KINH KIM QUANG MINH VĂN CÚ KÝ
QUYỂN 3
Sa-môn Thích Tri Lễ, ở núi Tứ Minh Đời Tống soạn.
(Phần đầu)
Tiếp là từ “Lúc bấy giờ v.v…” trở xuống là phần Chánh tông của đoạn lớn, như sau:
- Chỉ bày chung về Văn nghĩa, có hai:
Một là chỉ bày về sự khởi diệt của văn kinh. Toàn bộ ba phẩm là Sám hối, Tán thán, Không, cùng với nửa phẩm Thọ lường này đều là Chính thuyết.
Hai là “Thông thường, ba v.v…” trở xuống là giải thích về nghĩa lớn của ba chương, lại có:
- Nói về Sư khác, có hai:
Một là trình bày.
Hai là “Tiếp theo là v.v…” trở xuống là Phá chương an: Vì bản này không chép rằng Sư và Thiên Thai nên biết là sự phá riêng. “Không tuy là Trung” tức là ở giai đoạn nhân, dùng Trung để phá chấp. Vả lại, cũng không phải thể của Trung được làm sáng tỏ về mặt quả. Tuy pháp không giống nhau nhưng Dụng làm sáng tỏ sự khác nhau của nghĩa. Vì các vị xưa không hiểu được điều này nên nay không dùng.
Kế là “Tam tạng v.v…” trở xuống là nói về Chân-đế, có hai:
Một là nói về “Hư không v.v…” Phẩm Phân Biệt ba thân của bản dịch mới chép: “Bồ-tát Hư Không Tạng bạch Phật: Làm sao các vị Bồtát đối với kho bí mật sâu xa của Như Lai mà đúng như pháp tu hành”. Chỉ vào câu ấy mà làm tựa.
Hai là “Trực tiếp là v.v…” trở xuống là Phá Chương An: Mỗi tiết của các kinh đều có sự phát khởi câu hỏi, lẽ nào tất cả các tiết ấy đều gọi là Tự? Vì thế nên nói là “Nghĩa yếu”.
Kế là “Sư nói rằng v.v…” trở xuống là sự bỏ và lấy của Sư ngày nay. Tuy Bồ-tát Hư Không Tạng kia y theo nhân để hỏi nhưng Đức Phật liền đáp rằng “Tất cả các Đức Như Lai đều có ba thân” thì lẽ nào lại chẳng phải là nghĩa của quả. Vì vậy, Sư ngày nay bỏ ba tạng mà lấy nhà đầu tiên. Có thể biết đối với vị sư tiếp theo.
Kế là “Mới cũ v.v…” trở xuống là nói về ý của ngày nay, lại có:
– Y theo bản dịch mới để nói về tông thể, có ba:
Một là bốn Đức Phật nói về Tích để làm sáng tỏ Bổn, quét sự nghi của Ngắn đối với tám mươi. Nói về Ứng của Dài như số giọt nước biển. Đã nghe nói rằng Ứng hóa có Dài và Ngắn thì tất nhiên sẽ biết rõ sự phi sinh diệt của Pháp và Báo. Bổn và Tích đã dung nhiếp nhau thì sự nghĩ bàn liền dứt bặt. Bậc Thượng căn chỉ nghe về Tích của ba thân thì cũng ngộ được cội nguồn. Đây là tương đương với vòng thứ nhất.
Hai là “Nếu chưa v.v…” trở xuống là Vương tử thị hiện Bổn để giúp cho người nghe tỏ ngộ về Tích. Trong phẩm Thọ Lượng của bản dịch mới, lúc bốn vị Phật nói xong về vấn đề tuổi thọ làm lợi cho chúng sinh rồi, có Bà-la-môn Kiều-trần-như vì muốn sinh lên cõi trời nên cầu xá-lợi của Phật như hạt cải, hạt lúa. Vương tử Lê-xa-tỳ nói kệ đáp rằng: “Dù cho gót chân của muỗi và ve có thể làm thành và lầu thì thân vắng lặng của Như Lai cũng không có việc gọi là xá-lợi, sừng thỏ làm thang leo, từ đất được lên cõi trời. Nghĩ sai về xá-lợi Phật thì công đức không có. Chuột leo lên thang sừng thỏ, Ăn mặt trăng trừ Tu-la. Nương xá-lợi để dứt hết hoặc. Giải thoát là không có”. Người Trung căn trực tiếp nghe về lý của Pháp thân vốn không sinh diệt thì liền ngộ Báo ứng có khả năng Thường hoặc Vô thường. Lý và Sự đã dung thông thì nghĩ bàn liền dứt bặt. Đây tương đương với vòng thứ hai.
Kế là “Nếu chưa v.v…” trở xuống là Đức Phật Thích-ca hai lần luận bàn để cho tất cả đều hiểu biết. Hạ căn đã chậm lụt nên nếu bàn luận có tính cách nghiêng về Bổn và Tích đi nữa thì họ cũng không thể tri giải về ý của tính chất dung nhiếp lẫn nhau. Vì lẽ đó, Đức Thích-ca mới giảng nói đầy đủ về ba thân là Pháp thân, Ứng thân, và Hóa thân. Như dựa vào bầu trời mà có điện, dựa vào điện mà có ánh sáng. Pháp thân là Lý. Ứng thân là trí. Trí đã ứng với Lý thì liền sinh khởi hóa thân. Ba thân thầm khế hợp làm một nhưng một cũng không chắc chắn là một, nên ba thân vốn rất linh động. Cho nên phẩm Tựa Đề là Phân biệt ba thân. Pháp và Ứng là Bổn. Hóa thân là Tích. Một thời mà đều nói về cả ba thì sẽ sinh ra sự hiểu biết vượt hơn. Cố nhiên là tính chất nghĩ bàn sẽ dứt bặt. Ở đây tương đương với vòng thứ ba. Ba phen này đều nói về Tông thường hằng của Như Lai để làm sáng tỏ thể tánh. Ý của việc nói ấy là làm cho người nghe phát trí, chứng lý.
Kế là “Phẩm Hối v.v…” trở xuống là phán định rằng cả ba phẩm đều giải thích rõ về Dụng. Tông của Phật trí làm sáng tỏ Thể của Pháp tánh. Đó được gọi là Tông của Kinh, Thể của Kinh. Tất cả chúng sinh đều lấy Tông và Thể này làm tâm của mình. Nếu sám hối, khen ngợi, tu tập về hai thứ Không thì nhờ đó mà diệu dụng của Phật sẽ sinh khởi toàn thể, khiến cho chúng sinh này diệt điều ác sinh ra điều lành và phát khởi dụng của Không mà dẫn thành hai thứ dụng. Cho nên nói là “Cả ba phẩm đều là Dụng của kinh”.
Kế là “Nay v.v…” trở xuống là giải thích về việc bản kinh này lược bỏ hai phen. Vì hai phen đều làm sáng tỏ về ba thân nên chẳng khác với điều được làm sáng tỏ bởi một phen này của hôm nay. Vì thế, Sư Đàm-vô-sấm thuận với sở thích mà lược bỏ Cơ, không dịch hai phẩm sau.
“Văn là v.v…” trở xuống là chia văn để giải thích, như sau:
- Văn, có hai:
Một là chia văn.
Hai là Giải thích, gồm có:
- Bốn Đức Phật nói về Dụ, có hai:
- Phân biệt về thân và thuyết, có hai:
Một là hỏi.
Hai là đáp, có hai:
Một là Giải thích về thuyết: bổn tương xứng với Cơ nghi. Chung và Riêng không tồn tại.
Hai là “Thấy cũng v.v…” trở xuống là giải thích về thân: Giải thích tựa đề, phán giáo rằng kinh này thuộc Thông. Giáo lý này nói rằng thân Phật cao một trượng sáu. Thân tôn đặc chỉ có một mà thấy khác nhau. Cho nên gọi là thân phối hợp. Nay, trong thất này có chúng của cả ba thừa. Trong ba thừa, Bồ-tát lợi căn quán sâu về Không, thấy được lý Bất không. “Lý Bất không”: Tức là chúng sinh và Phật có cùng một tánh giác. Vì vậy, tuy rằng thấy Phật nhưng Phật không đến từ bên ngoài, tùy Đại tùy Tiểu đều không có bờ mé. Cho nên nói: “Bốn Đức Phật đều có cùng thân tôn đặc. Sự ứng dụng của thân và trí là một, là thường hằng”. Lẽ nào chỉ có chư Phật mới là không hai, không khác nhau? Ngay cả với các vị đệ tử của Phật cũng không khác nhau. Vì vậy nên nói “Chúng (là) một”. Tuy chưa khai mở, phế bỏ nhưng người căn tánh lanh lợi thì thấy giống nhau. Nếu là Bồ-tát độn căn và người Nhị thừa thì chỉ thấy Không. Đó là thấy bốn Đức Phật từ bên ngoài đến. Chấp đắm phần hạn của Sắc nên chỉ thấy Ứng hóa. Như thế thì ngay cả các Đức Phật còn khác nhau huống chi đệ tử mà giống nhau ư! Vì ba thừa khác nhau nên nói là “Chúng (là) đông”.
Kế là chia làm tám v.v… trở xuống là chia văn giải nghĩa, có hai:
Một là nói về sự chia văn của hai nhà.
Hai là “Xưa nói rằng v.v…” trở xuống là theo vị Sư Đại thừa để giải thích về nghĩa, lại có.
- Bốn bài kệ lập lại lời thề, có hai:
- Bác bỏ xưa, có hai:
Một là trình bày.
Hai là “Nghĩa đó v.v…” trở xuống là bác bỏ. Vì chư Phật nói pháp không sai lầm về ba thời nên cả Thượng, Trung, Hạ đều là Thiện. Vì chủ thể giải thích Pháp hữu nên lời nói của Phật khéo léo. Vì điều được giải thích lìa tình thức nên nghĩa của nó sâu xa. Nếu ngang bằng với vô ý thì làm sao ngộ được Tông của Thường hằng. Vì vậy, chúng ta biết rằng vị sư xưa hoàn toàn không hiểu được ý chỉ của kinh này.
Kế là “Lại làm v.v…” trở xuống là giải thích của ngày nay, gồm có:
- Khai chương, trình bày về ý, có hai:
Một là khai chương: Những lời giải thích của Đại sư chứa đựng nghĩa lý vô cùng. Tương xứng với căn cơ để giải thích văn mà lại chỉ bày về ba ý.
Hai là “Tứ đế v.v…” trở xuống là trình bày về ý, có hai:
Một là nói về ba thứ nhân quả: bốn đế là Lý, Nhân quả là chỗ dựa chung. Bốn niệm là Hạnh, Tu bốn niệm là ở nhân. Bốn đức vốn có, chứng bốn đức là ở quả. Nếu không có ba nghĩa ấy thì không thể nào làm sáng tỏ tông thường hằng được.
Hai là “Nếu luận v.v…” trở xuống là nói về lý do của ba tướng: Nói về quả là do nhân. Nhân quả là do ở Đế. Muốn thành tựu về nhân quả thì việc trước tiên là phải hiểu biết về Đế.
Kế là “Trên lấy v.v…” trở xuống là dựa vào Chương để giải thích về nghĩa, như sau:
- Y theo Tứ đế để giải thích, có hai:
- Dùng bốn đế để giải thích về kệ, có hai:
- Nói theo tính chất sâu kín về nghĩa của Đế, có hai:
- Nói về nghĩa bốn đế, có ba:
Một là đối với trên để nói về Cảnh và Trí: Trên thì nói về Người thuộc chủ thể nói, nên đối với trí. Ở đây nói về Pháp thuộc đối tượng được nói, hợp đối với Lý.
Hai là “Xưa đọc v.v…” trở xuống là bác bỏ người xưa chỉ giải quyết về Sự. Nói “Đọc văn” tức là nói về văn, giải thích Chánh biến tri 10 trong số mười danh hiệu ở Đại luận cuốn ba.
Vì vậy, luận hỏi rằng: “Thế nào gọi là Chánh biến tri?
Đáp: Biết khổ đúng như tướng của khổ v.v…”. Người xưa đọc đoạn văn này, tuy dùng chữ Như mà giải thích là chẳng khác nhưng không hiểu được rằng ba tạng lấy việc biết về Sự xứng với Lý mà giải thích là chẳng khác. Trong Ma-ha-diễn, lấy việc biết Sự tức Lý mà giải thích là không khác. Đến nỗi các vị làm cho sự giải nghĩa chỉ dừng ngang ở Sự mà hoàn toàn không làm sáng tỏ lý. Lại nữa, đoạn văn này giải thích Chánh biến tri rằng: Biết chân chánh đối với chân. Biết cùng khắp đối với Tục.
Ba là “Nay nói rõ v.v…” trở xuống là nói về chánh nghĩa của Sư ngày nay, có hai:
Một là y theo Nhị đế.
Hai là y theo Tam đế, có hai:
Một là “Giải về ý”: Ví bốn là khổ v.v… là cảnh thuộc nhân quả của thế gian và xuất thế gian. Nếu không nhận thức rốt ráo đối với bốn cảnh ấy thì Chính là chân, Chính là Tục và Không, Giả và Trung, chẳng được gọi là Đế. Nhưng nếu hiểu được Nhị đế (thì) lấy Trung mà làm chân. (Đối với) ba (thì) nói về Không và Giả, ý lại ở Đế, Trung là vì muốn hành giả đối với nhân quả của mười cõi trong phạm vi mê và ngộ mà đều thấy được Trung, Pháp nào cũng đều là vô tác mới được gọi là tướng thế gian thường trụ. Nếu Lý của chúng chẳng như vậy thì biết lấy gì để quét sạch mối nghi của Tín Tướng. Hai câu đều trước tiên là y theo khổ đế để giải thích.
Hai là làm thông lệ cho các đế khác mà kết.
Kế là “Nói về thức v.v…” trở xuống là nói về so sánh với ý của đế.
Kế là “Tất cả v.v…” trở xuống là dùng Đế để giải thích Văn. Gồm:
Y theo nhân trước quả sau để lấy nước, núi, đất và không gian so sánh với Tập, Khổ, Đạo và Diệt. Theo thông lệ đều chia làm ba.
Một là chỉ bày.
Hai là dẫn chứng.
Ba là Giải thích về kết. “Trong Khổ đế dẫn Tiểu Bát-nhã”: Tức là Kim cương Bát-nhã. Đối với Đại phẩm v.v… thì gọi kim cương Bát-nhã là Tiểu. Vì xét về văn thì ít nhưng lý thì giống với bộ lớn. kim cương Bát-nhã lấy Tu-di để dụ cho thân Phật. Nay chứng minh rằng khổ giống với nghĩa nhóm họp chứ chẳng phải do sự vời lấy của Tập. Nhưng, sở
dĩ lấy quả báo của Phật để chứng minh cho quả báo của chúng sinh là vì muốn làm sáng tỏ Khổ, Vô tác, ấm và Nhập đều là Như. Không có Khổ để xả bỏ là vì ngay nơi sinh mà thành tựu Diệt. Bàn trĩ tức là quay quanh. Trĩ tức là đứng. Có vị viết là (Bàn) có bộ thạch, viết như vậy là sai. Trong Đạo đế, sở dĩ dẫn Trí địa của Pháp Hoa là vì lấy đất dụ cho đất, đã đến Trí địa Trung Đạo. “Hai đường là đường thủy và đường bộ”. Đường bộ chỉ đưa đến bờ này của biển. Hình ảnh này có thể ví dụ cho sự tu tập chung về đạo phẩm của cả ba thừa; chưa độ được biến dịch thì vẫn còn nấn ná ở bờ này. Đường thủy có thể đi đến được bờ bên kia của biển. Hình ảnh này có thể ví dụ cho sự tu tập riêng về đạo phẩm của Nhất thừa, có công năng đến bờ của ba đức ngay nơi hình thái chết. Cho nên trong Diệt đế, có dẫn Pháp Hoa là vì dùng không gian dụ cho Không. Loại Không này vốn rốt ráo nên gọi là “cuối cùng v.v…” “Năm màn che”: tức là Khói, Mây, Bụi, Mù và Tay của Tu la. “Ba ánh sáng”: đó là Mặt trời, Mặt trăng và Sao. Lý của Diệt thuộc phạm trù Thường trụ, xưa không bị ngăn che nên nay cũng không thanh tịnh.
Hỏi: Khổ dụ núi với thân Phật, đạo dùng đất dụ cho trí địa, Diệt dùng không gian dụ cho cái không vượt lên; ba thứ đó đã có giáo lý “Chính là Lý” thì có thể luận bàn đối với Pháp thân là đối tượng được chứng đắc. Nếu Tập đế của phần đầu có dẫn chứng để giải thích về kết mà chỉ nói về phiền não thì đâu được gọi là pháp thân?
Đáp: Mỗi Đế trong bốn đế thuộc phạm trù vô lượng đều là Trung. Nếu chẳng phải tất cả đều hướng về phiền não thì làm sao được gọi là “Chính là Trung” được? Vì “Chính là Trung” nên Khổ đế gọi là Pháp thân. Đạo đế là Trí địa, Diệt đế gọi là Không vượt hơn. Do đó, chúng ta biết rằng trực tiếp dùng phiền não giải thích về Tập đế để chỉ bày về Pháp thân. Ý hướng ấy của Tiên sư quả là độc đáo, hành giả nên biết.
Kế là nói về Tứ đế để giải quyết mối nghi, có hai:
Kế là chỉ bày về vấn đề hiểu lý thì nghi sẽ dứt trừ, có hai:
Một là chỉ bày về lý để làm sáng tỏ Tướng. Ở trên, lúc giải thích về điềm lành chung, tiên sư dùng việc chưa hề có của tất cả thế gian đều xuất hiện đầy đủ để nói lên Giả, Thật, Y báo của mười cõi đều làm sáng tỏ ba thứ đức. Nay nói về một Tứ đế của Giả, Thật, Y báo thuộc mười cõi, Đế nào cũng là ba thứ đức. Lý ấy hiện hữu khắp các hình tướng nên gọi là Pháp thân. Biết được lý ấy gọi là Báo. Khởi Dụng gọi là Ứng, Ứng thì có dài, ngắn.
Hai là “Tín Tướng v.v…” trở xuống là chỉ bày về tướng dứt nghi. Gồm ba.
Một là Nghi về chỗ dứt.
Hai là “Bốn Đức Phật v.v…” trở xuống là pháp năng dứt. Dụ cho bốn thứ là để làm sáng tỏ tính chất dài của Ứng. Đại sư đặc biệt dùng bốn đế để giải thích vấn đề ấy. Nếu chẳng phải tuổi thọ của Ứng hoàn toàn là Pháp thân thì làm sao chúng ta lĩnh hội được hai lý thuyết của Sớ về vấn đề “Ba thân một thể”. Vì vậy, đầu tiên, chỉ bày rằng lời lẽ của Đại sư rất khéo léo mà ý nghĩa lại rất sâu. Nếu cứ nhất mực dụ cho một thân thì lẽ nào lời lẽ lại là khéo kéo? Nếu ba thân hoàn toàn cách biệt thì lẽ nào lại nói là Lý rất sâu?
Ba là “Nêu Ứng v.v…” trở xuống là khen ngợi sự khéo léo của ý: Văn thì dụ cho tính chất dài lâu của Ứng mà ý thì làm sáng tỏ về Báo và Pháp. Vì Tín Tướng đạt được ý nên nghi ngờ bỗng nhiên được hiểu rõ.
Kế là “Giải thích v.v…” trở xuống là khen ngợi tính chất độc đáo của sự giải thích để khuyến khích suy nghĩ: Bốn Đức Phật khéo léo dẫn dụ, dứt trừ mối nghi của Tín Tướng. Trí giả giải thích độc đáo nên phát khởi được sự hiểu biết của hành giả. Nay, chúng ta gặp được thì lẽ nào lại không suy nghĩ một cách thấu đáo, kỹ càng ư?
Kế là “Bốn bài kệ v.v…” trở xuống là y theo bốn niệm để giải thích: “Niệm” tức là ba phép quán vượt hơn của Không, Giả và Trung. “Xứ” là bốn cảnh vượt hơn của Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Nếu không có Quán và Cảnh này thì ba thân không được hiển ra. Mà như vậy thì chẳng thể nói là luận bàn về thường hằng. Sự giải thích này được chia làm ba.
Kế là dùng kệ để đối với pháp, có ba:
Một là bỏ riêng theo chung. Vì Thân, Thọ, Tâm và Pháp chỉ là năm ấm nên bốn niệm vốn ở tại Khổ đế. Thế nhưng, sự tu tập về Quán thuộc về Niệm xứ lại có cả cả bốn thứ Giáo. Nay chỉ y theo Viên, tức là quán bốn đặc tính Tịnh, Bất tịnh, Phi tịnh và Phi bất tịnh của Thân. Cho đến quán Pháp, Ngã trải qua Ngã, Phi ngã, Phi Vô ngã đều thành ba đế.
Hai là “Tất cả v.v…” trở xuống là theo khuôn phép chung để giải thích theo nguyên tắc so sánh: “Niệm xứ của Tưởng, Hành”: Chỉ là Niệm của Pháp hợp với hai ấm. Nay, vì Đại sư muốn phối trí với Địa nên giữ lại tên gọi của ấm. “Tưởng giữ lấy sự vận hành của hành”: Tưởng chấp lấy tướng mạo. Hành là sự chuyển động, trôi chảy. Cho nên Đại sư nói là “Sự vận hành của Hành”. Dưới chữ Hành là bình thanh.
Ba là “Nếu quán v.v…” trở xuống là so sánh với lý do của kệ: Nếu nhân quả của tuổi thọ thường hằng mà không có niệm xứ của viên thì không có lý do để thành tựu. Vì vậy, Đại sư dùng (Quán) để so sánh với kệ.
Kế là “Nếu quán v.v…” trở xuống là là dứt trừ nghi ngờ, lại có:
– Nói về nhân quả của Niệm xứ, có hai:
Một là Tướng của sự tu tập nhân. Bốn trạng thái khô khan tức là không, bốn trạng thái tươi tức là Giả, “Cả hai đều không” tức là Trung, nói thì có thứ lớp nhưng tu tập thì không có trước sau; đó là một tâm ba quán. Vì lẽ ấy, cho nên Đức Phật đối với bốn trạng thái khô, bốn trạng thái tươi mà nhập Niết-bàn giữa hai cây (Sa-la) là vì ngài muốn chính thức nói lên một tâm ba quán ấy.
Hai là “Thành năm v.v…” trở xuống là tướng của sự đạt được quả, lại có:
Một là nói về tướng của tính chất dung nhiếp, chính là của ba đức: Chính là khô, Chính là tươi, Chính là chẳng phải khô và tươi được tu tập ở một sát-na. Sát-na nào cũng nghĩ nhớ tràn đầy, không dừng nghỉ. Trải qua cả năm phẩm, phát khởi tựa để chứng chân. Đến giai đoạn quả vị thì ba hoặc hoàn toàn dứt sạch. Trăm giới, năm ấm được tự tại vô ngại gọi là năm hình thái giải thoát. Trăm giới, năm ấm thanh tịnh như hư không gọi là năm thứ Bát-nhã. Trăm giới, năm ấm tuyệt đối khó suy nghĩ được gọi là năm thứ Pháp thân. Vì trí thầm khế hợp với năm ấm, Lý là thứ thầm khế hợp nên gọi trí là lý. Tuy thể là một, không phân mà phân. Bát-nhã là chủ thể thầm khế hợp. Pháp thân là thứ thầm khế hợp. Vì tướng thầm khế hợp nên khởi sinh ra dụng giải thoát. “Tuy ba v.v…” trở xuống là giải thích về nghĩa Bí tạng. Vấn đề này như thường được nói.
Hai là “nhân vương v.v…” trở xuống là nói về tướng thường trụ của năm ấm. Tánh là không thay đổi. Tức là trăm giới, năm ấm, tám tướng chẳng thay đổi, hiện hữu khắp cả mười phương. Nhưng chẳng phải cuối cùng của Sự mới có riêng ấm của Tánh mà chỉ có ấm của Thiện ác làm dơ bẩn, ô nhiễm ấm v.v… Đương thể của ấm vốn thường trụ nên gọi là ấm của Tánh. Mong người học cẩn thận, không nên tìm cầu riêng. “ấm, đó là v.v…” trở xuống là nói về Thể, Dụng và Tướng của ba thân: Cả Pháp và Báo đều chẳng phải, toàn bộ thể sinh khởi Dụng, chủ thể thường vô thường. “Dụng của Thường thì dài v.v…”. Dài thì bốn ví dụ, Ngắn thì tám mươi. Đã đều là tuổi thọ của ứng thì tất cả đều là Vô thường. “Nay dùng dài và ngắn để chia ra Thường và Vô thường: Do núi, cái rìu v.v… có thể làm sáng tỏ thường hằng. Nếu chẳng phải thường hằng thì làm sao khiến cho có dụng của Ứng làm cho người và trời không tính đếm được. Vì vậy, Tín Tướng nghe nói tám mươi diệt mà nghi rằng tuổi thọ là Vô thường, nghe bốn ví dụ về dài mà ngộ được thể thường trụ. Do đó, Đại sư nói “Dụng của thường thì dài, dụng của Vô thường thì ngắn”.
Kế là “Tín Tướng v.v…” trở xuống là dùng quả của dụng để dứt trừ nghi ngờ, có ba.
Một là Nghi thuộc sở bị phá.
Hai là “Bốn vị Phật v.v…” trở xuống là pháp thuộc chủ thể phá.
Ba là “Tín Tướng v.v…” trở xuống là đạt được tướng của giải trừ. Ba điều này chẳng khác về ý với sự dứt trừ nghi ngờ về bốn đế ở trước. Nhưng, chúng ta phải nghiên cứu thật sâu.
Kế là “Bốn bài kệ v.v…” trở xuống là giải thích y theo Tứ đế, có hai:
Một là dùng kệ đối với đức, nghiền đất thành bụi mà còn chưa có tướng của tịnh thì lẽ nào lại lưu giữ tướng của uế. Vì vậy đối với đức của tịnh mà dụ cho tịnh của lý, tịnh là đối với tịnh, và uế.
Hai là “Bốn thứ đức v.v…” trở xuống là dùng đức để dứt trừ nghi, có hai:
Một là làm sáng tỏ về dụng của Đức: người học cần phải phân biệt bốn đức là Thường v.v… vốn giống tên gọi nhưng thể thì khác nhau.
Hai là thể của Thường, Lạc, Ngã và Tịnh do Bồ-tát lập ra là Vô minh.
Kế là Thể của Thường, Lạc, Ngã và Tịnh do Đức Phật chứng đắc là Trung đạo. Nay, vì cả bốn đức tính ấy đều là trung cho nên đều dùng “Cả hai đều Không” để làm sáng tỏ. Đứng về lý thì phải Không cả mười hai hình thái điên đảo. Nay, các tên gọi như Thường và Phi thường, Phi vô thường v.v… là giống nhau nhưng Thể của chúng thì khác nhau. Bốn đức, “Cả hai đều không”, tức là pháp thân. Bốn đức thường thầm khế hợp với Trí tức là Báo thân. Pháp và Báo đã thầm khế hợp chủ thể ứng với chúng sinh sinh ra Thường và Vô thường. Cho đến Tịnh và Bất tịnh đều ứng dụng tự tại.
Kế là “Tín Tướng v.v…” trở xuống là dứt nghi ngờ, có ba:
Một là Nghi thuộc sở phá.
Hai là “Bốn Đức Phật v.v…” trở xuống là pháp thuộc năng phá.
Ba là “Tín Tướng v.v…” trở xuống là đạt được tướng của dứt nghi. Nếu người học biết được ý của sự dứt nghi thuộc bốn đế thì sẽ hiểu được ba điều này.
“Trăm ức v.v…” trở xuống là một bài kệ phối hợp với ví dụ, có hai:
Một là nêu lên hai sự sai lầm của bản giải thích xưa.
Hai là “Xưa nói v.v…” trở xuống là nói về ý của người đời nay để bác bỏ xưa, như sau:
– Bác bỏ sự chấp văn một cách hẹp hòi, có:
Một là nêu ra lời giải thích xưa: người xưa chỉ cho văn như nhau chứ không hiểu ý chỉ bày một cách khéo léo của bốn Đức Phật.
Hai là nói về ý của người thời nay, có hai:
Một là chỉ bày về ý sâu của kinh này, bốn là dụ cho có hạn lượng. Trăm, ngàn là số. Điều ấy có ai mà không biết? Người học phải hiểu sự nêu lên số Lượng huống chi là vô lượng, vô số.
“Ngươi đã v.v…” trở xuống là bác bỏ người xưa vu khống kinh: Nói có Túng và Đoạt. Dẫu Túng có hiểu về Ứng Hóa đi nữa thì Đoạt vẫn mê mờ về Báo và Pháp. Báo và Pháp là Thể và Gốc của Ứng Hóa. Văn thì sâu mà sự giải thích lại cạn. Tức là tự hủy hoại mình và hủy hoại người khác, tự thân đã vời lấy lỗi lầm mà còn làm cho người khác chê bai giáo lý.
Hai là phá sự chấp đắm nghĩa có tính cách nghiêng lệch: Nghĩa là Hóa thân, Ứng thân và Báo thân được giải thích. Ba thứ thân ấy đều có đủ bốn câu, tức là Thường, Vô thường, cả hai cũng là và cả hai đều không phải là, làm sáng tỏ ba và một không thể là một hoặc khác để suy nghĩ và giảng nói. Người xưa không hiểu hóa thân này chắc chắn là vô thường. Hoặc nghe Hóa thân tức là pháp nên là Thường. Cũng như nói rằng Pháp là Thường, Hóa là Vô thường, là vì không hiểu được chữ “Chính là”. Vì thế, luận Khởi Tín nói: “Tùy theo cái được ứng của nó mà thường trụ trì, không hủy diệt, không mất đi”. Lời ấy làm sáng tỏ Hóa thân có cả hai nghĩa.
Kế là “Bởi vì v.v…” trở xuống là kệ dứt nghi, có hai:
- Nhắc lại Nhân để giải thích nghi, có hai:
- Dùng sự hạnh để tiêu Văn, có hai:
Một là y cứ theo nhân duyên để giải thích: Nhân thô thân, Duyên thì sơ. Không giết, giữ mạng sống là nhân của sống lâu, đó là nghĩa của duyên gián tiếp.
Hai là “Nếu cho rằng v.v…” trở xuống là giải thích theo hai thứ duyên: Không sát sinh có hai thứ: không sát sinh là chỉ Thiện; phóng sinh là hành Thiện. Không trộm cướp có hai thứ: “Không trộm cướp là chỉ Thiện; bố thí thức ăn là hành Thiện”. Vì vậy, mỗi điều lành trong mười điều lành đều có Chỉ và Hành, tất cả đều có hai thứ duyên. Xuyên 1 qua cả hai thứ Thiện mà nêu lên có tính cách tương hỗ về Chỉ và Hành. Mỗi loại Chỉ và Hành đều là hai thứ duyên của sống lâu. Phát tâm Bồđề mới gọi là Nhân.
Sở dĩ gọi là Pháp tánh vì bốn lời thệ nguyện thuộc phạm trù Vô tác đều do Pháp tánh sinh khởi, là nhân của sống lâu. Hai duyên của đủ loại đã giúp đỡ cho đạo tâm chân chính. Như thế thì chúng ta hiểu được Pháp và Báo chẳng phải là Thường, cũng chẳng phải Vô thường, có năng lực sinh khởi Thường và Vô thường của Ứng và Hóa. Ba thân là một thể, đó mới là sự thường hằng siêu việt.
Kế là “Món ăn của pháp v.v…” trở xuống là nói về Pháp môn chỉ thượng: Nếu đứng về pháp môn để nói về sự bố thí thức ăn và không sát sinh v.v… thì giống như những điều được nói đầy đủ trong phần Tựa của về niệm Nghi.
Kế là “Tu nhân v.v…” trở xuống là y theo quả để dứt nghi: dùng dài giải thích về ngắn thì sự nghi thuộc Vô thường được dứt trừ. Tuổi thọ thường trụ làm sáng tỏ kinh này. Vì vậy, Đại sĩ tức chỉ cho Như Lai, như nói “Vô thượng sĩ”. Do đó, trong bản mới của Pháp sư Nghĩa Tịnh, đến câu này Ngài dịch rằng: “Vì vậy, Đại giác tôn”.
Kế là “Vì vậy, người nay v.v…” trở xuống là dùng một bài kệ để kết thành.
Kế là “Lúc bấy giờ v.v…” trở xuống là Tín Tướng hoan hỷ, có hai: Một y theo điều được nghe để giải thích về sự giải ngộ của Tín Tướng: “Nói Bổn và Tích tức muốn nói Thể là Bổn, Dụng là Tích. Nghe tuổi thọ Vô Lượng mà hiểu được dụng của Tích là Thường, tức là dài của chẳng phải dài. Do đó liền nhận thức rằng dụng của Tích có thể ngắn; chẳng phải ngắn mà ngắn thì cái nghi tám mươi có tính chất một chiều được dứt bỏ từ khi ấy. “Thâm tâm”: là giác ngộ được Bản thể cao sâu của Pháp và Báo. Bản thể này vượt ngoài Lượng cho đến vô lượng.
Kế là “hớn hở v.v…” trở xuống là y theo sự mà đi vào vị trí để giải thích về hoan hỷ: Chân tín giải phát nhập vào giai vị hoan hỷ. Biệt ở Sơ địa, Viên ở Sơ trụ. Cả hai đều phá vô minh gọi là Nghi ngờ. Từ đó trở đi đều là nội phàm nhưng giải thích là Tự Vị. Bước lên Thập địa đảnh nếu không lập Đẳng giác thì tức là địa thứ mười, phá hoặc thuộc Vô minh, sau khi bước lên Hậu tâm thì vị trí này gọi là đảnh Chúng phục. Vì kim cương dụ định đã bị Vô minh sau cùng làm động nên sinh ra trạng thái vui mừng hớn hở.
Kế là từ “Nói v.v…” trở xuống là sự đắc đạo của người đương cơ. “Thượng căn ngộ đầu tiên”: tức là dùng ba lượt ý của bản kinh mới dịch. Trần-như xin Xá-lợi là Trung căn, phân biệt ba thân là Hạ căn. Anậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, dịch là Vô thượng Chánh đẳng giác. Tức là giác tánh xưa nay của tất cả chúng sinh chứ chẳng phải bước lên quả vị cùng cực mới gọi là Vô thượng và Chánh đẳng này. Tâm giác ngộ này phát là chung đối với năm, tức là phần chân của nay.
Kế là từ “Thời v.v…” trở xuống là bốn Đức Phật quay về gốc, có hai:
Một là Giải thích về nhân duyên: Giác tánh của một loại cơ duyên là Tín Tướng v.v… vừa hợp và hưng khởi thì bốn Đức Phật không hiện mà hiện ngay. Sở dĩ bốn Đức Phật hiện ra là vì sự phát tâm. Vì tâm đã phát nên không quay về mà quay về.
Hai là giải thích về quán hạnh. “Đế cảnh”: tức là Bổn giác của ba đế, một cảnh. “Giác tuệ” tức là Thỉ giác của ba trí, một tâm. Toàn Bổn sinh khởi ra Thỉ gọi là phát. Thỉ hợp với Bổn gọi là Tương ưng. Tương ưng với thiện thì chắc chắn tiêu mất cả hai. Không tiêu mất tức là trong thông suốt mà khởi sự bít lấp. Vì biểu thị cho sự vắng lặng nên không hiện khởi.
Kế là giải thích phẩm Sám Hối, lại có:
- Nói về nghĩa lớn, có bốn:
- Giải thích về danh từ sám hối, có ba:
Một là đối với các kinh khác: Kinh Phương đẳng đà-la-ni nói về pháp sám hối của bốn chúng. Kinh Phổ Hiền Quán Pháp nói về pháp sám hối sáu căn. Đại kinh thì nói về sự sám nghi của vua A-xà-thế, kinh Thỉnh Quán Âm phong tỏa và điều phục ba thứ chướng. Quán môn của các kinh đều có công năng diệt tội, có Pháp nào chẳng phải là Sám? Nhưng, công hạnh của Bồ-tát là vị chuyển nghiệp đời trước thành duyên của việc lợi tha nên nói về ba pháp sám hối là Vô sinh v.v… Thanh văn vì tự độ nên dù có nói về Sám hối đi nữa thì phần nhiều là ở tại pháp cầu thoát ra ba đường. Vì thế, nay chỉ đối với các kinh của Đại thừa để nói về Tán và Chuyên.
Hai chính là giải thích về danh từ, gồm có:
Một là y theo chế phục để giải thích phần đầu. Nhưng, hai chữ Sám hối là nêu lên cả hai âm. Chữ Phạn là Sám-ma. Hán dịch là Hối quá. Do hối ngộ điều sai lầm nghĩa của năm loại Thủ phục v.v… Nay vì nêu cả hai âm Hoa và Phạm nên Đại sư dùng Thủ để giải thích về Sám và lấy Phục để giải thích về hối. Cho đến dùng hổ thẹn để giải thích Sám Hối. Mục đích của Đại sư là muốn làm cho người vâng theo hai chữ mà tu hạnh Thủ phục và hổ thẹn v.v… Vì đó là tướng của khéo
léo nói pháp nên chúng ta không thể lấy sự hỗ huấn của Hoa và Phạn để quở trách. Đầu tiên là y theo Thủ để giải thích. Thủ âm là Thú, tức là tự trình bày tội lỗi.
Hai là y theo Đen và Trắng để giải thích. Ngóng tức là trông mong. Chuộng cũng như tôn quý, sùng thượng.
Ba là y theo vứt bỏ, cầu tìm để giải thích. Hẹp hòi tức là xấu hổ, Ô là Hiềm hận.
Bốn là y theo Lộ đoạn mà giải thích: Phát lộ quá khứ và hiện tại, dứt sự nối tiếp đến vị lai.
Năm là y theo hổ thẹn để giải thích, có hai:
Một là giải thích chung, trực tiếp dùng hổ thẹn để giải thích về Sám hối. Vì chưa chia ra thứ nghĩa giữa người, trời nên gọi là giải thích chung.
Hai là “Tàm thì v.v…” trở xuống là giải thích riêng, tức là chia ra người, trời và sự khác nhau của sự lý thuộc bốn thứ giáo.
Kế là y theo người, trời để giải thích: Người thì mắt thường nên chỉ thấy chỗ rõ ràng của hổ thẹn, các vị trời thì có mắt Trời đạt được do quả báo nên thấy được chỗ ẩn mật. Người ấy hổ thẹn gọi là Sám Hối.
Kế là “lại nữa v.v…” trở xuống là y theo bốn thứ giáo để giải thích. Bởi kinh này có cả sự sám hối của cả ba thừa. Vì ba thừa nhiếp cả bốn thứ giáo. Nghĩa của hỗ thẹn đã bao gồm cả bốn thứ giáo thì lẽ nào bốn thứ là Thủ phục v.v… lại không bao gồm cả bốn thứ giáo hay sao? Người nói pháp y theo nghĩa thì nên giảng nói cho rõ ràng. Lại nữa, vị trí Hiền của bốn thứ giáo đều phải gia công, bậc Thánh thì tự nhiên có thể loại suy. Quả báo của người, trời thì tác ý tự nhiên. Lại nữa, Hiền thánh của bốn thứ Giáo có tu, có chứng. Lý của bốn thứ Giáo vốn chẳng phải do sự tạo tác. Vì vậy, còn được gọi là bốn giáo của người và trời.
Kế là ba tạng, có hai:
Một là Hiền thánh. Hiền tức là bảy loại Hiền, Thánh tức là bốn bậc Thánh. Đãi tức là Cập (đến).
Hai là “Lại nữa, Hiền v.v…” trở xuống là Sự Lý.
Kế là “Lại nữa, Tâm v.v…” trở xuống là Thông giáo, có hai:
Một là Hiền thánh. Vì Bồ-tát của giáo này có cùng sự dứt hoặc như Nhị thừa nên cả ba thừa đều là Thánh.
Hai là hình ảnh “Lại nữa, ba v.v…” trở xuống là Sự Lý.
Kế là “Lại nữa, ba v.v…” trở xuống là Biệt giáo, có hai:
Một là Hiền thánh: Vị trí Thánh của Thông giáo chỉ dứt trừ kiến tư. Ba bậc Hiền của Biệt giáo có thể sứt Trần sa và lại chế phục Vô minh. Vì thế, Đại sư nói “Còn sai”.
Hai là “Cuối cùng v.v…” trở xuống là Sự Lý. Ở đây lấy Đãn trung làm Đệ-nhất-nghĩa.
Kế là “Lại nữa, ba v.v…” trở xuống là Viên giáo, có hai:
Một là Hiền, Thánh: Dứt bỏ ba mươi tâm thì đều chứng Pháp thân đều hiện ra tám tướng. Vì vậy, Đại sư xếp vào Thánh. Thập tín giã biệt hẳn biển khổ nên được gọi là Hiền.
Hai là “cuối cùng đó v.v…” trở xuống là Sự Lý: Lấy Trung thuộc đầy đủ đức làm Đệ-nhất-nghĩa.
Ba là “Hợp mười v.v…” trở xuống là hợp mười số: Lấy Trung của hổ thẹn mà chia ra chung và riêng, chung là một mà riêng là năm, và bốn thứ như thủ phục v.v… Vì vậy, thành ra mười phen giải thích về danh từ sám hối.
Hai là nói về nơi sám hối, có bốn.
Một là nói về Sám thì phải có nơi chốn. Nơi nương tựa của Sám như tình trạng nguyên liệu thô phác nếu không có dùi nện thì không thành đồ dùng. Lấy gì làm dùi nện? Đó là một thật tướng, không có thật tướng khác. Tức là tướng tội. Nếu đạt được nơi chốn này thì tất cả tội đều tiêu diệt, tất cả đức đều sáng tỏ. Phần này tự chia như sau:
- Dẫn kinh để nói về nơi chốn, lại có:
- Dẫn các kinh, có hai:
Một là dẫn hai đoạn văn của Đại kinh: “Lời nói thô tháo, lời nói mềm mỏng”: Đối với giáo lý thuộc về bảy phương tiện thì phải dứt trừ ba thứ chướng, phải tu tập các công hạnh. Nhưng, vì chủ thể và đối tượng vẫn còn nên gọi là “Lời nói thô tháo”. Nếu là Viên giáo thì tất cả tu ác đều chính là tánh ác, đối tượng bị phá đã vắng lặng nên chủ thể phá tự mất. Ngôn ngữ của Vô ngôn gọi là “Lời nói mềm mỏng”. Vì ở nơi “Thô tháo” và “Mềm mỏng” ấy mà Đương xứ vẫn vắng lặng nên Đại sư nói là “Đều trở về Đệ-nhất-nghĩa”. “Bốn Chân-đế”: Vì hai khổ Chết, Tập của năm trụ, chính là tánh nên không có một loại nào để xả bỏ. Vì Đạo thuộc muôn ngàn hạnh, Diệt của ba đức chính là tánh nên không có Tu, không có Chứng. Nhưng sở dĩ nói dứt trừ sinh tử là đứng ở Chính mà nói về dứt. Dứt trừ của không dứt trừ thì tất cả đều được dứt trừ hết, cũng là miệng dứt trừ ở khổ thuộc tánh đức. Bốn thứ dứt này dứt bặt suy nghĩ, suy niệm, đều là Đệ-nhất-nghĩa. Hành giả biết được như thế thì được gọi là “Có được nơi chốn”.
Hai là dẫn hai đoạn văn của Pháp Hoa: Đi khắp gọi là Hành, trực tiếp tu tập gọi là gần. Hai việc này phải y theo nơi chốn gọi là Nhất Thật. Muốn nhẫn với cái nhục của chúng sinh thì phải trụ vào đất lý. Đất ấy là tâm thì phải thực hành và phân biệt điều gì? Đồng thời, cũng không nói rằng thực hành pháp không phân biệt. Nếu chẳng như vậy thì làm sao gọi là “Có được nơi chốn”. “Chỗ châu báu ở gần v.v…”: Tức chỉ ra chướng tức là đức thì lẽ nào lại có cái gần nào hơn như thế. Nhưng, vì phải quán chiếu nên Đại sư nói là “Tiến lên trước”. Phế bỏ tình thức thuộc Quyền gọi là “rời bỏ hóa thành”. Thể của Quyền là thật, gọi là “Chính là đến đảo châu báu”.
Kế là dẫn kinh này, có hai:
Một là dẫn: Ngã tức là ngã chân thật, lìa Nhân thì chẳng có pháp.
pháp tức là năm ấm thường trụ. ấm này là nhà che khắp tất cả chúng sinh. Vua A-xà-thế nói kệ giải thích Đệ-nhất-nghĩa gọi là quay về với Thế Tôn. Nay, kinh này nói rằng “Ta là nơi chốn quay về”. Kia cảm, đây ứng, nghĩa ấy biến mất.
Hai là “Nơi quy y là v.v…” trở xuống là giải thích. Kinh nói: “Ta làm chỗ nương”. Vậy, thể của ngã như thế nào? Đại sư lấy pháp tánh Đế lý, Diệu cảnh, Phật sự và Bí tạng để làm bằng chứng giải thích. “Mười phương v.v…”: Bậc Thánh trụ trong cả Phần và Mãn. Tức là lấy nơi chốn này để giúp cho chúng sinh an trụ. Sơ tâm có thể trụ gọi là “Đạt được nơi chốn”.
Kế là “Nếu đạt được v.v…” trở xuống là kết thúc sự mở bày nơi chốn phải có. Gốc của thật tướng lập thì sẽ sinh ra con đường diệu sám tịnh tín của Vô sinh. Nếu hành giả không thể nhập các pháp chính là tánh thì sẽ ở nơi mảnh đất bình thản của Trung đạo mà sinh khởi tám hình thái điên đảo gọi là sự sa đọa của điên đảo. “Như người mù bẩm sinh v.v…”: Vô minh của bốn thứ mắt, làm mù mắt Phật. Vào nơi giáo lý nghiêng lệch, các kiến như bụi gai, xúc chạm con đường thành trở ngại. Những việc ấy đều do không “đạt được nơi chốn”.
Kế là “Vì vậy, Phổ v.v…” trở xuống là nói về vấn đề “Đạt được nơi chốn”, Sám diệu, gồm có:
Một là y theo mầu nhiệm để nói về sám, có ba:
Kế là dẫn kinh để chỉ bày về mầu nhiệm: “Ngồi ngay ngắn”: Tức là oai nghi của Thân. Thiền ba-la-mật đưa ra đầy đủ các cách thức ngồi, người tu nên xem xét. “Niệm thật tướng”: tức là phép quán sám hối tội lỗi. Thật tướng vốn không có tướng. Vậy, hành giả phải niệm thế nào? Do đó, người tu dứt khoát phải lấy niệm của Vô niệm để niệm tướng của vô tướng, dùng tướng của vô tướng để xem xét niệm của Vô niệm. Nếu ngoài niệm mà có thật tướng riêng, ngoài thể có niệm riêng thì chẳng phải là “Niệm thật tướng” của kinh này. “Các tội v.v…”: Tức là lý do dứt trừ tội. Bởi vì, sự nghĩ nhớ đến Thật tướng ở trước, thể của tu ác chính là tánh ác. Tánh ác chiếu sáng thì đó mới gọi là Mặt trời trí tuệ. Tu ác vốn rỗng không như sương, móc tiêu tan. “Tâm ta v.v…”: Cũng xuất xứ từ kinh này. Tâm tánh xưa nay tức là Không, Giả và Trung. Lìa sự nhiễm ô của ba hoặc gọi là không tự thân. Tội phước, hai ngã trong mười cõi khó đạt được, ai là chủ tể? Đạt được như thế gọi là Vô sinh sám. Vì lẽ đó nên khiến Như Lai lập ra ba tên.
Hai là “Vô tội v.v…” trở xuống là nói về Diệu y theo nghĩa: Lấy ba thứ tên để so sánh với ba đế thì sẽ nhận biết được nghĩa của chúng. Nếu phân biệt cả ba đế để giải thích thì đó là thứ lớp quán chứ chẳng phải là nghĩa mầu nhiệm của hôm nay. Sự mầu nhiệm của nghĩa của hôm nay là: Không tức là ba đế, Giả và Trung cũng giống như vậy. Đó gọi là ngay nơi một là ba. Tam đế đều là Không. Giả, Trung cũng như vậy. Đó là ngay nơi ba mà là một. Hành giả nên biết điều này. Ba và một chính là nhau là làm sáng tỏ nơi chốn sám hối, dứt bặt suy nghĩ và bàn luận. Nếu dùng lời nói này để làm thêm lớn tư tưởng thì hành giả mãi mãi không rõ biết về nơi chốn sám hối.
Kế là “Các v.v…” trở xuống là y theo người để làm sáng tỏ mầu nhiệm: pháp mà bậc Đại nhân học không thể là thấp cạn.
Kế là “Nếu biết v.v…” trở xuống là kết tên gọi Diệu sám: dứt trừ được Kiến tư thì tâm chính là kho tàng của ba đức. Rễ của tội đã vắng lặng thì pháp của Sám tự mất. Chủ thể và đối tượng đã tiêu mất thì sao lại dùng danh từ để đặt để. Có chăng chỉ gọi theo cách gượng gạo là “Nơi này là tuyệt đối mầu nhiệm”!
Kế là “Đại kinh v.v…” trở xuống là nói về vấn đề Sám mầu nhiệm, người tôn quý, có hai:
Một là dẫn kinh sách để chỉ bày, nên nghĩ nhớ sự sâu rộng của nó là như biển lớn. Đứng từ quan điểm sám hối này mà gọi nó là tắm gội. Nhiếp tất cả muôn vạn công hạnh gọi là dùng các thứ nước. Hình ảnh ấy dụ cho sự sám hối đạt được Bát-nhã. Nghiệp ác từ vô thỉ trói buộc hành giả như chủ nợ. Thấy được thật tướng của nghiệp gọi là nương gần với vua. Nghiệp tùy theo sự quán sát mà chuyển gọi là cúng dường ngược lại. Đây là dụ cho sám hối đạt được giải thoát. Tâm tánh vô thượng cũng như bức tường. Sơ tâm đạt được tánh như cỏ nương ở chỗ cao; Hạnh và Vị tuy thấp nhưng đã có khả năng vượt qua đảnh của bảy phương tiện.
Đây là dụ cho sám hối đạt được Pháp thân. Sách Thư nói là Lưu Tử.
Hai là “Hành giả v.v…” trở xuống là nêu hành giả để kết thúc.
Kế là “Hành giả v.v…” trở xuống là khuyên trước nên tìm nơi chốn sám hối. Nhưng nơi chốn sám hối thì ai cũng sẵn có, có pháp nào là tạm sai đâu? Chỉ vì mê gốc nên cả mắt đều không thấy, cả tâm đều không biết. Vì vậy, ở đoạn dưới, Đại sư nói “Ở trước mười lực mà không biết chư Phật”. Khuyên và cầu mong người tìm kiếm phải thân gần gũi thầy giỏi, phải nương tựa vào giáo lý vượt hơn, siêng năng nghe và hỏi, đọc và suy nghĩ kỹ. Nếu làm được như vậy thì chắc chắn đối với chủ thể giải thích và đối tượng được giải thích sẽ thong dong ngoài tư lự, không dùng tên gọi mà gán ghép. Đó là đạo lý của pháp tánh là cái được tìm kiếm. Lý ấy thật vô cùng vượt hơn, là chỗ y cứ của pháp sám hối. Vì vậy, Đại sư gọi là “Nơi chốn”. Nếu y theo nơi chốn ấy để lập ra Hạnh môn thì mới được gọi là sám hối Đại thừa.
Kế là “Tiếp theo, làm sáng tỏ v.v…” trở xuống là nói về pháp sám hối. Đây là sự chỉ bày về Pháp thuộc chủ thể sám hối. Gồm:
Một là khai chương: Chánh và trợ ở đây cũng gọi là Tuệ hành và Hạnh hành. Nếu y theo lớn thì đó chính là Duyên nhân và Liễu nhân, là pháp của tu đức.
Hai là “Chánh pháp v.v…” trở xuống là chỉ bày về tướng, có:
- Chánh pháp, có hai:
Một là chỉ bày sơ lược, trong sự phân biệt về nơi chốn ở trên tuy lời là chủ thể quán nhưng ý tức là dùng quán để làm sáng tỏ về nơi y cứ. Nay nói chủ thể quán thì ý chính là lấy nơi chốn để làm sáng tỏ quán thuộc Chủ thể quán. Vì pháp không đứng một mình nên phải đeo níu nhau. Dứt trừ mà không lẫn lộn nhau mới dụng tâm được.
Hai là “Pháp tánh v.v…” trở xuống là chỉ bày về chi tiết, lại có:
- Nói về tướng của sự tu tập về quán, có hai:
- Đứng ở nội tâm mà tu quán, có hai:
Một là nói về quán tùy theo cảnh. Pháp tánh tức là Thật tướng các pháp. Tên là Như Lai tạng thì đầy đủ các đức. Tuy có các đức tính ấy nhưng vốn vẫn lìa niệm nên nay mới nói rằng “Vốn dứt bặt niệm mà quán”. Vì vậy, loại quán này cũng có tất cả công đức của Pháp tánh. Do đó, Đại sư kết rằng “Quán tuệ cũng như vậy”.
Hai là “Cảnh, Trí v.v…” trở xuống là nói cảnh và quán chẳng phải hai, lại có:
- Dung nhiếp Cảnh và Quán, có hai:
Một là chỉ bày về tướng: Cảnh là Bổn giác, Trí là Thỉ giác. Tuy chia ra Bổn và Thỉ nhưng vốn là một loại Giác. Cảnh và Trí đã vậy mới được gọi là tướng thầm khế hợp với Pháp không hai. Vì vậy, Đại sư nói câu “Như như chẳng khác”. Như và Danh chẳng khác tức là Cảnh chẳng khác với Trí, Trí chẳng khác với Cảnh, cũng gọi là Nhất, Hợp. Vì thể của Cảnh và Trí là một nên mới thầm khế hợp.
Hai là “Kinh nói v.v…” trở xuống là dẫn chứng: Kinh tức là Nhân Vương Bát-nhã. Trí là Bát-nhã. Nơi chốn là thật tướng. Trí thuộc chủ thể quán và nơi chốn thuộc đối tượng được quán đều là Bát-nhã, tức là ngoài trí chẳng có cảnh. Cả hai đều là thật tướng tức là ngoài cảnh không có Trí. Tướng trạng thầm khế hợp với nhau của Cảnh và Trí là như vậy.
Hai là “Nói Như v.v…” trở xuống là hội nói và im lặng. Lại do hai tướng nói và im lặng chẳng khác nhau nên làm sáng tỏ về cảnh trí nhất thể và thầm khế hợp. Nếu không do Cảnh và Trí của vô tướng thì làm sao sinh khởi được lời nói thuộc sự im lặng? Nếu không do lời nói thuộc sự lìa bỏ của tánh thì chẳng thể làm sáng tỏ được Cảnh và Trí không hai. Vì vậy, sau Cảnh và Trí, chúng ta phải bàn về nói và im lặng. Do đó, Chỉ Quán Nghĩa Lệ nói rằng “Vì vậy cảnh không thể suy nghĩ bàn luận tức là Quán”. Cho nên được nói rằng Cảnh chiếu Cảnh, Cảnh chiếu Trí, Trí chiếu Trí, Trí chiếu Cảnh. Người chiếu soi mới chiếu soi, chẳng phải lời nói cùng tận được. Người nói nên chiếu, chẳng phải lời nói mà xong được”. Vì vậy, chúng ta biết rằng nghĩa của Chỉ quán chẳng khác với ở đây.
Kế là “Lấy cái đó v.v…” trở xuống là dùng tâm thanh tịnh đi qua pháp, có hai:
Một là theo thông lệ tiêu mất và thanh tịnh của nội tâm: Ở trên, lúc nói về diệu quán, Đại sư đã đứng ở nội tâm để nghiên cứu diệu cảnh nhiếp tất cả pháp. Nếu thành tựu quán cảnh thì có khả năng dùng loại quán này để trải qua khắp cả ba khoa cho đến nghiệp hoặc, tự nhiên hành giả đều thấy được cảnh không thể suy nghĩ bàn luận. vì vậy, Nghĩa Lệ nói: “Tu tập thứ lớp của quán thì trước phải từ nội tâm. Nếu nội tâm thanh tịnh thì hành giả dùng tâm thanh tịnh ấy mà trải qua khắp các pháp, tự nhiên được thầm khế hợp”.
Hai là “Vì thế, nói rằng v.v…” trở xuống là dẫn giáo chỉ bày tướng của dung nhiếp, có hai:
Một là y theo pháp để khai thị.
Tỳ-lô-giá-na, Hán dịch là Hiện hữu ở khắp mọi nơi, đó cũng là trải qua tất cả. Lại trải qua riêng đối với sáu thứ tạo tác, sáu thứ thọ nhận. Hai thứ tạo tác là đi và đứng phải bao gồm bốn thứ tạo tác là ngồi, nằm, nói và im lặng. Đó gọi là sáu thứ tạo tác. Sáng và tối là nêu sơ lược việc mắt thọ Sắc. Hợp với thông lệ của chấp lấy âm thanh cho đến ý và pháp. đó gọi là sáu thứ thọ nhận. Vì vậy, Đại sư tổng kết rằng “Đối tượng đối lập với sáu căn”. Tuy kết sáu thứ thọ nhận nhưng thân chắc chắn là sáu thứ tạo tác. Đối với tạo tác và thọ nhận ấy mà thường được thấy Phật. Phật chắc hẳn có ba thân. Nay, do nội tâm mà thành ba thứ quán mầu nhiệm. Cho nên đối với tạo tác và thọ nhận mà thường thấy ba đức, ba đế của Như Lai. Do đó, Đại sư kết rằng: “Đều là Phật pháp”.
Hai là “Giả-bà v.v…” trở xuống là dẫn Sự để dụ, có ba.
Một là Kỳ-bà dụ cho sư phá chung một cách tự nhiên.
Hai là dùng Ma-nam dụ cho sự sinh thiện tự nhiên.
Ba là dùng Na luật dụ cho làm sáng tỏ về lý một cách tự nhiên. Ba phần này chỉ bày riêng về ba phép quán trải qua tất cả, tự nhiên thường khế hợp với ba pháp mầu nhiệm. Nói thì có trước sau nhưng chiếu soi thì không có dọc và ngang.
Kế là “Nếu như v.v…” trở xuống là nói về tướng của sự diệt tội. Đã ở nội tâm, lại trải qua cảnh thuộc duyên, thầm khế hợp giữa Đế và quán, tức là đạt được tính chất không có chủ tể của tội và phước trong mười cõi. Toàn thể tánh của việc tu ác, tu thiện tức là tánh ác, tánh thiện. Đó gọi là thấy được thật tướng của tội và Phước. Vì vậy, kinh Pháp Hoa nói: “Đạt sâu tướng tội phước, chiếu soi khắp mười phương”. Mười phương tức là mười cõi. Mười cõi đều là thật tướng. Tướng nào cũng linh động. Một thâu nhiếp tất cả. Mỗi một của tất cả đều thâu nhiếp đối với tất cả. Các tất cả ấy đều là thật tướng. Vọng tưởng đều là thật thì thật cũng tự tiêu mất. Đó chính là sám hối rộng lớn.
Kế là “giúp đạo v.v…” trở xuống là pháp giúp đỡ, có:
Một là nói về dụng giúp cho ý: Tu hai thứ sám là Chính và Trợ thì y theo căn và duyên, tự có một hướng tu tập đối với Chánh đạo bước thẳng lên Trụ của Viên. hoặc nội phàm, ngoại phàm tự có một bề tu tập đối với giúp đạo. Như ngài Nam Nhạc có lập Hữu tướng an lạc hạnh. Vì không đi vào Tam-muội mà chỉ tụng trì nên cũng thấy được sắc thượng diệu. Biểu tượng cho hai thứ ấy, tùy căn mà tu nhập, không giống như lúc ngộ được Lý thì chắc chắn phải xả bỏ cả hai. Tự có chính và trợ bao gồm nhau mà tu thì hoặc là chính trước trợ sau, hoặc trợ trước chính sau, hoặc tu tập đồng thời. Ý của pháp được lập ở hôm nay là tại sự cùng tu. “Nếu đối với ba câu mà đều không nhiếp”, tức là người mà thân trâu.
Hai là “Điều được nói v.v…” trở xuống là nói về pháp giúp đạo, có hai:
Một là Dụ dụng trợ cho ý: Nước trong dụ cho Chính, Tro v.v… dụ cho trợ. Vì cấu bẩn khó dứt, chỉ có nước thì không thể, có tro đem trợ với nước mới hữu dụng.
Hai là “Nói sơ lược v.v…” trở xuống là chỉ bày về pháp giúp đạo. Trợ vốn là giúp đỡ cho Chính. Cho nên chánh quán không mở bày được là vì bị hoặc thuộc lý che đậy. Vì vậy, hành giả tu tập trợ hạnh để đối trị với màn che của Sự. Nếu màn che của Sự đã dứt thì không nhờ vào hoặc của lý. Vì thế, hành giả làm cho chánh kiến khai mở để nhập vào cửa Lý. Nói đầy đủ về sáu Độ, lược nêu lên sơ lược về ba nghiệp. “Cái sách tấn quán”: hoặc dùng năm pháp để sách tấn đối với chánh quán, cũng giúp sức cho việc mở cửa. hoặc là sách tấn phép quán thuộc Sự. đó là năm môn thiền, mỗi môn đều có đối trị để giúp đỡ cho việc khai mở chánh quán.
Kế là “Nếu thuận v.v…” trở xuống là nói về dụng để giúp đỡ cho công: Chánh giải như thuận dòng nước. Chánh quán như thuận theo gió. Hai hình ảnh ấy ví dụ cho chánh đạo có năng lực hướng về Diệu lý. Cây sào, mái chèo dụ cho điều lành như bố thí v.v… nước giúp cho gió, thì lẽ nào con thuyền lại không đi nhanh?
Kế là “Như vậy v.v…” trở xuống là tổng kết.
Kế là nói về địa vị của sám hối, có:
- Sự giải thích khác bị hạn cục và cạn cợt, có hai:
Một là trình bày về người khác.
Hai là “Đây v.v…” trở xuống là bác bỏ sơ lược.
Kế là “Vì vậy, mới v.v…” trở xuống là sự giải thích của ngày nay có cả cả sâu, lại có:
- Chính là giải thích, có hai:
Một là tạo nghịch: Cúc (nuôi) cũng là dưỡng. Vũ (vỗ) tức là Vỗ. Duy duy là vẻ thương con. Trong thì sáu, năm giáo cùng số và tên của phương hướng. Chú thích rằng: “Phương là Đông, Tây”. Sát nghịch. Sát hoặc viết là thí đều cùng âm Thí. Tức là kẻ dưới giết người trên. Dịch nói: “Thần giết vua, con giết cha”. “Trời tuy v.v…” trở xuống là nói trời đất không thể làm ngơ với sự thọ sinh. Vì vậy, phải đọa vào địa ngục. Dùng năm tội nghịch chiêu cảm năm loại Vô gián; có hai: “Phật là v.v…” trở xuống là nói về phá giới thiên đầu bốn trọng, nhóm sau là Cát-la. Nếu nói về năm thiên thì Sơ và hậu đều là Thiên, sáu nhóm thì đầu cuối đều là nhóm. Văn thêu dệt hiện ra cùng nhau. Vì vậy, Đại sư nói “Sơ Thiên, Hậu Tụ”. Ba vị Sư là Hòa thượng và hai A-xà-lê là yếtma và Giáo thọ. “Bảy vị tăng ấn chứng truyền giới”: Đây là y theo số 2 lượng mười người thuộc Trung Quốc. “Biển Phật”: Phật pháp như biển. Phạm giới trọng như xác chết. Vườn hoa có thể mở. Nói Phạm trọng tức là phải ra khỏi chúng thanh tịnh.
Hai là “Nặng về sân v.v…” trở xuống là nói về ba đường: Tâm đã nặng về sân v.v… thì động tác của thân, miệng trở thành nghiệp sân. Vì vậy mà đọa làm rắn, rít. Vì nêu gốc để nhiếp ngọn nên nói là nặng về sân”. Nặng về dục v.v… ở dưới là tất cả đều có thể dùng nặng về sân làm lệ chung.
“Rắn. Rắn hổ mang”: Nhĩ Nhã nói: “Rắn độc hổ mang rộng ba phân, đầu to như ngón tay cái”. Quách Phát nói: “Thân rộng ba phân, đầu như ngón tay cái”, đó đều gọi là rắn độc hổ mang. “Siểm”: Trang Tử nói: “Ý ít mà dẫn đến lời nói gọi là Siểm”. “Ngạ quỷ đang đói v.v…” là Nêu sự khó chịu đựng của quả, cần phải sám hối.
Kế là “Trong cõi người v.v…” trở xuống là người và trời, có hai:
Một là Người có “tám thứ khổ”: Sinh, già, bệnh, chết, Oán tắng hội, ái biệt ly, cầu bất đắc và năm ấm lừng lẫy.
Hai là Trời “Năm thứ suy”: Áo quần hôi dơ, hoa trên đầu héo, thân thể hôi bẩn, dưới nách tiết ra chất bẩn, không thích chỗ ngồi cũ. “Bốn thứ tâm”: Tức là Thọ, Tưởng, Hành và Thức. “Cái lồng, cái lồng chim”: Cái lồng chim là bờ rào. Kinh Thi nói: “Lượn lờ con ruồi xanh đậu trên bờ rào”. Nay, chúng sinh ở trong ba cõi như ở trong cái lồng, rào dậu, không thể tự thoát ra được.
Kế là “Khổ ra v.v…” trở xuống là nói bốn thứ giáo đều sám hối, gồm có:
- Ba tạng, có hai:
- Thanh văn, có hai:
Một là bảy bậc hiền. Đầu tiên là năm đình tâm. Đó là bất tịnh dứt Tham, Từ bi dứt sân, Nhân duyên dứt si. Sổ tức dứt Giác quán. Giới phương tiện dứt sự chấp ngã. Nếu năm thứ phiền não là tham v.v… ngăn trở tâm, làm cho tâm không được dứt thì hành giả phải sám hối. “dứt v.v…” trở xuống là nối tiếp chữ tâm.
Tiếp theo là bốn niệm xứ: Dùng để đối với đạo phẩm thuộc về Vị. “Bốn điên đảo”: tức là chấp thân là Tịnh, Thọ là Lạc, Tâm là Thường và Pháp có Ngã. Bốn niệm đối trị bốn điên đảo này. “Bốn chánh cần”: Hai điều ác đã sinh thì làm cho chúng diệt, chưa sinh thì làm cho chúng không sinh, hai điều thiện đã khởi thì làm cho chúng tăng trưởng, chưa sinh thì làm cho chúng phát sinh.
Bốn Như ý túc là Dục, Tinh tấn, Tâm, tư duy.
Năm căn là Tín, Tấn, Niệm, Định và Tuệ.
Năm lực: Danh từ giống với Căn, nhưng vì dùng Bất động để dứt Chướng nên chia thành hai khoa. Pháp Hoa Văn Cú dùng bốn khoa là Chánh cần, Như ý túc, Căn và Lực để so sánh với Noãn, Đảnh, Nhẫn và Thế Đệ nhất vị. “Noãn, Đảnh khác với ở đây” hoặc là văn nhầm lẫn. hoặc là có ý riêng.
Hai là “Khổ nhẫn v.v…” trở xuống là bốn quả: “Khổ nhẫn nói về Pháp”: Kiến đạo có mười sáu tâm. Đó là bốn đế ở dưới cõi Dục. Mỗi Đế khởi pháp nhẫn, Pháp trí. Bốn đế của hai cõi ở trên là Sắc và Vô sắc. Mỗi đế đều khởi loại nhẫn, loại trí. Tám đế của Thượng và hạ ấy cộng lại là mười sáu tâm, dứt trừ tám mươi tám Sử kiến hoặc. Nay nói khổ nhẫn tức là Khổ pháp nhẫn của cõi Dục, khổ đế trở xuống, nói phát được khổ pháp trí. Quán Khổ đế của cõi Dục rồi thì hành giả quán ngay Khổ đế của cõi trên, đạt được Loại nhẫn trí. Ba đế còn lại theo nói theo lệ chung. “Tuy không v.v…” trở xuống là vì không thấy nên hoặc sinh khởi ngang trái. Vì vậy không đọa vào đường ác. “Bảy lần sinh cõi Dục”: Chín phẩm Tư hoặc thuộc cõi Dục nhuận bảy lần sinh. Đó là, Thượng thượng phẩm nhuận hai lần sinh. Thượng trung, Thượng hạ, Trung thượng, mỗi phẩm nhuận một lần sinh. Đó là nói về Sơ quả. “Tuy dứt dục v.v…” trở xuống là nói về Nhị quả.
Năm hạ phần là Thân kiến, Giới thủ kiến, Nghi, Tham và Sân. Tham tuy chung với Thượng nhưng không chỉ ở thượng. Chỉ một Sân ở hạ không chung với thượng, dù hành giả có dứt tham v.v… cho đến Vô sở hữu xứ nhưng do thân kiến v.v… mà lại quay trở về với cõi Dục. Vì vậy, năm thứ này gọi là hạ phần. Ba phẩm còn lại thọ một đời sống gọi là “Một lần qua lại”. Tuy dứt năm hạ nhưng gọi là người thuộc ba quả hướng. Còn một phẩm là phẩm thứ chín. Cũng gọi là một hạt giống Nahàm. “Tuy dứt Sắc v.v…” trở xuống chính là nói về người thuộc ba quả: Chín phẩm đã hết, không đến cõi Dục mà tiến lên dứt Thượng hoặc. “Tuy nhập v.v…” trở xuống là Vô học, hai thứ Bích-chi-phật: Vì chưa thể dứt trừ hết sự xâm nhập của Tập khí nên phải sám hối. Nói “Cũng vậy” là vì theo lệ chung sám hối tập khí của La-hán ở trên. Bồ-tát chưa dứt mà lại ở tại người, trời.
Kế là “Nếu cần v.v…” trở xuống là Thông giữa: Giáo giải thích thể không khác với Chiết Diệt ở trước. Không ngậm chứa Trung đạo là pháp môn Đại thừa. Bậc lợi căn mới thấy nên thuộc hai thứ giáo lý sau. Nay, Đại sư đặt chân ở Nhị thừa và Bồ-tát độn căn để nói về sám hối.
“Bích-chi-phật không đạt được văn tự”: Tức là không thể nói pháp để
giáo hóa kẻ khác. Nhưng, Bích-chi-phật có khác nhau giữa Bộ hành và Lân dụ. Bộ hành đôi khi cũng có thể nói pháp. Nay nói theo Lân dụ, ngộ một mình, đi một mình dụ như đầu lân một sừng. Vì vậy gọi là Lân dụ.
Kế là “Thập tín v.v…” trở xuống là Biệt giáo: “Thập tín chỉ có tin”: Tín có công năng tạo ra tâm. Vì nó là Phật tánh “Chưa thể xứng hợp với Lý”: Vì dùng tâm của Phật tánh để tu tập riêng về Không. Vì vậy, khiến cho Thập trụ chứng một cách nghiêng nặng về lý của Không, Thập Hạnh chỉ nêu ra Sự thuộc sự kiến lập; đã cùng hai thứ quán cùng phá và lập lẫn nhau nên chưa thể đi vào Trung. Thập hướng không nghiêng nặng nhưng chỉ tu chứ chưa chứng. Nhưng, do tiệm tu, lúc bước lên Địa thì đốn chứng. Ở trước tuy sáng tỏ nhưng sau sau vẫn còn bị che chướng. Vì vậy Đại sư nói là “Địa nào cũng có chướng”. Đến Đẳng giác mà vẫn có vị chưa đạt được Vô học”. Cho nên hạng phàm thánh này đều phải sám hối.
Kế là “Lại nữa, mười v.v…” là nói về Viên giáo: Loại căn cơ này đầu tiên giải ngộ được Trung có đủ hai bên, Không và Giả tức trung. Vì vậy, có thể tu chứng ba trí một tâm. “Không nói danh tự và năm phẩm”: Tức là so sánh cao với thấp. Thập tín mà còn sám huống chi giai vị trước đó. “Chỉ là v.v…” trong Pháp Hoa, lúc nói Đà-la-ni, tuy có cả cả Sơ và hậu nhưng tự vị đạt được. Tướng của sự đạt được ấy rất rõ.
Một là Triền đà-la-ni xoay vần theo Giả mà nhập vào Không. Đây ngang với Thất tín.
Hai là trăm, ngàn, muôn, ức Đà-la-ni xoay vần theo Không mà ra Giả. Đây là tương đương với Bát tín trở lên.
Ba là Pháp âm phương tiện Đà-la-ni: dùng hai thứ quán làm phương tiện để chuyển nhập vào pháp âm của Trung đạo. Đây là tương đương với Thập tín. “Khuôn, thành quách v.v…”. Ba hình ảnh này dụ cho trí đoạn của Pháp thân, vì đều chưa nghiên cứu đến cùng tận nên đều phải sám hối.
Kế là “Ngang với đây v.v…” trở xuống là bác bỏ hạn cuộc: Vì dưới thì từ gây ra nghiệp Vô gián, trên thì thấu đến Đẳng giác của Viên giáo nên Đại sư nói “Vị dài”. Các vị nói theo chiều ngang, mỗi vị đều có sự khác nhau của tám chướng phiền não, đầu số, kết nghiệp, lưu loại, khổ báo v.v… Vì vậy, Đại sư nói là “Nghĩa rộng”. Vì sao người xưa chỉ hạn cục ở phàm phu?
Kế là “Vì vậy v.v…” trở xuống là dẫn kinh để chứng kết: Đại sư vốn dùng Tam-muội, tổng trì để nói về vị trí sám hối bao gồm cả phàm và thánh, tự nhiên so sánh tính toán hợp với kinh kia, thật chẳng phải tìm kinh để tạo ra sự sắp bày như thế. Hành giả biết điều ấy.
Kế là “Nếu người v.v…” trở xuống là nêu điều lợi để khuyến tu, có bốn.
Một là nói về sự gieo trồng đời trước của người nghe.
Hai là “Nói v.v…” trở xuống là người nghe đạt được quả báo. “Quả báo”: Sám này đến lý thì công đức đạt đến quả cùng cực, đó là sự cung kính lẫn nhau với chư Phật.
Ba là “Nghe trực tiếp v.v…” trở xuống là nghe huống chi là giải đã xứng với Lý thì tu tập sẽ thành hạnh. Như thế thì quả chứng của Phần, Mãn sẽ không xa.
Bốn là “Đã nghe v.v…” trở xuống kết, nói về sự quy kính. Ân đức của Phật đã như vậy, người muốn báo đền thì chỉ nên đúng theo lời dạy mà tu hành. Quy mạng lễ Phật, một trong năm thứ sám hối. Tại sao lại không tu tập bốn thứ sám hối còn lại.
Tiếp chính là giải thích phẩm đề, như sau:
- Giải thích về nghĩa của hai chữ, có hai:
- Y vào chữ để huấn thích, có hai:
- Giải thích về sám, có hai:
Một là Nói về tìm gương soi.
Hai giải thích về hối, có hai:
Một là nói về chủ thể phế bỏ.
Hai là nói về đối tượng được phế bỏ. “Ý nói là mười điều phế bỏ”: Ý như bậc quân vương. Thân miệng như quan, vua đã khắc kỷ thì quan liền chấm dứt sự bạo ngược. Vì vậy ý bao gồm cả mười.
Kế là “Lại nữa, Pháp v.v….” trở xuống là y theo Pháp môn để giải thích các loại.
Kế là “Sám hối v.v…” trở xuống là nói về ba thứ sám hối, gồm có:
- Nói về ba thứ tướng mạo, có hai:
Một là nêu tên gọi để chỉ bày: là ba loại tên gọi để chỉ bày rằng sự thông cả Đại và Tiểu.
Hai là “Tiểu thừa v.v…” trở xuống là y theo tưởng để giải thích, có hai:
Tiếp là nói về tiểu, lại có:
Một là tác pháp: Tỳ-ni, Hán dịch là Luật. “Hai mươi Tăng”: đây là y theo sự Sám hối tội Tăng tàn. Nhưng đối trị có bốn pháp.
Tiếp theo là trị sai lầm thuộc tình của che giấu, đó là thực hành Ba-lợi-bà-sa, Hán dịch là Phú tàng. Hoặc dịch là Biệt trụ, tức là ở riêng một phòng, không được ở chung một chỗ với Tăng. Dù có vào trong Tăng chúng cũng không được bàn luận và không được đáp. Thực hành pháp này phải đủ một trăm ngày. Vì không nhớ số ngày đầu tiên của Phú tàng nên bàn một trăm ngày làm kỳ hạn.
Hai là trị tội Phú tàng: đó là phạm rồi che giấu thì mắc tội Độtcát-la, không che giấu thì phạm tội tăng tàn. Nếu người che giấu trước sám hối tội Đột-cát-la, sau đó cho ở riêng.
Kế là trị Tăng tàn tình quá tội: tức là thực hành Ma-na-đỏa trong sáu đêm. Ma-na-đỏa, Hán dịch là ý hỉ, trước tuy là tự ý hoan hỷ nhưng cũng làm cho chúng tăng vui mừng. Do niềm vui ở trước nên cùng ít ngày tức là sáu đêm, nên gọi là ý hỉ. Tăng chúng khen rằng “Người này sửa đổi thành thanh tịnh”, cho nên nói “Chúng tăng hoan hỷ”.
Kế là trị Tăng tàn: tức là ở trong hai mươi vị tăng mà bạch bốn lần yết-ma nêu tội ra. Nhưng, che giấu không nói về tướng mà thực hành ngay về Ma-na-đỏa, sau đó mới đi vào chúng để nêu tội ra. “hoặc nửa tháng tác pháp”: tức là lúc đang thực hành biệt trụ. Mỗi lúc gặp kỳ nửa tháng thuyết giới thì người ấy phải bạch với Tăng chúng rằng: “Tôi phạm Tăng tàn”. “Đối thú tác pháp”: Tức là sám hối tội Đột-cát-la nặng. Trách tâm tức là sám hối tội Đột-cát-la nhẹ. Luận Ma-di nói: “Cố ý làm thì đối thú nói một lời, lỡ làm thì trách tâm mà hối lỗi”. Tiểu thừa phạm Ma-di cũng có sám pháp. Sở dĩ sớ văn không dẫn ra là vì sám rồi đã là Sa-di học hối nhưng vẫn chứng quả Thánh. Vì thế, chẳng phải là nghĩa của khôi phục sự thanh tịnh căn bản ở trong đây. Do đó Đại sư Kinh Khê nói: “Tiểu thừa học hối rồi nhưng vẫn chướng quả thánh, tội nặng chưa mất”.
Kế là “A-hàm v.v…” trở xuống là chấp tướng: Trên là nói Tác pháp chỉ làm cho ba nghiệp thuận với chế pháp của Phật, pháp thành thì tội diệt, nếu là tán tâm tội diệt cũng còn cạn thấp. Nay nói chấp tướng thuộc về định tâm. Tưởng thành tướng khởi, diệt tội thì sâu. Vì vậy, tưởng miệng rắn thành thì lẽ nào chỉ có tội dâm được diệt trừ? Ngay cả dâm dục cũng không sinh khởi.
Kế là “cũng có v.v… ” trở xuống là vô sinh, “nói về quán không”:
tức là chia chẻ pháp để làm sáng tỏ không. Quán tâm tạo tội vốn không có chủ tể. Niệm niệm vô thường, không có ai là năng tác, không có nghiệp báo ấy. Nếu ngã kiến tiêu vong thì các sử sẽ vắng lặng hẳn. Nếu thành tựu được phép quán này thì dứt được bốn đường và ra khỏi ba cõi. Tướng của ba phép sám của Tiểu thừa giản lược hơn.
Kế là nói về Đại thừa, có ba.
Một là tác pháp.
Hai là chấp tướng.
Ba là vô sinh. Hành giả nên biết rằng Vô sinh là chủ đích của ba thứ sám và hai thứ kia là trợ duyên. Vì vậy, sớ trước nói: “Nước tro, cỏ đen giúp cho nước trong”. Nếu thiếu phép quán siêu việt thì không gọi là Đại thừa mà giống như khổ hạnh chẳng lợi ích gì đồng như ngoại đạo. Hành giả phải gần gũi với thầy tốt để học về nơi sám hối” và “Pháp sám hối” mới thực hành được sự nghi Đạo tràng. Vì thế, đối với các sự, hành giả đều phải dùng phép quán siêu việt để chiếu soi mà dẫn dắt khiến cho tác pháp v.v… đều thuận với thật lý, đều là các nhân của Phật. Có vị cho rằng hành pháp được tu tập bởi đạo tràng nhưng thuộc về trị sự. Hành giả phải đối với mười thừa, trước tu tập sáu pháp, sau mới giúp khai mở. Tuy nói vậy nhưng vị ấy chẳng biết rằng sáu phép trước là để dùng trong đạo tràng. Như nay nói về sám có bàn luận đầy đủ ba loại thì lẽ nào lại bỏ sự thực hành thuộc sự ư? Lại nữa, có một quyển Pháp Hoa Tam-muội lưu hành riêng ở đời. Đại sư xếp đó chính là pháp sám hối hối tội chướng đạo của người sơ tâm, nhờ đó mới tu các thứ Tam-muội. Lại nữa, cánh cửa của các khổ hạnh tịnh tiến đều tùy theo sự ưa thích, hàng sơ tâm có thể tu. Nhưng vấn đề là phải dùng Vô minh quán của Viên làm chủ, kèm người dẫn dắt khiến cho mỗi hạnh đều ngay tu là tánh, không tu không đắc. Được thế thì thành công hạnh của Viên. Lẽ nào các sự hành, Diệu quán, Diệu cảnh, Diệu tu, Phát đại tâm, An tâm v.v… đều là sự tu tập siêu việt ư? Nếu quả như vậy thì trong tùy tự ý trải qua ba tánh kia hoàn toàn không có mười Thừa, làm sao gọi là Tam-muội. Nếu tự mình chưa am hiểu thì nên y theo sự khai mở, dẫn dắt và sách tấn tu tập của bạn lành mới thành tựu lợi ích sâu xa. Lại nữa, chúng ta phải hiểu rõ trong loại sám của Đại thừa thì một loại cuối cùng tuy có thể tu đơn độc. nhưng nếu không có sự tiến bộ thì hành giả phải mượn hai thứ trước. Hai thứ trước không thể tạm lìa loại Vô sinh. Đạt được ý ấy mới nói và thực hành ba loại sám pháp được. Tác pháp đầu tiên, “Tám trăm v.v… kinh Hư Không Tạng nói người biết pháp lại bảo quét dọn nhà xí tám trăm ngày. Ngày nào cũng nói với họ rằng “Ngươi làm việc bất tịnh. Một lòng chùi rửa tất cả các nhà xí, chớ cho người khác biết. Sau khi lau chùi xong, tắm rửa rồi lạy ba mươi lăm Đức Phật, xưng danh Hư Không Tạng. Hướng về mười hai bộ kinh mà gieo năm vóc sát đất, tự nói tội lỗi v.v…” “chín mươi ngày v.v…” kinh Bát Chu nói” “Có bốn điều kiện mau được ba thứ Tam-muội này”.
Một là không được có tư tưởng thế gian, như tướng chỉ ngón tay, trong khoảnh khắc mà đã ba tháng.
Hai là không được nằm trong suốt ba tháng, như khoảnh khắc chỉ ngón tay quyện vào nhau.
Ba là kinh hành không được dừng nghỉ, không được ngồi trong ba tháng, trừ thời gian ăn uống.
Bốn là nói kinh cho người nghe không mong được áo quần, thức ăn uống của người. Đó là bốn điều kiện? Bát-chu, Hán dịch là Phật lập. Lúc Tam-muội thành tựu, hành giả thấy chư Phật khắp mười phương đứng ở trong hư không, nên gọi là Phật lập. “Tro, nước sôi v.v… ” trở xuống là nói mỗi hành pháp ở trên đều làm sạch ba nghiệp. “Xoay vần tụng v.v…” trở xuống là mỗi pháp trong các pháp đều so hạn lượng của chế độ triển tụng, phương đẳng là cần thiết nhất. Xoay vần một trăm hai mươi vùng tụng đãn, trì chú một trăm hai mươi biến. Một triển là một chú, không chậm không nhanh. Triển xong liền ngồi để suy nghĩ về chính không của Trung đạo. Vì dẫn dắt nghi quỹ này nên gọi là Tác pháp.
Kế là “chấp tướng mười hai mộng vua”: Phương đẳng Đà-la-ni nói: Trước là cầu mộng lành, gồm mười hai thứ. Hễ được một tướng thì cho phép sám hối”. Kinh Phạm Võng nói: “Nếu phạm mười cõi, lúc thấy hoa v.v… là liền được diệt tội. “Xướng âm thanh v.v…” trở xuống là kinh kia nói hành giả ở trong mộng nếu ngồi thiền mà hiện ra Bồ-tát này, dùng ấn Ma-ni mà ấn vào cánh tay của hành giả tạo thành chữ diệt tôi; hoặc nghe âm thanh diệt tội. Nếu khởi được tướng ấy thì biết chắc chắn tội sẽ diệt”. “Tuy không v.v…” trở xuống là vì tại đạo tràng chẳng phải không tác pháp. Đều từ ưu thắng mà lập danh là chấp tướng. “Nói sự dụng”: Tức là tác pháp.
Kế là vô sinh: dùng niệm của Vô niệm mà niệm thật tướng của tội, chủ thể và đối tượng của niệm khác nhau về danh từ đối với thật tướng. Thật tướng của tội chủ thể và đối tượng của niệm và thật tướng khác nhau về danh từ nhưng thể vốn không hai. Tướng như vậy, tội tướng của niệm đã mất thì thật tướng cũng không còn. Thứ tuệ này như mặt trời làm tiêu tan sương mù tội lỗi. Duyên của vô duyên, rốt ráo là không, chẳng có tướng của Trung và biên. Lý này không sai lầm nên gọi là tối thượng v.v… “Tuy không v.v…” trở xuống là ba thứ này tu tập đồng thời. Vì vô sinh là chính, hai thứ kia là trợ duyên nên đại sư nói là: “gồm cả hai”. Nay thì cỏ chính và trợ đều hợp nhất mà thực hành. Như cao thì càng sáng nên việc Ứng lý lại càng nhanh.
Kế là “Tác pháp v.v…” trở xuống là nói về ba thứ công năng, gồm có:
- Chỉ bày về công năng, có hai:
- Nói về dứt ác, có hai:
Một là bốn phen thông với với Tiểu để giải thích: Nói thông với Tiểu là vì dùng bốn phiên này để giải thích ba thứ sám. Ý là ở Đại nhưng lại chưa làm rõ về tướng khác với Tiểu. Vì vậy, khiến cho lời nói về sự dứt ác ở Đại và Tiểu đều không trở ngại nhau. Vì thế, Đại sư nói là “Thông với Tiểu. Trong bốn phen ấy, đầu tiên là y theo Tánh già để giải thích, có ba.
Một là Tác pháp, Vô tác tội: Thuở xưa, lúc nhận giới của Phật, nhờ tác pháp nên phát khởi được thể của Vô tác. Nếu hủy phạm thì mắc ba tội trái nghiệp. Nay nhờ tác pháp mà được phá tội này. Nói tánh tội tức là nói về mười điều ác, bất luận là nhận hay không nhận, tánh của Phạm tự nó là tội. Như Phạm v.v… trở xuống là nói: “Chặt cây lớn, giết súc vật. Hai thứ tội trái với chế định đều đã dứt nhưng việc giết súc vật thì phải thường mạng thì vẫn còn.
Hai là chấp tướng: Do đó định tâm tưởng thành tướng thù thắng, năng lực huân tu mạnh nên có năng lực chuyển đổi nghiệp ác. Vì vậy nên diệt được hai tội Tánh và Già. “Như chặt v.v…” trở xuống: Cành, lá dụ cho tội Tánh già. Rễ gốc dụ cho Vô minh. hoặc của tâm còn thì có thể tạo tội lại như sự tiếp tục sinh ra của cành và lá. Vì đối với già và tánh mà giải thích Vô minh, nên loại Vô minh này có cả ở giới nội và giới ngoại. Đây là tướng thông với Tiểu.
Ba là Vô sinh.
Kế là “Lại nữa v.v…” trở xuống là y theo ba học để giải thích. Vì Tác pháp đề phòng sai quấy nên là tội diệt Giới. Vì chấp tướng chuyên ý nên là tội diệt Định. Vì Vô sinh quán chiếu nên là tội diệt Tuệ. Sự Sai lầm là tội của Giới gia. Tán loạn là tội của Định gia. Sự tăm tối của hoặc là tội của Tuệ gia.
Kế là “Lại làm v.v…” trở xuống là do pháp mà đạt được. Vì vậy, Tác pháp có thể trừ. Quả báo của đường người nửa khổ nửa vui. Vì sự chiêu cảm điều lành nên chấp tướng có thể diệt. Quả báo của thời thuộc ba cõi so với nhân đều là Định, không có khổ, chỉ có vui; Vì sự cảm vời của ba thứ lậu nên vô sinh có thể diệt.
Kế tiếp là “Lại nữa v.v…” trở xuống là giải thích về trừ ba nghiệp: Theo lệ chung của quả báo là nhận biết được chủ thể cảm và đối tượng được cảm mà chia ra hai sự giải thích.
Kế là “Lại làm v.v… ” trở xuống là hai phen chỉ giải thích về Đại: Bốn phen giải thích trước là có cả cả Đại và Tiểu thừa. Vô sinh dứt trừ hoặc thì chưa giản lược về chung và riêng. Tác pháp hoặc chấp là sự chế định của Tỳ-ni.
Kế là giải thích về Vô minh trong phá chướng của vô sinh. hoặc chung bất sinh là chấp tướng của ngày nay. Qua đó, chúng ta xét biết rằng ở đây chỉ đặt chân ở Đại thừa để giải thích, có hai.
Một là giải thích về phiền não của biệt: Sợ hãi thuộc về Tư, lo buồn thuộc về kiến. Nay tác pháp thành tựu, thì giai vị năm phẩm có khả năng chế phục loại hoặc này. Vì chỉ có chế phục mà gọi là phá nên nói “Cũng là” chấp tướng sáu thành ở giai vị Thất Tín. Vì vậy diệt bốn trụ, vì đã thấy Chân-đế. So với Trung gọi là tướng nên gọi là chấp tướng. Quán vô sinh thành thì giai vị là bước lên sơ trụ. Đối tượng được trụ là ở vô minh căn bản. Vì vậy, chúng ta biết rằng sự giải thích này là đặt chân riêng vào Đại thừa để làm sáng tỏ về ba thứ sám.
Hai là “Lại nữa, ba v.v…” trở xuống là có cả cả ba thứ chướng để giải thích “Cùng trừ quả báo”: Đó là quả báo hiện tại, sinh thân của cha mẹ đạt được sáu căn thanh tịnh. Chuyển báo thật sự ở tại sự phối hợp giữa Chánh và trợ để thực hành. Nếu chỉ lý quán thì tuy đi vào Chân và Tựa nhưng cũng có vị không có được sáu căn thanh tịnh. Cho nên nói “Ba thứ sám cùng trừ chướng của quả báo. “chấp tướng trừ nghiệp”: Tức là y theo “Ra khỏi Giả mà nói. Có thể dùng vô lượng nghiệp chủng của đời trước làm duyên độ sinh mà nghiệp không thể ngăn vướng, tự đại đối với nghiệp gọi là trừ nghiệp chướng. Vì chưa thật sự ra khỏi giai vị Giả nên thấy Tục đế vẫn còn gọi là chấp tướng. Nghĩa của Vô sinh dứt hoặc rất dễ hiểu.
Kế là “Lại làm v.v…” trở xuống là nói về sinh thiện: “Vẫn y theo dụ để làm sáng tỏ năm loại đá”: Đó là bạch anh, Tứ anh, Thạch cao, Chung nhũ, thạch chỉ.
Năm chi là cỏ Linh Chi năm màu. Gừng và Quế còn dụ cho cho tác pháp của Tiểu thừa nên chưa sinh thiện. Nếu là tác pháp của Đại thừa thì sinh thiện quả là không ít. Năm loại đá và năm chi là dụ có cả sự sinh thiện thuộc về cả sự và lý của Đại và Tiểu.
Kế là “Như vậy v.v…” trở xuống là khuyên người tu học: Nói phải biết tức là nói người học phải biết Tiểu và Đại đều có công năng dứt ác, sinh thiện, phải biết tu cả ba thứ ấy mới được lợi ích. Nếu chỉ nói mà không tu là có tội.
Kế là “Văn nay v.v…” trở xuống là nói rằng kinh có ba thứ sám, có hai:
Một là chỉ bày kinh có ba đoạn văn.
Hai là kết rằng sám là dụng của kinh.
(Phần cuối)
Tiếp theo là “Từ đây v.v…” trở xuống là giải thích về văn, gồm có:
- Đối phán chia văn, có hai:
Một là đối phán: Nói về lực dụng của kinh chỉ có cả ba phẩm. “Từ phẩm này v.v…” trở xuống là dùng phẩm này đối với phẩm Tán Thán để nói về chê bai và chánh pháp.
Hai là “Phẩm này v.v…” trở xuống là phân văn.
Kế là “Mộng v.v…” trở xuống là y theo văn đề giải thích về nghĩa, lại có:
- Nói về sự thấy nghe trong mộng, có hai:
- Mộng thấy trống vàng, có hai:
Một là giải thích về mộng: Sự giải thích ở trước ở trong sớ nói về Bồ-tát Tín Tướng ở tự vị của ngài, hoặc là tự của lân cực, hoặc tự của lân chân: ở vị trí ấy mà mộng thấy trống vàng thì lẽ nào lại là giấc mộng mê mờ tăm tối của Bát địa ư? Cho nên dùng hai nghĩa để giải thích chữ mộng. Đầu tiên gọi là Tam-muội được gọi là như mộng. Do đạt được tính cụ, tu đức không công, nhân biện quả sự, như mộng thân cố gắng, cho nên gọi là Như mộng Tam-muội. Kế là “Lại nhập vào v.v…” trở xuống là lấy sự có mộng có tỉnh của người phàm để dụ cho phép quán, pháp quán có vào có ra, đó là lấy sự nói và im lặng mà làm sự ra vào. Cả hai sự giải thích đều chỉ bày rằng mộng là trí quán. Đầu tiên là giải thích hơi hần.
Hỏi: Mộng là pháp điên đảo, tăm tối đối với chân. Quán là pháp trí của giải thích? Mê mờ và hiểu biết khác nhau như trời vực, làm sao dung hội được? Phật địa hết mê, phàm phu chưa liễu giải, cả hai đều không nói về quán. Đối với mê được sự giải gọi là quán trì. Vì thế, luận Khởi Tín nói: Vì y theo nghiệp thức mới nói là thấy Phật. Nếu lìa nghiệp thức thì không được thấy”. Nay vì nói về sự giải ngộ của tự
chiếu soi pháp tánh nên gọi là nhập quán, y theo nghiệp thức nên nói quán là mộng. Chưa đạt đến điểm cùng cực của trí giải thì sao lại không mộng. Mộng của chiếu soi pháp tánh lẽ nào lại chẳng phải là quán trí. Nếu không nắm được ý ấy thì không thể tiêu giải được đoạn văn này.
Hai là “Như pháp tánh chính là v.v…” trở xuống là giải thích về cái trống, có hai:
Một là trực tiếp biểu thị về ba đức: Trí thuộc chủ thể quán dùng mộng để chỉ bày về mộng thì chắc chắn là thấy tướng. Vì vậy, dùng trống vàng để biểu thị cho cái được quán, tức là pháp tánh. Vì thể của cái trống có tiếng kêu của không thuộc viên, nên có thể biểu thị cho ba thứ đức. Hình dáng của trống đẹp và to nên lại hiển bày cho tính chất sâu xa vô lượng của ba đức.
Kế là “Đẹp và lớn v.v….” trở xuống là cả ba đức đều sâu xa. Vì mỗi đức trong ba đức đều là toàn thể của Pháp tánh. Nêu lên một đức là đều có đủ hai thứ kia, được gọi là ba thân, ba trí và ba giải thoát. Nếu không như vậy thì làm sao có thể nói rằng cả ba loại đều là vô lượng sâu xa.
Kế là “Đây v.v….” trở xuống là kết sự chỉ bày: Tức là ba đức của cái trống đối với ánh sáng thì chỉ là pháp thân được chiếu soi. Ngay cả pháp thân này thâu nhiếp cả Báo và Ứng là ba đức ở trên, cho nên nói “Quán một mà thấy ba Đức Phật”.
Tiếp theo là “Từ v.v…” trở xuống là thấy ánh sáng của trống: Toàn bộ lý thuộc về đối tượng được chiếu soi khởi các trí thuộc về chủ thể chiếu soi. Vì vậy, đức của pháp tánh đều trở thành đức của trí. Vậy lẽ nào đặc tính tròn, không, tiếng kêu và ánh sáng của trống lại chẳng giống như vậy ư? Ba đặc tính của trống là đẹp, lớn và ánh sáng cũng giống như vậy. Chúng ta nên nhớ rằng thể của pháp tánh là bổn giác, trí là thỉ giác. Chỉ là một thứ giác nhưng do Bất giác nên chia ra Bổn và Thỉ khác nhau. Đã thành tựu quả lớn, tức là đã lìa bất giác. Vì vậy, Thỉ thầm khế hợp với Bổn gọi là Pháp Báo hợp nhất. Vậy, lẽ nào Thỉ giác lại khác đối với Bổn? “Bản mới được dẫn có cùng Thể, có cùng ý và có cùng sự”: Vì Pháp Báo đã hợp nên không hại không khác đối với chư Phật. “Đây tức v.v…” trở xuống là thấy được ánh sáng của trống chính là biểu thị cho trì của Báo. Trì này thầm hợp với Pháp. Vì pháp có đủ cả ba nên báo cũng là ba. Cũng là báo này trên thì thầm hợp với pháp, dưới thì rũ Ứng. Vì vậy mà nói “Có đủ cả ba”.
Kế là “Lại nữa, đối với v.v…” trở xuống là thấy Đức Phật ở trong ánh sáng, có hai:
Một là y theo Văn để biểu thị về nghĩa. Nói “Ánh sáng từ v.v…” tức là đối với hai thân ở trên, đây là biểu thị có cả Ứng. Cho nên Đại sư nói “Giống về Sự” Ứng không đứng một mình, chắc chắn có đủ cả ba thứ thân. “Lưu ly v.v…” trở xuống là Pháp. “Tòa ngồi của Phật v.v…” trở xuống là Báo. “Đại chúng..” trở xuống là Ứng.
Hai là “Đây tức là v.v…” trở xuống là kết nghĩa về Viên, có hai:
Một là kết riêng về ba điều này: Vì toàn bộ pháp và Báo là Ứng thân. Vì thế, văn kinh biểu thị đủ cả ba vị Phật.
Hai là “Nhìn thấy v.v…” trở xuống là kết chung về nghĩa trên: Nói “Ba vị Phật”: Tức là cái trống biểu thị cho pháp Phật. Cả ba vị Phật đều có đủ cả ba nghĩa. Tức là pháp nào, cũng có đủ ba. Lược thì mười thứ ba pháp, đầy đủ thì tất cả đều là ba. Các pháp này thuận với sự giải thích về thí dụ. Như vậy thì Kim Quang Minh của thế gian là cái để ví du cho ba pháp. Nếu đứng trên văn phụ kèm thì nên giải thích về thể đều là Pháp Kim Quang Minh. Vì mỗi loại đều có đủ cả ba là nghĩa của đáng quý, đáng trọng, vắng lặng mà thường chiếu soi, nghĩa của nhiều lợi ích. Vì nghĩa đã như vậy nên kinh này có tên là Kim Quang Minh. Nghĩa được biểu thị ở đây là do Đại sư đạt được Triền Tổng trì. Trong cái một mà giải ngộ được vô lượng, trong vô lượng mà giải ngộ được một. Vì lẽ đó mà sự giải thích, phải tiêu giải văn mới viên dung đến thế. Mong rằng kẻ thấy người nghe nên dứt bỏ, sự chấp đắm của tình thức để suy nghĩ, tu tập.
Kế là “Thấy có v.v… ” trở xuống là mộng thấy đánh trống, gồm có:
Một là Phân văn.
Hai là Phát ra âm thanh lớn.
Ba là “Âm thanh của cái trống v.v…” trở xuống là sự giải thích do âm thanh, có hai:
Một là “Cái trống là v.v…” trở xuống là nói về tự trí hội Pháp khởi dụng: Cái trống nói trên biểu thị cho ba thứ ánh sáng, ba vị Phật v.v… ba chỉ là một. Ba của nay là đối tượng được quán của Trí thuộc về cơ của Trí tướng, hợp ba là một, chỉ gọi là pháp thân. Bà-la-môn biểu trưng cho Tịnh hạnh thuộc Chân và Tự. Vì thế Lân chân nên kinh gọi là Tự. Vì Tự của viên có khả năng chế phục hoặc nhiễm của Đồng thể nên gọi là Tịnh trí. Lấy tịnh trí ấy hội nhập với Thường lý tức là do vị cam lồ và Tương tự tương ưng, có thể dùng âm thanh mầu nhiệm làm cho hiện hữu khắp tam thiên đại thiên thế giới. Vì diệt khổ sinh lạc nên khiến cho văn kinh lấy hình ảnh đánh trống để biểu thị cho ba thân của Tự vị.
Nếu không như vậy thì bản tánh của Tín Tướng và Phật tuyệt đối khác nhau, Ứng dụng của Phật chẳng phải là cảm của Tín Tướng. Hành giả nên rõ biết Thích-ca và Tín Tướng cùng hưng khởi giấc mộng này. Cho nên có sám pháp làm lợi ích cho chúng sinh.
Hai là “Trống là v.v…” trở xuống là nói về dùi trống và trống hợp thành ba thứ thân.
Kế là Từ “Thời v.v….” trở xuống là giác ngộ rồi nói về thấy nghe, có hai:
Một là chia văn.
Hai là “Lúc bấy giờ, Tín Tướng v.v…” trở xuống là tùy thích, như sau:
- Đến chỗ Phật, có hai:
- Giải thích giấc mộng: Lại gồm có hai:
- Theo giáo để giải thích: Sớ có hai cách giải thích:
Một là y theo nhập quán và xuất quán: Đây là đứng trên pháp để giải thích theo chiều ngang. Kế là y theo chế phục hoặc và dứt trừ hoặc: đây là y theo giai vị để giải thích theo chiều dọc. Vì nhập quán vốn để mong cầu bước lên các địa, dứt hoặc, cho nên chúng ta biết rằng ý của hai cách giải thích ấy đều cần nhau. Nói “ba mươi tâm” tức là dùng Biệt để làm rõ Viên.
Hai là giải thích về quán: Nói “Quán hạnh vị” tức là đối Phần Chân tức năm Phẩm, Thập tín đều gọi là Quán hạnh. Vì chưa chứng Chân và Tự, mà được gọi là quán, pháp thụy miên của Vô minh thuộc vị trí nội và ngoại phẩm hoàn toàn chưa phá. Cho nên quán ba thứ thân như cái được thấy ở trong mộng. Vị trí chân đã phần phá, đã rõ biết đối với Lý. Vì vậy, quán ba thân như trời đã sáng: “Ra khỏi nhà của vua, v.v…” Ở giai đoạn nhân chưa lìa năm ấm thuộc biến dịch như đang ở tại nhà của vua. Nay đã ra khỏi ngôi nhà đó là biểu thị sẽ đến quả. Đã nói về pháp quán có nhập Phần Chân và phần cực quả nên dự đoán biểu thị về nó.
Kế là “Đến kỳ v.v…” trở xuống là giải thích, đi đến: Vương thành và Linh Thứu tuy đều là đất, nhưng vì núi là chỗ cư trú của Phật nên biểu thị cho giai đoạn quả; Tín Tướng ở tại thành hợp với sự biểu thị cho giai đoạn nhân. Nay vì đi đến để biểu thị cho nhân hướng về quả.
Kế là “Lúc bấy giờ v.v…” trở xuống là chung với duyên.
Tiếp đến là bày tỏ sự cung kính: “Tín đầu là quý”: Nhờ Tín mà được nhập vào biển cả Phật pháp. Tín là nhân, người. Vì trên cầu nên như cái đầu là đáng quý nhất. “Từ bi là thấp hèn”: Nhổ gốc khổ ban cho niềm vui là hạ hóa của quả, người, cho nên như hai chân là thấp hèn. “Lấy quý tôn kính thấp hèn”: Tức là lấy tín để giằng lấy Từ. Trong kinh, lúc lạy xong đi nhiễu theo chiều bên phải là nói lên sự lưu luyến, kính mến.
Kế là từ “Lấy…” trở xuống là nói về mộng, có hai:
Một là chia văn, “Đều nói là hành giả”: Người xưa lấy mười bảy chữ thuộc Tán thuyết làm hành. Kệ tụng có hai v.v… bốn, năm lời thì bốn câu là một bài. Bảy lời thì hai câu là một bài. Bởi vì các sư ngày xưa lúc chia kinh đều lấy số hàng làm chuẩn. Đời nay vì biến loạn nên khiến cho chế độ thêm bớt số chữ bị mất khuôn phép ban đầu. Lẽ nào vì bản sớ xưa chia kinh có trồi sụt rồi cũng làm cho mục lục, số trang không có chuẩn mực hay sao? Tôi gửi lời đến bậc có hiểu biết rằng y cứ và chế định của người xưa. Hai v.v… trở xuống là giải thích về nghĩa, như sau:
- Nói chung về mộng: lại có:
- Thấy cái trống vàng: có ba:
Một là thấy hình trạng của trống.
Hai là “Ánh sáng của nó v.v…” trở xuống là thấy ánh sáng của trống.
Ba là “lại, nhân v.v…” trở xuống là thấy Đức Phật ở trong ánh sáng.
Cả ba phần này đều là ý của ba thân được nói lên bởi văn xuôi. Vì trống tuy có đủ cả ba nhưng đều là cái được chứng nên hợp thành pháp thân. Vì ánh sáng có đủ ba của trống, toàn lý là trí nên hợp thành báo thân. Cảnh và trí cùng sự nhiếp cơ của chư Phật cũng có đủ ba thứ thân gọi là Ứng. Ở đây hợp với chín và ba, tức là như cảnh được quán của Tam-muội như mộng. Tam-muội là quán.
Kế là “Thấy bà v.v…” trở xuống là nói về đánh trống: Ba của hợp chín do văn ở trên biểu thị tuy là Phật pháp. Nhưng vì đã cùng với pháp của tâm và pháp của chúng sinh không có sự khác nhau nên là cảnh thuộc tâm tánh của Tín Tướng. Nay ở trong mộng đã thấy Tự trí của mình hội với Pháp thân của Tánh khởi sự Ứng với căn cơ dùng để nói kệ sám hối. Đây là Tín Tướng cùng với Như Lai khởi sinh lực dụng của kinh.
Kế nữa là “từ đó…” trở xuống là nói riêng về mộng, gồm có:
- Nói về trống vàng có năng lực dứt ác, sinh thiện, có:
- Chia riêng kinh, lại có:
Một là diệt trừ nhân quả khổ của thế gian: Hai bài trước là diệt trừ quả. “Các loại Hữu”: tức là ba hữu. Một bài sau là diệt trừ nhân. “Các loại não”: tức là ba thứ hoặc.
Hai là “Dứt trừ chúng.. “ trở xuống là sinh ra nhân quả vui xuất thế gian: Hai bài trước là quả xuất thế gian. “Dứt trừ sợ hãi của mọi người”: Tức là lìa năm việc sợ hãi. Đó là sự sợ hãi thuộc đường ác, sự sợ hãi thuộc tên gọi ác, sự sợ hãi của cái chết, sự sợ hãi vì không có kế sống, sự sợ hãi vì uy đức của đại chúng. Đạt được vô sở úy có bốn.
Một là Vô sở úy thuộc Nhất thiết trí.
Hai là Vô sở úy thuộc lậu tận.
Ba là Vô sở úy thuộc thuyết chướng đạo.
Bốn là Vô sở úy thuộc thuyết tận khổ đạo.
Lìa bờ này của hai hình thái chết, đến bờ kia của ba thứ trí. Một bài sau là nhân xuất thế gian. Định tức là Lăng-nghiêm. Loại định này có cả tuệ, tức là chánh đạo hạnh của quán cảnh chẳng thể nghĩ bàn v.v… giúp đạo tức là đối trị hạnh thuộc Độ và thuộc Sự.
Kế là “Cái trống ấy v.v…” trở xuống là có công năng khiến cho chúng sinh tự và tha đều đầy đủ. Một bài rưỡi trước là sự đầy đủ của tự tu hành. Hai bài rưỡi sau là sự đầy đủ của giáo hóa người khác. “Hai phiền não là phá nhân, “dứt khổ” là phá quả. Hai câu dưới là giải thích trên. “Tham sân, si” là giải thích một chữ Đẳng của phiền não ở trên. “Tất cả các khổ đều khiến cho được vắng lặng”, đó là chính thật giải thích về nghĩa năng hại, tiêu trừ ở trên.
Kế đến là “Nếu có…” trở xuống là có công năng dứt trừ chướng nạn của qủa báo và kiêm luôn cả sự đạt được Túc mạng. Vì giới thư thả nên ở tại địa ngục. Vì Thừa cấp bách nên nghe tiếng trống vàng. Không chỉ ra khỏi ngục gồm cả túc mạng, ngàn, muôn, ức sinh thiện biết được việc ấy. Vì thế, nhớ nghĩ chân chánh về chư Phật, lại nghe pháp âm viên mãn mầu nhiệm của chư Phật.
Kế là “Vàng này…” trở xuống là có công năng khiến cho chúng sinh đạt được các pháp môn. “Trước là đạt được ít”: lại y theo một loại pháp lìa ác tu thiện. “Sau là đạt được nhiều”: Tùy suy tư, tùy nguyện ước, tất cả đều khiến cho được thành tựu.
Tiếp là “Nếu có v.v…” trở xuống là có năng lực phá tám nạn trôi lăn của chúng sinh. Tức là kinh nói rằng “Các nạn”.
Tám nạn: ba đường gồm có ba. Trong cõi người có bốn.
Một là mù, điếc, câm, ngọng.
Hai là thế trí biện thông.
Ba là trước Phật sau Phật.
Bốn là Bắc châu. Trên trời có một, đó là Vô tưởng, hoặc trời Trường thọ.
Kế là “Giải thích điều này v.v…” trở xuống là chỉ bày chung về nghĩa: Kinh chỉ ra sáu đoạn văn. Tuy lợi ích có bao gồm hiện diện khắp nơi nhưng lời lẽ vẫn còn chung, sơ lược nên khó giải thích cho đầy đủ. Vì vậy, Đại sư khuyên người giải thích nên y theo sáu đoạn văn này để nói rõ từng phần. Từ khổ mà được vui, lậu đạt được vô lậu, bỏ Tiểu đi vào Đại, từ quyền mà đi tới Thật. Từ nhân đến quả, tiết nào cũng đều nói về sự phá ác, sinh thiện. Giải thích đầy đủ như hai mươi lăm Hữu đều được quả báo, nhân hoa. Cỏ nhỏ, cỏ trung, cỏ đại; cây nhỏ, cây lớn một thật sự phương tiện, thật báo mười phen lợi ích mới cùng tận cái tướng diệu âm giải thích bị cho chúng sinh được xuất ra từ cái trống vàng. Nếu nói đủ thì như Diệu Huyền và Thỉnh quán âm sớ.
Kế là “Từ một v.v…” trở xuống là nói về giáo mới gọi là pháp sám hối, như sau:
- Chia văn, có hai:
Một chính là chia văn kinh.
Hai là trình bày ý sinh khởi “Tà đảo che chướng lý”: đối với thân của quả khổ mà khởi tám hình thái điên đảo để che chướng bốn đức: Đây là nói về chướng của quả báo, hai thứ dưới dễ nhận biết. “Bậc Thánh v.v…” trở xuống là y theo ở trên, Đức Phật Thích-ca tự trình bày rằng: “Nay ta nên giảng về pháp Sám hối v.v…”. Nay nói “Bậc Thánh” tức là chỉ cho Bổn sư, giúp cho đạt được ba thứ chướng chính là ba đức, là chỉ bày về sự nêu bày chung của sám hối. Ba câu cuối là chỉ bày riêng, là chỉ bày rằng báo chướng thuộc về đạo, lý chính là pháp thân; chỉ bày rằng nhân quả phiền não chính là Bát-nhã, ba thứ quán là nhân, ba trí là quả; chỉ bày hạnh lành kết nghiệp tức là giải thoát, “Phải nguyện chỉ quy”: dùng nguyện để dắt dẫn hạnh đến rốt ráo.
Kế là “Tự sám v.v…” trở xuống là giải thích nghĩa, gồm có:
- Dạy về tự nói tội lỗi sám hối, có hai:
Một là chia văn.
Hai là “phù, pháp v.v…” trở xuống là giải thích nghĩa, có:
Một là nói về pháp thân là nơi y cứ. Vì hợp với sự tu nên chỉ gọi là pháp thân. Nhưng, vì tánh vốn thường lìa nên có ba đức. Ba đức này rất tôn quý nên còn gọi là Tam bảo. Pháp gọi là Bất giác, Phật gọi là Giác. Vì thể tánh của vắng lặng – chiếu soi này vốn sẵn đủ các pháp nên hiện hữu ở tất cả mọi nơi của tu đức. Dùng nghĩa hòa này gọi đó là Tăng. Tuy phàm phu, Tiểu thừa mê tối nhưng toàn bộ thể tánh chính Là. Vì vậy, tức là Bồ-tát thuộc Sơ, Trung và Hậu tâm của Viên giác đều lấy pháp thân làm chỗ quy hướng, làm cội gốc. Nếu cội gốc ấy đã lập thì ba thứ trí, ba thứ thân, ba thứ giải thoát, tất cả đạo pháp đều sinh khởi một cách tự nhiên. Kinh nói: “Ta là bình đẳng”. Tánh đức của chúng sinh hoàn toàn là quả Phật, ngã thuộc về chân như.
Hai là “Trong vốn v.v…” trở xuống là thỉnh Phật che chở, bảo vệ. “Sự tôn quý của hai việc đầy đủ trong kinh”. Đại kinh nói về hai sự giải thích trong mười hiệu.
Một là y theo đường lành thuộc người, trời thì phước trí đầy đủ là quý hơn Phật, bậc tôn quý trong người, trời.
Hai là y theo sự đầy đủ về Phước và Tuệ mà còn gọi là “Đầy đủ cả hai”. Ở đây cũng như khoảnh khắc. Phù sơ tức là thịnh vượng. Phong là sum suê. Thuyết văn nói: “Phù sơ tức là cành và lá bủa ra bốn hướng”.
- Chính là nói về sám hối, có hai:
Một là chia văn.
Hai là giải thích nghĩa, lại có:
Một là nói rõ chung về sám hối:
“Sám riêng…” trở xuống là nói riêng về sám hối, có hai:
Một là chia văn.
Hai là giải thích nghĩa, như sau.
- Sám hối phiền não chướng, gồm có:
- Giải thích văn, có ba:
Một là giải thích: “Không biết được mười Lực của chư Phật”:
- Thị xứ phi xứ lực.
- Nghiệp lực.
- Định lực.
- Căn lực.
- Dục lực.
- Tánh lực.
- Chí xứ đạo lực.
- Túc mạng lực.
- Mắt Trời lực.
- Lậu tận lực.
Mười loại này gọi chung là lực: Tức là dụng của trí như thật do chư Phật thông đạt được tất cả, hoàn toàn rõ ràng; Vì không có gì phá hoại được, không gì hơn được nên gọi là Lực. Đại Bồ-tát cũng đạt được từng phần đối với lực này, nhưng vì so với Phật thì kém hơn nên không gọi ngay tên mà gọi Đức Phật là Thập Lực. Mười lực ấy, Phật thuộc Pháp thân vốn sẵn có, Phật thuộc báo chứng đức và Phật Ứng dụng nó. Toàn thể sắc tâm, y chánh và nhân quả của chúng sinh tức là ba Phật, mười lực. Chỉ vì chúng sinh mê tối nên toàn bộ trí là hoặc, gọi là Phiền não chướng mà Độc đầu Vô minh là hạt giống của phiền não. Vì xúc xứ mà không rõ biết được Pháp thân nên dụ cho mắt của trâu, dê, chim sẻ, không biết thiên tử và tượng gỗ. Vì không liễu ngộ được nên ba tế, sáu thô khởi lên mạnh mẽ. Nói “tượng gỗ” tức là kết đất và gỗ mà làm tượng Phật; nhưng người thì biết kính sợ, còn chim sẻ thì không. hoặc dẫn các đế của chánh cung chu lễ, chẳng đúng ý ở đây.
Hai là giải thích về ân đức của cha mẹ, kinh Tịnh Danh nói: “Khéo léo quyền biến là cha của phương tiện, Trí độ là mẹ của Bồ-tát. Tất cả các bậc Đạo sư đều từ đó mà sinh ra”. Vì không rõ biết được sự tương ưng của Độc đầu hoàn toàn là hai thứ trí, nên Pháp ẩn diệt bất sinh.
Ba là giải thích không hiểu được pháp lành, các điều lành giúp đạo có thể hoàn thiện Ứng thân, vì không hiểu được nên không tu.
Kế là “Ba vị Phật.. “ trở xuống là kết thúc sự chỉ bày, là nêu lên sự không biết, không hiểu để làm sáng tỏ sự hiểu biết, sự biết hôm nay là sám hối mầu nhiệm.
Kế là “Tự cậy v.v…” trở xuống là sám hối báo chướng, gồm có:
Một là y theo sự để giải thích về họ. “Ngạo nghễ người khác”: Tức là dùng sang ngạo với hèn. Họ Sát-đế-lợi, Bà-la-môn ở Ấn Độ là sang. Họ Tỳ-xá, Thu-đà là hèn. Hai phần khác rất dễ hiểu. Hai thứ thiện báo này nếu buông thả thì chướng ngại đối với việc tu đạo, nếu không buông thả thì sẽ giúp cho đạo.
Hai là nay lại y theo Pháp để giải thích, có hai:
Một là y theo ba học: Tức là dùng ba thứ sự để biểu thị cho ba học. Nhờ tuệ mà đạt đạo nên như sự tôn quý của họ. Vì định bồi bổ cho tuệ nên như tài bảo. Vì Giới chế phục sai phạm nên như năm tháng sung mãn. “Nhiễm điều ấy v.v…” trở xuống là tướng của Chướng. Đại luận chép: “Vì Pháp của tự thân ái nhiễm nên chê bai pháp của người khác. Tuy có trì giới cấm nhưng vẫn không thoát khỏi sự đau khổ của dịa ngục”. “Không cầu Pháp: Pháp vượt hẳn Niết-bàn mà còn hoàn toàn như huyễn thì vì lẽ nào lại dùng pháp nhiễm của tự thân để khinh mạn người khác? Không thấy ta và người mới gọi là cầu pháp.
Hai là “Pháp Hoa v.v…” trở xuống y theo ba loại giáo: trong ba ví dụ ấy lại dùng một loại dụ là “Năm tháng đầy đủ” mà bao gồm cả hai thứ giáo. “Cùng tử dọn phân” nên “biết kho tàng” trải qua dần dần ba thứ mùi vị. Tâm hai bên mạnh đều gọi là thiếu niên, tráng niên. Phật ở Đạo hậu, rốt ráo vô vi mới gọi là già yếu. “người phàm v.v…” trở xuống là muốn nói về pháp tráng niên và lại nêu lên Tráng niên thuộc về Sự. Tạng giáo Nhị thừa, Thông giáo ba thừa, tuy Chiết và Thể khác nhau nhưng đều dùng cái mạnh của không để giày xéo cái yếu của Hữu. Tuy chia làm ba loại quán nhưng công duyên vào Vô lượng. Vì thế, cậy vào Pháp nhãn để dày xéo đối với Tuệ nhãn. Tất cả những trường hợp ấy đều gọi là sự buông lung lúc tuổi tác cường thịnh. Sự trải qua giáo lý của Chủng tánh và tài bảo cũng giống như vậy.
Kế là “Chấp chặt điều ấy v.v…” trở xuống là kết luận phải sám hối. “ba học ba giáo gọi là Báo chướng”: Loại tâm này thành tựu là do sự huân tập đời trước mà cảm sự hy vọng. Sau ở nhân so với trước là quả. Vì vậy, được gọi là ở nơi báo mà khởi xướng. Vì chướng nên phải sám hối.
Kế là “Theo tâm v.v…” trở xuống là sám hối nghiệp chướng, có ba:
Một là phần tiết kinh để chỉ bày về nghĩa, có hai: “Một…” trở xuống là tùy theo văn để giải thích khái lược về mười chín đoạn: Như sớ đã nêu “Cũng là dạy người khác”: Tức là chỉ cho sự gây ra nghiệp ác của miệng. Nghĩa là tự mình gây ra điều sai lầm, đồng thời lại xúi giục người khác thường làm tất cả điều ác. Đã tùy theo tâm ngu si thì lẽ nào lại soi chiếu trở lại được? Kinh Tâm Sinh Phẫn Nộ, cầu năm dục thì giận người khác không cho. Có năm dục thì giận vì người khác chiếm đoạt. Phẫn tức là nộ. Kinh nói: “Gần gũi người chẳng phải bậc Thánh thì gọi là ngoại đạo”. Vì ngoại đạo tự cho mình là bậc Thánh nên đệ tử Phật chỉ ra đó là chẳng phải Thánh. Keo kiết tức là tiếc lẫn tiền của, ghen ghét tức là ganh tỵ với người Hiền. Nay dối trá nói là gian xảo, ma mị gọi là dua nịnh. Nói “ruộng kính Đời không có Phật” vì Bíchchi-phật ra đời lúc không có Phật. Vì Bồ-tát nhiều kiếp không câu thúc ở hình tướng, tùy căn cơ mà giáo hóa chúng sinh lúc đời không có Phật “Ruộng ân đức”: Ruộng có ba thứ. Tam bảo gọi là Ruộng tôn kính, cha mẹ gọi là Ruộng ân đức, nghèo cùng gọi là Ruộng từ bi. Sở dĩ gọi chung là ruộng bởi tất cả đều có thể gieo trồng phước đức. Về “Kiêu mạn”, Câu-xá nói: “Mạn là nêu lên đối với tâm người, kiêu là do pháp nhiễm của “bản thân”.
Tiếp theo là “Tạo nghiệp v.v…” trở xuống xuống là chỉ bày sự giải thoát để giải thích pháp: Y theo sự vâng thuận giáo lý của nay thì người là Thỉ. Nếu đối tượng được sám hối phần nhiều thuộc bốn đường
thì nghiệp được gây ra bởi hoặc thuộc Thông gọi là nghiệp hữu lậu, nghiệp được tạo ra bởi hoặc thuộc biện gọi là nghiệp vô lậu, nghiệp của các thứ Đại Bi không thể suy nghĩ bàn luận v.v… Vì vậy, Bồ-tát Đẳng giác lại đều phải sám hối.
Kế là từ “Ta v.v…” trở xuống là nói về sự cúng dường chư Phật, có hai:
Một lập ý chia văn.
Hai là y cứ theo văn để giải thích nghĩa, có hai:
Một là nói về sự cúng dường thuộc tiền của. “Nay ta v.v…” tức là nói về sự cúng dường tiền của của ngay nơi Pháp. Vì sao? Vì trong tâm tam thiên đại thiên thế giới có có trăm ngàn ức vị Phật, huống chi là chư Phật của Vô lượng vô biên Đại thiên. Nếu tiền của có hạn thì làm sao có thể cúng dường khắp nơi được. Bởi vì, do rõ biết được thể của vật cúng dường được cung phụng ấy là Pháp giới, sinh ra vô tận, mỗi vật đều hiện khắp mọi nơi. Vì vậy, trước tất cả cõi nước, tất cả các Đức Phật đều có sự cúng dường vượt ngoài sáu trần, chẳng những là hiện hữu rộng khắp mà chúng còn tồn tại mãi (để) làm Phật sự cho đến tận Vị lai. Vì nói pháp môn tu hành của đoạn tiếp theo nên ở đây gọi riêng là cúng dường tiền của. Chúng ta phải biết rằng thể của hai thứ cúng dường vốn tương tức. Nhưng vì sự khác nhau của pháp môn nên chia làm hai.
Hai là cúng dường Pháp, có hai:
Một là chia văn lập ý: Giáo hóa người thì dùng từ. Đó là Vô dyên từ không lìa ba thứ trí. Tự hành thuận trí, đã là trí của Phật thì lẽ nào lại lìa ba loại từ? Vì giúp cho người học dễ hiểu hơn nên nói theo tương đối. “Pháp cúng dường (là) bậc nhất”: Bởi nó thường làm cho tuổi thọ của Đức Phật thường trụ, không dứt mất, biến hóa kỳ diệu vô cùng. Lại nữa, nếu có Pháp thì hai thứ cúng dường đều được thành tựu. Nếu không có Pháp thì sự cúng dường tiền của cũng bị phế bỏ. Do đó, sự cúng dường Pháp được gọi là vượt hơn.
Hai là y theo văn để giải thích nghĩa, có hai:
Một là nói về việc giáo hóa người khác cúng dường Pháp, như sau:
– Giáo hóa người khác khiến họ tu hành, có hai:
Một là chia văn.
Hai là giải thích về nghĩa, có bốn.
Một là “ta nên v.v…” trở xuống là nói khởi đầu sự giáo hóa lấy đại bi để nhổ bỏ gốc đau khổ.
Hai là “Ta nên đặt v.v…” trở xuống là khuyến khích công hạnh của Thập địa thuộc nhân chân chính.
Ba là “đã được v.v…” trở xuống là khuyến khích Bồ-đề đại giác thuộc quả chân chính.
Bốn là “Làm một v.v…” trở xuống là khuyên tinh tấn, đốc suất khiến cho thành tựu công hạnh. Kế là “chúng v.v…” trở xuống, Một là Giáo nghĩa.
Hai là Quán hạnh. “Một niệm tâm”: Tức là nêu lên một niệm, dùng ba phép quán siêu việt điều phục làm cho vọng tức là chân gọi là ánh sáng của chân phát khởi, hoặc là đến Sơ trụ, hoặc là đến sáu căn, hoặc thành năm phẩm, tất cả đều được gọi là thành quả chân thật. Cho nên nghĩa của Chỉ quán làm lệ có cả ví dụ của đạo, cây. Quán cảnh của ấm v.v… thành không thể suy nghĩ bàn luận gọi là sinh mầm. Từ Sơ phẩm trở lên đều gọi là sinh ra quả. Trên kia tu chỉ quán sinh ra mầm, quả và ánh sáng của Chân, quả chân thật thuộc quán tâm có sự tương ưng giữa Dụ và Pháp ở đây. “Điều phục tất cả v.v…”: Tức là quán của một tâm thành trải đi khắp tự nhiên hỗn hợp. Ý của chúng cũng giống nhau.
Kế là “Tiếp đến, bốn v.v….” trở xuống là giáo hóa người, giúp cho họ sám hối, có hai:
Một là Lập ý chia văn.
Hai là y cứ văn để giải thích nghĩa, có ba:
Một là Muốn nói về Sám.
Hai là “ngàn Thích v.v…” trở xuống chính là nói: Lúc thiệp nhập đã nhiều thì gây tội lại càng nặng. Nếu rõ biết rằng tội thuộc Nghịch tức là Kim Quang Minh (thì) toàn bộ đối tượng có đầy đủ lý là Chủ thể quán quán sát. Do đó mà hiển bày ra kim v.v… thuộc về Pháp tánh gọi là nhổ bỏ tai nạn của vua. Chướng chuyển thành đức thì có tội gì để trói buộc được? Vì thế năm tội Vô gián đều là tướng của giải thoát. Đó gọi là “Chính thức nói cho nghe về sám.
Ba là “nay ta v.v…” trở xuống là đã nói xong về sám.
Kế là từ “Ta v.v…” trở xuống là nói về việc tự hành sự cúng dường Pháp, có hai:
Một là chia văn lập ý: trước là từ “Hạ vấn”, “Thì như” v.v… trở xuống là đáp là dùng thí dụ kèm theo pháp để trả lời. Thợ kim hoàn dụ cho Trống Vàng, tức là hóa chủ Thích-ca. “Mới tập” thì lúc bắt đầu phát Tăng na. Đầu trắng dụ cho cho quả nay sau thị hiện. Từ khởi dầu cho đến nay chưa lúc nào tạm bỏ việc nói về hạnh, về sám. “Thiêu đốt nhau” dụ cho nói về Hạnh ngay nơi sám. “Đánh nhau” dụ cho nói về Sám ngay nơi Hạnh. Trí và Đoạn cũng giống như vậy. “Đồ dùng thành tựu” dụ cho căn cơ của một phen. Vì từ nhân đạt được qủa nên chưa đạt được quả. Phải tính đếm sự thiêu đốt và đánh thì cần gì phải chê bai nói lại. “Nay là v.v…” trở xuống là giải thích về khác: Tuy tính đếm sự thiêu và đánh nhưng mỗi ví dụ đều có pháp môn của nó.
Hai là “Ta nên v.v…” trở xuống là y theo văn để giải thích nghĩa, như sau:
– Tự mình tu hành, gồm:
Một là nêu chương.
Hai là “chân báu v.v…” trở xuống là tu nhân. “Cẳng chân”: sớ có hai cách giải.
Một là dùng Thập địa làm cẳng chân của quả.
Hai là dùng Thập độ làm cẳng chân của Thập địa. Nói Thập độ là ngoài sáu độ ra còn giải thích thêm Phương tiện, Nguyện, Lực và Trí. “Đối với (Các độ) còn lại v.v… trở xuống là giải thích sự đưa ra mười độ là ý của đất, chân: Phẩm Thập Địa trong kinh Hoa Nghiêm nói đầy đủ về tướng trong ba quả v.v… trở xuống là nói về sự thành tựu quả: “Chỉ câu đầu của kinh là chung. Ba hàng, ba câu là riêng. Công đức là sự trang nghiêm của phước. Quang Minh là sự trang nghiêm của trí. Cho nên không lìa ánh sáng của sắc mà nói về ánh sáng của Trí là vì Sắc và Tâm của chúng hoàn toàn chẳng phải hai. “Trong ba hàng, sớ không giải thích”: Nay lược nêu để giúp cho người học khỏi xem xét, tìm kiếm trong pháp tạng. Vì phải nói về tám vạn bốn ngàn đều là Bí mật, nên gọi là công đức sâu xa. “Đó là sự thành tựu do sáu độ, muôn hạnh”: Nói khái lược là muôn ngàn đức hạnh. Nói chi tiết thì là Vô lượng. Nhất-thiết-chủng-trí tức là Trí của Trung đạo, trung thì chiếu soi cả hai. Ba thứ trí của nay là cùng cực tròn đầy. Thiền tức là đạt Thiền. Vì đạt được căn bản đều là pháp giới. Định tức là Lăng-nghiêm. Hai thứ gồm Bản tánh, Tưởng mạnh mẽ là hai thứ định thuộc sự và lý của Đại thừa. Vì đối với tất cả các pháp đều trong sáng yên lặng nên nêu chung là trăm, ngàn.
Căn là năm Căn, Lực là năm lực. Tức là Tín, Tấn, Niệm, Định và Tuệ.
Năm Pháp này có năng lực sinh ra tất cả các pháp lành nên gọi là căn (rễ). Cố gắng càn quét năm thứ chướng; tức là dùng năm Căn để che ngăn năm thứ Nghi, biếng nhác, tà loạn và Si này nên gọi là lực.
Năm lực này giống với danh xưng của năm căn ở trên nhưng dụng thì khác nhau.
Giác là bảy giác phần.
- Trạch pháp giác phần.
- Tinh tấn.
- Hỷ.
- Trừ.
- Xả
- Định.
- Niệm.
Bảy pháp này thường giúp cho định tuệ được quân bình, nên gọi chung là giác phần là vì có phần đi đến sự giác trí của quả cùng cực.
Đạo là tám Chánh đạo.
- Chánh kiến.
- Chánh tư duy.
- Chánh ngữ.
- Chánh nghiệp.
- Chánh mạng.
- Chánh tinh tấn.
- Chánh niệm.
- Chánh định.
Vì tám pháp này lìa Thiên tà, đi chung đến Niết-bàn nên gọi là Chánh đạo. Tuy tu tập về đạo phẩm của căn v.v… là đại nhân nhưng chứng đắc là đều ở quả đức.
Đà-la-ni, Hán dịch là Ngăn giữ. Ngăn tất cả các pháp ác và giữ tất cả các pháp lành. Xét về số thì có thể là năm trăm, tám vạn bốn ngàn v.v… tất cả để biểu thị cho sự dứt bỏ Phiền não. Nếu nói về phương tiện chân thật của chúng thì tất cả Pháp đều có năng lực Ngăn giữ.
Mười Lực thì như phần ghi ở trước đây đã nêu. Đây là tướng trước sau của tự tu hành.
Tiếp là “từ các v.v…” trở xuống là sự tu tập sám hối, có hai:
Một là chia văn.
Hai là giải thích nghĩa, có hai:
Một là thỉnh Phật.
Hai là “Mười ở sau v.v…” trở xuống là nói về sám, như sau:
- Chia văn, có hai:
- “Trăm kiếp v.v….” trở xuống là giải thích về nghĩa, có năm.
- Sám Báo chướng, có hai:
Một là nêu ra tướng của Báo chướng. Trăm kiếp làm các thân, thân gây ra các tội ác. Ác làm nhân duyên sinh ra sự lo buồn và đau khổ. Chủ thể sinh và đối tượng được sinh đều là Báo chướng. Vì Báo được năm ấm của điều ác. Vì vậy, Sớ và kinh đối với năm ấm, đã đều gọi là ấm thì sao lại chẳng phải là Báo? Phải hiểu rõ rằng năm ấm tạo tác các điều ác mới gọi là Báo chướng. Nếu làm các điều lành thì lẽ nào lại gọi là Chướng?
Hai là “Mười phương v.v…” trở xuống là xin trừ dứt ác: “Nguyện Đức Phật nhận sự sám hối” tức là trừ diệt. Nếu không dùng Trợ và chính giúp đỡ và dẫn dắt thì dù Đức Phật có sức đi nữa cũng không làm sao trừ chướng được. Vì biết được ý nên sớ không giải thích lại.
Hai là sám phiền não chướng, có hai:
Một là chia văn.
Hai là Giải thích nghĩa, có hai:
Một là nêu ra tướng. Nghiệp bẩn: Nghiệp gọi là động tác. Tâm phiền não động thành ra cấu nhiễm. Cũng có thể vì phiền não sinh ra từ nghiệp nên gọi là cấu bẩn của nghiệp.
Hai là “Cúi mong v.v…” trở xuống là xin sự thanh tịnh.
Nước Đại Bi: Bi thuộc Đồng thể gọi là Đại. Loại Bi này làm nước thì tẩy sạch tất cả. Tuy rằng bi là đồng thể, nhưng nếu chẳng có duyên thì không khởi. Ba thứ sám làm duyên, không tẩy mà tẩy.
Kế là sám hối nghiệp chướng, có hai:
Một là chia văn.
Hai là tùy thích, lại có:
Một là nói theo chiều dọc về sự tạo nghiệp của ba đời.
Hai là đối với quả báo để chỉ bày: “Sắc tâm hiện tại gọi là Chánh thọ”: Lúc chưa thành quả báo thì có (loại) thuộc chủ thể. Nếu tu tập các thứ thiện, thiền, vô lậu đạo thì báo của kiếp sau hiện ra các nghiệp tướng, hoặc kín đáo làm chướng. Nếu không y theo ba thứ sám Pháp của Đại thừa thì loại chướng ấy không bị trừ diệt.
Tiếp là lập ra câu hỏi để giải thích, có hai:
Một là lập chưa có trả lời.
Hai là nói về sự phủ nhận để khởi lên lời đáp, có ba:
Một là giảng kinh luận để chứng minh: Nhà chuyên về số là Tỳbà-sa. Nhà chuyên về luận là thành thật. “Ngăn ngừa vị lai”: Tức là dứt trừ tâm nối nhau. Nếu không ngăn ngừa, dứt trừ thì chắc chắc sẽ khởi lên thời ở thời vị lai. Vì vậy, trong sám tội của Phẩm trừ sạch nghiệp chướng ở bản kinh mới y theo Bồ-tát ở khắp ba đời mà đều nói rằng: “Tội đã làm, nguyện được trừ diệt. Không dám làm điều ác ở đời vị lai”. Đó là đồng thời ngăn ngừa ở vị lai.
Hai là “Nay lại v.v…” trở xuống là dẫn việc hiện tại để làm lệ chung: Tại gia làm lệ có cả lúc tạo tội. Từ bỏ gia đình làm lệ có cả lúc tu tập sám hối. Nếu không ngăn ngừa và dứt trừ thì dứt khoát không có chuyện phải thay đổi lại, đến nơi chính thức có.
Ba là “Vị lai v.v…” trở xuống là y theo nghĩa để kết thúc sự trả lời. Hết giống như giải tán.
Kế là nói về sinh khởi mười điều ác một cách ngang trái.
Kế là “xa lìa v.v…” trở xuống là sám hối nghiệp quá khứ. Nếu mười điều ác, mười điều lành chỉ y theo ba đường, người và trời để giải thích thì lẽ nào lại đặt mười trụ ngang với mười lực? Nếu đạt được ý của Trì và Phạm thuộc năm giới ở trước thì nghĩa của nay có thể hiểu được nghĩa của nay. Hai giáo lý là Biệt và Viên có thể làm rõ về mười trụ và mười lực. Nghĩa của trì và Phạm nghĩa của nay rất dễ hiểu. Vì vậy, từ giai đoạn nhân đến quả về sau, mỗi tiết mỗi luận về mười điều ác và mười điều lành.
Kế là nói về hồi hướng: Đây là sám hối tội mê đắm nhân quả. (Chỗ) khác lấy cõi nước này và các thế giới khác làm nơi chốn của pháp lành để người của cả năm thừa tu tập. Vì y theo nơi chốn để nói về Người nên Đại sư nói là “Tùy hỷ”. Nay nói về điều lành do ta ở cõi này và thế giới khác tu tập. Nay, tất cả đều nhiếp lấy hồi hướng chúng sinh chứng đạo Vô thượng. Tiếng dụ cho các điều lành. Cái sừng dụ cho sự hồi hướng. Xa gần đều biết được. “Phương tiện lực rộng lớn”: Nếu khéo hồi hướng thì thành đại phương tiện, công đức của nó ngang bằng với hư không. Nhưng, nếu chẳng hiểu rằng Thiện tức là Pháp giới thì chẳng được coi là Hồi hướng.
Kế là “Giải thích về tám v.v…” trở xuống là sám hối hai nạn là thiện và ác, như sau:
– Trình bày về sự chia văn. Một bài rưỡi tiếp theo là sớ giải thích về nghĩa của việc chính thức dùng điều lành để ngăn cản đạo, có hai:
Một là “Bốn v.v…” trở xuống là giải thích.
Hai là tùy theo văn giải thích nghĩa, có hai:
Một là chỉ ác là nạn: Đầu tiên là văn giải thích về hiểm nạn của các Hữu.
Hai mươi lăm hữu: Vì bốn đường và Bốn châu, sáu tầng trời cõi Dục, Đại phạn, Tứ thiền, Vô tưởng báo, Tứ không xứ Na-hàm; Vì tất cả đều chưa dứt bặt lậu nghiệp nên gọi là Hữu. Phần giải thích về nghĩa 52 của Báo chướng đã nói đầy đủ ở bản sớ trước.
Kế là giải thích về hiểm nạn của sinh tử: Nghiệp là hiểm nạn cho đến loại định Phi phi tưởng. Báo là hiểm nạn cho đến cõi trời Hữu đảnh. Uất-đầu-lam-phất là điển hình của các hiểm nạn ấy. Hiểm nạn của nghiệp báo ở dưới rất dễ hiểu.
Kế là Giải thích về hiểm nạn của dâm dục.
Kế tiếp là Giải thích về hiểm nạn của khinh suất, thô tháo, có hai:
Một chính là nêu bày tướng trạng của khinh suất, thô tháo: Tức là, Sơ tâm là ở duyên gọi là Giác. Tế tâm phân biệt gọi là Quán; Cả hai cũng đều là tâm Tầm Tứ. Vì là tâm của ấm nên thuộc về pháp của Báo.
Hai là “Như Lai v.v…” trở xuống là dẫn Thánh Phàm làm điển hình, có hai:
Một là Thánh: “Ra khỏi quán”: tức là ra khỏi Định. Vì y theo Vô học để giải thích về sự không có hoặc nghiệp nên suy, nghiệm là thuộc pháp của Báo.
Hai là Lại nêu kẻ hạ phàm là “Hồi chuyển, đổi vết”: Như học kinh chưa thuộc mà lại muốn học luật, học luật chưa xong mà lại muốn học Luận. Người vụt chạc, thô tháo ấy rốt cục không thể thành tựu được công nghiệp. “Không thành nghiệp chướng”. Chướng nên làm là bởi sự sai lầm của chữ.
Kế là giải thích về nạn của việc gần bạn ác. “Như dời nhà xí. Xí, âm là nhà cứu ngựa. Tức là nơi nhóm họp của ngựa. Phó pháp tạng truyện nói: “Gần gũi bậc Hiền thiện, lắng nghe chánh pháp: Như thưở xưa ở nước Hoa Thị có một con voi trắng, sức lực mạnh mẽ. Nếu có người tội thì bảo voi dẫm chết. Sau đó, cái chuồng bị lửa thiêu cháy nên con voi trắng ấy được dời đến chỗ gần một Tịnh xá. Ở đó, có một vị Tỳ-kheo tụng kinh Pháp cú. Có câu kệ: “Làm điều lành thì sinh lên cõi trời. Làm điều ác thì rơi xuống vực sâu”. Voi trắng nghe câu ấy nên tâm trở nên nhu hòa. Sau đó, lúc xua đến người tội thì nó không giết mà chỉ ngửi và liếm thôi. Vua gọi các quan có trí hiểu biết đến để bàn về sự việc ấy. Một vị tâu với vua rằng “vì con voi này được buộc gần Tinh xá. Tất nhiên, nó được nghe pháp mầu, nên mới xảy ra sự việc như vậy. Nay, nếu chúng ta buộc nó ở gần nơi giết mổ thì vì nhìn thấy sự giết hại nên tâm ác của nó sẽ bùng dậy”. Vua liền sai buộc voi ở nơi lò mổ. Con voi thấy cảnh giết chặt nên ác tâm bùng lên dữ dội và càng tàn hại hơn trước”. “Gần nơi khóc lóc, buôn bán”: tức là ở nghĩa trang thì bắt chước tiếng khóc, ở gần chợ thì học buôn bán. Kinh Thái thị hóa thanh nói: “Hàng hóa tức là thay đổi”. Vì dễ biến hóa”. Vì thế, chữ ấy có chữ Hóa. Lại gọi là Tài, Sử ký nói: “Mẹ của Mạnh Kha đến ở gần nơi có mộ. Mạnh Kha thường than thở ở chỗ mộ. Bà mẹ nói: “Đây không phải là chỗ để con ta ở”. Và liền dời đến ở bên cạnh chợ. Mạnh Kha lại lấy việc buôn bán làm trò chơi. Bà mẹ lại nói: “Nơi này con ta không thể ở”. Nói rồi bà lại dời đến ở bên cạnh trường học. Mạnh Kha liền tới lui có lễ phép. Bà mẹ nói: “Đây quả thật là nơi con ta ở”. Sau này, Mạnh Kha trở thành một bậc Đại nho, có soạn bảy thiên sách.
Kế là giải thích về hiểm nạn của ba độc. Sớ chia khoa nói rằng: “tám nạn Thiện ác, thiện nói có bốn nạn” kinh sớ rất dễ hiểu. Nay, đối với hiểm nạn của ác, dường như kinh nêu cả bảy. Y theo đâu mà nói là bốn? Vì y theo nghĩa của ba thứ chướng có cả “gồm” và “chỉ một”. Một “gồm” ba, “Một mình” tức là thành ra bốn nạn. Vì sao? Vì hiểm nạn thuộc sáu đường, hiểm nạn của ba hữu và hiểm nạn của hời hợt, thô tháo. Ba loại này tuy là ba nạn nhưng chỉ ở tại Báo chướng. Hiểm nạn của dâm dục, ngu si và ba độc, chỉ thuộc phiền não. Hiểm nạn thuộc về gần bạn ác chỉ thuộc nghiệp chướng. Nếu đối với hiểm nạn sinh tử thì sớ có hai cách giải thích. Vì thể bao gồm cả nghiệp báo nên nghĩa của nghiệp ác trong ba loại chướng tương xứng với bốn thứ hiểm nạn. Nhưng, chúng ta phải hiểu rõ rằng ác là Tánh ác. Vì vậy, loại ác này tức là quán vô sinh. Sám hối như vậy là tiêu trừ các nạn một cách hoàn toàn và tức khắc.
Tiếp là “Gặp không v.v…” là chỉ thiện mà gọi là nạn, như sau:
– Nói Thiện và ác đều có thể là hiểm nạn, có hai:
Một là đồng thời nói về hai nghĩa.
Hai là “Gặp không v.v…” trở xuống là y theo Thiện để giải thích về văn bản, có bốn:
Một là giải thích về hiểm nạn của sự gặp không.
Hai là Nhị thừa ra khỏi nhà đến chỗ không sợ hãi. Vì tướng của không nạn nên nêu lên làm lệ chung. Tạm vui với người, trời mà tự cho là không có nạn là đều nằm trong phạm vi của loại hiểm nạn này.
Kế là giải thích về nạn của sự tu tập công đức. “Như nhất v.v…”: Đại Luận quyển tám nói: “Thưở Đức Phật Ca-diếp ra đời có hai anh em xuất gia cầu đạo. Một người chuyên giữ giới, tụng kinh và ngồi thiền. Một người cầu tất cả các Đàn-việt tu tập các phước nghiệp. Đến lúc Đức Phật Thích-ca ra đời thì một người sinh vào gia đình Trưởng giả, một người đọa làm con voi trắng cố gắng phá giặc.
Người sinh làm con của vị Trưởng giả xuất gia học đạo và chứng được quả A-la-hán, có sáu thứ thần thông. Nhưng do phước mỏng nên lúc khất thực lại khó có được vật phẩm. Ngày khác, lúc ôm bát đi vào thành khất thực, nhưng đều không được gì. Vị ấy đi đến chỗ chuồng giữ voi thì thấy Vua cúng dường cho con voi đủ loại thức ăn.
Vị ấy liền bảo voi rằng: “Ta và người đều có tội cả”.
Con voi cảm động nên bỏ ăn ba ngày.
Người giữ voi sợ quá nên đi tìm vị đạo nhân ấy. Lúc tìm thấy, ông ta hỏi rằng: “Ngài làm phù phép gì khiến con voi trắng của vua bị bệnh mà không ăn uống như vậy?”
Vị ấy đáp: “Con voi ấy là thân trước của con ta. Cả ta và nó đều xuất gia học đạo vào thời Đức Phật Ca-diếp. Ta chỉ giữ giới, tụng kinh và ngồi thiền chứ không thực hành hạnh bố thí. Do em ta chỉ tìm các Đàn-việt để làm các việc bố thí nên nay có dư dả các thức ăn món uống. Vì ta chỉ hành đạo mà không tu hạnh bố thí nên nay tuy đắc đạo nhưng khất thực lại không được gì”.
“Diệu trang nghiêm”: Pháp Hoa sớ nói: “Thuở xưa, vào thời Mạt pháp của Phật có bốn vị Tỳ-kheo vô cùng kính trọng kinh Pháp Hoa, họ xem kinh ấy như Cam lồ chưa được thấm nhuần.
Do đó, bốn vị Tỳ-kheo ấy liền giao hẹn với nhau vào núi để tu đạo. Vì ở trong núi lâu ngày nên thức ăn và áo quần bị cạn kiệt.
Một vị nói: “Ba huynh chỉ nên dốc toàn bộ mạng sống của mình cho đạo, chứ không nên nghĩ gì vào buổi sáng. Tôi xả bỏ sức khỏe của thân để cung cấp cho ba huynh những điều cần thiết”.
Ba người được hoàn thành công nghiệp. Một người do bao phen lội vào nhân gian, gặp lúc vua xa giá, nên yêu thích sự vinh hoa của vua. Nhờ công đức huân tu nên được sinh lên làm người, trời và thường được làm vua.
Ba vị kia bàn nhau rằng: “Sở dĩ chúng ta thoát được lao ngục là do công của vua. (Vì) vua đắm đuối qủa báo nên nuôi lớn pháp Hữu vi, do đó mới chìm trong hầm lửa. Chúng ta nên khai báo với vua”.
Một người nói: “Vị vua ấy đã dính mắc vào dục lại có tà kiến nữa. Nếu không có lưỡi câu ái thì không thể nào nhổ bỏ được!” Một người làm người vợ xinh đẹp. Hai người làm hai đứa con thông minh. Lời nói của con và vợ thì chắc chắn vua sẽ nghe theo. Nếu chúng ta mở rộng sự giáo hóa thì chắc chắn vị vua ấy sẽ sử đổi tà kiến”. Vợ tức là Bồtát Diệu Âm, hai con tức Dược vương và Dược thượng, vua tức là Hoa Đức.
Ba là giải thích về hiểm nạn của sự gặp lúc tốt. Như kiếp sơ, người ở Diêm-phù sống lâu tám vạn bốn ngàn tuổi, người ở Bắc châu sống lâu một ngàn tuổi. Tất cả đều vì sống lâu, hưởng thọ an vui nên không tu đạo.
Uất-đơn-việt, Hán dịch là Thù Thắng. Vì hơn hẳn các châu khác.
Bốn là giải thích việc gặp Phật cũng khó. Kinh Hưng Khởi Hạnh nói: “Đồng nữ Đa Thiệt độn chày gỗ vào bụng, đến trước mặt ta mà nói: “Tại sao Sa-môn không tự nói về việc nhà mà lại nói chuyện khác. Nay ngươi tự mình hưởng an vui mà không biết gì về nỗi khổ của tôi? Trước đây, ngươi đã thông đồng để làm tôi có thai. Nay đã gần đến lúc sinh nở. Đúng ra, người phải chu cấp dầu bơ để nuôi dưỡng đứa bé và thường xuyên chu cấp cho tôi”.
Thiên đế hóa thành con chuột chun vào trong áo đồng nữ cắn dây buộc làm cho cái chày gỗ rớt xuống đất. Lúc ấy, đất nứt ra, thân hiện tại của Chiên-già đọa vào ngục A tỳ v.v…”.
Phẩm Ca-diếp trong kinh Niết-bàn có nói rằng Thiện Tinh là đệ tử Phật, khi Phật là một vị Bồ-tát. Sau khi xuất gia thọ trì và giảng nói mười hai bộ kinh, ông ấy phá bỏ kiết sử cõi cõi Dục, đạt được bốn Thiền. Nhưng, vì gần gũi bạn ác nên lui sụt Tứ thiền và sinh tà kiến xấu ác. Ông ấy nói rằng không có Phật, không có Pháp, không có Niết-bàn. Thấy Phật đi từ xa đến là sinh tâm ác tà. Do đó mà bị rơi vào địa ngục A-tỳ. Điều-đạt là em chú bác với Đức Phật mà lại tự gây ra ba điều nghịch là làm cho thân Phật chảy máu, phá hoại Tăng xoay bánh xe pháp và giết hại A-la-hán. Xúi giục vua A-xà-thế giết cha và gây thêm hành vi giết mẹ. Lại dùng tâm ác tẩm thuốc độc dưới móng tay muốn cào chân, chích chân Phật để hại Phật. Lúc sắp đi đến Kỳ sơn, vừa ra khỏi thành thì đất nứt ra, ông ấy rơi vào địa ngục Nê-lê lúc đang còn sống. Hai trường hợp ấy là gặp Phật mà thành đại nạn. Nhưng thể của ba câu trên là thiện thuộc hữu lậu. Vì chúng chướng ngại đối với việc tu tập vô lậu nên gọi là nạn. Câu này là gây ra tội nghịch nên dường như không cùng loại với câu trên. Đoạn gây tội nghịch ở đây dường như không cùng loại với ở trên. Nhưng, gặp được Tam bảo được gọi là điều thiện cao nhất, vì nghịch nào mà thành ra nạn? Do đó, nó cũng là điển hình cho ý nghĩa điều thiện ngăn chướng Thánh đạo ở trên.
Kế là “Nếu đọc v.v…” trở xuống là nói về cách đọc văn của hai thanh là Bình và Khứ, như sau:
Một là nói về chữ đọc có cả cả Bình.
Hai là “Lại y cứ v.v….” trở xuống là y theo kinh thì thuộc khứ.
Ba là “Từ các.. “ trở xuống là xưng tán, có hai:
Một là lập ý chia văn.
Hai là loại cúng dường để so sánh với Thân và Ý. Vì đã không nói cho nhau nên chưa tiết lộ. Vì ba nghiệp không đủ nên chưa hoàn bị. Nay vì thêm khẩu nghiệp, đã sáng tỏ mà lại đủ nên thành thứ lớp. Trước tuy tự tha tu hạnh tu sám, nhưng vì bồi bổ cho tuổi thọ của Phật nên gọi là pháp môn cúng dường. Nay tuy khen ngợi ba thân Phật nhưng do có thể thành tựu pháp quán của hành giả nên gọi là pháp môn niệm Phật. Tuy pháp có đủ lẫn nhau nhưng tăng hơn nên lập ra hai pháp môn.
Kế là “Nêu các v.v…” trở xuống là tùy theo văn để giải thích nghĩa, lại có:
Một là nêu lời khen.
Hai là loại tu tập của Báo, Ứng là sự của toàn bộ Lý. Một tánh của Pháp thân là Lý của toàn bộ Sự. Phật nào ở mười phương và ba đời cũng có ba thân. Nếu nêu chương như vậy thì có gì mà không được xếp vào. “Ta y chỉ”. Đã nói Pháp tánh một Thể mà ba thứ Phật thì chúng ta suy nghiệm để biết rằng vị Phật khác là Phật của tâm tánh. Đây là y theo Bổn giác mà sinh khởi Thỉ giác và cũng là ba đế phát khởi ở ba loại trí. Nếu không có sự y chỉ này thì pháp sám hối vượt ngoài không thành tựu. Vì vậy, hàng sơ tâm của viên gọi là tu tập hạnh Phật. Bốn thứ mắt nhập vào Phật nhãn v.v… là văn trong Đại Luận. Mười loại trí và Như trí, tổng cộng là mười một loại trí. Mười loại trí thì có cả Nhị thừa, chỉ có Như trí là chỉ Phật mới có.
Mười trí:
- Pháp trí.
- Tỷ thí.
- Tha trí.
- Thế trí.
- Khổ trí.
- Tập trí.
- Diệt trí.
- Đạo trí.
- Tận trí.
- Vô sinh trí.
“Như vật ném, v.v…”: Thạch mật rất ngọt, nước biển rất mặn. Vật ném xuống nước thì liền mất mùi vị. Thể pháp tức là tánh, không (vật) gì không vượt hơn. Lẽ nào lại không quy kính đối với biển Phật này?
Kế là “Y theo chính v.v…” trở xuống chính là khen, có hai:
Một là chia văn.
Hai là “lược khen v.v…” trở xuống là tùy văn giải thích, như sau:
- Gửi lời hoan hỷ, có hai:
- Lược khen, lược so sánh, có hai:
- Giải thích về lược khen, có hai:
- Tướng mạo của sắc vàng, có hai:
Một là dùng kim loại khác để so sánh với màu: “Vàng Diêmphù”: Đó là tên của con sông ở Ấn Độ. Sông ấy nằm gần cây Diêmphù. Loại vàng này sinh ra từ con sông kia. Con sông ấy do cây mà gọi tên. Vàng do sông mà có tên.
Hai là “Lại nữa, Phật v.v…” trở xuống là lấy sự chiếu sáng đồ vật mà làm sáng tỏ về ánh sáng.
Kế là “sông, vàng v.v…” trở xuống là khen ngợi lý do của Vàng, có hai:
Một là nói “là chỗ y cứ của chúng”.
Hai là “Vàng có v.v… ” trở xuống là nói về ví dụ bốn đức.
Kế là “Cũng giống như v.v….” trở xuống là giải thích sự so sánh khái lược.
Kế là khen ngợi đầy đủ, so sánh đầy đủ, lại có:
– Khen ngợi đầy đủ, có hai:
Một là chia văn.
Hai là “Từ kỳ v.v…” trở xuống là tùy văn giải thích: Ngôn từ thì khen ngợi sắc của Ứng nhưng ý lại làm sáng tỏ Pháp và Báo. Sắc tướng là bên ngoài. Trí chứng là bên trong. Tuy chia ra ngoài và trong nhưng lẽ nào lại khác thể? Vì vậy, bốn đức nói trong bản mới dịch thuộc về ba thân. Tức là, Pháp thân có Thường và Ngã, Ứng thân có Tịnh, Hóa thân có Lạc, Tròn đầy từng phần riêng biệt. Dung nhiếp biệt là Viên. Vì vậy, ba thân của Viên, thân nào cũng có bốn đức. “Được ý của chúng”: là hiểu bốn đức của Ứng của nay tức là bốn đức của Pháp và Báo. Người học nên lấy ý ấy để suy tìm kinh và sớ. Văn gồm có bốn:
Một là khen ngợi đức của Ngã.
Hai là Từ “thiện v.v….” trở xuống là khen ngợi đức của Tịnh.
Ba là từ “Công v.v…” trở xuống là khen ngợi đức của Thường; kinh “Vòi vọi”: là dáng vẻ cao lớn. Pha-lê: Hán dịch là Thủy vương.
Bốn là Từ “Ba v.v…” trở xuống là khen đức của Lạc. Lạo (nước ngập) âm là lão. Tức là nước chảy. “cúi đầu”, Thuyết văn, nói là cúi đầu. Thủ tức là đầu. Khổng An Quốc nói: “Khể thủ tức là đầu (sát) đất.
Kế là từ như “như v.v…” trở xuống là tùy văn giải thích, có hai:
Một là chia văn.
Hai là công đức của Phật trở xuống là tùy văn giải thích, có hai:
Một là so sánh đầy đủ: Bốn câu này là dụ cho sự nêu lên bốn Đức Phật ở trước. Đại sư giải thích về vấn đề này có khi dụ cho Ứng thân có hạn lượng và vô hạn lượng, hoặc dụ cho bốn đế, bốn đức của Pháp và Báo. Trong huyền văn tự làm sáng tỏ rằng Phật của Kim Quang Minh là không thể dụ được. Bởi vì ba và một của ba thứ thân là tự tại. Vì vậy, bốn ví dụ có khi là riêng ở tại một, có lúc làm sáng tỏ chung về ba. Văn ở đây thật sự giống với sự so sánh về bốn đức ở ở trước. Vì biển không thêm bớt nên là Thường. Thể của đất là Tịnh. Hình thế của núi cao trội như Ngã. Vì hư không chẳng có sự ngăn ngại nên gọi là Lạc.
Kế là hợp ví dụ.
Kế là từ “Một v.v…”trở xuống là dứt bặt sự khen và lời nói, có hai:
Một là chia văn.
Hai là “Tất cả v.v…” trở xuống là tùy văn giải thích, có hai:
Một chính là dứt bặt lời khen.
Hai là “Lại điệp v.v…” trở xuống là điệp dụ thiếp hợp.
Hỏi: Sớ giải thích gửi lời và dứt bặt lời đều rời bỏ sự suy nghĩ, nói năng. Như thế là giống hay khác?
Đáp: Tính chất bí mật của bốn đức vốn lìa bỏ sự bám níu của tâm. Nay, sở dĩ khen ngợi là vì muốn làm cho chúng sinh đi vào tạng bí mật. Vì thế, gửi lới hay dứt bặt lời đều làm sáng tỏ đặc tính lìa niệm. Gửi lời thì dùng bốn thứ để dụ cho bốn đức. Dụ đã không có số thì tức là làm sáng tỏ đức vốn mất sự bám níu. Bốn thứ ở trong dứt bặt ngôn ngữ không thể dùng làm ví dụ cũng là làm sáng tỏ bốn đức mất sự bám níu, suy nghĩ. Vì Đại sư thấu đạt sâu đối với ý chỉ mầu nhiệm của văn kinh nên giải thích cả hai đoạn văn đều dứt bặt suy nghĩ và nói năng.
Kế là Từ “Tướng v.v…” trở xuống là tổng kết.
Kế là Từ “Ngã v.v…” trở xuống là nói về phát nguyện, có hai:
Một là Lập ý chia văn: “Như trâu không người cầm cương”: Tức là mục đồng. Đã lập nguyện thì dẫu nhiều hay ít cũng không được đánh mất ý của bốn thệ nguyện rộng lớn. Nhưng bốn thệ nguyện rộng lớn này phải y theo bốn đế. Nguyện mà không y theo Đế thì gọi là nguyện suông. Nay nói theo Viên thì y theo Đế thuộc Vô tác nên tuy là hai thứ nhân quả thế gian và xuất thế gian nhưng đều rõ biết được “Chính là Tánh (thì) không có khổ đế để độ, không có Tập đế để dứt, không có Đạo đế để tu và không có Diệt đế để chứng. Được như vậy thì sẽ độ khắp, đoạn tận, tu trọn và chứng diệu. So với sự chưa thoát khỏi tình trạng nguyện rộng thuộc ba giáo trước (thì) tiêu giải các nguyện của nay. Nếu không đánh mất ý nghĩa ấy thì chẳng phải là hành giả của Viên.
Kế là tùy văn giải thích về nghĩa, lại có:
- Nói về Phát nguyện, có hai:
- Tự phát nguyện, có hai:
- Quả của nguyện viên mãn, có bốn:
Một là “Ta dùng v.v….” trở xuống là ý luân của nguyện viên mãn:
Vì bậc Đại giác tròn sáng nên thuộc ý nghiệp.
Hai là “giảng nói v.v…” trở xuống là viên mãn khẩu luân.
Ba là “Xô dẹp v.v…” trở xuống là viên mãn Thân luân. ấm tử, thiền tử phần nhiều y theo Thân. Phiền não thuộc về ý. Nay y theo phần nhiều.
Bốn là “Trụ tuổi thọ v.v….” là viên mãn nguyện từ bi. Nếu chẳng phải là Từ thuộc Vô duyên thì không thể trụ tuổi thọ được như vậy. Hai nhân của nguyện viên mãn, có hai:
Một là chia văn.
Hai là tùy văn giải nghĩa, gồm có:
Một là “Ta nên.. “ trở xuống là nguyện công đức hữu vi tròn đầy:
thành tựu sáu độ, đây là y theo nhân chân chính phá sáu màn che. Từ Đoạn mà chính thức luận. Vì là trí đức nên gọi là Hữu Vi.
Hai là “dứt trừ các v.v…” trở xuống là nguyện công đức vô vi tròn đầy. Đây là y theo sự hiện Ứng thân để điều phục chúng sinh trong chín đường của chân vị; Tự nhiên không tương ưng với khổ của hoặc và khổ. Vì đó là Dức dứt nên gọi là vô vi. Vì vậy, Pháp sư Hải Đông nói: “Thỉ giác dứt trừ chướng. Đó là sự dứt trừ của thật sự dứt trừ. Bổn giác dứt chướng là sự dứt trừ của không dứt trừ? Nghĩa của Pháp sự giống với nghĩa hai đức của Trí giác của nhà chú thích ngày nay.
Ba là “Ngã v.v…” là nguyện túc mạng, nghĩ nhớ đến Phật tròn đầy. Nhớ về giáo (lý) túc mạng, thấy Phật quá khứ đồng thời cũng nhớ chánh pháp do các Đức Phật giảng nói. Xa lìa điều ác, tu tập điều lành, thành nhân của Trí và Đoạn.
Kế là vì người khác mà phát nguyện, có hai:
Một là chia văn.
Hai là “Tất cả v.v…” trở xuống là giải thích nghĩa, có hai: Một ngụyện làm vua thuốc để nhổ gốc khổ.
Kế là nguyện làm vua Châu ngọc để cho niềm vui. Chủ thể nhổ và chủ thể cho này là vô duyên từ bi. Đối tượng được nhổ, đối tượng được cho phải nói về mười phen; đó là quả báo tu nhân, Thanh văn, Bích-chi, bốn giáo, Bồ-tát, phương tiện và Thật độ. Nay, vua cây thuốc nhổ mười gốc khổ của hành giả. Vua châu ngọc cho hành giả mười thứ vui. Người học nên dùng ý ấy để tiêu giải văn nói về cho và nhổ. Đầu tiên tự chia làm bốn.
Một là nhổ chung các thứ khổ.
Hai là “Nếu phạm v.v…” trở xuống là nhổ gốc khổ thiếu căn.
Ba là “mười phương v.v…” là nhổ gốc khổ của bệnh.
Bốn là “nếu phạm v.v…” trở xuống là nhổ gốc khổ bị nạn của vua.
Tiếp theo là cho niềm vui, có hai:
Một là chia văn.
Hai là “Văn trên v.v…” trở xuống là tùy văn giải thích, lại có:
Một là cho quả niềm vui của thế gian. Trải qua sự Cổ xúy xưa nay chú thích là cây sáo ngắn. Ưu-bát-la, Hán dịch là màu đen xanh. Tức là hoa sen xanh. “Thường vào ba thời”: Ba thời thuộc ban ngày.
Hai là Từ “Nguyện v.v…” trở xuống là cho nhân niềm vui xuất thế, có hai:
Một là chia văn.
Hai là “Duyên của người v.v…” trở xuống là tùy văn giải thích, như sau:
- Khiến tu hành có đủ duyên ngoại, có hai:
Một là gặp Tam bảo.
Hai là lìa tám nạn.
Kế là khiến tu hành có đủ nội nhân, có hai:
Một là chia văn.
Hai là “Nhân thuộc người v.v…” trở xuống là tùy thích, có hai:
Một là sinh vào nơi tôn quý.
Hai là nhiều tài bảo.
- Năm sự ngăn ngại:
- Không làm Phạm vương.
- Không làm Đế Thích.
- Không làm Luân vương.
- Không làm Ma vương.
- Không được làm Phật.
Kế là từ “nếu v.v…” trở xuống là kết thành, có hai:
Một là chia văn.
Hai là giải thích kinh, có hai:
Một là kết về tự.
Hai là kết về tha.
Kế là từ “Nếu (điều) đó…” Trở xuống là y theo nguyện tùy hỷ, có hai:
Một là chia văn.
Hai là giải thích kinh, có hai:
Một là tùy hỷ (người) khác.
Hai là Tùy hỷ tự (thân).
Kế là từ “Nếu có v.v….” trở xuống là kết thành, có hai:
Một là chia văn.
Hai là giải thích kinh, có ba:
Một là kết thành về dứt trừ ác.
Hai là “Các điều lành…” trở xuống là kết thành sự sinh ra điều lành.
Ba là “không phải ở v.v….” trở xuống là kết thúc việc gặp dược Phật.
Kế là giải thích về phẩm Tán Thán, như sau:
- Giải thích tựa đề, có hai:
- Y theo nghĩa để giải thích chung, có hai:
- Chỉ bày về ý của bốn Tất-đàn, có hai:
Một là nêu.
Hai là giải thích: Gồm:
Một là thế giới: “Suy nghĩ tuổi thọ của Phật”: Tức là kinh trước nói: “Vì suy nghĩ như thế nên tâm sinh ra sự nghi ngờ”. “Một lòng tin hiểu”: Tức là sự khai ngộ. Tức là điều mà kinh nói rằng: “Tín Tướng nghe bốn vị Phật đó giảng nói về tuổi thọ nên tâm tin hiểu sâu xa”. “Người ấy”: Tức là Tín Tướng. “Bổn sự”: Việc làm của hôm nay đều do lời nguyện thưở xưa. Nay vì chúng sinh hoan hỷ nên thuộc về thế giới.
Hai là từ “Thân người v.v…”.
Ba là từ “Diệt v.v…” trở xuống là Đối trị, càng (nhiều) tội: Vưu là (càng) tức là vô cùng, rất. Do đức thù thắng, ân nặng nên sự phá hủy tội là rất nhiều. Sự phá hủy của miệng gọi là Thề. Cũng gọi là mắng. Bốn, từ “Sổ v.v…” trở xuống là Đệ-nhất-nghĩa. Nói rằng chư Phật vô cùng tôn quý, sâu xa vô lượng là vì: từ Sơ trụ trở lên của Viên thì lấy pháp tánh bao gồm thể tướng của thân. Diệu giác thì hoàn toàn lấy Pháp tánh sâu rộng làm Thể tướng của thân. Vì vậy, luận Thư Khởi tín nói: “Thân của chư Phật, Như Lai đều là pháp thân trí tướng”. Đệ-nhất-nghĩa đế vốn lìa bỏ sự tạo tác thi vi. Nay sở dĩ xưng tán thân ấy là vì muốn cho người tu đi vào Lý.
Kế là “Nếu muốn v.v…” trở xuống là giải thích danh từ khen ngợi, có hai:
Một là chia chữ, giải thích nghĩa, cũng phân biệt lẫn nhau. Lấy việc nói lại đức làm khen ngợi. Áo dụ là Thán, chỉ khiến tự nói, tay áo xứng với nghĩa thành, đối chữ không hiện hữu.
Hai là dẫn luận chứng thành. Sự khen ngợi kia chứng minh cho ví dụ của áo. Hai là “Phẩm này v.v…” trở xuống là kết thúc sự chỉ bày về làm sáng tỏ riêng: Tuy có ba nghiệp nhưng khẩu nghiệp là chính. Vì thế gọi là làm sáng tỏ riêng.
Kế là kết thúc (phần) này… “trở xuống là y theo bốn Tất-đàn để làm sáng tỏ riêng: Bốn nghĩa chỉ cho người v.v… thuộc về chủ thể khen ngợi. “Phẩm này…” trở xuống là nói về sáng tỏ riêng. Trong bốn Tấtđàn chính là ở sinh thiện. Vì đối với Phẩm sám ở trước chính là dứt ác.
Kế là giải thích văn.
Một là chia văn.
Hai là tùy vào để giải thích, lại có:
- Văn xuôi, có hai:
- Giải thích, về đối trị là nói với người, có hai:
Một là y theo sự giải thích đối trị: kinh Thụy Ứng nói: “Phật bảo với Ma vương. Ta nhờ tích lũy công đức nên nay được thành Phật” Ma nói: “Chứa nhóm công đức ai làm chứng”. Lúc ấy, Đức Phật chỉ tay xuống đất nói: Người ấy biết ta. “Người ấy” là chỉ cho Thần đất. Lúc ấy, Thần đất vọt lên làm chứng.
Hai là “Lại nữa, đối v.v…” trở xuống là y theo vì người mà giải thích. Giữa hư không trở lên đều là trời nam. Nửa hư không trở xuống đều là trời nữ. Sở dĩ quả báo quỷ thần gọi là trời vì có lực dụng tự nhiên nên lấy trời để khen ngợi. Mời gọi quỷ thần đến lấy trời mà gọi, không chỉ có (tên) đó. Thật ra trí là căn bản của pháp lành. Nay khen ngợi người giác ngộ sinh Thật trí của người nên bảo với người thiện nữ. Lại nữa, vì tên khác là Kiên Lao nên chứng minh việc đã qua. Xứng lý nghĩa là không hoại v.v…
Kế là giải thích về Kim Long Tôn là pháp y cứ cho pháp môn Kim Quang Minh. Kim Quang Tôn khế hợp với hạnh, nào là pháp, nào là hạnh, tất cả đều là Tánh một, tu hai. Cho nên Kim là lý, chủ thể khen ngợi là Long (rồng). Vì thường làm lợi ích nên là Tôn. Nay vì chứng lý nên khởi hai sự tu của dụng mà đối với một tánh. Đương thể gọi là Kim Long Tôn.
Kế là kệ tụng, có hai:
Một là chia văn.
Hai là tùy văn giải thích, lại có:
- Khen Phật ba đời, có năm:
- Tán chung, có ba:
Một là y theo sự lý để nói chung về ba đời. Cảnh quả tâm ý thức thuộc mười phương gọi là sự. Làm gì có một sự nào không hiện khởi từ lý? Kinh nói: “Vắng lặng là nghĩa Niết-bàn, gọi là mầu nhiệm, là đại diệt độ. Như vậy làm sáng tỏ ba đức chẳng phải dọc, chẳng phải ngang, gọi là kho bí mật. kho bí mật hiện hữu tròn đầy, không riêng thời gian hoặc không gian. Thời gian và không gian tự nhiên đều là ba đức. Chẳng dùng hai tướng mà thấy cõi nước của chư Phật là nói cho trường hợp này phải chăng? Không có mầu nhiệm hơn sự khen chung này.
Kế là “Lý chung v.v…” trở xuống là y theo ba pháp để nói rõ chung: “Pháp thân”: Tức là nói tánh (Vốn) một. “Báo Ứng”: là nói về Tu (vốn là) hai. Toàn tu ở tại tánh, hợp ba mà làm Báo, hợp ba mà làm Ứng. Cho nên gọi là Báo Ứng chung. Tất cả ba pháp đều như vậy. Lại nữa, Pháp thân bao gồm ba vùng đất. Vì thật báo v.v… đều là Tịch quang. Báo thân bao gồm hai vùng đất. Vì phương tiện, đồng cư nhìn thấy thân Đặc tôn. Ứng thân gồm hai nơi Đồng cư là Tịnh và Uế. Vì Phàm phu và Nhị thừa thấy sinh thân. Nếu phân biệt thì đặc tính Thắng và Liệt của ba thân và vùng đất không lẫn lộn. Nếu xét theo quan điểm dung nhiếp thì đặc tính nghiêng lệch, hạn cuộc của ba thân, ba vùng đất cùng thu nhiếp lẫn nhau. Dùng đặc tính dung nhiếp để khen ngợi Phật thì không bỏ sót đức của Phật.
Kế là “Như vậy v.v…” trở xuống là y theo bốn đức để nói chung: kinh nói: “Chư Phật thanh tịnh”. Đó là đứng về mặt quả để làm sáng tỏ về đức. Trong quả, các đức đều nhóm họp. Nêu một đức tịnh đều có cả Thường, Lạc và Ngã; bốn đức đều tròn đầy, mầu nhiệm. Nếu một là thâu nhiếp tất cả. Vì vậy, bốn đức này là đức của ba thân. Vì ba thân dung nhiếp nhau nên bốn đức trang nghiêm khắp nơi. Do đó mà ba thân đều là bốn đức. Chung (như) thế là khen ngợi cùng cực Thể và Dụng của Phật. Nay vì chỉ bày cho nên chú rằng v.v…”.
Kế là Từ “sắc v.v…” trở xuống là khen riêng, lại có:
– Chia văn lập nghĩa, có hai:
Một là chia văn. “Tướng lớn” tức là chỉ cho ba mươi hai tướng.
“Tướng nhỏ” là nói về tám mươi tướng đẹp phụ. “Đều gọi là biển”. Vì dù là lớn hay nhỏ đều chẳng có bờ mé, đều là sự hiển hiện của toàn thể Pháp giới. Vì vậy, mỗi tướng đều là biển pháp. Y theo khen chung sự thanh tịnh mầu nhiệm của chư Phật vắng lặng, dùng chung bày riêng, mỗi tướng tốt đều là kho bí mật. Vì Đại sư thấy được chỗ đắc ý kia nên khi giải thích về tướng tốt đều lập ra danh từ “biển”.
Hai là “Sở dĩ v.v… ” trở xuống là lập nghĩa, có hai:
Một là nói về trí khéo léo của chủ thể khen ngợi.
Hai là “Phù v.v…” trở xuống là nói về đức sâu xa của đối tượng được khen, có hai:
Một là Qua các loại giáo để phân biệt.
Hai là y theo đặc tính dung nhiếp, chính là của Viên: người học nên biết rõ về hai ý ấy. Bao gồm lời văn sâu kín của kinh luận. Lập ra hướng đi sâu của Giáo quán. Làm sáng tỏ về sự không lẫn lộn của Hóa tích. Bày rõ sự chiếu soi tức khắc và toàn diện của căn cơ thuộc Viên. Vì sao? Vì phân biệt nên từ Thắng mà chỉ bày riêng. Vì dung tức cho nên xúc cảnh (là) thâu khắp. Đạt được sau sau thì sẽ được trước trước. Đạt được trước, trước sẽ được sau sau. Vì không biết sau thì nghĩa của đang phân thành tựu. Vì biết được trước nên nghĩa của khóa tiết được sáng tỏ. Nếu hiểu được trong chân cảm ứng, hai thực thấy Phật thì sự thâu nhận chọn lựa của hai ý này đều không sót. Về “Hai thức”, luận Khởi Tín nói: “Dụng của Phật có hai thứ.
Một là y theo thức phân biệt sự: thân do phàm phu, Nhị thừa thấy được gọi là Ứng. Vì chẳng biết rằng đó là thân do chuyển thức hiện ra nên thấy từ bên ngoài đến. Vì chấp đắm phần hạn của sắc, không thể biết đến chỗ cùng tận.
Hai là y theo Nghiệp thức: thân thấy được do tâm của Bồ-tát sơ phát ý cho đến Bồ-tát địa rốt ráo gọi là Báo; Thân có vô lương sắc, sắc có vô lượng tướng, tướng có vô lượng vẻ đẹp quý. Quả thuộc về đối tượng trụ, đối tượng y cứ cũng vô lượng. Đủ trong trang nghiêm tùy theo đối tượng được chỉ bày. Tức là không có Hữu biên, không thể cùng tận. Lìa tướng phần hạn, tùy theo cái được Ứng mà thường trụ trì, không bị hủy hoại, không mất đi. Nói tóm lại, tất cả đều là cái được thành tựu trong sự huân tập của công hạnh vô lậu thuộc các Ba-la-mật và sự huân tập của không thể suy nghĩ bàn luận. Tướng của sự thọ nhận an vui ấy gọi là Báo thân”. Đó tức là Như Lai dùng dụng của Pháp giới để thuận theo hai thức là sự nghiệp của chúng sinh mà hiện ra Ứng Thân và Báo thân. Ứng thân là sinh thân theo cách gọi ngày nay. Báo thân là thân tôn đặc và pháp tánh theo cách gọi ngày nay. Người y theo sự thức thì chỉ thấy Ứng thân mà không thấy hóa thân. Vì thức ấy cạn thấp, không vươn đến chỗ sâu xa tận cùng. Người y theo Nghiệp thức thì thấy Báo thân mà cũng có thể thấy cả Ứng thân. Vì biết Chân như sinh khởi hai thứ dụng. Hành giả nên biết hai điều ấy. Dụng của Chân như hiển hiện thân tướng Phật, đại khái có ba phẩm:
Một là Như kinh Hoa Nghiêm nói về số của tướng quý có mười vi trần thế giới Liên hoa tạng.
Hai là Như kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói về tám vạn bốn ngàn tướng quý, sáng chói.
Ba là Như kinh này và Pháp Hoa, Bát-chu v.v… nói về ba mươi hai tướng quý và tám mươi tướng phụ. Tướng trong ba phẩm này đã là dụng của toàn thể Chân như, dù nhiều hay ít cũng đều không có bờ mé, giới hạn. Vì thế, tất cả các tướng đều được gọi là biển, đều là tôn đặc. Tuy nhiên cũng có thông và cuộc. Vì Tạng thì lập bày cả tám vạn, nhưng hạn cuộc ở cái thấy của nghiệp thức ba mươi hai tướng của thân (Phật) có cả cái thấy của sự thực gọi là Ứng. Nếu là cái thấy của Nghiệp thức thì tức là không có bờ mé, không thể cùng tận. Lìa tướng của phần hạn gọi là tôn đặc, thuộc về Báo thân. Điều đó như tướng được khen ngợi của kinh này đối với ba mươi hai. Vì Kim Long Tôn quy tựu về bốn đức mầu nhiệm, vắng lặng của Phật mà làm lời khen chung. Vì lấy chung để làm sáng tỏ riêng nên ba mươi hai tướng đều là Bí tạng. Do đó, mỗi tướng đều lìa phần hạn như sự vô biên của hư không, thường tru và không hoại diệt. Sớ y theo đó mà giải thích đặc tính dung nhiếp. Chính là khen ngợi thân tôn đặc. Nếu không biết sự khen chung của Long tôn là y theo nghiệp thức mà thấy Ứng tức là Báo thì lẽ nào Viên quang một tầm của ba mươi hai tướng được gọi là tôn đặc ư? Nói “cảm ưng của đạo Chân, Trung” là bởi Như Lai hiện thân thuộc Ứng hóa, thị hiện trụ ở Thiên chân mà nói về sinh diệt và pháp Vô sinh để gia bị chơ căn cơ thuộc Tạng và Thông. Hiện thân tôn đặc trụ ở Trung đạo để giảng nói về Vô lượng và pháp vô tác mà che chở cho căn cơ thuộc Biệt và Viên. Vì vậy, Văn cú nói: “Phật thuộc thân một trượng sáu trụ ở Chân-đế. Phật của sự phối hợp hai thân là một trượng sáu và tôn đặc trụ cả ở Chân và Trung. Phật thuộc thân tôn đặc trụ ở cả Tục và Trung. Phật thuộc pháp thân trụ ở Trung đạo”. Bản sớ có sáu chỗ giải thích về Ứng hóa, tôn đặc, tất cả đều y theo Cảm Ứng ở trong của Chân và Trung mà phân biệt. Như sự khen ngợi Phật của Pháp Hoa. Văn kinh làm sáng tỏ rằng: “ba mươi hai tướng quý, tám mươi tướng phụ”. Vì pháp thân có đầy đủ.
Vì trang nghiêm Pháp thân. Đó là tướng thuộc tôn đặc. Bởi vậy, Đại sư Kinh Khê xếp cùng loại với Hoa Nghiêm, nghĩa là “Mỗi tướng quý ngang bằng với Hư không v.v…”. Lại nói: “Mỗi tướng đều là biển pháp giới. Mỗi một đặc tính quý đều gọi là Biển”. Sớ giải thích văn nay rằng tướng lớn hoặc tướng nhỏ đều gọi là biển. Tướng lớn và nhỏ ở đây hoàn toàn khác với chín mươi bảy tên của Hoa Nghiêm. Mỗi tướng đều có sự khác nhau của danh mục ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp thuộc thứ lớp trong Pháp giới. Lại nữa, phẩm Sám Hối khen ngợi ba mươi hai tướng tướng, tám mươi vẻ đẹp của Phật. Vậy, lẽ nào sự khen ngợi thưở xưa của Long tôn và những lời khen ngợi do Trống Vàng của ngày nay lại có hơn, kém” vì thế, chúng ta biết rằng chỉ đứng trên lập trường cảm Ứng của Trung đạo, mà gọi là tôn Đặc chứ không phải là thêm số lượng của tướng quý mới gọi là tôn Đặc. Bởi vậy, trong Hoa Nghiêm, mười thứ thân của chúng sinh nghiệp báo v.v… đều là Lô-xá-na, Xá-na chẳng phải là Báo, lẽ nào Báo lại không phải tôn đặc? Nếu đánh mất ý nghĩa này thì đừng nên luận nghị về tông chỉ của ngày nay! Sinh thân của cha mẹ tức là thân một trượng sáu. Thàn tôn đặc được cảm bởi hạng độn căn của ba tạng và Thông tức là quả báo của Tha thọ dụng. Thân pháp tánh được cảm bởi hạng lợi căn của Thông giáo và Biệt giáo là Pháp thân. Thân được cảm bởi hành giả của Viên là đại dụng cảu Pháp giới Như Lai. Vì đối với ba loại căn cơ mà hiện ra ba thân nên tướng thuộc chủ thể trang nghiêm cũng chia ra ba loại. Lực dụng của ba thân cũng có hơn kém khác nhau. Chẳng những chỉ thị hiện thân tướng thuộc pham vi quả là khác nhau mà cũng thị hiện ba nhân thuộc phạm vi công hạnh khác nhau. Vì sự thấy Phật của ngày nay đều là căn cơ kết duyên lâu đời. Như thị hiện nhân của tích Luận về tướng của bốn thứ tu tập, hành sáu độ, v.v… “Chính là không”, hoặc ra tu tập thuộc phạm vi thứ lớp, hoặc sự tu tập thuộc phạm vi Viên đốn thị hiện sự tu không giống nhau nên làm cho sự kết duyên của các thứ căn cơ có khác nhau. Do vậy, hôm nay chiêu cảm và thấy ba thân không giống nhau.
Tiếp theo là “Ba thứ thân v.v…” trở xuống là giải thích riêng, lại có:
– Giải thích tướng của ba thân, có ba:
Một là Giải thích tướng của Sinh thân.
Lâm-vi-ni: Hán dịch là chỗ giải thoát. “Đưa tay vịn vào cây”: Tức là phu nhân Ma-da vịn vào cây Ưu-đàm mà sinh ra thái tử từ hông bên phải. A-di cũng gọi A-tư-đà. Hán dịch là Vô tỷ (không so sánh), là tên vị tiên, nghĩa là Mở ra. Sau khi Thái tử đã sinh được ba ngày đã lấy vải chiên màu trắng làm y nội. Vua cho mời vị tiên đến xem tướng. Do vậy, vị tiên liền mở tấm vải Chiên để xem thân hình của Thái tử. “Tướng nào cũng rõ ràng”: Tức là nói ba mươi hai tướng hiển bày rõ ràng. “chắc chắn thành thật”: tức là lời vị tiên tâu lên vua. Ý nói rằng tuy Luân vương có ba mươi hai tướng nhưng tướng nào cũng không rõ ràng. Nay do thấy tướng nào của thái tử cũng rõ ràng nên chắc chắn sẽ thành Phật mà không làm Luân Vương. “Buồn không nói thành tiếng”: Tức là vì vị tiên tự than mình già cả, không thấy được ngày Thái tử thành Phật nên rơi nước mắt. Không tiếng mà nước mắt tự rơi gọi là khóc. Nay nói rằng: “Buồn không nói thành tiếng” tức là khóc. “Đó là sinh thân”: Tuy sớ nêu lên rằng “Sinh thân của cha mẹ phải hiểu ý nghĩa của nó”. Nhưng lẽ náo hai thân sau lại hoàn toàn không có cha mẹ? “Nay đặc biệt nói”: Tức là làm sáng tỏ vấn đề Đức Phật của Tạng và Thông trụ ở Thiên Chân. Vì lí của Thiên Chân không có năm ấm khiến cho thân Phật từ chánh tập tạo ra. Nếu cơ duyên hết thì sẽ thành tro tàn đoạn diệt, chìm đắm trong không, không bao giờ thị hiện. Do đó, lấy cha mẹ để làm sáng tỏ sự có sinh của thân, lấy sự kiện căn cơ hết trở về không để làm sáng tỏ sự có diệt của thân. Tuy rằng Thông là huyễn hữu nhưng cũng phải mãi mãi không. Nếu y theo giáo thì sự phân biệt về tướng trạng cũng giống như vậy.
Hai là “Như Thích v.v…” trở xuống là giải thích về tướng tôn đặc. “Vòi vọi”: Tức là cao. “Đường đường”: Tức là rạng rỡ. Sỡ dĩ nói Tôn sùng, kỳ đặc vì đó là thân do căn cơ Biệt và Viên nhìn thấy: “Thân thường hằng, ánh sáng thường hằng”: Tức là thân được thấy bởi phàm phu và Nhị thừa. Song người học nên biết rằng thân tướng cao và rạng rỡ có hai ý, có lúc phải hiện khởi, có lúc không hiện khởi gì cũng đều là do Như Lai quán sát năng lực của cơ tiến không có năng lực trung đạo mà đối với người phải hiện thì vì họ mà hiện. Như kinh Phạm Võng nói: “Mới ngồi đài hoa sen. Phô bày tướng Hoa Nghiêm”, “Thân nhờ Tu-di chiếu xuống biển lớn” do kinh Duy-ma nói “tám vạn tướng quý, thân là Vô biên” của kinh Quán Vô Lượng Thọ.
Các đoạn kinh ấy đều nói về sự hiện khởi của tướng tôn đặc. “Có khi không hiện khởi”: Tức là chỉ dùng năng lực để gia trì khiến cho thấy được tính chất không phần hạn nơi thân hèn kém; tạo ra dáng vòi vọi, sáng láng mà hiểu, dùng không thể suy nghĩ bàn luận mà quán. Điều ấy như sự khen ngợi về ba mươi hai tướng là thân pháp tánh của tôn đặc trong kinh này. Pháp Hoa dùng ba mươi hai tướng để trang nghiêm pháp thân, tướng nào cũng đều ngang với hư không v.v… các cơ duyên này đều dùng nghiệp thức mà thấy, dùng trí của Trung mà quán. Liệt tức là vô biên, sắc tức là Tánh trí. Vì thế, không cần phải hiện khởi mà gọi là tôn đặc. Nếu không như vậy thì ba mươi hai tướng được Long Tôn khen ngợi, sớ nói rằng “dung nhiếp ba chính là khen ngợi tôn đặc” làm sao dung hội được? Đối với vấn đề này, người học nên khéo nắm bắt.
Ba là giải thoát về tướng của pháp tánh: Đây là thân trí tướng thuộc Đệ-nhất-nghĩa đế của chư Phật. Ngay tên gọi mà phàm phu và Nhị thừa còn không thấy thì lẽ nào lại thấy được tướng. Nếu nói về sự chứng đắc cùng cực thì Đẳng giác cũng không đạt đến chỗ cùng cực. Lại nữa, vì Sơ địa không biết được Nhị địa cho nên thần cây buồn khóc rơi nước mắt như mưa thỉnh Phật hiện thân chính là thân này. Đều có tên là chẳng phải Địa dưới nhìn thấy được. “Chỉ nên độ v.v…”: Đó là Đệ-nhất-nghĩa Tất-đàn của Đại Thừa “Cơ ứng hợp với Phật”: Tức là dùng thân này Ứng hiện để cho được thấy. Tức là sớ trước giải thích là “Nghĩa trong nhất thời? Nhất-thiết-chủng-trí và Nhất thời của Trung đế”. “Không có thân v.v…”. Tức là chẳng phải thân sắc chất, có ngăn ngại mà là thân mầu nhiệm; chẳng phải tướng sai biệt là tướng của tịnh trí. Vì Nhất thiết trí là thủ lãnh của muôn ngàn hạnh nên lấy nó làm đầu. Vì Đệ-nhất-nghĩa là vượt hơn trong các pháp nên lấy nó làm Đỉnh kế. Tám vạn trần lao chuyển thành Pháp môn, số nhiều gọi là tóc. Đại bi làm mắt, thấy khổ là nhổ bỏ.
Sợi lông trắng Trung đạo không nghiêng lệnh, không ô nhiễm. Vô lậu là công đức ngửi mùi. Lưỡi mười tám hình thái không nếm khắp mùi vị của Lý. Bất cộng là răng đều có bốn mươi cái. Đại luận dùng mười tám pháp Bất cộng, mười Lực, bốn Vô sở úy, đại Từ, đại Bi và ba Niệm xứ v.v… là bốn mươi; Vì tất cả đều không chung với các Địa dưới. Bốn thệ nguyện rộng lớn là vai mang vác không ngừng. Chỉ và Tán của Tam-muội như eo cột áo. Tam-muội của Viên chỉ là ba quán, không tức là quán pháp của Không, Vô tướng tức là phép quán Giả, vì chẳng được tướng không, Vô nguyện tức là quán Trung, vì hai bên không tạo tác nguyện cầu. Như Lai tạng (là) bụng, vì ngậm chứa ba ngàn trí của quyền và thật (là) tay. Vì nhổ bỏ (cho) tất cả chúng sinh Định tuệ v.v… (là) chân, vì bước trên mảnh đất Lý. Thân thứ ba của nay cùng với sự trình bày ở các chỗ khác chẳng phải là không có đôi chút khác nhau. Như bản sớ kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói: “Nghĩa của thân thuộc sắc tướng tương đương với sinh thân và Tha thọ dụng đồng là Ứng thân”.
Tiếp theo là thân của Pháp môn. Tức nghĩa của đủ loại pháp môn tương đương với Báo thân do sự nêu lên của ngày nay, tức là Tự thọ dụng.
Kế là thân Phật tướng: Tức là dùng Lý được trang nghiêm bởi Pháp môn làm thân thứ ba. Nay thì phối hợp hai thân là Lý và Trí kia mà làm thân pháp tánh, mở bày Ứng thân mà làm sinh thân tôn đặc. Mở mang và phối hợp lẫn nhau nên ba thân không thiếu. Lại nên biết rằng đầu v.v… của thân pháp tánh nay là tướng được Long Tôn khen ngợi. Vì tâm chính là sắc, nên gọi là hai thân trước. Vì sắc tức là tâm nên gọi là Pháp môn. Nhưng nay qua các giáo, đứng trên lập trường phân biệt môn tùy theo cái thấy của căn cơ. Vì trước không thấy sau cho nên sau sau từ thù thắng mà đặt tên. Do đó khiến cho ba thân có tướng hơn và kém. Lại nữa, thân tôn đặc và Pháp tánh đều là cái thấy của nghiệp thức. Vì tướng tôn đặc bao gồm cả sự tu tập của biệt nên y cứ theo tính chất cao và sáng của thân tướng mà chỉ bày. Phật Pháp tánh của nay tức là ở tu mà làm sáng tỏ về tánh. Vì thế, ẩn sắc tướng theo Pháp môn (mà) nói, người giảng, người học nên hiểu rõ.
Kế là “Hai thứ v.v…” trở xuống là giải thích về nghiệp của ba tướng. Đây là theo lúc Như Lai làm thanh tịnh cõi nước Phật, tùy theo cơ duyên kia mà thị hiện sự tu tập không như nhau. Vì vậy mà chia ra làm ba loại:
Một là giải thích về nghiệp của sinh thân: Tuy thông với Thông giáo nhưng nay là ở tạng. Vì Thông giáo là pháp môn của Đại thừa. Vì hạng lợi căn thấy được hai Đức Phật sau. Nay y theo sự tu tập của tạng mà thực hành Độ thuộc về Sự là nhân của tướng tốt. Nói “Tu một trăm phước thành một tướng”: Luận có nhiều cách giải thích nhưng nay chỉ nói một cách. Chúng sinh thuộc Đại thiên gặp duyên lẽ ra phải chết nhưng tất cả đều được cứu sống, đó là một phước. Phước này đến một trăm mới thành một tướng. Đây là chỉ cho sự thành tựu Độ sự của chế phục hoặc. Khiến cho chúng sinh kia mô phỏng theo để tu tập, (nên) nay thấy được Sinh thân.
Hai là “nếu lấy không v.v…” trở xuống là giải thích về nghiệp của tôn đặc. Cho nên nói “Không tuệ” là vì tuệ của thể pháp, tức không là cái mà cả ba thứ giáo cùng tu tập, kẻ độn căn chỉ không hóa được Hữu, hạng lợi căn biết không chẳng những là không hóa cái hữu mà cũng có thể không hóa cả cái không. Nay, phân biệt môn nói về nghiệp tôn đặc, tuy có thể không hóa cả hai nhưng ở Biệt giáo. Tuệ của Đãn Trung hướng dẫn nghiệp của các tướng. Các nghiệp không ra khỏi sáu độ ở trước. Vì biết về Trung nên không trang nghiêm mà trang nghiêm. Tức là có khả năng trang nghiêm thể của Đệ-nhất-nghĩa khiến cho chúng sinh kia bắt chước theo đó mà tu tập, (nên) nay thấy thân tôn đặc không có phần hạn.
Ba là “Nếu dùng Thật v.v…” trở xuống là giải thích về nghiệp của Pháp tánh: “Thật tướng”: Tức là lý Trung đạo. Toàn bộ thật lý của Trung là Tuệ thuộc chủ thể quán sát. Cho nên gọi là tuệ của Thật tướng là vì Thật tướng tức là Tuệ, chứ chẳng phải có một thứ tuệ nào khác. Từ sự chiếu soi của tuệ mà có được tên gọi thật tướng. “Dẫn dắt thành các nghiệp”: lẽ nào các nghiệp lại lìa sáu độ ở trước. Vì tu tập tròn đầy, vì mỗi độ chính là tánh nên tất cả đều là Thật tướng. Vì thâu nhiếp tất cả nên đều là Pháp giới. Vì thế, Tán Chí nói: “An trụ trong tánh như của tất cả các pháp. Đối với tất cả Pháp (mà) ngậm chứa, thọ nhận tất cả Pháp”. Tu như vậy là dứt bặt tình thức của ba giáo, gọi là nghiệp không thể suy nghĩ bàn luận. Vì khiến cho các loại chúng sinh kia bắt chước theo đó mà tu (nên) nay thấy Phật Pháp thân ngang bằng với tướng hư không.
Kế là “Ba thân v.v…” trở xuống là y theo dung nhiếp. Chính là của Viên, có ba:
Một là chính thật dụng nhiếp, Phật thuộc Viên đốn chứng được ba thân, ba tướng. Đồng thời cũng có thể chỉ bày tức khắc thấu suốt về ba tướng của tu tập. Nếu là căn cơ Viên giáo thì sẽ tu tập về nghiệp của ba tướng ở một niệm, có thể ba thân, ba tướng ở trong một thân. Vì hiểu được ba thân là Bí tạng nên sinh thân chắc chắc có đủ tôn đặc và Pháp tánh, tôn đặc chắc chắn có đủ Pháp tánh và sinh thân, Pháp tánh thì có đủ sinh thân và tôn đặc. Thấy thân đã như vậy thì việc tu nghiệp cũng giống như vậy. Được như vậy mới dứt trừ tình tưởng của dọc ngang, một khác. Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, mầu nhiệm và vắng lặng thì ý nghĩa đó mới thành tựu. Kim Long Tôn vương xưa là người tu tập theo Viên giáo nên đốn tu đốn thấy. Toàn triệt của Hành giả thuộc về Viên. Vì thế, ở trong một thân mà khen ngợi tướng của ba thân. Vì muốn làm sáng tỏ ba tướng là Bí tạng nên gửi lời để khen ngợi, sau đólại dứt bặt lời khen ngợi là vì muốn làm cho chúng sinh nhìn thấy và tu tập một cách Tròn đầy.
Hai là “Kinh nay v.v…” trở xuống là nói về sự khéo léo khen ngợi: Từ ngữ khen ngợi của kinh y theo ba mươi hai tướng tức là chỉ bày về sự dứt bặt nói năng. Đó là làm sáng tỏ vấn đề chủ thể trang nghiêm tức là không trang nghiêm mà trang nghiêm, trang nghiêm thể của Đệnhất-nghĩa. Vậy, lẽ nào thân tướng tôn đặc lại không như vậy? Cũng có thể nói rằng chẳng phải chúng sinh, chẳng phải pháp mà là chúng sinh mà là pháp. Trên thì bao gồm Pháp tánh. Dưới thì nhiếp sinh thân; ý của kinh này là ở đó. Đó tức là ý của sự khéo léo khen ngợi của Long Tôn.
Ba là “Mỗi một v.v…” trở xuống là giải thích về diệu dụng: Tuy y theo Viên thì ba tướng, ba nghiệp đều chính là nhau, nhưng do che chở cho chúng sinh mà thành khác nhau, trải qua sự phân biệt của Giáo mà chính là khác với dung nhiếp. Đầu tiên là tướng An bình, Sinh thân thì tiêu biểu, ma tà không lay động được. Ma tức là hoặc của ái, tà tức là hoặc của kiến. Đã trụ ở thiên chân thì hai thứ ma này không lay động được. Nếu là Phật tôn đặc trụ ở cả Tục và Trung thì tức là bốn đế thuộc phạm trù vô lượng. Vì vậy, phàm phu thì Hữu, Nhị thừa thì vô, hai hạng ấy không lay động được. Nếu là Phật Pháp tánh thì chỉ trụ trong Trung đạo nên đương xứ của tà ngoại, ba giáo và tất cả hai bên đều là trung; Có bên nào mà lay động được? Nhục kế của tối hậu gồm cả Vô kiến đảnh. Vì vậy, lấy sự không lễ lạy làm đối tượng được biểu thị. Nói “Pháp không lễ lạy” tức là nói Pháp nhĩ. Vì sinh thân ra khỏi hai thứ tà ái và Kiến nên tự nhiên không lạy người phàm phu. Vì tôn đặc ra khỏi hai thứ trần sa của giới nội và giới ngoại nên tự nhiên không lễ lạy bậc chứng Trung đạo theo từng phần. Đầu tiên và cuối cùng đã vậy. Lẽ tất nhiên, nói về Duy của ba mươi hai tướng của Trung là rất dễ hiểu. Song, vấn đề không lễ lạy đối với phàm và thánh là bao gồm nhân mà nói chứ không chuyên nhất ở quả. Đại sư có đưa ra ý riêng và chú v.v… là chỉ cho các đoạn văn giải thích đầy đủ về tướng quý.