KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT
Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập.
Việt dịch & Chú giảng: Tỳ-kheo Thích Giác Quả.

 

Đây là những điều tôi được nghe: Khi đức Phật ở tại Tinh xá Kỳ thọ Cấp-cô-độc thuộc thành Xá-vệ, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo gồm 1.250 vị. Hôm ấy, đến giờ khất thực của Thế Tôn, Ngài đắp y, mang bát, đi vào thành Xá-vệ khất thực. Ngài theo phép thứ đệ khất thực. Khất thực xong, Ngài trở về Tinh xá thọ trai. Thọ trai xong, Ngài cất y bát, rửa chân và trải tọa cụ tọa thiền.

Lúc ấy, từ chỗ ngồi của mình trong Đại chúng, Trưởng lão Tu-bồ-đề đứng dậy, trịch áo bày vai phải, quỳ chân bên phải xuống, chấp tay cung kính bạch đức Phật rằng: Thế Tôn, Ngài thật là tuyệt diệu! Thế Tôn thường khéo hộ niệm và khéo giao phó sự nghiệp cho các vị Bồ-tát. Bạch Thế Tôn! Những thiện nam và thiện nữ muốn phát tâm Vô thượng Chánh-đẳng Chánh-giác thì nên trú tâm vào đâu? Nên điều phục tâm như thế nào?

– Đức Phật bảo: Hay thay! Đúng thay! Này Tu-bồ-đề, như lời Thầy nói, Như Lai thường khéo hộ niệm và khéo giao phó sự nghiệp cho các vị Bồ-tát. Vậy Thầy hãy lắng nghe cho kỹ, Như Lai sẽ vì Thầy mà trả lời. Những thiện nam, thiện nữ nào phát tâm Vô thượng Chánh-đẳng Chánh-giác thì họ nên trú tâm và điều phục tâm như thế này. Xin vâng, bạch Thế Tôn, chúng con rất vui mừng được nghe lời chỉ dạy.

Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: Các vị Đại Bồ-tát nên điều phục tâm họ như sau: Có tất cả bao nhiêu loại chúng sanh, hoặc từ trứng sanh, hoặc từ thai sanh, hoặc sanh từ chỗ ẩm ướt, hoặc sanh từ biến hoá, hoặc có hình sắc, hoặc không có hình sắc, hoặc có tri giác, hoặc không có tri giác, hoặc chẳng phải có tri giác chẳng phải không có tri giác; họ phải đưa tất cả vào Vô dư Niết-bàn để được giải thoát tuyệt đối. Tuy vậy, dù giải thoát cho vô lượng vô số chúng sanh như thế, nhưng kỳ thật không thấy có một chúng sanh nào được giải thoát cả. Tại sao vậy?

– Này Tu-bồ-đề, bởi lẽ, nếu một vị Bồ-tát mà còn vướng mắc tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ giả thì chẳng phải một vị Bồ-tát đích thực.

Hơn nữa, này Tu-bồ-đề! Các vị Bồ-tát đối với các pháp không nên trú vào bất cứ cái gì để thực hiện Bố thí; nghĩa là không dựa vào sắc để Bố thí, cũng không dựa vào thanh, hương, vị, xúc, pháp để Bố thí.

– Tu-bồ-đề! Bồ-tát nên Bố thí với tinh thần Không trú vào các tướng như thế. Tại sao vậy? Bởi lẽ Bồ-tát Bố thí với tinh thần Không trú vào các tướng thì Phước đức sẽ không thể suy lường được.

– Này Tu-bồ-đề! Thầy nghĩ sao? Không gian ở phương Đông có thể suy lường được không?

– Bạch Thế Tôn, không thể được. Cũng thế, này Tu-bồ-đề! Không gian ở phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn phương bốn góc, phương trên và phương dưới có thể suy lường được không?

– Bạch Thế Tôn, không thể được!

– Này Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát Bố thí mà Không trú vào các tướng thì Phước đức cũng rộng lớn như không gian, không thể suy lường được. Này Tu-bồ-đề! Các vị Bồ-tát nên trú tâm theo lời chỉ dẫn vừa nêu trên (trụ ư Vô sở trụ).

– Này Tu-bồ-đề! Thầy nghĩ sao? Có thể thấy Như Lai qua đặc tướng của Ngài không?

– Bạch Thế Tôn, không thể được! Không thể căn cứ vào đặc tướng mà cho là thấy Như Lai. Vì sao?

– Do vì, cái mà Như Lai nói là đặc tướng vốn không phải đặc tướng.

– Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: “Bất cứ cái nào có tướng thì cái đó hư vọng (giả dối). Vì vậy, nếu thấy đặc tướng chẳng phải đặc tướng tức thấy Như Lai.”

Trưởng lão Tu-bồ-đề bạch đức Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, trong tương lai nếu có ai được nghe kinh Kim Cang này có thể khởi đức tin đúng chân lý không?

– Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: Thầy đừng nói như thế! Sau khi đức Như Lai nhập Niết-bàn, vào thời gian 500 năm sau, sẽ có những người giữ Giới, làm Phước, tu Tuệ; những người đó khi nghe được kinh Kim Cang này sẽ phát khởi đức tin đúng với chân lý. Trưởng lão nên hiểu rằng, những người đó không phải chỉ gieo căn lành ở một đức Phật, hai đức Phật, ba, bốn, năm đức Phật, mà thật sự đã gieo căn lành ở vô lượng ngàn vạn đức Phật. Những người như thế mà được nghe kinh Kim Cang này, dù chỉ một ý niệm thanh tịnh; này Tu- bồ-đề! Như Lai cũng biết rõ, thấy rõ họ và họ có được vô lượng Phước đức. Tại sao vậy? – Vì những người đó không còn vướng mắc những khái niệm về ngã, về nhơn, về chúng sanh, về thọ giả, về pháp và về phi pháp. Vì sao? Vì những người đó nếu còn có ý tưởng ngã tức còn vướng kẹt vào các tướng ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. Nếu còn ý tưởng pháp là còn vướng kẹt các tướng ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. Nếu còn ý tưởng phi pháp vẫn còn vướng kẹt các tướng ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. Vì thế, không nên chấp thủ Pháp, lại càng không nên chấp thủ phi pháp. Vì thật nghĩa đó, nên Như Lai thường dạy các Tỳ-kheo hãy nhận thức rằng: Pháp Như Lai nói tương tự như chiếc bè, Pháp còn phải bỏ huống là phi pháp.

Trưởng lão Tu-bồ-đề! Thầy nghĩ sao? Phải chăng Như Lai có đắc Pháp Vô thượng Chánh-đẳng Chánh- giác? Phải chăng Như Lai có Pháp để tuyên thuyết?

– Tu-bồ-đề bạch Phật: Theo con hiểu lời Thế Tôn dạy, chẳng có Pháp gì riêng biệt gọi là Vô thượng Chánh- đẳng Chánh-giác, và chẳng có một Pháp gì riêng biệt được Thế Tôn tuyên thuyết. Vì sao vậy? – Vì rằng, Pháp được Thế Tôn chỉ dạy thì không thể nắm bắt được, cũng không thể diễn tả được. Đó chẳng phải là Pháp và cũng chẳng phải phi Pháp. Tại sao vậy? -Bởi vì tất cả các bậc Hiền Thánh đều do tu tập Pháp Vô vi ấy mà có (quả) sai khác.

– Trưởng lão Tu-bồ-đề! Thầy nghĩ sao? Nếu có người đem bảy thứ châu báu chất đầy cả thế giới tam thiên đại thiên để Bố thí, người đó có Phước đức nhiều không?

Tu-bồ-đề bạch đức Phật: Bạch đức Thế Tôn, rất nhiều. Vì sao vậy? -Bởi Phước đức đó, tự tánh chẳng phải Phước đức, vì vậy Như Lai mới dạy là Phước đức nhiều.

– Này Trưởng lão, nếu có người thọ trì Kinh này dù chỉ một bài kệ bốn câu, rồi đem thuyết giảng cho người khác nghe, thì Phước đức người này hơn hẳn Phước đức người trên. Vì sao vậy?

– Này Tu-bồ-đề! Tất cả chư Phật và Pháp Vô thượng Chánh-đẳng Chánh- giác của chư Phật đều xuất phát từ Kinh này.

– Này Tu- bồ-đề! Cái gọi là Pháp Phật tức cái đó chẳng phải là Pháp Phật.

– Này Tu-bồ-đề! Thầy nghĩ sao? Vị Tu-đà-hoàn có thể nghĩ rằng, mình chứng quả Tu-đà-hoàn hay không?

– Tu-bồ-đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn, quả thật không. Vì sao vậy? Vì Tu-đà-hoàn có nghĩa là Vào dòng, nhưng thật sự không có ai vào và chỗ để vào; cụ thể không vào dòng sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Do thế, mới gọi là Tu-đà-hoàn.

– Này Tu-bồ-đề! Thầy nghĩ sao? Vị Tư-đà-hàm có thể nghĩ rằng, mình chứng quả Tư-đà-hàm hay không?

– Tu-bồ-đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn, quả thật không! Vì sao vậy? Vì Tư-đà-hàm có nghĩa là Một lần trở lại, nhưng thật sự không có ai trở lại và chỗ để trở lại. Do thế mới gọi là Tư-đà-hàm.

– Này Tu-bồ-đề! Thầy nghĩ sao? Vị A-na-hàm có thể nghĩ rằng, mình chứng quả A-na-hàm hay không?

– Tu-bồ-đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn, quả thật không! Vì sao vậy? Vì A-na-hàm có nghĩa là Không trở lại, nhưng thật sự không có ai không trở lại và chỗ để không trở lại. Do thế, mới gọi là A-na-hàm.

– Này Tu-bồ-đề, Thầy nghĩ sao? Vị A-la-hán có thể nghĩ rằng, mình chứng quả A-la-hán hay không?

– Tu-bồ-đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn, quả thật không! Vì sao vậy?

– Vì Thật sự không có Pháp nào được gọi là A-la-hán cả. Do thế, mới gọi là A-la-hán.

– Bạch Thế Tôn! Nếu vị A-la-hán nào khởi niệm rằng, mình chứng quả A-la-hán thì vị đó còn chấp vào tướng ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả.

– Bạch Thế Tôn! Thế Tôn thường dạy rằng trong những người chứng Tam-muội Vô tránh (Định không tranh cãi), con là người đứng đầu, con là vị A-la-hán ly dục bậc nhất.

– Bạch Thế Tôn! Dù vậy, con không nghĩ mình là vị A-la-hán ly dục bậc nhất.

– Bạch Thế Tôn! Nếu con nghĩ mình chứng quả A-la-hán thì Thế Tôn đã không nói rằng Tu-bồ-đề là người thích thú hạnh A-lan-na (Vô tránh Tam-muội). Vì con thật sự không tạo nghiệp gì cả nên Thế Tôn mới nói Tu-bồ-đề thích thú hạnh A-lan-na.

Đức Phật hỏi Trưởng lão Tu-bồ-đề: Thầy nghĩ sao? Xưa kia khi tu học với đức Phật Nhiên Đăng, Như Lai có chứng Pháp gì phải không?

– Bạch Thế Tôn, quả thật không. Khi tu học với đức Phật Nhiên Đăng, Như Lai không chứng đắc Pháp gì cả.

– Này Tu-bồ-đề! Thầy nghĩ sao? Các vị Bồ-tát có trang nghiêm cõi Phật hay không?

– Bạch Thế Tôn, quả thật không. Vì sao vậy? Vì trang nghiêm cõi Phật tức chẳng phải trang nghiêm cõi Phật, nên mới gọi là trang nghiêm cõi Phật.

– Do thế, này Tu-bồ-đề! Các vị Đại Bồ-tát nên khởi tâm thanh tịnh như thế này: Không dựa vào sắc để khởi tâm, cũng không dựa vào thanh, hương, vị, xúc hay pháp để khởi tâm, chỉ nên không dựa vào chỗ nào cả để khởi tâm.

– Này Tu-bồ-đề! Giả sử có người thân thể to lớn như núi chúa Tu-di, Thầy nghĩ sao? Thân ấy lớn không?

– Tu-bồ-đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn, thật rất lớn! – Tại sao vậy? Vì cái mà Thế Tôn gọi là Thân lớn chẳng phải Thân lớn, nên mới gọi là Thân lớn đích thực.

– Này Trưởng lão Tu-bồ-đề! Giả sử sông Hằng có bao nhiêu hạt cát là có bấy nhiêu sông Hằng; vậy Thầy nghĩ sao, số cát trong tất cả sông Hằng ấy có nhiều hay không?

– Tu-bồ-đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn, quả rất nhiều. Sự thật, số lượng những sông Hằng đã là vô số, huống chi số lượng hạt cát trong những sông Hằng ấy.

– Này Tu-bồ-đề! Bây giờ Như Lai hỏi thật Thầy, nếu có thiện nam hay thiện nữ nào đem bảy thứ châu báu đầy cả thế giới tam thiên đại thiên, nhiều như số cát của tất cả các sông Hằng trên mà Bố thí, thì được Phước đức nhiều không?

– Tu-bồ-đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn, quả rất nhiều.

Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: Nếu có thiện nam hay thiện nữ nào thọ trì Kinh này dù chỉ một bài kệ bốn câu và đem thuyết giảng cho người khác, thì Phước đức của người này hơn hẳn Phước đức của người trên.

Này nữa, Tu-bồ-đề! Bất cứ nơi nào thuyết giảng Kinh này dù chỉ một bài kệ bốn câu, thì phải hiểu rằng tại chỗ ấy, tất cả hàng Trời, Người, A-tu-la trong thế giới, đều nên hiến cúng như hiến cúng chùa tháp đức Phật, huống gì là người nhiệt thành thọ trì, độc tụng.

Này Tu-bồ-đề! Thầy nên biết rằng người ấy đã thành tựu được cái Pháp tối thượng, hy hữu bậc nhất; và, nơi nào có Kinh này thì nơi đó có mặt đức Phật hay các vị Đại đệ tử của Ngài.

Bấy giờ Tu-bồ-đề bạch đức Phật: Bạch Thế Tôn! Nên gọi Kinh này tên gì và chúng con thọ trì Kinh này như thế nào? Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: Kinh này tên là Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật các Thầy hãy căn cứ vào danh hiệu đó mà phụng trì. Vì sao vậy, Tu-bồ-đề? Cái mà Như Lai nói là Bát-nhã Ba-la-mật vốn không phải Bát-nhã Ba-la-mật, cho nên mới nói là Bát-nhã Ba-la- mật.

– Này Tu-bồ-đề! Thầy nghĩ thế nào, có cái Pháp để Như Lai thuyết giảng phải không?

– Tu-bồ-đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Không có Pháp nào để Như Lai thuyết giảng cả.

Này Tu-bồ-đề! Thầy nghĩ thế nào, số lượng vi trần trong thế giới tam thiên đại thiên có nhiều không?

– Tu-bồ-đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Quả rất nhiều.

– Này Tu-bồ-đề! Tất cả các vi trần ấy, Như Lai nói không phải vi trần, cho nên mới nói là vi trần. Và, cái mà Như Lai nói thế giới, vốn không phải thế giới, cho nên mới nói là thế giới.

– Này Tu-bồ-đề! Thầy nghĩ thế nào, có thể thấy Như Lai qua ba mươi hai tướng quý của Ngài không?

– Bạch Thế Tôn, quả thật không! Không thể thấy Như Lai qua ba mươi hai tướng quý ấy. Vì sao vậy?

–Vì Như Lai nói ba mươi hai tướng quý, vốn chúng không phải tướng quý, cho nên mới nói là ba mươi hai tướng quý.

– Này Tu-bồ-đề! Nếu có thiện nam hay thiện nữ nào đem thân mạng mình nhiều như số cát sông Hằng để Bố thí; và, có người khác thọ trì Kinh này chỉ một bài kệ bốn câu và thuyết giảng cho tha nhân, thì Phước đức người này rất lớn so với người trên.

Đến đây, khi nghe đức Phật thuyết giảng kinh Kim Cang này, Tu-bồ-đề thấu hiểu nghĩa-lý sâu xa, cảm động rơi lệ, khóc lóc mà bạch đức Phật rằng: Bạch Thế Tôn, Ngài thật tuyệt diệu! Ngài đã tuyên thuyết kinh Kim Cang này thật thâm diệu. Từ khi chứng được Tuệ nhãn đến nay, con chưa lần nào được nghe một Kinh thâm diệu như thế này. Bạch Thế Tôn! Nếu ai được nghe kinh Kim Cang này mà tin tưởng tuyệt đối thì thành tựu cái thấy thật tướng (Tuệ giác chân thật), phải biết người đó có được công đức hy hữu bậc nhất. Bạch Thế Tôn! Cái thấy thật tướng đó vốn không phải cái thấy thật tướng, nên Như Lai mới nói là cái thấy thật tướng.

Bạch Thế Tôn! Hôm nay con được nghe kinh Kim Cang thâm diệu này, tin hiểu, thọ trì chưa gọi là khó lắm; nhưng trong tương lai, vào thời kỳ 500 năm sau, người nào được nghe kinh Kim Cang này, tin hiểu, thọ trì mới là hi hữu bậc nhất. Vì sao vậy? – Bởi vì người đó không còn ý tưởng về ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. Tại sao như vậy? Vì ý tưởng về ngã chẳng phải là ý tưởng, và ý tưởng về nhơn, chúng sanh và thọ giả cũng chẳng phải ý tưởng. Vì sao vậy? Vì lìa tất cả mọi ý tưởng thì gọi là chư Phật.

Phật bảo Tu-bồ-đề: Thật đúng như thế! Nếu có người nghe được kinh Kim Cang này mà không kinh ngạc, không lo sợ thì biết người đó rất hiếm có. Tại sao vậy?

– Này Tu-bồ-đề! Cái mà Như Lai nói là Bát-nhã Ba-la-mật vốn chẳng phải Bát-nhã Ba-la-mật, nên mới nói là Bát- nhã Ba-la-mật.

– Này Tu-bồ-đề! Cái được gọi là Nhẫn nhục Ba-la-mật, Như Lai nói chẳng phải Nhẫn nhục Ba-la-mật, nên mới nói là Nhẫn nhục Ba- la-mật. Tại sao vậy?

– Này Tu-bồ-đề! Như kiếp xa xưa, khi bị vua Ca-lợi (Kalinga) chặt đứt thân thể, bấy giờ Như Lai không còn ý tưởng về ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. Vì sao vậy? Vì nếu khi đó Như Lai còn có ý tưởng về ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả thì đã khởi tâm oán hận vua ấy.

– Này Tu-bồ-đề! Như Lai nhớ năm trăm đời thời quá khứ, khi đang tu Tiên theo hạnh Nhẫn nhục, bấy giờ Như Lai không còn ý tưởng về ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. Vì vậy, này Tu-bồ- đề! Các vị Bồ-tát nên lìa tất cả mọi ý tưởng mà phát tâm Vô thượng Bồ-đề; tức không dựa vào sắc để khởi tâm, cũng không dựa vào thanh, hương, vị, xúc hay pháp để khởi tâm; chỉ nên không dựa vào bất cứ cái gì để khởi tâm; nếu tâm ở đâu thì chính là phi trụ, vì thế Như Lai bảo tâm Bồ-tát thì không trụ vào sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp mà Bố thí (Lục độ).

– Này Tu- bồ-đề! Bồ-tát thì vì lợi ích cho tất cả chúng sanh mà thực hiện Bố thí như thế. Bởi lẽ Như Lai đã nói, tất cả ý tưởng đều không phải là ý tưởng và tất cả chúng sanh đều không phải là chúng sanh.

– Này Tu-bồ-đề! Như Lai là người nói lời Chân xác, nói lời Thật tế, nói lời Như thật, nói lời Không lừa đảo, nói lời Không mâu thuẫn.

– Này Tu-bồ-đề! Pháp mà Như Lai chứng đắc, cái Pháp ấy không phải chắc thật cũng không phải hư vô. Này Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát mà còn dựa vào các pháp để thực hiện Bố thí, thì cũng như người đi vào bóng tối chẳng thấy được cái gì; trái lại, nếu Bồ-tát không dựa vào các pháp để thực hiện Bố thí, thì như người có đôi mắt sáng lại có ánh sáng mặt trời soi chiếu, nên thấy rõ mọi thứ.

– Này Tu-bồ-đề! Trong tương lai, nếu có thiện nam hay thiện nữ nào thọ trì, độc tụng kinh Kim Cang này thì sẽ được Như Lai với mắt Trí tuệ biết rõ người ấy, thấy rõ người ấy và những người ấy sẽ đạt được vô lượng vô biên công đức.

Trưởng lão Tu-bồ-đề! Nếu có thiện nam hay thiện nữ nào, buổi sáng đem thân mạng mình nhiều như cát sông Hằng để Bố thí, buổi trưa lại đem thân mạng nhiều như thế để Bố thí; và buổi chiều cũng đem thân mạng nhiều như thế để Bố thí nữa. Sự Bố thí như thế trải qua vô lượng trăm ngàn ức kiếp; đồng thời, có người khác khi nghe kinh Kim Cang này đem lòng tin tưởng, không phản kháng thì Phước đức người này nhiều hơn Phước đức người trên. Đó là chưa nói đến Phước đức của sự sao chép, ấn hành, thọ trì, độc tụng hay thuyết giảng cho người khác.

– Này Tu-bồ-đề! Tóm tắt để nói, kinh Kim Cang này có vô biên công đức không thể suy diễn hay ước lượng được. Như Lai nói vì những người tu theo giáo pháp Đại thừa, vì những người tu theo giáo pháp Đại thừa Tối thượng. Nếu người nào có khả năng thọ trì, độc tụng hay phổ biến cho người khác hiểu, thì Như Lai biết rõ, thấy rõ người ấy; và người ấy đạt được Phước đức không thể ước lượng, không thể so sánh, không có giới hạn và không thể suy diễn được. Những người như thế có thể gánh vác sự nghiệp Vô thượng Bồ-đề của Như Lai. Tại sao vậy?

– Này Tu-bồ-đề! Bởi vì, nếu ai ưa thích pháp nhỏ (Tiểu thừa), tức còn vướng mắc ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả, nên với Kinh này họ không có khả năng lắng nghe, tiếp thu độc tụng và nói cho người khác.

– Này Tu-bồ-đề! Bất cứ nơi nào mà có bản kinh Kim Cang này thì tất cả hàng Trời, Người, A-tu-la trong thế giới đều nên cúng dường; nên biết chỗ ấy chính là tháp Phật, cần được tôn kính, đảnh lễ, đi nhiễu và tung rải các loại hoa hương để cúng dường.

Này nữa, Tu-bồ-đề! Bất cứ thiện nam hay thiện nữ nào thọ trì, độc tụng kinh Kim Cang này, nếu bị người khác khinh chê thì những tội ác đời trước của người ấy đáng phải đọa vào đường dữ, nhưng nhờ hiện tại bị người khinh chê, nên những tội ấy được tiêu diệt hết và sẽ được quả vị Vô thượng Chánh-đẳng Chánh- giác.

– Này Tu-bồ-đề! Như Lai nhớ lại vô lượng vô số kiếp về trước, trước khi gặp đức Phật Nhiên Đăng, Như Lai đã từng gặp tám trăm bốn ngàn vạn ức vô số chư Phật. Đối với vị nào Như Lai cũng cúng dường hầu hạ chẳng hề thiếu sót. Nhưng vào thời mạt pháp sau này, nếu có người nào có khả năng thọ trì, độc tụng kinh Kim Cang này, công đức của người đó lớn hơn hàng trăm hàng ngàn vạn ức lần công đức của Như Lai đã phụng sự chư Phật; cho dù dùng toán học hay ví dụ cũng không thể diễn tả trọn được.

– Này Tu-bồ-đề! Vào thời mạt pháp sau này, nếu có người nào có khả năng thọ trì, độc tụng kinh Kim Cang này, công đức của họ nếu Như Lai nói đủ, ắt sẽ có người nổi khùng hay nghi ngờ không tin.

– Này Tu-bồ-đề! Phải nhận thức rằng, nghĩa-lý kinh Kim Cang này không thể suy diễn cho hết, kết quả thọ trì kinh Kim Cang này cũng như thế, không thể nói nghĩ cho cùng.

Lúc bấy giờ, Trưởng lão Tu-bồ-đề bạch đức Phật: Bạch Thế Tôn! Những thiện nam hay thiện nữ muốn phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì nên trú tâm vào đâu? Nên điều phục tâm như thế nào?

– Đức Phật bảo Tu- bồ-đề: Những thiện nam hay thiện nữ nào muốn phát tâm Vô thượng Bồ-đề thì nên phát tâm như thế này: Ta phải đưa tất cả chúng sanh vào Niết-bàn, nhưng khi tất cả chúng sanh đã vào Niết-bàn vẫn không thấy có một chúng sanh nào đạt Niết-bàn cả. Tại sao vậy?

– Này Tu-bồ-đề! Vì một vị Bồ-tát mà còn ý tưởng về ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả, thì không phải một vị Bồ-tát đích thực. Tại sao vậy? Tu-bồ-đề: Bởi vì thật sự không có một Pháp gì được gọi là phát tâm Vô thượng Bồ-đề cả.

– Thầy nghĩ sao! Tu-bồ-đề? Khi xưa, tu với đức Phật Nhiên Đăng, Như Lai có đắc cái Pháp gọi là Vô thượng Bồ-đề phải không?

– Bạch Thế Tôn, quả thật không! Theo con hiểu lời Thế Tôn dạy, khi Ngài tu với đức Phật Nhiên Đăng, không có Pháp gì gọi là chứng đắc Vô thượng Bồ-đề.

Đức Phật bảo: Đúng thế, này Tu-bồ-đề! Thật sự không có Pháp gì Như Lai chứng đắc Vô thượng Bồ- đề. Nếu như có Pháp gì gọi là Như Lai chứng đắc Vô thượng Bồ-đề thì đức Phật Nhiên Đăng đã không thọ ký cho Như Lai rằng: “Sau này Ông sẽ thành Phật hiệu Thích-ca Mâu-ni”. Chính vì không có Pháp gì gọi là chứng đắc Vô thượng Bồ-đề; vì thế, đức Phật Nhiên Đăng mới thọ ký cho Như Lai rằng: “Sau này Ông sẽ thành Phật hiệu Thích-ca Mâu-ni”.

Vì sao vậy? – Vì Như Lai đích nghĩa là Chân như của các pháp. Nếu có ai nói Như Lai đắc Pháp Vô thượng Bồ-đề thì người đó lầm. Bởi vì, này Tu-bồ-đề! Thật không có Pháp gì gọi là Như Lai chứng đắc Vô thượng Bồ-đề. Tu-bồ-đề! Như Lai đắc Vô thượng Bồ-đề, sự chứng đắc ấy không phải là thật có (thật), không phải là rỗng không (hư). Chính ý nghĩa này nên Như Lai tuyên bố rằng: Tất cả pháp đều là Phật Pháp. Tu-bồ-đề! Cái được gọi tất cả Pháp thật sự không phải tất cả pháp, nên mới được gọi là tất cả Pháp. Trưởng lão Tu-bồ-đề! Giả như có người thân thể Cao lớn…; Tu-bồ-đề liền thưa: Bạch Thế Tôn, Như Lai nói thân thể Cao lớn chẳng phải thân thể Cao lớn, nên mới nói là thân thể Cao lớn.

– Tu-bồ-đề! Bồ-tát thì phải như vậy. Bồ-tát mà nói, Ta phải làm cho vô lượng chúng sanh chứng đắc Niết-bàn, thì không phải là một vị Bồ-tát. Tại sao như vậy? Này Tu-bồ-đề! Vì sự thật không có cái Pháp gọi là Bồ-tát. Chính vì thế, nên Như Lai nói tất cả pháp là Vô ngã, vô nhơn, vô chúng sanh vô thọ giả.

– Này Tu- bồ-đề! Nếu Bồ-tát nói rằng: Ta phải trang nghiêm cõi Phật thì không phải là một vị Bồ-tát. Vì sao vậy? Vì Như Lai nói trang nghiêm cõi Phật, chẳng phải trang nghiêm, nên mới nói là trang nghiêm. Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát thấu triệt về sự Vô ngã như thế, Như Lai mới nói vị ấy là một Bồ-tát đích thực.

Trưởng lão Tu-bồ-đề, Thầy nghĩ thế nào? Như Lai có mắt thịt phải không?

– Bạch Thế Tôn, đúng vậy! Như Lai có mắt thịt (Nhục nhãn).

Tu-bồ-đề, Thầy nghĩ thế nào? Như Lai có mắt trời phải không?

– Bạch Thế Tôn, đúng vậy! Như Lai có mắt trời (Thiên nhãn).

Tu-bồ-đề, Thầy nghĩ sao? Như Lai có mắt tuệ phải không?

– Bạch Thế Tôn, đúng vậy! Như Lai có mắt tuệ (Tuệ nhãn).

Tu-bồ-đề, Thầy nghĩ sao? Như Lai có mắt pháp phải không?

– Bạch Thế Tôn, đúng vậy! Như Lai có mắt pháp (Pháp nhãn).

Tu-bồ-đề, Thầy nghĩ thế nào? Như Lai có mắt Phật phải không?

– Bạch Thế Tôn, đúng thế! Như Lai có mắt Phật (Phật nhãn).

Tu-bồ-đề, Thầy nghĩ thế nào? Cát trong sông Hằng, Như Lai cũng nói là cát phải không?

– Bạch Thế Tôn, đúng vậy! Như Lai nói là cát.

Tu-bồ-đề, Thầy nghĩ thế nào? Giả sử có bao nhiêu cát trong sông Hằng thì có bấy nhiêu sông Hằng, vậy cõi Phật bằng số cát của tất cả những sông Hằng ấy có nhiều hay không?

– Bạch Thế Tôn, quả rất nhiều!

Đức Phật bảo Tu-bồ-đề: Có bao nhiêu tâm tưởng của tất cả chúng sanh trong các cõi Phật nói trên, Như Lai đều biết rõ. Tại sao như vậy? Vì Như Lai nói tất cả tâm tưởng ấy không phải tâm tưởng, thế nên Như Lai nói là tâm tưởng. Vì sao vậy?

– Này Tu-bồ-đề! Bởi vì tâm tưởng quá khứ không thể nắm bắt được, tâm tưởng hiện tại không thể nắm bắt được và tâm tưởng vị lai cũng không thể nắm bắt được.

– Trưởng lão Tu-bồ-đề, Thầy nghĩ thế nào? Giả sử có người đem bảy thứ châu báu chất đầy thế giới tam thiên đại thiên này để Bố thí, do Nhân duyên này, người đó có Phước đức nhiều không?

– Bạch Thế Tôn, đúng vậy; do Nhân duyên này người đó được Phước đức rất nhiều.

– Này Tu-bồ-đề! Nếu Phước đức đó có thật thì Như Lai sẽ không nói được Phước đức nhiều, do vì Phước đức ấy vốn không phải Phước đức, nên Như Lai mới nói được Phước đức nhiều.

– Ý kiến:

– Đến đây, đức Phật lại khuyến khích thính chúng hãy dấn thân thực hiện Lục độ với tinh thần mà Ngài đã dạy (Vô trụ, Vô tướng) thì Thật tại như thật sẽ hiển lộ.

– Phước đức nhiều là ý nghĩa Phước đức vô hạn lượng. Nếu Phước đức có thật (hữu ngã) thì có hạn lượng, không thể gọi là nhiều. Chính vì Phước đức không thật có (Vô ngã), nên đức Phật mới gọi Phước đức nhiều là vậy.

Như thế, nếu tác tâm hữu ngã trên Lục độ thì sẽ rơi vào Nhân quả hữu lậu, rơi vào sanh tử. Trái lại, nếu tác tâm Vô ngã thì Lục độ sẽ là Lục Ba-la-mật và Phước đức sẽ là vô lượng vô biên. Đây chính là Phước đức của sự giải thoát, Phước đức của quả vị Phật hay Phước đức của một đức Phật.

Trưởng lão Tu-bồ-đề, Thầy nghĩ thế nào? Có thể thấy Như Lai căn cứ vào sự thành tựu sắc thân của Ngài không?

– Bạch Thế Tôn, quả thật không! Không thể thấy Như Lai qua sự thành tựu sắc thân của Ngài. Tại sao vậy? Vì rằng, Như Lai nói thành tựu sắc thân vốn không phải thành tựu sắc thân; chính thế, Ngài mới nói là thành tựu sắc thân.

Tu-bồ-đề! Thầy nghĩ thế nào? Có thể thấy Như Lai căn cứ vào các đặc tướng của Ngài?

– Bạch Thế Tôn, quả thật không! Không thể thấy Như Lai qua tất cả các đặc tướng của Ngài. Tại sao vậy? Bởi vì, Như Lai nói tất cả các đặc tướng vốn không phải tất cả các đặc tướng; chính thế, Ngài mới nói là tất cả các đặc tướng.

Trưởng lão Tu-bồ-đề! Thầy đừng nói rằng, Như Lai có ý nghĩ mình thuyết Pháp. Không nên nói như thế. Tại sao vậy? Vì nói Như Lai có sự thuyết Pháp chính là phỉ báng Như Lai; và, không lãnh hội được ý nghĩa mà Như Lai đã tuyên thuyết. Tu-bồ-đề! Gọi là thuyết Pháp nhưng thật không có một Pháp gì để thuyết, nên mới gọi là thuyết Pháp.

Bấy giờ, Tu-bồ-đề, vị lấy Tuệ giác làm sanh mạng (Tuệ mạng) bạch đức Phật: Bạch Thế Tôn! Trong tương lai nếu người nào nghe được kinh Kim Cang này có khởi tâm tin tưởng không?

Đức Phật bảo: Tu-bồ-đề! Những người đó chẳng phải chúng sanh và chẳng phải không chúng sanh. Tại sao vậy? Này Tu-bồ-đề! Vì cái được gọi là chúng sanh, Như Lai nói chẳng phải chúng sanh nên mới được gọi là chúng sanh vậy.

Trưởng lão Tu-bồ-đề bạch Phật: -Bạch Thế Tôn, Như Lai chứng đắc Vô thượng Bồ-đề, thật sự không có gì để chứng đắc phải không? Đức Phật dạy: Đúng, đúng như thế! Này Tu-bồ-đề, đối với Vô thượng Bồ-đề Như Lai không có chứng đắc chút gì cả, vì thế mới gọi là Vô thượng Bồ-đề.

III. Ý kiến:

– Tiếp thu các lời dạy của đức Phật ở các đoạn trước, đến đây thính chúng lại suy tư: Phải chăng đức Phật chứng đắc quả vị Vô thượng Bồ-đề là không có gì để chứng đắc? Đức Phật khẳng định rằng, trong sự chứng đắc ấy hoàn toàn bặt dứt mọi ý tưởng chấp thủ tướng ngã.

Với lời dạy này, những ai căn cơ tinh tế thì sẽ rời khỏi những ý tưởng luẩn quẩn bởi chấp ngã về Như Lai, về Phật Pháp…

Hơn nữa, Tu-bồ-đề! Pháp đó là bình đẳng không có sai khác, nên gọi là Vô thượng Bồ-đề. Do không chấp ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả khi thực hành các pháp lành, nên chứng Vô thượng Bồ-đề. Tu-bồ- đề! Cái gọi là pháp lành, Như Lai nói chẳng phải pháp lành, vì thế nên mới nói là pháp lành.

Trưởng lão Tu-bồ-đề! Giả sử có người đem bảy thứ châu báu chồng chất bằng tất cả núi chúa Tu-di trong cõi đại thiên để Bố thí, và có người khác thọ trì, độc tụng, giảng thuyết cho người khác về kinh Bát-nhã Ba-la-mật này, dù chỉ một bài kệ bốn câu, thì Phước đức của người trước không bằng một phần trăm, một phần ngàn vạn ức Phước đức của người này, dù dùng pháp toán để thí dụ thì cũng không bằng một phần nào cả.

Trưởng lão Tu-bồ-đề, Thầy nghĩ thế nào? Các Thầy đừng nói Như Lai nghĩ rằng, Như Lai cứu độ chúng sanh. Tu-bồ-đề, Thầy đừng nghĩ như thế! Tại sao vậy?

Vì thật sự không có một chúng sanh nào Như Lai cứu độ cả. Nếu có chúng sanh Như Lai cứu độ, thế là Như Lai còn ý tưởng ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. Tu- bồ-đề! Ý tưởng ngã, Như Lai nói chẳng phải ý tưởng ngã, nhưng kẻ phàm phu thì bảo là ngã. Tu-bồ-đề! Cái gọi là phàm phu, Như Lai nói chẳng phải phàm phu, vì thế mới gọi là phàm phu.

Trưởng lão Tu-bồ-đề, Thầy nghĩ thế nào? Phải chăng thấy Như Lai qua ba mươi hai tướng quý của Ngài? Tu-bồ-đề thưa: Đúng vậy, quả đúng như vậy! Nhìn thấy Như Lai qua ba mươi hai tướng quý của Ngài. Đức Phật bảo: Này Tu-bồ-đề! Nếu thấy Như Lai qua ba mươi hai tướng quý của Ngài thì Chuyển luân Thánh vương là Như Lai sao? – Tu-bồ-đề bạch đức

Phật: Bạch Thế Tôn, theo con hiểu ý nghĩa Thế Tôn đã dạy, thì không thể thấy Như Lai qua ba mươi hai tướng quý của Ngài.

Đến đây, Thế Tôn nói kệ:

Nếu nhìn Như Lai qua sắc thân,
Nhận thức Như Lai qua âm thanh,
Là nhận thức tà kiến,
Không thể thấy Như Lai.

Trưởng lão Tu-bồ-đề! Nếu Thầy nghĩ rằng Như Lai không do các đặc tướng sắc thân mà chứng đắc Vô thượng Bồ-đề. Tu-bồ-đề! Thầy đừng nghĩ như thế! Rằng Như Lai không do các đặc tướng sắc thân mà chứng đắc Vô thượng Bồ-đề. – Tu-bồ-đề! Nếu Thầy nghĩ rằng những người phát tâm Vô thượng Bồ-đề nói rằng các pháp đều tiêu diệt hẳn; đừng nghĩ như thế!

Tại sao vậy? Bởi vì những người phát tâm Vô thượng Bồ-đề đối với các pháp không tuyên bố là đoạn diệt.

Trưởng lão Tu-bồ-đề! Giả sử có vị Bồ-tát đem bảy thứ châu báu chất đầy thế giới như cát sông Hằng để Bố thí. Lại có Bồ-tát khác biết tất cả pháp là Vô ngã, được thành tựu đức Nhẫn, thì công đức vị Bồ-tát này hơn hẳn vị Bồ-tát trước. Vì sao vậy? Này Tu-bồ-đề! Vì các Bồ-tát thì không thọ nhận Phước đức. Tu-bồ-đề bạch Phật: Vì sao Bồ-tát không thọ nhận Phước đức? – Này Tu-bồ-đề! Vì Bồ-tát làm mọi Phước đức nhưng không tham trước, do thế mà Như Lai nói là không thọ nhận Phước đức.

Trưởng lão Tu-bồ-đề! Nếu ai nói rằng Như Lai có đến, có đi, có ngồi và có nằm thì người đó không hiểu ý nghĩa Như Lai đã dạy. Tại sao vậy? Bởi vì, Như Lai vốn không đến từ đâu và cũng không đi về đâu. Do thế, mới gọi là Như Lai.

Trưởng lão Tu-bồ-đề! Nếu có ai nghiền thế giới tam thiên đại thiên này thành vi trần, Thầy nghĩ thế nào, những vi trần ấy nhiều hay ít? Tu-bồ-đề thưa: Bạch Thế Tôn, quả rất nhiều. Tại sao vậy?

– Bởi vì, những vi trần ấy nếu thật có, Ngài đã không nói là những vi trần. Tại sao như thế?

– Bởi vì, những vi trần Ngài nói chẳng phải những vi trần, nên mới nói là những vi trần. Bạch Thế Tôn! Thế giới tam thiên đại thiên mà Ngài nói, tức chẳng phải thế giới, nên mới nói là thế giới. Tại sao vậy? Vì nếu thế giới thật có, đó chỉ là cái tướng hợp nhất. Như Lai nói tướng hợp nhất không phải tướng hợp nhất, nên mới nói là tướng hợp nhất.

– Này Tu-bồ-đề! Tướng hợp nhất thì không là gì cả để nói, chỉ có kẻ phàm phu mới đắm chấp sự kiện ấy.

Trưởng lão Tu-bồ-đề! Nếu có ai nói rằng Như Lai đề cập đến cái thấy ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả; này Tu-bồ-đề, Thầy nghĩ thế nào, người đó có hiểu ý nghĩa đã được Như Lai nói không?

– Bạch Thế Tôn, quả thật không. Người đó không hiểu ý nghĩa mà Như Lai đã nói. Tại sao vậy? Vì rằng Như Lai nói cái thấy ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả, tức chẳng phải cái thấy ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả, nên mới gọi là cái thấy ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. Trưởng lão Tu-bồ-đề! Những người phát tâm Vô thượng Bồ-đề đối với các pháp cần biết như vậy, cần thấy như vậy, cần tin tưởng và lãnh hội như vậy, không nên trú nơi ý tưởng pháp. Cái gọi là ý tưởng pháp, Như Lai nói chẳng phải ý tưởng pháp, vì thế mới gọi là ý tưởng pháp.

Trưởng lão Tu-bồ-đề! Giả sử có người đem bảy thứ châu báu chất đầy vô lượng vô số thế giới để Bố thí; lại có người khác phát tâm Bồ-đề đối với kinh Kim Cang này mà thọ trì, độc tụng hay giảng thuyết cho người khác, dù chỉ một bài kệ bốn câu, thì Phước đức người này hơn hẳn người trước. Giảng thuyết cho người khác bằng cách nào?

– Bằng cách không nắm bắt ý tưởng Pháp, như như chẳng dao động. Tại sao vậy? Bởi vì:

Tất cả pháp hữu vi:

Như chiêm bao, huyễn thuật,
Như bọt nước, ảnh tượng,
Như sương mai, điện chớp,
Cần được nhìn như thế.

Khi đức Phật giảng xong kinh Kim Cang Bát- nhã này, Trưởng lão Tu-bồ-đề, các vị Tỳ-kheo, Tỳ- kheo-ni, các vị Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di và tất cả Trời, Người, A-tu-la trong thế giới, được nghe những điều đức Phật tuyên thuyết, ai cũng hoan hỷ tin nhận và phụng hành.

Kinh Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật.