứ mười Độ của Hoa nghiêm để đối với Địa thì Sơ Địa tương đương với Quyền. Văn lược bỏ không nói. Các Địa đã có đủ theo tính chất tương xứng nhau thì mười Độ đều dung nhiếp nhau.

Kế là “Chỉ có Nhục mà nhẫn tăng”: Không bị khuất nhục thì làm sao có thể làm sáng tỏ về sức của nhẫn. Bốn là “Đốc xuất các hạnh”: Đốc tức là thúc đẩy. Các hạnh tức là các Độ. Vì thúc đẩy các hạnh đạt đến quả cùng cực nên lấy toà ngồi cao để tượng trưng cho Tinh tấn. Hạnh năm, sáu, bảy, tám, chín đều nhận thấy được. “Mười tùy cấp bậc mà Viên mãn”: Vì hạnh lấy trí làm người dẫn dắt nên tùy theo cấp bậc, vị trí. Các hạnh Viên mãn từng phần là do căn cơ chúng sinh đầy đủ. “Chú v.v…”. Nên nói về tướng trạng của triển khai và qui nạp của sáu độ và mười độ. Nhưng, Độ thứ sáu có cả cả Đại và Tiểu, còn độ thứ mười thì chỉ ở Đại thừa. “Mười độ”: Vì ở trong Thiền có Nguyện trí lực nên mở ra thành Nguyện độ. Có thông lực của thiền nên mở ra Lực độ. Căn bản định thiền giữ Thiền độ gốc. Bát-nhã có trí Đạo chủng nên thành phương tiện độ có trí Nhất Thiết chủng nên mở ra thành Xuất Trí độ. Trí Nhất thiết giữ tên gọi Bát-nhã gốc.

Kế là “Lại nữa v.v…” trở xuống là Ngang, biểu thị cho công đức của một Địa như sau:

  • Nói chung về công đức của một Địa, gồm có:
  • Y theo Sơ địa, có:

Một là mở bày chung.

Hai là “Kỳ v.v…” trở xuống là nói bày riêng, có mười:

  • “Nhà sạch” là biểu thị cho trí, là có:

Một là nói về công năng của ấm, vì căn phòng có khả năng che đậy nên biểu thị cho năm ấm. Muốn làm sáng tỏ tướng của Trí thì phải hiểu rõ về ấm. Vì đạt được Trung với ấm nên “Không cả hai” hai bên. “Không làm v.v…” trở xuống là giải thích về Tự nhiên: Trí của Trung chẳng bị trói buộc bởi hai bên là do loại trí này không tạo ra hai bên. Vì vậy, giác tánh xưa nay hiện tiền một cách tự nhiên. “Không được v.v…” trở xuống là giải thích về rộng: Chỉ có một mảy may sở đắc là bị hạn cũ và hẹp. “Không trực tiếp v.v…” trở xuống là giải thích về sự trang nghiêm: Trí của Tiểu thừa vô thường, chỉ lìa sai lầm mà thôi, cuối cùng vẫn trở về với sự tro tàn và đoạn diệt. Sự giác ngộ của Đại thừa vốn có vô số công đức, tự nhiên được trang nghiêm.

Hai là “Sự của trang nghiêm tức v.v…” trở xuống là giải thích về thể tướng của ba thứ trí. Căn phòng biểu thị cho Nhất tâm, sáu chữ “Tự nhiên, quảng bác, nghiêm sự” biểu thị cho ba thứ trí mới bắt đầu tu tập Viên mãn, ngày nay mới giác ngộ tức khắc và thấu suốt.

Kế là “Màu xanh của trời v.v…” trở xuống là “Không gian châu báu” là biểu thị cho cảnh, có:

Một là Biểu thị trực tiếp về ba đế.

Hai là “Nhất địa v.v…” trở xuống là nói lên cả Viên dung, chính là: Một địa ở trong phòng có ba tướng này để biểu thị cho cảnh cao siêu. Ba và một tức nhau: Hành giả nên biết danh của Trí thuộc Đế là khác nhưng thể của chúng là giống nhau. Vì muốn làm sáng tỏ về sự tu chứng nên gương kiến lập chủ thể và đối tượng.

Ba là “Có mầu nhiệm v.v…” trở xuống “Diệu hưởng” biểu thị cho Từ bi. Cảnh và trí của Nhất tâm có thể cho và nhổ tức gọi là Từ bi. Cảnh và Trí cao rộng, cho và nhổ tương xứng. Vì vậy, khiến cho Từ bi Dọc thì cao, mà Ngang thì rộng. Cả ba đều không khác nhau nên thường hiện hữu khắp trong ba khoa của tất cả chúng sinh.

Bốn là“Cái phòng v.v…” trở xuống là giải thoát. Tịnh tức là Bátnhã. Vì ba thứ đức có đủ tính chất hỗ tương. Vì là chỗ y cứ, dựa nương rốt ráo của Phật nên dùng chỗ ngồi để biểu thị.

Năm là “Có bốn v.v…” trở xuống là “tòa ngồi của Phật v.v…” biểu thị cho Giác trí vốn có bốn đức, tức là ba trí dùng để làm tòa ngồi. Tu được bốn đức tức là ba trí dùng đó làm chủ thể ngồi. Vì vậy, dùng Đức Phật để biểu thị.

Sáu là “Phóng lớn v.v… trở xuống là phát ra ánh sáng v.v…” là biểu thị cho Tự và Tha: Vì, ánh sáng chiếu soi vùng đất này tức là thường chiếu soi vùng đất khác. Nó có thể dùng để biểu thị cho việc tự thực hành và giáo hóa các chúng sinh khác.

Bảy là “Mưa các v.v…” trở xuống đến “Mưa hoa v.v…” là biểu thị cho Bốn biện. Tri giải được tất cả ngữ ngôn Đà-la-ni, dùng Pháp, Nghĩa, Từ và Nhạo thuyết để phân biệt. Một và Nhiều bàn luận một cách dung nhiếp, từ bi rót vào vô tận, không ai nghe mà không vui mừng, dùng hoa để biểu thị. Vì tánh của Văn tự vốn lìa nên mưa trong hư Không. Giải thích như thế mới có thể mở bày về diệu lý.

Tám là “Làm trời v.v…” trở xuống đến “Niềm vui của trời v.v…” là biểu thị cho Bốn nhiếp: Bố thí, ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự. Bốn thứ này nhiếp hữu tình cũng như nhã nhạc làm người khác vui thích.

Chín là “nhân của trời v.v…” trở xuống đến “Nhân niềm vui v.v…” là biểu thị cho niềm vui của Pháp. Nhất tâm ba trí, chính nơi vắng lặng mà là chiếu soi, không có pháp nào không biết. Ở đây nói là thanh sạch hóa thần tính, thọ nhận niềm vui của Nghĩa thiên.

Mười là “Căn thiếu v.v…” trở xuống đến “Căn đầy đủ” là nói lên sự dùng đầy đủ theo tính chất hỗ tương: Vì đã phân chia và phá bỏ nghiệp thức, chuyển thức và hiện thức nên thấy, nghe, hay và biết, mỗi căn đều có đủ.

Kế là “Sơ địa v.v…” trở xuống là khen ngợi chung về sự không cùng tận của công đức Pháp tánh. Vì Địa này tương xứng với đức sáng tỏ của Pháp tánh nên khiến chư Phật chẳng thể nào nói hết được. “Mười tướng của Chỉ”: Là do nhà chuyên về kinh nêu lên đại khái. “Ngạnh giới”: Giới ( ) nên viết là khái ( ). Đó là sự nhẫm lẫn của âm thanh. Nói Ngạnh khái tức là nói là sơ lược.

Kế là “Sơ địa v.v…” trở xuống là theo mô thức của các Địa khác. Từ đây đến Cửu địa, Địa nào cũng giống như vậy. Nhập ngang vào Dọc, không có Dọc nào không là Ngang.

Hai là “Lại nữa v.v…” trở xuống là nói riêng về Tự và Tha của một Địa, có:

– Y theo Sơ địa, có hai:

Một là trình bày sơ lược: Công đức của việc tự thực hành là nhân quả của sự thực hành. Công đức của sự giáo hóa người khác tức là chủ thể và đối tượng thuộc về việc giáo hóa người khác. Điều này giống với ý của Mười mầu nhiệm trong kinh Pháp Hoa.

Hai là “Căn phòng của v.v…” trở xuống chính là biểu thị, có hai:

Một là năm thứ trước biểu thị cho việc tự thực hành. Nếu phối hợp năm loại này với mười mầu nhiệm thì: Pháp thân là mầu nhiệm của Cảnh, Bát-nhã là mầu nhiệm của trí, giải thoát là mầu nhiệm của hạnh, Nhân thành là mầu nhiệm của Vị, thành Phật là mầu nhiệm của ba pháp. Đó là nhân quả của việc tự thực hành. Nếu Cảnh, Trí và Hạnh đối với Lý tánh v.v… trụ ở ba loại chính ở trước thì ở đây là y theo sự gắng gượng để y theo tu mà so sánh theo nguyên tắc riêng. Nếu nói về 00 thể của pháp thì vị trí chân thật vốn không thiếu sót.

Hai là năm thứ sau biểu thị cho sự giáo hóa người khác. Ý luân soi xét căn cơ tức là mầu nhiệm của Cảm và Ứng. Khẩu luân là sự mầu nhiệm của nói pháp. Thân luân là sự mầu nhiệm của thần thông. Lại nữa, “Biểu thị v.v…” trở xuống là được niềm vui của trời, căn thiếu hay đầy đủ đều đã chuyển được chướng nạn nên sẽ so sánh chung với hai thứ mầu nhiệm là quyến thuộc và lợi ích. Đây là chủ thể và đối tượng thuộc sự giáo hóa người khác.

Hai là “Sơ địa v.v…” trở xuống là y theo lệ chung của các Địa khác.

Hai là “Từ một v.v…” trở xuống là hiện tướng chung, có hai:

Một là biểu thị có cả việc không hiểu về ý. “Nói ý sơ lược”: Vì chỉ nằm tại mười nghĩa. “Ý rộng”: Vì ngôn từ “tất cả” vốn bao gồm tất cả.

Hai là “Tất cả v.v…” trở xuống là y cứ theo văn để biểu thị chung:

Kế là Bao gồm. “Mười pháp giới”: Tâm, Phật, chúng sinh, cả ba pháp ấy đều có đủ trong con người. Sự đầy đủ tuy không khác nhau, nhưng xét về Mê và Ngộ thì có khác nhau. Phật đã chứng ngộ trong lúc tâm và chúng sinh đang ở trong mê tối. Toàn là mê tối thì gọi là mười cõi thuộc phạm trù Lý tánh. Tín thuyết thì gọi là mười cõi thuộc phạm trù danh tự. Niệm niệm thể đại thì gọi là mười cõi của quán hạnh. Sáu căn chiếu soi khắp nơi gọi là mười cõi thuộc Tương tự. Chứng mười khởi ứng gọi là Thập giới của rốt ráo. Tâm ta hợp với Thể và Dụng mười cõi của Phật, cũng thấy mười cõi của chúng sinh đồng với Phật. Đó là nay biểu thị cho nghĩa của mười cõi thuộc phạm vi quả nhưng không tan tác nên thứ kiến giải này mà chỉ nói rằng “tất cả bao gồm cả mười cõi”. “Ba thứ thế gian”: tức là Giả, Thật và Y-Báo.

Chấp thật thành giả, danh tự khác nhau tức là chúng sinh thế gian. Sắc và Tâm của thật pháp bị chấp có sự gián cách tức là năm ấm thế gian. Chỗ nương dựa của chánh báo, sự khác nhau của y báo tức là cõi nước thế gian. “Chưa từng có” là phần chứng bản thuộc mười, chia ra mười tích. Tuy được viên dung nhưng nếu so với quả cùng cực thì sự khác nhau giữa sáng và tối là rất nhiều. Như kinh Hoa Nghiêm nói rằng “Công đức mà vị Bồ-tát Quán đảnh đạt được là như một nắm đất. Công đức của bậc Diệu giác thì như đất của bốn châu”. Vì vậy, nhân tròn đầy, Lý sáng tỏ. Nào là Tự, nào là Tha, ba mươi loại thế gian, mỗi thế gian đều rốt ráo thanh tịnh, đều tự tại chưa từng có. “cõi nước v.v…” trở xuống là phối trí ba loại thế gian để với ba đức mà theo nghĩa thì lại tiện lợi. “cõi nước v.v…”: là Mê, giả và Thật đã y theo cõi nước. Về quả thì trí và đoạn hoàn toàn y theo Pháp thân. Vì vậy, y theo cõi nước để nói về sự tròn đầy của Thật tướng. “Chúng sinh v.v…”: Thích luận nói “Chúng sinh vô thượng là Phật”, Phật dịch là Giác. Thỉ giác là Không của Người, Chung giác là Không của Pháp. Vì vậy, đối với thế gian thuộc chúng sinh để nói về sự tròn đầy của Bát-nhã. “Năm ấm v.v…”: Thích luận nói: “Pháp vô thường là Niết-bàn”. nhân diệt loại sắc này mà gặt hái được loại Sắc thường hằng”. Thọ, Tưởng, Hành và Thức cũng giống như vậy. Hai thứ chấp đã hết, năm ấm được tự tại. Vì vậy, đối với thế gian thuộc năm ấm mà nói về sự tròn đầy của giải thoát. Dùng ba so sánh với ba. Chúng ta nên biết về ý ấy. Vì đối với ba thứ đức thì nêu một loại chính là ba loại. Làm sáng tỏ một loại thế gian trong ba thế gian đều tròn đầy, cùng khắp, dung nhiếp theo tính chất tương hỗ. Nay y theo thiên mục mà loại suy ra rất dễ biết. “Thật tướng là căn bản”: Thật tướng không có tướng, quả cùng cực đều là hoàn toàn mất đi tướng trạng. Vì vậy mà gọi là Tự tha của Thật tướng tròn đầy.

Kế là “Theo Tín v.v…” trở xuống là Tựa của nghi thuộc về sự mặc niệm, có hai:

Một là phân văn.

Hai là “Hoan hỷ v.v…” trở xuống là tùy theo văn để giải thích, có hai:

Một là Hoan hỷ do thấy tướng.

Hai là “Theo đến v.v…” trở xuống là trình bày về nghi ngờ của mặc niệm, có ba:

Một là nói về ý của nghi: Chứa nghi mà bất đằng, sợ rằng sẽ thành Nghi cái.

Hai là “Niệm thích v.v…” trở xuống là chỗ nghi của chính thức đằng. Tất cả công đức đều y cứ theo tuổi thọ mà được đình trụ. Tuổi thọ của thân đã ngắn thì các loại đức làm sao đình trụ được. Vì vậy tất cả đều không nghi chỉ nghĩ nhớ về tuổi thọ ngắn. Sự che đậy không đằng này chẳng thể nào giải quyết được.

Ba là “ba nhưng v.v…” trở xuống là nói về ý nghĩa mặc niệm. Vì uy đức, tôn quý nên im lặng. Vì cầu giải quyết điều nghi nên nghĩ nhớ (niệm). Dựa vào trước thì sẽ thấy được.

Kế là “Theo ngươi v.v…” trở xuống là tự của chính thức nghi, như sau:

Một là phân văn.

Hai là “Nghi cái v.v…” trở xuống là y theo văn giải thích, lại có:

– Chính là làm dứt nghi, có ba:

Một là ý của sự dứt nghi. “Nghi cái che tâm”: Trong số năm cái thì Nghi cái có cái khác nhau làm che đậy Thiền và Tuệ. Vì sao phải dự phòng làm cho đình chỉ? Bởi nếu chưa giải trừ thì lúc tâm hợp sẽ dẫn đến nghi ngờ. Đã thấy được uy đức, tôn quý thì đó là nơi để giải quyết điều nghi. Nếu vẫn chấp chặt niệm nghi thì khó khai mở được quán tuệ. Vì vậy, cần phải dứt niệm nghi, lắng tâm để nhận pháp. “Chẳng hạn như v.v…”: Nghi là kiến hoặc, thường che chướng Chân-đế. Dứt nghi, thấy đạo mới tiến bước để tu tập về chân được. Nghi về đằng của Tín Tướng có thể là Quyền, có thể là Thật. Đức Phật làm dừng mối nghi thì khiến cho cả Tự và Tha đều được lợi ích.

Hai là từ “Ngươi v.v…” trở xuống chính là làm dứt Nghi, có ba:

Một là đại dụng không thích ứng: tuổi thọ tám mươi là toàn thể pháp giới khởi đại dụng để ứng với chúng sinh. vì vậy, chúng ta không nên lấy sự ngắn hạn của Định để nghi ngờ.

Hai là pháp tánh không thích ứng: Biển tánh mà Đức Thích-ca chứng đắc là vô cùng sâu xa. Lẽ nào người học lại đem tâm suy niệm thuộc ngắn dài để so lường?

Ba là Trí độ không thích ứng: Hai thứ Chân tín và Chân trí đều có khả năng biết và khả năng chứng. Ngươi nay chưa có đủ thì không nên so lường. Ba việc không nên này là y theo ba thân mà làm thành ý của dứt. Cũng có thể hai không nên đắm trước là y theo đối tượng được suy nghĩ mà dứt, một không nên cuối là y theo chủ thể suy nghĩ để dứt.

Kế là “Thích luận v.v…” trở xuống là dẫn chứng để kết: Tất cả các pháp mà Đức Phật có được đều là Vô lượng. Nếu chúng ta dùng tâm suy lường để cân đong đo đếm các pháp của Phật thì chắc chắn sẽ bị che chắn và chìm đắm nơi biển nghi ngờ. Vì vậy, bốn Đức Phật dùng ba điều không nên để dứt niệm nghi của người nghe.

Kế là “dùng cái gì v.v…” trở xuống là giải thích về việc dứt nghi ngờ như sau:

– Giải thích về “Không nên thuộc pháp tánh”, có hai:

Một là nói về tám chúng nhiếp Bồ-tát: Tuy kinh đã nêu rõ ràng về tám chúng, nhưng vì thiếu Bồ-tát nên y theo Sinh, Pháp, Quyền, Thật để chỉ bày về vấn đề đó. “Vùng đất Pháp tánh”: Tức là Phương tiện và Thật báo. Vì đã không ở đó nên tồn tại ở ngôn ngữ.

Hai là “Nếu, Phàm v.v…” trở xuống là nói về vấn đề không nên so lường tánh: Chỗ mà Như Lai đi là pháp tánh sâu rộng. Nơi ấy còn vượt hẳn chỗ đi thanh tịnh của Bồ-tát, huống chi là phàm phu và Tiểu thừa mà lại cân đo, đong đếm được sao!

Kế là “Chỉ trừ v.v…” là giải thích về “không nên thuộc Trí độ”, có hai:

Một chính là giải thích về sự giáng sinh của Phật khó so lường. Chỉ có Đức Phật và Phật mới xét mét cùng tận, trí thuộc về nhân làm sao biết được?

Hai là “Xưa dùng v.v…” trở xuống là chỉ bày về pháp được Đức Phật biết, có hai:

Một là xưa giải thích có thể biết cho nên là vô thường. “Nói lời ấy”: Chỉ trừ câu “Như Lai”. Thọ lượng đã là đối tượng được nhận biết của trí thì đó là pháp có thể suy tư nên chúng ta nghiệm ra rằng nó là vô thường.

Hai là “Thiên thai v.v…” trở xuống là nói về sự giải thích của ngày nay: Trí của thường hằng biết được thường hằng. “Vô lượng thường trí”: Hoàn toàn không biết mới là biết đầy đủ. Loại biết này xứng hợp với tánh thể, vì toàn trí của Bản mà thành trí của Phật. Nếu đã biết về bản tánh thì tánh há lại là Vô thường. Vì các Sư thời xưa không hiểu nên cho rằng có biết là trí Phật.

Kế là “Trí tánh v.v…” trở xuống là khiến cho biết về đại dụng theo nguyên tắc tỷ giáo: Cái trí của sự không biết đã thầm hợp với pháp tánh thì dụng căn bản của pháp tánh phát hiện đầy đủ. Hiện dài hay ngắn gì cũng đều gọi là tuổi thọ thường hằng. Vì là toàn tánh nên kinh giải thích là trí của tánh. “Lược về đại dụng”: cho là có thể hiểu.

Kế là từ “Thời v.v…” trở xuống là nói về nhóm họp chúng, gồm có:

  • Chính là giải thích văn kinh, có hai:

Một là đối với trước và sau của kinh khác.

Hai là “Thời ta v.v…” trở xuống là y theo kinh ngày nay để giải thích, lại có:

  • Chính là nói về chúng của thất này, có hai:

Một là giải thích sơ lược về Thời, Chúng.

Hai là “Tín Tướng v.v…” trở xuống là nói về ý của sự nhóm họp chúng: Tức tuổi thọ tám mươi tuổi làm sáng tỏ về sự thường hằng của ba thân. Lẽ nào chỉ ích lợi cho một mình Tín Tướng mà thôi ư? Vì vậy, Đức Phật dùng thần lực để nhiếp những người có duyên khiến họ nghe về Viên và Thường mà đạt được ích lợi của bốn Tất-đàn. Nói chỗ lợi ích nhiều thì lẽ nào chỉ có một thất. Chúng này sau khi nghe liền giảng nói tại chỗ.

Kế là “Chúng, có v.v…” trở xuống là nói về chúng của kinh này: Chính thức nói về căn phòng này có đủ bốn chúng. Phụ thêm câu “Các phẩm đều có bốn chúng”, có ba:

Một là nói về kinh này có đủ bốn chúng: “Chúng ảnh hưởng”, tức là chư Phật và pháp thân Đại sĩ thuở xa xưa ẩn sự chứng đắc tròn đầy, cùng cực của mình để giúp cho việc giáo hóa của Đức Phật, làm bạn, thờ phụng chủ như ảnh bóng theo hình, tiếng dội tùy theo âm thanh. Danh và nghĩa của bốn chúng được nói đầy đủ trong Pháp hoa sớ.

Hai là “Kinh này v.v…” trở xuống là nói về vấn đề chúng trong kinh này giống như các kinh khác. Sự nhóm họp trời rồng trong kinh này nào khác với Hoa Nghiêm. Ở bản dịch mới, phẩm này có nói rằng “Vô lượng chúng Bà-la-môn”. Lại nữa, ở phẩm Sám hối, Tín Tướng ra khỏi thành cùng vô lượng, vô biên trăm, ngàn chúng sinh đều đến Linh thứu lẽ nào đều là quỷ thần? Vì lẽ đó, chúng ta nghiệm ra rằng sự tập trung chúng của kinh này giống như các kinh khác.

Ba là “Cùng thừa sự v.v…” trở xuống là làm dứt sự giải thích hạn cục của thường tình. Lẽ nào chúng ta lại lấy sự kiện sơ lược trong văn của bản dịch xưa về phẩm này mà quy kết ngay rằng chỉ nhóm họp chúng trời, rồng thôi ư?

Kế là “Điềm lành chung v.v…” trở xuống là giải thích về ích lợi của pháp trong kinh bộ, có hai:

Một là khác với Pháp Hoa thuộc hệ Phương Đẳng. Tất cả thế gian hợp lại bao gồm mười cõi, không hề có việc mà đều đã hiện ra đầy đủ. Hợp với mười cõi đều làm sáng tỏ ba đức. Vậy mà, Đức Phật lại chưa trao lời thọ ký cho Nhị thừa. Qua đó, chúng ta nghiệm ra rằng chưa thể giống với bộ Pháp Hoa. “Chỉ y theo Thông giáo đối với lợi căn”: Nói về đặc tính Thường của ba thứ thân, giải thích về Pháp tánh của Viên, cùng với hai thứ bơ của chúng mà bàn luận về sự không khác của Viên. Đã là tựa đề đầu tiên của kinh nên không nêu tên Bát-nhã. Hai chỗ trong bộ tương xứng với cái tên Phương đẳng. Vì thế, sự phán giáo của ngày nay là thuộc về Phương đẳng. “Mà trong bộ này có được lợi ích của Viên”: Tự đối với mười cõi, chứng đắc một cách mầu nhiệm về tân y. Cũng được gọi là việc chưa từng có. Tất cả đều xuất hiện đầy đủ.

Hai là “Trong này v.v…” trở xuống là phải dựa vào giới để làm sáng tỏ sự lợi ích của chúng. “Bốn câu của giới”:

Một là Thừa và giới đều gấp.

Hai là Thừa và giới đều thư thả.

Ba là Thừa gấp rút còn giới thì thư thả.

Bốn là Thừa thư thả còn giới thì gấp rút. Trước là, hành giả phải nhận biết về thể tướng của Thừa và giới. Lại nói về mười loại Giới và chỉ giữ lấy không thiếu, không phá, không xuyên và không tạp. Bốn thứ Giới này tuy chia ra Định và Tán nhưng tất cả đều là nhân của người, trời, là giới của nay. Bất thủ, Tùy đạo, Vô trước, Trí sở tán, Tự tại, tùy định cụ túc. Vì sáu thứ này tuy gọi là giới nhưng thể là ba thứ quán nên tự thân của chúng thuộc về Thừa. Đối với Thừa thì nói về năm thừa nhưng chẳng lấy người và trời. Vì hai thứ người và trời tuy gọi là Thừa, không động không xuất, nhưng thể của chúng là Thiện, là Sự thuộc Hữu lậu, nên thuộc về Giới. Chỉ lấy ba thừa bao gồm cả bốn thứ giáo. Đó là vì tuy đi vào Lý có chia ra sâu cạn nhưng cả ba thừa ấy đều khuấy động phiền não, ra khỏi sinh tử nên được gọi là thừa. Nay dùng bốn thứ giới để so sánh với ba thừa, luận bàn về tính chất gấp rút và thư thả để tạo thành bốn câu. “Cả Thừa và Giới đều gấp rút”: Tức là người và trời ngày nay đang đến nghe Pháp. “Cả Thừa và Giới đều thư thả”: tức là các rồng, quỷ nhóm họp theo quan điểm ngày nay. “Thừa thư thả còn Giới thì gấp rút”: tức là theo quan điểm của ngày nay, các vị trời chấp đắm niềm vui, loài người ưa thích tình dục v.v… “Không dự trù điều ấy”: Đều là loại của chúng. Lại phải biết rõ. “nhóm họp ngày nay”: Tuy nói rằng Thừa gấp rút nhưng Thừa vốn có Quyền và Thật. Kẻ đời trước tu tập gấp rút đối với Tạng và Thông thì nay ở trong căn phòng mà nhìn thấy sự khác nhau của các Đức Phật trong số bốn Đức Phật và chỉ thấy Phật thuộc Ứng hóa. Dẫu có nghe nói về sống lâu đi nữa rồi cũng phải trở về tro tàn, diệt tận. Sau khi diệt rồi thì không sinh nữa. Nếu là người đời trước tu tập gấp rút về Biệt và Viên thì nay thấy cả bốn Đức Phật đều là thân tôn đặc, một thân, một trí. Nghe núi, rìu v.v… tuy là tuổi thọ của Ứng nhưng họ vẫn biết rằng đó chính là Pháp thân và Báo thân. Ba thân và một thân khó mà nghĩ bàn được gọi là thấy thân thường hằng. “Quyền, Thật v.v…”: trong chúng sinh thuộc bốn thứ gấp rút và thư thả ấy có kẻ là thật hạnh, có người là thị hiện theo nguyên tắc Quyền. Quyền có khả năng dẫn ra Thật để làm hạt giống nóng thoát, nhân duyên gần xa. Cho nên nói là “Các việc”. “Ghi riêng”: Tức là Pháp Hoa sớ, Tịnh danh sớ và Chỉ quán. Nay y theo những lời “Ghi riêng” ấy mà chú thích rằng: “ v.v…”. Ba là “Cùng loại đó v.v…” trở xuống là phán thuộc về đoạn lời tựa.

 

Pages: 1 2 3 4 5 6