KINH BẢO NỮ SỞ VẤN
Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Trúc Pháp Hộ
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 4

Phẩm 9: BA MƯƠI HAI TƯỚNG

Bấy giờ, Bảo Nữ hỏi Thế Tôn:

–Kính bạch Đại Thánh! Nay Đại Thánh có thể cho biết, ba mươi hai tướng Đại nhân của Như Lai Chí Chân là do đời trước tu công đức gì mà đạt được và ba mươi hai tướng Đại nhân ấy đã phân bố khắp thân thể?

Phật bảo Bảo Nữ:

–Trong những đời quá khứ, ta đã tu hành vô lượng công đức, tích chứa các hạnh, do đó Như Lai đạt được ba mươi hai tướng Đại nhân phân bố khắp thân. Nay nêu đại lược về tướng của Như Lai:

Tướng Đại nhân bàn chân bằng phẳng là do đời quá khứ bền bỉ khuyến giúp không thoái chuyển, chưa từng che lấp công đức của người khác.

Tướng Đại nhân tay chân của Như Lai có dấu pháp luân là do đời quá khứ phát khởi, thiết lập biết bao nhiêu loại hình bố thí.

Tướng Đại nhân về ngón tay của Như Lai Chí Chân thon dài, đẹp là do đời quá khứ giảng nói nghĩa kinh, cứu độ chúng sinh, làm cho không còn hoạn nạn.

Tướng Đại nhân tay chân Như Lai có màn mỏng là do đời quá khứ chưa từng phá hoại quyến thuộc người khác.

Tướng Đại nhân tay chân mềm mại đẹp đẽ là do đời quá khứ bố thí biết bao loại y phục mềm mại.

Như Lai có tướng Đại nhân bảy chỗ đều đầy đủ là do đời quá khứ thiết bày bố thí, cung cấp cho kẻ thiếu thốn.

Tướng Đại nhân đầu gối bằng phẳng không có đốt, đùi vế như đùi nai của Như Lai là do đời quá khứ phụng thọ kinh điển, không chống trái.

Tướng Đại nhân mã âm tàng của Như Lai là do đời quá khứ, thận trọng giữ thân, xa lìa sắc dục.

Tướng Đại nhân hai má của thân Như Lai đầy đặn như sư tử là do đời trước tu hành đầy đủ nghiệp tịnh.

Tướng Đại nhân chữ vạn tự nhiên ở trước ngực Như Lai Chí Chân là do đời trước dứt trừ hạnh bất thiện uế trược.

Tướng Đại nhân tay chân Như Lai đầy đủ tròn trịa là do đời trước dùng vô úy thí an ủi mọi người.

Tướng Đại nhân cánh tay dài quá goi của Như Lai là do đời trước làm việc giúp đỡ người.

Tướng Đại nhân thân trong sạch không tỳ vết của Như Lai là do đời trước làm theo mười điều thiện, không nhàm chán.

Tướng Đại nhân vầng trán đầy đặn cao rộng của Như Lai là do đời trước hễ ai bị bệnh, Như Lai đều thăm viếng và dùng đủ loại thuốc cung cấp chữa trị.

Tướng Đại nhân bước đi như sư tử của Như Lai là do đời trước gieo trồng đầy đủ phước đức.

Tướng Đại nhân bốn mươi chiếc răng trắng của Như Lai là do đới trước tâm tánh bình đẳng nhân từ đối với chúng sinh.

Tướng Đại nhân răng không thưa của Như Lai là do đời trước gặp người tranh cãi, thì đều khiến họ hòa hợp.

Tướng Đại nhân răng khít của Như Lai là do đời trước dùng vật tinh tế vừa ý để biếu tặng người.

Tướng Đại nhân lông mày đẹp đẽ thanh bạch của Như Lai là do đời trước khéo tự giữ gìn thân khẩu tâm.

Tướng Đại nhân lưỡi rộng dài của Như Lai là do đời trước nói lời chí thành, giữ lỗi về miệng.

Tướng Đại nhân sáng ngời của Như Lai là do vô lượng phước cúng dường được rốt ráo, tâm hành nhân hòa, ban cho chúng sinh sự che chở.

Tướng Đại nhân tiếng Phạm âm êm diệu như tiếng chim loan của Như Lai là do đời quá khứ nói năng nhu hòa, đối với mọi người, giữ gìn lời nói, lời lẽ đúng pháp, vô số người nghe lời nói ấy ai cũng vui vẻ.

Tướng Đại nhân đồng tử màu xanh biếc của Như Lai là do đời trước thường dùng mắt thương yêu nhìn mọi người.

Tướng Đại nhân đôi mắt như trăng mới mọc của Như Lai là do đời trước không hành thô bạo, tâm tánh hòa thuận.

Tướng Đại nhân lông trắng giữa chặng mày là do đời quá khứ khen ngợi ca tụng đức hạnh nhàn tịnh của mọi người.

Tướng Đại nhân nhục kế tự nhiên trên đảnh Như Lai là do đời quá khứ kính phụng Hiền thánh, lễ bái tôn trưởng.

Tướng Đại nhân cơ thể mềm mại đẹp đẽ của Như Lai là do đời quá khứ tâm nghĩ việc kết tập tạng pháp.

Tướng Đại nhân hình màu vàng tía của Như Lai là do đời quá khứ bố thí nhiều y phục, giường, đồ nằm.

Tướng Đại nhân lông mọc khắp lỗ chân lông của Như Lai là do đời trước xa lìa chốn tụ tập ồn ào.

Tướng Đại nhân lông trên thân Như Lai xoay về phía phải là do đời trước tôn kính sư trưởng, nghe lời thiện hữu, cung kính làm theo.

Tướng Đại nhân tóc trên đầu màu xanh biếc của Như Lai là do đời trước thương xót chúng sinh, không dùng đao gậy làm hại họ.

Tướng Đại nhân thân thể đều đặn tròn trịa, không cong vẹo của Như Lai là do đời trước đã khuyến hóa, an ủi chúng sinh khiến tâm ý định tĩnh.

Tướng Đại nhân xương sống mắc nhau như dây xích, có chất chói sáng rực rỡ của Như Lai là do đời quá khứ vì các đấng Chánh giác mà tạo lập hình tượng, trùng tu chùa chiền, khuyên người ly tán hòa hợp, ban bố sự không sợ hãi; khuyên người tranh tụng khiến hòa thuận.

Người nên biết, vào đời quá khứ, ta đã hành trì vô lượng các gốc đức không thể tính đếm. Như Lai đời trước đã phụng hành như thế do đó đã đạt được ba mươi hai tướng Đại nhân này.

Bảo Nữ bạch Đức Thế Tôn:

–Thật chưa từng có! Bạch Đấng Thiên Trung Thiên! Thuở quá khứ Như Lai đã hành tạo gốc đức thật không ai sánh kịp cùng phân biệt, giảng nói pháp chư Phật.

Phật bảo Bảo Nữ:

–Đúng vậy, đúng vậy! Như lời ngươi nói, Như Lai đã phân biệt giảng thuyết pháp của chư Phật. Nếu có Bồ-tát được nghe về gốc đức. Thuở xưa, Như Lai đã gieo trồng và lời giảng dạy của chư Phật thì đạt được niềm vui vô tận lợi ích an lành, tức sẽ hướng về hạnh chân đế, đều có thể đạt đầy đủ pháp của chư Phật.

Khi Phật giảng nói phẩm pháp môn mười Lực, bốn điều không sợ, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật và ba mươi hai tướng Đại nhân của Như Lai thì trong mười phương thế giới, hiện đủ sáu thứ chấn động, ánh sáng bao trùm, chiếu khắp cõi Phật chẳng thể kể xiết. Vô số loài chúng sinh đều phát đạo ý Chánh chân vô thượng, hai vạn năm ngàn Bồ-tát đắc Pháp nhẫn bất khởi, trăm ngàn chúng trời trên hư không rải hoa trời, đánh trống trời, tấu nhạc trời như đàn cầm, sáo, tiêu, đàn sắt, cất tiếng khen ngợi: “Người nào được nghe về mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, ba mươi hai tướng Đại nhân thì đạt công đức đầy đủ, không có tội lỗi, tin vui không nghi ngờ, hành đúng như lời dạy, thì ở trước đại chúng chư Thiên cũng như thế gian, gầm tiếng gầm của sư tử, giống như Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác hôm nay ở trước thiên nhân gầm tiếng gầm của sư tử. Vì sao? Vì chánh điển này không bao giờ đưa đến cho kẻ thấp kém, thiếu đức tin, cho hàng Tiểu thừa. Người nào quay về với pháp thanh tịnh và tu theo, thì người ấy sẽ đạt được điều cốt yếu của kinh điển này nên thương kính, ưa thích, an vui hết mực.

 

Phẩm 10: HÀNH PHÁP

Khi ấy, Bảo Nữ bạch Thế Tôn:

–Bạch Đấng Thiên Trung Thiên! Thật chưa từng có! Như Lai đã giảng nói chánh điển của chư Phật với tất cả gốc đức ở đời quá khứ xa xưa. Bạch Thế Tôn! Sao gọi là chỗ hành của Bồ-tát tuân tu kinh điển là hành pháp? Hay thay, bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn nói về hành pháp của Bồ-tát.

Phật bảo Bảo Nữ:

–Chí tánh thanh tịnh là chỗ hành pháp của Bồ-tát; thân hữu bền vững là hành pháp; có sự nối tiếp ứng hợp là hành pháp; luôn luôn ban ân là hành pháp; nhẫn được sự hủy nhục là hành pháp; quy mạng mà không hề xao lãng là hành pháp; đối với người yếu kém, có thể nhẫn nhục là hành pháp; khó khăn đến nơi mà có thể bố thí là hành pháp; thương xót các loài là hành pháp; chí tánh thương yêu là hành pháp; cứu giúp người phạm giới là hành pháp; tư duy về kinh điển là hành pháp; thuận theo đạo giáo là hành pháp; ưa thích chánh điển là hành pháp; chăm sóc các kinh là hành pháp; theo sự vắng lặng là hành pháp; ưa ở một mình là hành pháp; không chán chỗ thanh vắng là hành pháp; mong chỗ vắng vẻ là hành pháp; lìa chỗ đông đảo là hành pháp; bảo vệ chúng sinh là hành pháp; chỗ nhìn không tổn hại là hành pháp; chuyên tu tâm Từ là hành pháp; nhập vào đại Bi là hành pháp; hoan hỷ thọ pháp là hành pháp; quán chiếu thiền tư là pháp hành; làm sáng tỏ tâm đạo là pháp hành; khen pháp Đại thừa là pháp hành; trừ bỏ gánh nặng là hành pháp; tâm không khiếp nhược là hành pháp; tư duy biết đủ là hành pháp; bỏ xan tham đa dục là hành pháp; biết Hiền thánh có đủ đức mà ít lời là hành pháp; không tranh cãi, giành giật, oán giận, mà nhẫn nhục, nhân hòa là hành pháp; tin biết về nghiệp, tội phước báo ứng là hành pháp; tín, giới, văn, thí, tàm (hổ), sỉ (thẹn), trí tuệ, làm theo bảy Tài này là hành pháp; phụng kính tôn trưởng, thuận theo thiện hữu, luôn vâng theo là hành pháp; tâm thường khiêm tốn, cung thuận, tự hạ là hành pháp; không tự hủy mình, không chê người, không khen đức mình, che giấu công người là hành pháp; dứt bỏ trần dục, dứt bỏ sân giận, ngu si tăm tối, xa lìa kiêu mạn là hành pháp; oai nghi phép tắc, hành trì đầy đủ là hành pháp; khéo nghe kinh điển, hoan hỷ mừng vui là hành pháp; không xa rời Phật, dốc tin chánh điển, kính theo Thánh chúng là hành pháp; bố thí, điều phục tâm, đạt trí tuệ, xuất gia, tịnh tu phạm hạnh là hành pháp; được lợi hay không có lợi, khen ngợi hay chê bai, có danh hay vô danh, khổ hay vui, không vì thế mà bị dao động, lấy lỗi lầm của thế gian làm pháp sở hữu là hành pháp; nếu gặp thân hữu hay oán địch, thăm hỏi người lớn tuổi thì sắc mặt luôn hòa vui không sầu khổ là hành pháp; không có chơi đùa, xa lìa chỗ tăm tối, không dua nịnh, không có tánh tà, không lầm lỗi, gốc ngọn nơi tâm tánh đều thanh tịnh rốt ráo là hành phap; hành bốn Nhiếp pháp, ban bố nhân ái, tài của và nhân từ đều hiện lợi lạc, tất cả dồn lại cứu giúp chúng sinh là hành pháp; trì pháp kiên cố là hành pháp; niệm Phật, niện pháp, niệm Thánh chúng, niệm bố thí, niệm giữ giới cấm, niệm chư Thiên là hành pháp; Thí độ vô cực, giới, nhẫn, tinh tấn, nhất tâm, Trí tuệ độ vô cực là hành pháp; dùng phương tiện khéo léo, vì các Bồ-tát khuyến giúp tất cả trồng gốc đức là hành pháp; thân, khẩu, ý thanh tịnh, giữ mười điều thiện là hành pháp; vô thường, khổ, không, không có thân, không nhân, không ngã, không thọ, không mạng, tin hiểu như thế là hành pháp; phân biệt hạnh Không, kiến lập Vô tướng, hiểu rõ Vô nguyện, ở trong ba cõi mà không đắm trước là hành pháp; tu theo Ý chỉ, Ý đoạn, Thần túc, Căn, Lực, Giác ý, mà vào con đường chính quán chiếu tịch tĩnh là hành pháp.

Phật bảo Bảo Nữ:

–Người hành pháp ấy, nghĩa là không có nhãn (mắt) cũng không nhãn hành, không sắc tưởng hành, không có nhĩ hành, cũng không có thanh hành, không tưởng hưởng hành, không tỷ hành, cũng không có hương hành, không tưởng hương hành, không có thiệt hành, cũng không có vị hành, không tưởng vị hành, không có thân hành, không có xúc hành, không tưởng xúc hành, không có ý hành, cũng không có pháp hành, không tưởng pháp hành, cũng không sắc hành, đó là hành pháp. Không sắc tưởng hành, không sắc khổ tưởng, không ngã sắc hành, không tịch sắc hành, đó là hành pháp. Chẳng không sắc hành, chẳng phải sắc hành vô tướng, đó là hành pháp. Chẳng phải sắc hành vô nguyện, chẳng phải sắc hành không tạo tác, cũng lại chẳng phải sắc hành vắng lặng, lại cũng chẳng phải sắc hành thanh tịnh, lại cũng chẳng phải sắc hành như thật, lại cũng chẳng phải sắc hành vô sinh, lại cũng chẳng phải sắc hành vô khởi, lại cũng chẳng phải sắc hành vô trước, cũng chẳng phải sắc hành không cứu cánh, cũng chẳng phải sắc hành chân như, đó là hành pháp; thống dương (thọ), tư tưởng (tưởng), sinh tử (hành), thức hành cũng như thế, đó là hành pháp. Chẳng phải thức hành vô thường, chẳng phải thức hành khổ, chẳng phải thức hành vô ngã, chẳng phải thức hành vắng lặng, chẳng phải thức hành Không, chẳng phải thức hành Vô tướng, chẳng phải thức hành Vô nguyện, chẳng phải thức hành không tạo tác, lại cũng chẳng phải thức hành tĩnh lặng, lại cũng chẳng phải thức hành thanh tịnh, lại cũng chẳng phải thức hành xét đúng như thật, lại cũng chẳng phải thức hành vô sở sinh, lại cũng chẳng phải thức hành vô khởi, lại cũng chẳng phải thức hành vô trước, lại cũng chẳng phải thức hành cứu cánh tận cùng, lại cũng chẳng phải thức hành chân như, đó là hành pháp. Lại cũng chẳng phải thức hành quán không, lại cũng chẳng phải thức hành vô tướng, lại cũng chẳng phải thức hành vô nguyện, đó là hành pháp. Cũng chẳng phải bốn đại chủng hành, cũng chẳng phải các nhập hành, cũng chẳng phải cõi Dục, Sắc, Vô sắc hành, đó là hành pháp. Cũng chẳng phải hữu hành, cũng chẳng phải vô hành, lại cũng không có hành, đó là hành pháp. Cũng chẳng phải đi đến, cũng chẳng phải chẳng hành, cũng không xứ sở, cũng không chỗ trụ, đó là hành pháp. Không tâm ý thức hành, đó là hành pháp. Như vậy gọi là hành pháp. Nếu chốn hành không thấy, không nghe, không biết, đó là hành pháp. Nếu khiến cho không thân khẩu tâm hành đó là hành pháp. Nếu không hành pháp, không hành phi pháp đó là hành pháp. Nếu không hành cả hai, không hành gì hết đó là hành pháp. Không quá khứ hành, không tương lai hành, không hiện tại hành, đó là hành pháp. Không ấm hành, không các đại chủng hành, không các nhập hành, đó là hành pháp. Không dục trần hành, không có kết hận, không có chỗ niệm, đó là hành pháp. Nếu không hợp hành, không tài nghiệp hành, không ngã, nhân, thọ mạng hành, thì không có chúng sinh. Neu có chỗ thọ như hành đó là hành pháp. Nếu không phát khởi phân chia hành đó là hành pháp. Nếu không tôi, ta hành đó là hành pháp. Không đoạn diệt hành, không chấp thường, không hành đắc chỗ tột cùng của các kiến, không dựa trung gian hành, đó là hành pháp. Chư pháp hoặc trụ hoặc không chỗ trụ, pháp xứ ta, tôi ở chỗ tự nhiên, xứ ấy là phi xứ, là pháp xứ thanh tịnh, tất cả pháp xứ đều không có xứ, rốt ráo gốc ngọn không phải không xứ, cho đến hoàn toàn không xứ. Tất cả các pháp không động, không chấp, không thể cùng tận, cũng không sở hữu, cũng không chỗ hành, cũng không đùa giỡn, cũng không nương tựa, cũng không không nương tựa, cũng không chỗ trú, cũng không chốn thọ. Đối với pháp ấy bậc Trí tuệ hiểu rõ thông suốt, tuệ không chỗ niệm gọi là Đế. Chân đế không gốc tức là tuệ pháp.

Này Bảo Nữ! Giả sử Bồ-tát hiểu rõ các pháp như thế, dù có vào trong sinh tử để khai hóa chúng sinh cũng không bị mất pháp giải thoát. Đó là Bồ-tát bình đẳng tạo pháp hành.

Khi Thế Tôn giảng nói pháp hành, có tám vạn Bồ-tát đạt được pháp nhẫn.

 

Phẩm 11: KHÔNG THOÁI CHUYỂN

Khi ấy, Bảo Nữ liền dùng mười ức trăm ngàn ngọc anh lạc quý giá dâng cúng Bậc Đại Thánh và thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Nếu Bồ-tát nào phụng trì tu theo pháp hành này thì có thể đạt đầy đủ hoàn toàn pháp Phật, như thế là được thọ ký ở đạo tràng của Phật, hàng phục chúng ma, oán địch, dùng ấn bất thoái chuyển để ấn chứng. Nên khởi quán như thế.

Bấy giờ, Hiền giả Xá-lợi-phất nói với Bảo Nữ:

–Cô đâu có thể biết ấn không thoái chuyển của các hạnh Bồ-tát mà để có thể ấn chứng!

Khi ấy, Bảo Nữ đáp lời Xá-lợi-phất bằng kệ tụng:

Nhân giới và pháp giới
Xét kỹ đều bình đẳng
Biết cõi ấy không hai
Là ấn không thoái chuyển.
Chư Phật trong quá khứ
Tương lai và hiện tại
Pháp giới đều bình đẳng
Thành tựu không thoái chuyển.
Các cảnh giới hiện hữu
Và cảnh giới vô vi
Vắng lặng đạt nghĩa không
Giác ngộ thành không thoái.
Chân như không bến bờ
Không đạt được giới hạn
Nhất thời mà hiểu rõ
Giác ngộ không thoái chuyển.
Xem các pháp phương, tục
Như chỗ hành hướng đến
Trí tuệ quán bình đẳng
Giác ngộ không thoái chuyển.
Như cảnh giới của ma
Cảnh giới Phật bình đẳng
Tương ưng cùng một loại
Vì vậy ấn thấy ấn.
Người có dâm nộ si
Dục trần không giới hạn
Hiểu rõ các tưởng chấp
Thấy rõ không thoái chuyển.
Sinh tử và vô vi
Đạo, giáo đều vắng lặng
Đều hiểu nơi diệt độ
Biết rõ không thoái chuyển.
Năm ấm, đạo cũng thế
Nếu phân biệt có hai
Giống như hình ảnh huyễn
Minh triết không suy tưởng.
Người chấp bốn đại chủng
Giống như cõi hư không
Hiểu rõ không thể nắm
Chân ấn mới là ấn.
Giác nhãn tức là đạo
Hiểu “không” không đắm vướng
Nếu đạo nhãn như thế
Bình đẳng trên bình đẳng.
Các nhập đều như vậy
Hư không luôn bình đẳng
Nên biết rõ như thế
Dùng ấn này thấy ấn.
Điều chúng sinh nghĩ đến
Nhất tam thì biết hết
Không có gì chướng ngại
Vì vậy không thoái chuyển.
Căn cơ của muôn loài
Cao thấp hoặc trung bình
Độ chúng đạt vô cực
Thành tựu không thoái chuyển.
Biện tài rất thông suốt
Không dứt, không dừng nghỉ
Trong ức kiếp đọc tụng
Pháp ấy chẳng thể hết.
Hư không có thể hết
Gió có thể nắm bắt
Tuệ biện tài sáng suốt
Không thể nào tận cùng.
Hành Tổng trì như thế
Thâu tóm tất cả pháp
Danh đức chẳng trái tâm
Nghe nhiều nhưng không mất.
Mười phương chư Phật ấy
Pháp Đạo sư đã thuyết
Đều đạt được Tổng trì
Tuệ tâm nhớ không quên.
Ngàn kiếp trong quá khứ
Được nghe pháp Đại thánh
Thưa hỏi pháp chân đế
Khéo học nơi Tổng trì.
Các môn Tổng trì ấy
Biện tài cũng như vậy
Trí tuệ và các căn
Đạt thành không thoái chuyển.
Dùng không ấn các pháp
Không đắm, không cứu độ
Dùng ấn “ấn nơi không”
Cho nên không thoái chuyển.
Hư không ấn các pháp
Thanh tịnh không sở hữu
Hiểu rõ chân lý này
Dùng ấn không thoái chuyển.
Các pháp nhân duyên không
Nhân duyên chỉ là hành
Nhân duyên nên chẳng thật
Thật tướng tất cả pháp.
Tướng các pháp như huyễn
Giống như tướng hư không
Dùng tướng ấy để ấn
Ấn vào không thoái chuyển.
Tất cả hạnh chúng sinh
Phép tắc của sắc thanh
Nhất thời hiện hữu khắp
Biết rõ không thoái chuyển.
Thí xả nhiều vô lượng
Công đức thường vô tận
Cúng dường cõi hư không
Nhất tâm chí thành lễ.
Giới cấm là vô thượng
Giữ mãi giới của Phật
Không hạn và không lượng
Ngang bằng với hư không.
Giới cấm của chúng sinh
Duyên giác, Học, Vô học
Và giới không thoái chuyển
Mười sáu phần khó sánh.
Nhẫn nhục đến cùng tận
Tu theo vô sở sinh
Thành tựu nhẫn nhục ấy
Đạt thành không thoái chuyển.
Tinh tấn không giới hạn
Phương tiện không thể cùng
Làm an vui chúng sinh
Tinh tấn là Đại tiên.
Thường chuyên chí tu định
Không loạn, khéo cẩn thận
Thấy hết tất cả pháp
Định Tam-muội Vô tránh.
Đạt trí tuệ vô ngại
Trừ sạch chỗ kiến chấp.
Được hạnh quý của Phật
Khiến thành tựu tịnh độ.
Tuệ đạt Độ vô cực
Khéo học nơi thiện quyền.
Dùng Phật ấn để ấn
Tu tập nơi đạo hạnh.
Hạnh ấy chẳng thể biết
Chí tánh trị chỗ nào.
Chứa hạnh nhiều vô lượng
Khai hóa cho chúng sinh.
Chư Thanh văn, Duyên giác
Tất cả ma, dị học.
Chẳng thế nào biết được
Nẻo hành của Đại nhân.
Không đắm trước các hành
Định thần túc cảm ứng
Rõ “không” không sở hữu
Giảng chỗ đạt hưng khởi.
Vị lai và quá khứ
Thị hiện hình tượng Phật
Ngồi nơi cội Bồ-đề
Rồi chuyển bánh xe pháp.
Hiện khắp các quốc độ
Diện kiến mười phương Phật.
Ví như vầng nhật nguyệt
Du hành trên hư không.
Thị hiện vào diệt độ
Tin ưa theo Đại thừa
Không trái với ấn ấy
Ấn ấy không thoái chuyển.
Vô hạn như hư không
Trí tuệ khắp như thế
Giáo pháp không thoái chuyển
Đạo như vậy hiểu rõ.

Bấy giờ, khi Bảo Nữ nói tụng về ấn không thoái chuyển này rồi, thế giới tam thiên đại thiên đều chấn động, năm ngàn Bồ-tát đắc ấn thọ ký không thoái chuyển. Thế Tôn khen Bảo Nữ:

–Hay thay! Hay thay! Ngươi có thể diễn nói về ấn không thoái chuyển của Bồ-tát một cách thông suốt như thế.

 

Phẩm 12: ĐẠI THỪA

Bấy giờ, Hiền giả Tu-bồ-đề bạch với Thế Tôn:

–Kính bạch Đại Thánh! Nay như vị Bảo Nữ này do ấn không thoái chuyển mà thấy ấn, không còn nghi ngờ gì, mới có thể đạt được biện tài thượng diệu như thế. Nếu không vậy thì không dựa vào đâu để giảng thuyết pháp sâu xa dường ấy.

Phật nói:

–Đúng vậy, Tu-bồ-đề! Đúng như lời Hiền giả nói! Bảo Nữ này nhờ ấn không thoái chuyển mà thấy ấn, do đạt pháp nhẫn mới vào được hạnh Đại thừa này.

Khi ấy, Bảo Nữ tiến tới trước, hỏi Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đại thừa là gì?

Phật bảo Bảo Nữ:

–Đại thừa là thừa rộng lớn vì an ủi vỗ về tất cả mọi loài chúng sinh; không bị ngăn che, vì hiển bày các đức và trí tuệ đặc biệt; là thừa lìa cấu uế vì dứt bỏ các việc phiền não tăm tối; là thừa chiếu khắp, vì là tướng của tất cả pháp mon giải thoát; là thừa chói sáng vì không tham đắm ái dục; là thừa tùy duyên vì giải thoát mọi chướng ngại; là thừa thanh tịnh vì giữ gìn phẩm giới; là thừa khéo trụ bình đẳng vì thận trọng hộ trì phẩm định; là thừa vô lậu vì tuyển chọn phẩm tuệ; là thừa giải thoát vì soi chiếu phẩm giải; là thừa thị hiện tất cả pháp bình đẳng vì hiểu rõ phẩm độ tri kiến; là thừa không tiến thoái vì gồm thâu mười Lực; là thừa không sợ hãi vì gầm tiếng gầm của sư tử về bốn điều không sợ; là thừa lìa nơi chốn, không chỗ đi đến vì thâu nhận mười tám pháp Bất cộng thù thắng của chư Phật; là thừa bình đẳng cùng khắp vì bình đẳng thực hành tâm Từ bi với chúng sinh; là thừa vô hại vì dùng chánh pháp chế ngự tất cả các học thuyết ngoại đạo; là thừa tiêu trừ vì hàng phục tất cả ma và quyến thuộc của chúng; là thừa tịch diệt vì trừ diệt phiền não là thừa hàng phục giáo hóa vì hàng phục Ấm ma; là thừa lìa giới hạn vì vượt khỏi Tử ma; là thừa thù thắng vì dứt bỏ Thiên ma; là thừa giàu có vì đầy đủ Thí độ vô cực; là thừa vô nhiệt vì đầy đủ Giới độ vô cực; là thừa bỏ oán địch vì đầy đủ Nhẫn độ vô cực; là thừa kiên cố không hoại diệt vì đầy đủ Tấn độ vô cực; là thừa đoạn trừ tất cả các tội lỗi một cách tự tại vì lìa tâm che lấp; là thừa tu hành vì đầy đủ Tịch tĩnh độ vô cực; tất cả thiện đức, tất cả trí huệ, pháp thế tục, pháp vượt thế tục, nếu gặp thừa này thì đạt đầy đủ Trí độ vô cực; là thừa tùy theo hạnh nguyện hành hóa khắp vì đầy đủ Phương tiện độ vô cực; là thừa đến mà không đến vì hướng đến diệt độ; là thừa đưa về chỗ an lành vì kiến lập tám con đường chánh; là thừa chỗ đến không nơi chốn vì tuân tu, phụng hành quán chiếu tịch tĩnh; là thừa đầy đủ chí nguyện, căn lực, giác ý, tất cả các ma và các Dị học đều không nhìn ra dấu vết; là thừa có bốn thần túc vì có thể hiện bày khắp các cõi Phật; là thừa an trú Thánh đế, có khả năng bình đẳng siêu vượt vì dứt trừ tất cả pháp bất thiện, tu theo các pháp hạnh thiện đức; là thừa khéo tu cẩn thận về ý chỉ vì không có nội oán; là thừa không chấp trước nơi ba cõi vì phụng hành vô lậu; là thừa không tham đắm pháp hữu vi nơi các cõi vì đạt được cảnh giới vô vi sáng tỏ; là thừa không bỏ tâm đạo, ngự trụ điều thiện vì không ưa tuệ nơi hành của tất cả Thanh văn, Duyên giác; là thừa siêu việt vì có thể hành dụng vô kiến đảnh; là thừa trang nghiêm vì thành tựu mọi công đức; là thừa chọn lựa chí tánh của chúng sinh vì đạt trí tuệ rốt ráo; là thừa xiển dương pháp môn vì có thể tế lễ không trái nghịch; là thừa nhất vị vì Phật tuệ bình đẳng; là thừa có âm thanh to lớn vì mười phương đều nghe; là thừa tất cả chư Thiên đều kính lễ vì khéo tu tập; là thừa mà Thích, Phạm, Tứ vương đều khen ngợi vì đức vô lượng; là thừa mà người xan tham có thể bố thí vì đứng đầu; là thừa nếu có phạm giới cấm cũng ban bố giới vì là Đại thừa; là thừa hành nhẫn nhục với tâm mang sân giận vì không có tâm gia hại chúng sinh; là thừa người lười biếng thi hành tinh tấn vì mặc áo giáp kiên cố chưa từng xả bỏ; là thừa người tâm tán loạn hành thiền định vì khiến tâm định tỉnh, hành động nhân từ; là thừa người tà trí hành chánh tuệ vì nghe nhiều hiểu rộng; là thừa dứt trừ khổ hoạn, ban sự an ổn cho chúng sinh vì không tạo tác tất cả ác. Thánh đạo của Phật được biểu hiện bằng trí không chướng ngại, bằng tuệ không gì bằng ở trên tất cả các thừa, vì vậy gọi là Đại thừa.

Khi Phật giảng thuyết về nghĩa Đại thừa này, có một vạn hai ngàn người phát đạo ý Chánh chân vô thượng, cũng nói:

–Chúng con cũng sẽ nương vào Đại thừa ấy, khiến vô số loài người, chúng sinh đều được đứng vững trong Đại thừa này.

Khi ấy, Bảo Nữ bạch Đức Thế Tôn:

–Kính bạch Đại Thánh! Đại thừa này có con đường trở ngại nào mà không chóng quay về nơi các thông tuệ?

Phật bảo Bảo Nữ:

–Người hành Đại thừa có ba mươi hai đường hiểm trở ngại; vì sự hiểm trở này mà không chóng đạt được các thông tuệ. Những gì là ba mươi hai? Đó là:

  1. Ưa thừa Thanh văn.
  2. Thích thừa Duyên giác.
  3. Cầu chỗ Thích, Phạm.
  4. Tham đắm vào chỗ thọ sinh mà tu phạm hạnh.
  5. Chuyên một gốc đức, nói là sở hữu của ta.
  6. Nếu được của cải vật báu thì xan tham luyến tiếc.
  7. Dùng tâm thiên lệch, bè nhóm mà bố thí cho chúng sinh.
  8. Xem thường giới cấm.
  9. Không tâm đạo chuyên tinh tu hành.
  10. Việc tạo sân hận cho là danh tiếng.
  11. Tâm ý bỏ bê buông thả.
  12. Để tâm giong ruổi.
  13. Không cầu nghe nhiều.
  14. Không quán sát việc làm.
  15. Kiêu căng tự đại.
  16. Không thể làm thanh tịnh thân, khẩu, tâm hành.
  17. Không hộ trì chánh pháp.
  18. Phản bội ơn thầy.
  19. Dứt bỏ bốn ơn.
  20. Lìa pháp cốt yếu, vững chắc.
  21. Làm quen với bạn ác.
  22. Theo các ấm, cái.
  23. Chẳng khuyến trợ đạo.
  24. Theo nghĩa gốc bất thiện.
  25. Đã phát đạo ý mà không có phương tiện thiện xảo.
  26. Không đem sự ân cần tán dương Tam bảo.
  27. Ghét các Bồ-tát.
  28. Chưa từng nghe pháp, hay nghe rồi lại hủy báng.
  29. Không biết việc ma.
  30. Học tập sách thế tục.
  31. Không chăm khuyến hóa chúng sinh.
  32. Nhàm chán sinh tử.

Đó là ba mươi hai việc chống trái Đại thừa, rơi vào đường hiểm; đã rơi vào đó thì không thể mau chóng thành tựu các thông tuệ.

Lại nữa, Bảo Nữ! Người học công đức, oai thần của Đại thừa vì thừa này mà rơi vào đường hiểm. Vì sao? Vì họ đối với thừa này có uế trược nơi hữu vi; không ngang với tầm vóc của Đại thừa nên rơi vào đường hiểm. Nếu họ dùng đức vô vi và hành thừa đúng tầm cỡ là Đại thừa thì công đức phát khởi lên. Nếu chấp vào thừa ấy, đối với tâm Như Lai không thuận theo tất cả phiền não nên đối với Đại thừa này là rơi vào đường hiểm. Đối với thừa này, họ đắm trước sự giác ngộ, công đức, danh xưng của Như Lai, đức của Đại thừa như thế là rơi vào đường hiểm. Vì vậy, này Bảo Nữ! Bồ-tát Đại thừa nên bỏ pháp nơi thừa ưa thích phiền não, dùng pháp đó để đạt đến Đại thừa thanh tịnh; phải huân tập pháp này, tư duy phụng hành, ứng hợp với sự rộng lớn ấy. Do pháp nào mà đạt đến Đại thừa thanh tịnh? Có ba mươi hai pháp đạt đến Đại thừa thanh tịnh. Những gì là ba mươi hai? Đối với các chúng sinh không mời thỉnh mà thân thiện; đạt chân đế cứu cánh là vì người; chí tánh kiên cường, tu theo các đức hạnh, hành không chán mệt, thành tựu công đức; tâm không rối loạn, chí tánh thanh tịnh; thân ấy thanh tịnh thì oai nghi phép tắc không hề tưởng nghĩ nữa; lời nói thanh tịnh ngôn hành hợp nhau; tâm ấy thanh tịnh vì không bỏ đạo tâm; bố thí thanh tịnh vì không mong báo đáp; giới hạnh trong sạch vì giữ gìn điều ngăn cấm; nhẫn thanh tịnh vì không tiếc thân mạng; tinh tấn thanh tịnh vì đầy đủ mười Lực, Vô úy; thiền định thanh tịnh vì tất cả phiền não không xen lẫn; trí tuệ thanh tịnh vì dứt trừ tất cả chướng ngại; tâm thanh tịnh vì hàng phục tất cả chúng ma; hạnh kiên cố vì cứu độ các sự cầu xin; ghi nhớ bốn ơn vì không bỏ chúng sinh; cung kính Phật vì hộ trì chánh pháp; vì không mệt mỏi, lười biếng nên có thể hành trì đầy đủ pháp đạo phẩm; nghe không nhàm chán vì gồm đủ Thánh trí; người hoan hỷ càng trở nên thù thắng vì không kiêu mạn; khéo lắng nghe không lơ đễnh, có thể đạt đến vô kiến đỉnh; đối với tất cả pháp không tranh cãi, duyên báo ứng và nơi chốn nhận biết đều hòa thuận; không nghèo thiếu vì thâu được bảy thứ tài sản; sở dĩ không nghèo là do tự tại; đức tuệ thành tựu, không mất thần thông; diệt phiền não của chúng sinh, thành tựu định tịch nhiên; tuệ giải của Như Lai biến hóa, quán chiếu đầy đủ; thấy ba cửa giải thoát mở bày, tu theo Không, Vô tướng, Vô nguyện; bên trong an nhiên, khiến các chúng sinh phân biệt hiểu rõ về tuệ vắng lặng; hưng phát hết trí tuệ, pháp nhẫn bất khởi; tu hành tất cả các pháp yếu, được thọ ký.

Phật nói với Bảo Nữ:

–Đó là ba mươi hai pháp đạt đến Đại thừa thanh tịnh.

Khi nói phẩm ba mươi hai pháp sự này, có bảy vạn hai ngàn trời và người đều phát đạo ý Chánh chân vô thượng, một vạn hai ngàn Bồ-tát được pháp nhẫn bất khởi. Trăm vạn chúng trời trên hư không tán thán khen ngợi, rải hoa trời, trổi các kỹ nhạc, tất cả đều đồng thanh cất tiếng ca tụng:

–Có ai nghe được sự ca ngợi danh xưng công đức của Đại thừa này, thì chúng sinh đó sẽ được hộ trì, kiến lập công đức của chư Phật.

Còn ai nghe, hết lòng tin ưa và về sau thọ trì, xem kỹ, phụng hành thì vượt công đức này.

 

Phẩm 13: CHÚC LỤY

Khi ấy, Thiên đế Thích, Thiên vương Phạm Nhẫn Tích, bốn đại Thiên vương đồng bạch Đức Thế Tôn:

–Bạch Đấng Thiên Trung Thiên! Thật chưa từng có! Chỉ Thế Tôn mới có thể khéo nói ý nghĩa thâm diệu thích hợp. Giảng nói kinh điển này, dẫn dắt tạo lợi ích rất nhiều, diệt các ấm cái và các phiền não hóa độ các thuyết trái nghịch, dẫn dắt, chỉ bày chánh nghĩa, hàng phục ma oán, trừ bỏ các học thuyết khác của ngoại đạo, thâu gồm tất cả pháp chư Phật.

Bạch Thế Tôn! Vì vậy chúng con sẽ thọ trì, tụng đọc, giảng thuyết pháp điển này. Nếu các pháp sư lãnh thọ phụng hành kinh này thì chúng con sẽ cung kính chắp tay; hoặc tại nhà vị ấy, chép trên tre lụa, ban bố xa gần cho chư Thiên, Long thần và Kiền-đạp-hòa… Nếu ai tin kinh này và muốn phụng trì thì sẽ khiến cho sự ăn mặc của người ấy dồi dào không hết; còn người không ưa thích, nhưng xem xét và che chở thì sẽ khiến cho thọ nhan vững chắc, rồi làm cho họ không xâm phạm pháp sư, không tạo quấy nhiễu.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Thiên đế Thích, Phạm thiên Nhẫn Tích, bốn đại Thiên vương:

–Lành thay, lành thay! Chư nhân giả! Chư vị mới là những người nham ủng hộ pháp sư. Chư nhân giả đã hiểu rõ chí nguyện rồi nên có thể ủng hộ pháp sư, đó chính là ủng hộ chánh pháp. Đã ủng hộ chánh pháp tức là ủng hộ tất cả chúng sinh.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Hiền giả A-nan:

–Ông hãy nhận kinh điển Bảo Nữ sở vấn chánh pháp này, thọ trì, đọc tụng vì người khác giảng nói. Giả sử Bồ-tát ở trong trăm ngàn kiếp hành bố thí, nhẫn nhục và có Bồ-tát nắm giữ kinh pháp này, miệng đọc tụng, vì người khác diễn nói, kiến lập đại Bi, muốn độ chúng sinh, đầy đủ đại Từ, tư duy kinh pháp, trụ nơi nhẫn nhục thì phước đức của vị này đạt được hơn phước đức vị trước và nhanh chóng quay về Đại thừa.

Hiền giả A-nan bạch Thế Tôn:

–Con sẽ phụng thọ kinh này. Cúi xin Đại Thánh cho biết kinh pháp này tên là gì và phụng hành như thế nào?

Phật bảo Hiền giả A-nan:

–Kinh pháp này tên là Môn Phẩm Thông Tỏ Thấu Đạt Về Nghĩa Luật Nói Chân Đế, hãy theo đấy mà thọ trì! Lại có tên là Thuyết Giảng Về Vô Lượng Công Đức Nơi Việc Phát Tâm, hãy nên thọ trì! Như Lai phân biệt các tướng mười Lực, bốn Điều không sợ, mười tám pháp Bất cộng chư Phật, ngay khi ấy, các Bồ-tát tu theo pháp hạnh, nói về ấn không thoái chuyển luân, giảng diễn Đại thừa, phụng trì pháp ấy và những vị có mặt trong pháp hội khi Bảo Nữ thưa hỏi cũng đều phụng trì.

Này Hiền giả A-nan! Nếu ông phụng trì phẩm pháp môn này, vì người giảng nói thì sẽ đạt được vô lượng công đức và ánh sáng pháp của các pháp, tức là vì chúng sinh mà kiến lập Phật sự. Vì sao? Vì đó là pháp cứu cánh của chư Phật Thế Tôn trong quá khứ, vị lai và hiện tại.

Phật nói như thế rồi, Bảo Nữ, Hiền giả A-nan, tất cả chúng hội, chư Thiên dân chúng, A-tu-luân, người nơi thế gian nghe kinh, ai cũng hoan hỷ.

Pages: 1 2 3 4