HỒI KÝ NIỆM PHẬT TĂNG
SA MÔN THÍCH HẢI QUANG
Soạn giả: Bồ tát giới BẢO ĐĂNG
LỜI CUỐI CỦA NGƯỜI BIÊN SOẠN
Một năm đã trôi qua, kể từ khi cố Hòa-Thượng
THÍCH HẢI-QUANG tự NIỆM PHẬT TĂNG
Viên-tịch ngày 25 tháng 06 năm 2011 (nhằm ngày 24 tháng 05 năm Tân-Mão, lúc Igiờ 40 chiều thứ Bảy).
Hồi tưởng lại: Từ khi Thầy đặt chân lên đất khách chưa được một tuần, Thầy đã nối gót theo giáo-pháp của Sư-Tổ Đại-Ninh THÍCH THIỀN-TÂM, tiếp-tục hoằng-dương pháp-môn MẬT-TỊNH mãi cho đến cuối cuộc đời tu của mình (suốt 32 năm) ngõ-hầu mở rộng con đường giải-thoát sanh tử luân-hồi cho các hàng Phật-Tử hữu-duyên trong thời buổi Mạt-Pháp nầy, được tăng thêm phần bảo-đảm trên lộ-trình về cõi Tây-Phương Cực-Lạc.
Như ở phần trước cũng đã có nói, Thầy là người (duy-nhất kế-truyền dòng pháp của Sư-Tổ Đại-Ninh, và đã được Ngài ký gởi và phó-thác cho việc chú-giải các Kinh sách của Ngài đã phiên-dịch trước kia, nên Thầy có đầy-đủ thẩm-quyền hoằng truyền và hiển-dương hai pháp-môn MẬT-TÔNG và TỊNH-ĐỘ (do Đại Ninh Sư-Tổ sáng lập).
Sở-dĩ Bảo-Đăng dám quả-quyết như thế là vì trong quyển :
“ÂN-SƯ NGÙI-TƯỞNG
HẢI-QUANG BÁCH-VỊNH THI”
của Thầy, Bảo-Đăng có đọc thấy được bài thơ sau đây:
Đêm qua trong mơ thấy Thầy1 về,
Vì ta thuyết-pháp dạy nhiều bề.
Bút vàng một cặp trao ta dặn:
“Chú-giải lời Kinh cứu kẻ mê.
Đông-thổ3 vẹn câu thề.
Lan-nhã tịnh-tu con sớm ẩn,4
Chín phẩm ngày sau mới được về.”
Thức giấc ta buồn thương lẫn-lộn,
“Thầy chắc quy Tây” dạ tái-tê.
Ta tu sơ-bạc, tài thô-thiển,
Trọng-trách Thầy trao sợ khó toàn.
Càng nghĩ lòng càng thêm thổn-thức,
Trăm mối buồn lo bắt ủ-ê!
~ Niệm Phật Tăng
Như vậy thì qua bài thơ nầy, chúng ta thấy rằng: Tuy là Thầy trò, chú cháu ở cách xa nhau vạn trùng-dương, nhưng:
Thân tuy cách mà tâm chẳng cách,
Người tuy xa thần-thức chẳng xa.
Và cũng do nơi ý của Sư-Tổ dạy bảo là muốn cho Thầy sớm ẩn-tu để cho việc tu-hành và trí-huệ được mau tăng-tiến, hầu có đủ khả-năng chú-giải Kinh sách của Ngài làm lợi-ích cho Phật-pháp nói chung và pháp-môn Mật-Tịnh nói riêng, nên:
Vào cuối năm 1990 (trước khi Sư-Tổ viên-tịch hai năm) Thầy đã giao hết tất cả các việc Phật-sự lớn nhỏ, trong ngoài lại cho Bảo-Đăng thay thế Thầy đảm-trách, lên đường đi nhập-thất ẩn-tu vô thời-hạn tại Louisville, Nebraska (một làng quê nhỏ thanh-tịnh và hẻo-lánh mà đức Quán Thế Âm Bồ-Tát đã chọn sẵn cho Thầy trước kia).
Cõi Tịnh mong về bất tử hương,
Ráng mây chiều tối ngắm tàn dương.
Hoa quỳnh, cây bích tươi muôn vẻ,
Diện ngọc, lầu châu đẹp khác thường.
Sen báu long-lanh theo nhạc gió,
Nước ngân thấp-thoáng bóng oan-ương.
Lắng nghe bỗng ngộ Vô-Sanh khúc,
Tên họ ghi lên “Tuyển Phật Trường.”
~ Thích Hải-Quang
Từ năm 1991 cho đến tháng 07 năm 2011, suốt 20 năm Thầy ẩn-dật tu-hành nơi tịnh thất Hương-Vân, ngày đêm chăm lòng tu-niệm theo như hạnh của Sư-Thúc Phụ (Sư-Tổ Thích Thiền-Tâm) để bảo-đảm cho bước đường về cõi Tây-Phương cùng với Phật, qua bài thơ Tự-Cảm sau đây:
Tóc sương thay mái đầu xanh,
Một đời sự-nghiệp nghĩ thành không hoa.
Soi bổn-phận,
Lánh đường tà.
Ấm-thầm thời-tiết đổi,
Lặng-lẽ tháng ngày qua.
Kíp mau tìm đến chân thường lộ,
Dám chậm chờ xem bệnh, tử mà !
Cõi Phật đâu xa-cách,
Về chẳng chỉ tại ta…
Mỗi niệm chỉ cần không thối-chuyển,
Ao vàng đã sẵn có liên-hoa,
Thân tàn về cõi báu,
Sen nở thấy DI-ĐÀ.
~ Thích Hải-Quang
Lành vậy thay!
Chúc cho Thầy đã vẹn ước nguyền.
Vào cuối tháng 12 Dương Lịch năm 1992, Sư-Tổ Đại-Ninh:
VÔ-NHẤT ĐẠI-SƯ THÍCH THIỀN-TÂM viên-tịch.
Sư-Thúc Phụ đã ra đi…….
Thầy đã mất đi một người Chú, một người Cha, và một bậc Tôn-Sư tràn-đầy đức-hạnh, đây là một điều thương buồn và mất-mát lớn nhất trong cuộc đời Thầy.
Tuy Thầy sống trong hoàn-cảnh thật cô-đơn, không một người thân-thiết bên mình nơi xứ lạ quê người, không chùa chiền, không đệ-tử, không thi-giả, tự mình lo lắng cho mình, Thầy vẫn không lấy đó làm sự nản lòng, nhục chí. Trái lại, Thầy càng cương quyết tìm cầu giải-thoát, an-tịnh trong câu niệm Phật và sống trong sự bao che của chư Phật và Bồ-Tát cùng chư hộ-pháp.
Đã bao phen trong cơn bịnh nặng, sự đau-đớn của xác-thân đã nhiều lần làm cho Thầy phải ngất-xỉu trước bàn Phật, Thầy mơ-màng thấy Bồ-Tát Quán Thế-Âm đến cho Thầy uống nước Cam-Lộ, khi tỉnh dậy thấy khỏe-khoắn lạ-thường, vị Cam-Lộ trong miệng vẫn còn thơm-phức.
Có một lần nọ, Thầy bị đau bao-tử rất nặng đến ngất đi, trong mơ thấy mình đến một cõi Trời và gặp vài chư Thiên, mỗi vị đều có trách-nhiệm riêng, có vị cầm viết gạch tên trong sổ, có vị úp ngôi sao xuống v.v…
(Chắc là Nam-Tào, Bắc Đấu (là Nam-Cực Tiên Ông coi bộ sanh và Bắc Đấu Tiên Ông thì coi bộ tử của nhân-loại nơi cõi trần).
Thầy thấy vậy, tò-mò tới hỏi một vị đang úp vài ngôi sao vẫn còn sáng.
“Ủa, sao này còn sáng; tốt quá mà Ngài úp lại vậy ?”
Vị Tiên nầy ngó Thầy cười, nói rằng:
“Hải-Quang có muốn xem không?”
Thầy gật đầu.
Vị nầy đưa tay chỉ một cái xuống trần, thì thấy một người Mỹ da trắng, tướng tốt hết sức, đang nằm ngủ. Thầy mới hỏi.
“Ông nầy tướng còn tốt quá, thân của tôi thì ốm-yếu, bệnh rề-rề hoài, cho tôi đổi được không ?”
Vị Tiên nầy nhìn Thầy một hồi, rồi cười nói rằng:
“Hải-Quang không đổi xác ông nầy được đâu, vì hai ngày nữa ổng sẽ chết vì nghẹt tim. Còn bệnh rề rề không dứt của Hải-Quang là do “bệnh nghiệp” mà bị hành xác thân. Hải-Quang đến đây đã lâu rồi đó, về mau kẻo xác bị lạnh cứng thì khó mà sống được !”
Thầy nghe vậy, trong lòng bối-rối không biết làm sao để về nhập vô xác của mình trước khi nó cứng lạnh, thì nghe tiếng một vị Tiên khác kêu Thầy phải về gấp. Thầy trả lời:
“Tôi không biết đường về ?”
Một vị hỏi Thầy:
“Hồi nãy Hải-Quang lên đây bằng cách nào, thì về bằng cách đó !”
Thầy trả lời rằng:
“Tôi cũng không biết nữa, thật ra tôi đang trong cơn đau-đớn của xác thân đến ngất đi, khi tôi mờ mắt ra đã thấy ở tại đây rồi. Xin quý Ngài giúp cho tôi trở về.”
Một trong hai vị đứng gần mới đưa tay xuống một cái, ánh hào-quang sáng chiếu xẹt ra.
Ngài bảo:
“Hải-Quang theo ánh sáng này mà về.”
Khi tỉnh dậy, cảm thấy thân xác bắt đầu lạnh rồi, Thầy không ngồi dậy được, nên dùng tâm-lực quán-tưởng đến câu Thần Chú “Chuẩn-Đề” rồi dùng lửa Tam-Muội đốt toàn thân. Một hồi lâu, thân xác mới hoàn ấm lại.
Một lần khác, căn bệnh đau bao-tử tái phát, làm Thầy ngất-xỉu nữa. Thầy mơ-màng nghe tiếng kêu tên mình, đi tới thì thấy vị Tiên nầy đang canh-giữ một cây đào thật lớn, trái nào trái nấy thật to, thật đẹp, ánh sáng phát ra từ trái đào. Vị nầy hái xuống hai trái trao cho Thầy nói rằng:
“Hải-Quang ăn đi.”
Thầy vui mừng đón nhận hai trái đào thiệt là to, đưa lên miệng cắn một miếng, hương thơm ngào-ngạt, vị ngọt thật lạ-lùng hết sức. Không mấy chốc Thầy đã ăn hết trái đào tiên, còn lại trái thứ hai đang cầm trong tay, Thầy chợt nghĩ:
– Mình ăn một trái mà đã thấy no rồi, thôi để dành trái nầy đem về cho Bảo-Đăng vậy.
Cám-ơn vị Tiên nhân xong, Thầy bỏ trái đào vô túi áo, giựt mình tỉnh-giấc thấy không còn đau-đớn nữa, mà vị thơm, ngọt của đào tiên vẫn còn trên lưỡi suốt ngày hôm sau. Kể từ khi được ăn đào Tiên cho đến ngày viên-tịch Thầy không còn bị đau bao-tử đến ngất-xỉu nữa. Lành vậy thay!
Lời phụ của Bảo-Đăng:
(Đặc-biệt nhất là Thầy luôn được các sự lo-lắng, dạy bảo và chân truyền đạo pháp từ nơi Sư-tổ Thiền-Tâm trong mơ. Điều này chứng tỏ rằng:
– Thầy vẫn chẳng cô-đơn, chẳng buồn vì tủi phận mình sống hẩm-hiu, lủi-thủi một mình không đệ-tử. Chung quanh Thầy luôn có Tam-Bảo gia-trì, có chư Thiên, có Hộ-Pháp cùng có Sư-Tổ thường-xuyên về dạy bảo, và nhất là Thầy đã kết bạn với vô-số chư Thần. Đối với một người tu, còn có gì sung-sướng hơn thế nữa đâu?
Thật là hy-hữu vậy!
Có người suốt một cuộc đời tu-hành mà chưa bao giờ được cảm-ứng với Thần-Thánh, huống-hồ chỉ được thấy được nghe tiếng dạy bảo của chư Phật, Bồ-Tát, nhất là được uống nước Cam-Lộ và được ăn đào Tiên. Thời-thế hiện nay ngập tràn lòng thù-hận, tham-luyến và sân-si. Lòng nghi-kỵ, sự hơn thua, cao thấp đã khiến cho con người ngày càng xa cách nhau; cha không còn tin-tưởng nơi con, con cái không còn tìm thấy ở cha mẹ một hình ảnh tôn-kính và ấp-yêu. Vợ chồng tuy vai kề vai, thân kề thân, nhưng tâm-tư dị-biệt. Quan-hệ giữa thầy và trò không còn là sợi dây thân-ái như thời xưa; thầy đối xử không vừa dạ, trò có quyền đãi lại bằng sự hận-thù. Giữa người với người không còn nữa cái “nhân-tình” ấm lạnh! Cái “lập tâm ban đầu” khi mới bước vào cửa Đạo không còn “thiện” như xưa nữa.
Vì chán cho thế-thái nhân-tình, chán cho người đời quá xem nặng cái “phù-du” của cuộc đời mà không chùng tay làm việc ác, cho nên Thầy đã tha-thiết xin Phật cho Thầy vãng-sanh sớm hơn dự-định.)
Có lần Thầy kể lại cho Bảo-Đăng nghe mẫu đối-thoại giữa Sư-Tổ Thích Thiền-Tâm và Thầy như sau: Khi xưa lúc Thầy còn làm thị-giả, Hầu gần sát bên Sư-Tổ Thiền-Tâm, có lần Thầy hỏi Ngài rằng:
“Vì sao con thấy Sư-Phụ (cũng như đa-số các Hòa-Thượng và Pháp-Sư dịch-giả khác) chỉ dịch Kinh không thôi mà chẳng chịu GIẢI-THÍCH các danh-từ Phật- học “Hán-Việt” khó hiểu và chú-sớ ra “thâm nghĩa” trong Kinh văn cho các hàng Phật-Tử sơ-cơ tu-học Phật-Pháp?”
Sư-Tổ mỉm cười nói rằng:
“Khi Ta dịch xong phần Kinh-văn, cũng đã thấy mệt-mỏi “trí-lực” lắm rồi. Vậy thì phần chú-giải mà con vừa mới nói dó, Ta xin nhường lại cho con đảm-trách sau này. Bởi vì kiếp xưa con đã từng gieo trồng nhiều căn-lành sâu-dầy trong Phật-Pháp, cho nên, kiếp này khi “nhân-duyên” hội-ngộ đầy-đủ, thì “trí-huệ” của con sẽ được khai sáng thêm ra….
Và, chính con sẽ là người đảm-trách phần chú-giải Kinh sách đã được Ta dịch ra, để mang đến cái “Chánh tri-kiến” cho các hàng Phật-Tử sơ-cơ tu-học Phật-Pháp về sau được ít nhiều tỏ-tường thêm về các “thâm nghĩa” trong Kinh-văn mà đức Như-Lai muốn tuyên-bày, giáo-hóa.”
Vì thế, gần 30 năm, kể từ khi “huấn-thị” ấy được ban-hành, và tại Tucson tiểu-bang Arizona – Mỹ quốc nầy, ban Hoằng-Pháp của ngôi Pháp-Hoa Phật-Tự – MẬT TỊNH Đạo-Tràng Liên-Hoa Thắng-Hội, hầu như tất cả các Kinh-điển, hoặc sách Luận nào được Pháp-Hoa bổn-tự in ấn lại, đều được Thầy (Thích Hải-Quang) tọa-chủ của đạo-tràng có soạn thêm phần “Chú-Giải” kèm theo hết cả.
Trong phần chú-sớ nầy cũng có khi gặp nhằm các đoạn Kinh cao-diệu và nghĩa-lý khó hiểu, thì Thầy đều khấn-nguyện, cầu được sự gia-hộ cho Thầy được minh-tâm, kiến-tánh để hoàn-tất phần “Chú-Giải” của mình. Mỗi khi như vậy, thì các đêm kế tiếp sau đó Thầy đều mộng thấy có người đến mời đi học KINH.
Mặc dù khi thức dậy thì không nhớ rõ là đi tới đâu, học Kinh gì, nhưng đến sáng thức dậy Thầy tự-nhiên cảm thấy đầu óc minh-mẫn, nhẹ-nhàng và hiểu-thấu được hết phần nghĩa-lý khó hiểu của đoạn Kinh-văn ấy. Thậm-chí Thầy còn biết thêm được các phần Kinh-văn khác liên-hệ cần-thiết đến ở trong những quyển Kinh khác (dùng để dẫn-chiếu và chứng- minh cho những phần “Luận-Giải” của Thầy) nằm ở trong quyển Kinh, Luận nào hoặc ở nơi trang nào nữa. Thật là kỳ-diệu!
Vì vậy mà, những phần “Luận-Giải” và “Chú-Sớ” của Thầy rất là chính-xác, có y-cứ và đúng theo “Thật-Nghĩa” (thâm nghĩa) mà Phật muốn tỏ-bày, tuyên nói ra trong Kinh-văn.
Lại nữa, có lần Thầy nằm mơ, tự thấy:
– Chính Thầy đi đến một ngôi chùa nào đó thật lớn, nghiêm đẹp ở trên một đỉnh núi (không biết là ở chốn nào) vào trong giảng-đường và ngồi nghe giảng pháp.
Hàng thính-chúng rất đông gồm có nhiều Tăng, Ni, Phật-Tử, tất cả thảy đều ngồi im-lặng đang chăm-chú nghe một vị Đại-Tăng (dáng người cao lớn, đắp y màu đỏ) đang ngồi trên bàn chủ tọa, giảng dạy và khuyến-cáo hàng thính-chúng hiện-diện nên tích-cực tu theo Pháp-môn TỊNH-ĐỘ.
Trên tay của Ngài đang cầm một quyến sách rất dầy, đưa lên cao và nói cũng với hàng thính-chúng (đang ngồi nghe pháp) rằng:
Trong thời buổi nầy, nếu như muốn tu TỊNH-ĐỘ cho được đúng theo “Như Pháp”, duy-nhất chỉ có hành-trì y theo lời dạy ở trong quyển sách nầy mà thôi.”
Trông thấy hình-dáng của quyển sách ấy có vẻ quen-thuộc, nên Thầy (Thích Hải-Quang) khom người xuống thấp để dễ nhìn lên xem đó là quyển sách nào, tựa đề là gì?
Thì ra, đó là quyển TÂY-PHƯƠNG NHẬT KHÓA mà Hòa-Thượng Thích Thiền-Tâm đã biên-soạn ra và được mình chú-giải trước đây.
Muôn luận, ngàn Kinh, nghĩa rồi phiền,
Tây-Phương Nhật Khóa hậu lưu-truyền.
THIỀN-TÂM VÔ-NHẤT chuyên lòng soạn,
HẢI-QUANG Thượng-Tọa giải lời khuyên.
Nhắn ai liên-hữu người tu Tịnh,
An-Dưỡng cầu sanh chớ lạc miền.
A-DI-ĐÀ PHẬT tâm thường niệm,
9 phẩm đồng quy vĩnh-viễn yên.
Lại vào năm 1995, chư Phật-Tử xin thỉnh Thầy vì các hàng Thiện-tín vẫn còn đang bị mê-lầm mà “khai bày đại pháp sự” để làm hồi-chuông cảnh-tỉnh cho những ai còn đang lỡ bước, sai đường….
Và ngày hôm nay, bộ Luận:
TRUYỀN TÂM ẤN
được hoàn-thành và có ở trong tay của quý-vị đã từ lâu nay. Trong lúc Thầy biên-soạn bộ Luận nầy, có nhiều đoạn khó hiểu giải chưa được, thì Thầy mơ thấy có vị Tăng đến bảo rằng:
“Tổ muốn gặp Hải-Quang, tôi dẫn Hải-Quang đến gặp Tổ.”
Thầy vui mừng liền bay theo vị Tăng đó đến một ngọn núi rất cao, trong lòng thắc-mắc không biết mình sẽ đi gặp Tổ nào. Khi bước vào thấy một phòng rộng lớn, nhưng trống-trơn, không bàn ghế chi hết, chính giữa phòng vỏn-vẹn chỉ có một cái bàn dài, hình như có người nằm trên đó, trên mình đắp một tấm vải vàng có Đà-ra-ni (Chú Ấn). Chợt nghe tiếng của vị Tăng bảo:
“Hải-Quang lại gặp Tổ đi.”
Thầy tiến đến gần, rồi quỳ xuống đảnh-lễ và thưa rằng:
“Con Hải-Quang xin đê-đầu đảnh-lễ Tổ.”
Tổ để tay trên đầu Thầy, nói rằng:
“Con ngoan lắm. Ta cho con đến đây để giải những phần của con đang viết đó…”
Sau khi được Tổ giảng-giải những điều thắc-mắc xong, Thầy đảnh-lễ Tổ rồi cùng vị Tăng bay về. Vị này biết ý Thầy nên hỏi:
“Hải-Quang có biết Ngài là ai không?”
Thầy lắc đầu.
“Hải-Quang đã gặp Tổ LONG-THỌ rồi đó.”
Sau khi được Tổ Long-Thọ dạy pháp, Thầy đã hoàn-thành xong hai quyển TRUYỀN TÂM-ẤN LUẬN.
ĐẠI đạo năm thiên nghĩa giải rành,
THỪA vâng ý-chỉ đấng vô-sanh.
PHẬT trao tri-kiến cho tu-luyện,
PHÁP tánh chơn-như quyết đạt thành.
LIỄU biết muôn duyên không thật tướng,
NGHĨA đế chỉ bày mọi giả đanh.
TRUYỀN thừa chánh-kiến bao nhiêu Tổ,
TÂM giải-thoát rồi tựa thái-thanh.
ẤN chứng đạo tròn nên quả thánh,
LUẬN nghị mười mươi gió thoảng mành.
Bảo-Đăng thỉnh-thoảng cũng nghe trực-tiếp (qua điện-thoại) hoặc thư gởi về chùa nói rằng:
Cô Bảo-Đăng biết không,
Nhận được sách của Cô gởi đến, cầm lên tay, đầu tiên là nhìn thấy quyển sách in thật đẹp, nhưng dầy quá trời, làm sao đọc nổi, trong lòng tôi cảm thấy ngán, tự nghĩ:
Không biết đọc đến chừng nào mới hết đây? Sao Cô không làm mỏng-mỏng hơn (chừng 1, 2 trăm trang) thôi?
Thôi thì mình đọc từ-từ mỗi ngày 5, 6 trang như Cô Bảo-Đăng từng dặn vậy. Nhưng không ngờ, càng đọc tôi càng không muốn ngừng. Tôi đã đọc xong hết quyển sách dầy đó rồi, không phải chỉ một lần, mà tôi đã đọc đi đọc lại rất nhiều lần. Mỗi lần đọc lại là tôi hiểu thêm, hiều rõ lời phật, ý Tổ muốn dạy. Bắt đầu từ đó tôi dã phấn-khởi tu đúng theo Tông-chỉ TỊNH-ĐỘ đã được chỉ dạy trong quyển sách đó.
Bảo-Đăng xin nói thêm rằng:
Các quyển-sách từ nơi Bổn-tự xuất-bản, sở-dĩ được thành-hình để ấn-tống thảy đều là do:
Tâm-huyết của Thầy Bổn-sư THÍCH HẢI-QUANG và ban Hoằng-Pháp của bổn-tự Pháp-Hoa.
– Công-đức tùy-hỷ cúng-dường của một số chư Thiện-tín hảo-tâm có lòng kính Tam-Bảo đóng-góp, hầu duy-trì Chánh-Pháp của Như-Lai khỏi sớm bị suy-tàn.
Có một số chư Phật-Tử ở vài tiểu-bang khác kể lại cho Bảo-Đăng nghe rằng:
Chúng tôi sở-dĩ biết đến Pháp-Hoa Tự của Cô Bảo-Đăng và xem được mấy quyển sách Luận, Kinh-Điển… rất có giá-tri của chùa là do nhặt được (bằng một sự tình-cờ khi chúng tôi đi hành-hương) từ trong mấy thùng Recycle và thùng rác… trong những chùa lớn đó cô!
Thoạt tiên vì thấy quyển sách dầy, lại thêm ấn-loát đep quá, nên chúng tôi lươm về xem thử, thì thấy rất hay. Trong đó có ghi những lời luận-giải, chú-thích rất rõ-ràng, mạch-lạc và minh-sáng thật là dễ hiểu hết sức. Các huynh-đệ chúng tôi có người thức suốt đêm đọc hết quyển sách, thì mới thấy rõ được cái BI-TÂM của Thầy HẢI-QUANG đối với hàng cư-sĩ Phật-Tử sơ-cơ như chúng tôi. Từ trước đến giờ đã quá nửa đời người, đi hành-hương khắp nơi mà chưa từng Được nghe, hoặc học hiểu thấu-đáo Được cái “chánh Tri-Kiến”trong Phật-Pháp cả.
Giờ chúng tôi mới ý-thức rằng:
Trong chùa nhỏ, nghèo, Ẩn-dật tu-hành, ít Phật-Tử biết đến mà lại có Phật vàng, có chánh Pháp và có Minh-Sư, thiện-hữu.chúng tôi kể đến cảm-tạ Bồ-Tát Giới Bảo-Đăng dã hết lòng ngày đêm đánh máy, ấn-loát cho hoàn-thành những quyển Kinh, sách tuyệt dẹp. chúng tôi đã được nghe, được biết rất nhiều Thầy, Cô (xuất-gia) kể rằng, nào là quen biết với Hòa-Thượng Thiền-Tâm, nào là đệ-tử, pháp-tử của Ngài, nhưng chưa thấy một đệ-tử nào, một Thầy, Cô nào viết lên được lời tán-thán để dâng lên cúng-dường cố Hòa-Thượng THIỀN-TÂM cả, mà toàn là những lời chỉ-trÍch, phê-hình v.v… Duy nhất chỉ một mình Cô Bảo-Đăng đã dày-công Biên-soạn thành quyển
VÔ-NHẤT ĐẠI-SƯ THÍCH THIỀN-TÂM MỘT CAO TĂNG CẬN-ĐẠI mà thôi.
Quyển sách quý này đã được tái-bản thật nhiều lần và được Phật-Tử ấn-tống khắp nơi trên thế-giới. Nếu như không có quyển sách nầy, với sự nhẫn-nhục của cô Bảo-Đăng thì chắc không một ai biết rõ về thân-thế và đạo-nghiệp của Hòa-Thượng cả, và cũng nhờ quyển nầy mà Phật-Tử khắp nơi (hải ngoại) mới biết đến Phương-Liên Tịnh-Xứ (ở Đại-Ninh, tỉnh Lâm-Đồng, Đà-lạt).
Cũng giống như PHÁP-HOA Tự tại Tucson, Arizona vậy, có Phật vàng, có chánh pháp, nơi có (gốc) MẬT-TỊNH chân-truyền (của Hòa-Thượng Thiền-Tâm), có Minh-sư, có thiện-hữu. Nhất là chùa đã ẩn- dật tu-hành suốt trên 20 năm, cũng ít có ai biết đến cả.
Chúng tôi chân-thành cảm-tạ Bồ-Tát Giới Bảo-Đăng, và chúc cho Cô được nhiều sức khỏe, để tiếp-tục hoằng-truyền pháp-môn Mật-Tịnh mà Thầy (THÍCH HẢI-QUANG) đã để lại cho Cô, hầu cứu giúp những Phật-Tử sơ-cơ hữu-duyên như chúng tôi, vẫn còn bơ-vơ giữa hai ngả Đạo, Đời, Tà, chánh.
Nam-Mô DI-ĐÀ PHẬT.
– Phât-tử Diệu-Âm
Hơn 20 năm, Thầy đã y-giáo phụng-hành ẩn-dật tu-hành, thúc-liễm thân tâm, chuyên Trì-Chú cùng niệm Phật, và cũng đã lần-lượt chú-giải rất nhiều Kinh, sách, Luận tại vùng lâm-tuyền nhỏ Louisville, Nebraska.
Tuy Thầy tu theo pháp “HỮU MÔN” (Tịnh-Độ), nhưng kỳ thật Thầy:
– Không hề bước chân ra khỏi thất (hoặc ra khỏi chùa),
– Không đi thăm viếng chùa nào (trên đất Mỹ).
– Không quen biết với một Thầy nào cả.
– Không giao-tiếp với bất cứ giáo hội nào.
– Không hề liên-lạc với hội liên-hữu nào hết.
– Không nhà cửa.
– Không tiền của.
– Không chùa cao, Phật lớn.
– Không danh tiếng.
– Không lợi-dưỡng.
– Không có chiếc xe chạy (dù là xe đạp).
– Không có bảo-hiểm sức khỏe.
– Không có thẻ đi nhà thương.
– Không hề đến phòng mạch của bác-sĩ.
– Không có thân-nhân ruột thịt thăm lo.
– Không có Phật-Tử đến (thất) thăm viếng.
– Không có đệ-tử ở gần để chăm-sóc.
– Không có thị-giả sát bên để dâng cơm nước.
Tất cả Thầy đều tự một thân, một mình làm hết, ngay cả quần áo rách Thầy cũng tự mua kim chỉ về tự vá lấy. đã thành-tựu được hạnh “KHÔNG MÔN” (Thiền- Định) từ lúc ban đầu vào cửa đạo rồi. Thầy chuyên giảng về cái “CÓ” (có Phật, có địa-ngục, có nhân, có quả, có luân-hồi, có Tây-Phương Cực-lạc, có Phật A-DI- DÀ, có chánh pháp, có tà pháp, có người, có quỷ, có Ma, có ác nhân, có hiền nhân. Cái gì cũng có, nhất là có “TÂM ” thì có tất cả).
Tuy Thầy giảng toàn cái “CÓ”, mà hành-động thì lại toàn là “KHÔNG”.
Người khác thì đa phần giảng toàn là cái “KHÔNG” (không có Phật, không có Pháp, không có Cực-lạc, không có địa-ngục, không có luân-hồi, không có nhân-quả, không có thiện, không có ác, không có ta, không có người, không có sanh, không có tử v.v…), mà kỳ thật cái gì họ cũng “CÓ” hết…
Tăng Nhân Ngẫu Cảm……
Lặng ngồi chốn tỉnh lâu,
Sương đêm ướt đấm đầu.
Hương lòng say bát-nhã,
Hồn gởi nẻo trăng thâu.
Phú quý hồng trần mộng,
Phù-sinh kiếp mấy nhàn ?
Gìn một câu PHẬT hiệu,
Sấu cõi dứt lầm-than.
Chơn, giả là đâu tá ?
Tùy duyên gọi ấy mà.
PHẬT, TÂM như dung-hợp,
Ta-Bà tự cách xa.
Điểm đầu trăng xế bóng,
Ánh nguyệt chiêu ngoài song.
Chợt bừng lên giác niệm,
VẠN PHÁP CHỈ PHÙ KHÔNG.
~ Thích Hải-Quang
Chỉ có bốn kỳ lễ lớn mỗi năm (là Tết, Phật-Đản, Vu-Lan, rằm Hạ-Nguyên), Thầy ra thất về Pháp-Hoa Tự (hai tuần lễ), thì mới có vài Phật-Tử, đệ-tử đến thăm viếng, thế thôi.
Những ngày tháng còn lại, Thầy cô-thân, cô thế, hiu-quạnh nơi A-Lan-Nhã, cách-biệt hẳn với đời, với Phật-Tử, với chùa-chiền. Thầy ẩn-nhân sống một thân, một mình, hẩm-hiu, an-bần trong tịnh-thất nhỏ, chuyên trau-dồi đạo-hạnh cùng trí-huệ trong đường tu để được thêm tăng-tiến, sáng-tỏ như ánh nhật quang, và sám-hối cho oan-gia, nghiệp-chướng của mình được mau tiêu-trừ.
Thầy những tưởng, sau 20 năm ẩn-dật tu-hành cùng sám-hối, mình đã giải-trừ hầu hết những oan-gia, trái chủ (mà Thầy đã giết hại trong những kiếp lâu xa về trước),nhưng Thầy không thể ngờ rằng vẫn còn vài nghiệp quả “quá nặng” vẫn chưa được giải xong.
***
Có nhiều Phật-Tử yêu-cầu Bảo-Đăng nên kể sơ qua về những nghiệp tiền-kiếp của Thầy cho Phật tử rõ. Đó là:
1/- Vào khoảng 356 năm, trước công nguyên (350 BC), Đại-Đế A-Lịch-Sơn (Alexander The Great) là vua Hy-Lạp, sanh năm 356. Ông rất mực thông minh, tài-trí.
Năm lên 16 tuổi, đã được theo học với triết-gia Aristotle rồi.
Năm 30 tuổi, Ông đem cường binh (lính đánh giỏi, khỏe mạnh) xâm-chiếm gần hết những quốc-gia từ Hy-Lạp sang đến rặng núi Hy-Mã Lạp-Sơn, mà chưa hề bị một nước nào đánh bại cả. Lòng háo-thắng không ngưng, Ông đã chiếm nước Ba-Tư, bao gồm cả Tiểu Á, Syria, Phoenicia, Gaza, Ai-Cập, Bartria và Lưỡng-Hà. Ông còn mở rộng biên-cương để chế-độ của mình đến xa tận Punjab, Ấn-độ.
Ông đã có dã-tâm muốn chiếm nước Ẩn-ĐỘ, nhưng vì quá xa, binh-lính đã xa cách gia-đình cũng đã quá lâu rồi, nên họ ép Ông phải quay trở về, trong khi Ông vẫn còn ôm mộng chiếm hết cả nước Ấn-ĐỘ và còn muốn tiến xa hơn nữa. Ngay cả Trung-Đông cũng đều là do ông chiếm hết (Ai-Cập,Arabia, Babylon v.v…).
Sau cùng, hình như Ông bị người Tướng của mình “thuốc” cho chết vào năm 326 (trước công- nguyên), hưởng dương 32 tuổi.
Trong thời-gian đi chiếm đất-đai, Ông đã vây thành “Belmo” suốt 90 ngày, vô-số đàn-bà con nít đã bị chết vì thiếu lương-thực (Trong số người chết vì đói, lạnh này vẫn còn uất-hận, nên đã không chịu đi đầu thai mà vẫn làm hồn quỷ vất-vưởng cho đến kiếp nay để đòi nợ máu, chúng đã kéo đến bao vây chung-quanh sân chùa lúc Thầy lâm chung).
Vì Bảo-Đăng đã được báo cho biết trước, (nên sau khi bí-mật đưa Thầy về chùa vào ngày 13 tháng 10 năm 2010) đã âm-thầm giúp Thầy “bế-quan” (thật kín) trong 90 ngày không bước ra khỏi cửa sau, hoặc cửa trước chánh-điện (ngay cả ngoài sân sau chùa, hầu giải cái nghiệp nạn này cho Thầy). Sau khi biết thầy về chùa rồi, các oan-gia đã kéo đến bao vây ngoài cửa suốt 90 ngày để chờ Thầy bước ra là xúm lại đánh-đập, giết Thầy, để trả hận-thù xưa kia.
Bảo-Đăng cùng Huệ-Trang đã phải lập đàn-tràng ngoài sân, trước cửa Địa-Tạng Đường, làm Bài-vị và chuẩn-bị thức-ăn chay đủ món, cùng quần áo, Kinh, chuỗi đầy-đủ để cúng tế cho họ, hầu giúp cho họ được siêu-thoát. Bảo-Đăng đã chân-thành thuyết- pháp, giảng-giải về nghiệp-quả, oán thù, hỷ-xả, giảng về sự thống-khổ của thế-giới Ma, Quỷ với sự gian-nan, ác-độc của loài người trong hiện kiếp, và sự thù-thắng (hưởng ngũ dục) ở cõi Thiên v.v… giúp cho họ hiểu mà buông bỏ những hận-thù còn tích-tụ trong tâm-thức của họ.
Kết quả sau 90 ngày, tất cả đều được Bảo-Đăng cho quy-y Tam-Bảo (những vong-linh chết vất-vưởng, không tên tuổì, không thân-nhân). Bảo-Đăng đều cho cùng một Pháp-Danh (Thiện-Tánh) giống nhau. Hầu hết hai phần ba đều muốn được đầu-thai lại làm người, chỉ có một số vong là chịu lên cõi Trời.
Bảo-Đăng cứ tưởng đã yên rồi, tất cả vong-linh đều đã siêu hết rồi, nghiệp của Thầy cũng đã giải được rồi. Có ngờ đâu còn một cái vong Nam bỏ trốn, không chịu đi đầu-thai, chờ phải trả cho xong mối oán-thù nầy mới thôi, như đã có kể ở phần trước.
Đây là “nghiệp lực” nặng thứ nhất vẫn chưa giải xong.
****
2/- Sau khi Đại-Đế A-Lịch-Sơn (Alexander the Great) bị thuốc chết, Ông vẫn còn ôm mộng xâm-chiếm những nước khác, nên đã đầu-thai lại vào năm 1162. Ông là Hãn Vương của Mông-Cổ và là người sáng-lập ra Đế-Quốc Mông-Cổ sau khi hợp nhất lại tất cả các bộ-lạc. Ông tên là THÀNH-CÁT TƯ-HÃN (còn gọi là Đại Hãn). Tên thật là THIẾT MỘC-CHÂN.
Những đất-đai mà Ông đã chinh-phục gồm có: Đại-Hàn (Korea), Nga, Ba-Tư (Iran), Armenia, Afghanistan và tận đến miền Bắc Ấn-ĐỘ và tiến sát biển Đen gần Châu-Âu. Chiến-dịch cuối cùng của Ông là thôn-tính nước Tây-Hạ.
Cháu nội của Ông là người kế-vị sau nầy, tên là Đại-Hãn Hốt-Tất-Liệt đã thiết-lập ra triều-đại nhà Nguyên của Trung-Quốc.
Thành-Cát Tư-Hãn chết vào ngày 18 tháng 08 năm 1227, hưởng thọ được 66 tuổi ta.
Nguyên-nhân cái chết của Ông vẫn chưa được sáng-tỏ. Nhiều người cho rằng do ông ngã ngựa vì tuổi già. Lại có người cho rằng Ông bị ám-sát từ phía kẻ thù (Bảo-Đăng nghĩ có lẽ đúng như vậy).
Ngoài việc chiếm nước, chiếm đất-đai, giết hại ngưòi vô-số kể, Ông còn cố-ý giết sạch hết 1 triệu dân ở bộ-lạc Na-va-hê. Mãi đến nay (2010) đã trên mấy trăm năm, số dân đã bị giết chết (vì uất hận) vẫn chưa được siêu-thoát. Họ chờ đợi để trả thù cũng đã lâu, nay được biết kiếp nầy là kiếp chót (còn làm người) của Thiết Mộc-Chân, nên đã cùng nhau kéo đến Pháp-Hoa Tự đòi nợ máu để kịp trước khi Ông về cõi Phật luôn. Nhưng họ đã đến chậm 30 phút (sau khi Thiết Mộc-Chân (tức Thầy Hải-Quang trong kiếp này) đã được Tây-Phương Tam-Thánh cùng Thánh-chúng đền tiếp-dẫn về Cực-Lạc rồi).
Vì Bảo-Đăng cũng đã được đức Quán Thế-Âm Bồ-Tát báo cho biết trước nhiều lần, nên đã âm-thầm bảo-hộ, giải-nghiệp và hộ-niệm cho Thầy được vãng-sanh mà không một đệ-tử nào khác hay biết cả (Như đã có kể ở phần trước). Bởi vì nếu như báo cho người nầy, kêu người kia tới hộ-niệm, thì họ (Ma Mông-Cổ) nghe biết sẽ kéo đến quấy-phá trước giờ đã định Quy-Tây, thì Thầy không thể vãng-sanh được (họ sẽ níu-kéo, làm Thầy nửa chết, nửa sống, hoặc nằm hôn-mê suốt năm tháng thì lại khổ trăm bề). Nên Bảo-Đăng và gia đình Huệ-Trì đã phải đóng-kịch (nói chuyện này, kể chuyện kia, bàn chuyện tương-lai của chùa, Thầy chuẩn-bị chú-giải thêm Kinh sách v.v… làm ra vẻ như Thầy vẫn khỏe, chưa tới ngày Quy-Tây vậy (để đánh lạc hướng đi của họ).
Nhờ vậy mà Thầy mới được yên, và vãng-sanh một cách tuyệt diệu !
Đây là “nghiệp-lực” nặng thứ hai vẫn chưa giải được.
***
3/- Vua THUẬN-TRỊ đã kế vị vua cha là Hoàng Thái-Cực khi mới 6 tuổi. Ông là hoàng-đế thứ ba của đời nhà THANH người Mãn-Châu, và là vua nhà THANH đầu tiên cai-trị trên toàn cõi nước Trung-Hoa bắt đầu từ năm 1644 cho đến 1661.
Thuận-Trị Thế Tổ trị vì đất nước, tỏ rõ là một nhà vua có nhiều tài-năng, sáng-suốt và chăm lo việc chính sự. Ông lại cần-cù siêng-năng học-hành, nên rất giỏi giang.
Đến năm 24 tuổi, Ông bỏ ngai vàng xuất-gia đi tu, lấy pháp hiệu là HÀNH-SI Hòa-Thượng. Ngài không còn quan-tâm đến cuộc sống trần-thế hay vinh-hoa phú-quý nữa, mà ẩn-dật tu-hành từ đó.
Sau khi vua Thuận-Trị đi tu, con của Ông là Huyền-Diệp lên kế-vị, tức là Khang-Hy Hoàng-Đế (trong kiếp nầy cũng còn mang tên Khang nữa, hiện đang ở tại Mỹ, tu-hành rất tinh-tấn).
Hòa-Thượng trụ-trì ở thời đó (chính là Sư-Tổ THÍCH THIỀN-TÂM) đã thế-phát cho vua Thuận- Trị, và kiếp nầy cũng lại thế-phát cho Thầy Thích Hải-Quang. Ngài đã nhiều kiếp theo sát để cứu-độ cho vua Thuận-Trị (tức Thầy HẢI-QUANG) được về cõi Phật. Mãi đến kiếp nầy Sư-Tổ THÍCH THIỀN- TÂM cũng đã ngồi trên Kim Đài Thượng Phẩm (vào năm 1992) rồi. Lành thay, cực-kỳ hy-hữu biết bao !
4/- Kiếp sau cùng, là trong hiện kiếp nầy Thầy cũng đã xuất-gia đi tu, suốt cuộc đời ẩn-dật, hiền-lành chất-phác. Nghiệp-lực còn xót lại đã đưa lối dẫn đường cho Thầy gặp lại những oan-gia (mà A- Lịch-Sơn Đại-Đế (vua Hy-Lạp), Thiết Mộc-Chân (vua Mông-Cổ), và vua Thuận-Trị (nhà Thanh) gây ra), đã đầu thai lại kiếp nầy vào làm đệ tử xuất-gia, lẫn tại-gia hầu lấy được niềm tin của Thầy rồi, thì dễ-dàng ám-hại, cùng chà-đạp, phá-hoại và phỉ-báng thanh-danh của Thầy để trả mối hận-thù xưa.
Ngay cả những bài thuyết giảng trong những khóa tu-học suốt gần 32 năm, Thầy hầu hết đã giảng gần xong tất cả kinh đại-thừa…và hằng ngàn thời pháp ngắn. Nhưng khổ nỗi, chắc vì nghiệp-lực của Thầy quá ư là nặng-nề, không cho pháp của Thầy giảng lan rộng, nên khiến xui bị hàng đệ-tử (thân-tín) vô-tình, hay cố-ý:
– Đã thâu băng xong mà không được cuốn nào có tiếng cả.
Hoặc là quên thâu.
– Hoặc làm thất lạc rất nhiều.
Hoặc bị xóa hết.
Vào năm 1997, Bảo-Đăng trực-tiếp thâu được 22 cuốn băng Thầy giảng Kinh A-DI-ĐÀ. Sau khi Bảo-Đăng đã thanh-lọc lại cho hoàn-hảo, còn lại 18 cuốn (bản chính), thì có mấy chú Kỹ-sư Phật-tử đến xin phụ giúp Bảo-Đăng sang ra nhiều bảng copy để tặng cho Phật-tử. Sau khi sang được xong 20 bộ rồi (360 cuốn), lúc đó Bảo-Đăng đang nấu ăn, tự nhiên trong lòng cảm thấy không yên, nên đi tới kiểm lại những cuốn băng đã được sang rồi, thì mới biết 18 cuốn băng “gốc” đã bị xóa hết không còn một lời giảng nào cả. Không phải chỉ một lần, mà thật nhiều lần !
Tội-nghiệp, Thầy không nói lời nào, nhưng nét buồn hiện rõ trên gương mặt của Thầy. Sau đó, Bảo-Đăng một tay tự thâu, tự sang không dám nhờ một ai hết.
Thầy nói rằng:
“Cái Pháp giảng của Thầy chỉ có Bảo-Đăng mới giữ được, mới làm rộng và lan-xa mà thôi.”
Mãi đến năm cuối của Thầy (2010), Thầy đã giảng Kinh và nhiều thời pháp hay vô-cùng. Chú TM ở chùa đứng thâu trực-tiếp hình-ảnh qua Video, và ghi-âm qua Computer. Rồi cũng lại có hình, NHƯNG âm-thanh…….
Quý độc-giả chắc cũng đoán ra rồi đó !!
Bảo-Đăng là người buồn, và giận nhiều nhất, chỉ biết khóc chứ không dám để Thầy hay việc nầy.
Vì thế, sau khi Thầy viên-tịch rồi, Bảo-Đăng sẽ dành nhiều thời giờ để thanh-lọc lại những cuốn băng “Cassette”, chuyển sang CD những bài giảng Kinh còn sót lại của Thầy.
A-Di-Đà Phật, thiện tai!!!
Tổ-Sư có dạy rằng:
Lấy Đức báo oán, Oán tiêu-tan.
Lấy Oán báo oán, Oán chất chồng.
Cứ tiếp-tục kiếp nầy đến kiếp khác trả-thù lẫn nhau hoài hoài, thì đến bao giờ mới chấm dứt? Nghiệp đã nặng lại còn làm cho nặng thêm !
Phải biết, Thầy đã từng làm vua Hy-Lạp, vua Mông-Cổ (Ghenghis Khan tức Thành-Cát Tư-Hãn), đã tạo quá nhiều “NGHIỆP SÁT” nặng-nề, thì tất cả những “đệ-tử” (oan-gia) mà có nhân-duyên gặp lại Thầy (kiếp này) cũng đều là tay “giết người” không hiền (vua mạnh giết vua yếu, vua lớn giết vua nhỏ v.v…), cũng đều có “NGHIỆP-SÁT” nặng giống như Thầy vậy.
Cho nên, ai tự xưng là “đệ-tử”, là “thân-tín”, là “thân-nhân” của Thầy thì phải lo mau-mau “sám-hối” cho thật nhiều, tu hành Thập-Thiện để giải những “oan-nghiệp” còn sót lại trong kiếp nầy, thì mới hy-vọng siêu-thoát (khỏi 3 ác đạo) được, bằng không sẽ phải bị sa-đọa trở lại. Oan-gia giữa Thầy và họ cũng đã giải xong rồi. Nếu không tu-tập “xả bỏ” những “hận-thù”, những “cố chấp, hơn thua, phải quấy v.v…”, thì chính mình đã lấp đi con đường giải thoát của mình trong kiếp nầy vậy!
Phải biết, người đã mang danh là Phật-tử thì chắc-chắn ít nhiều gì cũng có được “Tứ vô lượng tâm” của một con người biết đạo, và có thực-hành cái đạo. Mỗi khi nhìn lại mình thì cũng rất ư tội- nghiệp cho chính bản-thân mình. Tuy rằng ngoài miệng mình không rời lời hay ý đẹp, câu Phật hiệu vẫn nối liền trên môi, nhưng kỳ thật không thể nào bắt được nhịp cầu cảm-thông, tuy máy điện-thoại nằm ngay trước mắt mà không thể đưa tay bấm vào vài nút nhỏ để được nghe giọng nói, lời khuyên thân thương của thuở nào. Loài người đều luôn muốn được người thương, người khen, thì mình phải khởi lòng thương người trước, dùng miệng tán-thán hạnh tốt của người trước, hỷ-xả những việc không vừa ý, đặt mình vào hoàn-cảnh của người thì mới khởi Tâm từ-bi được.
Một người Phật-tử tu-hành chân-chánh, có trì Chú, có niệm Phật thì không bao giờ mở miệng ra phê-bình, hoặc chỉ-trích lỗi người cả.
Nên có câu dạy rằng:
Người có lỗi, ta không lỗi,
Ta có lỗi, bởi chê khinh!
Nói đến đây, Bảo-Đăng chợt nhớ đến câu chuyện Thầy kể lại là:
Lúc Thầy còn nhỏ, mới lên Sài-gòn, có bà hàng-xóm kia ở bên cạnh nhà Thầy đi chợ gặp được một Đạo-Sĩ đến từ Thất-Sơn. Ngày nào Ông này cũng ở bùng-binh Sài-gòn đứng trên bậc-thang cầm ống-dòm được làm bằng hai cái ống tre, nhìn người ta qua lại.
Thấy lạ, bà mới lại gần hỏi:
“Ông ơi, Ông ở đâu vậy ? Mà ông đang làm gì kỳ vậy ?”
Vị Đạo-Sĩ trả lời:
“Ta đang kiếm người ta!”
“Ủa ! Sao lại kiếm người ta ? Người ta đông quá chừng nè, đâu cần kiếm cũng thấy mà. Ông kiếm làm gì ?”
“Nhưng Ta có thấy “người ta” nào đâu!”
Thấy bà này không tin, nên vị Đạo-Sĩ cho mượn cặp ống-nhòm, đoạn nói:
“Bà không tin thì dòm đi!”
Bà mói vừa ngó vô liền hốt-hoảng muốn té xuống. Sau khi lấy lại bình-tĩnh, hít vô một hơi, rồi nín thở ngó vô ống-nhòm một lần nữa cho thật kỹ thì thấy toàn là đầu thú mình người đi qua lại trên đường. Nào là heo, chó, chồn, trâu, ngựa… thậm chí cho đến cả ma quỷ ! Lâu-lâu mới thấy được một người thiệt đi qua. Khi bà bỏ ống-nhòm ra thì thấy cảnh bình-thường như trước. Bà kiểm đi kiểm lại thêm ba bốn lần nữa cho chắc ăn, thì đều thấy y như vậy.
Đạo-Sĩ nói:
“Bà tin chưa ? Bà thấy rõ rồi đó, lâu lâu mới thấy được một người thiệt, còn lại thì toàn là ma quỷ, thú vật không đó thấy chưa !”
Sau đó thì không còn gặp lại vị Đạo-Sĩ này nữa !
Quý-vị cũng đã từng nghe giảng rồi:
Bồ-Tát (Đại-Ninh) Thích Thiền-Tâm đã thấy biết trước là sau nầy đa phần các người tu (xuất-gia) và Phật-Tử đều bị tà-ma dựa, nhập vào khống-chế hết cả, hoặc bị bắt “hồn” luôn (hồn sống hoặc đã chết, một khi bị bắt rồi, sẽ khổ vô cùng, bị chúng bỏ đói, đánh-đập, hành-hạ cho đến khi nào chịu theo làm việc cho nó. Vì bị đánh-đập quá tàn-nhẫn nên tâm của họ trở nên ác-độc, không còn chút nhân-tình hay biết thân-bằng quyến- thuộc chi cả), nên trong hiện-kiếp nầy ít có ai được giải-thoát, vãng-sanh về cõi Phật lắm.
Với lòng từ-bi quảng-đại ấy Ngài mới khai mở ra pháp-tu MẬT-TỊNH, soạn dịch ra những THẦN CHÚ (Đà-ra-ni – Tâm Chú của PHẬT) từ trong Mật- Tạng (của Đại Tạng Kinh), hầu cứu-độ các Phật-Tử có thiện-căn (và chân-thật tu-hành) thoát khỏi Ma nạn, mới giữ vững được đường tu, mới bảo-đảm được vãng-sanh về nơi Phật quốc (Cực-Lạc Tịnh-Độ).
Bắt buộc phải kiêm thêm TRÌ-CHÚ để HỘ thân và tâm không bị KHẢO-ĐẢO mà lạc vào lưới của NGƯỜI (ác), lưới của quỷ… lấp đi con đường vãng-sanh vậy.
Phải biết :
– NIỆM PHẬT được bất tư nghì “CÔNG-ĐỨC”
– TRÌ CHÚ được bất tư nghì “THẦN LỰC”
Cả hai không thể thiếu một, sẽ không thành-tựu được đạo-quả và không cứu-độ được mình và người. Cho nên, phải cố-gắng bảo-trọng cho thân huệ-mạng của mình, đừng để bị “bắt” và lầm đường lạc lối.
Người xưa thường có câu rằn :
Chim khôn lựa cành mà đậu
Tôi hiền lựa chúa mà thờ
Kẻ khôn lựa bạn mà chơi
Người khôn lựa Thây mà học (Pháp)
Phật-tử khôn lựa chùa mà tới
Người trí lựa pháp mà tu
Có khôn mới biết giữ “Hồn”!
(không để cho bị chúng Ma bắt)
Bảo-Đăng thành-tâm mong mỏi cho mọi Phật-tử có tâm chân-thật tu-hành, biết hồi-tâm thức-tỉnh, rồi y theo pháp-môn MẬT-TỊNH (do cố Hòa-Thượng Thích Thiền Tâm khai-sáng) mà nhất dạ hành-trì để bảo-đảm cho bước đường “giải-thoát” và ‘Tây quy” của mình trong mai-hậu.
Kế tiếp nên bắt ấn, Trì-Chú ĐẠI-BI. Phật-tử nào Trì-Chú nhiều, nên phát-tâm Trì-Chú Đại-Bi từ 21 biến cho đến 108 biến (vào nước để uống, tắm, sái-tịnh trong nhà Trì tiếng Việt hoặc tiếng Phạm-âm công-đức đều bằng nhau. Nếu nhất tâm và cung-kính, không lâu sẽ được cảm-ứng đạo-giao với Phật, Bồ-Tát, nhất là được thoát nhiều nạn khổ trong tương-lai).
Cho nên công-năng của Thần-Chú diệu-dụng không thể nghĩ bàn. Một khi Trì-Chú đến mức “nhập tâm” rồi, thì sẽ phát ra được một “TÂM- LỰC” thật “trong sáng”. Từ nơi cái tâm “trong sáng” đó sẽ tự phát ra một “thần-lực” thật mạnh. Hào-quang từ nơi “thần-lực” sẽ bắt đầu kết-tụ. Trì lâu ngày nữa sẽ phát ra hào-quang (ngũ sắc), “Trí-Huệ” trong sáng sẽ phát sanh được “Trí-Lực” siêu- quần, “Oai-Đức” thành-tựu, cứu-độ được cho mình, cứu-độ được luôn cho người khác, và cho tất cả vong-linh cũng đều được siêu-thoát một cách dễ- dàng. Vì muốn cứu-độ cho người chết phải có “Oai- Đức Thần” của Phật.
ĐỨC TRỌNG QUỶ THẦN KINH.
(Nghĩa là người có đầy-đủ cái OAI, cái ĐỨC lớn, thì Quỷ, Thần cũng phải kinh hồn, nể sợ).
Muốn hộ-niệm cho người (sắp lâm chung) được bảo-đảm thoát khỏi ba đường ác, người hộ-niệm phải có “Tâm-Lực”, “Thần-Lực” và “Trí-Lực” đầy- đủ, và cần có thêm “kinh-nghiệm” thì mới biết dùng thiện-xảo phương tiện cho mọi hoàn-cảnh được. Nghiệp-lực của mỗi người đều khác nhau. Có người gieo nghiệp nhẹ trong quá-khứ, cuộc sống của kiếp nầy cũng không tạo điều gì ác, lại còn biết niệm Phật tu-hành, cho nên phút lâm-chung sẽ ít gặp trở ngại, có thể hộ-niệm bằng câu Phật hiệu được, chứ không cần-thiết phải kiêm thêm Trì-Chú.
Còn như gặp những người nghiệp quá nặng nề, kiếp nầy lại còn tạo thêm nhiều điều xấu ác, hại người, phỉ-báng Tam-Bảo, bất-hiếu với cha mẹ, chưa hề biết niệm Phật là gì, lại còn bị thêm “vong ma” dựa nhập nữa, thì không thể niệm Phật cho họ nghe được (vì họ chưa từng kết duyên với Tịnh-ĐỘ).
Muốn hộ-niệm có kết-quả tốt, trước tiên phải chọn người có OAI-ĐỨC (niệm Phật có được TÂM-LỰC trong sáng), có THẰN-LỰC (Trì-Chú thì mới có đạo-lực, mới có thần khẩu, mới có oai-thần của chư Phật hộ-trì) thì mới hộ-niệm cho những người nầy được, mới khắc-phục họ được, và họ (người sắp lâm-chung) mới dễ chịu buông bỏ những sân ác.
Cho nên, có rất nhiều người thắc-mắc vì thấy Bảo-Đăng tuy tu Tịnh-Độ, nhưng lại thường Trì-Chú trước để hộ-niệm, rồi sau đó mới niệm Phật tiếp-dẫn.
Đó là vì họ chưa hiểu được cái OAI-LỰC và CÔNG-NĂNG của Mật-Tông nên mới phê-bình mà thôi. Hơn nữa, Pháp-Hoa Tự vốn hoằng dương Mật-Tịnh song tu, cho nên dùng thêm oai-lực của Thần-Chú khi hộ-niệm để được sự gia-hộ của chư Phật, chư Thiên và Địa-Tạng Vương Bồ-Tát.
(Phụ Giảng của Bảo-Đăng:
Người chỉ chuyên NIỆM PHẬT mà không có TRÌ- CHÚ đi kèm, cũng giống như người đang bị đủ thứ bệnh tật, mò-mẫm, lê-lết mà đi, không may gặp phải GIẶC CƯỚP (MA) ồ ạt xông đến bắt “Hồn”. Chừng đó thì: Không có TÂM-LỰC (không biết dụng tâm), không có Sức-Lực (để chống trả, vì đã bị mất hết “chân-khí”), không có TRÍ-LỰC (để phân biệt chánh tà), lại không có chút THẦN-LỰC (nào để đề kháng, và cảm-nhận được) cả. Lúc đó sợ quá, không còn nhớ NIỆM PHẬT, á khẩu đứng tim mà chết, thần-thức sẽ đi về đâu? Cực-Lạc ư !
Cho nên, từ-bi phải có trí-huệ đi kèm. Niệm Phật phải có Thần-Chú đi kèm (hai cái này không thể thiếu một).
Cũng giống như người có chiếc xe đẹp, nhưng không có xăng, nên tuy có xe đẹp mà không chạy đến đâu được cả, nằm ụ ở đó.
Người (chân-chánh) chuyên niệm Phật chỉ mong có đủ tiền “công-đức” để mua được một vé đi Cực-Lạc. Nhưng đường-xá thường hay bị nhiều chông-gai, thú-dữ, kẻ ác, ma quỷ bao-phủ đầy đường, lại không có chút xíu “sức-lực” chi cả, thành ra ngồi ỳ tại chỗ, vì không có tạo ra cái “lực” gì hết, nên không có khả-năng phá vòng vây để bay cao hơn được !
Những người mà không có chánh tâm, không chân thật tu hành cần-cầu giải-thoát, hoặc có cái TÂM NGHI- NGỜ, PHÂN-BIỆT, XẤU-ÁC, CỐ-CHẤP v.v… thì ngay cả NIỆM-PHẬT hoặc TRÌ-CHÚ cũng không được kết quả tốt, cũng sẽ bị tẩu hỏa nhập ma, hoặc bị dựa nhập như thường.
Cho nên trong thời kỳ “Pháp Diệt” rất ít có người “dám” Trì-Chú, hoặc biết rõ và dạy về Ấn-Chú chân- truyền của Phật-Gia cả.
Có nhiều người còn sợ không dám Trì-Chú, lại còn phỉ-báng và ngăn-cấm người Trì-Chú nữa.
Chính đức PHẬT xưa kia cũng đã dùng Thần–Chú để “hàng-phục Ma quân”, và cứu đệ-tử của NGÀI ra khỏi Ma nạn mà.
Vậy quý Thầy đã dùng Thần-Chú gì để SÁI- TỊNH hằng ngày (khi ăn, khi uống, khi tắm gội), cúng vong-linh, triệu-hồn, cầu-siêu hoặc tiếp-dẫn cho người mới chết, thí-thực, phóng-sanh, diệt tội, vãng-sanh, công-phu mỗi sáng v.v…
Hỡi ôi! Có được mấy người chịu TIN, chịu TRÌ-CHÚ ?
Hiện nay, đa phần Phật-tử chỉ thích ngồi Thiền, tụng Kinh, niệm Phật, lạy Phật cầu PHƯỚC qua ngày, vì dễ hơn là Trì-Chú tức là tu theo MẬT-TÔNG chánh truyền của PHẬT dạy.
Tại sao?
Muốn Trì-Chú để đạt được “Thần-Lực”, niệm Phật để đạt được “công-đức” đòi hỏi hành-giả phải có được cái tâm “trong sáng”, “thanh-tịnh”. Có khi phải trải qua hàng tháng, hàng năm cũng chưa có được cái tâm “trong sáng”, vì khó mà diệt những cái “trược Tâm” lắm. Cho nên có nhiều người đi tu, niệm Phật, lạy Phật hàng chục ngàn lạy, tụng Kinh cả đời, đến gần chết mà vẫn chưa đạt được thành quả chi hết, cùng lắm chỉ là kết chút duyên với Phật mà thôi.
Vì thế ngày nay có rất nhiều Phật-tử bỏ chánh mà tu theo ngoại-đạo, tà-giáo, vì được thành-tựu rất mau. Sáng tu tối có kết quả rồi. Vì phương cách tu-luyện (tà) của họ, đòi hỏi phải có càng nhiều thứ “Tâm Tà, Tâm Ác” thì tu-luyện càng mau thành.
Thử hỏi người trên thế-gian này, có Tâm “Thiện” nhiều hay Tâm “Ác” nhiều??
Bây giờ quý-vị đã biết tại-sao, không có người thích “Trì-Chú” (của Phật), và Trì-Chú không được, không có kết quá rồi.
Giờ chúng ta thử nhìn ra ngoài xã-hội mà xem – đã có không biết bao nhiêu người đã, đang bị tà-ma khống-chế, dựa, nhập… làm cho thế-giới bị đảo-điên hết rồi, mà kỳ-thật không một ai hay biết cả.
Cứ tưởng rằng:
– Tôi chỉ thuần NIỆM PHẬT không thôi, thì mới bảo-đảm được vãng-sanh! Còn như kiêm thêm Trì-Chú thì sẽ bị chi-phối, không được nhất tâm, sẽ không có đầy-đủ công-đức để được vãng-sanh.
Cho nên Phật-Tử và chùa chiền ngày nay đều xúm nhau bỏ Trì-Chú hết. Họ không còn Trì-Chú Lãng Nghiêm (sáng), Chú Đại-Bi, Chú Bát-nhã, Chú Vãng- sanh v.v… gì hết. Thành ra, chính họ vô tình đã đồng-ý và sẵn-sàng giao “hồn” cho quỷ, rồi vô tình đồng nhau giết Phật, diệt Pháp của Phật, của Tổ-Sư đã dạy.
Hỡi ôi, có ai biết rằng:
Chúng-sanh ngày nay đồng miệng “NIỆM PHẬT” và cũng lại đồng-tâm “GIẾT PHẬT” mà không hay biết! Thiện-tai!
Người xưa thường nói:
Khẩu Phật tâm xà!
Nghĩa là ngoài miệng niệm Phật, mà trong tâm thì độc ác như rắn-rít (chúng đông như kiến, ở đâu cũng gặp hết). Chánh tâm, hoặc tà tâm gì cũng “niệm Phật được hết, quá dễ-dàng, không gặp trở-ngại, vì nó ẩn trong tâm nên không ai thấy biết ngoại trừ người có trí Bát-Nhã (của bậc giải thoát).
Còn ngược-lại, với câu Thần-Chú thì người Trì-Chú phải đòi hỏi có cái TÂM PHẬT (chánh tâm) thì mới phát sanh ra được “chánh-lực” (việc này khó làm, như đã có nói ở trên, vì người có “tà tâm” thì nhiều vô số, còn người có “chánh-tâm” (tâm Phật) thì quá ít. Cũng như người thọ Bồ-Tát giới (phong-trào mới hiện nay) thì thật là nhiều, mà kiếm người có thật tâm “Bồ-Tát” (bình-đẳng cứu độ chúng-sanh), và thực-hành hạnh” Bồ-Tát (từ-bi hỷ-xả) thì lại tìm không ra.
Hiện nay, chư đại Bồ-Tát, chư Tổ-sư đang tìm kiếm người (có đại tâm, đại lực) vì quý Ngài phải mượn tay người để cứu người trong tương-lai.
Cho nên ít có ai Trì-Chú được thành-tựu, vì phải áp-dụng Mật Chú thì mới giải-nạn cho mình và cho người được. Nếu tu hoài mà không có chút “thần-lực” nào cả, thì phải biết rằng:
– Cái tâm người này không được “trong sáng”, không có chánh-tâm (nên thần-lực không phát-huy được).
Người CÓ chánh tâm, và trong sáng chỉ cần Trì-Chú 7 câu, hoặc 10 câu, tệ-lắm là 21 câu thì lập-tức phát sanh ra Thần-lực liền.
Quý-vị có nghĩ rằng:
– Nếu có người Trì-Chú mà có được “thần-lực” và “đạo-lực“, có khả-năng giải-nạn, và cứu-độ được cho người v.v… thì có nên bảo rằng người “Trì-Chú” này là tà, và Tâm không chân-chánh, hoặc bị Ma dựa nhập, khảo-đảo không ?!)
***
Có rất nhiều Phật-tử chưa hiểu thấu, nên nghĩ rằng:
– Tu TỊNH-ĐỘ (niệm Phật) rất dễ, người (chánh, tà) nào cũng tu được. Còn tu Mật-Tông thì rất khó (trì hoài cũng không thấy có kết quả gì cả), và người mà Trì-Chú sẽ không thành được đạo quả !
Hoặc là:
– Muốn về Cực-Lạc mau, thì phải “chuyên” niệm Phật, không nên Trì-Chú. Vì tu 2 pháp-môn (Mật, Tịnh) một lượt sẽ bị chi-phối, không được nhất tâm, không được vãng-sanh???
Cho nên, hiện nay hầu hết Phật-Tử đã từng tu MẬT-TỊNH đều từ từ bỏ Trì-Chú (Lăng Nghiêm, Đại- Bi, Bát-Nhã, Vãng-Sanh v.v…), và bỏ đắp mền Tỳ-Lô luôn nữa.
Phải biết rõ thêm rằng:
Ba môn vô-lậu học: Giới, Định, Huệ tượng-trưng cho Giác, Chánh, Tịnh, và lại cũng tượng-trưng cho Tam-Bảo Phật, Pháp, Tăng (Phật nghĩa là “Giác-Ngộ”. Pháp tức là “Chánh-Pháp”. Tăng mang ý-nghĩa “Thanh-Tịnh”). Tu học Phật-Pháp không ngoài ba môn Giác, Chánh, Tịnh này. Đây cũng ví như ba cửa Tam-Quan trước cổng chùa. Vào được một cửa là vào được nhà của Như-Lai.
– Như Thiền-Tông thì chủ-trương thấy tánh thành Phật. Đây là theo môn “Giác” mà tu-hành.
– Giáo-Tông thì chủ-trương nghiên-cứu Kinh-Giáo. Đây là theo môn “Chánh” mà tu-hành.
– Mật-Tông và Tịnh-ĐỘ đều giống nhau, vì đòi hỏi có tâm “Thanh-Tịnh”. Đây là theo môn “Tịnh”.
Vì thế, 2 môn “Mật” và “Tịnh” song tu thì rất là “hạp” căn.
Còn ngược lại, 2 môn “Thiền” và “Tịnh” song tu, thì không hạp (căn) được. Vì một cái “Không” và một cái “Hữu” không thể đồng hành được.
Cho nên, Mật-Tông và Tịnh-ĐỘ đều khó như nhau và cũng đều dễ như nhau.
Tại sao dễ?
– Dễ vì câu “A-Di-Đà Phật” hay “Um Brum Hùm” ai cũng trì được.
Nhưng tại sao khó?
– Khó bởi vì cả hai đòi hỏi người Trì (Chú), hoặc Niệm (Phật) phải có được cái “tâm trong sáng”, thì mới có thể phát sinh ra được “tâm-lực”, rồi từ tâm-lực đó dần-dần mới có được “thần lực”. Chính cái “tự-lực” này mới phụ với “tha-lực” của Phật A-Di-Đà mà đưa mình về Cực Lạc được.
Tâm trong sáng mới bắt được băng tầng của chư Phật, mới cảm-ứng đạo-giao, mới được tiếp-dẫn vãng-sanh. Còn như, nếu dùng cái tâm phân-biệt, tâm phan-duyên, tâm cố-chấp, tâm xấu ác mà niệm Phật thì sẽ bắt nhằm phải băng tầng của Ma, khiến cho Ma Quỷ kéo đến. Dù niệm Phật bể cổ cũng không được vãng-sanh, trái lại còn làm “oan-gia” trong cửa đạo.
Câu “Thần Chú” là cả một “Tâm Ý” của chư Phật đối với chúng-sanh. Tiếng Phạn gọi là Dharani, có nghĩa là bao trùm tất cả Pháp, gìn-giữ tư-tưởng cao-thượng từ vô lượng diệu-nghĩa của nội tâm.
Trong bộ Luận Đại Trí-ĐỘ do Ngài Cưu-Ma-La-Thập có giảng rõ:
– Trì-Chú có nghĩa là gìn-giữ và bảo-vệ.
Gìn-giữ là gom-góp các pháp lành không cho tan mất.
Bảo-vệ là ngăn-ngừa tâm bất thiện không cho phát sanh.
Trì-Chú là giúp tăng-trưởng huệ-lực, thống- nhiếp và duy-trì vô-lượng Phật-Pháp, khiến không bao giờ hoại diệt. Pháp môn Trì-Chú giúp cho hành-giả tu-tập kiểm soát được hành-động, lời nói, ý- nghĩa và phân-biệt được rõ-ràng tà-chánh. Tay kết Ấn, miệng Trì-Chú, mắt đối tượng Phật, tâm quán chữ Rảm (chủng-tử biểu-tượng cho bản-thể của chư Phật).
Tu theo pháp-môn Mật-Tông sẽ nhiếp được thân, khẩu, ý. Như vậy thì hành-động, lời nói và ý-nghĩ sẽ trở nên trong sáng, vọng-niệm tự-nhiên không khởi. Không khởi niệm phân-biệt, giữ tâm trong sáng thì mới phát-sinh “đạo-lực”. Tu-tập là “luyện” cho thân tâm thuần-thục, đòi-hỏi một sự tha-thiết, quyết-tâm mong-cầu được giải-thoát, chứ không phải là “có căn” (Mật) mới tu được. Nếu căn-cơ cao, tâm đã tịnh, thì cần chi phải tu (niệm Phật, hay Trì-Chú) ?
Suốt hơn 27 năm qua, mỗi lần Bảo-đăng gặp nghiệp “nạn”, liền mơ thấy Sư-Tổ Thích Thiền-Tâm, Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, Phật A-DI-ĐÀ, và Long-Nữ Bồ-Tát đều đến chỉ dạy cho Bảo-Đăng toàn là bắt Ấn, Trì-Chú và áp-dụng ấn chú thật cặn-kẽ. Các Ngài còn dạy phải trì lớn tiếng, tùy theo trường-hợp cứu người khẩn-cấp (khác nhau) thì phải Trì-Chú như thế nào mới phát-sanh ra được “thần-lực” cực mạnh. Ngay cả trong thời-gian giải-nạn giúp Thầy, Bồ-Tát cũng chỉ dạy cho Bảo-Đăng toàn là Ấn với Chú, chứ đâu có dạy gì khác.
Ai không tin có Phật, có Bồ-Tát, có cảm-ứng, chứ riêng bản-thân của Bảo-Đăng thì khỏi bàn, vì sau khi quý-vị đọc xong quyển nầy sẽ biết rõ hơn.
Cho nên, muốn bảo-đảm được vãng-sanh trong kiếp nầy, song-song với niệm Phật ta cần phải kiêm thêm phần Trì-Chú, mới giải được sự khảo-đảo (oan-gia) kéo đến.
Hai chữ MẬT- TỊNH nầy, hàm ý là:
– Người tu phải TRÌ-CHÚ (Mật) trước, rồi NIỆM PHẬT (Tịnh) sau. Vậy mới đúng pháp tu-tập của Tổ-Sư chỉ dạy.
(Nên xem Kinh “Trang-Nghiêm Bảo-Vương” để biết rõ thêm vê công-năng của Thần-Chú, Mền Tỳ-Lô, mặc áo Chú, đeo Chú, vẽ Chú, và mật hạnh của Bồ-Tát về “trích máu tả Kinh” v.v…)
Quý-vị cũng biết:
Hiện nay, tuy khoa-học kỹ-thuật tân-tiến hơn xưa, thế nhưng chiến-tranh, thiên-tai, bệnh-tật… ngày càng thêm nặng hơn xưa. Nhiều người vẫn chưa biết nguyên-nhân là ở đâu ?
Phật dạy:
Y-báo chuyên theo Chánh-báo.
Chánh-báo là chính chúng ta.
– Y-báo là môi trường mà chúng ta đang sống.
Tuy chúng sanh chúng ta có tu-niệm, có bố-thí, nhưng TÂM (chánh-báo) vẫn còn quá Ác, nghiệp-lực lại quá nặng, vì tham-sân-si-mạn-nghi kiến mà không từ bất cứ một thủ-đoạn độc ác nào, nên đã chiêu-cảm ra những hiện-tượng trên (y-báo). Mười phương chư Phật cũng đành bó tay, đứng nhìn mà rơi lệ, vì chúng-sanh ngày nay “bất khả hóa-độ”.
Có Phật-tử hỏi rằng:
– Tại-sao mà không ĐỘ được vậy ? trong khi thời nầy có rất nhiều người xuất-gia, vô-số người tu-hành, ăn chay, ngồi thiền, niệm Phật, và hầu như góc đường nào cũng có chùa lớn, Phật lớn, chùa nhỏ hết mà !!
Tại bời:
Cạo đầu chứ không có cạo tâm.
Chay miệng chứ không có chay lòng.
Miệng niệm Phật (mà lòng thì chất-chứa đủ loại “chấp” dầy-đặc, các tham-vọng lẫy-lừng), nên Tâm (đó) không hề có Phật ngự.
– Tuy có niệm Phật, có hành Thiền, hiểu LÝ (đạo), thích nói LÝ cao siêu, nhưng cái hạnh (Sự) vẫn còn chưa thực-hành đúng y như pháp được.
– Ngồi Thiền, học Thiền nhưng vẫn bị Tham, Sân, Si (nắm chặt, không buông bỏ).
– Ngồi Thiền, học Thiên nhưng vẫn bị ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy) lôi cuốn.
– Ngồi Thiền, học Thiên nhưng đối với lục-trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) vẫn còn tham- đắm.
– Và nhất là hiện nay có vô-số người ham-muốn “thần-thông”, nên bị sa-bẫy vào lưới người (ác) dẫn dạy cho thành (ma) rồi, nên không sao thoát ra được.
Cho nên, nếu hạnh không xứng lời thì dù có niệm (Phật) bể cổ vẫn hoàn không, dù ngồi Thiền bao lâu, dù hiểu thâm-nghĩa của Thiền cách mấy đi nữa, thì đây cũng như lấy cát mà nấu com vậy…!
Phải biết:
– Người đời thì ưa-chuộng cái “LÝ” thuyết, hình tướng (giả) hào-nhoáng bên ngoài, thích nghe những lời nịnh-hót, khen-tặng… Và niệm Phật vì danh vì lợi để dễ hại, gạt người lành.
– Còn Phật thì lại chuộng cái “Tâm” chân-thật, cái “Sự” hành-trì, cần-cầu giải-thoát. Cho nên, người TU thì nhiều như ngưu-mao (lông trâu), nhưng người chứng-đắc dường như không có (ví như Thố-giác (sừng thỏ)) vậy.
Phật-Tử không hiểu pháp, cứ “tưởng” rằng :
– Tôi chỉ chuyên nhất tu theo Tịnh-Độ mà thôi, chỉ biết niệm Phật, không còn Trì-Chú nữa, vì tu hai cái sẽ không được nhất tâm, không được cảm-ứng và không được vãng-sanh !
Vậy xin hỏi:
Có được bao nhiêu người niệm Phật mà được nhất tâm, được cảm-ứng với Phật, với Bồ-Tát ?
Nếu như được nhất tâm rồi, có được cảm-ứng với Phật, với Bồ-Tát rồi thì tâm phải luôn có Phật ngự. Mà tâm đã có Phật (ngự) rồi, sao không thấy lòng “từ, bi, hỷ, xả” phát ra vậy ? Chỉ thấy đủ loại “chấp”, đủ loại tham-cầu, miệng niệm Phật, mắt ngó “lỗi” người, rồi chỉ-trích, chê-bai, phỉ-báng Tam-Bảo, nhất là sanh-lòng ganh-tỵ, nên tìm đủ mọi cách (độc ác) để hãm-hại người có căn lành trong đạo !
Thật đúng với câu:
Khẩu Phật, tâm xà.
Đồng “miệng” cùng nhau niệm Phật, cũng đồng “tâm” nhau giết Phật, diệt pháp. Có chắc-chắn sẽ được Phật rước không?
Lời huyền-ký của Phật không hề sai!
Tình-hình thế-giới đã chứng-minh cho thấy rằng, hiện nay TÂM tánh của con người hầu như đều đảo-lộn, điên-đảo hết. Cha con, vợ chồng, anh em, thầy trò tàn-hại lẫn nhau (giành-giựt, phe-phái, dùng bùa thuật ếm-đối không nương tay v.v…).
Ngoài đời, có rất nhiều người cực-khổ đi làm kiếm tiền, nhưng thay vì đem một phần nhỏ bố-thí cứu giúp người nghèo khổ, hoạn-nạn, thì lại chạy đua theo thời-trang, đi mua sắm những đồ hiệu nổi tiếng để đánh bóng cái giả tướng của mình với thiên-hạ, đánh-bóng cái “vỏ” bên ngoài cho đẹp, cho bóng, cho cao sang hơn người khác.
Họ cam-tâm tình-nguyện đi làm nô-lệ cho những nhãn-hiệu đó, trong khi khả-năng thật-sự của chính họ còn eo-hẹp, nợ-nần còn chồng-chất…!
Trên mạng-lưới Internet, cho đến sách-báo, âm-nhạc, phim ảnh, TV, nightclubs thì những chuyện dâm-dật, lang chạ, bạo-động, xì-ke ma-túy, v.v… đầy-dẫy, coi là chuyện bình-thường ! Thầy cô cho đến bậc cha mẹ thì đặt nặng con mình vào khoa-học kỹ-thuật, chú-trọng bằng-cấp và thi lấy điểm cho cao, chứ không dạy học-sinh, con cái về “thánh-đạo” (đạo-đức làm người)!
Trong cửa đạo, sự tu-hành hiện nay không còn nguyên-thủy nữa (đã mất “gốc”) rồi, cũng vì chúng-sanh (Phật-Tử) chỉ ưa-thích hình-tướng “giả”, tu-hành giải-đãi (biếng nhác), ham vui và thích chạy theo phong-trào hiện-đại.
Cũng bởi trong “Tâm” chúng-sanh “muốn” (tướng chánh hay tướng tà) gì thì liền hiện ra những “Tướng” đó!
Phật, Bồ-Tát muốn đổi, cũng không thế đổi dời được.
Cho nên trong cửa đạo hiện nay cũng tạo ra đủ loại phong-trào:
“Tân học, tân đạo, tân Tăng, tân pháp, tân tu-tập, tân hành Phật sự (hay hành Ma sự) v.v…”
Người có chút trí-huệ sẽ thấy, “Ma” thời nay không cần hiện ra hình-tướng dữ-tợn để hù-dọa hại người nữa, mà trá hình trong những điều kể trên và dùng những danh-từ trong đạo, mượn những lời Phật dạy rồi uốn-nắn (cong) ngược lại một cách quá tinh-vi, ít có ai nhận-diện ra được cả.
Người đời bị những nhãn-hiệu, và những việc như trên đã âm-thầm khiến người ta phải điên-đảo, chạy theo hình-tướng bên ngoài (đời cũng như đạo), phải ganh-tỵ tranh-chấp hơn thua với nhau, để rồi đi làm nô-lệ cho nó mà chính mình không hề hay biết. Hiện-tượng nầy hiện nay thật là quá nhiều, quá nhiều ! Thế-giới tuy ngày càng văn-minh tiến-bộ, nhưng đổi-lại thì chúng ta đã phải trả một giá quá đắt!
Những Kinh điển Đại-Thừa dần-dần bị rút ngắn lại (từ 28 phẩm gom lại chỉ còn 50 trang), tất cả kinh điển gom lại chỉ còn một quyển mà thôi.
Thử hỏi tương-lai thế-giới nầy sẽ ra sao, khi những người đang giúp xây-dựng nó là những thanh thiếu-niên (tân học, tân Tăng) đang bị đầu-độc hiện nay?
Phật Pháp còn được mấy người hiểu thấu? Họ chỉ biết Kinh Phật chỉ có một quyển mà thôi.
Những thế hệ sau nầy sẽ còn tệ như thế nào ?!
Những người muốn tu-học Phật-pháp sẽ hiểu ra sao?
Cho nên trong kinh có dạy:
-Từ bây giờ trở về sau, người xuất-gia tu-hành nhiều như lông trâu, mà người chứng-đắc thì như sừng thỏ vậy!
Con người đa số chỉ chú-trọng ô-nhiễm môi-trường, trong khi cái gốc ô-nhiễm trong tâm sinh-lý của chính mình ngày càng trầm-trọng hơn thì lại bỏ quên!
Tất cả đều do TÂM của chúng-sanh mà chiêu-cảm ra hết vậy.
Trong Kinh dạy:
TAM GIỚI DO TÂM.
VẠN PHÁP DUY THỨC.
Thử hỏi, làm sao Phật, Trời giúp cho khỏi nạn thiên-tai cho được, trong khi tâm của chúng sanh hành ác nhiều hơn là hành thiện?!
Bởi vì, chúng sanh đang đều có cùng một nghiệp-lực (cộng nghiệp), vì do họ muốn như vậy !! Không phải là Phật, Bồ-Tát không muốn cứu, mà là vì chúng sanh như con thiêu-thân vui-vẻ tự-nguyện lao mình vô lửa, không muốn được cứu, nên các Ngài cũng đành phải bó tay !
Cho nên, nghiệp của mỗi người mỗi khác, đừng vì thấy người khác đang phải trả nghiệp, phải chịu nghèo-cùng, khốn-khổ, xấu-xí, tật-nguyền, v.v… mà phỉ-báng, chê khinh. Không ai biết được nghiệp của mình còn hay hết, hiền hay dữ ?
Đừng thấy người khác có đại Tâm cầu đạo giải-thoát, chân-chánh tu-hành, hiển-dương giáo pháp của nhà Phật, cứu-độ cho những người con của Phật (Phật-Tử), mà sanh lòng ganh-ghét, ếm hại cho chết, thì không nên. Vì những người nầy đại-diện cho “ba đời chư Phật”, là “tạng thân của A-DI-ĐÀ PHẬT”, là sứ-giả của Như-Lai (vì quý ngài phải dùng tay người để cứu-độ người). Nếu giết hại “sứ-giả” của Như-Lai là giết người của Tam-Bảo, giết một vị Phật tương-lai.
Vậy hậu-quả sẽ ra sao?
Con dao không ác,
Cái chuông không hiền.
Hiền, ác do tâm,
Siêu, đọa do thức.
Cho nên, nếu là Phật-tử chân-chánh thì phải tự giải-nghiệp cho chính bản-thân mình trước khi chết, phải biết tu-sửa lại hành-vi sai-quấy trước kia, quy-y Tam-Bảo, giữ Ngũ-Giới, tu Thập-Thiện Nghiệp thì mới bảo-đảm không bị sa-đọa vào ba nẻo ác (địa- ngục, ngạ-quỷ, súc-sanh).
Lại nên phải luôn làm việc lành, tránh việc ác, xa-lánh bạn ác (tổn hữu), tu-sửa thân-tâm, sám-hồi mỗi ngày, Trì-Chú trước, rồi mới niệm Phật cầu sanh Cực-Lạc. Xong rồi đem hết công-đức tu-hành hồi-hướng cho oan-gia, trái-chủ để bảo-đảm cho ngày lâm-chung của mình sẽ không còn bị nghiệp-lực lôi kéo, mà được dự-phần vãng-sanh trong chín phẩm ở Cực-Lạc quốc.
Sư-Tổ Thích Thiền-Tâm, Bồ-Tát Đại-Ninh dạy rằng:
“Yếu-điểm” của đường tu,
Gồm hai phần “Sự”, “LÝ”:
“LÝ” là tu sửa TÂM,
Cho hợp với “chân-lý”.
“Sự” là chỉnh ba nghiệp, (thân, khẩu, ý)
Giúp chứng cảnh chân-như.
Sửa TÂM là dứt trừ,
Nghiệp tham, ái, nóng-giận.
Si-mê cùng tật-đố,
Ngã-mạn với kiêu-căng.
Cho nên, hai chữ “tu-hành” nghĩa là “tu-sửa” lại Tâm mình cho tốt hơn, “tu-sửa” lại những “hành-động”, “hành-vi” của mình cho tốt hơn. Đây mới chính là tu-hành, chứ tu-hành không có gì là cao siêu cả !
Tâm tà (tâm mà không đồng với tâm của chư Phật) mới phải tu. Tâm động mới phải tu. Tâm chấp mới cần phải tu. Nếu tâm chánh, tâm tịnh rồi thì đâu cần phải tu, phải sửa ?!
Người đời ai cũng bị nghiệp-lực lôi kéo, khảo-đảo. Có người phải bị tù-tội, bị giết chết, bị phá-sản, bị cướp vợ con, mất việc làm, mất hết nhà cửa, chưa kể đến bệnh-tật, bị vong ma dựa-nhập, có người khổ đến nỗi điên-loạn phải tự-vận v.v… Vì không có học Phật-pháp, nên không biết cách để giải, không có quy-y Tam-Bảo nên không biết có Tam-Bảo để cầu xin. Bạn-bè, thân-quyến tuy đông-đủ nhưng không ai giúp gì được cả. Đành phải theo nghiệp mà trả vậy.
Phước ai nấy hưởng,
Nghiệp ai nấy mang.
Ít người biết Thầy Thích Hải-Quang là một viên ngọc quý trong cửa đạo. Thầy suốt đời một lòng vì Phật-Pháp, vì đạo, vì chúng-sanh, vì đệ-tử mà truyền dạy Mật-Tịnh pháp-môn đúng pháp của Phật-Gia. Lòng từ-bi của Thầy bao-la rộng lớn.
Ngay cả sau khi Thầy rời khỏi làng nhỏ (Louisville, Nebraska) rồi, Thầy thường hay lo và than rằng:
“Suốt hơn 20 năm, Thầy thường-xuyên kiết-giới trấn an cho làng này không hề bị bão-tố chỉ cả. Sau khi Thầy rời xa rồi, họ chắc sẽ bị nạn tai, bão-lụt khắp nơi quá. Thật là khổ thay !”
Thật vậy!
Thầy nói không sai chút nào. Khoảng đầu tháng sáu năm 2011, nguyên thành-phố Omaha, Nebraska bị bão lớn, con sông Missouri dâng-tràn đến tận phi-trường Eppley. Tất cả mọi người bị kẹt tại phi-trường đông nghẹt, cả thành-phố đều bị ngập nước !
Thầy luôn an-phận mình, không tham-cầu, không ham-muốn, không tranh-giành, không ganh-ghét, mà dốc lòng tu-tập và giữ trọn sự thanh-khiết của một nhà tu (chân-chánh) cho tới phút lâm-chung.
Dù bị những đệ-tử (xuất-gia) “ganh-tỵ”, phê- trách, ám-hại, đã ác ý dùng lời (độc ác) chia-rẽ huynh-đệ, đâm-thọc (2 chiều) sau lưng, Thầy vẫn thản-nhiên, không phản-ứng, không đính-chánh, không than-van, không phiền-hà, và không oán-hận. vẫn an-nhiên tự-tại mà trả “đại nghiệp” của mình.
Bảo-Đăng nhìn lại đoạn phim (Thầy sám-hối với đệ-tử (oan-gia)) ở trên, thấy vẻ mặt thật đau-khổ, thành-tâm sám-hối của Thầy mà đau thắt từng đoạn ruột!
Chung sống nhau trong Phật gia-đình,
Vì sao hạ-thủ chẳng lưu-tình.
Minh-Sư, thiện-hữu kêu thù-địch,
Tà gian, kẻ ác nói đẹp xinh.
Thâm-ân dạy-dỗ chưa đền báo,
Dứt nghĩa hại Thầy thấy hãi-kinh.
Lý Đạo học nhiều sao chẳng tỉnh,
Ngôn-hành xem lại giống yêu-tinh !
~ Bảo-Đăng
Gần 30 năm làm Phật-sự, bản-thân Bảo-Đăng đã chứng-kiến biết bao điều bất-hạnh của Phật-Tử khắp nơi, điện-thoại về chùa cầu-xin cứu giúp, giải-nạn. Tất cả không ngoài hai chữ “Nghiệp-lực”, “Oan- trái”, “Nhân-quả”. Càng gieo nhiều nhân xấu, thì quả hái được càng dị-dạng, càng gây nhiều phiền-muộn trong lòng.
Thầy kiếp nầy là một người tu, dốc tâm, dốc sức để cầu tìm giải-thoát, đứng trước bao “oan-trái” do chính mình đã tạo ra từ nhiều đời, nhiều kiếp, cũng đành phải ngậm-ngùi, tức-tưởi. Lòng muốn bước đi nhưng chân đầy vướng-mắc. Oan-trái nầy biết trả sao đây ?
Lửa lòng đã tắt, duyên đời dứt,
Ngoảnh mặt, xoay lưng biệt cõi trần !
Cảm thương cho người ly-gia, thoát-tục, tứ-đại giai-không, trọn một đời sống chết vì Đạo, vắt hết tim óc để lại cho đời, đến phút cuối cùng vẫn còn phải bị buộc-ràng vào “Nghiệp-quả”. Nếu Bảo-Đăng không dốc tâm sức ra để giúp Thầy “giải-nghiệp”, thì công khó tu-tập cả một đời của Thầy có lẽ đành phải thả trôi theo dòng nước.
Như trong sách có nói đến Ngài Giới-Hiền Luận sư, một cao Tăng bên Ấn-ĐỘ. Khi ông bị nổi ghẻ cùng mình, ai cũng chê-bai, sầm-sì, và ghê-tởm.
Ông tự nghĩ rằng:
– Mình tu-hành chân-chánh, tại sao lại mắc phải chứng bệnh này Không lẽ Phật không linh? Sao kỳ vậy?
Nghĩ thấy buồn, nên ông định uống thuốc độc tự-tử.
Đêm đó, sau khóa-lễ DI-ĐÀ xong, định uống thuốc… trong khi mơ-màng thấy đức Văn-Thù Sư-Lợi, đức Phổ-Hiền cùng Quán Thế-Âm Bồ-Tát hiện thân ra, dùng cánh tay vàng xoa đầu Ông, và dạy rằng:
– Đừng tự-vận, vì những kiếp trước ngươi đã làm vua 500 kiếp, đã giết hại người vô số kể. Nhờ ngươi có tu-hành chân-chánh, cho nên không đọa vào địa-ngục. Do tu-hành nhiều kiếp nên đã chuyển “địa-ngục” thành “ghẻ” và bị người chê-bai. Sau này sẽ có một vị Tăng ở Trung-Hoa đến thọ-giáo ngươi đó. Nhờ có tâm chân-chánh giảng-giải giáo-pháp của Phật, giúp người người ngộ đạo, nên 3 năm sau ghẻ (nghiệp) sẽ tự-nhiên hết.
Tóm lại,
Qua hai câu chuyện “Oan-nghiệp” trên, chúng-ta thấy rằng:
– Đã mang thân người là có mang luôn “nghiệp-quả” theo cùng. Người ở ngoài đời vì quá bận-rộn tranh-giành cho cuộc sống hằng ngày, tâm trí mệt-mỏi, đen tối, rối-bời, nên một khi “nghiệp quả” (hoặc nặng, hoặc nhẹ) kéo đến khảo-đảo, chỉ đành biết chấp-nhận “trả” một cách tự-nhiên, không thắc-mắc, và không biết cách nào để giải-nghiệp.
– Người có tu-hành, có học Phật pháp, có lòng tin nơi Tam-Bảo, hiểu rõ lý “Nhân-Quả”, luôn gần-gũi với Minh-Sư, thiện-hữu, nên mỗi khi có “oan-trái”, “nghiệp quả” kéo đến khảo-đảo liền biết nhận ra, rồi y theo lời dạy của Phật, của Bồ-Tát trong Kinh mà triệt để thi-hành (sám-hối, Trì-Chú, niệm Phật) thì tất cả tai nạn, oan-trái, nghiệp quả thảy đều được Tam-Bảo gia-hộ và giải-nạn cho được mau sớm tiêu-trừ.
Bảo-Đăng xin kể thêm một chuyện cảm-ứng với Bồ-Tát:
Trong khi Thầy bị oan-nghiệp kéo đến hành-xác, Bảo-Đăng không biết phải tụng Kinh gì, Trì-Chú gì, phải làm thế nào để cứu giúp Thầy, và cũng không biết ai để hỏi.
Suốt hai đêm liền, Bảo-Đăng hết nằm rồi ngồi, đi tới đi lui, thở dài, thở ngắn, lo-rầu, thổn-thức không nguôi, nên không sao chợp mắt được. Sau đó ngồi dậy, hai tay bắt ấn, Trì-Chú Đại-Bi…(khoảng 21 biến), tha-thiết quán tưởng đến đức QUÁN THẾ-ÂM Bồ-Tát, xin Ngài cứu-độ cho. Trong chớp mắt thấy tự-thân mình đến một nơi có nhiều chư Tăng qua lại nói cười. Bảo-Đăng thắc-mắc không biết mình đang ở đâu, nên hỏi một vị Tăng đứng gần đó, thì mới biết đây là Nam-Hải.
Trong khi còn phân-vân chưa biết đi lối nào, thì thấy có một đồng tử áo trắng chạy đến, nắm tay Bảo-Đăng kéo đi cười nói:
“Bảo-Đăng đi theo tôi đến gặp Bồ-Tát. Ngài đang chờ Bảo-Đăng đó.”
Mừng quá, Bảo-Đăng cũng cười vui tung-tăng chạy theo đồng-tử, thấy mình giống y như một đứa con nít 7, 8 tuổi vậy. Đi qua hai hàng trúc xanh nằm dọc hai bên đường mòn, rồi đến hai hàng trúc tím cao vút, thẳng hàng thật uy-nghi, hương thơm thoang-thoảng tỏa bay từ phía trước, chợt nghe tiếng nước chảy róc-rách và tiếng chim hót thật thanh-tao lạ-lùng, không giống như loài chim mình thường nghe, hình như có nhiều loài chim đang Trì- Chú Đại-Bi thì phải. Bảo-Đăng còn đang ngó dáo- dác tìm kiếm tiếng chim hót đang phát ra từ nơi đâu, chợt nghe tiếng gọi tên mình :
“Bảo-Đăng đến đây Ta dạy.”
Xoay lưng lại, thấy đức QUÁN THẾ-ÂM BỒ-TÁT đang ngồi trên một cái toà bằng đá trắng có phát ra ánh-sáng, chung quanh toàn là hoa sen nở rộ, hương thơm dịu ngọt. Bảo-Đăng liền vội-vàng quỳ xuống đảnh-lễ, thưa rằng:
“Nam-Mô Quán Thể-Âm Bồ-Tát. Con cúi lạy Ngài.”
Ngài hiền từ hỏi :
“Trong tâm ngươi tha-thiết muốn gặp Ta, vậy đến cầu Ta có việc gì cần hỏi ?”
Bảo-Đăng lần-lượt trình-thuật hết về “vong nạn” (oan-gia) của Thầy đến đòi nợ, không biết phải làm sao, Thầy thật sự có vãng-sanh chưa ? Những Ấn, Chú Sư-Tổ dạy cũng đã áp-dụng hết rồi v.v…
Bồ-Tát cười thật đẹp, thật là hiền. Ánh mắt từ-bi của Ngài, không bút mực nào tả hết được.
Ngài dạy rằng:
“Hãy yên tâm, đừng quá lo rầu. Vì Hải-Quang còn chút “Nghiệp-lực” nên phải chịu tai-tiếng trong phút lâm-chung, hầu giải hết “oan-nghiệp” trong kiếp chót nầy. Hải-Quang đã được Phật A-Di-Đà cùng Ta, Đại-Thế-Chí Bô-Tát và Đại-Ninh Bồ-Tát đến tiếp-dẫn trực-chỉ Tây-Phương, trước khi đám vong kia hay tin kéo đến quấy-phá, và hành-xác Hải-Quang rồi…”
Nói xong, Ngài bước xuống tòa ngồi, đến gần Bảo-Đăng chỉ dạy cho Ấn, Chú, dặn-dò những gì cần phải biết, phải làm v.v… Giựt mình tỉnh giấc, Bảo-Đăng thấy hai tay vẫn còn kết Ấn (của Bồ-Tát mới dạy). Nhìn đồng-hồ thấy đã gần 5 giờ sáng, liền đánh-thức Huệ-Trang dậy và kể cho nghe về chuyện trên. Hai Cô cháu mau ngồi chép lại câu Thần-Chú của Bồ-Tát dạy, và cùng nhau Trì-Chú đó cho đến sáng.
Cho nên, không phải không có Phật, không có Bồ-Tát, không có Thánh-thần, chỉ tại vì Tâm mình không tin sâu, nên không biết cách cầu. Hễ chân-thành và tha-thiết cầu thì sẽ có cảm-ứng ngay.
Người học Phật chúng ta cũng phải biết rằng:
– TÂM mình đã hay “tạo” nghiệp được.
Thì:
TÂM mình cũng “chuyển” nghiệp được.
Nghiệp đã do Tâm tạo ra rồi, thì cũng có thể tùy theo Tâm mà chuyển (đổi) được. Chỉ trừ khi Tâm (mình) không biết hổ-thẹn, ăn-năn sám-hối, không tha-thiết muốn chuyển mà thôi. Nếu cứ nghĩ rằng ta đã trót tạo bao nhiêu tội lỗi, mai này sẽ phải chịu khổ để đền tội, chết sẽ bị đọa không cách nào giải-quyết được… dù có tụng kinh, niệm Phật, sám-hối cũng không được Phật chứng, thì thật là sai-lầm lớn.
Ví như, một người cải lời cha mẹ không lo học-hành, nghe theo bạn bè bỏ học, bỏ nhà, bỏ cha mẹ đi lang-thang gia nhập băng đảng cướp giựt của người, giết hại người, dốt nát, ngu-si, nghèo khổ v..v…
Sau nhiều năm khổ cực đi cướp của người, mới thức-tỉnh hồi đầu, bỏ dao, bỏ súng, tránh xa bạn ác, vô quân-đội 4 năm để cải-tiến và xin được đi học. Sau gần 9 năm chịu khó (vừa đi làm vừa đi học), nay đã qua cơn bỉ cực, với bằng cấp TIẾN-SĨ đã có trong tay rồi, thì cuộc sống có còn giống như xưa không, trở về nhà thăm cha mẹ có vui mừng để tha-thứ không ?
Lòng từ-bi của chư Phật, Bồ-Tát không thể nghĩ bàn; dù tâm chúng-sanh có tạo nhiều tội-lỗi, mà “thành tâm” khởi lên một ý niệm “sám-hối” dù nhỏ như hạt cải, cũng được Phật chứng-minh. Huống chi ngày đêm sám-hối, tu sửa !
Ngoài đời cha mẹ luôn lo-lắng cho những đứa con ngu-si, hư đốn nhiều hơn là những đứa con ngoan, đủ tài, đủ trí.
Sự lo lắng, thương-tưởng của chư Phật, Bồ-Tát đối với chúng-sanh nhiều và bao-la như đất trên địa cầu nầy vậy.
Cho nên Phật dạy cho chúng ta phải tu-tập cho thật nhiều, thật giỏi (thành-tựu được đạo-lực) để “tự” bảo-hộ cho cái thân huệ-mạng của mình không bị đọa-lạc vào 3 ác đạo, và phụ thêm tay với Phật, Bồ-Tát cứu-độ những người (có duyên) đang còn hoạn-nạn, nghèo cùng, không trí-huệ.
Chư Phật, Bồ-Tát rất vui khi thấy một người con Phật “tự” lo được cho bản thân, để quỳ Ngài rảnh tay cứu-độ những người khác không “tự” lo cho mình được.
Cho nên, tất cả “cảnh-giới” (an-vui, hoạn-nạn…) hiện nay, cùng với tất cả “quả-báo” (buồn, vui, sướng, khổ…) thảy đều do nghiệp “tự” mình tạo chiêu-cảm ra, và cũng do “tâm” mà hiện ra hết cả.
Vì vậy, quả-báo có thể từ ĐỊNH mà thành ra BẤT ĐỊNH, từ nặng chuyển thành nhẹ, từ nhẹ trở thành không.
Tóm lại, có thân người là phải có nghiệp-lực, có phước, có họa, có siêu, có đọa… có tất cả, và cũng không có tất cả.
Phải biết, hễ tâm mình thường tưởng, nghĩ đến Phật, Bồ-Tát, nghĩ đến những điều đạo-đức, nghĩ đến sự giải-thoát, hoặc nghĩ đến những điều trái với nhân-tình, trái với lời dạy của Thánh-hiền, trái với tâm Trời Phật, thì tất cả những tướng “siêu”, tướng “đọa”, tướng “xấu”, tướng “đẹp” thảy đều hiện ra theo như ý muốn.
Hễ:
Hữu tâm vô tướng, tướng tự tâm sanh,
Hữu tướng vô tâm, tướng tùng tâm diệt.
Ví dụ :
1. Nhìn sắc tướng sẽ ít nhiều biết tâm người (tốt hay xấu).
2. Trường hợp khác nữa, người có gương mặt đẹp đi mua một ổ bánh đem về, tự tay bắt thêm bông cho đẹp, rồi đem tới tặng cho người bạn của mình trong ngày vui họp mặt. Nhưng vì tâm của người nầy không chân-chánh, nên:
Bánh không chánh, tà,
Vì,
Bánh mang tâm người.
Người không chân-chánh,
Nên bánh mang tâm tà.
Người ăn vào sẽ bị bệnh ngay.
3. Còn người có tâm chân-chánh lại có thêm Trì-Chú Đại-Bi, mỗi lần pha-chế thuốc cho bệnh nhân cũng đều luôn miệng Trì-Chú, mong rằng thuốc nầy uống sẽ hết bệnh. Rồi trao cho người bệnh đó uống, kết quả người nào uống cũng đều hết bệnh. Ngay cả bệnh ung-thư cũng hết. Lành thay !
Cho nên:
Thuốc không quý, tiện,
Lành bệnh là hay.
Tâm người chánh-thiện,
Thuốc thành Cam-Lộ.
Vì thế, Bồ-Tát Đại-Ninh Thích Thiền-Tâm đã có dạy chúng ta ở phần trước là:
– Phật-Tử ngày nay không tu (theo chánh pháp) mà muốn có được thần-thông.
– Không muốn tự mình tu-tập, chỉ muốn nhờ người khác tu giùm.
– Bị nạn khổ cũng không muốn tự mình cầu nguyện Phật, Trời, chỉ muốn nhờ người khác cầu xin giùm.
– Thân bị bệnh “nghiệp lực” lôi kéo, khảo-đảo nặng nề, hành-hạ xác thân cũng không muốn sám-hối, tụng Kinh, niệm Phật chi hết, chỉ muốn nhờ người khác tụng Kinh giùm.
Phần nhiều còn bị “Vong ma” (oan-gia) dựa nhập đã lâu năm rồi, cũng không chịu tự thân Trì-Chú, niệm Phật chi cả, chỉ đến chùa cầu quý Thầy giải ma nạn giùm v.v…
Nếu như suốt cả đời người chỉ biết nhờ người khác làm giùm, khi bụng đói nhờ người khác ăn cơm giùm, mỗi lần đau bệnh cũng nhờ người khác uống thuốc giùm, vô trường học lại nhờ bạn bè làm bài-vở giùm, bị Ma khảo-đảo thì vô chùa nhờ Thầy giải (Ma nạn) giùm… thì chính bản thân mình ra đời để làm gì ? Đời sống ở ngoài xã-hội sẽ ra sao ? Khi mạng chung thần-thức sẽ đi về cõi nào ? Đức giáo-chủ nào sẽ hân-hoan đón-nhận mình đây?
Phật-Tử ngày nay hầu-như ngày càng rời xa với chánh-đạo, tâm chân-chánh (thuở ban đầu vào cửa Đạo) lần-lần bị lấp bít, đưa đến những việc đáng tiếc là:
Sa vào trong vòng tà-kiến,
Bỏ chánh pháp lúc nào mà không hay biết…
Bị Ma đưa lối,
Quỷ dẫn đường,
Xăm-xăm tìm chốn đoạn-trường mà đi…
Thật là khổ thay !
Nhứt nhựt vô-thường đáo,
Phương tri mộng lý nhân.
Vận ban tương bất khó,
Duy hữu NGHIỆP tùy thân.
Muốn thật tâm tu-tập cần-cầu giải-thoát, có 4 điều giúp cho thân-tâm hành-giả được an-lành đến ngày vãng-sanh. Đó là:
– Giữ “lập tâm ban-đầu” (khi mới bước vào cửa đạo).
– Giữ bổn-phận (không đi quá bổn-phận của mình).
– Không tham, sân.
– Không mong-cầu.
Cố Bổn-Sư Thích Hải-Quang Niệm Phật Tăng đã về cõi Phật, ngự bảo liên rồi, để lại cho Bảo-Đăng một gánh nặng Phật-sự chưa hoàn-mãn, đó là phải thay Thầy dắt-dìu đàn con Phật đang còn ngơ-ngác, phân-vân giữa hai pháp-môn Mật-Tịnh, chánh tà lẫn-lộn, và quờ-quạng trong biển pháp mênh-mông. Cộng thêm “nghiệp-lực” lôi kéo quá nặng-nề, làm cho đường tu-tập của những Phật-tử đó bị khảo-đảo một cách trầm-trọng.
Một trọng-trách quá lớn-lao, Phật sự quá nặng-nề, khiến Bảo-Đăng đôi lúc cảm thấy chùn bước. Song, nhớ lại những lời phó-thác chánh-lý của Thầy đã phán dạy trước lúc lâm-chung, Bảo-Đăng đã lấy lại niềm tin và lòng phấn-khởi để “y-giáo phụng- hành”,làm tròn lời ủy-thác của Tôn-sư.
Sau gần một năm dài chăm-lo bệnh-tình của Thầy Bổn-Sư, cũng như đã trợ lực, trợ tâm cho Thầy và nhất là phải áp-dụng thần-lực, trí-huệ của mình một cách tối-đa, trong việc giúp Thầy giải “nạn nghiệp”.
Bảo-Đăng nhận thấy rằng:
1. Uy-vũ của “nghiệp-lực” (tiền kiếp) thật không thể nghĩ bàn, nó lôi kéo, khảo-đảo chúng sanh không chừa sót một ai. Trường-hợp “nạn nghiệp” của Tôn-sư Thích Hải-Quang là một cơ-hội thật hiếm có, giúp cho những người đang đi và sắp đi vào con đường tu-tập và tìm cầu giải-thoát cần phải biết điều nầy.
2. Sự cảm-ứng đạo-giao với chư Phật, Bồ-Tát không phải là điều không tưởng, nếu chúng ta biết Tin Sâu, Nguyện thiết.
3. Công-năng và thần-lực của câu “Thần-Chú”giải nghiệp không thể nghĩ-bàn.
Với những nhận-xét trên đây, Bảo-Đăng đã không ngần-ngại sưu-tập hết tất cả những tài-liệu và ghi chép lại thật chi-tiết, thật tỉ-mỉ trong quyển Hồi-ký về thân-thế, thuở ấu-thời, cuộc đời niên-thiếu, thêm vào những ngày sống hạnh-phúc bên cạnh Sư-Tổ Thích Thiền-Tâm học đạo, cùng với hình ảnh 32 năm tu-hành và Phật sự nơi đất khách của Thầy với bao nỗi trái-ngang “nghiệp-lực” (tiền kiếp) ồ-ạt kéo đến khảo-đảo “SAU KHI LÂM-CHUNG ‘ một cách dữ-tợn v.. v….
Nhưng tất cả những nạn-nghiệp, oan-gia đó đều được chư Phật, Bồ-Tát, Sư-Tổ đến chỉ dạy và giải nạn cho Thầy được “vãng-sanh đúng hẹn”, và phương-cách Hộ-niệm, Trì-Chú giải-oan cho gần hai triệu vong-linh đều được siêu-thoát. Thật là hy-hữu!
Mong sao quý độc-giả hữu-duyên, sau khi đọc xong quyển Hồi-Ký nầy, sẽ có thêm chánh kiến, niềm tin vững-chắc mà phát tâm tinh-tấn và dũng-mãnh thiết-thực hành-trì Mật-Tịnh pháp-môn nhiều hơn nữa.
Hàng phàm-phu chúng ta vì đều đang sống trong “mê”, lòng Tin không vững, giáo-lý chưa rành, chánh-kiến không đủ, Minh-Sư chẳng gặp, thiện-hữu khó tìm… vì thế cho nên trong đường đạo thường hay bị xảy ra các cảnh:
– Cũng có khi tu-hành
– Cũng có khi tạo nghiệp
– Cũng có lúc tinh-tấn
– Cũng có lúc thối-lui
– Cũng có khi tin-tưởng
– Cũng có lúc nghi-ngờ
– Cũng có khi phân-vân, lo sợ không biết mình tu-tập theo pháp môn nầy có bảo-đảm được vãng-sanh hay không?
– V..v…
Tóm lại:
Thế-giới ngày kia rồi sẽ hoại,
Đời người khoảnh-khắc chớ mê say.
Cái thân Nam, Nữ ngàn phen đổi,
Mà kiếp long sừng vạn lúc mang.
Bảo-Đăng cùng ban Hoằng-Pháp Liên-Hoa Thắng-Hội của bổn-tự, xin đê đầu đảnh-lễ thành- kính sám-hối lên Tôn-Sư NIỆM-PHẬT TĂNG THÍCH HẢI-QUANG đã mạo-muội biên-soạn thành quyển Hồi-Ký nầy. Nhưng chúng con tin rằng với lòng từ-bi muốn cứu-độ chúng-sanh, Tôn-Sư sẽ hiểu cho tâm của chúng con và hoan-hỷ cho.
Chúng con xin thành-kính đảnh-lễ và nguyện cho Tôn-Sư thường-trụ Tây-Phương, sớm được thăng kim-đài Thượng Phẩm, cứu-độ chúng-sanh chúng con thoát cơn khổ nạn sắp xảy đến.
Cách biệt ân-sư mấy tháng nay,
Nhìn ảnh ân-sư luống thở dài.
Thầy ơi, sao sớm về Tây cảnh!
Đông độ hà thời thị khứ lai.
Ta-Bà côi cúc đàn con dại,
Nhớ đến ân-sư lệ chảy dài.
Sáu chữ DI-ĐÀ con gắng niệm,
Ghi lời Thầy dặn dám đâu sai.
~ Bảo-Đăng nhớ Thầy
Các đệ-tử chúng con còn ở Ta-Bà tại Pháp-Hoa Tự nầy, bao giờ cũng vẫn là những đệ-tử ngoan của Tôn-Sư, luôn biết ơn (giáo-hóa) và biết báo ơn, sẽ luôn y-giáo phụng-hành, nối tiếp theo bổn-nguyện của Thầy mà hoằng truyền Mật-Tịnh pháp-môn, trước độ mình sau độ người, trước cứu mình, sau cứu người.
Và
– Đồng đăng giác ngạn
– Đồng kiến Như-Lai
– Đồng hóa chúng-sanh
– Đồng thành Phật đạo.
Việc Pháp-sự nầy, nếu có gây tạo nên được ít nhiều công-đức, phước lành chi, Bảo-Đăng cùng ban Hoằng-pháp nguyện hồi-hướng trang-nghiêm Phật độ, cho Tứ-Ân, Tam-Hữu, chư Thiên-Long, Bát-Bộ, Hộ-Pháp, Già-Lam Thánh-Chúng đang trụ-trì tại PHÁP-HOA TỰ và tất cả chúng-sanh trong pháp-giới hữu-tình.
Nam-Mô Chứng-Minh-Sư Bồ-Tát
tác-đại chứng-minh.
Nam-Mô A-Di-Đà Phật
KHÓC THẦY
Khóc nhớ thương Thầy dạ héo hon,
Ơn sâu dạy-dỗ báo chưa tròn.
Những tưởng có Thầy về trụ mãi,
Thỏa dạ hoài mong bớt mỏi mòn.
Than ôi! một sớm vô-thường đáo,
Sanh tử chia lìa nghĩa sắt son.
Trời Tây An-Dưỡng đành ly-biệt,
Theo Phật DI-ĐÀ bỏ chúng con.
Hoàn-tất vào tiết Lập-Hạ
Nhâm-Thìn 2012
tại Pháp-Hoa Tự Tucson, Arizona.
Bồ-Tát Giới BÁO-ĐĂNG
(Cẩn-bút)
Sau đây là Danh-sách PHẬT-TỬ được Bồ-Tát Giới Bảo-Đăng tận-tình “HỘ-NIỆM” đã được VÃNG-SANH TÂY-PHƯƠNG CỰC-LẠC QUỐC và được THĂNG THIÊN (sanh về cõi TRỜI) là:
– Ưu-bà-di DIỆU TUỜNG – LÊ THỊ NGƯU
– Ưu-bà-tắc ĐẠO NGUYÊN – NGUYỄN VĂN PHAN (là thân-phụ của BẢO-ĐĂNG -VN 2001)
– Ưu-bà-di HUỆ TỊNH – NGUYỄN THỊ THÚY
– Ưu-bà-di DIỆU HIỀN – LÊ THỊ TUỞNG
– Ưu-bà-di VIÊN ĐỨC – TRẦN PHƯƠNG NỮ
– Ưu-bà-di BẢO THIỆN – ĐỘ BĂNG TRÂM
– Ưu-bà tắc THIỆN NGỘ – TRẦN VĂN SẾN
– Ưu-bà-tắc ĐĂNG MINH – TRỊNH ĐÌNH PHÚ
– Ưu-bà-di HẠNH PHUỚC – PHAN THỊ PHẤN
– Ưu-bà-di ĐĂNG MARIA Hoàng-Hậu Marie Antoinette 2008 (Pháp quốc)
– Vô-số QUỶ TỬ-MẪU KHOÁNG-GIẢ
– Vô-số QỦY LA-SÁT từ Hawaii và Washington tất cả đều được siêu-thoát 2009
– Vô-số CHƯ-THẦN ở Arizona và Pagosa Springs, Colorado 2010.
– Ưu-bà-di LỆ NHƯ – VƯƠNG THỊ NHỊ (úc)
– Ưu-bà-di THIỆN TÂM – NGUYỄN THỊ NHO (úc)
– Ưu-bà-tắc TÂM QUANG – TRẦN QUANG (CA)
– Một triệu vong-linh ở Bộ-lạc Navahê, Mông-Cổ, của thời Thành-Cát Tư-Hãn – 2011
– Hộ-niệm cho Bổn-sư THÍCH HẢI-QUANG vãng sanh Cực-lạc đúng hạn-kỳ (đã được báo trước) vào ngày 25/06/2011
– Ưu-bà-tắc QUẢNG MINH HỘI – VÕ KHẮC HIỆP (California 2011)
– Trong số các vong-linh oan-gia trái-chủ tại Phi-Châu của Phật-tử Huệ-Trì chỉ có được 3 vong-linh vãng-sanh Cực-Lạc và 13 vong-linh được thăng-thiên, còn lại tất cả đều đi đầu thai. (2011)
– Ưu-bà-di NGUYÊN NGHI – ĐỔ THỊ NGẠI được thăng-thiên (Việt Nam -2012)
– Ưu-bà-di THIỆN TÂM – LÊ THỊ THƯƠNG được thăng-thiên (Việt Nam – 2012)
– Phật-tử Sheala – Shea Bias – Con chó của Chùa Pháp Hoa được thăng-thiên và sẽ được về cõi Cực Lạc sau 3 năm tu tập (Arizona – 2012)
Và số nhiều Phật-tử khác ở các phương xa được Bảo-Đăng trực-tiếp chỉ dẫn HỘ-NIỆM…cũng đều được vãng-sanh, và Thăng-Thiên.
Lành thay cho PHÁP-MÔN “TỊNH-ĐỘ” và sự “HỘ-NIỆM VÃNG-SANH đúng pháp” trong lúc lâm-chung nầy vậy.
Bảo-Đăng xin thành-kính tri-ơn đến tất cả Huynh-đệ và Phật-tử xa gần đã một lòng ưu-ái đến Bảo-Đăng và hết lòng ủng-hộ Mật-Tịnh đạo-tràng từ suốt bao năm nay. Bảo-Đăng rất lấy làm cảm-kích và thương-mến. Với tất cả tấm lòng thành, Bảo-Đăng xin nguyện hồng-ân Tam-Bảo thùy-từ chứng-minh và gia-hộ cho tất cả quý huynh-đệ, Phật-tử được nhiều sức khỏe, tâm-trí vững-bền, tu-hành ngày càng thêm tinh-tấn và giữ “lập tâm ban đầu” không thay đổi. Nếu “thuận duyên” Bảo-Đăng sẽ sẵn-sàng Hộ-niệm cho quý huynh-đệ, để ngày lâm-chung được bảo-đảm vãng-sanh về cõi Cực-lạc của đức A-DI-ĐÀ PHẬT.
Xin trân trọng.
Viết xong vào tiết Lập Hạ
Nhâm-Thìn niên – Phật lịch 2556
Dương-lịch 2012
Viện-chủ kiêm Trụ-trì PHÁP-HOA Tự
Ưu-bà-di Bồ-tát giới Bảo-Đăng
(Cẩn-chí)
VÀI LỜI GIỚI THIỆU……
Về Ưu-bà-di Bồ-Tát Giới BẢO-ĐĂNG:
Bảo-Đăng ngay từ lúc 6 tuổi đã mồ-côi Mẹ. Cha bị tố oan phải giam mình trong lao-tù. Trước hoàn-cảnh thương-tâm đó, Sư-Bà (là bà-nội thứ 6) đã mang hết đàn cháu dại về sống chung dưới mái Am nhỏ hẹp (vừa đủ chỗ cho một người tu ở) nền đất, mái tranh, vách lá. Cuộc sống đạm-bạc, trải qua suốt bao năm chay lạt, tu-hành từ lúc nhỏ với sự an-ủi, bao-che dưới ánh-mắt từ-bi của chư PHẬT, chư Bồ-Tát, đêm ngày chăm lo tu-niệm (trì-Chú, niệm Phật) ẩn-dật sống qua ngày.
Bảo-Đăng đã phải thay Mẹ, thay Cha, một tay lo cho đàn em dại, đứa bé nhỏ nhất mới được có 2 tháng… Một đứa bé gái mói lên 6 tuổi, mà trong trí-óc non-nớt đã có trăm mối nghĩ, ngàn mối lo, bao não-phiền, cô-đơn, tủi phận cùng với sự hãi-hùng trước những màn đêm đen kịt, luôn chan-chứa đầy nước mắt và đầy trọng-trách.
Quá Tủi-Thân:
Người ta có Mẹ, sao mình chẳng?
Người có Cha, mình có như không!
Những ngày buốt lạnh trời đông,
Một thân bé nhỏ, thay quyền mẹ, cha.
Nuôi-dưỡng một đàn em nhỏ dại,
Tuổi ấu-thơ nào có biết chi.
Mẹ, Cha giờ ở nơi nào?
Biết chăng con trẻ tảo-tần một thân?
~ Ưu-bà-di Bảo-Đăng
Đến khi khôn lớn và lập gia-đình với một người chồng hiền-đức (có nhân-duyên tiền-định), Bảo-Đăng rời khỏi nước Việt Nam, định-cư tại Mỹ-quốc ngày 22 tháng 4 năm 1975.
Định-cư tại địa-phương Tucson, Arizona. Đến hè năm 1985, vào mùa Vư-lan, có lẽ vì “Túc-căn TU- TẬP” sâu-dầy với PHẬT-ĐẠO trong nhiều kiếp qua và thiện-duyên vun-trồng đã đến lúc chín mùi, nên xui-khiến gặp lại được vị Thầy Bổn-sư trong tiền-kiếp (là cố Hoà-Thượng THÍCH HẢI-QUANG), một bậc chân-tu hiền-đức.
Từ đó Bảo-Đăng được Thầy bổn-sư hướng-dẫn vào trong cửa đạo. Đường tu ngày càng thêm tinh tấn và tiến-bộ một cách vượt-bực.
Qua sự chỉ-dẫn, khuyến-khích và giúp-đỡ của Thầy bổn-sư về mặt đạo-pháp và tinh-thần, Bảo-Đăng làm người đầu tiên đứng ra hưng-khởi Phật- sự, “Khai-Sơn Lập Tự” tại địa-phương Tucson, Arizona. Năm 1985 Bảo-Đăng sáng lập ngôi Chùa PHẬT-GIÁO đầu tiên tại Tucson nầy, đó là ngôi PHÁP-HOA TỰ, MẬT-TỊNH ĐẠO-TRÀNG LIÊN- HOA THẮNG-HỘI hiện nay.
Vì Thầy ẨN-TU vô thời-hạn ở tận phương xa (tại một vùng Lâm-tuyền xa-xôi, hẻo-lánh nơi miền Trung- Mỹ, tiểu-bang Nebraska), nên Thầy chỉ về Chùa một năm 4 lần (mỗi lần 2 tuần lễ) vào những kỳ lễ lớn (Tết, Phật Đản, Vu-lan, và rằm tháng mười) mà thôi. Với trình-độ Phật-pháp đã thu-thập từ nơi Thầy bổn-sư và sự chân thành tu-học, Bảo-Đăng đã vốc hết thiện-tâm, thiện chí, một mình lèo-lái tất cả mọi Phật sự cần-thiết trong ngoài tại Bổn-tự. Bảo-Đăng đảm-nhận các việc làm của người xuất-gia và luôn cả những việc của người Trụ-trì cần phải biết, phải làm, nên đã chịu bao cay-đắng, dập-vùi, cực-nhọc, và nhẫn-nhục để hành sự cho trôi-chảy, suông-sẻ và chu-đáo.
Vào năm 1993, Bảo-Đăng đã biên-soạn và thành-toàn quyển:
VÔ-NHẤT ĐẠI-SƯ THÍCH THIỀN-TÂM MỘT CAO TẰNG CẬN-ĐAI
Bắt đầu từ đó và mãi cho đến nay (2012) quyển-sách “VÔ-NHẤT ĐẠI-SƯ” nầy, theo lời yêu-cầu của một số-đông Phật-tử phương xa, đã được nhiều lần tái-bản khắp nơi trong và ngoài nước.
BẢO-ĐĂNG cũng đã sưu-tập những thời Pháp quý-giá, giảng-giải hằng tuần về Mật-Tịnh pháp-môn và chỉ-dẫn phương-cách hành-trì đúng pháp cho huynh-đệ thuần-thành của bổn-tự và Phật-tử hữu duyên. Soạn những thời pháp hay, hữu-ích, trả lời câu hỏi gởi đến Phật-tử khắp nơi dưới hình-thức THƯ GỞI NGƯỜI HỌC PHẬT, hầu giúp cho Phật-tử có chánh kiến, chánh trí, chánh-tín, chánh-pháp tu-tập và lòng TIN trong đường đạo. Ngoài những Thư Học Phật trường-kỳ gửi đi cho Phật-tử gần xa, Bảo-Đăng còn thâu-thanh những bài pháp và cập-nhật trang website của chùa.
Qua sự yêu-cầu của một số đông huynh-đệ và Phật-tử suốt bao năm qua, nên cuốn HỒI-KÝ PHẬT sự của Chùa PHÁP-HOA Tucson, Arizona, nói về cuộc đời thơ-ấu, thuở thiếu-thời, tu-hành, và Phật-sự suốt 27 năm của Bảo-Đăng được biên-soạn và hoàn-tất vào năm 2008. Một số đông Phật-tử ái-mộ ở hải-ngoại đã nhiều lần xin được tái-bản quyển HỒI-KÝ PHẬT SỰ hy-hữu nầy (quý-vị muốn biết thêm, xin gởi thư về chùa thỉnh, hoặc order qua website của chùa).
Một lần nữa, Bảo-Đăng xin chân-thành cảm tạ đến tất cả huynh-đệ, Phật-tử xa gần lời thân mến và biết ơn.
Trân trọng,
Bồ tát giới Bảo-Đăng