KINH BỒ-TÁT TRÌ NHÂN
Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ, người nước Nguyệt Chi
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 4

Phẩm 9: THẾ GIAN VÀ XUẤT THẾ GIAN

Đức Phật nói:

–Này Bồ-tát Trì Nhân! Bồ-tát làm thế nào để hiểu rõ những điều cốt lõi của pháp thế gian và xuất thế gian? Thế nào là thế gian và xuất thế gian? Đó là, Bồ-tát thường phải tư duy thuận hợp về thế gian và xuất thế gian. Thế nào là tư duy thuận hợp? Thế nào là pháp thế gian và pháp xuất thế gian? Nếu chấp vào pháp điên đảo thì đều từ tưởng mà có, do nhân duyên sinh khởi, hư vọng hòa hợp, có hai nhân duyên để kiến lập cũng từ hai loại tưởng mà sinh khởi: Một là từ hư vọng, hai là từ vô sinh. Từ ngôn ngữ hư dối và pháp mê hoặc thì có được tướng tăm tối, giống như trẻ thơ cầm vô số vật vẽ vào hư không. Phàm phu luôn ở trong thế gian, tưởng là có thế gian, xét thế gian ấy đều tan rã, thay đổi, hoại diệt, nhờ thấy tất cả các pháp thế gian đều từ hư vọng mà thành, nhân ấy không tạo tác, vốn chẳng sinh ra, các ấm và các nhập đều từ duyên mà khởi; sắc, thanh, hương, vị và xúc cũng là pháp do duyên mà có. Phàm phu thiếu trí tuệ tâm luôn duyên dựa nên không nói sắc do duyên tạo ra, sở dĩ thấy như vậy là do có vô số kiến chấp, lai có sự nương tựa, vướng mắc. Nếu xả bỏ hết những chủng tánh ấy thì khiến thế gian thấy được chỗ điên đảo. Do thấy được sự tồn tại của pháp thế gian và xuất thế gian như vậy nên biết chân lý của pháp thế gian, đạt đến cội nguồn thanh tịnh, đó là pháp xuất thế. Bậc trí không mong cầu pháp thế gian, thông đạt chúng là không thể nắm bắt, đối với pháp xuất thế gian cũng vậy. Nếu không thể hiểu rõ pháp thế gian và xuất thế gian thì không thể biết được hạnh nghiệp thế gian và xuất thế gian, không thông suốt được thế gian và xuất thế gian vốn thanh tịnh. Thế nào là thông suốt hạnh nghiệp xuất thế gian? Nếu thế gian vốn thanh tịnh thì xuất thế gian cũng vậy. Vì sao? Vì vĩnh viễn không thể nắm bắt. Pháp thế gian vốn thanh tịnh, thảy đều rỗng lặng, pháp xuất thế gian cũng vậy, vốn là tự nhiên; thế gian vốn tịch tĩnh vì thật tướng của thế gian luôn thành tựu rốt ráo, nên quan sát như vầy: Thế gian và xuất thế gian đều không thể nắm bắt, không thủ đắc xuất thế gian, không đắm nhiễm thế gian, không nhớ nghĩ đến xuất thế gian, do không nhớ nghĩ đến thế gian và xuất thế gian nên không can dự vào sự thanh tịnh ở thế gian. Vì sao? Vì hiểu rõ thế gian vốn là pháp hư vọng tạm bợ, mê hoặc, nhờ thấy như vậy nên biết thế gian duyên dựa vào sự trống rỗng, nên không khởi tưởng đối với thế gian cũng không ưa thích xuất thế gian. Vì sao? Sở dĩ gọi thế gian vốn là do năm ấm, do tham cầu tập hợp tất cả pháp thế gian mà thành. Bậc trí thông đạt rằng tìm cầu các ấm thì vĩnh viễn không thể được, năm ấm là thật tướng nên không thể nắm bắt, năm ấm vốn thanh tịnh nên cũng không thể nắm giữ, năm ấm không đến, đi, không có đối tượng hướng đến, không thể biết được nơi chốn. Đó là xuất thế gian. Vì không tìm cầu nơi hướng đến của năm ấm nên không chấp vào năm ấm, biết tất cả vốn thanh tịnh và các nhập cũng vốn thanh tịnh. Bồ-tát nào quan sát pháp thế gian mà không có đối tượng để thấy thì vị ấy đã đạt đến pháp xuất thế, không còn chấp vào xuất thế gian cũng không hòa hợp với thế gian nên không có thế gian mà chỉ thấy xuất thế gian, ở nơi xuất thế gian nên không còn chấp pháp thế gian không thấy có sai khác, không còn xoay vần trong hai pháp thế gian và xuất thế gian. Vì sao? Này Bồ-tát Trì Nhân! Trong hiện tại, vị ấy hiểu rõ ngọn nguồn thế gian vốn không thật có, xuất thế gian cũng vậy. Tuy thấy có thế gian nhưng không có pháp thế gian, phân biệt về pháp xuất thế gian cũng giống như vậy, vì hiểu rõ không có pháp thế gian. Giả sử có người cho: Thế gian khác với xuất thế gian, thì đối với người ấy, Phật không xuất hiện ở đời, tuy Phật có ra đời nhưng họ vẫn gặp đời điên đảo, không thể phát tâm hành đạo, hiểu pháp chân chánh, phải nhờ bậc có trí tuệ quan sát thế gian để giảng nói kinh pháp, ở trong đời điên đảo, tham chấp mà cứu giúp chúng sinh, đó gọi là xuất thế gian. Cho nên, này Bồ-tát Trì Nhân! Nhờ hiểu rõ pháp chân chánh, dùng trí tuệ để quan sát và thông đạt thế gian điên đảo nên gọi là xuất thế gian. Như Lai xuất hiện ở đời, giảng nói các pháp khắp nơi, nhưng không phân biệt có hai loại thế gian và xuất thế gian, dùng trí tuệ chân chánh để quan sát và được chứng đắc, cho nên gọi là giảng nói pháp xuất thế gian.

Đức Phật nói:

–Này Bồ-tát Trì Nhân! Chẳng phải nhờ vào pháp này mà tồn tại ở thế gian, chúng không có đối tượng hướng đến, không thể tiêu trừ, không duyên dựa vào sự tranh luận về thế gian mà hiểu được ý nghĩa thế gian, không nhớ nghĩ pháp xuất thế gian, thông đạt ngôn từ ở thế gian, thấu rõ nguồn gốc các tưởng rồi cho rằng tưởng có hai, không thể thông suốt đúng như pháp nên không thể cứu giúp chúng sinh, không hiểu biết rõ cũng chẳng đạt được pháp xuất thế gian. Vì sao? Vì dùng hai hạnh. Hai hạnh ấy không thể biết được là thế gian hay xuất thế gian. Bồ-tát thấu rõ về phương tiện của tất cả các pháp như vậy thì thông suốt tất cả pháp thế gian và xuất thế gian.

Phẩm 10: HỮU VI VÀ VÔ VI

Đức Phật bảo Bồ-tát Trì Nhân:

–Sao gọi là Bồ-tát phân biệt biết rõ về pháp hữu vi và vô vi? Thế nào là pháp hữu vi và vô vi? Đó là, Bồ-tát dùng sự hiểu biết chân chánh để thuận theo nghĩa lý và tìm hiểu pháp hữu vi và vô vi. Thế nào là thuận theo nghĩa lý? Thế nào là tìm cầu điều trên? Đó là, không tạo tác pháp hữu vi, nếu có đối tượng để thấy thì tự nhiên biết tên gọi, có tạo tác nên gọi là hữu vi. Lại nữa, pháp hữu vi là hư giả, chuyển đổi. Thế nào là thay đổi? Do có tập hợp nên tự nhiên tan rã, kiến lập do hai nhân duyên mà nhân duyên vốn không cùng tận, tất cả mọi vật hiện có đều do nhân duyên sinh. Hết thảy các pháp hoặc không tạo tác, tự tạo tác hay bảo người khác tạo tác đều tự nhiên sinh ra, đó là pháp hữu vi, cũng chính là pháp tự nhiên, không có sự xoay vần nên gọi là hữu vi. Pháp hữu vi ấy không ở trong, không ở ngoài, cũng chẳng ở giữa, tồn tại huyễn hoặc, không hợp không tan, do tư tưởng hư vọng kiến lập, từ duyên vô minh sinh ra nghiệp ngu si mà có tất cả các pháp, chúng tự nhiên xoay vần, không thể tạo ra, từ pháp hữu vi mà nhận chịu tướng nghiệp, cũng do điên đảo, vì phàm phu do tối tăm nên duyên dựa vào danh tự ấy. Lại nữa, bậc có trí tuệ thì thông đạt không thể chạm tới biên vực của hữu vi, không nương tựa vào hữu vi cũng chẳng phải hòa hợp mà có pháp. Đó gọi là trí tuệ. Nhờ trí tuệ nên phân biệt được nẻo thật, có đối tượng tạo tác, bặt dứt tất cả sự tạo tác. Nhờ trí tuệ mà thấu rõ tất cả các hành đều trống rỗng, tạm bợ, các pháp này đều chẳng thật có, bao gồm cả tự nhiên cũng chẳng phải tự nhiên, từ ý niệm mà có ra hết thảy pháp hữu vi. Vì sao? Vì không nên làm theo nhân duyên hưu vi, hoặc biết rõ pháp vô vi là chưa từng chứa nhóm các duyên của pháp hữu vi, hiểu rõ vô vi như vậy mới thông đạt các pháp. Thế nào là hiểu rõ? Tất cả các pháp hữu vi đều chẳng thật có, là không có hình tướng, chúng không có giới hạn, chẳng có sự nhóm họp, bậc Trí quan sát về điều này, không có pháp hữu vi là chỗ đạt đến sự sinh khởi rốt ráo. Pháp hữu vi ấy cũng chẳng có đối tượng thọ nhận, đều chẳng khác biệt. Hữu vi và vô vi cũng không có gì khác nhau, đoạn trừ hết các nghiệp hữu vi, đó là hữu vi cũng là vô vi, đây là tướng hữu vi, đây là tướng vô vi. Sao gọi là tướng hữu vi? Nghĩa là, biết có sinh chắc chắn có chết, có nhóm họp thì phải xa lìa. Thế nào là tướng vô vi? Là không sinh, không diệt, không tập hợp cũng chẳng xa lìa, phàm phu không thể hiểu rõ được hai nghĩa này nên chẳng thể biết được hữu vi, do các pháp có tướng sinh khởi, tướng hoại diệt, cũng chẳng trụ vào tướng khác, do từ không có tướng mà sinh rồi trụ nơi tướng khác, nếu không có tướng ấy thì Như Lai đã giảng nói, từ tướng này sinh khởi, từ tướng này hoại diệt cũng trụ vào tướng này.

Đức Phật bảo Bồ-tát Trì Nhân:

–Như Lai đã giảng nói, tất cả các pháp đều là tướng hữu vi, vì có sự thành tựu, không có tướng sinh khởi, không có tướng hoại diệt, cũng chẳng có tướng tồn tại. Như Lai cũng giảng nói tướng vô vi không là tướng phải tướng quấy, không thể dùng tướng hữu vi ấy để hướng đến vô vi. Vì phàm phu ít trí tuệ, Như Lai mới giảng nói các pháp, khi pháp hữu vi khởi lên thì phải diệt tận, chỉ có vô vi mới an lạc vì không tạo tác, không sinh, không diệt, cũng chẳng có chỗ trụ. Đó gọi là vô vi. Từ đối tượng tích tập ấy mà có sự sinh diệt, nếu chẳng tích tập thì hoàn toàn rốt ráo, không hoạt động, không rốt ráo cũng chẳng trụ ở đâu khác, đó là hiểu biết chân chánh, là bậc có trí tuệ, không mong tích tập, biết có đối tượng sinh khởi thì có tan rã, không bám víu vào nơi nào khác. Bồ-tát nào quan sát về pháp hữu vi và pháp vô vi thì nên quán như vầy, chúng không phải có cũng chẳng phải không, mà luôn thấy như thật, không thấy hữu vi và vô vi, hữu vi không thấy được vô vi, vô vi không thấy được hữu vi cũng chẳng thấy có vô vi nào khác mà tự biết là do ngã và ngã sở, có sự chân chánh là thấy được hạnh nghiệp hữu vi, không có hữu vi nào khác tức là thấy chân lý, mọi tư duy đều là vọng tưởng, pháp hữu vi và vô vi ấy hoàn toàn không có tưởng. Hữu vi và vô vi không có tưởng phân biệt và các tưởng khác, bặt dứt các sự vướng mắc là thông đạt về vô vi, diệt trừ các duyên, biết chúng vốn thanh tịnh, không có nhân duyên, nhân ấy vốn thanh tịnh tức thấy chân lý. Do có thể thấu rõ như vậy nên không tạo tác, không chứa nhóm. Bồ-tát nào có thể kiến lập hữu vi và vô vi như vậy thì hiểu rõ các pháp là không phải có cũng chẳng phải không, không duyên dựa vào hữu vi và vô vi mới có thể đạt được đạo quả giác ngộ.

Đức Phật bảo Bồ-tát Trì Nhân:

–Bồ-tát nào phân biệt năm ấm, hiểu rõ các chủng tánh, thông đạt sáu nhập, biết rõ mười hai nhân duyên, tường tận về bốn Niệm xứ, năm Căn, tám Chánh đạo, thấu rõ về hạnh nghiệp thế gian và xuất thế gian, nhận biết rõ về pháp hữu vi và vô vi thì nhờ sự thông suốt này, vị ấy hiểu rõ cội nguồn của tất cả các pháp, giảng nói rộng rãi về các pháp, đạt được diệu lực của ý, biết tường tận chương cú của tất cả các pháp, bặt dứt sinh tử, tâm không hề tan hoại, có khả năng đạt đến đạo quả Chánh chân Vô thượng, thành Bậc Tối Chánh Giác.

Phẩm 11: BỒ-TÁT BẢO QUANG

Đức Phật bảo Bồ-tát Trì Nhân:

–Về thời quá khứ, cách đây vô số kiếp không thể lường xét, không có giới hạn, bấy giờ có Đức Phật hiệu là Như Lai Tử Kim Sơn Vương đầy đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Như Lai Tử Kim Sơn Vương sống lâu năm kiếp, chúng Thanh văn không thể tính kể, chúng Bồ-tát cũng không có giới hạn, không thể biết được là nhiều hay ít. Cõi nước ấy hưng thịnh, mưa gió điều hòa, năm thứ lúa thóc hoa màu luôn được mùa. Dân chúng an lạc, mạnh mẽ không khiếp sợ, mỗi người đều đạt được tâm bình đẳng, thực phẩm sử dụng không bị bệnh tật, ít tham, sân, si, khéo léo tu tập, sống đúng lễ nghĩa, thuận theo giới luật thanh tịnh. Vì đoạn trừ lưới nghi cho hàng Bồ-tát và tất cả chúng sinh khiến các vị không còn kết sử, nên Đức Như Lai ấy đã khai mở kho tàng giáo pháp của Bồ-tát. Khi ấy, có vị Bồ-tát tên là Bảo Quang, nghe Đức Phật ấy thuyết giảng về hạnh nghiệp của các Bồ-tát xong, Bồ-tát Bảo Quang liền thông đạt các ấm, các nhập, mười tám giới, mười hai nhân duyên, các căn, niệm xứ, tám Chánh đạo, pháp thế gian và xuất thế gian, pháp hữu vi và vô vi, liền kính nhận và siêng năng tu tập, trải qua mười hai ức năm, chưa từng khởi tâm tham, sân, si, không tham cầu lợi dưỡng, thực phẩm, y phục, giường chiếu, thuốc thang trị bệnh, tâm chỉ siêng tu, thể nhập đúng như pháp, luôn tư duy, tu tập tinh tấn trọn đời, ở chỗ Đức Phật tu phạm hạnh, sau khi lâm chung được sinh trở lại nước ấy, cũng trong loài người, ở nơi chỗ cũ, lại xuất gia học đạo, hiểu đúng như pháp, kính giữ để thực hành; lại ở cõi ấy sáu mươi ức năm, tu tập phạm hạnh, tâm không lìa xa, gặp được pháp Phật, luôn mong cầu không buông bỏ. Sau khi lâm chung, Bồ-tát ấy được sinh trở lại cõi Phật kia, gặp Đức Như Lai Tử Kim Sơn Vương vẫn còn ở đời, nên tiếp tục ở cõi nước ấy tu hành phạm hạnh. Trong mỗi kiếp, trải qua năm lần sinh ra rồi chết đi, sau khi Đức Như Lai Tử Kim Sơn Vương diệt độ năm kiếp, Bồ-tát ấy chính là bậc mô phạm, học rộng hiểu nhiều không có giới hạn, thông đạt các pháp, ở trong năm kiếp mới có thể nghe nhận, quan sát những điều thưa hỏi từ Đức Phật kia, rồi đạt được diệu lực về ý, quan sát về Như Lai, vì chúng sinh mà giảng nói rõ ràng khai mở cho vô lượng người khiến họ phát khởi tâm Bồđề vô thượng. Sau khi Đức Phật ấy diệt độ, chánh pháp trụ ở đời một kiếp, Bồ-tát ấy được sinh trở lại trong loài người năm trăm lần, thường xuất gia học đạo, tôn kính Đức Phật, hiểu rõ kinh điển, giáo hóa cho vô số chúng sinh, khiến họ thể nhập vào các hạnh. Bồ-tát Bảo Quang gặp được vạn ức Đức Phật, cuối cùng gặp Đức Phật tôn hiệu là Vô Lượng Quang Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác và được Đức Phật ấy thọ ký: Trải qua vô lượng kiếp, ông sẽ chứng đắc đạo quả Chánh chân Vô thượng, vô số kiếp nữa, ông sẽ được gặp trăm ngàn triệu ức na-do-tha chư Phật và thành tựu quả vị Bồ-đề vô thượng, có tôn hiệu là Quyết Nhất Thiết Nghị Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, chúng Thanh văn không thể lường xét, không có giới hạn, chúng Bồ-tát có vô số. Dân chúng trong nước ấy sống lâu hai kiếp, lúa gạo đầy đủ và được an ổn. Do đó, này Bồ-tát Trì Nhân! Bồ-tát nào muốn thông đạt chánh pháp, được lợi ích như vậy thì nên siêng năng học hỏi, thọ trì và đọc tụng kinh điển cốt yếu này.

Đức Phật lại bảo Bồ-tát Trì Nhân:

–Bồ-tát nào tu học theo kinh điển này muốn đạt được phương tiện thiện xảo thì thường tu học theo bốn pháp. Những gì là bốn? Một là, từ bỏ gia đình, dứt sạch các nghiệp, làm hạnh Sa-môn. Hai là, xa lìa nơi ồn ào, ơ chỗ thanh tịnh để tu tập. Ba là, giữ giới thanh tịnh, không để thiếu sót, sai trái. Bốn là, không còn biếng nhác, siêng năng tư duy không dừng nghỉ. Đó là bốn. Lại nữa, thực hành theo bốn pháp này, siêng năng cầu học rộng hiểu nhiều, thường nhẫn nhục thì mau thành tựu bốn pháp. Những gì là bốn? Một là, tuy ở cõi người nhưng luôn ở vùng giữa nước đầy đủ văn hiến. Hai là, gặp đời có Phật, không ở biên địa. Ba là, thường kính giữ chánh pháp, không hề chống trái. Bốn là, trừ sạch tội lỗi, không gặp tai ương. Đó là bốn. Bồ-tát nào tu học theo kinh điển cốt yếu như vậy thì có được oai lực, luôn bố thí, giữ giới thanh tịnh nhẫn nhục, siêng năng, nhất tâm trí tuệ, đạt được sự sáng suốt của bậc Thánh, nhờ tu tập pháp này mà đạt đến phương tiện thiện xảo như vậy.

Đức Phật bảo Bồ-tát Trì Nhân:

–Bồ-tát nên kiến lập công đức, ở chỗ thanh vắng, luôn biết đủ

như vậy thì không còn bị trần cảnh ngăn che, thương xót chúng sinh, dùng tâm Từ bi rộng lớn để cứu giúp họ, sau đó mới học theo pháp như vậy thông đạt các hạnh cốt yếu. Lại nữa, Bồ-tát nên thể nhập vào pháp môn Tổng trì, siêng năng tu học. Thế nào là thể nhập vào pháp môn Tổng trì, siêng năng tu học? Nghĩa là, lập chí siêng tư duy, thông đạt vô lượng pháp, dùng phương tiện để quan sát, kính giữ vô số hạnh. Lại hiểu rõ, quan sát các pháp môn định ý, các pháp môn cốt lõi, thể nhập nhân duyên chánh hạnh không thể nghĩ bàn, đạt được năng lực như vậy, thông suốt tất cả các pháp, phân biệt các pháp, chứng đắc diệu lực về ý; nhờ có khả năng thông đạt như vậy nên đoạn trừ hết sinh, già, bệnh, chết, ý chí mạnh mẽ, không khiếp sợ, không bỏ mất chánh pháp, cho đến chứng đắc đạo quả Chánh chân Vô thượng, thành Bậc Tối Chánh Giác.

Đức Phật lại bảo Bồ-tát Trì Nhân:

–Bồ-tát nao thông đạt pháp môn Tổng trì thì có khả năng hiểu rõ hết tất cả các pháp, tường tận về ngôn từ, dùng một pháp thể nhập vào trăm ngàn pháp, dùng diệu lực của đạo để phân biệt các pháp và thông đạt tất cả. Lại nữa, Bồ-tát nào đạt được pháp môn định ý, hội nhập vào âm thanh, liền thể nhập vào vô lượng pháp môn định ý, nhờ được thể nhập như vậy nên có khả năng thấu rõ vô số pháp môn; nhờ thể nhập vào pháp môn của tất ca các pháp nên giảng nói các pháp, cứu giúp khắp nơi. Lại nữa, Bồ-tát ấy thực hành theo trí tuệ nên có được diệu lực của tuệ, thông suốt về các tưởng, hiểu rõ về tưởng rồi, lại nhờ diệu lực của tuệ nên thấu rõ tat cả các pháp, thông suốt nhanh chóng không bị chướng ngại. Lại nữa, Bồ-tát nào thông đạt vô lượng pháp môn định ý, nhờ trụ vào địa này nên biết được tất cả các pháp khắp mười phương. Lại nữa, Bồ-tát nào thông đạt vô lượng pháp môn Tổng trì thì thấu suốt các diệu lực của pháp môn định ý không có giới hạn, nhờ pháp môn định ý này mà xiển dương nguồn gốc của các pháp không có giới hạn, nhờ đạt được địa của đạo này nên hội nhập khắp các pháp, không có điều gì mà chẳng thông đạt. Lại nữa, Bồ-tát có khả năng thông suốt và quan sát các hạnh của thế gian, phân biệt rõ về hữu vi và vô vi, thực hành các pháp, tâm không bị vướng mắc pháp hữu vi, vô vi, thực hành tất cả các pháp như vậy nên mau chóng thông đạt các pháp, đạt được trí tuệ sáng suốt. Lại nữa, Bồ-tát thực hành phương tiện thiện xảo, quan sát tất cả các pháp vốn không có đối tượng để thực hành, tuy quán như vậy nhưng không lệ thuộc pháp thế gian, không vướng mắc pháp thế gian, cũng không có đối tượng duyên dựa, nhờ tu theo các pháp như vậy nên mau chóng hiểu rõ tất cả các pháp, phân biệt các pháp, đạt được diệu lực của ý, dùng tài sản bố thí, thấu suốt chương cú, đoạn trừ sinh, già, bệnh, chết, đầy đủ các hạnh. Do đó, này Bồ-tát Trì Nhân! Có bốn pháp để Bồ-tát thực hành các pháp, đạt được giải thoát. Những gì là bốn? Đối với pháp này nên thực hành đúng như ý nghĩa, siêng tu tập chánh pháp, đối với kinh điển này không hề chướng ngại và thể nhập vào khắp các tuệ bậc nhất.

Phẩm 12: BẢN SỰ

Đức Phật bảo Bồ-tát Trì Nhân:

–Về thuở quá khứ, cách đây vô số kiếp không thể tính kể, không có giới hạn, có Đức Phật hiệu là Vô Lượng Quang Siêu Thù Vương đầy đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Vào thời của Đức Phật ấy, chúng Thanh văn không thể tính kể, các chúng hội không có giới hạn, chúng Bồ-tát không thể lường xét. Đức Phật ấy trụ thế trong một kiếp. Cõi nước của Ngài đều do bảy báu làm thành, cây bằng bảy báu bao bọc chung quanh, tất cả các cây được trang hoàng bằng các loại báu, đẹp đẽ quý giá, khắp các nẻo đường đều có màn che, dưới các gốc cây đều có tòa Sư tử, trên các tòa ấy được trải những vải vóc mịn màng, tốt đẹp, hết thảy các chân của tòa ấy đều bằng lưu ly, dùng xích trân châu để trang hoàng các cây, có hương thơm tự nhiên, hợp thành lá, hoa luôn đua nhau nở rộ, ở trước các cây ấy có ao tắm tự nhiên, nước tám công đức, cát ở dưới đáy ao bằng pha lê, xa cừ, xích trân châu, ao tắm ấy được làm bằng ba loại báu, trong ao có hoa sen đủ màu sắc tự nhiên mọc lên. Lại nữa, lan can của các ao nước ấy bằng bảy thứ báu, tất cả lan can và đất đều bằng phẳng như bàn tay. Cõi nước của Đức Phật ấy thanh tịnh, không nhơ uế, có nhiều cây báu tốt tươi, như cây cổ thụ trú độ trời Đao-lợi, được trang trí bằng ngọc minh nguyệt rực rỡ, có ức ngàn cây đầy khắp cõi Phật ấy, ánh sáng của chúng tỏa chiếu, che lấp ánh sáng của mặt trời, mặt trăng. Các cây báu ấy có ngọc quý đan xen, phát ra âm thanh cực hay, những loai chim phượng và các ngọc nữ cõi trời ca múa hát xướng, đủ loại âm thanh êm tai như vậy vang khắp cả cõi Phật ấy. Cõi nước của Ngài không có ba đường ác, không phạm các điều ác, không giảng nói câu cú xen tạp cho chung sinh mà chỉ giảng nói về pháp giải thoát, đó là nói về tạng pháp của Bồ-tát để giáo hóa cho vô số người trong một ngày khiến họ phát tâm Bồ-đề, do phát tâm như vậy nên đã dốc tâm cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng, liền đầy đủ các phẩm trợ đạo. Thế nên, này Bồ-tát Trì Nhân! Đức Như Lai Vô Lượng Quang Siêu Thù Vương do nhân duyên dùng phương tiện để giáo hóa khiến vô lượng, vô số chúng sinh phát tâm cầu đạo Bồ-đề, nên hiện nay, Ngài đản sinh ở phương dưới của cõi này. Ở cõi Phật ấy, Ngài đã thành tựu mọi hạnh Bồ-tát. Sau khi Phật diệt độ, chánh pháp tồn tại nửa kiếp, sau khi chánh pháp diệt hết, có một vị Bồ-tát tên là Ý Vô Hạn sinh vào coi nước của Đức Phật ấy. Cõi ấy cách đây mười cõi nước của chư Phật. Năm mười sáu tuổi, Bồ-tát Ý Vô Hạn liền xuất gia làm Sa-môn, ở chỗ Đức Phật Vô Lượng Quang Siêu Thù Vương để nghe nhận kinh điển. Khi pháp diệt hết, Bồ-tát ấy giảng nói về các ấm và phân tích rõ ý nghĩa của tất cả các nhập cho các Bồ-tát khác. Nghe pháp xong, các vị ấy đều siêng năng tu hành. Nhờ dùng phương tiện thiện xảo để đạt đến giải thoát ở nơi pháp này và nhân duyên gieo trồng cội gốc công đức mà Bồ-tát ấy được Đức Phật kia thọ ký và được gặp vô số chư Phật để nghe pháp này, sinh ở chỗ nào cũng biết được đời trước của mình, không lập gia đình, siêng tu phạm hạnh, luôn có tín tâm nên xuất gia làm Sa-môn lúc còn nhỏ tuổi, ở đâu cũng đạt được diệu lực của ý, thường phòng hộ thân, thành tựu công đức, đời sau cũng sẽ đạt được đạo quả Bồđề vô thượng, thành Bậc Tối Chánh Giác, hiệu là Vô Lượng Quang Châu Vương Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Bồ-tát nào muốn mau chóng thành Phật, đạt được Nhất thiết trí, đầy đủ Phật đạo, thì ở nơi đời năm trược, lúc pháp gần diệt hết nên siêng năng, chí thành kính nhận, giảng nói pháp này, lúc nào cũng ưa thích siêng năng tu tập. Đến đời sau, những ai kính nhận kinh điển này, vun trồng vô lượng công đức, đọc tụng tu tập và giảng nói cho người khác thì phước của người ấy không thể ví dụ được.

Phẩm 13: NHÓM BẠT-ĐÀ-HÒA – NĂM TRĂM BỒ-TÁT

Bấy giờ, Bồ-tát Kiều-viết-đâu – thuộc nhóm năm trăm vị Bồ-tát như Bồ-tát Bạt-đà-hòa – từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ gối chắp tay bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Ở đời mạt pháp sau này, lúc pháp sắp diệt, chúng con sẽ thọ trì pháp ấy. Trong đời năm trược, chúng con sẽ ủng hộ chánh pháp, thọ trì kinh điển này và đọc tụng giữ gìn, giảng nói rộng rãi cho người khác.

Lại có vô số chúng Bồ-tát đều từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ gối chắp tay, đảnh lễ Đức Phật rồi phát nguyện:

–Bạch Thế Tôn! Ở đời mạt pháp sau này, chúng con sẽ mặc áo giáp thệ nguyện kính nhận kinh này, thuận theo pháp vi diệu mà Đức Phật đã giảng nói.

Các Bồ-tát này đã chứa nhóm cội gốc công đức, đầy đủ kho tàng phẩm trợ đạo, ở chỗ nào cũng ủng hộ pháp. Sau khi nghe kinh pháp này, các vị ấy càng thêm hoan hỷ, thọ trì, đọc tụng, giảng nói cho những người chưa thông đạt khiến họ thể nhập vào đạo rộng lớn.

Khi ấy, Đức Như Lai liền mỉm cười. Từ nơi miệng Đức Phật phát ra ánh sáng năm màu chiếu khắp tam thiên đại thiên cõi Phật, mặt đất chấn động đủ sáu cách. Tôn giả A-nan từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ gối chắp tay bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nhân duyên gì mà Như Lai mỉm cười? Thế Tôn mỉm cười như vậy là có ý nghĩa gì khiến ánh sáng chiếu soi làm mặt đất chấn động?

Đức Phat bảo Tôn giả A-nan:

–Ông có thấy chúng Bồ-tát đứng trước Như Lai không? Vào đời sau, các vị này sẽ hộ trì chánh pháp, mặc áo giáp thệ nguyện để cứu giúp tai nạn nguy khốn cho chúng sinh, được chư Phật hộ niệm. Trải qua vô số kiếp, ở chỗ chư Phật, các Bồ-tát này đã mặc áo giáp thệ nguyện như vậy, ở trước chư Phật thọ trì kinh này, hộ trì ba phẩm chánh pháp, hướng dẫn cho vô số chúng sinh khiến họ đến chỗ chư Phật, nương theo ý nghĩa ba phẩm để tu tập chánh pháp. Hôm nay, chúng Bồ-tát này đang đứng trước Như Lai, ở đời vị lai, khi pháp sắp diệt, các vị này sẽ giáo hóa cho chúng sinh chưa thông hiểu, khiến họ kính nhận ba phẩm chánh pháp. Trong Hiền kiếp, các Bồ-tát này lại được gặp chư Phật, nhận lãnh chánh pháp của hàng ngàn chư Phật, vào đời vị lai cũng được gặp chư Phật và kính nhận giáo pháp như vậy.

Này A-nan! Chúng Bồ-tát này đã vun trồng công đức không thể lường xét, khó có thể tính kể những kinh pháp mà các vị này thực hành. Các Bồ-tát này luôn làm cho chúng sinh an ổn để cúng dường chư Phật. Giả sử Như Lai có giảng nói về các vị này đã tu tập chánh pháp và làm cho chúng sinh an ổn như thế nào thì người đời không thể tin được. Nếu không tin thì sẽ ở trong đêm dài bất an, bị đọa vào cõi ác.

Lại nữa, này A-nan! Như Lai sẽ giảng nói cho các ông hiểu rõ về việc làm lợi ích cho tất cả chung sinh của các vị này. Giả sử hết thảy chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới đều do sự vận hành của tưởng nên bị đọa vào địa ngục, trong đại chúng này có một người bảo các chúng sinh trong địa ngục: “Mọi người đừng sợ hãi, tôi sẽ cứu giúp tất cả.” Khi ấy, người đó dùng phương tiện đích thân cứu giúp tất cả chúng sinh ấy khiến họ thoát khỏi tai nạn, khổ đau nơi địa ngục, đều đến nơi an ổn. Trong vô số ngàn năm, người ấy phải ở trong địa ngục, cũng chưa từng biếng nhác, luôn khiến chúng sinh được an lạc. Này A-nan! Đối với chúng sinh, người ấy luôn dùng tâm Từ bi để cứu giúp họ thoát khỏi địa ngục, được sự an ổn, vậy công đức có tăng trưởng nhiều không?

Tôn giả A-nan thưa:

–Bạch Thế Tôn! Rất nhiều!

Đức Phật nói:

–Giả sử người ấy hiển bày thần thông cao vời để khiến cho chúng sinh đạt được an lạc bậc nhất, tăng trưởng an lạc không bờ bến, thành tựu tâm Từ bi rộng lớn, ai cũng được che chở thì công đức của vị ấy không thể dùng tâm để tư duy, cũng chẳng thể diễn tả bằng lời nói. Này A-nan! Tuy Bồ-tát ấy chịu ở trong địa ngục để cứu giúp vô số chúng sinh, đưa họ đến nơi an ổn, vì tâm Từ bi nên đã giúp chúng sinh thoát khỏi hoạn nạn, nhưng đó chỉ là sự an lạc hữu vi, dù làm như vậy gấp trăm, gấp ngàn, ức vạn lần hay hơn cả ức vạn lần cũng không bằng người thọ trì kinh điển này. Vì sao? Vì xét việc làm này chỉ là sự an lạc hữu vi nên có lúc chấm dứt, không thể đạt đến vô vi, không xa lìa tham dục, không đạt được diệt độ, không thành tựu thần thông, giác ngộ cũng chẳng đạt đến cốt lõi Niết-bàn tịch tĩnh.

Lại nữa, này A-nan! Các Bồ-tát ấy kiến lập chúng sinh nơi an lạc vô thượng, đạt đến Nhất thiết trí. Các vị này luôn phát nguyện học đạo Bồ-tát, chứng đắc Phật đạo, cứu giúp chúng sinh, kiến lập các địa Thanh văn, Duyên giác, hộ trì pháp Phật, tu hạnh Bồ-tát, an trụ quả vị Phật. Chúng Bồ-tát này luôn khuyên chúng sinh thực hành hạnh Bồtát, không lường xét lời Phật dạy, chẳng tin theo tà vạy, kiến lập tâm Từ, thành tựu Nhất thiết trí, nên công đức không có giới hạn.

Đức Phật nói:

–Này A-nan! Trong một ngàn kiếp hoặc vô số kiếp cho đến trăm ức kiếp không thể tính kể, không bờ bến như vậy, chư Phật Thế Tôn vẫn thường giảng nói chánh pháp này, giáo hóa liên tục, cho đến vô số trăm ngàn ức na-do-tha kiếp, các vị luôn nối tiếp nhau thành Phật, nên công đức không cùng tận, không có giới hạn. Vì sao? Từ thuở xưa, trăm ngàn ức chư Phật luôn thực hành hạnh Bồ-tát, kiến lập Phật đạo. Dù sinh ở chỗ nào, các ông cũng nên thọ trì kinh điển này, giúp đỡ, khuyến khích cho chúng sinh, đạt được đạo quả Chánh chân Vô thượng, thành Bậc Tối Chánh Giác. Vào đời vị lai sẽ có vô số Bồ-tát giáo hóa cho vô số chúng sinh, luôn khuyến khích, giúp đỡ họ đầy đủ pháp Phật, thành tựu đạo quả Bồ-đề vô thượng. Này A-nan! Các Bồtát ấy đã giáo hóa, kiến lập cho hết thảy chúng sinh khiến đạt được Nhất thiết trí, chứng đắc đạo quả Vô thượng.

Thiện nam, thiện nữ nào không trái với lời Phật dạy cũng chẳng đoạn dứt nguồn gốc Nhất thiết trí, vào đời vị lai, khi pháp sắp diệt thì kiến lập, ủng hộ cho chúng sinh, an trụ vào tâm Tư bi rộng lớn, làm lợi ích khắp tất cả, khuyến khích giúp đỡ họ, khiến được an ổn, không đọa vào cõi ác, cúng dường, khen ngợi vô số ngàn ức Bồtát và chư Phật, thì thiện nam, thiện nữ ấy đạt được công đức không thể lường xét. Vì sao? Vì các thiện nam này đã vun trồng công đức không thể nghĩ bàn.

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

–Trong vô số ngàn triệu ức kiếp, Như Lai đã chứa nhóm chánh pháp quý báu này. Những thiện nam nào thọ trì pháp này thì được vô số chư Phật trong vô lượng cõi nước khắp mười phương và chư Phật hiện tại đều ủng hộ, khiến người tu học pháp này được an ổn.

Đức Phật nói:

–Này A-nan! Chư Thiên và loài người đều cung kính đảnh lễ quy y, thưa hỏi và nhận lãnh giáo pháp ở các thiện nam này. Chư Phật khắp mười phương cũng khen ngợi các vị này. Kinh pháp mà các thiện nam ấy đã giảng nói, không ai sánh kịp. Này A-nan! Như Lai đã thọ ký cho những thiện nam này, khiến họ dứt sạch nghi ngờ. Ở đời vị lai, những ai thọ trì chánh pháp vô thượng này, hoặc tu tập, đọc tụng, giảng nói cho người khác cùng tu học, thì thiện nam, thiện nữ ấy sẽ mau chóng gần gũi Nhất thiết trí. Lúc pháp sắp diệt, người nào được nghe kinh pháp sâu xa này mà cung kính, hoan hỷ tin nhận thì được Phật thọ ký, thực hành hạnh Bồ-tát, đạt được đạo quả chí chân. Vào đời vị lai, những ai ưa thích hộ trì pháp này, tự mình kính nhận giáo pháp thì được chư Phật ủng hộ vì các thiện nam, thiện nữ này không hề chê bai kinh pháp vi diệu ấy. Đối với hàng Thanh văn thì Như Lai thọ ký sẽ được gặp Đức Phật Di-lặc xuất hiện ở thế gian, đoạn trừ hết các lậu hoặc, không có ái dục, nhờ tin nhận pháp sâu xa này nên không hề chê bai, đạt được công đức.

Đức Phật nói:

–Bồ-tát nào được nghe, tu tập và tin ưa pháp sâu xa này thì cũng được thọ ký: Đời vị lai, ở chỗ Đức Phat Di-lặc được xuất gia học đạo, lại lập thệ nguyện mới được quả báo thù thắng. Thiện nam, thiện nữ nào có cội gốc công đức, nhu hòa, vun trồng công đức không giới hạn thì đời vị lai, khi pháp sắp diệt sẽ kính nhận, tinh tấn tu hành pháp sâu xa này, công đức của vị ấy cao vời không thể lường xét.

Phẩm 14: CHÚC LỤY

Bấy giờ, Bồ-tát Trì Nhân bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai đã vì chúng con mà giảng nói chánh pháp, chẳng phải cầu danh lợi. Ở đời vị lai, những ai được nghe kinh điển này thì sẽ ưa thích, kính nhận nghĩa lý vi diệu, nhờ đó mới mau chóng thông hiểu các pháp, đạt được tuệ phân biệt và diệu lực của ý, nhận rõ các pháp, thấu đạt tuệ về đạo, sinh ở chỗ nào cũng nhớ mãi không quên, dùng ánh sáng pháp rộng lớn chiếu khắp mười phương.

Đức Phật nói:

–Này Bồ-tát Trì Nhân! Bồ-tát nào quan sát pháp này thì được trí tuệ rộng lớn, sáng soi không bờ bến, chứa nhóm công đức không có giới hạn. Nếu đời vị lai, những ai thọ trì hoặc đọc tụng kinh pháp này, những kho tàng vi diệu khác của Bồ-tát và siêng năng tu tập các pháp giải thoát thì ma không thể phá hoại, không bị tội lỗi ngăn che, được Như Lai thọ ký sẽ được gặp hai, ba vị Phật, đạt được pháp Nhẫn vô sinh, nhờ chứng đắc pháp nhẫn này nên sẽ thành tựu đạo quả Bồ-đề vô thượng, tự thông hiểu các pháp và luôn tự tại, làm nghiêm tịnh cõi Phật, viên mãn cho hàng Thanh văn, thọ trì lời dạy về đạo, thực hành hạnh Bồ-tát. Do đó, này Bồ-tát Trì Nhân! Như Lai sẽ nói về pháp ấy để đoạn trừ tất cả nghi ngờ. Ở đời vị lai, những ai đạt được bốn nghĩa về hạnh tự tại, thực hành pháp Bồ-tát, thọ trì kinh điển này thì ủng hộ cho họ, khiến họ mặc áo giáp thệ nguyện. Những gì là bốn? Một là, tự mình đạt được cội gốc của công đức rộng lớn sâu xa không bến bờ, không thể giới hạn. Hai là, vì chúng sinh mà phát khởi nguồn gốc căn lành. Ba là, thưa hỏi, nhận lãnh kinh pháp cốt yếu của Như Lai. Bốn là, giữ gìn kho tàng chánh pháp, ở chỗ vô số chư Phật để tuyên nói, giáo hóa. Đó là bốn. Lại có bốn pháp để hộ trì pháp sâu xa ở đời vị lai. Những gì là bốn? Một là, luôn thâu giữ, siêng năng, ở trong đời ác vẫn tu tập, kính giữ chánh pháp. Hai là, nếu ở nơi tai nạn, nguy hiểm, khổ sở tột cùng, tranh luận về chánh pháp thì vẫn giữ gìn chánh pháp, khi mọi người tranh chấp thì giáo hóa khiến họ hòa hợp để ủng hộ chánh pháp. Ba là, thực hành nhẫn nhục, đầy đủ nhân từ, hòa nhã. Bốn là, ở đời vị lai, tâm không oán hận, ở đâu cũng thường thực hành Từ bi. Đó là bốn pháp để đạt đến pháp sâu xa, mau chóng thành tựu Nhất thiết trí.

Bấy giờ năm trăm Bồ-tát như Bồ-tát Bạt-đà-hòa, Bồ-tát Kiềuviết-đâu… và các Bồ-tát khác, nghe Đức Phật giảng nói về chánh pháp này, các vị đều ở trước Phật suy nghĩ: “Ở đời vị lai, chúng ta sẽ ủng hộ chánh pháp.” Đức Phật liền dùng tay phải xoa đầu các Bồ-tát rồi nói:

–Này các thiện nam! Trong vô số kiếp, Như Lai đã chứa nhóm đạo quả Chánh chân Vô thượng này, thành tựu kho tàng báu rộng lớn, gắng nhẫn, siêng năng, chịu các hạnh khổ, đạt được an lạc, không bờ bến, bỏ hết tất cả an lạc, lo buồn nơi thân mới đạt được đạo pháp, thành Bậc Tối Chánh Giác, nay đem giao phó cho các ông. Nếu có thể tu học, đọc tụng pháp này thì giảng nói nghĩa lý rộng rãi cho bốn chúng. Nếu lúc chánh pháp sắp hủy diệt thì nên kiến lập, ủng hộ mới mong xiển dương ánh sáng pháp rộng lớn không bờ bến. Đức Phật lại giao phó cho các Bồ-tát: “Như Lai như cha, các Hiền thánh như con, Phật như vua, các ông như tôi, cha từ con hiếu, vua chánh tôi trung thì thiên hạ thái bình. Trong vô số kiếp, Như Lai đã chứa nhóm kho tàng chánh pháp quý báu này khiến lưu truyền khắp mười phương. Tất cả chư Thiên, loài người đều từ hiếu, quy y Như Lai. Như Lai đã dùng tâm Từ bi để cứu giúp.”

Khi ấy, năm trăm Bồ-tát như Bồ-tát Bạt-đà-hòa, Bồ-tát Kiềuviết-đâu… và các chúng Bồ-tát khác cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật, thưa:

–Thưa Thế Tôn! Nương vào thần lực của Phật, chúng con sẽ dốc tâm gánh vác, ủng hộ giáo pháp mà Như Lai đã giảng nói. Cúi xin Đức Như Lai rũ lòng ban ân, khiến kho tàng chánh pháp quý báu này được lưu truyền khắp mười phương, cho tất cả chúng sinh đời vị lai đều được nhờ ân.

Khi Đức Như Lai dùng oai thần giảng nói pháp này, có vô số Bồ-tát khong thể tính kể đều đạt được Nhất sinh bổ xứ, đầy đủ cội gốc công đức, có trí tuệ trọn vẹn, vô số ức ngàn chư Thiên, loài người phát khởi tâm đạo, được Đức Phật thọ ký, ở đời vị lai sẽ thành Phật đạo, mỗi vị đều có danh hiệu.

Đức Phật giảng nói như vậy rồi, Bồ-tát Trì Nhân, năm trăm Bồtát như Bồ-tát Bạt-đà-hòa, Bồ-tát Kiều-viết-đâu… tất cả các chúng Bồ-tát và bốn bộ chúng, các hàng Trời, Người A-tu-la… nghe lời Phật dạy thay đều hoan hỷ, đảnh lễ rồi lui ra.

Trang 1 2 3 4