KINH BỒ-TÁT TRÌ NHÂN
Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Pháp sư Trúc Pháp Hộ, người nước Nguyệt Chi
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
QUYỂN 2
Phẩm 3: VUA TRÌ THÍ
Đức Phật bảo Bồ-tát Trì Nhân:
–Thuở xưa, cách đây vô số kiếp không thể tính kể được, có Đức Phật hiệu là Ý Phổ Ngọc Vương, đầy đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Vào đời của Đức Phật ấy, có tám mươi ức na-do-tha chúng Sa-môn, đều là bậc A-la-hán đã đoạn tận các lậu hoặc; các bậc Học và Vô học A-na-hàm, Tư-đà-hàm, Tu-đà-hoàn cũng có tám mươi ức na-do-tha, cùng với tám mươi bốn ức triệu chư Bồ-tát đều vân tập đến chỗ Đức Phật ấy.
Này Bo-tát Trì Nhân! Lúc ấy, Đức Như Lai có tuổi thọ là tám vạn năm. Trong đời ấy có vị vua tên là Trì Thí, làm vua hai vạn cõi nước, dân chúng đông đảo, mưa gió điều hòa, lúa gạo được mùa, trăm họ được an ổn. Thành của vua ngự rộng bốn trăm tám mươi dặm, đều do châu báu và bốn loại ngọc báu làm thành, tường của thành ấy có bảy lớp, cây cối, hào sâu và lan can bao quanh đều có bảy lớp, có bảy lớp lưới châu báu bao bọc trên các vách tường và các hàng cây, dùng bốn loại báu đan xen làm màn giăng quanh ở trên. Trong hai vạn cõi nước ấy, mỗi cõi nước có năm trăm quận huyện. Lại nữa, trên những cây ấy đều mọc ra vải vóc tốt đẹp, tự nhiên có bảy bau và các y phục mịn màng; mỗi ao nước đều có năm trăm ao tắm vây quanh, mỗi ao tắm đều do bảy báu làm thành, mọc ra hoa sen bằng bảy báu như hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen vàng và hoa sen trắng đầy khắp trong ao. Những hoa sen ấy lớn bằng bánh xe. Nước trong những ao ấy tự nhiên có tám vị. Quốc vương của nước ấy có tám vạn bốn ngàn phu nhân, thể nữ; trong cung của hoàng hậu có hai vị thái tử: một vị tên là Vô Hạn Ý, vị kia tên là Vô Hạn Giới. Năm mười sáu tuổi, một hôm đang ngủ, trong giấc mộng, hai vị thái tử thấy hình tượng Đức Như Lai đẹp đẽ oai nghiêm, thân sắc vàng ròng, tướng tốt trang nghiêm, oai đức cao vời, ánh sáng chiếu khắp mười phương không có giới hạn. Trong giấc mộng thấy việc này rồi, hai vị thái tử đều vô cùng hoan hỷ. Sau khi thức dậy, tâm họ rất thản nhiên, đều nhờ họ đã biết đạo chân chánh từ kiếp trước, liền nói kệ:
Trong mộng chúng con thấy
Bậc Tối Thắng trời, người
Sắc thân màu vàng ròng
Tướng do trăm phước thành.
Nhờ ở trong giấc mộng
Thấy tất cả công đức
Và gần gũi tôn nhan
Nên hoan hỷ vô lượng.
Quán ánh sáng bậc Thánh
Rực rỡ như mặt trời
Trong tâm rất vui mừng
Vượt trên tất cả chúng.
Oai đức thật cao vời
Giống như núi báu chúa
Ai thấy hình tượng Ngài
Đều rất đỗi vui mừng.
Đức Phật bảo Bồ-tát Trì Nhân:
–Sau khi thấy điềm lành này, hai vị thái tử liền đến chỗ vua cha và mẫu hậu để trình bày sự việc: “Thưa cha mẹ! Tối hôm qua, trong giấc mộng, anh em chúng con được thấy Đức Như Lai Chí Chân, nên chúng con xin cha mẹ để đến chỗ Đức Như Lai, hiện tại Ngài đang ở đời, đã giáo hóa từ lâu rồi, nhưng chúng con vì buông lung, bị chìm đắm trong năm dục, không biết Đức Phật ra đời, bị năm ấm trói buộc, các lưới ác che phủ, tự cao tự đại, không có tâm cung kính, vì bị mê hoặc như vậy nên không thể gặp Đức Như Lai để thưa hỏi và nhận lãnh đạo trí tuệ.” Vua cha và mẫu hậu liền đồng ý. Sau khi xin cha mẹ xong, hai vị thái tử liền đến chỗ Đức Phật Ý Phổ Ngọc Vương cúi đầu đảnh lễ sát đất, thưa: “Thưa Thế Tôn! Chúng con bị tội lỗi che lấp, mê hoặc bao vây, bị tà vạy cám dỗ nên không được gần gũi phụng sự Ngài để thưa hỏi, nhận lãnh những lời dạy bảo. Chúng con thật hổ thẹn khi nhìn thấy tôn nhan của Ngài. Đức Thế Tôn vì tâm Từ bi rộng lớn nên đã chiếu ánh sáng đến để khai mở tăm tối cho chúng con, khiến chúng con được phụng sự, gần gũi Ngài. Hôm nay, chúng con muốn thỉnh Phật và Thánh chúng Bồ-tát nhận những phẩm vật của chúng con như: thực phẩm, y phục, giường chiếu, thuốc thang chữa bệnh… trong ba tháng; còn thành quách, vườn rừng, lâu đài, nơi ở được trang hoàng đẹp đẽ, giăng cờ, lọng, các ao tắm đầy hoa sen… của vua cha thì chúng con sẽ xin vua cha và mẫu hậu để dâng lên Đức Như Lai, hàng Bồ-tát cùng các Thanh văn….”
Sau khi dùng tất cả những vật dụng để cúng dường Phật và Thánh chúng suốt ba tháng, hai vị thái tử được cha mẹ đồng ý cho đi xuất gia, dù họ rat buồn thương. Ở chỗ Đức Như Lai ấy, hai vị luôn kính tin, không luyến tiếc hoàng cung, liền xuất gia làm Sa-môn, học hạnh thanh tịnh. Khi ấy, thấy hai vị thái tử bỏ nước xuất gia, Đức Như Lai Chí Chân Ý Phổ Ngọc Vương liền quan sát căn tánh của thái tử Vô Hạn Ý và Vô Hạn Giới, rồi giảng nói rõ ràng về phẩm “Năm ấm suy” của Bồ-tát. Nghe xong, hai vị thái tử đều kính nhận, suốt tám vạn bốn ngàn năm chưa từng ngủ nghỉ, cũng chẳng nghĩ đến an uống, giường nằm, mà chỉ ngồi tư duy về nghĩa lý của kinh và đọc tụng, suốt tám vạn bốn ngàn năm chưa từng nghĩ tưởng gì khác, thường chánh niệm tư duy về sự trống rỗng của năm ấm, từ đầu đến cuối đều hoàn toàn là không, chẳng thật có, chúng chỉ tồn tại do điên đảo, do mê hoặc điều này nên không thể giác ngộ. Hiểu rõ năm ấm như vậy nên hai vị ấy tu tập phạm hạnh, nhờ tư duy pháp này nên thông đạt nghĩa lý sâu xa, không chấp vào nẻo hướng đến của các ấm, chí nguyện rộng lớn, không hề mong cầu nên sau khi lâm chung, được sinh lên cõi trời Đâu-suất. Sau khi Đức Như Lai diệt độ, hai vị ấy lại từ cõi trời Đâu-suất hạ sinh vào nhà trưởng giả giàu co ở cõi Diêm-phù-đề. Đến năm mười sáu tuổi, trong giấc mộng, họ lại thấy hình tượng của Đức Như Lai. Trong giấc mộng ấy, họ thấy mình theo Đức Như Lai nghe pháp như vậy mà được thông suốt về năm ấm cùng các nhập của hàng Bồ-tát. Sau khi tỉnh giấc hai vị ấy rất đỗi vui mừng, trong một vạn năm, luôn tu hạnh thanh tịnh, cũng thông đạt về năm ấm và các nhập từ đầu đến cuối. Sau khi lâm chung, họ lại sinh vào cõi trời Đao-lợi, vừa sinh ra lien mạng chung, được sinh trong nhà Phạm chí ở thế gian, gặp Đức Như Lai Ý Phổ Ngọc Vương thuở xưa. Vào thời mạt pháp sau cùng, chánh pháp còn sót lại trong khoảng một ngàn năm, nhờ cội gốc công đức thuở xưa nên hai vị ấy luôn có lòng tin, không luyến tiếc gia đình mà xuất gia học đạo, học rộng hiểu nhiều, trí tuệ như biển, thông suốt năm ấm và các nhập, suy tìm đến tận nguồn gốc, biết rõ lý chân chánh. Khi ấy, hai vị dùng phương tiện để khuyên dạy cho hai vạn người và hai vạn ức chư Thiên đều phát tâm nơi quả vị Chánh chân Vô thượng. Nhờ nhân duyên này, hai vị thái tử ấy đã cùng thực hành hạnh Bồ-tát, được gặp mười ức na-do-tha chư Phật, ở đời mạt pháp sau cùng, lại đạt được pháp Nhẫn vô sinh, lại gần gũi, cúng dường ức ức triệu chư Như Lai. Hai vị này trong một kiếp nữa, sẽ chứng đắc quả vị Chánh chân Vô thượng, làm Bậc Tối Chánh Giác, vị thứ nhất tôn hiệu là Vô Lượng Âm, vị thứ hai tôn hiệu là Vô Lượng Quang. Do đó, này Bồ-tát Trì Nhân! Bồ-tát nào muốn chứng đắc đạo quả Chánh chân Vô thượng, làm Bậc Tối Chánh Giác thì nên siêng năng tu tập theo kinh điển này để hiểu rõ các am, nhập và nguồn gốc hữu, vô của các pháp mà Như Lai đã giảng nói.
Phẩm 4: MƯỜI TÁM CHỦNG TÁNH
Đức Phật bảo Bồ-tát Trì Nhân:
–Thế nào gọi là Bồ-tát hiểu rõ các tánh? Nếu có thể phân biệt về mười tám tánh thì có khả năng tư duy, nhận biết về các pháp quán như: tận cội nguồn tánh của mắt là không có nhãn giới, đều là không, không có ngã và ngã sở, chẳng thể tồn tại lâu dài. Tánh của mắt là trống rỗng nên gọi là thật tánh, nương vào thật tánh của mắt nên gọi là không chân thật, đều do tư tưởng mê hoặc tạo thành. Mắt không có đối tượng để thành tựu cũng chẳng nhận biết được các hành là hình tướng của hư không. Giống như hư không, hết thảy đều không có đối tượng để tạo thành, không có sự nắm bắt cũng chẳng có xứ sở. Mắt không phải bên trong, bên ngoài cũng không ở chặng giữa, tất cả các nghiệp là giả tạm, không chân thật cũng không thể nắm giữ, đều do nhân duyên sinh khởi, không có quá khứ, hiện tại hay vị lai, đó là thật tánh vốn thanh tịnh, không hình tướng, tội hay phước có ra đều dấy khởi do điên đảo, vì duyên hiện tại trói buộc nên gọi là “nhãn không giới”, không thể thấy, chấp vào mắt, cho là không có giới mà thức ở trong đó nên gọi là nhãn giới, nhãn căn thanh tịnh nên sắc sáng rỡ hợp với ý căn, do nhân duyên trói buộc nên ba pháp hòa hợp là mắt, sắc kết hơp với nhãn giới, mà nhãn giới ấy không phải là giới cũng không phải không là giới, những ai có trí tuệ sáng suốt mới thấu hiểu được. Do đó, Bồ-tát hiểu rõ nhãn giới tức là thông đạt nghĩa chân thật, vì biết rõ sắc vốn không thể nắm bắt. Thế nào gọi là hiểu rõ sắc không có giới? Vì không kết hợp với sắc cũng chẳng xa lìa sắc, không có đối tượng sinh trưởng, tuy bàn luận về sắc giới nhưng không thể nắm bắt sắc vì sắc không có xứ sở. Vì sao gọi sắc không có giới? Vì sắc không có bên trong, bên ngoài cũng không ở chặng giữa, chỉ tồn tại giả tạm, do tư tưởng ấy nên mắt mới thấy ánh sáng của sắc, tánh mắt thanh tịnh nên thấy sắc là đẹp, tạm gọi là sắc, không phải là có xứ sở. Ví như gương sáng thì thấy được cảnh tượng, khuôn mặt; mắt thanh tịnh không nhơ bẩn nên phản chiếu tưởng là có sắc, tuy thấy trong gương có hình ảnh nhưng hình ảnh ấy từ bên trong xuất ra chứ không phải từ bên ngoài vào, do hình ảnh bên ngoài chiếu vào, lại hiện ra bên trong gương. Mắt cũng như vậy, do thanh tịnh mới thấy được sắc như thấy hình ảnh trong gương. Do thấy thật tánh của sắc và không sắc nên khong chấp vào cảnh giới, không thể nắm giữ cũng chẳng có đối tượng thành tựu. Sắc tướng ấy vốn không sinh ra nên chúng sinh không thể hiểu được. Nếu thấy được sắc thì mới gọi là hiểu sắc. Giới cũng không có đối tượng sinh khởi nên không có giới, nhờ hiểu được sắc giới nên hiểu rõ tận cùng gốc rễ của sắc là không có quá khứ, không vị lai hay hiện tại, là trống rỗng, là thật tánh, nên gọi là tất cả đều do nhân duyên hòa hợp mà thành. Sắc giới là như vậy. Nhờ nhãn thức mà quan sát chân thật biết là không có giới. Thế nào gọi là quán? Nếu không có nhãn thức thì mắt và sắc không có xứ sở; vốn từ thanh tịnh mà đến nên mắt và sắc không thể thủ đắc, tất cả đều không thể nắm giữ. Nhãn thức không có pháp, chỉ tạm gọi mà thôi, nhãn thức không tập hợp, không có tướng chân thật; giới của nhãn thức cũng do điên đảo xen tạp từ đời trước mà có, bị nhân duyên hiện tại trói buộc cùng với nhân duyên hòa hợp nên gọi là nhãn thức, do đó chúng sinh luôn ở trong điên đảo. Chỉ có bậc Thánh mới phân biệt và thông đạt được nhãn thức là không có giới. Vì sao? Mắt không có đối tượng tạo thành, mười hai nhân duyên sinh khởi là do hòa hợp sinh ra, chỉ là sự tạo tác giả mà có, tạm gọi là nhãn thức; ưa thích sự vận hành của thức và khởi lên các sự chứa nhóm hợp thành thức, tuy có đối tượng để thấy nhưng đều hư vọng, không chân thật, hình tướng chỉ là tạm có, do nhân duyên hiển hiện mà thôi. Vì giảng nói về nhãn thức khiến chúng sinh hiểu rõ nên Như Lai đã diễn nói, phân biệt về các hình tướng, do các tưởng hợp thành nên gọi là thức, không có gì thành mắt, nhờ nguồn gốc thức thanh tịnh nên biết tướng do các hành mà có gọi là đối tượng thấy, do tập hợp nhãn thức như vậy nên gọi là không có giới. Vì sao? Vì mắt không mong rằng ta sẽ nắm bắt nhãn thức và cũng không thể hiểu rõ ràng về chúng; sắc và thức không đạt đến thật tướng. Vì sao? Vì không có đối tượng để tạo thành, chỉ tạm mượn ngôn từ để hiển bày ý nghĩa, vì cứu giúp những chúng sinh nguy khốn. Ý niệm là lĩnh vực, nguồn gốc của đối tượng hoạt động là mắt, là tướng tự nhiên của thức. Ba pháp: nhãn giới, sắc giới và thức giới nhóm họp thành các giới, vì nhân duyên giảng nói các pháp về tướng của nghiệp… nên tạm nói có mắt, sắc và thức. Đó là tư duy. Nhờ điều này để khiến chúng sinh hội nhập, đạt đến chỗ không còn thấy có mắt, không thấy có sắc giới cũng chẳng có thức giới. Giáo hóa như vậy là đoạn trừ các kiến chấp. Nếu có khả năng hiểu rõ, đạt đến các phương tiện để giác ngộ của Như Lai thì có thể thông suốt tất cả ba cõi là không có cõi. Vì sao? Vì chấp vào các cõi nhưng thật sự không có cõi, sắc không thể nam bắt, tai, thanh và thức giới cũng vậy, đối với mũi, hương và thức; lưỡi, vị và thức; thân, xúc và thức; ý, pháp và thức… mà suy lường, tư duy và quan sát đều không có đối tượng để tạo thành. Ý giới cũng là trống rong, không chân thật, thảy đều không thật có. Lại nữa, các chủng loại ấy đều không có đối tượng tạo thành. Ví như có người đem hạt giống gieo xuống đất, muốn chúng nảy mầm nhiều thì phải nhờ các nhân duyên như nước, ánh sáng mặt trời chiếu xuống, chỉ riêng hạt giống thì không thể tạo ra mầm, hạt giống ấy cũng không thể cùng mầm hợp thành, mà nhờ hạt giống sinh ra mầm, hạt giống không tách rời mầm, mầm cũng không thể tách rời hạt giống. Ý giới cũng vậy, từ ý nghiệp này mà hiển hiện các loại nghiệp khác, nên nói là ý giới. Ý không rời niệm, niệm cũng không rời ý, tuy ý giới có nhân duyên riêng biệt hợp thành. Ý giới ấy không phải bên trong, bên ngoài hay chặng giữa, đều do những tạo tác vốn có đời trước tạo thành và do ý nghiệp nương nơi giới mà hợp thành cùng với nhân duyên hiện tại sinh ra, cho nên tạm gọi là ý. Từ chính mình sinh khởi đủ tất cả tội, phước; mười hai duyên khởi là hiển bày có đối tượng giảng nói, cho nên gọi là ý giới. Dùng phương tiện để giảng nói là muốn chúng sinh hiểu rõ tận cùng nguồn gốc ấy, nếu cầu chân thật rốt ráo thì không có nguồn gốc cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tâm tự buông lung không có xứ sở. Nếu có nhận thức được những ngôn từ hòa dịu thì ý giới ấy cũng chẳng phải là chân thật, không có quá khứ, hiện tại hay vị lai. Người sáng suot hiểu rõ ý giới và pháp giới đều không thật có. Thế nào là quan sát thật tướng của pháp giới? Đó là hết thảy đều không thật có, không thể nắm bắt. Pháp giới không tạo thành cũng không có hình tượng, chỉ do điên đảo mà kiến lập, không có người hay mạng sống, từ hư giả mà sinh khởi sự nhận thức, do đó gọi là pháp giới. Thế nào là hiểu rõ pháp giới nhưng pháp giới không hiển bày? Pháp giới là không thật có, đều từ nhân duyên phát sinh. Vì do nhân duyên sinh nên gọi là không có pháp giới. Vì pháp giới do nhân duyên hợp thành nên luôn biến chuyển, điên đảo. Như Lai Chí Chân thông đạt cảnh giới chúng sinh cho nên gọi là pháp giới. Đó là sự tập hợp giả tạm, tên gọi cũng không thật. Pháp giới không phải bên trong, không có bên ngoài cũng chẳng phải chặng giữa. Song, vì dứt trừ kết sử, chấp vào pháp thiện, bất thiện và đoạn trừ tất cả các sự bàn luận về giáo lý, cho nên gọi là thực hành. Sự bàn luận là không thật có, pháp giới cũng trống rỗng, không có sự thành tựu hình tướng, tên gọi cũng chỉ tạm có mà thôi. Pháp cũng như vậy, không có đối tượng tạo nên hình tướng, vì đoạn dứt những tư tưởng chấp về pháp nên mới hiện bày, giảng nói, nhưng hết thảy đều không có cảnh giới, như trước đã nói. Không có duyên quá khứ, hiện tại hay vị lai mà chỉ do kiến chấp trói buộc, chúng sinh không hiểu được chúng từ duyên hợp thành. Người có trí tuệ thì thông đạt rõ ràng, pháp giới là không có cảnh giới, không nhiều, không ít, chỉ là phương tiện mà nói pháp giới. Người nào hiểu tường tận về pháp giới thì trừ sạch mọi đối tượng sinh khởi trong tất cả ba cõi. Do không vướng mắc các pháp nên không giảng nói về pháp giới hoặc nói về nhân duyên, tướng, dụng hay xứ sở của các pháp. Đó gọi là rốt ráo. Người có trí tuệ cho rằng tướng không có đối tượng sinh khởi. Vì sao? Vì tướng của pháp giới không có đối tượng tạo thành, pháp giới không có xứ sở, không có xứ sở cũng chẳng phải không có xứ sở, không có chỗ hòa hợp, an trụ cũng chẳng phải không an trụ. Quan sát, hiểu rõ pháp giới hoàn toàn không có đối tượng trụ chấp. Pháp giới không sinh ra, không phải chủ thể, không phải chỗ tập hợp, không phải tập hợp nên cũng chẳng tan rã. Pháp là không có đối tượng tạo lập cũng không thành tựu. Nếu có thể quan sát về pháp giới như vậy thì xét về ý thức mà không thấy có thức. Như vậy, nên quan sát như thế nào? Nên quán “Không có đối tượng sinh khởi cảnh giới” gọi là thức giới. Vì sao? Xét về ý thức thì không thật có, là giả tạm không thật, do điên đảo mà thành, từ ý niệm mà có ra nên gọi là ý thức, do sự tạo tác của phàm phu thiếu trí tuệ, chỉ có bậc Hiền thánh mới thông đạt rõ ràng mà thôi. Do hai pháp trên là chỗ duyên dựa cho ý thức nên chúng sinh không thể hiểu rõ được. Chỉ có bậc Trí mới có thể phân biệt hết thảy đều là hư vọng, từ tưởng không chân chánh mà sinh khởi ý thức. Cảnh giới của ý thức ấy không có gì đặc biệt, chỉ là muốn giảng nói tường tận nên tạm mượn ngôn ngữ. Sự vay mượn ấy là vì chúng sinh không hiểu được ngọn nguồn ý thức là không có cảnh giới, do nhân duyên chứa nhóm, xoay chuyển không bờ bến. Các bậc Hiền thánh không tìm cầu thức giới, không chấp ở trong, ở ngoài cũng chẳng phải ở giữa. Người có trí tuệ hiểu rõ ý thức ấy nhưng không thấy có ý thức mà thấy chúng đều từ nhân duyên, từ điên đảo dấy khởi. Do hai nhân duyên này mà có những chúng sinh từ tư tưởng không chân thật nên chấp nhận hư dối, đều từ sự vận dụng của tâm, theo tướng thế gian nên có ý thức. Tâm của chúng sinh vốn từ nhân duyên này mà có. Ý thức không có quá khứ, hiện tại hay vị lai. Xét về nguồn gốc của ý thức cũng không có đối tượng chấp giữ. Ý thức tồn tại không có quá khứ, vị lai cũng chẳng có đối tượng để kiến lập, ý không có đối tượng để nắm giữ. Vì sao? Ý thức vốn thanh tịnh, không có hai, không tướng cũng không phải hai tướng, tuy có chỗ để tồn tại nhưng không thể thấy. Người có trí tuệ hiểu rõ ý thức là như vậy. Những ai biết ý thức như thế thì không thấy có pháp để giảng nói, không có sự kết hợp cũng chẳng có sự tách rời; không có tướng sinh khởi cũng chẳng có tướng giáo hóa, chỉ riêng Hiền thánh mới hiểu rõ. Thế nào là thức giới? Nghĩa là không từ đâu sinh ra cũng không có nhân duyên. Vì sao? Vì ý thức giới từ nhân duyên sinh khởi, xét về gốc ngọn của chúng thì không thể thấy. Người có trí tuệ hiểu rõ sự tạo thành ý là như vậy, vốn không có tạo tác, do chúng sinh tự tạo ra, không có đối tượng sinh khởi. Do chúng sinh tạo ra nên tướng cũng không có đối tượng sinh khởi.
Đức Phật bảo:
–Này Bồ-tát Trì Nhân! Bồ-tát nào quan sát như vậy thì thông đạt về ý thức và cũng không chấp giữ thức.
Phẩm 5: HIỂU RÕ VỀ BA CÕI
Đức Phật bảo Bồ-tát Trì Nhân:
–Bồ-tát Đại sĩ nhờ thông đạt về ý thức nên không chấp vào cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc. Nên quán sát như vầy: Tuy ở trong ba cõi nhưng không chấp giữ cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc, hiểu rõ các cõi như vậy nên thấy đều không có các cõi, lại giảng nói rõ ràng. Biết tường tận chúng sinh ở trong cõi Dục nên Bồ-tát thị hiện ở cõi Dục, biết cõi Sắc và cõi Vô sắc nên thị hiện ở các cõi ấy, ở cõi nào thì thị hiện ở cõi đó, để diễn nói pháp cốt yếu. Các vị hiểu rõ các pháp là tự nhiên, không có cảnh giới, ba cõi cũng không có hình tướng, không có xứ sở, đều từ nhân duyên sinh, luôn xoay vần không giới hạn. Bậc trí thông đạt cảnh giới của ba cõi đều không thật có, từ không hợp thành, do điên đảo mà hiện hữu, hiểu như vậy là hiểu được sự giả tạm, nhưng hoàn toàn không bỏ hẳn sinh tử vì diệt trừ nghiệp điên đảo và tập khí trong ba cõi cho chúng sinh. Như Lai Chí Chân cũng giảng nói cho chúng sinh hiểu ba cõi là không có cảnh giới, chỉ vì họ thiếu trí tuệ, chất chứa những mê hoặc nên cho là có. Tất cả vốn thanh tịnh, tự nhiên, không có cảnh giới nào cả, cũng chẳng nương tựa vào ba cõi. Người có trí tuệ hiểu rõ điều này, là không có cảnh giới, quan sát ba cõi và chúng sinh đều không, bản thân mình cũng như hư không, không có gì cả. Tất cả các pháp đều từ nhân duyên sinh, từ điên đảo hợp thành, tạm có danh hiệu mà thôi, hết thảy đều không có đối tượng tạo thành, là rỗng không, không tạo tác, vốn tự nhiên thanh tịnh, bình đẳng như hư không, đối với tất cả các cõi đều không vướng mắc, giống như hư không thảy đều không thật có. Vì sao? Vì hoàn toàn tịch tĩnh. Hư không vốn thanh tịnh nên không thể nắm bắt, tất cả các cõi cũng như vậy, không ở trong, không ở ngoài cũng chẳng ở giữa, cõi không có cõi, đều không chấp giữ, không sinh khởi. Các bậc có trí tuệ thấy không có sự phát sinh cũng còn phân biệt, không an trụ cũng chẳng phải không an trụ, không bình đẳng, không tà kiến, vốn thanh tịnh không chấp giữ. Bậc trí thông đạt như vậy nên không nắm giữ những điều giả tạm mà luôn bặt dứt ý niệm, không tạo tác. Do đó, bậc Trí không lấy các cõi làm cảnh giới, tướng cũng không có đối tượng sinh ra, chỉ theo thế gian để đặt tên mà thôi, nên không phân biệt, không sinh khởi tưởng. Nếu diệt trừ điều này thì không còn các cõi, giả sử nói là có thì xét tận ngọn nguồn cũng không thể biết, vì không thể biết nên tất cả cũng như vậy. Chỉ có bậc Trí mới thấy được.
Đức Phật nói:
–Này Bồ-tát Trì Nhân! Bồ-tát nào thông đạt như vậy thì hiểu rõ mười tám chủng tánh và ba cõi, các cõi của chúng sinh cùng cõi của chính mình, đạt đến bình đẳng như hư không. Nhờ quan sát như vậy nên các vị ấy luôn bình đẳng, không chấp giữ cảnh giới, do không chap giữ nên thoát khỏi tất cả các cõi, nếu giảng nói thì chỉ tạm mượn mà thôi, biết hết thảy các cõi đều không thật có, ưa thích thể nhập vào đạo, thông suốt các cõi, biết tướng của chúng sinh là không hai, do thấy là không hai nên thấy các cảnh giới, dùng phương tiện thiện xảo để giảng nói cho chúng sinh, tạm nói là có mười hai duyên khởi để mở bày cho chúng sinh khiến họ thể nhập vào nghĩa rốt ráo, nhờ đạt được tuệ thấy khắp tất cả các cõi nên gọi là không có hình tướng.
Này Bồ-tát Trì Nhân! Như Lai Chí Chân không thủ đắc hết thảy xứ sở các pháp, cũng chẳng phải không thủ đắc, không hề quên mất tư duy bình đẳng mới đạt được đạo quả Chánh chân Vô thượng. Vì sao? Vì tất cả các pháp hoàn toàn không thật có, vốn chúng là tự nhiên, không hề thành tựu, thấy các cõi cũng đều như hư không, thật sự rỗng rang; do bình đẳng như hư không nên không có tướng sinh khởi. Như Lai thông đạt tất cả các cõi như vậy, nên Như Lai không cho rằng các cõi là tự nhiên, không cảnh giới cũng chẳng có hình tướng. Vì sao? Vì chúng không thật có cũng không thể nắm bắt. Do không thật có nên biết chúng là tự nhiên. Này Bồ-tát Trì Nhân! Nên biết, Như Lai đã giảng nói, nếu thông đạt về sự sinh khởi của các pháp thì hàng Bồ-tát Đại sĩ ấy có khả năng hiểu được tất cả ngọn nguồn, phân biệt thô, tế như vậy nên giảng nói ý nghĩa hợp, tan của các cảnh giới, thể nhập vào các cõi, hiểu rõ chúng chẳng phải là tự nhiên mà tất cả các cõi đều là cõi hư không, trở lại tự thiêu hủy, không có cảnh giới cũng không thể nhập. Giả sử cho là có thì không bao giờ nắm bắt được, vì chúng sinh không biết nên cho là có. Giống như nhà ảo thuật học làm các phép thuật, vì chúng sinh mà hiện bày vô số sự biến hóa, nhưng những sự biến hóa ấy thì không thể nắm bắt hình tướng, dù cho bao nhiêu người đi nữa cũng không thể biết được. Họ nghe, tin theo sự biến hóa rồi cho là thật có, nhưng người hiểu biết thì biết đó chính là huyễn. Lời Như Lai nói cũng vậy. Nếu có thể hiểu rõ chúng huyễn hóa, không thật thì không bị chúng sinh mê hoặc; nếu có trí tuệ sáng suốt để tự thấu hiểu chính mình như huyễn hóa, hiểu được mọi sự giả tạm thì đời này, người ấy đạt được bản chất tự nhiên như huyễn. Bồtát nào thông suốt, thể nhập điều này thì có thể diễn nói về thật tướng của huyễn. Do hiểu được thật tướng nên sinh ở bất cứ đâu, vị ấy cũng như vậy, đều dùng phương tiện thiện xảo thị hiện, giảng nói cho chúng sinh hiểu biết thảy đều như huyễn hóa. Người nào được nghe, thấy, hiểu rõ pháp huyễn này thì không còn chấp giữ cho đến thành tựu đạo quả Chánh chân Vô thượng. Những người thiếu trí tuệ thì không thể nào thấu đạt được, cho nên mới vì họ mà diễn nói tất cả các pháp. Nếu biết tất cả các pháp thảy đều như huyễn, muốn thể nhập ý nghĩa này thì nên học về pháp cốt lõi sâu xa, không cầu nắm bắt sắc; do sắc không thể nắm bắt nên không thể đoạn trừ. Nói không thể đoạn trừ tất cả các cõi đều là giả tạm, muốn diễn nói về mọi sự hợp, tan, phân biệt các cảnh giới, tạo ra nhân duyên, phương tiện thiện xảo để giảng nói về cội gốc, ngọn nguồn của chân lý, thế gian, xuất thế gian, hữu vi, vô vi, thuận hợp, không thuận hợp, ứng hợp hoặc chẳng ứng hợp, giảng nói về phương tiện thiện xảo, hoặc hoàn toàn bặt dứt ngôn ngữ, có ý nghĩa, không có ý nghĩa, nói về nhân duyên mà phân biệt xứ sở hay không có xứ sở… thì nên thông đạt tất cả đều như huyễn.
Phẩm 6: CÁC NHẬP
Đức Phật bảo Bồ-tát Trì Nhân:
–Thế nào là Bồ-tát thông suốt các nhập? Ở đây, Bồ-tát quan sát và hiểu rõ ngọn nguồn của mười hai nhập. Thế nào gọi là quán? Nghĩa là, đối tượng có thể quan sát là không thấy chỗ hội nhập của mắt, mắt không thành tựu, đều không thật có. Vì sao? Chỗ hội nhập của mắt đều từ duyên đối và điên đảo mà sinh khởi. Sự trói buộc của sắc và duyên khởi hòa hợp có hai nhân duyên: một là nhãn nhập, hai là theo đối. Vì phát sinh ra sắc nên gọi là nhãn nhập. Như vậy, mắt và sắc có hai chỗ nương tựa, chấp giữ, là chỗ nhập của mắt và sắc. Sắc chính là đối tượng của mắt, mắt thấy sắc, rồi chấp huyễn làm tướng, cho nên gọi là các nhập, chính là chứa nhóm và chấp giữ. Mắt không lệ thuộc sắc, sắc cũng không lệ thuộc mắt; sắc không lệ thuộc sắc, mắt cũng không lệ thuộc mắt, hết thảy đều từ duyên khởi. Do sắc và duyên nên gọi là sắc nhập. Mắt thấy đối tượng là duyên nên gọi là có tướng, nên gọi nhập là nghiệp. Thế nào gọi nhập là nghiệp? Do lấy điên đảo làm lợi ích cứu cánh nên không thể nắm bắt được nhập, mắt và các sắc. Người có trí tuệ sáng suốt không tìm cầu các nhập nên thấy được chân lý. Do điên đảo hợp thành nên phàm phu thiếu trí tuệ cho là có hai tướng. Mắt thâu nhận sắc, liền hiển bày sự chân thật của nhập. Hiểu rõ chân lý sắc là đối tượng của mắt, không ở bên trong, không ở bên ngoài cũng không phải ở giữa. Mắt và các sắc không có quá khứ, hiện tại hay vị lai, chỉ hiện bày mắt thấy sắc, do hiện bày mắt thấy sắc nên có tham muốn, nắm bắt. Phàm phu ít trí tuệ thì không thể biết sự vận hành này. Bậc có trí tuệ biết rõ là rỗng không, không thật có, do tư tưởng điên đảo nên thành cac nhập, các nhập là thật tướng sao cho là có? Nhập ấy không có tướng, đều từ duyên khởi, cho nên gọi là các nhập. Như Lai đã giảng nói các nhập là trống rỗng, đều từ điên đảo, tạm có do nhân duyên, không có sự tạo tác cũng chẳng khiến người tạo tác. Mắt không thể gọi là sắc, sắc không thể gọi là mắt, cũng không có đối tượng nhận biết, hết thảy đều vắng lặng. Mắt, sắc và các nhập đều cùng tịch tĩnh, không có người tạo ra, tư nhân duyên sinh khởi. Phàm phu ít trí tuệ nên tâm luôn điên đảo, chỉ có bậc Hiền thánh mới thấu đạt được, chúng vốn không hề sinh ra cũng chưa từng diệt, không đến, không đi. Mắt không thể xa rời mắt, mắt không nghĩ là mắt, sắc cũng không bỏ sắc, liền biết là thật tướng vì sắc không nghĩ là sắc. Vì sao? Vì hết thảy đều không, hết thảy đều tịch tĩnh nên thông đạt thật tướng. Mắt không nương vào mắt, sắc không biết là sắc, vì là thật tướng. Thật tướng của mắt và sắc thì không thể thành tựu. Mắt không cầu nơi mắt cũng không tập hợp hay tan rã, hết thảy đều rỗng lặng. Mắt không chứa nhóm mắt, cho rằng ta là đối tượng của mắt. Sắc không chứa nhóm sac, sắc là ngã sở, huyễn là thật tướng. Mắt, sắc đều là rỗng không nên gọi là thật tướng, chỉ tạm nói mà thôi. Tai – thanh, mũi – hương, lưỡi – vị, thân – xúc, tâm – pháp cũng không thể nắm bắt, đều là không thật có, cũng chẳng có đối tượng thành tựu. Vì sao? Vì từ nhân duyên sinh khởi, ở chỗ điên đảo, do hai nhân duyên mà kiến lập, từ tâm pháp khởi lên các nhập, cho nên gọi là các nhập. Do pháp nhân duyên nên tạm có các nhập, pháp không lệ thuộc tâm, tâm không lệ thuộc pháp, pháp không lệ thuộc pháp, tâm không lệ thuộc tâm mà lệ thuộc đều từ duyên khởi, kiến lập các pháp. Nhờ tâm thấy tướng, không thể nhập vào pháp, bậc Trí thông đạt điều này, nếu tìm cầu nguồn gốc các nhập mà thấy được chân lý thì đều là điên đảo hợp thành. Phàm phu ít trí tuệ nên thấy có hai tướng. Pháp không ở bên trong, bên ngoài cũng không ở giữa, tâm không thể nhập vào pháp, pháp cũng không thể nhập vào tâm, không có quá khứ, hiện tại hay vị lai, tất cả đều từ duyên sinh. Người thiếu trí tuệ không thể hiểu rõ, chỉ có bậc Trí mới thông đạt điều ấy. Vì sao? Tất cả đều không thật có, vì ở nơi thật tướng, không hoàn toàn thể nhập vào pháp cũng không có tướng chân thật nên không thành tựu, chỉ hiện hữu giả tạm mà thôi. Như vậy, này Bồ-tát Trì Nhân! Bồ-tát nào hiểu rõ mọi đối tượng của các nhập thì liền thông đạt tất cả mười hai nhập, không còn vướng mắc, lệ thuộc, đoạn trừ các nhập. Do tạo lập các nhập và các phân biệt khiến không còn đối tượng sinh khởi, hiểu rõ về tướng không, giống như chỗ hòa hợp của các dòng nước, cho nên nói là nước luôn len lỏi vào khắp mọi nơi. Mười hai nhân duyên này cũng lại như vậy. Cho rằng trong, ngoài đều từ duyên sinh như dòng nước ấy đến và tồn tại ở nhiều nơi, tuy nói thật tướng không thể nắm bắt được xứ sở nhưng do bị kiến chấp trói buộc nên các nhập ấy mới hướng đến phiền não. Phàm phu không thể đoạn trừ phiền não nên gọi là nhập môn, mắt lệ thuộc sắc và tai, mũi, miệng, thân và tâm cũng vậy, không có nơi nương tựa. Bồ-tát Đại sĩ thông đạt thật tướng, hiểu rõ các nhập, nhờ hiểu rõ các nhập nên trừ sạch mọi kết sử. Này Bồ-tát Trì Nhân! Như vậy gọi là Bồ-tát thông suốt các nhập.
Phẩm 7: MƯỜI HAI NHÂN DUYÊN
Đức Phật bảo Bồ-tát Trì Nhân:
–Thế nào là hiểu rõ, giảng nói và quan sát mười hai duyên khởi? Phải quán như thế nào? Đó là, không biết các pháp không có nghiệp vô minh, cho nên gọi là si; không biết chúng không có xứ sở, gọi là vô minh; không hiểu rõ các pháp có sinh khởi vô minh nên gọi là si. Sao không thông đạt điều này mà gọi là vô minh? Do vô minh làm duyên nên có hành. Nếu không thấu rõ các pháp, không làm theo pháp này, gọi là do vô minh làm nhân duyên nên liền có hành; có hành và duyên nên phát sinh thức, nên nói từ hành đến thức có hai tướng là danh và sắc. Do đó, từ thức làm duyên mà sinh ra danh và sắc, từ danh, sắc lại sinh ra sáu nhập, nên gọi là từ danh sắc làm duyên mà có sáu nhập; do đây liền có thọ, nên nói từ sáu nhập làm duyên sinh ra những đối tượng khác; nhân đây mà có thọ, nên nói từ đối tượng này làm duyên nên có thọ; lại sinh khởi ái nên nói từ thọ làm duyên sinh ra ái, từ duyên ái sinh ra thọ nên gọi từ duyên ái sinh khởi thọ; từ đối tượng là thọ lại có chấp giữ, nên gọi từ duyên thọ mà có chấp thủ, do nắm giữ nên sinh khởi mãi, gọi là từ duyên vốn có sinh ra đối tượng, từ duyên đã sinh khởi mà có già, bệnh, chết, than khóc, lo buồn, các việc không vừa ý và các tai nạn, khổ đau nhóm họp, từ khi sinh ra đã có vô lượng khổ. Vì sao các khổ lại nhóm họp? Vì vô minh nên chứa nhóm các điên đảo, do từ ái mà khởi lên tham dục, tâm lúc nào cũng luyến tiếc không buông bỏ. Do đó, thế gian tự giam hãm mình trong mười hai duyên khởi, không có mắt sáng suốt nên bị lưới vô minh bao phủ, chịu bệnh tật, ở nơi tối tăm đều do vô minh dẫn đầu. Nên quán mười hai nhân duyên như vậy thì hiểu rõ vô minh này là giả tạm, không thật có. Lại nữa, vì không thể nhận biết bản tế. Vì sao không thể nhận biết? Vì không sáng suốt, vì vô minh nên không thể biết sự sinh khởi của bản tế. Nếu có trí tuệ sáng suốt thì nên quán điều này, hiểu rõ bản tế tức đạt đến chỗ không bờ bến, không khởi tư tưởng cũng chẳng phải không có tư tưởng, liền đoạn trừ mọi tư tưởng. Do đoạn dứt các tư tưởng nên không nương vào vô minh. Tất cả các pháp không phải là vô minh, mà cho là các pháp không xa lìa vô minh là tâm tự cao, tự đại. Vì sao? Vì bỏ vô minh, do đó gọi tất cả các pháp đều là vô minh. Người nào có thể hiểu rõ tất cả các pháp đều là vô minh thì thông đạt về nghiệp, không thể đạt đến trí tuệ. Do tiêu trừ vô minh nên gọi là hiểu rõ về nghiệp. Thế nào la tiêu trừ vô minh? Là thông suốt tất cả các pháp đều không thật có, là hư vọng, không chân thật, ở nơi pháp điên đảo biết là không thật có, chỉ tạm nói có mà thôi, do đó gọi là đoạn trừ vô minh, cũng đoạn trừ minh; minh và vô minh thảy đều hư vọng, không thật có nên gọi là vô minh. Do vô minh nên có sự tạo tác của nghiệp, lại khởi lên mười hai nhân duyên. Phàm phu thiếu trí tuệ, không thể thông đạt, tự mình lao vào tà kiến, tối tăm, hết thảy không thật có mà trở lại tạo ra có, cho nên gọi là hành; không có xứ sở, không có ngôn từ cũng chẳng phải không có ngôn từ, không nhận biết, sáng cũng chẳng phải là tối, nghiệp của các hành vốn là trống rỗng, đối tượng của pháp là không có mà trở lại tạo tác nên có đối tượng, đó gọi là duyên của vô minh, khiến thành tựu các hành. Hành ấy là vô thường, từ đây, chẳng phải do nghiệp mà có các hành. Lại nữa, quan sát các hành không có quá khứ, hiện tại hay vị lai, vô minh ấy là không, là hiểu rõ vô minh, các hành vốn không, các hành đều là thật tướng, hành không hề chấp thủ. Do vô minh nên sinh khởi các hành mà vô minh ay không lệ thuộc các hành, không đoạn trừ minh và hành, vô minh liền tiêu diệt, hành không trừ bỏ hành, bỏ hành và vô minh này thì phá hết tối tăm mà còn ở trong điên đảo vô minh thì không thể có, đó gọi là thật tướng. Hành không thể nắm bắt cũng gọi là thật tướng, do tối tăm che lấp nên gọi là vô minh, vì sự tăm tối của vô minh mà tạo ra các hành. Nếu pháp không có vô minh thì không thật có, do pháp giả tạm nên có vô minh, hành và thức, hành không lệ thuộc hành, không khởi lên thức và hành. Vì sao? Vì hành không biết là hành, hành không có pháp đối tượng để có thể đạt đến được, từ hành và thức sinh ra các điên đảo. Hành và thức ấy khong ở bên trong, không ở bên ngoài, không phải chặng giữa, không khởi lên thức, do buông lung, tạo tác nên sinh ra thức. Người có trí tuệ biết tìm cầu thức là không thể được vì thức không có đối tượng sinh ra cũng chẳng có đối tượng thấy, không thể phân biệt về thức, danh sắc, sáu nhập và đối tượng của thọ. Thọ có sinh, già, bệnh, chết, lo buồn, than khóc, nhóm họp những điều không vừa ý và khổ não… xoay vần không bờ bến, không thể chấm dứt sinh tử, rơi vào trong năm sông bốn dòng, không thể tự cứu mình, hiểu rõ chúng không có nguồn gốc, hết thảy đều không thể thủ đắc, không đạt đến, không cùng tận về nghiệp bình đẳng, ngay cả mười hai nhân duyen cũng vậy. Đây gọi là hai loại vô minh. Do đó, siêng năng cầu tất cả các pháp, vì cầu các pháp nên không có tư tưởng nào mà chẳng dấy khởi, đây là hội nhập mười hai nhân duyên bằng cách thuận hợp, sáng suốt.
Này Bồ-tát Trì Nhân! Bồ-tát nào hiểu rõ, giảng nói về mười hai duyên khởi, biết được duyên hòa hợp là có đối tượng sinh khởi, phân biệt, không chứa nhóm, đó gọi là hiểu được chúng không có đối tượng sinh ra. Nếu thông đạt duyên khởi và quán mười hai nhân duyên thì không nên xét về sự phát sinh, không đạt đến tuệ phương tiện. Nếu có thể thông suốt mười hai nhân duyên là không có đối tượng sinh ra mới gọi là hiểu rõ và đạt đến tuệ vô sinh. Do đó, này Bồ-tát Trì Nhân! Bồtát Đại sĩ muốn thể nhập vào tuệ vô sinh, kiến lập sự chứng đắc thì nên phân biệt, giảng nói và thực hành theo mười hai duyên khởi, ngoài ra còn phải biết các duyên khởi không có đối tượng sinh khởi, nhờ quán như vậy mới có thể đạt được tuệ vô sinh. Do đạt được tuệ vô sinh nên kiến lập sự chứng đắc, gọi là không có đối tượng sinh khởi, thông đạt đạo tuệ. Như vậy, này Bồ-tát Trì Nhân! Bồ-tát Đại sĩ nào thực hành như vậy, đối với đối tượng phát sinh các duyên mà thấy không có đối tượng sinh ra thì thoát hẳn ba cõi, thông đạt nhân duyên, quan sát chúng là không có đối tượng sinh khởi. Nếu có Bồ-tát đạt đến tướng vô sinh thì mau chóng đạt được pháp Nhẫn vô sinh, dần dần gần gũi hạnh Bồ-tát, đích thân phụng sự chư Phật, được Phật thọ ký sẽ thành tựu đạo quả Chánh chân Vô thượng, làm Bậc Tối Chánh Giác. Lại nữa, nhờ chính mình kính giữ, tu hành theo lời Phật dạy như vậy nên các bậc Bồ-tát đều được thọ ký. Các vị đều tin ưa, phân biệt tất cả các pháp thế gian để cứu giúp thế gian, thông đạt cội nguồn mười hai duyên khởi là nhờ hiểu duyên khởi, được chư Phật Thế Tôn luôn thị hiện trước mặt, không còn sợ hãi ma Ba-tuần, nếu ở hiện tại mà thấy đất, nước và tất cả các vật đều sinh tử thì đã vượt qua các tai nạn, nhổ sạch gốc rễ vô minh. Thực hành như vậy thì đạt được an lạc trọn vẹn, luôn gặp Bồ-tát.
Đức Phật bảo:
–Này Bồ-tát Trì Nhân! Bồ-tát nào hiểu rõ như vậy, biết ngã và ngã sở đều do nhân duyên mà có, nếu được nghe, hiểu rõ nguồn gốc về mười hai duyên khởi mà tin ưa, không nghi ngờ về ngọn nguồn thành tựu của chư Như Lai thì không bao lâu, vị ấy sẽ được thọ ký, đạt được pháp Nhẫn vô sinh. Nhờ đã được thọ ký nên không bao lâu, vị ấy ở chỗ chư Như Lai mà được chứng đắc đạo quả Chánh chân Vô thượng, thành Bậc Tối Chánh Giác.