HỒI KÝ NIỆM PHẬT TĂNG
SA MÔN THÍCH HẢI QUANG
Soạn giả: Bồ tát giới BẢO ĐĂNG

 

Điếu…….
BỐN-SƯ
THÍCH HẢI-QUANG

THẦY gốc Tây-Phương hiện khứ-lai,
THẦY dạy chúng tu chiếm bảo-đài.
THẦY bị nghiệp khổ cam-phần chịu,
Hai mấy năm dài dưỡng Phật thai.
THƯỢNG-TỌA chân-tâm về cảnh cũ,
HẢI-QUANG thân giả trả trần-ai.
THAY nay thật Báo lên kim-địa,
THẦY vẫn mãi còn TỊNH-ĐỘ khai.

Bảo-Đăng
Lập Hạ 2011 (Tân-Mão niên)

THAY LỜI TỰA

Sau mùa lễ Phật-Đản năm Tân-mão (2011) vừa qua, PHÁP-HOA TỰ, MẬT-TỊNH Đạo-Tràng tại Tucson, Arizona Mỹ-Quốc đã bị một tổn-thất lớn-lao qua sự viên- tịch của cố Hòa-Thượng Thích Hải-Quang, một bậc hiên Tăng, một tôn-sư duy-nhất và cũng là một cao-đô của cố Sư-Tổ Thích Thiền-Tâm, được chỉ-định thay-thế Ngài giữ-gìn, hoằng-truyền và hiển-dương hai pháp-môn TỊNH-ĐỘ cùng MẬT-TÔNG nơi hải-ngoại nầy.

Tôi (Bồ-Tát-Giới Bảo-Đăng) nói riêng, cùng tất cả đệ- tử, các môn-đồ pháp-quyến của Thầy ở khắp cả các nơi hải-ngoại đồng nhất-tâm đành-lễ:

Nam-Mô Hoằng-dương môn Tịnh-Độ, PHÁP- HOA Tự Liên-Hoa Thắng-Hội MẬT-TỊNH Đạo- Tràng – Niệm Phật Tăng THÍCH HẢI-QUANG Hòa-Thượng Tác-đại chứng-minh (tam bái).

Quyển sách nhỏ nầy, đã gói trọn tất cả tấm lòng thành-kính, và sự quý-mến sâu-xa nhất của chúng con kính-dâng lên Thầy bổn-sư Viện-chủ MẬT-TỊNH ĐẠO-TRÀNG tại thành Tucson, Arizona.

Tôn-sư đã an-nhiên thị-tịch giữa tiếng niệm Phật vang-rền của các môn-đồ, pháp-quyến hộ-niệm tại Pháp- Hoa Tự, hưởng-thọ 67 năm tuổi đời, 38 năm tuổi đạo.

Để gọi là tưởng-nhớ đến Tôn-sư THÍCH HẢI-QHANG

Một bậc Thầy hiền-lành và khả-kính, Bảo-Đăng đã có nhiều lần bạch cùng Thầy để xin phép được viết lên đôi lời, kể về thời thơ-ấu, thuở thiếu-niên, và những Phật-sự của Thầy khi mới đặt chân lên đất Mỹ từ năm 1980 trở về sau nầy, để lưu-hậu lại cho các hàng môn-đô, pháp quyến của Thầy được chút duyên may thấy lại quãng đời quá-khứ của Thầy.

Nhưng lần nào Thầy cũng từ chối cả. Thầy nói rằng:

“Đối với một người tu-hành và xuất-gia như Thầy đây, lúc nào Thầy cũng tự tâm-niệm rằng:

Thầy là một người Tu, quê-mùa, chất-phác, lại là hậu-duệ của Ngài VÔ-NHẤT ĐẠI-SƯ, một bậc cao tăng đắc-đạo, suốt đời ẩn-dật, không muốn cho ai tôn-xưng, nhắc-nhở đến mình cả.

Thầy cũng vậy. Thầy muốn noi theo gương sư-phụ (và cũng là chú ruột của thầy), chôn-lấp dĩ-vãng, không muốn nói lên cái NGÃ của mình, huống chi là NGÃ-SỞ.

Vả-lại, suốt hơn 20 năm, Thầy đã liên-tiếp ẩn-tu nơi vùng quê hẻo-lánh tại miên Trung của nước Mỹ, chưa hề tiếp-xúc hay giao-tiếp với ai. Thầy không có bạn (đồng tu), cho chí đến một người quen cũng không có nữa, cũng chưa hề ra khỏi tịnh-thất một ngày nào cả, dù là ra ngoài chợ để mua thức ăn, cũng không luôn! Thầy không điện-thoại hay viết thư thăm-viếng đến một ai hết. Cái gì Thầy cũng không có cả, cho chí đến chiếc xe đạp, hoặc bác-sĩ điều-trị cũng không có luôn.

Cho nên, cuộc đời của Thầy quá lặng-lẽ, đơn-bạc và trống-rỗng, không có gì để kể, để lưu-luyến, hay lưu-lại cả.

Nhiều lần Bảo-Đăng đã cạn lời năn-nỉ, nhưng Thầy vẫn một dạ chối từ.

Vì thế, mà Bảo-Đăng chỉ lược-thuật lại những gì mà trước kia, thỉnh-thoảng, mỗi khi Thầy ra thất về chùa, đã kể lại ít nhiều cho đệ-tử (trong pháp quyến) nghe về cuộc đời niên-thiếu, cũng như những Phật-sự nhiêu trắc trở, dập-dùi trước khi Thầy đi ẩn-tu.

Cho nên, những chuyện mà Bảo-Đăng kể ra trong quyển sách nhỏ nầy, sẽ có rất nhiều thiếu-sót, và chưa đầy-đủ. Bảo-Đăng chỉ kể những gì mà chính tai Bảo-Đăng nghe, hoặc mắt thấy, hoặc biết được mà thôi.

Nếu như có điều gì thiếu-sót, ngưỡng mong quý thân-hữu, huynh-đệ, hoặc thân-quyến của Thầy thông- cảm mà thứ lỗi cho.

 

Phụ thân của Thầy là:

Cụ Ông TÂY-LIÊN, Nguyễn văn-Thông, và thân mẫu của Thầy là:

Cụ bà THANH LIÊN, Huỳnh Thị Sung đều là những Phật-tử thuần-thành, và cũng đã được vãng-sanh về Cực-Lạc Tịnh-ĐỘ của đức PHẬT A-DI- ĐÀ, sau ngày tạ thế.

Bảo-Đăng xin được trích ra một vài bài thơ do cụ ông Tây-Liên “tự than” như sau:

Sáu mươi ngoài tuổi ngán cho mình,
Chìm nôì thăng-trầm, lắm nhục-vinh.
Có lúc leo thang lên chót-vót,
Đôi phen xuống dốc tận hồn kinh.
Vui buồn, mừng giận nhiêu khi nín,
U-uất khóc than cũng lặng thinh.
Cuộc thế đổi thay, thay đổi mãi.
Thân người như chiếc lá linh-đinh.

 Linh-đinh xuôi ngược biết về đâu!
Sóng gió đời Ta lắm khổ sầu.
Chợt tỉnh nhìn xem lưng đã mỏi,
Suy ra ngó lại bạc trên đầu.
Còn đâu tuổi trẻ thời oanh-liệt!
Chỉ thấy thân tàn cuộc bể dâu,
Chìm nổi, nổi chìm trong biển dục.
Hãy mau dứt bỏ sớm quay đầu.

Quay đầu trở lại bớ người ơi!
Cảnh khổ Ta-bà lại nói vui!
Mài-miệt lợi-danh không ngó lại,
Mảng-mê tình-ái tợ người đui.
Lão, sanh, bệnh, tử bao cay-đắng,
Khổ cực, mặn-nong, lắm ngọt bùi.
Nghĩ lại cuộc đời như giấc mộng,
Kíp mau tìm đến chỗ an vui.

An vui cảnh ấy, chẳng đâu xa,
Sướng, khổ, vui, buồn cũng tự Ta.
Sớm tỉnh tìm đường mau trở lại,
Về nơi An-dưỡng chốn quê nhà.
Tâm phàm hãy bỏ đừng lưu-luyến,
Lòng đạo bừng lên dứt niệm tà.
Chớ để dần-lân suy hẹn mãi,
Vô-thường nó đến chẳng chờ Ta.

Nó chẳng chờ Ta, nó chẳng chờ,
Vô-thường đâu có hẹn bao giờ Ị
Luân-hồi sáu nẻo khi lên xuống,
Khổ cực khác nào cá mắc lờ.
Sáu chữ Di-Đà mau gắng niệm,
Tín tâm giữ chặt chớ thờ-ơ.
Chí thành khẩn-nguyện Ngài Tam Thánh,
Cực-Lạc đài sen sẵn đợi chờ.

Đợi chờ những kẻ có tâm thành,
Cảnh đẹp Tây-Phương Phật thuyết rành.
Lầu các cung vàng toàn bảy báu,
Lan can, cây ngọc bọc vòng quanh.
Bốn mùa, tánh vọng đêu êm-ấm,
Tám tiết chan-hòa cảnh sắc thanh.
Bồ-Tát, Thanh-Văn thay nói pháp,
Nghe rồi mau tỏ-ngộ vô-sanh.
                 Tây-Liên cư-sĩ cảm-đế 1979

Và kế tiếp là 2 bài:

TA-BÀ KHỔ, TÂY-PHƯƠNG SƯỚNG” của cụ ông Tây-Liên cảm-đề như sau:

TA-BÀ KHỔ

Cái cảnh Ta-Bà khổ lắm thay,
Mà người mê-muội lại không hay.
Khổ, đau, già, chết luân-hồi mãi,
Lộn xuống, vòng lên khó thoát rày.
Do bởi tham sân, không tránh được,
Lại vì danh-lợi, buộc vào tay.
Khuyên ai sớm sớm Di-Đà niệm,
Thoát khỏi Ta-Bà, sung-sướng thay.

Thoát khỏi Ta-Bà sung-sướng thay !
Lợi danh chẳng vướng bận vào tai.
Của tiền thấy đó rồi liền mất,
Tình-ái mê-say có mấy ngày.
Tính tới, tính lui rồi chẳng được,
Lo quanh, lo quẩn, chẳng xong rày.
Đến khi nhắm mắt, đành buông bỏ,
Hài cốt vùi sâu, có biết ai?

TÂY-PHƯƠNG SƯỚNG

Tây-Phương sung-sướng nào ai biết ?
Cái sướng Tây-Phương đẹp tuyệt-vời.
Gió thổi lưới reo như phổ nhạc,
Từng hàng cây báu sáng trong ngời.
Tiếng chim thuyết pháp cùng trong nước,
Ấm-áp chan-hoà khắp mọi nơi.
Vàng bạc, san-hô cùng hổ-phách,
Ngọc-ngà châu-báu chiếu trong ngời.
Muốn ăn hiện đến xong liền mất,
No ấm xong rồi lại nghỉ-ngơi.
Ao-ước món gì thì cũng có,
Không như cảnh thế mộng xa vời.
Bát Công-Đức Thủy lành trong mát,
Uống, tắm vào thân rất thảnh-thơi
Hoa báu, sen vàng thơm sạch đẹp,
Tây-Phương sung-sướng lắm người ơi Ị
             Tây-Liên cư-sĩ (Thân-phụ của Thầy)

 

 

Cho nên có thể quả-quyết chắc-chắn rằng:

Thầy bổn sư THÍCH HẢI-QUANG, trong đường đạo, vốn là một người con dòng, cháu giống trong chốn đạo tràng.

Thay xuất-gia vào năm 1973. Sau khi thấy rõ hết các sự thăng-trầm trong nẻo đời, đường đạo, Thầy dõng- mãnh về Đại-ninh, ẩn-tu cùng chú ruột của mình là Sư-Tổ Thích Thiền-Tâm từ đó.

Thầy rời khỏi Việt-Nam vào năm 1979, và đến Hoa- Kỳ vào cuối năm 1980.

Hòa-Thượng Thích Hải-Quang là một truyền-nhân duy-nhất, và cũng là một cao-đô bậc nhất của Sư-Tổ Thích Thiên-Tâm, đã nối tiếp theo tôn-chỉ của Sư-Tổ hoằng-truyền tại hải-ngoại pháp-môn: MÂT-TỊNH SONG-TU do Sư-TỐ khaI-sáng trước kia.

Là một chân Tăng hết lòng lo tu-hành, và nhất-tÂm phụng-sự đạo-pháp, bất cứ nơi đâu có gót chân của Hòa-Thượng trải qua, là nơi đó Phật-sự được rộng-khai, các ngôi già-lam, tự-viện đều Lần-lượt thành-hình.

Trong thời-gian lưu-trú ở trại Tỵ-nạn Pulau-Galang, Indonesia, Hòa-Thượng đã khai-sáng ngôi:

– QUÁN-ÂM Tự (tại đảo).

Sau khi nhập cư Mỹ quốc, Hòa-Thượng đã lần-lượt sáng lập các ngôi Phật-tự:

– PHÁP-HOA Tự tại Lancaster; PA

– PHƯƠNG LIÊN TỊNH-XỨ đạo tràng tại NJ

– PHÁP-HOA Tự tại Bronx, NY

– PHÁP-HOA Tự tại Tucson, Arizona

Riêng Pháp-Hoa Tự tại Tucson, AZ đã vinh-hạnh được Hòa-Thượng làm Viện-chủ trong suốt 26 năm qua, và cũng là nơi mà Hòa-Thượng đã được Tây-Phương Tam-Thánh cùng Thánh-Chúng đến tiếp-dẫn giác-linh về Cực-Lạc quốc.

Hồi-tưởng lại thời-gian hơn 26 năm qua, tại thành- phố Tucson Arizona khô-cằn sỏi đá và nhỏ bé nầy, không có một ngôi chùa nào cả; nhờ lòng từ-bi hộ đạo của Thầy mà ngôi bảo tự PHÁP-HOA mới được thành hình, và Bảo-Đăng mới có được cơ-duyên tiếp-nối thiện-căn về Phật đạo của mình trong quá-khứ.

Từ đó đến nay, mang ơn Thầy hóa-độ dắt-dìu, Bảo- Đăng đã có hơn 26 năm tuổi đạo, vẫn tiếp-tục tiến sâu trong đường đạo, hiểu được lý-đạo thậm-thâm nhiệm-mầu, tinh-tiến lễ-tụng, trì-Chú, niệm-Phật, và giảng-giải  rõ được pháp-môn mà mình đang tu-tập. Tất cả đều do ân-Sư tận-tình chỉ dạy.

Thử hỏi công-ơn đó, thâm-ân nầy, bao thuở đáp-đền cho xứng?

Thân giáo-dưỡng một đời nên huệ-mạng,
Nghĩa Tôn-sư muôn kiếp khó báo-đền.

Từ năm 1991, Thầy đã một thân, một mình rời chùa, bỏ lại sau lưng tất cả (chùa chiền, đệ-tử). Với hai bàn tay không, Tầy âm-thầm đến một vùng lâm-tuyền hẻo-lánh (khoảng 500 dân số) thuộc về miền Trung nước Mỹ. Thầy bế-quan nhập-thất, ẩn-tu vô thời-hạn (theo lệnh của cố Sư-Tổ Đại-Ninh Thích Thiền-Tâm).

Suốt 3 năm liền, Thầy không hề liên-lạc với bất cứ ai (dù là Mẹ, quyến-thuộc, và tất cả đệ-tử… và luôn cả Bảo- Đăng nữa), cho nên Bảo-Đăng phải đơn-phương đứng ra trùng-tu lại (toàn-diện) ngôi PHÁP-HOA Tự, thay-thế Thầy đảm-trách mọi Phật-sự (lớn, nhỏ), chấp chưởng-môn, và thay quyền Trụ-trì, dẫn-dắt Phật-tử, đệ-tử của Thầy, và đồ-tôn tu-tập đúng theo Tôn-chỉ MẬT-TỊNH song-tu của Thầy…mãi cho đến nay.

Từ đó, Bảo-Đăng cùng các đệ-tử trong Pháp-quyến cũng đều nối gót theo Thay Bổn-sư ẤN-TU, đến nay đã hơn 20 năm rồi.

Suốt 20 năm liền, Thầy tịnh-tu môn Niệm-Phật Tam-Muội, để cho việc tu-hành và trí-huệ của Thầy được mau tăng-tiến, Hầu có đủ khả-năng và trí-huệ để làm lợi-ích cho Phật-pháp nói chung, và pháp-môn Tịnh-Độ nói riêng.

Nơi HƯƠNG-VÂN Tịnh-thất, Thầy ngày đêm chăm lòng tu-niệm, theo như hạnh của Sư-Thúc phụ (là cố Sư-Tổ Thích Thiền Tâm), và các bậc Tiên-hiền, cổ-đức ngày xưa, để bảo-đảm cho bước đường về nơi Tịnh-Độ của mình.

Bài thơ TỰ-CẢM sau đây đã nói lên rõ-ràng hạnh-nguyện của Thầy:

Louisville thôn nhỏ vốn tên làng,
Tịnh thất HƯƠNG-VÂN định tánh an.
VẠN SỰ GIAI KHÔNG chuyên niệm PHẬT,
DI-ĐÀ sáu chữ: XUẤT NHÂN-GIAN.
 
Phù-thế, lợi-danh rày xả-bỏ,
Sớm mõ, chiều chuông, tối đốt nhang.
Đem TÂM quy-hướng trời AN-DƯỠNG,
Cửu-phẩm nguyền sanh chốn LẠC-BANG.
 
Sáu chữ hồng-danh luyện tánh-chơn,
Pháp-môn TỊNH-ĐỘ chẳng chi hơn.
HƯƠNG-VÂN niệm-Phật rèn Tam-muội,
Trăm khổ, ngàn muôn chí chẳng sờn.
TÂY-PHƯƠNG TAM-THÁNH ngày đêm lễ,
HẠNH bền, TÍN, NGUYỆN chắc keo-sơn.
A-DI nhứt cú chung thân thủ,
Cửu-phẩm hoài-mong bái Thượng-nhơn.
             Niệm Phật Tăng
             Sa-Môn Thích Hải-Quang

Sau 3 năm đầu, từ đó Thầy chỉ ra thất trở về chùa trong mấy kỳ lễ lớn, như Phật-Đản, Vu-Lan, Rằm Hạ-Nguyên (tháng mười), Tết Nguyên Đán và trong những khoá tu Bát-Quan-Trai (24 giờ) cho những đệ-tử gần, xa tụ-về tu-học.

Tuy rằng Thầy đi ẩn-tu xa, nhưng Thầy vẫn luôn ủng-hộ và chỉ dạy cho Bảo-Đăng (qua điện-thoại), trong bất cứ các Phật-sự nào cần-thiết mà Bảo-Đăng chưa được thấu-triệt.

10 năm trước, Thầy đã từng nói với chúng đệ-tử rằng:

“Thầy không sống lâu, cũng sẽ theo gót chân của Sư-Tô (là cố HT. Thích Thiền Tâm) mà viên-tịch đúng vào năm 68 tuổi. Thầy đã biết trước ngày Quy-Tây rồi. Thầy đã chuẩn bị trước để truyền-dạy cho Bảo Đăng hết về Phật-lý và Ấn-Chú Mật-Tông.

Các con hãy cố gắng tu-sửa, sám-hối Thâp-Nhi-Danh Lễ-Sám mỗi ngày, để cho nghiệp tội mau được tiêu-trừ, giữ tâm Bồ-Đề cho kiên-cố trước mọi hoàncảnh, và tránh xa bạn ác, không nên quá TIN người để bảo-hộ thân huệ-mạng của mình không bị lạc vào 3 ác đạo.

Các con phải trì-Chú cho thật nhiều thì mới mong có được Tâm-lực và Trí-lực. Thân-lực phát sanh thì mới có đầy-đủ trí-huệ để nhận-xét việc mình, việc người đang làm là đúng hay sai, chánh hay tà…cố-gắng niệm-Phật cho được nhất-tâm mới bảo đảm con đường Vãng-sanh của mình sau nầy.

Vì chùa mình đã TU ẨN trên 20 năm, không có làm các Phật-sự (rộng) giống như những chùa lớn khác, cho nên không có nhiều Phật-tử biết để đến, vì thế chùa mình rất là nghèo. Thầy, trò sống đạm-bạc, lúc-thúc lo tu-hành, cần-cầu giải-thoát, thế thôi”

Thầy cũng thường khuyên rằng:

Cần tảo già-lam địa,
Thời-thời Phước, Huệ sanh.
Tuy vô Tân-khách chí,
Nhược hữu Thánh-nhân hành.

Và:

Cơm rau đỡ dạ đói,
Lều nhỏ che gió sương.
Người đời ai biết được,
Phiền-não chẳng còn vương.

Thầy còn hiền-hòa dạy rằng:

“Sau khi Thầy về với Phật rồi, các con vẫn tiếp-tục “ẩn-tu” nha.

Huynh đệ phải biết trên kính, dưới nhường, sống lục-hòa với nhau, luôn giữ “bổn-phận” mình, phải biết đến ơn của Cô Bảo-Đăng (đã thay-thế Thầy lo-lắng, giúp-đỡ, và dạy-dỗ các con suốt mười mấy năm qua). Các con phải đoàn-kết để cùng chung tay với Cô làm Phật-sự, duy-trì chánh-pháp, phát-huy pháp-môn Mật-Tịnh, để báo-đền lên ngôi Tam-Bảo.

Những gì cần-thiết về Phật-sự thuộc hai pháp- môn Mật-Tịnh cùng tất cả Ấn-Chú, Thầy đã duy-nhất truyền hết lại cho Trưởng-Tử (Bảo-Đăng).

Bảo-Đăng sẽ thay thế Thầy, tiếp-tục dẫn dắt, truyền Ần-Chú lại cho những đệ-tử, và Phật tử nào hữu duyên với Bảo-Đăng, mà cũng có căn-duyên với Mật-Tông, để cùng tu-tập cho đến ngày Bảo-Đăng vãng-sanh. Như thế mới hy-vọng Pháp-môn Mật- tịnh (hy-hữu) nầy sẽ được trường-tồn và phát-huy thêm một thời-gian nữa.”

Không ngờ, những lời phó-thác, dặn-dò và tiên-đoán của Thầy nay đã thành sự thật. Thầy đã vãng-sanh trước năm 68 tuổi.

Trong năm 2010, sức khỏe của Thầy bắt đầu yếu, luôn bị cảm-cúm, khi khỏe, khi mệt.

Tháng 10 năm 2010 vừa qua, Thầy gọi điện thoại cho Bảo-Đăng, và cho biết là sức khỏe của Thầy không được tốt lắm. Thầy thường thấy mệt đến nỗi không thở được, phải ngủ ngồi.

Sau khi nghe Bảo-Đăng tỏ-bày, Thầy đồng-ý dời về chùa ở, để đệ-tử tiện bề chăm-sóc.

Suốt gần 31 năm qua, từ khi đặt chân lên đất Mỹ cho đến nay, Thầy chưa hề bước chân đến phòng-mạch Bác-sĩ để điều-trị bịnh-tình chi hết. Ngay cả trong 9 tháng qua, thầy về ở chùa dưỡng-bệnh, cũng không hề chịu đi Bác- sĩ, mặc-dù Thầy có thẻ đi Bác-sĩ, nhà thương không tốn tiền.

Tết năm Tân-Mão 2011, sức khỏe của Thầy khả-quan hơn. Thầy vui-vẻ hiền-hòa tiếp-đón và chúc Tết các Phật-tử. Thầy vẫn tinh-tấn giữ thời-khóa tu-niệm hằng ngày.

Ba tháng sau, đúng ngày 01 tháng 06 năm 2011, Thầy vẫn khoẻ và vẫn minh-mẫn, tự lo cho bản-thân mình được hết, tinh-tấn tu-niệm mỗi ngày. Thầy còn nhờ Phật-tử Huệ-Trang nấu cháo trắng cho Thầy dùng mỗi ngày, (thay vì cơm, canh, kho), và chỉ uống nước lạnh cho đến ngày Thầy viên-tịch.

Thầy vui-vẻ nói rằng:

“Mỗi ngày, Thầy muốn tắm với nước Chú, cạo râu, tóc, cắt móng tay, móng chân cho thiệt sạch sẽ, mặc áo mới để đi gặp Phật chứ !”

Huệ-Trang đốt lá Chú cho Thầy tắm gội, như để rửa sạch bụi trần còn sót lại trên thân Thầy.

Mấy tuần cuối cùng, Thầy chỉ muốn uống nước Chú Đại-Bi, chứ không còn ăn cháo nữa.

Buổi sáng ngày 25 tháng 06 năm 2011, Thầy tắm nước Chú xong, mặc áo mới và mặc y Tỳ-Lô, ngồi xếp bằng trên ghế nệm trước Tây-Phương Tam-Thánh (trong chánh-điện), tay lần chuỗi niệm Phật….

Thầy còn dặn đệ-tử những lời sau cuối rằng:

“Suốt 28 năm qua, Thầy lúc-thúc ẩn-tu, không có liên-lạc với một Thầy nào cả, cho nên không biết ai để mà thông-báo sau khi Thầy đi rồi. Vì chùa nghèo… Bảo-Đăng chỉ cần mai-táng, làm lễ đơn-sơ thôi, mua đại một cái hòm giấy vài chục đồng gì đó, đế cho đỡ tốn kém và dễ thiêu hơn.

Còn các đệ-tử của Thầy ở quá xa, lại bận-rộn giađình, công việc làm, Bảo-Đăng cũng khỏi cho biết liền. Khi nào xong mọi việc rồi thông-báo cũng được.

Ngày 25 tháng 06 năm 2011 – lúc 1 giờ 40 chiều, (nhằm ngày 24 tháng 05 năm Tân Mão), Thầy đã đưa tay lên chào lần cuối, và an-lành thoát hóa giữa tiếng niệm Phật vang-lên. Thầy đã ra đi một cách tự-tại, đúng ngày như đã được Sư-Tổ (Đại-Ninh) báo cho biết trước, cũng như Thầy đã cho đệ-tử biết trước ngày, tháng nào Thầy sẽ về với Phật.

Chúng con rất lấy làm hân-hạnh và hãnh-diện có được một SƯ-PHỤ tràn đầy đức-độ, và đạo-hạnh như Thầy!

Hôm nay báo-duyên đã mãn, Thầy đã ra đi, để lại đàn con bơ-vơ, vất-vưởng trong nẻo đạo, đường đời đầy gai- hông, khổ-lụy.

Chúng con những tưởng:

Thầy hằng ở mãỉ với chúng con,
Để dìu-dắt chúng con trên đường đạo.
 
Nào ngờ đâu:
 
Trên Pháp tọa đã vắng Thầy dạy đạo.
Chùa PHÁP-HOA nay mất bóng Tôn-sư.
Ao Thất-Bảo danh đề thượng phẩm,
Cõi Ta-bà Thầy an-giấc ngàn-thu.

Thầy thật sự đã ra đi, và để lại cho chúng con:

Nhiều tác-phẩm trước-tác Thầy lưu lại,
Là gia-tài Pháp-bảo cho hậu-lai.
Là kim chỉ-nam, là tâm-huyết của đời Thầy,
Là hạnh nguyện sáng ngời,
Là cây đại thọ, đầy bóng che rậm mất.
Thầy trước-tác, biên-soạn để lại cho hàng Phật-tử,
Thế nào là XÁ-LỢI, Kinh HIỀN-NHÂN còn đó.
ĐẠI-THỪA PHẬT-PHÁP, TRUYỀN TÂM-ẤN LUẬN vẫn còn đây.
TỊNH-ĐỘ Tam Kinh giảng luận vẫn chưa rồi.
BA-LA-MẬT KINH chú-giải vẫn chưa hết 19 quyển.
MẬT-TÔNG chánh truyền vẫn chưa xong.
THƯ GỞI NGƯỜI HỌC PHẬT vẫn trường-kỳ.
THƯ HỎI, ĐÁP đã có hơn 80 số, vẫn còn tiếp-nối.

Dầu biết rằng:

Sanh ký, tử quy – Có hợp ắt có tan, có tụ ắt có tán. Đó là định-luật ngàn thu. Thầy ra đi là để xả bỏ giả-thân, chứng nhập pháp-thân, nhưng chúng con, các đệ tử quy- y với Thầy, được Thầy răn-dạy, dìu-dắt tu-học suốt bao năm, làm sao tránh khỏi sự xúc-động nghẹn-ngào, khi Thầy đã buông bỏ tất-cả, để về cõi Tây-Phương cùng với Phật.

Thân tuy cách mà Tâm chẳng cách,
Người tuy xa Thần-thức chẳng xa.
 
Từ đây:

Sương chiều khói nước mịt-mờ,
Chùa nay lạnh-lẽo.
Đèm vắng bóng Thầy niệm Kinh.
Phòng thất quạnh-hiu.

Chúng con cúi xin Thầy chứng-minh và khấn nguyện:

THẦY sớm lên quả-vị, trở lại độ sinh.
Muôn đức viên-thành, mọi người chiêm-ngưỡng.
 
Than ôi, từ nay:
 
PHÁP-HOA TỰ khóc cảm ai cầu,
Trường không, mây trắng trăng sâu quạnh-hiu.
Cây lá rũ cánh tiêu-điều.
Chuông chùa ngân-vọng thêm nhiều tiếc-thương.
THẦY đi về cõi Tây-Phương.
Lòng từ, hạnh-nguyện như gương sáng ngời,
Viên-thông, không sắc tuyệt-vời.
PHÁP-HOA PHẬT-TỰ trọn đời khắc-ghi.

Chúng con xin đê-đầu đảnh-lễ bái-biệt SƯ-PHỤ Tôn- kính tam bái.

Nam-Mô PHÁP-HOA Tự đường-thượng, Hòa-Thượng Bổn-Sư:

Húy thượng HẢI  QUANG, hiệu NIỆM PHẬT TĂNG,

thế danh Nguyễn Hoàng Vũ giác-linh Tôn-Sư,

Đã an-nhiên thị-tịch vào ngày Thứ Bảy 25 tây tháng 06 năm 2011, lúc 1g40. (Nhằm ngày 24 tháng 05 ÂL, năm Tân-Mâo) 1945 – 2011. Tăng lạp 38 năm.

Chúng con đã long-trọng làm lễ cung-tiễn Kim-Quan ngày 10 tháng 07, 2011, vào lúc 1 giờ 10 chiều.

(Nhằm ngày 10 tháng 06 năm Tân-Mão).

Tại Nghĩa-Trang EVERGREEN Tucson, Arizona, Mỹ Quốc.

Và thêm một lần sau chót nữa, Bảo-Đăng xin đại-diện cho tất-cả đệ-tử, môn-đồ pháp-quyến, Phật-tử xa gần của Pháp-Hoa Tự Mật-Tịnh đạo-tràng, chân-thành tri-ân và cảm-tạ lòng ưu-ái của quý Phật-tử đã đến đưa tiễn Tôn-Sư của chúng con về cõi Phật.

Nam-Mô Chứng-Minh Sư Bồ-Tát, tác đại chứng-minh.

BTG. Bảo-Đăng
HT. Thích Hải-Quang trưởng-tử.
(Khóc lạy Thầy nay vẹn ước-nguyền)

Danh đức xa lan
Hương thanh thoát tục
Sen vàng về TÂY.
 
Dở, hay:
 
Bởi tai lòng nầy
Linh quang tịch chiếu,
Khắp đầy hằng sa,
 
Chúc cầu:
 
Bộ Bộ Liên Hoa
 
-Bồ tát giới Bảo-Đăng-

 

THẦY

Thầy nương hạnh nguyện đến nơi nầy
Thầy truyền Tịnh-Độ chỉ trời Tây
Thầy thường khuyên-nhắc con tu-tập
Thầy dạy đường tu gắng đắp xây
Thầy chú-giải Kinh truyền hậu học
Thầy luôn niệm Phật phá mù-mây
Thầy sẽ vãng-sanh khi mãn kiếp
Thầy được tâm trong trí-huệ đầy

Bồ-Tát giới Bảo-Đăng (Cảm tặng)