ĐẠI PHƯƠNG QUÃNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH
SƯ HUYỀN PHÂN TỀ THÔNG TRÍ PHƯƠNG QUỸ

QUYỂN 01

Đời nhà Đường, Sa môn Trí Nghiễm thuật.

 

Phần 1

Phẩm 1: THẾ GIAN TỊNH NHÃN

Kinh này vốn ở nước ngoài, gồm có mười vạn bài kệ. Xưa kia vào thời nhà Tấn, Đạo nhân Chi Pháp Lĩnh từ nước Vu Điền găp được ba vạn sáu ngàn bài kệ này. Vào ngày mồng 10 tháng 03 năm Thuần Hỏa thuộc niên hiệu Nghĩa Hy năm thứ 1 đời Tấn, ở tại chùa Tạ Tư Không-Dương Châu, Thiền sư người Thiên Trúc là Phật-độ Bạt-đà-la tự mình cầm bản Phạn văn, dịch âm Hồ thành âm Tấn, Sa-môn Thích Pháp Nghiệp đích thân đi theo ghi chép. Lúc ấy, Nội sử quận Ngô là Mạnh Nghỉ, Hữu vệ tướng quân Chử Thúc Độ làm đàn việt. Đến ngày mồng 10 tháng 0 niên hiệu Nguyên Hy năm thứ 02, đưa ra bản tiếng Hồ hoàn tất. Ngày 2 tháng 12 năm Tân Dậu thuộc niên hiệu Vĩnh Sơ năm thứ 2 thời Thái Tống thì hiệu đính xong.

Nay phân định văn nghĩa theo năm môn phân biệt:

  1. Ca ngợi đức tùy cơ hóa độ của Phật.
  2. Trình bày phạm vi thâu nhiếp của tạng.
  3. Phân rõ về Tông chỉ sở thuyên và giáo thể năng thuyên.
  4. Giải thích đề mục của kinh.
  5. Phân văn giải thích.

Thứ 1: Ca ngợi đức tùy cơ hóa độ của Phật: Đại Thánh Như Lai, từ lúc mới ngộ dấu tích huyền diệu, phát khởi giáo pháp đối với Vô trú, điều hòa thần diệu đối với yên lặng, chí hướng sùng kính đối với Bồđề. Cho nên tự nhiên Đạo chủng sinh khởi ở đời trước, nghiệp thiện tích chứa ở Vô ngã, Chánh trí say sưa ở Kim cang, Như Như trong sáng ở Trí cảnh. Vì vậy vọng tưởng không cắt mà trong ngoài không còn, gương linh không sáng mà Đẳng giác viên minh, lắng sâu Ngã-Tịnh rất vắng mà không ẩn, ngưng dấu Thường-Lạc không gì mà không làm, sinh tử Niết-bàn phẳng lặng cùng quán sát, đức đủ viên thông đại trí không chướng ngại, giải thoát phương tiện vô cùng kỳ diệu thay!

Thứ 2: Trình bày phạm vi thâu nhiếp của tạng: Sự vắng lặng sâu xa này lẽ nào có thể nói được ư? Chỉ vì Đại Bi rủ lòng dạy bảo, không giữ kín riêng mình, cho nên tùy duyên thuyết ra pháp môn không phải là một, giáo phân biệt như cát bụi, lẽ nào có thể hạn định từng phần? Như dựa theo để phân rõ, thì giáo môn trong một thời kỳ hóa độ từ đầu đến cuối có ba loại:

  1. Tiệm giáo.
  2. Đốn giáo.
  3. Viên giáo.

Thứ nhất trong Tiệm giáo đã giải thích (sở thuyên) có ba, cho nên giáo tức là ba. Bởi vì ước định làm thành hai, cho nên giáo tức là hai. Nói giáo là ba:

Một là Tu-đa-la, Trung Hoa nói là Tuyến (sợi chỉ), cũng gọi là Kinh (sợi dọc), vì sợi chỉ có thể xuyên qua hoa, kinh có thể giữ được vĩ (sợi ngang), nghĩa dùng tương tự. Nhưng bởi vì người Trung Hoa coi trọng danh từ Kinh chứ không coi trọng tên gọi là Tuyến, vì vậy phiên dịch thuận theo sự coi trọng ấy, cho nên bỏ danh từ Tuyến giữ lại tên gọi là Kinh. Ví như ngôn giáo của Đức Phật có thể xuyên suốt pháp tướng khiến cho không thiếu mất, làm cho pháp tồn tại mãi, Kinh và Tuyến tương tự. Đây là từ ví dụ mà đặt tên, tức là giải thích về Định giáo.

Hai là Tỳ-na-da, Trung Hoa nói là Diệt, bởi vì nghiệp ác của thân miệng ý đốt cháy hành giả, nghĩa giống như lửa đốt mà giới có thể dập tắt lửa, cho nên gọi là Diệt. Đây là từ công năng làm cho sáng tỏ, giáo thuận theo sự giải thích cũng gọi là Diệt, tức là giải thích về Giới giáo.

Ba là A-tỳ-đạt-ma, Trung Hoa nói là Vô tỷ pháp, cũng gọi là Đối pháp, có thể phá trừ phiền não và phân biệt pháp tướng, tuệ không phân biệt là thù thắng nhất, lại không có pháp nào có thể sánh được pháp này, cho nên gọi là pháp Vô tỷ. Đây là thuận theo không có khác mà có tên gọi, giáo thuận theo sự giải thích cũng gọi là pháp Vô tỷ. Đây tức là giải thích về Tuệ giáo. Gọi là Đối pháp, thì A-tỳ là trí năng đối, Đạt-ma là cảnh sở đối, pháp ngay nơi cảnh dùng để lập tên. Hai Tạng sau này đều thuận theo sự giải thích mà có tên gọi.

Hỏi: Nếu như vậy thì vì sao Nhiếp Luận nói: “Vì nói về ba loại tu học mà thiết lập riêng Tu-đa-la, là trở thành dựa vào giới-dựa vào tâm học cho nên thiết lập Tỳ-na-da.” Lấy văn này để nghiệm xét, thì kinh giải thích về ba hạnh, giới giải thích về hai hạnh, tuệ giải thích một hạnh?

Đáp: Có hai nghĩa:

  1. Khắc tánh môn.
  2. Kiêm chánh môn.

Khắc tánh môn như trước đã nói. Kiêm chánh môn có hai nghĩa, một nghĩa về Bổn-Mạt thì kinh là Bổn giáo, hai loại còn lại theo thứ tự là Mạt giáo. Kiêm chánh môn: Định trong kinh là Chánh, Giới-Tuệ là Kiêm; luật-luận cũng như vậy, theo đó có thể biết.

Kinh này tức là thuộc về tạng Tu-đa-la. Bởi vì làm thành hai, cho nên giáo tức là hai. Căn có nhanh-chậm, pháp có cạn-sâu, cho nên dựa theo căn tánh chậm chạp của Thanh văn ngay nơi tánh phân biệt mà thiết lập ba Tạng, cho nên thành pháp hành Thanh văn; vì căn tánh nhanh nhạy của Bồ-tát, dựa theo nghĩa của ba vô tánh như Vô phân biệt… mà thiết lập ba Tạng, cho nên làm thành pháp hành Bồ-tát.

Hỏi: Kinh nói “Vì các Duyên giác mà nói về pháp quán nhân duyên.” Tức là Duyên giác cũng có giáo, vì sao không thiết lập Tạng?

Đáp: Dựa vào kinh Phổ Diệu thì ba thừa giáo thiết lập ba Tạng, nay dựa vào Nhiếp Luận và Địa Trì luận…, chỉ mượn giáo mà đưa vào Thanh văn Tạng, cho nên không thiết lập. Ở đây dùng hai nghĩa để trình bày:

1. Thanh văn Thanh văn, là người trước đây cầu đạo Thanh văn vui thích quán về bốn Đế, nay gặp Đức Phật thuyết về pháp bốn Đế đạt được đạo, trước có chủng tánh, nay lại nghe tiếng cho nên gọi là Thanh văn Thanh văn; như trong kinh nói: “ Người cầu Thanh văn thì Như Lai vì họ nói về pháp bốn Chân đế.” Dựa vào đây để nói vậy.

2. Duyên giác Thanh văn, trước đây cầu đạo Duyên giác, nay gặp Đức Phật thuyết về giáo pháp nhân duyên; như trong kinh nói: “Người 50 cầu Duyên giác thì Như Lai vì họ nói về pháp mười hai nhân duyên.” Dựa vào đây để luận bàn. Nghĩa trước là biết pháp qua tướng chung, nghĩa sau là biết pháp qua tướng riêng. Nhanh chậm tuy khác, nhưng cùng mong mỏi quả nhỏ, cho nên cuối cùng làm thành một Tạng. Nếu là người căn tánh nhanh nhạy bậc thượng sinh ra gặp thời không có Phật, tự ngộ nhân duyên mà đạt được đạo quả, thì có hành nhưng không có giáo, dựa vào đây mà phế bỏ. Dựa vào kinh Phổ Diệu, hướng về lý giáo khác. Ngay trong Thanh văn có hai loại ấy, đó là đầu tiên chấp tánh giáo và các bộ chấp giáo như thuận phá tánh… Phá tánh giáo là phân biệt biết về pháp Không, cùng dựa vào bốn Đế hướng đến Tiểu quả, cho nên cùng đưa vào Thanh văn Tạng.

Trong Bồ-tát Tạng có hai:

1. Trước tu tập pháp Đại, sau lui vào pháp Tiểu, nay trở lại tiến vào pháp Đại. Trong kinh nói: “Trừ ra người trước đây tu tập học theo Tiểu thừa, nay ta cũng khiến cho tiến vào trong pháp này.” Gọi là Tiệm nhập.

2. Người đã từ lâu tu tập Đại thừa nay mới gặp Phật, thì có thể tiến vào Đốn giáo, cho nên trong kinh nói: “Hoặc có chúng sanh từ nhiều đời đến nay thường được ta giáo hóa, mới thấy thân ta, nghe pháp ta đã nói, thì đều tin nhận tiến vào trí tuệ Như Lai.” Kinh này tức là thâu nhiếp vào Đại thừa giáo.

Thứ hai là Đốn giáo thâu nhiếp, vì vậy về sau kinh nói: “Nếu chúng sanh yếu kém, tâm họ chìm đắm thì ta nêu rõ dùng đạo Thanh văn khiến cho thoát khỏi các khổ. Lại có chúng sanh các căn có phần nhanh nhạy sáng suốt, vui với pháp nhân duyên, thì ta vì họ nói về đạo Bích-chi Phật. Nếu người căn tánh sáng suốt nhanh nhạy, làm lợi ích cho chúng sanh, có tâm Đại Từ Bi, thì ta vì họ nói về đạo Bồ-tát; nếu có tâm Vô thượng quyết định vui với việc lớn, thì ta vì họ thị hiện thân Phật, thuyết ra vô lượng pháp Phật.” Lấy văn này để chứng minh thì biết là có Nhất thừa và Đốn giáo ba Thừa sai biệt. Lại dựa vào Nhiếp Luận của Chân Đế: Một là Nhất thừa, hai là Tam thừa, ba là Tiểu thừa.

Hỏi: Đốn ngộ và Nhất thừa phân biệt thế nào?

Đáp: Điều này cũng không nhất định, hoặc không phân biệt, hoặc dựa theo trí và giáo để phân biệt, nhưng là một cạn-một sâu. Nhất thừa Tạng tức là mười Tạng.

Thứ ba nói về Viên giáo, là thông đạt giới hạn tầng bậc ở trên cảnh giới Phật, nói về pháp môn giải thoát cứu cánh, đầy đủ Phật sự cho nên gọi là Viên. Kinh này tức là thuộc về Đốn giáo và Viên giáo. Sở dĩ

biết có Viên giáo là như văn sau nói: Như dựa vào biển lớn mà có mười núi báu đều chắc chắn.

Hỏi: Kinh này vì sao bắt đầu nối thông ba Thừa phân biệt và thâu nhiếp?

Đáp: Bởi vì tông của kinh này cùng có đồng giáo-biệt giáo, cảnh của ba Thừa, thấy nghe và tu tập… Như kinh Pháp Hoa nói trong ba cõi dùng ba xe để dẫn dắt các con ra khỏi nhà lửa, đến chỗ trống riêng trao cho xe trâu lớn. Nhưng hai giáo này cùng ở ba cõi là cảnh của thấy nghe, mà Thanh văn đều là người nghèo khổ, là những người đã được dẫn dắt. Vì vậy biết ngoài Tiểu thừa có ba Thừa khác biệt, chủ bạn cùng có thể dẫn dắt nhau làm thành tông. Trình bày phạm vi thâu nhiếp của Tạng, xong.

Thứ 3: Phân rõ về Tông chỉ sở thuyên thì có hai loại: Một là chung (Tổng), hai là riêng (Biệt). Chung đó là nhân quả-duyên khởi-lý thật làm tông chỉ. Riêng có bốn phần:

  1. Giáo nghĩa đối nhau để phân rõ tông chỉ.
  2. Cảnh hành.
  3. Lý sự.
  4. Nhân quả.

Giáo là tông-nghĩa là chỉ, cảnh là tông-hành là chỉ, sự là tông-lý là chỉ, nhân là tông-quả là chỉ.

Tiếp đến là Giáo thể năng thuyên thì có năm loại: Nghĩa thứ nhất là thật âm thanh-danh vị cú, nghĩa thứ hai là có thể tựa âm thanh-danh vị cú, nghĩa thứ ba là không có thể tựa âm thanh-danh vị cú, nghĩa thứ tư là chỉ biết âm thanh-danh vị cú, nghĩa thứ năm là Chân như âm thanhdanh vị cú. Vì thế kinh nói: Tất cả pháp đều là Như.

Thứ 4: Giải thích đề mục của kinh: Đại Phương Quảng Phật Hoa

Nghiêm Kinh Thế Gian Tịnh Nhãn Phẩm: Đại là bởi vì Thể-TướngDụng không có gì hơn được, nghĩa là Thể bình đẳng không thêm bớt, Tướng đầy đủ tánh công đức, Dụng phát sinh nhân quả thiện của thế gian và xuất thế gian. Phương là lý chánh chứ không phải tà. Quảng là lý số pháp môn đầy đủ tất cả các đức. Phật là giác ngộ, đây là gồm chung mười hiệu Phật và ba thân Phật. Hoa có hai loại, một là hoa tập quả không đi cùng với quả, như sinh tử là đồ dùng của đạo… cho đến nhân vị căn thiện…; hai là hoa trang nghiêm quả đồng thời với quả, như hoa Thất tịnh… và các đức của quả vị tròn đầy, một là do tu mà sinh ra, một là vốn có trang nghiêm lẫn nhau có thể biết. Nghiêm là trang sức.

Lại nói Đại là dấu hiệu nêu rõ từng phần đều rất thù thắng, cho nên luận nói: Một Thể thù thắng cao rộng mà khác tên gọi, giáo thừatông chỉ đầy đủ ngang dọc không ngoài, gọi là gốc của Đại, không phải là hạn hẹp. Nói đến Phương là làm cho Viên thông, mọi nơi đều thiện, gặp duyên thì thuận theo, không chọn vật mà làm, cho nên nói là Phương. Nói đến Quảng thì cuồn cuộn mà sâu lắng, nhỏ bé mà xa vời, thăm thẳm mà lại rộng lớn, gọi là Quảng. Nói đến Phật thì chánh âm của Trung Hoa nói là Phật-đà, phương này gọi là Giác Giả, bởi vì thông suốt rõ ràng nguồn gốc của sự việc, tập khí trần lao vĩnh viễn không còn, trong lòng sáng suốt chỉ có tuyệt diệu, ánh sáng chiếu rọi đêm dài, dẫn dắt quần sinh mê hoặc, tự mình giác ngộ mà giác ngộ cho người, cho nên gọi là Phật-đà. Nói đến Hoa Nghiêm, đây là so sánh vẻ đẹp đức hạnh của Pháp thân, Thể không phải là Chân thì không có thể làm sáng tỏ sự vi diệu ấy, Công không phải là cao nhất thì không có thể biểu hiện sự thù thắng ấy, nghĩa tỏa sáng lẫn nhau đều rất siêu việt. Có thể nói là đạt tới cực điểm của tự Thể viên thông vi diệu thù thắng. Điều ấy giống như các loại trân báu kỳ lạ, trang điểm trên khuôn mặt sắc vàng chỉ rất diễm lệ, thế gian không gì sánh được. Vì vậy dựa vào ví dụ này để nêu tên gọi, cho nên gọi là Hoa Nghiêm. Kinh là giáo pháp chân tịnh, dạy bảo bàn luận về phép tắc thông thường, văn giải thích về nghĩa lý, hiển bày về dụng-hành-tâm, cho nên gọi là kinh.

Thế Gian Tịnh Nhãn, đó là Thời-Trung-Khí như ba thế gian, và tướng có thể so sánh, nhưng Thể-Dụng sai biệt, cho nên hiện rõ ở thế gian, không ngại không nhiễm ví như mắt sáng. Cũng có thể Như Lai chưa xuất thế, không có người khéo léo dẫn dắt cho nên như mù, nay Phật xuất thế, hiện rõ tự-tha thanh tịnh ví như mắt sáng mà thôi. Nói là Thế Gian Tịnh Nhãn, đây là thuận theo danh tự, nhưng Thời-Hội này đều là những dòng chảy thù thắng hòa vào các biển Phật, đức ở cõi tịnh mà trần vốn không nhiễm, sinh ra từ Thiên chân, tin không phải là hữu vi, cho nên nương nhờ để hiển bày duyên khởi vi diệu của đạo vô cùng trọn vẹn, không bỏ sanh tử mà không nhiễm ô. Vì vậy dựa vào sự làm tên, cho nên gọi là Thế Gian Tịnh Nhãn. Khó suy lường, không phải là ví dụ thì không thể nào hiểu được, cho nên thiết lập theo tướng trạng như vậy. Nếu như mắt trong ngoài đều sáng, trong ngoài đều trong suốt, thì cảnh tượng dọc ngang đều thuộc về một chuyển động, không nhỏ không lớn, không xa không gần, không trở ngại nhau, cho nên có thể dựa theo so sánh nêu ra như mắt. Vì vậy phần sau có kệ ca ngợi: Thế gian thanh tịnh giống như mắt. Nghĩa hiển bày về giáo pháp của Phật như vậy.

Phẩm là ngôn ngữ nghĩa lý như nhau, quy cách chủng loại theo nhau, gọi đó là Phẩm. Kinh này có ba mươi bốn phẩm, phẩm này xuyên suốt ở đầu tiên, cho nên gọi là thứ nhất. Đề mục của kinh ví như tông yếu, chỉ trình bày ở phẩm này, cho nên nói là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh.

Thứ 5: Phân văn giải thích: Đầu tiên phân tích chung về phạm vi của giáo, tiếp đến giải thích riêng theo phạm vi của văn. Có hai: Một là đối với tà hiển bày chánh, trình bày về phạm vi ấy; hai là dựa theo nghĩa đã giải thích trình bày về phạm vi ấy.

Một là, đối với tà hiển bày chánh, trình bày về phạm vi ấy có bốn phần:

  1. Dựa theo duyên phân rõ tà, như tám thời không nên nói…
  2. Dựa theo nghiệp phân rõ tà, như người cầu danh lợi, tự cho mình đúng người khác thì sai, thích quả báo thế gian…
  3. Dựa theo mê hoặc trình bày về tà, nghe làm nghe hiểu không thể không nghe, cho đến y pháp bất y nhân…
  4. Dựa theo trước sau phân rõ tà, như kinh nói: Tám người Đại thiện đều sẽ thành bất thiện.

Hai là, dựa theo nghĩa đã giải thích trình bày về phạm vi ấy, sơ lược có mười phần:

1. Đồng thời cụ túc tương ưng môn, trong đó có mười ý: Một là giáo nghĩa đầy đủ, hai là lý sự đầy đủ, ba là giải hạnh đầy đủ, bốn là nhân quả đầy đủ, năm là nhân pháp đầy đủ, sáu là phạm vi cảnh vị đầy đủ, bảy là thầy trò pháp trí đầy đủ, tám là chủ bạn y chánh đầy đủ, chín là thể dụng nghịch thuận tự tại đầy đủ, mười là tùy theo căn cơ chúng sinh mong muốn thị hiện đầy đủ. Mười ý như vậy tương ưng không có trước sau.

2. Nhân-đà-la võng cảnh giới môn, trong này có đủ mười ý trước, nhưng nghĩa thuận theo dụ khác nhau mà thôi, còn lại có thể dựa theo trên.

3. Bí mật ẩn hiển câu thành môn, phần này cũng có đủ mười ý trước, nhưng nghĩa thuận theo duyên khác nhau mà thôi, còn lại có thể dựa theo trên.

4. Vi tế tương dung an lập môn, phần này cũng có đủ mười ý trước, nhưng nghĩa thuận theo tướng khác nhau mà thôi, còn lại có thể dựa theo trên.

5. Thập thế cách pháp dị thành môn, phần này cũng có đủ mười ý trước, nhưng nghĩa thuận theo đời khác nhau mà thôi, còn lại có thể dựa theo trên.

6. Chư tạng thuần tạp cụ đức môn, phần này cũng có đủ mười ý trước, nhưng nghĩa thuận theo đời khác nhau mà thôi, còn lại có thể dựa theo trên.

7. Nhất đa tương dung bất đồng môn, phần này cũng có đủ mười ý trước, nhưng nghĩa thuận theo lý khác nhau mà thôi, còn lại có thể dựa theo trên.

8. Chư pháp tương tức tự tại môn, phần này cũng có đủ mười ý trước, nhưng nghĩa thuận theo dụng khác nhau mà thôi, còn lại có thể dựa theo trên, cũng có thể dựa vào tánh.

9. Duy tâm hồi chuyển thiện thành môn, phần này cũng có đủ mười ý trước, nhưng nghĩa thuận theo tâm khác nhau mà thôi, còn lại có thể dựa theo trên.

10. Thác sự hiển pháp sanh giải môn, phần này cũng có đủ mười ý trước, nhưng nghĩa thuận theo trí khác nhau mà thôi, còn lại có thể dựa theo trên.

Mười môn sâu xa trên đây thảy đều sai khác. Nếu phạm vi giáo nghĩa tương ưng với mười môn này, thì chính là Nhất thừa Viên giáo và pháp môn Đốn giáo. Nếu các phần giáo nghĩa tương ưng với mười môn này mà không đầy đủ, thì chính là do Tiệm giáo ba thừa thâu nhiếp, nghĩa còn lại dựa vào pháp môn như Thiên Vương…ở sau, theo đó có thể hiểu.

Tùy văn giải thích: Thứ nhất sơ lược nêu ra tám loại giáo để trình bày về thành tựu lẫn nhau, và dựa theo ba giáo tướng để trình bày theo thứ tự ấy; tiếp đến tùy văn giải thích.

– Tám giáo là:

  1. Phạm vi của Nhất thừa và Tam thừa.
  2. Ứng chân.
  3. Xoay ba vào một.
  4. Không hữu.
  5. Phàm Thánh theo nhau.
  6. Thường và Vô thường.
  7. Tam thừa cùng hành.
  8. Phân rõ pháp tà chánh.

Tám nghĩa này trên dưới đều nối thông, nói mở rộng-nói tóm lược theo nhau thành tựu hai tướng gốc ngọn, nên có thể theo đó suy nghĩ.

Dựa theo ba giáo tướng thành tựu, đó là bắt đầu ở cội cây Bồđề, vì các Đại hạnh, luôn luôn thẳng thắn trình bày kỹ càng về tông bổn, pháp luân rộng lớn thú hướng huyền diệu, lại không nhờ duyên là Đốn.

Nói là Tiệm, là ở lúc bắt đầu luyện tập thi thiết phương tiện, khai phát Tam thừa dẫn dắt tiếp nhận hóa độ, đầu nhỏ sau được, từ cạn đến sâu, lần lượt theo nhau để bước lên bờ giác, cho nên gọi là Tiệm.

Nói là Viên giáo, là thông đạt giới hạn tầng bậc ở trên cảnh giới Phật, nói về pháp môn giải thoát của Như Lai, thấu triệt tận cùng tông chỉ, đến nơi quả hạnh cao nhất, đầy đủ Phật sự, cho nên gọi là Viên. Như cùng tận mà thật, hướng về đầy đủ không có gì hai, một vị như nhau cuối cùng không sót lại gì, có gì khác nhau. Nhưng vì công dụng đối trị không giống nhau, tùy theo căn khí cạn sâu khác nhau, mà nói phân biệt có ba. Theo thứ tự ấy thì dựa vào Nhất thừa liễu nghĩa, thật sự mà nói là dựa theo hạnh môn phương tiện đối trị khác nhau. Cần phải dựa theo có ba để trình bày thứ tự:

Dựa vào phương tiện tu tướng đối trị duyên khởi tự loại nhân hạnh để trình bày về ba giáo, Tiệm tức là ở đầu tiên, Đốn ở giữa, Viên sau cùng. Ba nghĩa này thuận theo Tiệm mà nói, đầu tiên dùng Tiệm để sinh Tín, tiếp đến dùng Đốn để thành Hạnh, tiếp đến dùng Viên để thành Thể-Dụng mà thôi.

Nếu lúc dựa theo thật tế duyên khởi tự Thể nhân hạnh để trình bày, thì trước là Đốn, tiếp là Tiệm, sau là Viên. Đầu tiên nêu rõ Đốn để khiến cho tu tập, tiếp theo nêu rõ Tiệm để làm sáng tỏ là vật, sau cùng nêu rõ Viên vốn là quả đức đầy đủ.

Nếu lúc dựa theo cùng tận thực tế pháp giới không tăng không giảm, không chướng ngại duyên khởi, tự Thể sâu xa, đạo quả bí mật, thì trước là Viên, tiếp là Đốn, sau là Tiệm. Sở dĩ như vậy, chính là vì dựa vào tông nhưng không mất đi huyền tưởng, Viên đạo không lựa chọn ở phần bắt đầu. Vì vậy sự tuy gần mà rất xa, tướng tuy được mà rất tinh tế, cạn đến rất sâu mới cùng tận. Đầu tiên nêu rõ Viên khiến cho thấy nghe, tiếp theo làm sáng tỏ Đốn khiến cho tùy hỷ, sau cùng phân rõ phần vị của Tiệm, hiển bày đức phát khởi niềm tin mà thực hành. Đây chính là dựa theo Viên để trình bày về ba giáo mà thôi.

Nhưng giáo mới có thể như vậy, luận về ý chỉ ấy, thì chính là trình bày về đạo vô cùng viên mãn là Bồ-đề Vô thượng Pháp thân của Như Lai, phù hợp cùng tận Thật tướng, đức đầy đủ sâu rộng, nghĩa phát khởi chân bổn, hiển bày sáng tỏ đời sau, nói về quả rõ ràng ở nơi không đạt được, luận về nhân biểu hiện ở nơi không phát khởi, vốn là tướng của Vô tướng, nơi ấy sâu xa vắng lặng giống như hư không, ý chỉ đoạn tuyệt danh tướng. Có thể nói là Đại đạo không ngôn từ mà sách vở huyền diệu khắp nơi, Chân dung không hình tượng mà diệu tướng trang nghiêm đầy đủ, hòa vào trí tuệ Phật, có đủ công hạnh Phật, đức biểu hiện vô cùng tuyệt vời, vượt qua thế gian. Vì vậy đầu kinh xuyên suốt dùng Phật Hoa Nghiêm để xưng danh, thì nên biết là nói đến Chỉ Nam, tông yếu ở tại nơi này.

Tùy văn giải thích: Một bộ giáo này có ba phần lớn, đó là TựaChánh tông và Lưu thông. Nếu phân tích theo chiều dọc, thì tùy theo tám Hội có mười nghĩa khác nhau, còn lại dựa theo có thể biết. Một bộ kinh này gồm có bảy Xứ tám Hội, trong cõi người có ba, cõi trời có bốn gọi là bảy Xứ, hai Hội ở Phổ Quang gọi là tám Hội. Đây là thứ tự của pháp cho nên có bảy Xứ tám Hội mà thôi. Văn tướng của bảy Xứ tám Hội này không giống nhau về có-không, sơ lược dùng mười môn để phân biệt.

Ngay trong tám Hội, sở dĩ đầu tiên trình bày về Đức Phật, bởi vì Phật là Hóa chủ, nay thâu nhiếp vật nhất định phải lấy Hóa chủ làm đầu, cho nên trình bày đầu tiên. Hai là Đại Thánh thuyết pháp có nơi nương tựa, tiếp đến phân rõ về nơi chốn. Ba là nhiếp hóa có người tiếp nhận, tiếp đến trình bày về Bồ-tát. Bốn là căn khí tuy đầy đủ, mà nếu thưa thỉnh không đầy đủ, thì không nói cho biết, tiếp đến sinh nghi. Năm là giáo pháp thấm nhuần khắp nơi, tiếp đến phân rõ về quy tụ chúng mới. Sáu là pháp sâu xa không xem xét thì không có thể lập tức nói ra, tiếp đến phân rõ về nhập định. Bảy là muốn phân rõ về pháp thù thắng, cho nên trình bày về Phật gia hộ. Tám là hiển bày phạm vi trước sau của pháp, tiếp đến trình bày về sự khác nhau của xuất thế và không xuất thế. Chín là pháp thù thắng đã nói ra, tiếp đến là trình bày về lợi ích của pháp, cho nên phân rõ về động đất-mưa hoa… Mười là công dụng rõ ràng như vậy, giáo hóa không sai lệch quanh co, mười phương cùng chuyển khế hợp không trống rỗng, cho nên tiếp đến phân rõ về kết thúc pháp hội bình đẳng, hiển bày chứng đắc thuật lại thành tựu. Mười môn này nếu tách rời mưa hoa…, thì quả là có mười lăm, rải hoa-đốt hươngtỏa ánh sáng-trỗi nhạc-mưa vật báu, thâu nhiếp năm làm thành một, nay đều thâu nhiếp thuộc về mười mà thôi.

Đối với Hội giải thích về có-không. Bảy Xứ trong ba thân Phật là thân nào? Giải thích về điều này có hai: Một là hạn chế, hai là mở rộng. Hạn chế thì tám Hội đều không phải là Tiểu kiến, cho nên là Báo thân.

Hỏi: Đã là Báo thân thì không phải là Hóa thân, vì sao Xứ cùng

với sau lại giống nhau?

Đáp: Đây là bởi vì trước phải lưu truyền ở đời Mạt pháp, cho nên nương thời gian xứ sở để phân rõ.

Lại hỏi: Nếu nương thời gian thì vì sao kinh nói cõi trời A-ca-ni-tra thành tựu?

Đáp: Điều này có hai nghĩa, một là nương Hóa thân hiển bày Báo thân, tức là tám Hội; hai là nương Báo thân hiển bày Hóa thân, tức là cõi Sắc Cứu Cánh, vì làm sáng tỏ cõi Dục là Hóa thân cho nên dựa theo tướng là Hóa thân, nay luận về ý giáo mà thôi.

Mở rộng thì có đủ ba thân, mỗi một thân thành tựu lẫn nhau. Lại trong văn Phổ Hiền nói: “Ở trong thân con không có chướng ngại.” Lại phân rõ về thế giới hải Hoa Nghiêm, lại nương vào cội cây Bồ-đề…, cho nên biết vậy. Đây là dựa theo ba Thừa để phân rõ. Nếu dựa theo Nhất thừa thì về sau mười Phật thảy đều có tất cả.

Phân văn làm ba phần Tựa-Chánh tông và Lưu thông, phần Tựa là tướng phương tiện, phần Chánh tông là nói về tướng Thể, phần Lưu thông là tướng Dụng. Phẩm Tịnh Nhãn này là phần Tựa, phẩm Lô-xána về sau là phân rõ về phần Chánh tông, vì kinh không đến cuối cùng cho nên không có phần Lưu thông, vì lẽ đó mà biết.

Đại Luận nói: “Kinh Bất Tư Nghị có mười vạn bài kệ, ở đây chỉ có ba vạn sáu ngàn kệ.” Vì vậy biết cũng có thể có phần Lưu thông, là văn từ câu “Chúng sanh tâm vi trần…” về sau, nhưng vì Bồ-tát Long Thọ kết hợp mười vạn bài kệ ở phần Sự…, theo đó giản lược cho nên không đủ. Nếu theo văn nghĩa để phân tích, thì đến văn phân rõ khác nhau mà thôi.

Văn phần Tựa phân hai: Một là trình bày về Chứng tín, hai là từ “Thiên Vương thiết lễ cúng dường…” trở xuống trình bày về Tựa phát khởi.

Văn phần Tựa chứng tín có hai nghĩa: Một, hai câu bốn chữ giới hạn trong Chứng tín này; hai, từ “Một thời…” trở xuống là nghĩa có mở rộng. Đây là dựa theo một nghĩa mà thôi. Vả lại, cũng có thể nghĩa hai câu nối thông một bộ kinh mà văn giới hạn. Bắt đầu từ “Một thời…” trở xuống văn nối thông mà nghĩa giới hạn, dựa theo nghĩa này thì có sáu câu:

  1. Như thị.
  2. Ngã văn.
  3. Nhất thời.
  4. Phật.
  5. Trú xứ.
  6. Chúng đồng văn.

1. Giải thích Như thị: là Thánh chúng-lý giáo tương ưng với văn nghĩa, cũng có thể nói tôi biểu đạt văn nghĩa như Phật đã nói, là nghĩa của Thánh giáo, lại là từ tin thuận mà thôi.

2. Ngã văn: có thể biết.

3. Nhất thời: là lúc căn tiếp nhận và giáo pháp truyền trao tương ưng. Thời có ba nghĩa: Một là Bình đẳng thời, đó là không chìm nổi điên đảo; hai là Hòa hợp thời, đó là khiến nghe-có thể nghe-đích thực nghe; ba là Chuyển pháp luân thời, đó là Chánh thuyết-Chánh thọ.

4. Phật: thì có thể biết.

5. Trú xứ: là Đạo tràng Tịch Diệt ở nước Ma-kiệt-đề, đây là nơi Đại Thánh nhờ cậy. Dùng một nơi để giải thích tất cả các nơi, nước thì mở rộng, đạo tràng thì giới hạn, Trung Hoa nói là nước Vô Hại, Tịch diệt là biểu thị cho đức tịch tĩnh quả viên mãn lìa chướng.

Mới thành là có hai nghĩa: Một là mới đắc đạo, thời gian bảy ngày thứ nhất; hai là mới hiện thế, thời gian bảy ngày thứ hai thuyết pháp. Từ đó khiến cho mọi người biết mới thành đạo. Văn này có hai: Một là hai câu tổng quát nêu ra y-chánh thiết lập tông; hai là riêng biệt phân rõ.

Trong phần riêng biệt phân hai: Một là giải thích về Y báo; hai là từ “Như Lai ở nơi này…” trở xuống phân rõ về Chánh báo.

Phần một: Y báo tức là khí thế gian, văn có ba: Một, phân rõ về địa điểm Đạo tràng; hai, từ “Kỳ Bồ-đề thọ…” trở xuống phân rõ về cây Bồ-đề ấy; ba, từ “Bất khả tư nghị…” trở xuống trình bày về tòa Sư tử. Đây là lập ý, đất là căn bản để an trú hạnh nghiệp, cây là xây dựng các đức, tòa là công dụng thâu nhiếp làm lợi ích.

Một trong Đạo tràng có ba câu: Một, phân rõ về Thể đạo tràng trang nghiêm đầy đủ; hai, từ “Phật thần lực…” trở xuống trình bày về giúp đỡ thành tựu quả đức; ba, từ “Vô lượng thiện căn…” trở xuống đưa ra nhân hạnh ấy.

Một là Thể, văn lại có ba: Một, tổng quát phân rõ về Thể; hai, từ “Chúng tạp bảo hoa…” trở xuống sáu câu phân rõ về đức tự lợi; ba, từ “Vũ vô tận bảo…” trở xuống là đức tự lợi lợi tha.

Trong sáu câu về tự lợi, đầu tiên một câu là vi diệu viên tịnh, tiếp một câu là có đủ tịnh đức, tiếp một câu là sắc tướng tịnh, tiếp một câu là cao hiển tịnh, tiếp một câu là quyến thuộc tịnh, tiếp một câu là ẩn ánh tịnh.

Trong hai câu về lợi tha, câu đầu là trình bày tân dụng tịnh, tiếp

một câu là phú nhuận tịnh. Hai câu này nối thông tự-tha.

Tiếp từ “Phật thần lực…” trở xuống trong câu thứ hai có ba câu, một là trình bày biến hiện Tịnh độ làm cho mặt đất rộng lớn, hai từ “Quang minh phổ chiếu…” trở xuống là đức dụng, ba là tất cả vật báu tuyệt vời kỳ lạ tích chứa… là Thể thâu nhiếp các đức.

Ngay phần cây Bồ-đề, văn có hai câu: Một, có chín câu phân rõ về Thể trang nghiêm của cây; hai, từ “Phật thần lực…” trở xuống phân rõ về giúp đỡ thành tựu quả đức.

Văn phần một phân ba: Một, trình bày về Thể của cây cao lớn tốt đẹp có thể che mát; hai, từ “Thanh tịnh lưu ly…” trở xuống năm câu chính thức phân rõ về trang nghiêp; ba, từ “Thọ quang phổ chiếu…” trở xuống ba câu trình bày về dụng của lợi tha, trong này có ba nghiệp: Đầu là ý, tiếp là thân, tiếp là khẩu.

Văn về tòa Sư tử phân năm: Một, trình bày Thể của tòa vượt quá sự nhận biết thường tình; hai, từ “Chúng diệu bảo hoa…” trở xuống chính thức phân rõ về trang nghiêm; ba, từ “Lưu quang như vân…” trở xuống phân rõ về dụng của lợi tha, cũng có ba nghiệp: Đầu là thân, tiếp là ý, sau là khẩu; bốn, từ “Như Lai quang minh du…” trở xuống, trên là quả-dưới là gia hộ, có năm câu:

  1. Che mát thù thắng,
  2. Cảm hóa thù thắng,
  3. Vô ngại thù thắng,
  4. Nhanh khắp thù thắng,
  5. Đủ đức thù thắng; năm, từ “Vô lượng chúng bảo…” trở xuống là tổng kết thành tựu.

Phần hai: phân rõ Chánh báo, văn có hai: Một, Như Lai xứ… là giải thích tổng quát; hai, từ “Liễu tam thế…” trở xuống là giải thích riêng biệt.

Phần thứ hai giải thích riêng biệt, văn có ba: Một, trình bày về Pháp thân; hai, từ “Kỳ thân biến tọa nhất thiết đạo tràng…” trở xuống trình bày về Báo thân; ba, từ “Tất năng phổ hiện nhất thiết chúng hội…” trở xuống trình bày về Hóa thân. Đây là dựa theo ba Thừa mà phân văn. Nếu dựa vào Nhất thừa thì trong này có đủ Thể-Đức-Dụng của mười Phật, theo đó để suy nghĩ thâu nhiếp.

Một là Pháp thân, văn có ba câu: Một, phân rõ đức của thân nghiệp có hai câu; hai, từ “Diệu Âm biến chí…” trở xuống hai câu trình bày về đức của khẩu nghiệp; ba, từ “Bình đẳng pháp tướng…” trở xuống ba câu phân rõ về đức của ý nghiệp.

Hai là Báo thân, văn phân làm ba: Một, thân dụng có bốn câu, một là phạm vi của tòa Sư tử, hai là biết căn hạnh, ba là trừ hoặc nhiễm, bốn là phát sinh đức; hai, từ “Phổ quang tam thế trí hải quang minh…” trở xuống ba câu phân rõ về khẩu nghiệp; ba, từ “Lực vô úy…” trở xuống một câu trình bày về ý nghiệp ấy.

Ba là văn phân rõ Hóa thân: Một, thân nghiệp có ba câu; hai, từ “Liễu đạt nhất thiết…” trở xuống hai câu là ý nghiệp; ba, từ “Nhất thiết quang minh…” trở xuống hai câu là khẩu nghiệp.

Ngay phần khẩu nghiệp, văn phân làm hai: Một, phân rõ về các nghĩa phóng ánh sáng có thể hiển hiện khắp nơi; hai, từ “Chư Phật thế giới…” trở xuống là phân rõ về phạm vi lợi ích.

6. Chúng đồng văn: tức là thế gian chúng sanh, văn trình bày về đại chúng viên tập, phần này phân rõ làm hai môn: Một, trình bày về các Hội có-không khác nhau; hai, dựa vào văn giải thích.

– Thứ nhất có-không phân làm hai: Một, Đại-Tiểu; hai, tạp loại. Đại-Tiểu thì bảy Hội đều là Đại, Hội thứ tám gồm chung Tiểu thừa, vì lẽ đó bảy Hội trước là hiển bày Thể của Đốn giáo Đại thừa, Hội thứ tám là nhập pháp giới, thâu nhiếp tất cả Tiểu thừa khiến cho hòa vào Đại thừa, hiển bày về nhân lực. Tạp loại thì chỉ một Hội trước và một Hội sau, nêu ra tên gọi của các Thần Vương với chủng loại xen tạp, còn lại tóm lược không nêu ra, vì lẽ đó Hội trước là biểu hiện sự ngưỡng mộ tu tập tin như hợp với pháp giới, người tin hiểu về tướng vạn hạnh, Hội sau là biểu hiện hợp với pháp giới thâu nhiếp pháp giới, người tu tập hòa vào đức đầy đủ tướng.

Hỏi. Nếu như vậy thì vì sao kinh Niết-bàn thâu nhiếp nhiều loại chúng, mà kinh này lại ít?

Đáp: Kinh Niết-bàn hướng về thuần thục cho nên nói xa, kinh này dựa theo mới bắt đầu mà luận về gần, cho nên có thể biết. Nhưng cũng có thể mới bắt đầu dựa theo phần vị thứ nhất làm giới hạn, cho nên không gồm chung Tiểu thừa Hạ căn, còn lại như phần sau phân rõ.

– Thứ hai giải thích văn, phân làm ba:

  1. Phân biệt Tịnh độ của Pháp thân Như Lai thâu nhiếp ba mươi bốn chúng.
  2. Từ “Nhĩ thời ư Phật sư tử tòa…” trở xuống lại dùng sức phương tiện của Tịnh độ Pháp thân thâu nhiếp phát khởi một chúng, từ đầu đến cuối gồm có ba mươi lăm chúng.

Một, sơ lược nêu ra tên gọi của chúng; hai, nêu ra tên gọi ca ngợi về đức.

Văn phần một phân làm hai: Một, phân rõ Bồ-tát… là trình bày về chúng Vô vi duyên tập; hai, các thần… là trình bày về chúng Hữu vi duyên tập. Phần hai nêu ra tên gọi ca ngợi về đức, theo đó có thể biết.

Phần một trong chúng Bồ-tát phân ba: Một là nêu ra số; hai là nêu ra tên Bồ-tát, phần này có ba, một là phân rõ, hai là kết thúc, ba là ca ngợi đức. Dữ câu (cùng với) thì có hai: Một, Phật cùng với Bồ-tát cùng nói; hai, truyền pháp cùng với Bồ-tát cùng nghe. Phổ là đức đầy đủ pháp giới gọi là Phổ, rất thuận theo điều hòa mềm mỏng gọi là Hiền. Vì vậy trong này trình bày tên gọi Bồ-tát xen tạp có hai ý: Một là bởi vì hiển bày thế giới xen tạp như thô tế… phía dưới; hai là bởi vì chúng này nối thông xuống dưới tám Hội theo thứ tự hiển bày nhiều loại pháp. Còn lại thì có thể biết. Ba là ca ngợi đức, văn có bốn: Một, ca ngợi tổng quát; hai, từ “Chư Ba-la-mật…” trở xuống ca ngợi riêng biệt về đức của phần mình (tự); ba, từ “Vô thượng trí nguyện…” trở xuống phân rõ riêng biệt có thể hòa vào đức của phần khác (tha); bốn, từ “Tất đắc chư Phật…” trở xuống phân rõ hạnh nguyện Phổ Hiền nhiếp hoá tự tại.

Ca ngợi tổng quát, văn phân hai:

1. Đều là bạn tốt hiển bày về người thù thắng, Lô-xá-na ở đây nói là rộng lớn nghiêm tịnh;

2. Phân rõ về phần mình, văn có ba câu, một là trình bày về hạnh tự lợi, hai từ “Biện tài đại hải…” trở xuống là hạnh lợi tha, ba từ “Trú ư nhất địa…” trở xuống trình bày về dùng công hạnh thành tựu địa vị, phân rõ về phạm vi đã thâu nhiếp. Nói trú vào một địa thâu nhiếp khắp tất cả các địa…, là dựa vào hành tướng theo thứ tự cuối cùng đến tận cùng tự Thể chân thật mà luận, sơ lược cần phải có bốn: Một, bởi vì từ ban đầu mà có thể sinh ra sau cùng, cuối cùng đầy đủ, cho nên gọi là Nhiếp; hai, tuy đầy đủ từ đầu, nhưng đều có thể thực hành công hạnh ở các địa, các pháp không khác, cho nên nói là Nhiếp, mà công hạnh đã thành chỉ thuộc về phần vị của mình, trên dưới hơn kém chỉ lấy sáng tỏ-mê mờ làm khác; ba, nhưng ban đầu mà thâu nhiếp tất cả công đức của các địa, cho nên gọi là Nhiếp; bốn, không phải nói là bởi vì ban đầu cho nên gọi là Nhiếp, nhưng ban đầu mà đích thực là cuối cùng cho nên gọi là Nhiếp.

Ngay phần Tự lợi phân ba, đó là tổng quát-chính thức và hỗ trợ.

Văn phần Lợi tha có ba, đầu một câu phân rõ về khẩu nghiệp, tiếp một câu là thân nghiệp, tiếp ba câu từ “Thiện tri…” trở xuống là ý nghiệp. Trong này một là biết căn, hai là biết pháp về lý, ba là biết pháp về sự.

Văn về Tha phần có bốn câu: Một-Trình bày về Tự lợi có năm câu, một là đạt được nguyện, hai là đạt được giáo, ba là đạt được pháp của quả, bốn là đạt được đức của phần vị, năm là đạt được định; hai-Từ “Ư chúng sinh hải…” trở xuống là Lợi tha có hai câu, đầu là thiết lập, sau là giải thích; ba-Từ “Thiện nhập…” trở xuống hai câu là khéo hòa vào Pháp thân, đầu là thiết lập, sau là giải thích; -Từ “Biến du…” trở xuống hai câu là vật sinh ra cõi tịnh, đầu là thế giới hải, sau là quốc độ hải.

Thứ tư là Hạnh nguyện Phổ Hiền, văn có bốn: Một, đạt được phương tiện của chư Phật ba đời; hai, phân rõ về cúng dường; ba, đạt được nguyện Phổ Hiền; bốn, thâu nhiếp chúng sinh thành trí đức, cũng có thể đối với vật thâu nhiếp hơn hẳn.

Ngay văn của chúng Hữu vi duyên tập, có ba mươi ba chúng, sở dĩ nêu ra tên gọi từ dưới lên trên, bởi vì biểu hiện tiến vào công hạnh thêm sâu xa.

Hỏi: Các chúng này trú trong cõi nào?

Đáp: Chúng này một thân trú trong một cõi của bốn cõi, một phần trú trong cõi hóa hiện của ba cõi, điều này có thể suy nghĩ. Vì sao? Bởi vì sau văn ca ngợi Phật từ trên đến dưới nêu ra, là làm sáng tỏ địa vị tôn quý theo thứ tự.

Đầu tiên là chúng Lực sĩ phân ba: Một, đưa ra số; hai, nêu ra tên; ba, ca ngợi đức. Văn ca ngợi đức có ba: Đầu tiên là tổng quát; tiếp theo năm câu riêng biệt, một có đủ nguyện môn, hai có đủ đức môn, ba có đủ định môn, bốn có đủ thần lực môn, năm có đủ giải thoát môn, tức là đức Tự lợi; ba từ “Xử nhất thiết chúng sinh…” trở xuống hai câu là Lợi tha. Nêu ra tên gọi ca ngợi đức của các chúng còn lại có thể biết.

Ca-lâu-la là chim cánh vàng.

Khẩn-na-la ở đây nói là Nghi thần, trỗi nhạc.

Ma-hầu-la-già ở đây nói là Mãng thần.

Dạ-ma ở đây nói là Thời Thiên, cũng gọi là Diệu Thiện.

Đâu-suất ở đây nói là Tri Túc.

Đại Phạm là chúng này do mới lìa nhiễm cõi Dục.

Ma-hê-thủ-la ở đây nói là Đại Tự Tại Thiên. Văn có ba, hai phần trước có thể biết, ngay phần ca ngợi đức văn có bốn đoạn: Một, ca ngợi tổng quát; hai, từ “Ư nhất thiết chúng sinh…” trở xuống là ca ngợi riêng biệt về Lợi tha; ba, từ “Vô lượng diệu sắc…” trở xuống là ca ngợi về Tự lợi; bốn, từ “Đổ Phật tư nhan cho đến sở dĩ giả hà…” trở xuống là dựa vào sự việc để phân rõ về nguyên cớ thành tựu hai dụng.

Ba là văn Tự lợi phân ba: Một, trình bày về thân nghiệp của Pháp thân; hai, từ “Ư thập lực trung…” trở xuống trình bày về ý nghiệp; ba, từ “Xử nhất thiết chúng…” trở xuống là khẩu nghiệp, văn này có năm câu, lần lượt chuyển tiếp có thể biết.

Bốn là phân rõ về nguyên cớ, văn có hai: Một, trình bày về sở y; hai, phân rõ về nguyên cớ. Trong phân rõ về nguyên cớ, đầu là hỏi-tiếp là đáp. Văn đáp có ba: Một, phân rõ về duyên sở y; hai, từ “Ư chư Như Lai…” trở xuống trình bày dựa vào duyên thành hạnh; ba, từ “Các tùy…” trở xuống là kết luận về thành tựu riêng biệt, suy ra công lao thuộc về Phật. Trong văn phần hai có sáu câu: Một là ở phần vị Tín được Phật nhiếp thọ phát sinh căn thiện; hai là Phật dẫn dắt tiến vào phần vị Giải; ba là Phật nhiếp thọ tiến vào phần vị Chứng trở lên; bốn từ “Đãi đắc vô lượng công đức…” trở xuống trình bày về đạt được tám Địa trở lên không có thế lực dụng công; năm từ “Giai tất thành tựu…” trở xuống phân rõ về nguyện hạnh Phổ Hiền từ mười Địa trở lên; sáu từ “Bồ-tát sở hành…” trở xuống là kết luận về thành tựu riêng biệt.

Ba là trong văn kết luận công lao thuộc về Phật, phân bốn: Một là kết luận; hai là chính thức suy ra ánh sáng trí tuệ của Như Lai chiếu rọi khắp nơi; ba là được thành tựu nương nhờ lực giải thoát tiến vào biển quả của Phật, đích thân phân rõ về nguyên cớ; bốn là đối với pháp môn được thành tựu tự tại nói rõ đã thực hành đầy đủ. Cũng có thể bốn câu lần lượt chuyển tiếp phân rõ về thành tựu.

Tiếp theo là mười tám chúng trong văn ca ngợi Phật, ở đây chỉ tóm lược trên ẩn hiển, cho nên trình bày về mười tám, tất cả phân làm hai: Một, các chúng như Thiện Hải… đều đối với một pháp môn đạt được tự tại; hai, Bồ-tát Phổ Hiền là chúng thứ mười tám đối với tất cả pháp môn đạt được tự tại. Trong này dựa theo duyên khởi lầu quán để hiển bày về phạm vi của phần đức đồng sinh-dị sinh, nên đáng suy nghĩ! Cũng có thể mười bảy chúng trước là dị sinh, Bồ-tát Phổ Hiền thuộc chúng thứ mười tám sau cùng là đồng sinh.

Ngay văn dị sinh có mười bảy:

Một, trong Thiện Hải có hai, một là nêu ra pháp môn tự tại tức là ý nghiệp thực hành cúng dường, thân Vương hiện tại tức là thân nghiệp cúng dường, hai từ “Thuyết kệ…” trở xuống là phân rõ khẩu nghiệp cúng dường. Văn kệ ca ngợi tổng quát là ca ngợi ba nghiệp của Như Lai đầy đủ công dụng pháp giới. Trong đó, đầu tiên là sáu kệ tổng quát ca ngợi ba nghiệp của Phật thù thắng ở thế gian, hai có sáu kệ từ “Nhất thiết thế gian chúng sinh…” trở xuống là ba nghiệp ở thế gian khởi lên

đức dụng thù thắng, tiếp từ “Như Lai diệu sắc thân…” trở xuống hai kệ ca ngợi riêng biệt về thân nghiệp, tiếp theo từ “Như Lai âm thanh vô ngại…” trở xuống hai kệ ca ngợi riêng biệt về khẩu nghiệp, tiếp theo từ “Nhất thiết thập phương vô biên Phật…” trở xuống hai kệ phân rõ về ý nghiệp của Phật, tiếp theo hai kệ nêu ra nhân giải thích về thành tựu.

Hai, kệ của Lạc Nghiệp Quang Thiên ca ngợi đức tịch dụng song hành của Phật, văn phân ba: Một là một kệ ca ngợi tổng quát, hai là mười sáu kệ nêu ra riêng biệt, ba từ “Vô số vô lượng kiếp…” trở xuống hai kệ nêu nhân kết thành.

Ba, Tam thiền có bảy trời, Tịnh Trí có hai mươi hai kệ, tổng quát ca ngợi công năng của thân nghiệp Như Lai, sáu kệ đầu ca ngợi Pháp thân, tiếp theo sáu kệ ca ngợi Báo thân, tiếp theo sáu kệ ca ngợi Hóa thân, tiếp theo bốn kệ tổng quát ca ngợi đức Từ Bi của Như Lai.

Bốn, Nhị thiền có mười trời, hai mươi kệ tổng quát ca ngợi pháp hành Đại phương tiện và pháp đã chứng đắc của Như Lai, sáu kệ đầu tổng quát ca ngợi pháp hành phương tiện của Phật, tiếp theo sáu kệ ca ngợi dùng pháp môn để thâu nhiếp giáo hóa, tiếp theo sáu kệ ca ngợi hóa hiện tám tướng thành đạo, tiếp theo hai kệ nêu nhân kết thành.

Năm, Sơ thiền có mười trời, trong tụng có mười sáu kệ ca ngợi đức tịch dụng vô ngại tự tại của Như Lai, bốn kệ đầu ca ngợi thân nghiệp của Phật, tiếp theo bốn kệ ca ngợi khẩu nghiệp vô ngại của Phật, tiếp theo bốn kệ ca ngợi ý nghiệp của Phật, tiếp theo bốn kệ ca ngợi ba nghiệp vô biên.

Sáu, cõi Tha Hóa có mười trời, văn tụng có hai mươi kệ ca ngợi về dụng Hậu đắc trí của Phật, bốn kệ đầu là Pháp thân lợi ích khắp nơi sinh thiện diệt ác, tiếp theo bốn kệ là dụng khẩu nghiệp của Phật, tiếp theo hai kệ là dụng ý nghiệp của Phật, tiếp theo sáu kệ tổng quát ca ngợi Phật có thể diệt ác sinh thiện, tiếp theo bốn kệ ca ngợi Phật ứng cơ tự tại mà không có tâm cao xa.

Bảy, cõi Hóa Lạc có hai mươi kệ, trong đó ca ngợi về đức của ba thân Phật, sáu kệ đầu ca ngợi đức dụng tự tại của Pháp thân, tiếp theo mười bốn kệ ca ngợi Báo thân. Trong mười bốn có bốn: Hai kệ đầu phân rõ về khẩu nghiệp của Phật, tiếp theo sáu kệ là thân nghiệp, tiếp theo bốn kệ ca ngợi nhân vốn có của Phật, tiếp theo hai kệ ca ngợi Phật tự tại thâu nhiếp chúng sinh.

Tám, cõi Đâu Suất có tám trời, trong tụng có mười sáu kệ tổng quát ca ngợi Phật tự tại thuyết pháp khắp nơi pháp giới, sáu kệ đầu tổng quát ca ngợi về dụng vô ngại của Phật, tiếp theo sáu kệ ca ngợi đức trừ diệt ba chướng sinh khởi của Phật, tiếp theo hai kệ ca ngợi Phật có thể thành tựu chúng sinh thực hành lợi ích không trống rỗng, tiếp theo hai kệ ca ngợi Chúng viên tập hiển bày lực thâu nhiếp của Thánh mà thôi.

Chín, cõi Dạ Ma có mười trời, tụng có mười sáu kệ tổng quát ca ngợi về công đức ba nghiệp của Phật, tám kệ đầu là ý nghiệp, tiếp theo hai kệ là khẩu nghiệp, tiếp theo sáu kệ là thân nghiệp.

Mười, cõi Đao Lợi có mười trời, tụng có hai mươi kệ tổng quát ca ngợi về trí môn Bồ-đề Quyền Thật của chư Phật ba đời, bốn kệ đầu phân rõ về người niệm Phật thì gặp được Thánh duyên, tiếp theo tám kệ phân rõ về phương tiện che phủ vật của Phật, tiếp theo sáu kệ ca ngợi Phật thành tựu thân Thắng trí khiến cho người tu tập tiến vào thành tựu lợi ích thù thắng, tiếp theo hai kệ kết luận khuyến khích niệm Phật trừ diệt ba chướng, tức là nghiệp báo phiền não mà thôi.

Mười một, Nhật Thiên có mười trời, trong tụng có hai mươi hai kệ tổng quát ca ngợi về công năng của trí Phật như mặt trời, mười hai kệ đầu ca ngợi về các đức trang nghiêm của Phật, tiếp theo tám kệ ca ngợi về trí phương tiện thù thắng của Phật, tiếp theo hai kệ ca ngợi về sự sâu rộng của pháp.

Mười hai, Nguyệt Thiên có mười trời, trong tụng có mười sáu kệ tổng quát ca ngợi Phật ở trong ngu si tối tăm phóng ánh sáng trí giáo thành tựu quán hành, mười kệ đầu phân rõ ánh sáng trí của Phật lợi ích chúng sinh thành tựu chứng đắc mà tâm không lay động, tiếp theo sáu kệ trình bày về phóng ánh sáng trí chuyển tướng chỉ bày thành tựu Chánh quán.

Mười ba, tiếp theo xuống dưới bốn chúng như Càn-thát-bà… tức là Tứ Thiên Vương, từ sự thống lĩnh làm tên gọi cho nên đưa ra cách nói này. Nếu từ tên gọi của người đứng đầu, thì trong Đại Luận nói: “Cõi trời phương Đông gọi là Đề-đầu-lại-tra, Trung Hoa nói là Trị Quốc, thống lĩnh hai bộ qủy thần, một tên là Càn-thát-bà, hai tên là Tỳ-xá xà. Cõi trời phương Nam gọi là Tỳ-lâu-lặc-xoa, Trung Hoa nói là Tăng Trưởng, thống lĩnh hai bộ quỷ thần, một tên là Cưu-bàn-trà, hai tên là Tích-lệ-đa. Cõi trời phương Tây gọi là Tỳ-lâu-bác-xoa, Trung Hoa nói là Tạp Ngữ, thống lĩnh hai bộ qủy thần, một là các Rồng, hai là Phú-đana. Cõi trời phương Bắc gọi là Tỳ-sa-môn, Trung Hoa nói là Đa Văn, thống lĩnh hai bộ quỷ thần, một là Dạ-xoa, hai là La-sát. Sự thống lĩnh này tức là tám bộ qủy thần trong kinh, đây chính là một cõi trời trong hai mươi tám cõi trời.”

Cõi trời phương Đông có mười, đó là Trì Quốc…, trong tụng có hai

mươi kệ tổng quát phân rõ về đức Từ Bi phương tiện thị hiện pháp sự ở Tịnh độ thành tựu hạnh Lợi tha, sáu kệ đầu ca ngợi Phật thâu nhiếp chúng sinh khiến cho thấy Pháp thân, tiếp theo có tám kệ ca ngợi Phật ở Tịnh độ nhiếp hóa chúng sinh đạt được quả, tiếp theo có sáu kệ ca ngợi Phật tùy theo nơi chốn làm lợi ích cho mọi loài.

Cõi trời phương Nam có mười, tụng có hai mươi kệ ca ngợi về pháp môn Từ Bi của Phật, sáu kệ đầu ca ngợi Phật Đại Bi chịu khổ điều phục chúng sinh, tiếp theo mười bốn kệ trình bày về đức Bi bao trùm mười phương mà Dụng không có tướng. Trong đó có hai, mười hai kệ đầu phân rõ về tướng Từ Bi, tiếp theo hai kệ phân rõ về Dụng lìa tướng.

Cõi trời phương Tây có mười, trong tụng có hai mươi kệ ca ngợi đức Bi của Phật làm lợi ích khiến cho chúng sinh đạt được pháp hỷ, sáu kệ đầu phân rõ về lực Từ Bi độ của Phật cứu độ chúng sinh, tiếp theo bốn kệ ca ngợi Phật ở trong sinh tử khiến cho chúng sanh tiến vào biển pháp, tiếp theo bốn kệ khiến cho ở nơi khổ đau có được Tịnh độ, tiếp theo sáu kệ ca ngợi ca ngợi Phật ở trong Tịnh độ thuyết về pháp hải vi diệu thành tựu pháp cúng dường. Như kinh Tu Di Tạng nói: “Quả báo loài rồng có năm loại hình:

  1. Thiện Trú long là hình voi.
  2. Nan-đà long là hình rắn.
  3. A-na-bà-đạt long là hình ngựa.
  4. Bà-lâu-na long là hình cá.
  5. Ma-na-tô-bà-đế long cũng gọi là Ma-na-tư là hình ểnh ương.” Biến đổi hình dạng như trong luật nói, đều thống lĩnh những loài hình rồng.

Cõi trời phương Bắc, Dạ-xoa là nhẹ nhàng nhanh nhạy, trong tụn có mười sáu kệ ca ngợi Phật vì cứu khổ cho nên ở thế gian, tám kệ đầu ca ngợi đức Từ bình đẳng của Phật, tiếp theo sáu kệ phân rõ Trí thânPháp thân của Phật thâu nhiếp chúng sinh hướng về Chánh đạo, tiếp theo hai kệ nêu nhân kết thành. Trong ba mươi ba chúng trên gọi loại này là quỷ vương, trong tám bộ chỉ có Khẩn-na-la, Rồng và Tỳ-xá-xà là súc sinh, nhưng Dạ-xoa và La-sát nhiều sức mạnh cho nên mang tên gọi là quỷ, năm loại trong này đều là qủy.

Mười bảy, Lực sĩ Kim Cang có mười, trong tụng có hai mươi kệ phân rõ về ba nghiệp khó hủy hoại của Pháp thân Phật, sáu kệ đầu ca ngợi về thân nghiệp tự tại của Phật, tiếp theo sáu kệ phân rõ khẩu nghiệp của Phật, tiếp theo tám kệ ca ngợi ý nghiệp của Phật.

Các loại trên đây đều là hình tượng hiện bày xấu kém mà Thể tánh là thù thắng, cho nên trong Đại Tập nói: “Chư Phật bảo các Bồtát: Các ông muốn đến nơi Phật Thích-ca thì nên hiện làm thân Phạm Vương…” Vì vậy mà biết như thế. Vả lại, cõi Hoa Tạng này lẽ nào thật có loại này? Ý như Nhiếp Luận.

Tiếp đến là chúng Bồ-tát thứ mười tám nói kệ ca ngợi Phật. Ở đây chỉ nêu ra Bồ-tát Phổ Hiền, không nêu ra tên gọi những Bồ-tát khác, bởi vì biểu hiện chúng này ở phần vị của đạo, đức nêu rõ các môn, làm sáng tỏ một tức là tất cả, tất cả tức là một. Văn này có hai: Một, nêu tên gọi ca ngợi đức, tiếp theo là kệ tụng biểu hiện ba nghiệp cúng dường có thể biết. Hai chúng trên dưới là văn Trường hàng ca ngợi đức, là các kinh gia nêu ra không phải là văn đương thời. Dựa theo văn Trường hàng có hai: Đầu tiên là tổng quát, tiếp theo từ “Sở vị…” trở xuống là riêng biệt.

Văn tổng quát phân hai: Một, đức của phần mình (tự); hai, từ “Năng nhập Như Lai…” trở xuống là hòa vào đức của phần khác (tha).

Văn riêng biệt phân hai: Mở rộng tám pháp môn trước là phần mình (tự) trước đây, mở rộng hai pháp môn sau là phần khác (tha) trước đây. Vả lại, năm cặp mười câu này, trong tụng của hai cặp tự lợi-lợi tha có hai mươi kệ, nghĩa phân ra có sáu: Hai kệ đầu ca ngợi trú xứ và quyến thuộc thanh tịnh của Phật, tiếp theo hai kệ ca ngợi Giáo chủ thanh tịnh cõi Phật, tiếp theo hai kệ rưỡi ca ngợi lợi ích trọn vẹn thanh tịnh, tiếp theo có bảy kệ rưỡi là hóa dụng trọn vẹn thanh tịnh, tiếp theo hai kệ ca ngợi quả vị thù thắng phát sinh trọn vẹn thanh tịnh của Phật, sau cùng bốn kệ là Thể dụng thanh tịnh.

Ngay trong bảy kệ, ba kệ rưỡi đầu là thân nghiệp thanh tịnh của Phật, tiếp theo hai kệ là khẩu nghiệp thanh tịnh của Phật, tiếp theo từ “Nhất thiết tam thế…” trở xuống hai kệ phân rõ về ý nghiệp thanh tịnh của Phật.

Văn bốn kệ sau phân hai: Một kệ đầu phân rõ về Thể thanh tịnh của Pháp thân, tiếp theo ba kệ là Dụng thanh tịnh tức là Dụng của ba nghiệp, thì phân làm ba mà thôi.

Trong này giải thích về phạm vi của Phổ Hiền dùng tám môn để trình bày về Nhân-đà-la, có thể biết đó là: Một là Lý, hai là cõi, ba là thân, bốn là giáo, năm là pháp, sáu là hạnh, bảy là thời, tám là sự, sự tức là trần…

Hễ luận về đại ý, dựa theo văn có hai: Một, chỉ có khiến cho tập khí phiền não nghiệp nhiễm ô và quả báo đều đưa vào cảnh phàm; hai, từ ngoài tiến vào cảnh Thánh.

Trong Thánh có hai, đó là hai pháp Lý và Lượng. Hai loại này đều có hai pháp, cảnh giới Nhân-đà-la võng tức là Lượng trong Lý, và một phần trong Lượng mà thôi. Điều này nên suy nghĩ chính xác.

Tiếp theo xuống dưới là đoạn lớn thứ hai không động mà tập chúng. Các chúng trên đây chưa hẳn có động, nhưng muốn hiển bày cùng Thể thâu nhiếp, cho nên có như vậy mà thôi, lại bởi vì hiển bày quả vị có đủ nhân pháp. Trong đó có tám đoạn: Một, trình bày về xuất xứ, đó là tòa Sư tử bên cạnh lầu quán; hai, nêu ra số; ba, nêu ra mười tên gọi, sở dĩ nêu ra tên gọi xen tạp, là bởi vì muốn hiển bày nói thêm nhiều loại pháp sâu xa; bốn, từ “Thiết chư cúng dường…” trở xuống là nêu ra vật dụng cúng dường; năm, từ “Giai đại hoan hỷ…” trở xuống là chính thức cúng dường Phật; sáu, tùy nơi mà ngồi; bảy, từ “Bỉ Bồ-tát đẳng…” trở xuống là ca ngợi đức; tám, nói kệ ca ngợi Phật.

Trước đây địa điểm là tổng quát, nay lầu quán là trú riêng biệt. Vật dụng cúng dường có năm, đó là rải hoa-đốt hương-phóng ánh sángtrỗi nhạc và mưa vật báu.

Ngay phần ca ngợi đức có mười câu: Một, nhân hạnh môn của phần mình; hai, lúc thắng tiến chứng đạt, phần khác vô ngại; ba, vô tận biện tài trong cảnh của Chân Phật; bốn, đạt được ý nghiệp của Phật thành tựu công dụng khó suy nghĩ; năm, đạt được cảnh Phổ môn thân nghiệp của Phật hiện rõ khắp nơi; sáu, tổng quát nói rõ có thể tiến vào trí địa ba đời; bảy, tổng quát ca ngợi đầy đủ nhân lực của hai Niết-bàn là Thường-Vô thường; tám, phương tiện thanh tịnh Niết-bàn; chín, tự thanh tịnh nhân-quả Thường; mười, tổng quát kết thành công hạnh cúng dường pháp.

Phần kệ tụng ca ngợi có mười chín kệ phân làm bốn, ca ngợi về ba nghiệp và đức tự tại ngồi nơi đạo tràng của Phật: Ba kệ đầu ca ngợi công dụng ý nghiệp của Phật, tiếp theo mười kệ phân rõ thân tự tại ở Thọ vương, tiếp theo hai kệ là khẩu nghiệp tự tại; tiếp theo bốn kệ ca ngợi Đại dụng tự tại trang nghiêm của tòa.

Tiếp theo xuống dưới là phần thứ ba các vua phát khởi thực hành cúng dường, cũng có thể là phần Tựa phát khởi thứ hai. Trong đó phân ba: Một, thần lực của Phật chấn động mặt đất… Nói đến chấn động là một phương chấn động, khắp nơi chấn động là bốn phương cùng lúc chấn động, khắp nơi cùng chấn động là tám phương chấn động. Ở đây giải thích về mười tám chấn động trích trong Đại Luận: Gầm rống cảm giác chấn động là thanh, còn lại là sắc. Văn phần sau có sáu loại chấn động, tức là vọt lên ở phương Đông, chìm xuống ở phương Tây. Trong các kinh có những chấn động khác nhau, nhưng không ra ngoài hai loại này, theo đó để suy nghĩ chọn lấy. Hai, trình bày về phát khởi cúng dường; ba, từ “Thử thế giới trung Phật tọa đạo tràng…” trở xuống là kết luận về nghiệp đã đạt được.

Văn phần hai phân bốn: Một là tổng quát, hai là riêng biệt, ba là kết luận, bốn là như những phương khác.

Văn về đức nghiệp của các vua có hai: Một, chính thức ca ngợi vua cõi này; hai, như những thế giới khác.

Ngay văn chính thức ca ngợi có sáu câu: Ba câu trước là Tự lợi, tiếp theo một câu là Lợi tha, tiếp theo hai câu là hạnh tự lợi-lợi tha thành tựu đầy đủ hòa vào phần thù thắng.

Một câu thứ nhất là nói tổng quát đều tùy theo ý thích mà tiến vào pháp và có thể tiến vào pháp môn phương tiện, câu thứ hai là dựa vào pháp môn chứng đạt đưa ra quán tâm phát sinh hoan hỷ, câu thứ ba là nói riêng biệt về pháp phương tiện đối trị, câu thứ tư là thông đạt pháp môn dũng mãnh lợi tha của các phương, câu thứ năm là đã tiến vào một phần cảnh giới thù thắng của phần vị Như Lai, câu thứ sáu là vô lượng pháp hải của chư Phật đã chứng đều đã được trải qua. Văn kết luận có hai ý có thể biết.

Giải thích phẩm Tịnh Nhãn xong, tổng quát có bốn loại pháp phát sinh hiểu biết, để phát khởi đoạn sau, trừ ra thiết lập-phá bỏ bốn cách trả lời khéo léo phương tiện vượt qua dựa vào…:

  1. Thứ đệ môn, bởi vì so sánh chọn lấy cách giải.
  2. Tổng biệt môn, như sáu tướng…, bởi vì từ tướng tiến vào thật.
  3. Nhiếp thủ môn, bởi vì như dựa vào ngôn ngữ thâu nhiếp nghĩa.
  4. Lệ thanh môn, bảy loại ví dụ về thanh-ví dụ về văn chọn lấy nghĩa.

 

 

Phẩm 2: LÔ-XÁ-NA PHẬT

Từ đây trở xuống chính thức trình bày về phần Chánh tông, văn có bốn môn phân biệt:

    1. Phân rõ tên gọi.
    2. Mục đích đưa ra.
    3. Trình bày về Tông thú.
    4. Giải thích văn.

1. Giải thích tên gọi: Lô-xá-na Trung Hoa nói là rộng lớn trang nghiêm thanh tịnh (quảng bác nghiêm tịnh).

Hỏi: Phẩm này phân rõ về y báo, vì sao thuận theo tên gọi của giáo chủ? Cõi này và giáo chủ là sở y, bởi vì chánh báo ưu việt cho nên nêu người để hiển bày cõi.

2. Mục đích đưa ra: Vì sao đưa ra phẩm này? Bởi vì chúng đã tề tựu rồi, cho nên tiếp đến trình bày về pháp đã biểu hiện.

3. Phân rõ về Tông thú, có hai: Một là Nhân, hai là Pháp.

Nhân có hai, đó là người chủ động tiến hành và người thụ động tiến hành, đều có Thể-Tướng-Dụng, các Hội sau đều đồng nhất dựa theo Xứ và Hội phân ra khác nhau mà thôi. Thể của người chủ động tiến hành là dùng pháp trí chứng đạt từ bên trong làm Thể, bảy ngày tư duy vui mừng để hiển bày về đức Tướng, tiến hành thuyết giảng là Dụng. Thể của người thụ động tiến hành giúp đỡ giáo hóa là lấy nhập định làm Thể, được tiến hành là Tướng, bắt đầu thuyết giảng là Dụng; Hội khác cao thấp hơn kém theo đó có thể hiểu mà thôi.

Pháp là lấy bốn loại Tịnh độ làm tông của hội này, nhưng cũng có thể là pháp giới và thế giới hải làm tông. Pháp ấy dùng Chân như làm Thể, đức riêng biệt làm Tướng, lợi ích cho vật là Dụng.

4. Giải thích văn có hai: Một là đối với Hội, hai là tùy theo Phẩm.

Một là đối với Hội, phẩm Lô-xá-na này, quả mở rộng mà nhân tóm lược, cho nên thuộc về quả đức, hai Danh hiệu về sau thì nhân mở rộng mà quả tóm lược, cho nên phân định là nhân hạnh.

Lại có cách phân định khác, như Hội thứ hai đầu tiên là giải thích; hai là dựa vào phẩm phân tích có ba: Một, đến phẩm Quang Minh Giác… là phần nêu ra quả khuyến khích vui mừng phát sinh niềm tin; hai, từ phẩm Minh Nạn trở xuống là phần trình bày tu nhân hợp quả phát sinh hiểu biết; ba, từ phẩm Ly Thế Gian trở xuống là phần phân rõ dựa vào duyên tu hành thành tựu đức.

Sở dĩ cần phải như vậy, là vì căn thiện của chúng sanh mỏng manh ít ỏi tín tâm khó phát khởi. Trong phẩm này Phật tiến hành nói về y quả Tịnh độ cho Bồ-tát Phổ Hiền. Trong Hội thứ hai, Bồ-tát Văn Thù nhờ vào uy lực nói đến ba nghiệp của Phật trình bày về chánh báo ấy, dùng y báo-chánh báo thù thắng này để phát khởi tín tâm. Đã phát khởi tín tâm rồi, tiếp theo cần phải nói pháp cho nghe để giúp họ khởi lên hiểu biết, cho nên phẩm Minh Nạn trở xuống mở rộng phân rõ về hành tướng khuyến khích nương tựa. Đã thấy pháp rõ ràng, tiếp theo cần phải khuyến khích nương tựa phát khởi thực hành thì sẽ có đạt được, cho nên phẩm Ly Thế Gian trở xuống trình bày về phần dựa vào duyên thành tựu đức; cũng có thể dựa vào Hội phân văn xác định mà thôi, nghĩa còn lại có thể biết.

Lại dựa vào kinh Anh Lạc nói: Hội thứ nhất trình bày về thế giới và pháp giới hải, Hội thứ hai trình bày về Tịnh độ. Đây là dựa vào kinh phân định rất tuyệt diệu, văn có ý này, rất cần phải suy nghĩ chọn lựa, đến văn sẽ biết.

Tiếp theo dẫn chứng thứ hai, như phẩm Phật Quốc của kinh Duy Ma ở trước đây. Như vậy không phải là một có thể biết.

Toàn bộ Phẩm này phân hai:

1. Tổng quát giải thích tất cả.

2. Riêng biệt dựa theo văn phân rõ.

3. Tổng quát có hai: Một, giáo năng thuyên; hai, pháp sở thuyên. Nghĩa của pháp không nhất định, giải thích rộng ra như trong phần bốn mươi vô ngại biện tài…

4. Riêng biệt dựa theo văn phân rõ có hai: Một, Đại chúng sinh khởi ý niệm trình bày sự nghi ngờ; hai, từ “Nhĩ thời Thế Tôn tri chư Bồtát tâm…” trở xuống trình bày về tướng trả lời. Dựa vào ban đầu thưa hỏi để phân tích về tám Hội, các câu hỏi không giống nhau, tức là phần thứ tư trong mười môn. Ở đây tóm lược có ba: Một, phân rõ về có-không; hai, trình bày về pháp môn mở rộng tóm lược trước sau; ba, phân rõ về người hỏi nhiều ít không như nhau.

Một là có-không, hai Hội đầu và ba Hội cuối bắt đầu có câu hỏi. Nguyên cớ thứ nhất là bởi vì hỏi chung về hai pháp nhân quả, nguyên cớ thứ hai là lại hỏi về pháp hành ban đầu, nguyên cớ thứ ba là hỏi về giống và khác nhau trong tu hành, còn lại dựa theo văn phân rõ.

Tiếp theo dựa vào trong văn giải thích về nghi vấn phân hai: Một, trường hàng; hai, kệ tụng. Trường hàng có ba: Một, nêu ra người chủ động hỏi phát khởi ý niệm; hai, từ “Hà đẳng…” trở xuống là chính thức 72 thưa hỏi; ba, từ “Duy nguyện…” trở xuống là kết thúc thưa hỏi.

Trong thưa hỏi có hai mươi ba câu hỏi, nhưng Đức Phật làm trước thành ra mười bốn câu phân hai: Một, hai mươi mốt câu hỏi về pháp đạt được quả; hai, từ “Nhất thiết Bồ-tát…” trở xuống là hỏi về pháp của nhân dựa vào văn của quả.

Theo văn trả lời về năm biển-mười trí về sau có năm đoạn: Một, mười hai câu trình bày về Thể sai biệt của quả ba thân, nhưng nếu dựa vào Nhất thừa thì tức là Thể-Đức-Dụng, còn lại dựa theo đó; hai, một câu thế giới hải phân rõ về y quả Tịnh độ; ba, một câu chúng sinh hải phân rõ về chúng sinh đã giáo hóa; bốn, một câu pháp giới phương tiện phân rõ về thuốc pháp hóa độ chúng sinh; năm, từ “Phật hải…” trở xuống là sáu câu phân rõ nghĩa về tác dụng thâu nhiếp hóa độ của quả đức.

Một, mười hai câu văn phân ba: Một, bốn câu đầu phân rõ về đức của Pháp thân; hai, từ “Phật lực…” trở xuống năm câu phân rõ về đức của Báo thân; ba, từ “Phật nhãn…” trở xuống ba câu trình bày về đức của Hóa thân. Đây là dựa theo văn xác định của ba Thừa mà thôi. Phật địa là bởi vì quả vị phát sinh các đức. Cảnh giới Phật là phạm vi giới hạn. Phật trì là Pháp thân duy trì các đức. Phật hạnh là hạnh nghiệp.

Văn phần Hóa thân thì mắt-tai… phân rõ về thân nghiệp, Phật phóng ánh sáng… là phân rõ về khẩu nghiệp, Phật trí hải là phân rõ về ý nghiệp.

Từ “Phật hải…” trở xuống sáu câu trong văn tác dụng giáo hóa, ba câu đầu phân rõ về tác dụng giáo hóa của Báo Phật, ba câu sau phân rõ về tác dụng giáo hóa của Hóa Phật.

Ngay phần hỏi về nhân phân hai: Một, biển tu hành của tất cả Bồtát là tổng quát; hai, riêng biệt.

Văn phần riêng biệt phân hai: Một, tâm Đại thừa… là phân rõ các loại như Tín-Lạc… của Địa tiền làm nhân; hai, từ “Xuất sinh chư độ…” trở xuống phân rõ về công hạnh của Địa thượng, tức là thâu nhiếp mười Độ, Ba-la-mật tức là sáu Ba-la-mật, Nguyện tức là phương tiện Nguyện, Trí tức là Trí lực.

Văn tụng có hai: Một, trường hàng; hai, kệ tụng. Kệ có mười tám, kệ là theo Địa Luận ở đây gọi là khẩu nghiệp. Trong đó phân ba: Sáu kệ đầu là tổng quát ca ngợi thưa thỉnh, tiếp theo mười một kệ rưỡi là văn thưa thỉnh trong tụng, tiếp theo nửa kệ là kết thúc sự thưa thỉnh trên.

Trong văn sáu kệ trước thưa thỉnh phân ba: Một kệ đầu là đức Tự lợi trọn vẹn, tiếp theo ba kệ là đức Lợi tha trọn vẹn, hai kệ cuối cùng là căn khí thích nghe. Dựa vào mười một câu khéo léo tóm lược cho nên không thể hết được, tám tụng đầu là mười hai câu về ba thân, tiếp theo một tụng từ “Thế giới hải…” trở xuống là ba câu, tiếp theo hai tụng từ “Thượng Phật hải…” là sáu câu và nhân hạnh… là hai câu.

Tiếp đến phần thứ hai trình bày về tướng trả lời, văn phân bảy: Một, phân rõ phóng ánh sáng quy tụ đại chúng trình bày về phần Tựa; hai, từ “Nhĩ thời Phổ Hiền tức nhập tịnh tạng định…” trở xuống là phần Tam-muội; ba, từ “Phổ Hiền nhập định dĩ…” trở xuống là phân rõ phần gia hộ; bốn, từ “Đại chúng đồng thanh…” trở xuống là phần thưa thỉnh; năm, từ “Nhĩ thời Phổ Hiền Bồ-tát thừa Phật thần lực dĩ…” trở xuống là trình bày về phần căn bản; sáu, từ “Nhĩ thời Phổ Hiền tùng định…” trở xuống là phân rõ về phần phát khởi; bảy, từ “Nhĩ thời Phổ Hiền Bồ-tát dục linh chúng hoan hỷ…” trở xuống là trình bày về phần tuyên thuyết. Văn phân hai: Một, mở rộng nghi thức tập chúng thuyết giảng; hai, từ “Như thử Tứ Thiên hạ dĩ…” trở xuống là kết thúc tất cả bình đẳng.

Văn phần một có bốn: Một, phóng ánh sáng; hai, tập chúng; ba, nêu rõ cho đại chúng để biết người thuyết pháp; bốn, từ “Ư bỉ hữu liên hoa sinh…” trở xuống là hiển bày về nghi thức phép tắc thuyết giảng.

Tiếp là phần phóng ánh sáng có hai ý: Một, hiện tướng biểu hiện chân thật; hai, phát khởi tín tâm của đại chúng. Hai ý của văn này nối thông đến Hội sau, vì vậy phóng ánh sáng lần đầu liền trình bày, kệ tụng trong các Hội phóng ánh sáng quy tụ đại chúng có ba nghĩa không giống nhau. Đây tức là lần thứ năm trong mười lần.

Phần quy tụ đại chúng thuyết kệ đối với văn phân rõ, trong Tựa của các Hội hiển bày về hiểu biết-thực hành pháp và đức vị cạn sâu không giống nhau. Nhưng ba Hội thứ sáu-bảy-tám không có phóng ánh sáng quy tụ đại chúng. Sở dĩ Hội thứ sáu không phóng ánh sáng, bởi vì hễ phóng ánh sáng là biểu hiện cho chúng quy tụ qua lại…, Địa tiền thế gian cho nên có qua lại, Địa thượng chứng được Thể vô lậu không còn tánh ấy, nơi chốn không có thể thâu nhiếp mà quy tụ ở nơi khác, nhưng có thể cùng nhau tiến hành hiển bày sâu xa mới nói. Hội bảytám không phóng ánh sáng, bởi vì phát khởi ánh sáng vốn là để hiển bày quy tụ đại chúng làm sáng tỏ giáo pháp, pháp của hai Hội sau đã hiển bày trước, nay y theo tu hành cho nên không cần phóng ánh sáng. Nhưng phóng ánh sáng trong phần chánh thuyết của Hội thứ tám kia, là vì trình bày về phạm vi thâu nhiếp làm lợi ích của quả đức, chứ không phải vì quy tụ đại chúng. Vả lại, Hội thứ bảy là pháp chỉ tương ưng với cảnh giới chứng hành, phân rõ về tín chứ không phải là nói về sự có

thể chứng thành, cho nên không có ánh sáng và không có đại chúng quy tụ. Lại nữa, một là Hội thứ nhất phóng ánh sáng vì quy tụ chúng chứng kinh; hai là phẩm Quang Minh Giác hiển bày về pháp nương tựa cạn-sâu, nối thông về sau làm quy phạm; ba là Hội thứ ba trở đi ba Hội phóng ánh sáng để hiển bày ngay phần vị đạt được phạm vi của lý. Lại hỏi về Hội thứ sáu thì phóng ánh sáng và quy tụ chúng đều không có, là bởi vì muốn hiển bày phần vị của đức vô lậu không có thể dùng sự để làm sáng tỏ.

Văn phần phóng ánh sáng phân hai: Một, khuôn mặt là thân nghiệp; hai, trong ánh sáng phát ra âm thanh nói kệ là khẩu nghiệp. Bởi vì Liên Hoa Tạng Hải không phải là con người đến được, cần phải tiến hành phóng ánh sáng thì mới có thể thấy, cho nên khuôn mặt phóng ánh sáng là biểu hiện đích thực hướng về giáo đạo rộng mở được thuyết ra. Nói diện môn là dung mạo đích thực của khuôn mặt chứ không phải là khác với miệng, vì lẽ đó mỗi một chiếc răng biểu hiện có thể hướng về giúp đỡ thiết lập thành tựu công hạnh.

Ngay trong văn phóng ánh sáng có năm: Một, phân rõ về sở y; hai, tổng quát nêu ra mười môn; ba, từ “Như thị đẳng…” trở xuống là phát ra ánh sáng của hàng quyến thuộc; bốn, từ “Hậu nhất nhất quang…” trở xuống phân rõ về công dụng; năm, hiển bày ánh sáng thâu nhiếp lợi ích.

Mười môn ánh sáng phân ba: Sáu môn đầu là tướng Chánh báo của Pháp thân, tiếp theo hai môn trình bày về tướng Y báo Tịnh độ, tiếp theo hai môn trình bày về tướng thâu nhiếp giáo hóa.

Văn tụng có mười chín kệ phân ba: Mười kệ đầu ca ngợi đức hạnh khéo léo có thể khai mở giác ngộ của Phật; tiếp theo bảy kệ khuyến khích đến nơi Đức Đạo Sư phát khởi cúng dường, tức là đi đến chỗ Phật; tiếp theo hai kệ là trở lại ca ngợi đức dụng nội chứng sâu rộng của Phật, phát sinh mong muốn thù thắng của vật.

Ngay trong văn thứ hai là quy tụ chúng mới, một là trình bày về các Hội có-không, hai là tiếp theo phần văn có-không, có bốn: Một, có-không; hai, nơi đến xa gần; ba, danh hiệu Phật và tên gọi Bồ-tát của bổn xứ không như nhau; bốn, cúng dường nhiều ít.

Một là có-không: Chỉ ở cõi trời Tha Hóa thuyết về Thập Địa, và trở lại Hội này là hai nơi không có chúng mới. Đại chúng quy tụ có bốn ý: Một là biểu hiện căn cơ đã thâu nhiếp, hai là chứng pháp, ba là phát khởi cúng dường, bốn là trình bày về chúng quy tụ đầy đủ. Những ý như vậy cho nên có thể biết, Hội thứ tám ấy nhất định quy tụ sau, biểu hiện hiểu biết phương tiện khéo léo khiến cho mình và người tiến vào pháp giới, không phải vì hiển bày về pháp, cũng có thể là hiển bày tác dụng thâu nhiếp người khác chứ không phải là chứng minh về nghĩa của mình, vẫn là chúng quy tụ để chứng minh về pháp mà thôi.

Hai là phân rõ chúng đến từ xa-gần: Mười-một trăm-một ngàn… như văn, nghĩa còn lại đối chiếu văn giải thích. Quy tụ chúng có bốn tướng: Một, tên gọi xứ sở làm sáng tỏ pháp tướng; hai, danh hiệu Phật hiển bày hiểu biết; ba, tên gọi Bồ-tát trình bày về phần vị trước sau; bốn, tên gọi của tòa phân rõ tác dụng thâu nhiếp lợi ích của pháp. Ở đây chỉ giới hạn về chúng mới, chúng còn lại thì gồm chung.

Trong văn về chúng mới ở mười phương, có năm: Một, chúng đến đây đầy đủ; hai, từ “Như thị đẳng…” trở xuống là tổng kết; ba, Bồ-tát theo thứ tự ngồi xuống đều hiển bày đã đạt được pháp môn, hiển bày có đức giáo hóa; bốn, từ “Niệm niệm trung ư nhất nhất thế giới…” trở xuống trình bày về duyên khởi lực dụng tự tại giáo hóa chúng sinh; năm, trình bày về nói kệ.

Văn phần một trong mười phương đều có bảy phần: Một, nơi chốn; hai, cõi Phật; ba, danh hiệu Phật; bốn, tên gọi Bồ-tát ấy được Phật ấy khai mở giác ngộ; năm, cho thị giả cùng đến; sáu, đưa ra vật dụng cúng dường để cúng dường Phật; bảy, đều ngồi theo phương của mình.

Văn phần hai kết thúc mười ức cõi Phật đều có mười ức Bồ-tát đến, đây là Thể của các cõi nước giống nhau không khác. Tên gọi cõi nước chúng sanh này không giống nhau, là bởi vì biểu hiện quả đức luôn luôn thâu nhiếp lợi ích trong pháp hiện tại sai biệt không giống nhau.

Văn phần ba có sáu: Một, ngồi rồi; hai, lỗ chân lông phát ra ánh sáng; ba, trong ánh sáng xuất hiện Bồ-tát; bốn, Bồ-tát phương tiện khắp nơi các mảy trần; năm, trong mỗi một mảy trần có cõi Phật; sáu, trong mỗi một cõi có Phật thị hiện. Đây là sự việc chân thật chứ không phải là tạm thời hóa hiện.

Văn phần bốn có ba: Một, phân rõ về chúng sanh đã giáo hóa; hai, từ “Dĩ mộng tự tại pháp môn…” trở xuống phân rõ về pháp chủ động giáo hóa, đầu là phân rõ, tiếp là kết luận; ba, từ “Ư nhất niệm khoảnh…” trở xuống phân rõ về giáo hóa thành tựu lợi ích. Ngay văn thành tựu lợi ích có sáu câu:

  1. Lợi ích trời người.
  2. Lợi ích nội phàm.
  3. Lợi ích thành tựu mười Quả Hướng.
  4. Lợi ích khiến cho thành tựu mười Hồi Hướng trở về sau.
  5. Lợi ích khiến cho đạt được bảy Địa trở về sau.
  6. Lợi ích thành tựu tám Địa trở lên.

Văn tụng thứ năm có hai: Mười kệ đầu khen ngợi Bồ-tát mười phương trước đây từ lâu tu hạnh thù thắng đến đây, mười kệ sau khen ngợi Bồ-tát theo thứ tự ngồi xuống trước đây và văn về lợi ích chúng sinh.

Trong mười kệ trước phân ba: Hai kệ đầu phân rõ đức của Bồ-tát; tiếp theo có năm kệ phân rõ có thể cứu giúp chúng sinh lìa khổ; tiếp theo có ba kệ là do đức thành tựu, cho nên có thể đi khắp mười phương cõi Phật, hiển bày khả năng thù thắng của Bồ-tát.

Mười kệ sau gồm chung văn khen ngợi Bồ-tát theo thứ tự ngồi xuống, đã đạt được pháp môn, có đức giáo hóa… trước đây, tướng còn lại có thể biết.

Thứ ba là Phật nêu rõ Bồ-tát Phổ Hiền khiến cho biết người thuyết pháp để đại chúng cung kính thưa thỉnh, văn có bốn: Một, phân rõ về ý phóng ánh sáng làm lợi ích; hai, chính thức phóng ánh sáng, phần này có năm câu có thể biết; ba, chính thức nêu rõ nơi ánh sáng chiếu đến; bốn, từ dưới chân đưa vào thâu nhiếp dụng trở về gốc, hiển bày sự dung thông của nhân quả.

Thứ tư là xuất hiện hoa sen và Bồ-tát, hiển bày trong nghi thức thuyết pháp có ba: Một, hoa xuất hiện ở đạo tràng, cũng có thể là lần lượt theo nhau, phần này có bảy câu, đây là hiển bày phạm vi thâu nhiếp giáo hóa; hai, từ giữa chặng mày của Phật xuất hiện một vị Đại Bồ-tát, dựa theo người hiển bày về giáo; ba, thuyết kệ ca ngợi là trình bày về phạm vi của giáo.

Ngay trong phần hai là xuất hiện Bồ-tát, có bảy: Một, phân rõ nơi chốn; hai, trình bày về người đã xuất hiện; ba, nêu ra tên gọi; bốn, quyến thuộc; năm, xuất hiện rồi cung kính vây quanh chỗ ngồi; sáu, lui về an tọa có hai; bảy, từ “Thành tựu…” trở xuống là ca ngợi đức của người đã xuất hiện, phần này có bốn câu.

Phần ba thuyết kệ có hai: Một, Bồ-tát Thắng Âm nói sáu kệ ca ngợi Hóa thân Phật ứng với căn khí tự tại, và hiển bày phạm vi của pháp, tức là hiển bày về đức của giáo thanh; hai, Sư Tử Diệm Quang Phấn Tấn nói mười bảy kệ, tổng quát ca ngợi Lô-xá-na và Phổ Hiền có thể giống như chư Phật, và phân rõ về tướng chuyển pháp luân, tức là hiển bày về oai đức của giáo mà thôi.

Tụng đầu phân ba: Hai kệ đầu trình bày về ý Hóa thân đầy khắp

pháp giới hiện rõ trước mắt chúng sinh, tiếp theo hai kệ hiện rõ tác dụng thuyết pháp cũng là phạm vi của giáo, tiếp theo hai kệ là oai đức khó nghĩ bàn.

Thứ hai trong kệ của Bồ-tát Phấn Tấn: Ba kệ đầu phân rõ Lô-xána tự tại chuyển pháp luân, tiếp theo mười bốn kệ trình bày về ba nghiệp chuyển, tức là duyên có đủ. Đây là trình bày dựa theo duyên hiển bày ba loại pháp luân. Văn phần đầu có bốn: Một, nửa kệ là tổng quát hiển bày; hai, nửa kệ phân rõ về Thể của luân; ba, một kệ trình bày tùy theo nơi chốn thích hợp mà chuyển; bốn, một kệ trình bày về tướng của nghĩa mà thôi.

Pháp luân có bốn loại:

1) Giáo. 2) Hạnh. 3) Lý. 4) Sự.

Hỏi: Chuyển pháp luân này cùng với ba chuyển mười hai hành luân của ba Thừa khác nhau thế nào?

Đáp: Ở đây chỉ một chuyển trở thành mười hành, đó gọi là một chuyển vô tận chuyển, nói rộng ra như sau. Vả lại, trong kinh Phật Bổn Hạnh nói: “Phật vào xế chiều của ngày 12 trong mười lăm ngày đầu tháng có sao Ki, lúc quá nửa bóng người khó được, ngồi quay mặt về hướng Bắc, vào lúc sao Quỷ và sao Phòng xuất hiện, chuyển Phạm pháp luân.”

Ngay trong phần hai là mười bốn kệ, sáu kệ đầu trình bày về ý nghiệp giáo hóa, tiếp theo bốn kệ phân rõ về thân nghiệp giáo hóa, tiếp theo bốn kệ phân rõ về khẩu nghiệp giáo hóa. Nhưng giải thích có bảy: Một, hai kệ tổng quát phân rõ về hạn lượng của nhân quả phát khởi giáo hóa; hai, có hai kệ phân rõ về thân nghiệp; ba, có hai kệ trình bày về khẩu nghiệp ấy; bốn, có hai kệ trình bày về ý nghiệp; năm, hai kệ trở lại phân rõ phạm vi của thân; sáu, hai kệ trở lại trình bày về khẩu; bảy, hai kệ trở lại trình bày về ý.

Thứ hai trình bày về Thể của pháp thuộc phần Tam-muội, tức là cung kính tiếp theo Phật lực, được gia hộ để phát khởi, trong đó có hai: Một, phân tích dựa theo các Hội; hai, giải thích văn.

Phân tích phân bốn, tức là lần thứ sáu: Một, có-không là nhập định để biểu hiện pháp sâu xa, chỉ riêng Hội thứ hai do đối với căn cơ cạn cợt, cho nên pháp không có thể sâu xa; lại là trú trong phương tiện không có Thể thuộc phần vị của mình, cho nên không nhập định, bởi vì pháp đối với căn cơ phần vị. Hai, trở lại nhập định-không trở lại nhập định, Hội thứ nhứt có nghĩa trở lại, Hội khác không có; cũng có thể không trở lại bởi vì phần căn bản này nói trong Định, cho nên về sau giải thích riêng biệt mà thôi. Ba, Thể của nhân quả khác nhau, trình bày trong Hội thứ nhất-thứ bảy và thứ tám, là Định của Phật, trong Hội thứ ba-bốn- năm-sáu đều là Định của Bồ-tát. Vì sao? Bởi vì Hội thứ nhất là Vô cấu như tạng, là Thể thanh tịnh cho nên nhập định Tịnh Tạng, Hội thứ bảy thành thục quả hành tự lợi cho nên nhập định Phật Hoa Nghiêm, đây là nói theo Hóa chủ. Nếu dựa theo hành giả thì nhân là tu-quả là Hoa Nghiêm, vì tu từ lúc bắt đầu cho nên hai lần thuyết ở Phổ Quang. Hội thứ tám là giải thoát pháp giới, quả Lợi tha đầy đủ, cho nên Phật tự nhập định Sư Tử Phấn Tấn, đây cũng là dựa theo Hóa chủ. Nếu dựa theo tu hành thì biểu hiện nhờ vào người khác làm cảnh để kiến chí lập thân. Vả lại, ba Hội này đã hiển bày pháp đều gồm chung nhân quả, cho nên nhập định của quả mà thôi. Bốn Hội trung gian nhập định của nhân, đối với văn mới giải thích. Bốn, người chủ động nhập khác nhau, trong bảy Xứ nhập định thì sáu Hội trước trình bày về Bồ-tát nhập định, vì làm sáng tỏ về phần khế lý, cũng trình bày về sự vui mừng nhờ vào người khác. Hội thứ tám Phật tự nhập định là trình bày về Thể của quả cứu cánh giải thoát pháp giới chỉ riêng Phật có thể cùng tận, cũng có thể nêu ra Phật để hiển bày về giới hạn của pháp; cũng đối với Phật để hiển bày về phạm vi đã biết của mọi người, ý còn lại phân rõ ở phần sau.

Tiếp theo dựa vào văn giải thích phân ba: Một, phân rõ Phổ Hiền nhập định Tịnh Tạng; hai, soi chiếu chư Phật không ngại, trong này Trí Đoạn phân hai; ba, từ “Ư thử dĩ…” trở xuống phân rõ Định giống như chư Phật đã đạt được, cũng có thể kết luận gồm chung.

Thứ ba từ “Nhập thị Tam-muội…” trở xuống là trình bày về Phật gia hộ, văn phân hai: Một, Nhân là phân tích sự gia hộ sai biệt của các Hội, tức là lần thứ bảy; hai, giải thích văn. Phần phân tích có hai: Một, phân rõ về có-không; hai, phân rõ chư Phật xa gần và danh tự nhiều ít có khác.

Có-không, là Hội thứ hai-bảy-tám không trình bày về chư Phật gia hộ. Vì sao? Bởi vì gia hộ là quả thâu nhiếp làm lợi ích khiến cho phần vị dưới-trí kém cỏi có được khả năng có thể nói pháp của phần vị trên và phát khởi công hạnh thắng tiến. Hội thứ hai là phân rõ căn cơ ban đầu không nhất định, phòng ngừa sự tiến tới-lùi lại cho nên không nhập định, bởi vì biểu hiện về pháp rất sâu xa. Vả lại, người không nhập định xem xét thấy rõ pháp cho nên không gia hộ. Hội thứ bảy có hai: Một, tức là Hội này thực hành về pháp sở y không khác với các Hội trước; hai, trình bày về hành giả phát khởi tu tập thô-tế không nhất định. Hội thứ tám phân rõ về Phật tự nhập Tam-muội, quả giải thoát pháp giới vô cùng tròn đầy, cho nên không nhờ gia hộ. Tiếp theo danh hiệu Phật không giống nhau là hiển bày về đức sai biệt.

Tiếp đến dựa vào văn giải thích phân ba: Một, miệng gia hộ và phân rõ cho đến gia hộ bằng việc làm; hai, từ “Nhĩ thời nhất thiết chư Phật dữ…” trở xuống trình bày về ý gia hộ cùng với trí; ba, từ “Nhĩ thời thập phương…” trở xuống trình bày về thân gia hộ xoa đảnh cùng với sự Vô úy. Nhưng văn này phân hai: Một, phân rõ nhập định cho nên gia hộ; hai, từ “Sở vị…” trở xuống phân rõ về gia hộ bằng việc làm, tức là tướng gia hộ.

Văn phần một có ba: Một, vì gia hộ cho nên chư Phật hiện thân; hai, từ “Bỉ chư Như Lai…” trở xuống ca ngợi về nhập định sâu xa có năng lực thuyết pháp; ba, từ “Thị giai…” trở xuống trình bày về nguyên cớ ca ngợi gia hộ.

Trong văn về miệng gia hộ phân ba: Một câu là tổng quát, tiếp theo hai câu phân rõ về Thể của hạnh tự-tha, tiếp theo bảy câu trình bày về Dụng của hạnh lợi tha.

Ý gia hộ phân ba: Đầu một câu là tổng quát, tiếp theo riêng biệt phân rõ về mười trí, tiếp theo từ “Hà dĩ cố…” trở xuống là giải thích về thành tựu.

Đầu tiên là văn mười trí, ba trí trước là tự lợi, bảy trí sau là lợi tha. Mười trí này cùng với mười trí sau phần nhiều giống nhau. Vì sao đã nói về quả đức mà Phật không tự thuyết ra, bởi vì đây là biểu hiện về quả thù thắng-nhân kém cỏi cho nên có thể hạn định. Vả lại, bởi vì Phổ Hiền đạt được Định, vốn là trưởng tử, là vị đứng đầu đại chúng, đầy đủ hạnh nguyện của Phật Lô-xá-na, bởi vì bổn nguyện. Vả lại, bởi vì lực thuộc căn thiện của mình, theo phần sau ở đây phải có xoa đảnh rồi lập tức xuất định. Nay tóm lược không có xuất định, về sau mới trình bày về xuất định, và ý lợi ích có thể biết mà thôi. Vì vậy trình bày về các Hội xuất định thuyết pháp ông giống nhau, tức là lần thứ tám.

Trước phân rõ về khởi định không giống nhau, các Hội thuyết pháp đối với văn mới phân rõ. Hội thứ tám có nhập không có xuất, bởi vì biểu hiện nhập pháp giới cho nên không có trở lại. Hội thứ hai xuấtnhập đều không có. Hội thứ nhất thì văn không nhất định, cũng có thể quán cả chân tục, hoặc là người viết văn đan xen, các Hội còn lại có đủ xuất nhập vậy thôi.

Thứ tư Bồ-tát đồng thanh trở lại thỉnh cầu Bồ-tát Phổ Hiền, tức là phần thưa thỉnh, văn phân hai: Đầu là trường hàng vì văn ít thảo nào có ý không nói, sau là văn thưa thỉnh. Bồ-tát Phổ Hiền vì trước đây chỉ có chúng của mình thưa thỉnh, chưa có chúng mới-cũ cùng nhau thưa thỉnh, bởi vì thưa thỉnh không đầy đủ cho nên không nói mà thôi.

Tụng thưa thỉnh có hai mươi kệ phân hai: Một, ca ngợi đức thưa thỉnh; hai, hai kệ sau cùng là kết thúc thưa thỉnh. Văn ca ngợi đức thưa thỉnh có năm: Hai kệ đầu phân rõ Phổ Hiền từ lâu ở nơi chư Phật đã tu các nguyện hạnh, cho nên dựa vào Đại nguyện vì chúng liền nói; tiếp theo bốn kệ phân rõ Phổ Hiền thường thấy chư Phật ở trong cõi trần thuận theo cùng thị hiện thuyết pháp, cho nên nay thuận theo mà nói; tiếp theo sáu kệ phân rõ Phổ Hiền từ lâu thành tựu định lực biết tất cả căn khí của chúng sinh, có thể rộng ra vì họ mà nói, cho nên cùng ở nơi ấy nguyện vì đại chúng mà nói; tiếp theo bốn kệ phân rõ về ba nghiệp của Phổ Hiền, có thể làm mây mưa lợi ích cho chúng sinh, vì sao không nói; tiếp theo hai kệ chính thức nêu ra hai cõi Tánh-Báo là mười Lực tu tập đạt được, khuyến khích thuận theo căn cơ mà nói; cuối cùng hai kệ là kết thúc thưa thỉnh. Vì lẽ đó chỉ trong Thập Địa có đủ gia hộ-thưa thỉnh để thành tựu nhân chứng được pháp hành, còn lại thì không như vậy.

Phần 2

Thứ năm là văn chính thức trả lời về Bổn Tông, toàn bộ phân làm hai: Một là quán sát năm Hải… trình bày về phần căn bản; hai là trình bày về mười trí, tức là trí của năm Hải.

Văn phần một có hai: Một, trình bày được nhờ thần lực của Phật hiển bày không phải tự lực có thể tiến vào; hai, chính thức quán sát năm Hải xét kỹ về pháp ấy.

Nay ở đây nói chung về việc làm phát khởi giáo pháp có mười nghĩa:

  1. Thành tựu bổn nguyện của Phật cho nên gọi là kinh Bổn Nguyện của chư Phật, lấy kinh này làm chuẩn mực.
  2. Thành tựu Bổn nguyện của Bồ-tát có thể biết.
  3. Luôn luôn lợi ích cho căn cơ có thể biết.
  4. Lợi ích thấy nghe cho đời sau có thể biết.
  5. Muốn hiển bày về lý vốn có và trình bày về tu thành tựu hai hạnh nhân quả.
  6. Phân rõ hai phần vị nhân quả thêm vi tế không giống nhau, như quả trong nhân-nhân trong quả là vậy, và trình bày về trước thô-sau tế…
  7. Trình bày về tướng của hành vị so sánh phân rõ nối thông-hạn chế, đây là hướng về cùng lúc có thể biết.
  8. Nhân quả hành vị trước sau nối thông-hạn chế không giống nhau.
  9. Phân rõ về tướng của tu đức tác thành lẫn nhau.
  10. Muốn hiển bày về giáo luân A-hàm hoàn toàn thanh tịnh, và dựa theo sự việc hợp thời hiển bày hai hành tướng chân-ứng, điều này có thể suy nghĩ. Dựa vào văn những phần sau, tám Hội cùng có mười nghĩa, đến văn của Hội sau có thể cũng dựa theo đây. Nếu theo chiều ngang thì chọn lấy văn tướng hiển bày có thể biết.

Phần một Thế giới hải là trả lời về thế giới hải trước đây, là hành Tịnh độ thành tựu trú xứ của chúng sinh. Chúng sinh hải là chúng sinh đã được hóa độ, trả lời về chúng sinh hải trước đây. Pháp giới nghiệp hải là nghiệp dụng, thành tựu Pháp thân sau này mà thôi. Dục lạc chư căn hải là trả lời gồm chung hai câu về nhân hạnh trước đây. Tam thế chư Phật hải là phân rõ về tác dụng giáo hóa rộng lớn của Phật, trả lời mười hai câu về ba thân và sáu câu trong tác dụng giáo hóa trước đây. Cũng có thể sáu câu này thuộc về chư căn hải trước đây, nhưng tâm và cảnh giới khác nhau dùng tướng để hiển bày căn mà thôi, cũng có thể cùng nhau đưa vào nghiệp dụng hải.

Phần hai Mười trí phân năm: Một, nói cho biết; hai, nêu tên gọi; ba, kết luận khó suy nghĩ; bốn, hứa thuyết giảng; năm, trình bày về ý thuyết giảng mà thôi. Tức là Phật đã trao cho mười trí trước đây. Nay bởi vì ca ngợi có thể hiển bày về pháp sâu xa, cũng có phần nào không giống nhau là đối với căn cơ thiết lập riêng biệt, cho nên khác nhau mà thôi. Phật tử thì có năm nghĩa như luận.

Mười trí:

  1. Thế giới thành bại thanh tịnh trí, trả lời một câu hỏi về thế giới Phật trong câu hỏi về quả trước đây.
  2. Chúng sanh giới khởi trí, trả lời một câu về chúng sanh hải đã được giáo hóa trong câu hỏi về quả trước đây.
  3. Pháp giới trí, trả lời một câu về thuốc pháp có thể giáo hóa trước đây.
  4. Từ “Như Lai tự tại…” trở xuống là trả lời mười hai câu về đức của ba thân trước đây, một câu này tức là trả lời ba câu về Phật địa-Phật trì… trong Pháp thân trước đây.
  5. Tịnh chuyển pháp luân trí, trả lời một câu về Phật hạnh trước đây.
  6. Lực vô úy bất cộng pháp trí, trả lời ba câu về Phật lực-pháp thù thắng của Phật thị hiện Bồ-đề… trong Báo Phật trước đây.
  7. Quang minh tán thán âm thanh trí, trả lời một câu về ánh sáng của Phật trước đây.
  8. Tam chủng giáo hóa trí, trả lời về đức của Hóa Phật là ba luân như mắt-tai của Phật, trí hải của Phật… trước đây.
  9. Tam muội pháp môn bất hoại trí, trả lời về Tam-muội của Báo Phật trước đây, bởi vì Thể của quả đức cho nên trả lời riêng biệt.
  10. Như Lai tự tại trí, trả lời sáu câu về Phật hải… trong đức Hóa dụng trước đây.

Dưới đây mở rộng văn tùy theo tướng giải thích về năm Hải ở trên: Đầu tiên là Thế giới thành hoại trí trong mười trí thế giới hải, cũng có thể nói chung về trả lời mở rộng sau này. Mười trí này tức là trí về ba thế gian: Một là Khí thế gian; hai là Chúng sanh thế gian; trí thứ bathứ tư là Chánh giác; năm là Nguyện chuyển pháp luân trí, nói về hành của ba thế gian trước đây; sáu là Lực vô úy bất cộng trí dựa vào pháp thành tựu hành đối trị, lực đối trị ma giáo, vô úy đối trị ngoại đạo, bất cộng đối trị Nhị thừa; bảy là Quang minh âm thanh trí, dùng Phật sự khéo léo thành tựu, ca ngợi Tam bảo; tám là Tam chủng giáo hóa trí, phát triển làm hưng thịnh Tam bảo, khiến cho không đoạn tuyệt; chín là Tam-muội pháp môn bất hoại trí, trình bày về Chứng trí; mười là Như Lai chủng chủng tự tại trí, tức là Hậu đắc trí. Vả lại, đây là nói về một Hải trước đây, vẫn có đủ mười trí như vậy, bởi vì trí pháp chính thức và hỗ trợ đều tác thành lẫn nhau, là năm hải dựa vào ba thế gian chuyển thành mười thân, vốn là pháp tương tự.

Ba từ “Như thị…” trở xuống là kết thúc ca ngợi khó nói-khó nghe; bốn, từ “Ngã đương…” trở xuống là hiển bày được nhờ Phật lực mới nhận lời thuyết giảng; năm, từ “Dục linh…” trở xuống trình bày về ý thuyết giảng. Nhưng nghĩa nói về quán năm Hải-mười Trí của Phật là nói về mười Trí của mình, lại quán tất cả năm Hải-mười Trí của nhân địa là nói về mười Trí của mình, bởi vì Trí phương tiện khởi lên thuyết giảng cùng với pháp căn bản thi thiết không giống nhau. Vả lại, cũng có thể về sau trong văn phân rõ riêng biệt, luận về cõi thì biết cảnh huân tập, điều này có thể suy nghĩ chuẩn xác. Cũng có thể chỉ riêng Phật địa mà thôi. Nhưng cũng có thể người ở Địa tiền nói là trí huân tập cảnh, Bồ-tát ở Địa thượng và người trong quả nói là Chứng chứ không phải là huân tập.

Thứ sáu là phần phát khởi, văn phân hai: Một là phân rõ về lợi ích phát khởi, hai là lỗ chân lông ca ngợi.

Văn phần một phân hai: Một, chính thức phát khởi về Định của chủ bạn có hai câu, câu một là khởi định, câu hai là Thể vốn có bất hoại; hai, từ “Nhất thiết tam thế Tam-muội…” trở xuống là phân rõ tác dụng lợi ích lúc khởi định có hai, một là lợi ích bên trong, hai là từ “Động địa…” trở xuống là lợi ích về sự việc bên ngoài có ba, đó là mặt đất chấn động và hai lợi ích.

Một là văn phần tác dụng có hai: Một, chúng ở cõi này lợi ích; hai, từ “Như thử…” trở xuống là chúng ở phương khác lợi ích. Chúng ở cõi này lợi ích có bốn:

  1. Đạt được định.
  2. Đạt được phương tiện bên trong.
  3. Đạt được trí phân rõ về dụng bên ngoài.
  4. Đạt được nguyện hạnh Đại Bi.

Văn phần hai là lỗ chân lông nói kệ ca ngợi đức của Bồ-tát Phổ Hiền, văn mười bốn kệ tức là phóng ánh sáng ca ngợi gia hộ, phân hai: Tám kệ đầu trình bày về Bồ-tát Phổ Hiền tự tại đến cùng nguồn cội của Phật, tiếp theo sáu kệ trình bày về Bồ-tát Phổ Hiền ứng hóa và cõi thuận theo tất cả chúng sinh tự tại thành tựu nghĩa.

Trong tám kệ trước, ba kệ đầu là thân nghiệp tự tại, tiếp theo một kệ là khẩu nghiệp tự tại, tiếp theo một kệ là ý nghiệp tự tại, tiếp theo ba kệ là tổng quát ca ngợi ba nghiệp tự tại khắp cảnh giới Phật.

Thứ bảy là phần Bồ-tát làm cho đại chúng càng vui vẻ cung kính, văn chính là phần thuyết giảng có hai: Một, làm cho đại chúng vui vẻ tức là phương tiện thuyết giảng; hai, chính thức trao cho pháp.

Văn phần một đại chúng vui vẻ phân hai: Một, trường hàng là trình bày về ý lại muốn thuyết giảng; hai, chính thức nói kệ làm cho đại chúng vui mừng. Văn kệ phân năm: Một, mười kệ đầu dựa theo Phật ca ngợi đức dụng sâu rộng; hai, từ “Phổ Hiền Bồ-tát…” trở xuống là bốn kệ trình bày về Bồ-tát Phổ Hiền khéo léo hòa nhập có thể lợi ích rộng rãi cho chúng sinh mọi loài; ba, từ “Vô lượng…” trở xuống là hai kệ suy ra công đức thuộc về Phật; bốn, từ “Nhất thiết sát độ…” trở xuống là hai kệ giải thích về ý Bồ-tát Phổ Hiền làm lợi ích mà công đức ấy thuộc về Phật; năm, có hai kệ kết luận về đức khuyến khích lắng nghe, hứa thuyết giảng ở tại lúc ấy.

Văn phần một là mười kệ phân bốn: Hai kệ đầu tổng quát ca ngợi; tiếp theo hai kệ ca ngợi công dụng của Phật; tiếp theo bốn kệ nêu ra chúng sinh giới và pháp khó suy nghĩ, lại có thể thâu nhiếp khắp nơi thúc đẩy tiến vào; tiếp theo hai kệ nêu ra lợi ích của pháp.

Văn phần hai là bốn kệ có hai: Hai kệ đầu là Phổ Hiền khéo léo hòa nhập, tiếp theo hai kệ trình bày công năng thù thắng lợi ích chúng sinh của Phổ Hiền. Phổ Nhãn là có đủ trí tự tại của năm nhãn cho nên là Phổ, lại có đủ mười nhãn, Lý-Lượng đều biết cho nên nói là Phổ mà thôi.

Tiếp theo thứ hai là chính thức nói rộng ra như văn, người có thể

nói ở các Hội khác nhau, chỉ hai phẩm A-tăng-kỳ và Tiểu Tướng là Phật tự thuyết, các phẩm còn lại do người khác thuyết. Dựa vào Đại Luận thì nói có năm: Một là Phật, hai là đệ tử, ba là thần tiên, bốn là chư thiên, năm là biến hóa. Đây là dựa vào thanh-danh-cú-vị đã nói ra. Nếu hướng về sự truyền trao thì bao gồm tình và phi tình. Lại có năm loại nói, như văn sau.

Dựa theo văn phân hai: Một, mở rộng ra Thể tướng thế giới tức là trả lời hai mươi mốt câu hỏi về quả đức trước đây; hai, từ “Nãi vãng quá khứ…” trở xuống là trả lời hai câu hỏi về nhân pháp trước đây. Văn phần một phân ba: Một, tổng quát trình bày về nghĩa của mười loại sự việc trang nghiêm như nhân duyên thế giới…; hai, từ “Nhĩ thời Phổ Hiền Bồ-tát dục phân biệt…” trở xuống là trình bày về tướng trạng nhân duyên tập khởi của thế giới hải này; ba, từ “Pháp giới bất khả hoại…” trở xuống là dùng kệ tụng về hai đoạn văn trên.

Hỏi: Vì sao phần căn bản quán về Hải nói về Trí, phần thuyết này bỏ Trí nói về Hải mà không trình bày đầy đủ, chỉ luận về thế giới hải là thế nào?

Đáp: Đây là vì người lập văn chỉ đạt được trí tín giải mà chưa đến nguồn cội của Hải. Vả lại, thế giới do trí đạt được, nói về Hải tức là trí. Lại bởi vì ở đây sơ lược trình bày biểu hiện cùng là tướng giải thích. Hơn nữa, ở đây nói bởi vì là tướng phương tiện, tức là trí. Điều này cần phải suy nghĩ.

Văn phần một phân hai: Một, nêu ra mười tên gọi; hai, riêng biệt giải thích. Văn tổng quát nêu ra mười tên gọi trang nghiêm phân bốn: Một, nêu ra số cùng dẫn chứng; hai, nêu ra mười tên gọi; ba, kết luận về Thể; bốn, dẫn ra các thế giới khác như vi trần thành tựu đầy đủ trang nghiêm.

Hai là riêng biệt giải thích, trong mười tên gọi thì một tên gọi đầu và một tên gọi sau nêu tên gọi mà không giải thích. Vì sao như vậy? Bởi vì nói gồm chung chín tên gọi khác, nay dựa theo không trình bày, muốn thành tựu thế giới Liên Hoa cho nên tóm lược không trình bày về hư hoại, cũng có thể thành tức là hoại. thông thường dựa theo ba Thừa thì Tịnh độ có bốn loại:

  1. Tánh.
  2. Báo.
  3. Sự.
  4. Hóa có thể biết.

Nếu dựa theo Nhất thừa của Bộ này thì chỉ có hai loại, đó là Thế

giới hải và quốc độ hải, hoặc là mười loại như Cù Di nói ở phần sau. Nay đem mười tên gọi này, so sánh mười tám tướng viên tịnh của Nhiếp Luận để đối chiếu phân rõ về giống-khác. Văn trong Nhiếp Luận thâu nhiếp trú xứ riêng biệt của Phật gồm có mười chín, trú xứ riêng biệt của Phật đã trình bày trong Đại Bảo Trùng Các, cho nên trong này tóm lược không có, tức là trú xứ riêng biệt của Nhiếp Luận. Nay ở đây phát khởi đầy đủ nhân duyên, thì nhân viên tịnh của Nhiếp Luận cũng gồm chung.

Thứ nhất sắc tướng tịnh và tam lượng viên tịnh, bởi vì kệ nói “Do nhiều thứ báu làm thành và không có giới hạn” cho nên biết.

Trong văn phân hai: Một, trường hàng; hai, kệ tụng, các kệ đều như vậy. Trường hàng phân bốn, có thể biết.

Ba, trong phần riêng biệt có tám:

  1. Thần lực Phật tức là thắng tiến lực, thâu nhiếp thành tựu tức là hậu trí của Phật.
  2. Lý duyên khởi như vậy.
  3. Là nhân đạt được.
  4. Cảm quả của hành nghiệp.
  5. Tất cả các hành thâu nhiếp thành tựu.
  6. Do cùng nhân mà đạt được vì chúng sinh chọn lấy cõi thâu nhiếp thành tựu.
  7. Là y báo của Phật.
  8. Do tất cả các nguyện mà cảm được.

Phần kệ có hai mươi kệ, văn có ba: Một kệ đầu là tổng quát, tiếp theo mười tám kệ là lấy mở rộng để hiển bày tóm lược, tiếp theo một kệ cuối cùng là kết luận.

Thứ hai trong trú có ba mươi kệ rưỡi: Một, tám kệ đầu trình bày về tướng của cõi; hai, hai mươi kệ mở rộng hiển bày về nghĩa của sự an trú; ba, có hai kệ rưỡi năm chữ hiển bày về tướng an trú của Nhân-đà-la.

Thứ ba trong kệ về hình dạng có ba: Một, ba kệ mở rộng hiển bày về hình dạng; hai, từ kệ bốn chữ trở xuống sáu tụng là nhân của cõi; ba, từ “Nhất thiết nghiệp hải…” trở xuống tám kệ rưỡi phân rõ về trú trì Nhân-đà-la.

Thứ tư trong Thể có mười kệ, lấy mở rộng để hiển bày tóm lược, có thể biết.

Thứ năm trong trang nghiêm có hai mươi kệ, cũng lấy mở rộng để hiển bày tóm lược, có thể biết.

Thứ sáu trong thanh tịnh có mười tám kệ, cũng lấy mở rộng để

hiển bày tóm lược, có thể biết.

Thứ bảy trong Phật xuất thế có hai mươi kệ, có hai: Bốn kệ đầu phân rõ về Phật xuất thế, tiếp theo là phần thứ hai mở rộng trình bày về lợi ích có thể biết.

Thứ tám là văn về kiếp số tóm lược không có tụng. Tiếp theo là phần thứ hai mở rộng nêu rõ về tướng trạng nhân duyên thành lập thế giới hải, trong văn có bốn: Một, phân rõ về ý Phổ Hiền trở lại phân biệt; hai, trình bày về nhân của Tịnh độ có ba, đó là Thời-Duyên-Hành…; ba, phân rõ về tác thành lẫn nhau; bốn, nơi thường thuyết pháp và nơi kết thúc thuộc về con người. Trong này nói mở rộng về tướng trạng của sự, còn lại lý-hạnh-giáo đều nói tóm lược.

Văn phần ba có ba: Một, trình bày về Hương thủy hải trên Phong luân phân rõ gốc ngọn tác thành lẫn nhau; hai, trên Hương thủy hải trở về sau lại duy trì tánh của thế giới, hiển bày về nghĩa trở lại thành tựu; ba, trong các Hương thủy hải ấy về sau lại duy trì tánh của bảy thế giới tánh như mười hai cõi Phật… hướng lên trên, trình bày về nghĩa của phạm vi.

Ngay trong phần một có bảy đoạn:

  1. Phong luân cùng địa luân nối thông là gốc.
  2. Bảo Vương địa.
  3. Từ “Hữu Chước-ca-la…” trở xuống trình bày có Bảo Vương ánh hiện thọ dụng như ý.
  4. Từ “Đại địa xứ…” trở xuống trình bày trên địa luân có Tiểu hương thủy hải….
  5. Trình bày Hương hà vây quanh Hương hải làm nhiều lợi ích;
  6. Trình bày trong sông có cây báu trang nghiêm.
  7. Có một phần trường hàng.

Mỗi một cảnh giới có vô lượng sự trang nghiêm, cũng có thể kết luận về phạm vi mà thôi. Các văn đều có hai: Một là trường hàng, hai là kệ tụng.

Thứ nhất trong phần bổn-mạt của phong luân có năm: 1- Gió; 2- Nước; 3- Hoa; 4- Thế giới Kim Cang; 5- Núi Kim Cang.

Văn về gió có ba, đó là một tổng quát, hai riêng biệt, ba kết luận.

Trong phần hai là riêng biệt có mười tầng gió mà thôi. Văn kệ có hai mươi kệ, chỉ trình bày về tướng Dụng, tóm lược không phân rõ về tướng duy trì, văn có năm: Một, có bảy kệ phân rõ về nhân trú trì trang nghiêm, cũng tụng về văn trước; tiếp theo năm kệ trình bày về đức của Phật phủ khắp mười phương; tiếp theo một kệ trình bày về cõi này cùng tận Thể của lưới giăng Nhân-đà-la; tiếp theo sáu kệ trình bày về Phật sự tùy tâm Đại dụng tự tại; tiếp theo một kệ phân rõ có đủ trí hạnh Phổ Hiền được thấy nghe về cõi này.

Thứ hai là văn về đất Kim Cang có năm: Một, đất bằng vật báu; hai, biển trên đất; ba, các vật báu; bốn, đất Kim Cang sinh ra vật báu; năm, ánh sáng. Trong tụng có mười bảy tụng: Chín tụng đầu là năm câu trên, bởi vì lực của Phật; tiếp theo tám tụng là Pháp luân và Phật khắp nơi mười phương, tức là công dụng của đất. Trong chín tụng ba tụng đầu là đất ngọc tròn phía trên, tiếp theo một tụng là đất Kim Cang, tiếp theo một tụng là vật báu trang nghiêm, tiếp theo hai tụng là biển, tiếp theo hai tụng là ánh sáng. Chước-ca-la, Trung Hoa nói là Luân. Trong tám tụng phân hai, bốn tụng đầu là Thể của thân nghiệp, tiếp theo bốn tụng là phân rõ về Dụng.

Thứ ba trong Ma-ni bảo vương ảnh hiện có năm câu, trong tụng có hai mươi kệ, ba tụng đầu dựa vào đất để trình bày về sự ảnh hiện trong suốt, tiếp theo năm tụng về hoa-bốn tụng về mây, tiếp theo hai tụng về cõi trang nghiêm, tiếp theo bốn tụng trình bày về Bồ-tát mười phương thường đến thế giới này không ngớt, còn lại trình bày về tu hạnh Phổ Hiền được tiến vào vô biên cõi Phật.

Thứ tư trong phần trình bày về Hương hải trên địa luân, một là trong phần tổng quát có mười bốn câu, hai là phần tụng riêng biệt có hai mươi tụng về làm nhiều Phật sự như vật báu-hương hoa… thượng diệu.

Thứ năm trong sông có hai: Một là trường hàng, hai là kệ tụng. Trường hàng có bốn có thể biết. Tụng có hai mươi, mười hai tụng đầu là Thể của sông và ánh sáng, tiếp theo tám tụng là mở rộng về tự tại viên mãn của Phật.

Thứ sáu là văn về cây báu có năm có thể biết. Tụng có bốn kệ có hai, hai kệ đầu trình bày về Quả hành tự tại, tiếp theo hai kệ trình bày về Nhân hành tự tại.

Thứ bảy từ “Đương tri…” trở xuống trình bày về thế giới thanh tịnh trang nghiêm và kết luận.

Phần thứ hai là do phong luân duy trì trên Hương hải, riêng biệt duy trì an trú trong tánh thế giới của cõi Phật không thể nói, trong này có hai: Một là trường hàng, hai là kệ tụng. Văn phần một phân ba: Một, tổng quát trình bày về cõi Phật; hai, từ “Hoặc hữu…” trở xuống riêng biệt trình bày về an trú; ba, từ “Hoặc Tu-di…” trở xuống trình bày về hình thể của thế giới. Phần hai là kệ tụng có hai mươi kệ, tụng về văn thứ hai trong trường hàng trước đây: Một tụng đầu về tánh tướng của Tịnh độ, tiếp theo ba tụng sơ lược tụng về an trú, tiếp theo năm tụng về hình tướng trang nghiêm, tiếp theo hai tụng trình bày dựa theo nghiệp sâu cạn hiển bày về cõi hơn-kém, tiếp theo ba tụng tổng quát hiển bày về hơn-kém, làm phương tiện tiến sâu vào, tiếp theo hai tụng phân rõ về thành tựu, tiếp theo bốn tụng trình bày về công lực phương tiện có thể thành tựu.

Phần thứ ba trình bày về hướng lên trên duy trì thế giới, văn có bốn câu: Một, nhắc lại Hương hải-Hương hà…trước đây và nêu ra tên gọi; hai, trình bày về hoa sen đã xuất hiện; ba, trình bày về tánh của bảy thế giới-mười hai cõi Phật do hoa đã duy trì; bốn, từ “Như thị…” trở xuống là kết luận giống như phương khác, phần này có hai có thể biết.

Nếu dựa vào trong văn của Cù Di sau này, thì trừ ra tam thiên giới còn có mười thế giới:

1) Tánh. 2) Hải. 3) Luân. 4) Viên mãn. 5) Phân biệt. 6) Toàn. 7) Chuyển. 8) Liên hoa. 9) Tu di. 10) Tướng.

Vả lại, nghĩa nói mười cõi này làm đầu lẫn nhau, chín cõi còn lại trang nghiêm thành một trăm câu. Nay thế giới này, hoặc là hoa sen, hoặc là biển, còn lại là cùng trang nghiêm, có thể theo đó suy nghĩ. Tướng thành tựu của thế giới tuy có rất nhiều, nhưng bởi vì nghĩa khó hiểu, vì sao biết vậy? Bởi vì dựa vào văn kinh này lại có tên gọi của cõi nhưng không biết là gì. Nay dựa vào một nghĩa, cõi này không phải là các tướng như trên, bởi vì nói cõi Phật không có các tướng cao thấp riêng biệt trên đây, dựa vào Phật chọn lấy nơi gọi là Sát, gọi là Độ, thì không có cao thấp sai khác. Nếu dựa theo chúng sinh chọn lấy Độ, thì có các tướng cao thấp. Văn nói “Nơi thường chuyển pháp luân” là dựa theo chúng sinh mà nói. Nếu dựa vào văn giải thích này thì có thể tìm được chút ít.

Lại trong quyển thứ 50 trong Đại Luận nói: “Lại nữa, tam thiên đại thiên thế giới gọi là một thế giới, cùng lúc khởi lên, cùng lúc diệt đi. Giống như vậy, thế giới mười phương như số cát sông Hằng là một thế

90 giới Phật, như vậy một thế giới Phật có nhiều thế giới như số cát sông Hằng là một thế giới hải của Phật, như vậy thế giới hải của Phật nhiều như số cát sông Hằng ở mười phương là một thế giới chủng của Phật, như vậy vô lượng thế giới chủng ở mười phương thì gọi là một thế giới Phật, ở trong tất cả thế giới chọn lấy phần như vậy thì gọi là phạm vi do

một Đức Phật hóa độ (Đây là dựa theo Tam thừa mà nói).” Lại nữa, mười loại thế giới trong kinh Đại Bổn:

  1. Thế giới tánh, là nghĩa cùng loại.
  2. Thế giới hải, là nghĩa nhiều loại sắc, lại là nghĩa sâu rộng.
  3. Thế giới luân, bởi vì nghĩa tác dụng bằng nhau.
  4. Thế giới viên mãn, bởi vì nghĩa có đủ đức.
  5. Thế giới phân biệt, là nghĩa không xen tạp.
  6. Thế giới toàn, là nghĩa xoay thẳng.
  7. Thế giới chuyển, là nghĩa chuyển nghiêng.
  8. Thế giới liên hoa, là nghĩa phát khởi.
  9. Thế giới Tu-di, là nghĩa thắng diệu.
  10. Thế giới tướng, là nghĩa hình dạng.

Vì sao nói mười? Bởi vì muốn hiển bày về vô lượng.

Hỏi: Vì sao trong một thấy có đủ tất cả các cõi?

Đáp: Vì người tu hành ở Báo độ của mình, tất cả đều không giống nhau. Phật thâu nhiếp chúng sinh mà hiện bày thế giới và cõi Phật đều tương tự Báo độ của họ để dẫn dắt các chúng sinh, vẫn thâu nhiếp tất cả cảnh Phật cho nên khiến như vậy.

Lại hỏi: Vì sao Đại Luận trình bày về thế giới hải không giống với kinh này?

Đáp: Đại Luận vì người ba Thừa mà phương tiện dần dần giải thích cho nên không giống nhau.

Thứ ba là phần tụng về văn của hai đoạn lớn trên đây, có bảy mươi kệ, toàn bộ phân làm chín: Hai mươi kệ đầu là Thế giới hải thành hoại trước đây, tiếp theo hai kệ là Trang nghiêm và thế giới an trú trước đây, tiếp theo mười tám kệ là Thế giới thanh tịnh, tiếp theo năm kệ là Thể của thế giới, tiếp theo năm kệ là nhân duyên thế giới phát khởi đầy đủ, tiếp theo sáu kệ là hình dạng của thế giới, tiếp theo hai kệ là kiếp của thế giới, tiếp theo năm kệ là thế giới Phật xuất hiện, bảy kệ còn lại là nói về thế giới.

Ngay trong hai mươi kệ đầu, mười một kệ đầu là nói về pháp, tiếp theo chín kệ là nói về dụ. Vả lại, phần kết này đối với thế giới của căn nhiễm đan xen mà kết luận, nguyên cớ là vì muốn dẫn dắt tín tâm dưới thấp cho nên hiển bày phương tiện tiến vào pháp phía trên. Vì vậy dựa theo đây, hai văn lần lượt phân rõ về nhân duyên đạt được quả để trả lời hai câu hỏi về sự tu hành của tất cả Bồ-tát trong hai mươi ba câu hỏi trước đây, luận về nhân của cõi thì như kinh có thể biết.

Trong văn có bốn: Một, nêu ra Phật và cõi của thời quá khứ là phát khởi nhân duyên; hai, từ “Phật tử bỉ Diệm Quang thành trung…” trở xuống là phân rõ nhờ vào người khác, tức là Đồng tử; ba, trình bày về gặp Phật đạt được định, tức là Chánh nhân của phần mình; bốn, từ “Bỉ Phật diệt hậu…” trở xuống trình bày lại gặp Phật đạt được định, có hai có thể biết, tức là nhân thắng tiến. Văn này làm sáng tỏ vốn có thành tựu đầy đủ về nhân môn lý-giáo-hạnh-sự, nhân quả ba đời, tự-tha chủbạn, người-pháp, nhân duyên, bổn sanh, thọ ký, pháp môn Phổ Hiền…, có thể dựa theo trước chọn lấy.

Hỏi: Những loại này vì sao không có kệ trùng tụng? Đáp: Tất cả tụng có hai, một là ít thâu nhiếp nhiều nghĩa, hai là khác thời vì hàng hậu lai. Những loại này nếu là tụng thì không có hai nghĩa trên, điều này có thể suy nghĩ.

Văn phần đầu phân bốn: Một, trình bày về kiếp số lâu xa; hai, từ “Nhĩ thời hữu thế giới…” trở xuống trình bày về xứ sở cõi nước; ba, từ “Thời bỉ lâm trung…” trở xuống trình bày có tòa sen ở đạo tràng; bốn, từ “Quá bách tuế…” trở xuống trình bày về Phật xuất thế.

Phần ba gặp Phật đạt được định có bốn: Một, từ “Thời bỉ Đồng tử…” trở xuống trình bày đạt được định có hai có thể biết; hai, từ “Thời Phổ Trang Nghiêm Đồng tử…” trở xuống là dùng định lực nói kệ; ba, từ “Nhĩ thời Thiện Tuệ vương…” trở xuống trình bày vua nghe kệ hoan hỷ lại tiếp theo nói kệ; bốn, từ “Nhĩ thời Thiện Tuệ vương…” trở xuống trình bày cùng khuyến khích đại chúng đi đến chỗ Phật.

Văn kệ của Đồng Tử có ba: Một, sinh khởi; hai, chính thức tụng kệ; ba, trình bày về phạm vi của âm thanh. Trong kệ, bốn kệ đầu ca ngợi khó gặp được Phật, tiếp theo ba kệ ca ngợi ánh sáng Từ Bi của Phật lợi ích thế gian, tiếp theo một kệ khuyến khích chúng đến chỗ Phật cúng dường.

Trong chín kệ của vua có hai: Một, sinh khởi; hai, chính thức tụng kệ. Trong kệ, một kệ đầu tổng quát khuyến khích đại chúng đi đến chỗ Phật, tiếp theo bảy kệ nhắc nhủ khiến chuẩn bị nghiêp túc vật dụng cúng dường Phật, tiếp theo một kệ nhắc nhủ để cùng với quyến thuộc cúng dường gặp Phật.

Phần bốn đi đến chỗ Phật, văn phân bốn: Một, đi đến chỗ Phật có hai có thể biết; hai, từ “Nhĩ thời Như Lai…” trở xuống là Phật thuyết kinh cho nghe; ba, từ “Nhĩ thời Đồng tử…” trở xuống trình bày về được lợi ích, tức là sự thắng tiến trong phần mình; bốn, từ “Nhĩ thời công đức…” trở xuống phân rõ về thọ mạng của Phật gợi mở văn nói sau này.

Ba là nghe kinh đạt được định được lợi ích, văn phân bốn: Một, trình bày về đạt được định; hai, Đồng tử nói kệ ca ngợi khiến cho đại chúng được lợi ích; ba, từ “Thuyết thị kệ thời…” trở xuống chính thức trình bày về tướng lợi ích; bốn, Phật nói kệ ấn chứng thành tựu khiến cho tâm của đại chúng phát tâm kiên cố.

Ngay trong mười kệ của Đồng tử, hai kệ đầu ca ngợi Pháp thân Phật, tiếp theo bảy kệ trình bày về nguyện hạnh tu tập đã lâu của Phật nay khiến cho đại chúng được thấy, cuối cùng một kệ nêu ra công đức của Phật khuyến khích Bồ tát tu hành.

Văn kệ của Phật phân bốn: Ba kệ đầu khen ngợi Đồng tử có năng lực dũng mãnh; tiếp theo bốn kệ khen ngợi năng lực đại tinh tiến của Đồng tử Phổ Trang Nghiêm; tiếp theo một kệ là thọ ký, nhờ cúng dường Phật cho nên được thành Phật; tiếp theo một kệ là dẫn chứng, khuyến khích khiến cho dũng mãnh đối với tất cả các thế giới.

Trong này nhân đạt được định là phần vị lúc ấy, Đồng tử lần thứ nhất gặp Phật đang ở Thập Tín đầy đủ tâm của phần mình, lần thứ hai nghe pháp đang ở Thập Tín đầy đủ tâm thắng tiến, lần thứ ba gặp Phật đang ở phần vị Giải bắt đầu tâm của phần mình, lần thứ tư nghe pháp đang ở phần vị Giải bắt đầu tâm tăng thượng. Vì sao biết như vậy? Bởi vì Đồng tử đã đạt được Tam-muội, dùng điều này so sánh các phần vị trên dưới trong kinh văn, vì vậy có thể biết mà thôi. Phần này tóm lược không có kệ. Vì sao cuối Hội không trình bày về đạt được lợi ích, là có hai ý: Một, kinh này tổng quát hiển bày về Thể pháp luân lúc Phật mới thành đạo, chỉ biểu hiện về Phật có pháp lợi ích vào thời gian sau, chứ không lập tức làm lợi ích; hai, như ánh sáng mặt trời mới mọc chiếu rọi trên đỉnh núi cao, tám Hội này theo thứ tự lợi ích cho Bồ-tát khiến cho họ thắng tiến, tức là lợi ích. Bởi vì không có căn bậc Trung-Hạ cho nên không phân rõ riêng biệt về tướng lợi ích mà thôi. Hội thứ nhất xong.

Phẩm 3: NHƯ LAI DANH HIỆU

(Hội thứ hai ở Phổ Quang Đường)

Có bốn:

  1. Giải thích tên gọi.
  2. Ý đưa ra.
  3. Tông thú.
  4. Phân văn giải thích.

1. Giải thích tên gọi có hai: Một, tên gọi nơi chốn, Phổ là đức phủ khắp, Quang là ánh sáng trí tuệ, cũng có thể là Quang Phổ; hai, tên gọi của phẩm, Danh tức là tên gọi chung, Hiệu là tên hiệu riêng.

2. Ý đưa ra thì có hai ý: Một, ý đưa ra Hội; hai, ý đưa ra Phẩm. Vì sao đưa ra Hội? Bởi vì trước nêu ra Tịnh độ là cảnh giới của Tín, tiếp theo phân rõ về tâm có thể Tín. Đưa ra ý Phẩm, bởi vì trước phân rõ về cõi nương tựa, tiếp theo tên gọi của người đứng đầu trong cõi.

3. Thể của tông phân biệt có hai: Một, dựa theo người; hai, dựa theo pháp. Người là Hóa chủ và các vị giúp đỡ giáo hóa đều có ThểTướng-Dụng, như văn nên biết, nhưng giới hạn trong Hội này. Hai là dựa theo pháp đưa ra Thể, đó là hành pháp Thập Tín, sau sẽ phân biệt. Phẩm Danh Hiệu lấy tướng tự tại-đức Bi để hóa độ làm Tông, cũng có thể là cõi nước Phật làm Tông.

4. Giải thích văn: Theo Luật sư Đại Quang nói: Hội trước, Bồ-tát Phổ Hiền nhờ vào uy lực của Phật nói về y quả của Tịnh độ, từ đây xuống dưới trình bày về nhân hạnh. Ý này thuận theo Hội mà phân định. Đây là Hội trước mở rộng về quả mà tóm lược về nhân, Hội này mở rộng về nhân mà tóm lược về quả cho nên như vậy.

Hỏi: Vì sao nhân và quả cùng chung một Hội?

Đáp: Tính về hành cần phải khác biệt, nay chỉ vì hiển bày pháp dựa vào người mở rộng, cho nên cùng chung một Hội không phân biệt. Ngay trong Chánh báo ở ba phẩm trước, thứ nhất phẩm Danh Hiệu trình bày về thân nghiệp của Phật, thứ hai phẩm Tứ Đế là khẩu nghiệp của Phật, thứ ba phẩm Quang Minh Giác phân rõ về ý nghiệp của Phật. Nhưng cũng có thể thứ nhất phẩm Danh Hiệu hiển bày về cõi để sinh khởi niềm tin, thứ hai phẩm Tứ Đế làm sáng tỏ pháp là quí báu, thứ ba phẩm Quang Minh Giác hiển bày về pháp càng vi tế làm thành phép tắc cho đời sau.

Ngay phẩm Danh Hiệu toàn bộ có hai: Một, phân rõ về Tựa của Hội này; hai, từ “Thị thời Văn Thù Sư Lợi…” trở xuống trình bày về chính thức tuyên thuyết. Văn phần Tựa phân bốn: Một, trình bày về trú xứ và đức của Phật; hai, từ “Dữ thập Phật quốc độ…” trở xuống phân rõ chúng sinh được giáo hóa và các vị giúp đỡ giáo hóa; ba, từ “Chư Bồtát tác thị niệm…” trở xuống trình bày về muốn thưa thỉnh; bốn, từ “Nhĩ thời Thế Tôn…” trở xuống phân rõ quy tụ chúng mới ở phương khác để phát khởi.

Nay dựa theo phần Trường hàng để xác định. Vì sao? Bởi vì phần Trường hàng phân thành tám:

  1. Nêu ra nơi chốn và Hóa chủ đồng thời ca ngợi đức của Phật là trình bày về nhân duyên hiển bày pháp.
  2. Trình bày về chúng sinh được giáo hóa.
  3. Trình bày rõ ràng về sự nghi ngờ.
  4. Phân rõ về quy tụ chúng mới.
  5. Từ “Văn Thù thán viết khoái thay…” trở xuống là ca ngợi sự việc giáo hóa rất sâu xa thành tựu cảnh giới khó nghĩ bàn;
  6. Từ phẩm Tứ Đế trở xuống là giáo pháp rất sâu xa-lời kỳ diệu thiết lập phép tắc.
  7. Từ phẩm Quang Minh Giác trở xuống là nhận lời thuyết giảng phương tiện hiển bày về pháp dần dần làm sáng tỏ mức độ cạn sâu của pháp.
  8. Từ phẩm Minh Nạn trở xuống chính thức trình bày nghi thức thực hành phân rõ về tướng trạng sâu cạn của pháp. Vì sao cây và nhà đều nói? Bởi vì nhà này ở phía Nam của cây cùng chung nơi chốn, các qủy thần rồng vì Phật mà làm cho nên như vậy.

Ngay phần một ca ngợi đức, văn có hai: Một, phân rõ về chứng tánh trình bày về Tự lợi; hai, từ “Chí vô ngại thú…” trở xuống là phân rõ đức Lợi tha. Tự lợi có năm câu có thể biết, Lợi tha có năm câu có thể biết.

Phần hai nêu ra chúng được giáo hóa, trong này có bốn: Một, chọn lấy Đại khác Tiểu; hai, chọn lấy trước khác sau; ba, chọn lấy mới khác cũ; bốn, ca ngợi đức. Ngay văn ca ngợi đức có mười phân hai: Một, nêu ra hai chương môn, hai chương môn có tám câu, bốn câu so sánh một môn trước; hai, hai lợi ích về tự-tha.

Phần ba là lúc ấy đại chúng thưa thỉnh, văn có bốn mươi bốn câu hỏi, cho nên Hội này hỏi chung về phần vị trên và quả đức. Hội này là bắt đầu khởi hạnh đồng thời lại hướng về Hóa chủ, văn tiếp theo cho nên như vậy. Cũng có thể ở đây hỏi về cõi Phật, chứ không phải là thế giới hải, có thể suy nghĩ điều đó. Trong phần hỏi phân ba: Một, mười câu hỏi phân rõ về quả ba luân của Pháp thân, tức là cảnh giới phát sinh niềm tin, tức là pháp của Phật trong thời gian trước, tức là trả lời ở Hội này; hai, từ “Khai thị…” trở xuống có hai mươi câu hỏi phân rõ về pháp của Phật trong thời gian giữa, đến phẩm Bồ-tát Trú Xứ trở đi mới trả lời; ba, từ “Phật vô thượng…” trở xuống có mười bốn câu hỏi phân rõ về pháp của Phật ở thời gian sau, hết phẩm Tiểu Tướng trở đi mới trả lời.

Pháp sư Đại Quang chỉ đưa ra ba mươi ba câu hỏi, tức là hợp lại toàn bộ mười câu như tùy hỷ… làm một câu hỏi, điều này rất thuận lợi.

Trong thời gian trước, năm câu hỏi đầu trả lời ở phẩm Danh Hiệu, tiếp theo hai câu là trả lời ở phẩm Tứ Đế, tiếp theo một câu là trả lời ở phẩm Quang Minh Giác, tiếp theo hai câu là tùy cõi Phật khởi lên… thì trả lời ở ba phẩm như phẩm Minh Nạn…, nêu rõ thành Chánh Giác cũng trả lời ở phẩm Quang Minh Giác. Phẩm Hiền Thủ cũng có tướng trả lời, cũng có thể đến hết phẩm Tánh Khởi trở đi mới trả lời.

Trong thời gian giữa, ba câu đầu và câu thứ năm hỏi về pháp của phần vị, câu thứ tư từ mười Tạng mười Nguyện trở xuống có năm câu hỏi về pháp thực hành và pháp của phần vị có thể biết, mười Nguyện mười Tự tại… trả lời từ phẩm Thăng Đao Lợi Thiên đến hết phẩm Thập Địa, tiếp theo mười bốn câu về mười Định… trả lời ở các phẩm từ Thập Minh đến hết phẩm Bồ-tát Trú Xứ.

Trong mười ba câu hỏi thời gian sau, trả lời ở các phẩm từ Phật Bất Tư Nghị đến hết phẩm Tiểu Tướng, mười Nguyện trả lời ở phẩm Thập Minh, mười Tự tại trở xuống trả lời ở phẩm Thập Vô Tận Tạng, mười Đảnh không thấy trả lời riêng biệt, phẩm Thập Nhẫn trả lời về mười Định này, Định tức là Nhẫn. Đây là do phẩm phân chia cho nên như vậy, nếu gồm chung thì đối với văn nên biết.

Phần bốn là quy tụ chúng mới, văn có hai: Một, chủ động quy tụ, câu này văn giới hạn mà nghĩa gồm chung Hội sau; hai, phân rõ về chúng quy tụ, tức là như trạng thái ấy, một là như trạng thái của căn khí, hai là như cảnh tượng của căn khí đã hướng về. Trạng thái là duyên quy tụ tương tự, hình ảnh hiện rõ. Tức là như trạng thái ấy hiện bày sức thần thông, chính là dùng Thể vô cùng tròn đầy của quả đức hòa hợp rất thuận với sâu xa, không có gì ngoài duyên, tất cả đều có mặt, có thể tùy theo hành riêng biệt, phần vị sai khác, hiển bày về Hội tương ưng. Vì lẽ đó sau khi phóng ánh sáng ở phẩm Quang Minh Giác trở lại trình bày, đây là bởi vì một sự việc biểu hiện hai pháp, cho nên phân văn hai nơi: Một, vì quy tụ chúng; hai, vì dựa vào pháp sâu cạn.

Hai là phân rõ về chúng quy tụ. Cõi cùng sắc là biểu hiện công

đức hiển bày bên ngoài. Phật cùng trí là căn bản hiểu rõ bên trong. Bồ-tát cùng đứng đầu là bắt đầu tiến hành. Tòa ngồi giống như hoa sen là sắp thành tựu quả thứ nhất. Vì lẽ đó quy tụ các chúng trước tiên từ phương Đông, là bởi vì hiển bày bắt đầu mở mang sáng tỏ, bắt đầu sinh trưởng.

Phần hai là văn chính thức tuyên thuyết, nếu phần Trường hàng thì đây chính là phần thứ năm ca ngợi Hóa chủ sâu xa. Sở dĩ Hội này không nhập định, là bởi vì trình bày về Thể pháp không trú, tùy theo căn khí không giống nhau, nếu đối với căn khí thù thắng, pháp sâu xa thì cần phải suy xét. Nay sự hiểu biết của Thập Tín yếu kém không biểu hiện về pháp sâu xa, gia hộ khuyến khích… theo đây có thể biết. Sở dĩ Văn Thù thuyết ba phẩm là bởi vì trí diệu tuệ bình đẳng an trú trong cảnh thù thắng thì mới hiển bày pháp. Sở dĩ Văn Thù thuyết phẩm này là bởi vì diệu tuệ khéo léo thông đạt về cõi Phật. Văn này có bốn: Một, hai câu ca ngợi chúng hy hữu có thể biết; hai, từ “Chư Phật tử…” trở xuống là sơ lược nhắc lại pháp đã hỏi để trình bày về không thể nghĩ bàn; ba, từ “Hà dĩ cố…” trở xuống là nêu ra tên gọi mở rộng giải thích; bốn, từ “Thị giai Như Lai…” trở xuống là kết thúc ca ngợi về lợi ích thâu nhiếp giáo hóa.

Phần hai có mười câu có thể biết. Trong văn phần ba, đầu là tổng quát, sau là riêng biệt. Trong phần tổng quát phân bốn: Một, vặn hỏi; hai, trả lời; ba, lại hỏi; bốn, lại trả lời. Trong này một câu đầu là tổng quát, mười sáu câu còn lại là riêng biệt có thể biết. Từ “Chư Tứ Thiên…” trở xuống nêu ra mười sáu câu, tướng căn cơ đã giáo hóa không giống nhau, chứng thành-danh hiệu đều khác nhau, những tên gọi này là riêng biệt chứ không phải là gồm chung, bởi vì trong này chính thức nêu ra giải thích hiển bày về Tịnh độ. Hai, từ “Hà dĩ cố…” trong văn mở rộng phân hai: Một, vặn hỏi; hai, trả lời. Văn trả lời phân ba: Một, trình bày về danh hiệu Tam thiên Đại thiên giới này không giống nhau; hai, từ “Hữu mật huấn…” trở xuống trình bày về Tam thiên giới khác; ba, từ “Như thị Đông phương…” trở xuống là mở rộng giải thích danh hiệu của tất cả cõi nước.

Ở đây đã trình bày tên gọi của một cõi Phật, vì sao chọn lấy trên dưới? Đây là trên dưới cũng không có phương hướng, chiều ngang cũng không có ranh giới, bởi vì hiển bày về giáo viên mãn. Ý này như văn mà thôi.

Phẩm 4: TỨ ĐẾ

Bốn môn giống như trước.

1. Phân rõ tên gọi, Tứ là số đếm, Đế là hữu tác-vô tác vốn là Thánh đế chân thật.

2. Ý đưa ra. Vì sao đưa ra? Bởi vì trước đây ca ngợi về Hóa chủ, nay ca ngợi về giáo pháp đã thuyết ra. Vì sao chỉ trình bày ở Hội này? Bởi vì đây là bắt đầu phát khởi giáo hóa, cho nên tổng quát ca ngợi nhân pháp sâu xa thù thắng.

3. Phân rõ về Tông, đây là ca ngợi giáo pháp chân thật vô cùng sâu xa làm Tông.

4. Phân văn giải thích, văn này phân ba:

a) Sơ lược nêu ra tên gọi ba ngàn Đế ở phương này;

b) Nêu ra ba ngàn Tứ đế trong mười phương;

c) Từ “Phật tử như thử Ta-bà…” trở xuống mở rộng phân rõ về vô biên thế giới. Tất cả Tứ đế có hai: Hữu tác và Vô tác. Văn trong này ý chung chỉ là Vô tác, chân thật không hư dối.

Hỏi: Vì sao không dựa vào một Đế mà dựa vào bốn Đế để thiết lập phép tắc?

Đáp: Bởi vì tất cả làm cảnh thấy nghe cho người ba Thừa thành tựu duyên nhập đạo sau khi phát khởi niềm tin. Nhưng cũng có thể là pháp này gồm chung Hữu tác và Vô tác, bởi vì là cọng giáo của Nhất thừa, Nhất thừa Hữu tác tức là Không, Nhất thừa Vô tác không phải Không. Điều này đáng suy nghĩ. Sở dĩ Văn Thù thuyết ra là bởi vì diệu tuệ khéo léo thông đạt về thật-hư. Nghĩa về Tứ đế xong.

Phẩm 5: QUANG MINH GIÁC

Bốn môn giống như trước.

1. Phân rõ về tên gọi, Như Lai tức là Hóa chủ, Quang là Thể của trí, Minh là Dụng, Giác là mở ra rõ ràng đối với duyên mà thôi, đồng thời giác ngộ cho các Bồ-tát.

2. Ý đưa ra. Vì sao đưa ra? Bởi vì cần phải nói ra, quy tụ chúng có duyên và hiển bày về phạm vi của pháp.

3. Phân rõ về Tông, Tông là quy tụ chúng cùng pháp, cũng hiển bày về pháp thêm sâu xa, nhân pháp và Thể-Tướng-Dụng chính xác.

4. Phân văn giải thích, ba phẩm trên đây cùng nối thông xuống Hội thứ sáu về sau, thêm sâu xa có khác mà văn giới hạn nhưng nghĩa nối thông, nên suy nghĩ chính xác.

Văn này có mười, văn phần một phân sáu: Một, hai chân Phật phát ra ánh sáng; hai, trình bày về nơi ánh sáng đã chiếu đến, đó là pháp vốn có sinh ra nhân quả của ba ngàn thế giới này đều có hai văn; ba, kết luận về phạm vi; bốn, do thần lực của Phật cho nên thấy các Bồ tát đến quy tụ có hai, đầu là rổng quát, sau là riêng biệt, phần riêng biệt có ba văn là Bồ-tát-cõi và Phật; năm, Văn Thù nói kệ ca ngợi Nhất thừa của Phật, pháp Tiểu thừa-ba Thừa là phương tiện để tin pháp Nhất thừa; sáu, từ “Như thử xứ…” trở xuống là kết luận tương tự các phương khác. Chín phần còn lại giống như vậy, tóm lược không có phần văn kết luận. Vì vậy phân tích về ánh sáng phát ra và ẩn kín ở các Hội giống-khác, thì Hội thứ nhất phát ra ánh sáng có mười ý như văn, tức là bắt đầu chứng pháp. Đầu phẩm Danh Hiệu là thần lực quy tụ chúng hiển bày về tướng của phần vị ấy, đầu phẩm Quang Minh Giác là ánh sáng tướng vòng tròn hiển bày phạm vi của pháp sở y ở phần vị Tín. Tiếp theo thần lực của Phật quy tụ chúng hiển bày về đức đã thành tựu trong phần vị ấy, trong kinh này nói thần lực, không hẳn là phát ra ánh sáng. Tiếp theo Bồ-tát nói kệ, tức là trình bày về phạm vi của pháp lý-sự đã hiểu trong Hội này, pháp này dựa vào phần vị thành tựu mà thôi.

Hỏi: Nơi này hiển bày phần vị quy tụ chúng, vì sao trình bày ở phẩm khác, bốn Hội sau không như vậy?

Đáp: Bởi vì muốn hiển bày do thâu nhiếp giáo hóa mà dựa vào cõi Phật, và hiển bày về giáo nghĩa chân thật tiến vào phần vị ấy, cùng làm phép tắc cho phần vị sau, cho nên như vậy. Chân Phật phát ra ánh sáng tướng vòng tròn bởi vì nêu rõ Thập Tín là hạnh đầy đủ trọn vẹn. Trong này phạm vi phát ra ánh sáng có hai mươi lăm lần, chín lần đầu nêu ra riêng biệt, còn lại là tổng kết, văn tướng như kinh.

Văn thứ hai phân rõ về ánh sáng chiếu soi hiện rõ có thể biết.

Trong văn thứ tư sở dĩ Văn Thù ở trước, Hiền Thủ ở sau là bởi vì biểu thị trí là trước mà phước sau, lại bởi vì trình bày trước là trí hànhsau là phần vị. Văn Thù ở Trung Hoa nói là Diệu Đức, là Diệu Tuệ Hạnh. Lại trong này Quang Minh Giác ở cùng một lúc, mà có thể thấy chúng xa gần riêng biệt. Lại các phương vận dụng quy tụ chỉ là một người mà khiến cho chúng thấy khác nhau, chưa hẳn là có nhiều. Lại chúng các phương qua lại chỉ thấy chúng quy tụ nơi này, chưa hẳn là thấy chúng phương khác qua lại. Lại ánh sáng các phương và hiện rõ chúng ở tất cả mười phương đều thấy ở chính giữa, không thấy ở một bên, đây là bởi vì pháp của Báo thân thâu nhiếp giáo hóa ở cõi vốn có. Lại cũng ở trước căn cơ tự biến hiện nơi ấy, lấy tự tâm làm căn bản, cho nên các việc tùy tâm làm hóa hiện chính thức thì không có tướng riêng biệt này, điều này đáng suy nghĩ.

Văn kệ tụng thứ năm là lời Bồ-tát Văn Thù nói ra, mà ý biểu thị về mười Bồ-tát khác. Sở dĩ Bồ-tát Văn Thù nói là bởi vì nêu rõ pháp từ Tuệ sinh ra, kệ nói tổng quát trình bày về Bát-nhã đã chứng, chân tánh giống như hành của Địa thứ nhất, nhưng cũng bởi vì có thể cùng từ từ tăng nhiều, cho nên không có thể biểu thị riêng về Thập địa và tụng của mười Bồ-tát. Vả lại, mười tên gọi cũng hiển bày về số đầy đủ, dần dần nhiều lên và xa hơn là hiển bày về pháp dần dần sâu hơn mà thôi.

Toàn phần có ba: Một, một kệ phân rõ về chấp tướng không hợp với chân pháp; hai, có tám kệ phân rõ về lìa chấp hợp với thật pháp; ba, một kệ ca ngợi về hiểu biết có công năng thù thắng. Trong tám kệ: Ba kệ đầu phân rõ về phân biệt Vô tánh, tiếp theo ba kệ phân rõ dựa vào nơi khác không sinh, tiếp theo hai kệ là chân thật lìa tướng, cũng có thể tám hành cùng quán dựa vào một cảnh. Nhưng nay phân rõ về tướng tăng lên, dựa theo nhân quả đều có hai loại, một là chiều dọc, hai là chiều ngang. Nhân chiều dọc là dựa theo pháp trong sáng, chiều ngang tức là biết pháp rộng hẹp; quả chiều dọc tức là phần mình chứ không phải là phần khác, quả chiều ngang thì nơi đạt được nhiều ít. Nhưng về sau các chúng quy tụ ca ngợi đức đều là ca ngợi phạm vi của phần vị lúc ấy, đã thành tựu thấy biết về sau có thể dựa theo đó.

Thứ hai là văn kệ của Bồ-tát Giác Thủ, từ đây xuống dưới chín kệ tăng lên là khác nhau mà thôi. Toàn bộ trình bày về biết rõ thiện ác…, Từ Bi hóa độ lợi ích chúng sinh, giống như giới hành của Địa thứ hai. Văn phân làm hai: Một, sáu kệ trình bày về Phật giác ngộ chúng sinh khiến cho lìa hai bên; hai, có bốn kệ trình bày về lợi ích Bồ-tát giống như Phật.

Thứ ba là kệ của Bồ-tát Tài Thủ tổng quát phân rõ về pháp tài bình đẳng giúp đỡ thành tựu lợi ích cho vật, giống như Địa thứ ba, sau trí dùng giáo pháp lưu truyền lợi ích chúng sinh. Trong văn một kệ đầu trình bày về tánh đức của Phật có thể lợi ích chúng sinh không ngăn ngại, tiếp theo chín kệ phân rõ về biến hiện tám tướng, chính thức nói về Pháp thân.

Thứ tư là kệ của Bồ-tát Bảo Thủ giống như nghĩa không có thâu nhiếp của Địa thứ tư, lúc này tuy chưa đạt được nhưng có thấy hiểu. Trong văn kệ có ba, năm kệ đầu trình bày về Phật thành tựu sự không thâu nhiếp ấy, tiếp theo bốn kệ như mình đã hiểu làm lợi ích cho chúng sinh, tiếp theo một kệ ví dụ để hiển bày thanh tịnh.

Thứ năm là kệ của Bồ-tát Đức Thủ giống như nghĩa nối tiếp nhau không khác trong Địa thứ năm, trình bày không trú vào đạo Từ Bi lợi ích chúng sinh. Trong văn kệ có ba, năm kệ đầu phân rõ Bồ-tát Từ Bi không trú vào đạo, tiếp theo một kệ chính thức quán về nghĩa nối tiếp nhau không khác, tiếp theo bốn kệ phân rõ làm cho người khác thành tựu cảnh thanh tịnh chân thật. Văn còn có mười bình đẳng thanh tịnh, một hành là một nghĩa có thể biết.

Thứ sáu là kệ của Bồ-tát Mục Thủ giống như nghĩa không có nhiễm tịnh của Địa thứ sáu. Trong văn kệ có mười bảy phân làm bốn: Hai kệ đầu phân rõ bởi vì chấp thủ cho nên không thấy Chân Phật, tức là phân rõ về mất mát; tiếp theo bốn kệ là thành tựu trí Như Lượng thấy được Báo Phật, đây tức là đức mà thôi; tiếp theo sáu kệ phân rõ đạt được trí Chánh Thể thấy Pháp thân; tiếp theo năm kệ trình bày về pháp sâu xa hiển bày phạm vi của hiểu biết. Nhưng trong này trên dưới có hai văn giống-khác, một là nhiều trong một, cho nên trong một số thấy mười, một trong nhiều cho nên trong mười số thấy một. Vả lại, một chính là nhiều thì một số tức là nhiều mà không thấy một, nhiều chính là một thì nhiều số tức là một mà không thấy nhiều, điều này nên chính xác. Lại ngay nơi sự phân rõ về một nhiều, hai sự khác nhau phân rõ về một nhiều, nên suy nghĩ.

Thứ bảy là kệ của Bồ-tát Tiến Thủ giống như nghĩa các loại pháp không có sai khác trong Địa thứ bảy, trong văn kệ có ba: Sáu kệ đầu phân rõ trí phương tiện trong Không, hành thù thắng trong Hữu, tức là ca ngợi về đức; tiếp theo mười kệ khuyến khích quán Thật tánh hiển bày nghi thức phương pháp hiểu biết; tiếp theo bốn kệ trình bày đối với hai cảnh Lý-Lượng tiến vào đạt được pháp thù thắng.

Thứ tám là kệ của Bồ-tát Pháp Thủ giống như nghĩa pháp giới không có thêm bớt của Địa thứ tám, trong văn hai kệ đầu trình bày về Phật thành tựu lý trí cho nên có thể diệt trừ chướng ngại, tiếp theo sáu kệ ca ngợi về lợi ích từ pháp sâu xa của Phật, tiếp theo mười hai kệ khuyến khích lực dụng thâu nhiếp quả tánh của ba đời. Hợp hai kệ làm một đôi, một đôi đầu là phân rõ trí tiến vào pháp, tiếp theo một đôi là kết luận thành tựu công dụng của trí, nhưng văn trường hàng phân làm mười mà thôi, ngoài tức là Tịnh độ thâu nhiếp chúng sinh, trong thì thành tựu thật pháp của mình.

Thứ chín là pháp môn của Bồ-tát Trí Thủ giống như Địa thứ chín trình bày về trí tự tại Đại Bi làm lợi ích cho người. Trong văn kệ, hai kệ đầu phân rõ về ý nghiệp, tiếp theo mười sáu kệ trình bày về khẩu nghiệp, tiếp theo hai kệ phân rõ về đạt được pháp vô ngại cho nên Đại dụng vô ngại. Lại nữa, hai kệ đầu là tổng quát, tiếp theo là mở rộng ca ngợi về tướng của Dụng.

Thứ mười là kệ của Bồ-tát Hiền Thủ giống như dụng sau trí trong nghiệp tự tại của Địa thứ mười. Trong văn kệ, mười bốn kệ đầu là chính thức phân rõ về nghiệp tự tại, tiếp theo sáu kệ là nói ví dụ. Trong mười bốn kệ, năm kệ đầu trình bày về quán Thật tánh đạt được nhân của Y quả, tiếp theo chín kệ trình bày về quán nghiệp tự tại cho nên đạt được nhân của Chánh quả. Trong văn năm kệ đầu, hai kệ là Thể của hành, ba kệ là Dụng của hành. Trong văn chín kệ phân bốn, ba kệ đầu trình bày thuận theo quán Chân như cho nên đạt được quả Bồ-đề, tiếp theo hai kệ tu quán về sự cho nên đạt được quả của Pháp thân, tiếp theo hai kệ tu về Từ Bi cho nên đạt được quả của Hóa thân, tiếp theo hai kệ là từ Phật nghe pháp cho nên đạt được quả của Báo thân. Phẩm này trả lời câu hỏi thứ tám về thế lực công đức của Phật và câu hỏi thứ mười về thị hiện thành Chánh giác trước đây.

Hỏi: Vì sao quy tụ chúng dựa theo Quang Minh Giác tăng lên?

Đáp: Bởi vì biểu hiện pháp có cạn sâu, hành có thêm vi tế.

Văn này làm quy phạm cho văn sau. Nay sơ lược phân các phần vị ra làm hai mươi hai môn: Nhân quả của sáu đường tức là sáu môn; nhân quả của hai hàng Thanh văn và Bích-chi , nói chung lại làm hai môn; Thanh văn và Bích-chi dựa vào Phật, vì hai căn cơ ấy mà nói về giáo Tứ đế và giáo Thập nhị nhân duyên, thì phần của Phật gồm chung nhân và quả, lại làm hai môn; Thanh văn và Duyên giác hồi tâm tiến vào Đại thừa, ở nơi giáo ban đầu, gồm chung nhân và quả, lại làm hai môn;

Bồ-tát mới phát tâm thẳng tiến gồm chung nhân và quả, lại làm một môn; giáo thẳng tiến thuần thục và giáo hồi tâm thuần thục gồm chung nhân và quả, lại làm một môn; nhân quả Đốn giáo lại làm một môn; từ Thanh văn ngu pháp tổng quát thâu nhiếp các phần vị từ Càn Tuệ địa trở lên Bồ-tát và Phật, lại làm một môn; trong phần vị Phổ Hiền từ Tín trở lên cho đến Thập Địa, đều gồm chung nhân quả, Bồ-tát và Phật lại làm năm môn. Đây là dựa vào Phổ Hiền trong A-hàm mà nói.

Phẩm 6: MINH MẠNG

Có năm môn phân biệt:

1. Giải thích tên gọi của phẩm và Ý đưa ra. Minh Nạn có hai: Một- Dựa theo pháp, bởi vì trình bày về mười nghĩa sâu xa vi tế; haiDựa theo từ, bởi vì luận về chất vấn để hiển bày rõ ràng nghĩa lý. Minh là Giáo, Nạn là mười nghĩa. Lại nữa, Minh là Trí, Nạn là luận về đạo. Ý đưa ra. Vì sao đưa ra? Bởi vì chúng quy tụ rồi, vì nói về pháp Tín thành tựu về Giải, cho nên đưa ra, nghĩa còn lại có thể biết.

2. Nêu ra pháp đối trị, một chướng Sân là chướng ngại của Bách pháp minh môn, từ đây về sau phát sinh hiểu biết đoạn chướng gồm có bốn nghĩa:

a) Dựa theo sinh Tín, tức là Địa thứ nhất đoạn trừ chủng tử của kiết sử;

b) Dựa theo phần vị, tức là phần vị hiểu rõ thì tập khí và chủng tử của kiết sử cùng đoạn;

c) Dựa theo hành, tức là Thập Tín đầy đủ tâm thì tập khí và chủng tử của kiết sử… cùng đoạn;

d) Dựa theo thật, tức là xưa nay không cần phải đoạn, bởi vì tự Thể thanh tịnh. Điều này có thể dựa theo suy nghĩ.

Lại hỏi: Tướng của đoạn hoặc là thế nào?

Đáp: Bởi vì không phải đầu, không phải giữa, không phải cuối mà chấp là trước-giữa và sau. Đoạn thế nào? Như hư không. Đây là nghĩa về pháp cùng học của ba Thừa.

3. Trình bày về sở đắc, đạt được Bách pháp minh môn, nếu dựa theo hành môn thì tức là đạt được Hoa Nghiêm Tam-muội.

4. Phân rõ về thành tựu. Thành tựu Tín, gọi là mười tâm của Tín:

  1. Tín tâm.
  2. Niệm tâm.
  3. Tinh tiến tâm.
  4. Tuệ tâm.
  5. Định tâm.
  6. Bất thối tâm.
  7. Hồi hướng tâm.
  8. Hộ tâm.
  9. Giới tâm.
  10. Nguyện tâm.

Như trong kinh nói: “Sơ phát tâm Trú chưa có cõi của Trú về

trước, có tên gọi của mười tâm này tăng thêm tu tập về tâm này, một kiếp-hai kiếp-ba kiếp mới có thể tiến vào trong phần vị Sơ Trú, tăng thêm tu tập về Bách pháp minh môn, mỗi một tâm trong mười tâm có mười cho nên thành một trăm pháp, thường phát Đại nguyện về hữu hành-vô hành, có thể tiến vào trong huân tập chủng tánh, tu hành tất cả các nguyện.” dựa vào văn sau này có hạnh nguyện trong một trăm bốn mươi sự. Dựa vào kinh Anh Lạc: “Có nguyện thành tựu trong hai mươi bốn hạnh.” Chính là tông của phẩm này. Đây là dựa theo tướng riêng biệt mà nói. Nghĩa gồm chung như luận nên biết. Tông thì có hai nghĩa, nếu dựa theo Phẩm thì dùng mười nghĩa sâu làm Tông, nếu dựa theo Hội thì dùng pháp của phần vị Thập Tín làm Tông.

5) Phân rõ về văn, trong văn phần Chánh tông, trước là phân rõ nêu ra quả để khuyến khích vui thích phát sinh phần Tín, từ phẩm thứ hai về sau tu nhân hợp quả phát sinh phần Giải tức là pháp tu học. Cũng có thể là phẩm thứ tám hiển bày về nghĩa của giải hạnh, hoặc là phân rõ về tướng trạng của pháp cạn sâu. Trong văn phân hai: Một, hết phẩm Tiểu Tướng về sau trình bày về phương tiện đối trị, tu thành nhân quả; hai, sau phẩm Phổ Hiền Bồ-tát đến hết phẩm Tánh Khởi trình bày về tự Thể của nhân quả. Ý giải thích có thể biết.

Bắt đầu là tu thành, bởi vì dựa vào pháp đã nghe mà phát khởi tu tập. Sở dĩ gọi là tánh khởi tu hiển, là bởi vì bổn tánh nay mới thành tựu, lại bởi vì nhân quả tròn đầy sáng tỏ từ trong sự giác ngộ chân thật phát ra.

Dựa theo ba thời gian để phân rõ, thì phẩm Minh Nạn này kết thúc, phẩm Hiền Thủ trình bày mới khởi lên là ở thời gian trước, hai từ “Đao Lợi Thiên…” trở xuống khéo léo tu tập là ở thời gian giữa, ba là phẩm Bất Tư Nghị Pháp kết thúc đến cuối phẩm Tiểu Tướng hiển bày là ở thời gian sau.

Tiếp là dựa theo bốn thành tựu: Một, phân rõ chưa tin thì khiến cho tin; hai, từ “Đao Lợi Thiên…” trở xuống trình bày đã tin thì thành tựu giải hạnh, ba, từ phẩm Thập Địa về sau là đã tiến vào thì thành tựu; bốn, từ “Bất tư nghì…” trở xuống là đã thành tựu thì khiến cho giải thoát. Còn lại theo văn có thể biết. Nhưng dựa theo phần tu thành cũng được. Vả lại, từ đây trở xuống đều là phần Tựa, một Hội thứ sáu là Chánh tông, bởi vì trướclà A-hàm, sau gọi là nghĩa chứng. Lại nữa, bởi vì trong Hội thứ sáu này nêu rộng về Thể tướng tu thành vốn có… cho nên biết được, điều này nên suy nghĩ chính xác.

Văn về Sơ Tín phân ba: Một, một phẩm trình bày dựa vào Pháp

sinh Giải; hai, phẩm Tịnh Hạnh dựa vào Giải thành Hạnh; ba, phẩm Hiền Thủ trình bày dựa vào Hạnh làm sáng tỏ Đức vì thành tựu phần vị mà thôi.

Trong văn phần một phân hai: Một là trình bày hỏi đáp hiển rõ về mười loại nghĩa sâu xa; hai là từ “Nhĩ thời Ta-bà giới…” trở xuống hiển bày giải hạnh tiến vào viên thông vô ngại, tức là trình bày về lợi ích của pháp.

Văn phần một có hai:

  1. Văn Thù hỏi, mọi người đáp, trình bày về diệu tuệ dẫn dắt các hành.
  2. Mọi người hỏi, Văn Thù đáp, trình bày dùng các hành thành tựu diệu tuệ.

Văn có mười nghĩa:

  1. Duyên khởi sâu xa.
  2. Giáo hóa sâu xa.
  3. Nghiệp quả sâu xa.
  4. Phật thuyết pháp sâu xa.
  5. Ruộng phước sâu xa.
  6. Chánh giáo sâu xa.
  7. Chánh hạnh sâu xa.
  8. Trợ đạo sâu xa.
  9. Nhất thừa sâu xa.
  10. Cảnh giới Phật sâu xa.

Sở dĩ bắt đầu là Duyên khởi, bởi vì Bồ-tát mới học thuận theo trước phải quán xét nhân duyên như thật của các pháp. Duyên khởi là bởi vì tập khởi của Lê-da cùng ba tánh như thiện… và Vô vi, trong văn hỏi đáp tức là hai mà thôi.

Trong phần hỏi có bốn: Một, tổng quát nói cho biết; hai, thiết lập nghĩa chính; ba, nói rõ câu hỏi; bốn, khởi lên chất vấn sau có hai ý như văn cùng thành. Một là duyên khởi chất vấn trái ngược nhau, ý hỏi vì sao tâm lấy vô phân biệt làm một tánh? Làm sao có thể thành tựu các loại sự việc? Nếu có thể thành tựu thì không thuận với vô phân biệt mà thôi. Hai là các pháp đã đều không biết, những việc làm vì sao vẫn có chân-tục? Nhưng giải thích chỉ là một câu hỏi. Văn sau chỉ là kết thúc. Văn hỏi về mười việc có thể biết, ý đáp chỉ là vô phân biệt không trú cho nên có thể thành tựu mọi việc, nếu biết phân biệt thì không thể thành tựu.

Hỏi: Đã không phân biệt, vì sao thành nhân quả?

Đáp: Bởi vì làm không có chủ, trái lại nêu rõ có thể thấy mà thôi.

Văn kệ phân ba: Một, một kệ ca ngợi thưa thỉnh khuyến khích lắng nghe mà nhận lời nói; hai, có bảy kệ về nói pháp ví dụ để hiển bày lý; ba, có hai kệ so sánh pháp trước kia trình bày về quán hạnh. Văn thứ hai phân hai: Năm kệ đầu nêu ra pháp trả lời câu hỏi trước, tiếp theo hai kệ khiến cho loại trừ chấp. Năm kệ đầu có hai, đầu là pháp, sau là dụ. Vì sao có thể biết không trú cho nên làm? Kệ nói bởi vì “Các pháp không tự tại.” Vì sao biết lúc làm không biết? Kệ nói bởi vì “Cầu thật không thể được.” Còn lại có thể biết mà thôi.

Tiếp theo phần Dụ có bốn: Kệ đầu dựa theo duyên thành tựu nối tiếp nhau trải qua thời gian làm dụ, tiếp theo một kệ dựa theo duyên khởi hữu vi sinh diệt làm dụ, tiếp theo một kệ dựa theo nhân duyên bất ngờ kích động thành tựu làm dụ, tiếp theo một kệ dựa theo Thể tướng thể duyên khởi dựa vào nhau làm dụ. Dựa vào nghi ngờ rằng đã không phân biệt thì vì sao lưu chuyển? Kệ nói bởi vì mắt-tai. Lại nói đã không có chính mình thì vì sao có tướng hiện bày? Kệ nói bởi vì thị hiện chuyển. Văn nói không biết nhau là không phải nói rằng biết rõ, nay nói có làm do lực tánh, cả hai tự mình không hướng về cho nên nói là không biết nhau, bởi vì tự tánh là bắt đầu biết pháp.

Văn quán phân ba: Một, nhắc lại lý trước, đối với pháp phân rõ quán, thành tựu quán phân biệt Vô tướng; hai, một kệ dựa vào nơi khác quán về Vô sinh; ba, một kệ về Vô tánh chân thật. Vì lẽ đó Giác Thủ nói là bắt đầu biết pháp giác ngộ.

Thứ hai là trong Giáo hóa sâu xa phân hai: Đầu là hỏi, sau là đáp. Ý gì đưa ra, trước đây thâu nhiếp tâm vào lý, ở đây sau trí độ sanh, tài là pháp tài? Hỏi có hai: Đầu là tổng quát nói cho biết, tiếp theo là riêng biệt.

Trong riêng biệt có ba: Một, một câu tổng quát; hai, mười một câu riêng biệt; ba, một câu kết thúc phần hỏi. Văn thứ hai có mười một câu tương sinh, văn hỏi có thể biết. Ý hỏi vì sao như trên nói, nếu chúng sinh vô tánh thì sao nói là giáo hóa? Nếu tùy theo giáo hóa, thì sao nói là tâm trú vô tánh? Văn đáp có hai: Một là sinh khởi, hai là kệ đáp. Ý nghĩa chỉ vì biết cảnh là vô tánh, tuy còn duyên mà lìa chấp sai trái, chỉ vì vô sinh cho nên giáo hóa trở lại nêu rõ có thể biết.

Văn kệ phân hai: Một, khen ngợi người hỏi đồng ý nói khuyên lắng nghe; hai, nêu rõ nghĩa chính. Văn phần nghĩa chính phân ba: Ba kệ đầu tổng quát nêu rõ về nghĩa chính, tiếp theo bốn kệ dựa theo Quán môn để biểu hiện rõ ràng, tiếp theo có hai kệ nêu rõ điều phục nghi ngờ. Văn ba kệ đầu phân ba, một kệ đầu tổng quát nêu rõ, tiếp theo một kệ chính thức trình bày dựa theo trong thân nêu rõ quán hạnh, tiếp theo một kệ lấy bên trong suy ra bên ngoài phân rõ giáo hóa chúng sinh không có chấp trước.

Thứ hai là dựa theo quán môn phân rõ có bốn: Một kệ đầu nêu ra nhân duyên vô thỉ trình bày về pháp sở quán; tiếp theo một kệ khuyến khích tu quán; tiếp theo một kệ trình bày về các pháp là không có, tức là dựa theo quán giải thích về tướng; tiếp theo một kệ chính thức dựa theo môn duy thức để loại trừ.

Thứ ba là điều phục nghi ngờ có hai: Một, đã là pháp thế gian vốn tự nhiên không có tánh, chúng sinh vì sao không biết, kệ nói bởi vì đều là hư vọng; hai, nếu pháp không có thì vì sao hiện rõ đủ loại, kệ nói bởi vì từ duyên khởi không có tướng khác. Vì lẽ đó Tài Thủ nói có thể đem tài sản Chánh pháp bố thí cho chúng sinh.

Thứ ba là trong Nghiệp quả sâu xa có hai văn về hỏi đáp. Hỏi có năm:

  1. Nói cho biết.
  2. Thiết lập nghĩa.
  3. Hỏi.
  4. Kết luận.
  5. Sinh khởi phần sau.

Văn hỏi thứ ba có năm đôi mười câu có thể biết. Ý hỏi tánh đã không có ngã sở, sao nói cảm thọ khổ vui? Nếu cảm thọ khổ vui thì tại sao vẫn nói là vô tánh? Đây là lý sự chất vấn trái ngược nhau.

Hỏi: Cùng với chất vấn về Duyên khởi trước đây nào khác?

Đáp: Trước là hai việc trái ngược nhau cho nên khác. Ý trả lời bởi vì khổ vui tức là tánh không có Thể riêng biệt, vì vậy không trái nhau mà thôi.

Văn kệ phân hai: Đầu là pháp, sau là dụ. Văn phần dụ có chín:

  1. Phân rõ dựa vào nơi khác lìa tánh làm dụ;
  2. Duyên khởi trở thành có làm dụ;
  3. Nhân duyên hiện rõ quả làm dụ;
  4. Duyên quả lìa tánh làm dụ, đây là hướng về chủ động huân tập;
  5. Thể của nhân không xen tạp làm dụ;
  6. Thọ sinh lìa tạo tác làm dụ;
  7. Quả báo không có gốc làm dụ;
  8. Sự việc thù thắng không có gốc rễ làm dụ, đây là hướng về Dụng mà thôi, cũng có thể làm sáng tỏ nhau;
  9. Có và không có cùng tánh làm dụ, đây đều là thế gian bất hoại, nói đến Đệ nhất nghĩa. Vì lẽ đó Bảo Thủ nói là có thể trong sự hiển bày lý, cho nên bắt đầu đạt được là đáng quí.

Thứ tư là trong Thuyết pháp sâu xa: Đầu là hỏi, sau là đáp. Văn hỏi có hai văn là tổng quát và riêng biệt. Trong riêng biệt phân bốn: Một, phân rõ về pháp đã đạt được; hai, mười câu chính thức nêu ra hỏi; ba, từ “Nhi pháp…” trở xuống là kết thúc; bốn, sinh khởi phần sau. Văn chất vấn có mười loại trái ngược nhau. Ý hỏi là pháp nếu không phải một thì có thể tùy ngôn ngữ đều là thật, nếu pháp không thuận theo lời nói thì giáo sẽ là hư vọng? Đây là chất vấn về giáo nghĩa trái ngược nhau. Ý đáp vốn nói là một nghĩa thì pháp chỉ có một nghĩa không trú, cũng có thể một thiện xảo vì vậy có thể xuyên suốt, các giáo vẫn thành tựu một nghĩa.

Văn kệ phân hai: Một là khen ngợi người hỏi, hai là dựa theo dụ để biểu hiện rõ ràng. Trong phần dụ có chín:

  1. Trình bày về pháp có thể gánh vác tất cả căn cơ làm dụ.
  2. Duyên diệt các hoặc làm du.
  3. Hòa vào căn cơ không thay đổi làm dụ, đây là hướng về đức dụng.
  4. Lay động các căn làm dụ.
  5. Thuận theo mong muốn mang lại lợi ích làm dụ.
  6. Duyên sinh các đức làm dụ.
  7. Lựa chọn nhiễm hướng đến tịnh làm dụ.
  8. huận theo vật không hướng về làm dụ.
  9. Thuận theo duyên trú vào Thể làm dụ.

Vì lẽ đó Đức Thủ nói là bắt đầu hiển bày về nhiều công năng của pháp.

Thứ năm là trong Ruộng phước sâu xa, văn tướng dựa theo trước có thể biết. Trong phần hỏi có hai: Một, nói ra cho biết nghĩa chính; hai, làm thành chất vấn. Trong chất vấn có bốn: Một là tổng quát nói cho biết, hai là riêng biệt, ba là kết luận, bốn là sinh khởi phần sau. Phần riêng biệt có mười câu, tướng hỏi đáp cho thể hiểu. Đây là chất vấn về nhân duyên trái ngược nhau.

Văn kệ có mười:

  1. Duyên có thể hiện rõ quả làm dụ.
  2. Hướng về căn cơ tùy theo giải thích làm dụ.
  3. Quyền biến khéo léo khiến cho vui thích làm dụ.
  4. Thuận theo cơ cảm khiến cho vui thích làm dụ.
  5. Vật cảm được hiện hình làm dụ.
  6. Duyên diệt các hoặc làm dụ.
  7. Đối trị các hoặc làm dụ, cũng có thể khởi lên phạm vi của duyên.
  8. Tâm Bi che phủ khắp nơi làm dụ.
  9. Lay động các quả báo làm dụ.
  10. Độc diệt ba cõi làm dụ. Vì lẽ đó Mục Thủ nói là bắt đầu thấy pháp rõ ràng.

Thứ sáu là trong Chánh giáo sâu xa, văn có hai: Đầu là hỏi, sau là đáp. Trong phần hỏi có bốn: Một, tổng quát nói cho biết; hai, chính thức hỏi; ba, kết thúc; bốn, sinh khởi phần sau. Văn hỏi dựa theo mười pháp đã biết làm câu hỏi. Ý hỏi vì sao nếu giáo có thể đoạn, thì không cần phải sau khi biết nhân quả mới có thể đoạn, nếu cần phải biết nhân quả mới đoạn thì lập giáo có ích lợi gì? Ý đáp có hai: Một là tiến lên, hai là lùi lại. Lùi lại là tự mình không có lợi ích. Tiến lên là Giáo, tức là có công dụng thù thắng. Chất vấn trên là chất vấn về giáo lực trái ngược nhau.

Văn kệ đáp phân ba:

  1. Một kệ khuyến khích lắng nghe, tách ra hai môn lập tông.
  2. Một kệ khuyến khích tinh tiến để làm sáng tỏ uy lực của giáo, tức là đối với môn thứ nhất.
  3. Tám kệ phân rõ về lỗi lười nhác, đối với môn thứ hai trên đây.

Văn này:

  1. Một kệ về đa văn giải đãi làm dụ;
  2. Mệt mỏi giải đãi làm dụ.
  3. Tu tất cả giải đãi làm dụ.
  4. Tu trái ngược giải đãi làm dụ.
  5. Cầu vượt quá giải đãi làm dụ.
  6. Ít năng lực giải đãi làm dụ.
  7. Ít đối trị giải đãi làm dụ.
  8. Không có ý vượt ra giải đãi làm dụ, lại chấp ngã khinh mạn làm dụ. Vì lẽ đó Tiến Thủ nói là bắt đầu tiến lên có thể biểu hiện thành tựu về đức thù thắng.

Thứ bảy là trong Chánh hạnh sâu xa, có hai văn hỏi đáp. Văn hỏi có hai: Đầu là nói cho biết, sau là hỏi. Trong phần hỏi có bốn có thể biết. Phần thứ ba nêu ra câu có tám có thể biết. Ý hỏi vì sao bậc Thánh nói nghe nói pháp có năng lực đoạn phiền não, vì sao có người nghe pháp không đoạn phiền não, mà phiền não dựa vào tâm, tâm không có sở hành nhưng có thể đoạn phiền não? Đây gọi là chất vấn về Thánh thuyết và hành giáo trái ngược nhau. Ý đáp là giáo không phải không có năng lực, nhưng bởi vì chọn lấy phương pháp không thích hợp. Văn đáp phân hai: Một là tổng quát khuyến khích lắng nghe về nói tóm lược, hai là dùng ví dụ để thành tựu. Văn phần dụ có chín, ở đây chỉ nêu ra lỗi để hiển bày đức:

  1. Thực hành không như pháp làm dụ.
  2. Thuận theo nói bỏ suy nghĩ làm dụ.
  3. Chấp vào văn không phân biệt thực hành làm dụ.
  4. Tự cho mình không có phần làm dụ.
  5. Nghiệp ác chướng ngại làm dụ.
  6. Không hiểu tự nói làm dụ.
  7. Phân rõ điều nghe giữ lấy điều nói làm dụ.
  8. Bỏ chánh trở thành phụ làm dụ.
  9. Giấu sai hiện bày đúng làm dụ.

Vì lẽ đó Pháp Thủ nói là có thể bắt đầu hiển bày pháp hợp với quy phạm chứ không phải là tà vạy.

Thứ tám là trong Trợ đạo sâu xa, cứ chấp đây là bậc Thánh nói Chánh-Trợ trái ngược nhau. Văn hỏi có năm: Một là nói cho biết, hai là thiết lập nghĩa chính, ba là chính thức hỏi, bốn là kết thúc, năm là sinh khởi phần sau. Văn đáp phân hai: Một, khen ngợi người hỏi đồng ý nói, đây là khen ngợi gồm chung chủ động và thụ động; hai, chính thức đáp. Văn chính thức đáp phân ba: Một, một Hội tổng quát trả lời; hai, bốn Hội chỉ khen ngợi về ý; ba, có bốn kệ trình bày về Chánh-Trợ tác thành lẫn nhau không có thể bỏ ý. Văn trong Hội do Phật thuyết có hai: Đầu là tổng quát, sau là riêng biệt, văn tướng có thể biết. Văn phần Chánh-Trợ tác thành lẫn nhau có bốn có thể biết. Vì lẽ đó Trí Thủ nói là có thể bắt đầu khéo léo sử dụng Chánh-Trợ.

Thứ chín là trong Nhất thừa sâu xa có hai văn hỏi đáp. Văn hỏi có hai: Một là nói cho biết, hai là hỏi. Trong phần hỏi có bốn: Một, thiết lập nghĩa chính; hai, hỏi; ba, kết thúc; bốn, sinh khởi phần sau có thể biết. Đây là chất vấn về Thể-Dụng nhân quả trái ngược nhau. Ý đáp là Thể-Dụng nhân quả của mình và Phật đều cùng một pháp, đó là một pháp của pháp tánh, cũng có thể là một pháp phương tiện Đại Bi, nhưng chúng sinh thấy khác mà thôi.

Văn kệ phân sáu: Hai kệ đầu nêu ra nhân quả đều một để đáp câu hỏi trên, tiếp theo hai kệ trình bày về tự nghiệp đều thấy khác nhau, tiếp theo một kệ thành Phật vốn là một chứ không có tinh thô sai khác, tiếp theo một kệ trình bày về hạnh thiện thì được thấy, tiếp theo một kệ trình bày về nghiệp của Phật tự tại tùy theo vật hợp với căn cơ, tiếp theo ba kệ giải thích về ý điều phục. Ý có ba có thể biết, cũng có thể chỉ là một mà thôi. Vì lẽ đó Hiền Thủ nói là khéo léo phân tích pháp Phật thuận với lý đạt được thành tựu.

Trên đây phân rõ về một người hỏi nhiều người, tiếp theo sau trình bày về nhiều người hỏi một người, tức là thứ mười trong Cảnh giới Phật sâu xa, có hai văn hỏi đáp. Văn hỏi có năm: Một là nói cho biết, hai là kết luận về pháp đã nói, ba là khen ngợi người hỏi phân rõ đức để tiếp tục hỏi, bốn là chính thức hỏi, năm là kệ tụng sinh khởi phần sau.

Nay phần đã hỏi có mười một tướng. Vì sao trước đây Văn Thù che mất chất vấn, nay chỉ hỏi thẳng, là bởi vì làm sáng tỏ phần vị bậc trên. Trong văn mười một câu hỏi phân ra bốn lớp: Một, ba câu về đức Tự lợi; hai, bốn câu về đức Lợi tha; ba, ba câu về chúng được lợi ích, nhưng ba câu này gồm chung chủ động và thụ động(năng-sở); bốn, một câu tổng quát trình bày về nhiều điều đã hỏi:

  1. Phần lượng cảnh giới mà Phật đã chứng biết.
  2. Nhân có thể chứng được cảnh.
  3. Hỏi về nơi đã nhập.
  4. Trong cảnh giới của Phật hóa độ bao nhiêu chúng sinh.
  5. Trí tùy thuận cảnh giới.
  6. Pháp đã thuyết tùy theo chúng sinh.
  7. Trí như lượng phân biệt biết rõ.
  8. Cảnh Phật là thức phân biệt vốn không biết.
  9. Ở trong cảnh giới nào có thể khiến cho chúng sinh quyết định biết là cảnh Phật.
  10. Trí soi chiếu tâm những chúng sinh nào làm cảnh.
  11. Như trong cảnh nói về những nghĩa rộng lớn nào.

Vì lẽ đó Văn Thù nói là diệu tuệ thông đạt cảnh giới Phật làm bắt đầu.

Văn đáp có mười kệ: Một kệ đầu trả lời về cảnh giới mà Phật đã chứng trên đây, tiếp theo một kệ trả lời về nhân của cảnh Phật trên đây, tiếp theo một kệ trả lời về nơi cảnh đã nhập trên đây, tiếp theo một kệ trả lời về chúng sinh mà Phật đã hóa độ trên đây, tiếp theo một kệ trả lời về những trí nào tùy theo cảnh Phật trên đây, tiếp theo một kệ trả lời về pháp tùy chúng sinh nói ở cảnh Phật trên đây, tiếp theo một kệ trả lời như thế nào là trí có thể phân biệt biết rõ về cảnh của Phật đã biết trên đây, tiếp theo nửa kệ trả lời về nhận biết cảnh Phật trên đây, tiếp theo nửa kệ trả lời về như thế nào có thể quyết định biết là cảnh Phật trước đây, tiếp theo một kệ trả lời về cảnh giới Phật rộng lớn trước đây, tiếp theo một kệ trả lời về cảnh giới soi chiếu trước đây, cũng có thể dựa vào câu hỏi để lần lượt trả lời.

Theo thứ tự hai văn lớn trình bày đã đạt được tin hiểu (tín giải) bình đẳng vô ngại hiện rõ không có nghĩa của hai tướng. Trong văn có hai: Một, trình bày nhờ vào uy lực thấy cõi này không ngăn ngại; hai, từ “Như thị…” là tương tự tất cả phương khác đều thấy được lợi ích, văn này có hai có thể biết. Phần một trong văn lợi ích cõi này, lại nói một là tổng quát, hai là riêng biệt, ba là kết luận. Trong phần riêng biệt: Như pháp đã thực hành, là như pháp thực hành về sáu Độ, mà Trí Thủ là vị thứ chín đã phân rõ trước đây. Như nghiệp đã thực hành, là như tùy theo nghiệp đã thực hành nhận lấy quả báo cũng như vậy…, mà Bảo Thủ là vị thứ tư đã phân rõ trước đây. Như hạnh thế gian, là như hạnh tinh tiến mau vượt ra lười biếng khó thoát khỏi, mà Tiến Thủ là vị thứ bảy đã phân rõ trước đây; cũng như tu hạnh xuất ly-đa văn không được, mà Pháp Thủ là vị thứ tám đã phân rõ trước đây. Tùy thân hành, là như tùy thân-tùy hành thấy là giáo hóa gọi là tùy thân hành, mà Tài Thủ là vị thứ ba đã phân rõ trước đây. Tùy căn hành, là như pháp của Phật tuy một, nhưng tùy căn tánh cho nên phân ra nhiều, mà Đức Thủ là vị thứ năm đã phân rõ trước đây; cũng như ruộng phước của Phật tuy một, nhưng tùy công hạnh cho nên phân ra nhiều, mà Mục Thủ là vị thứ sáu đã phân rõ trước đây, tùy theo công hạnh ấy phân ra nhiều, tùy theo công hạnh ấy mà nhận lấy quả báo ở nơi sinh ra. Trì giới-phá giới, là như tâm tánh tuy một, nhưng tùy theo thực hành không giống nhau, nhận lấy quả báo đều khác biệt như thiện ác…, mà Giác Thủ là vị thứ hai đã phân rõ trước đây. Thuyết về pháp của quả báo, là như tùy theo chúng sinh mong muốn, các nghiệp và quả đều khiến cho thấy chân thật gọi là nói về quả báo, mà Hiền Thủ là vị thứ mười đã phân rõ trước đây; lại như pháp của cảnh giới Phật, cũng được gọi là nói về quả báo, mà Văn Thù đã phân rõ trước đây. Vả lại, sự hiển hiện này có hai: Một, biểu thị về pháp thuận theo lý, là pháp phương tiện đều thật sự thành Thánh; hai, biểu thị cho Thể của pháp thuận theo lý, công năng trong sáng tất cả đều thấy.

 

Phẩm 7: TỊNH HẠNH

Bốn môn giống như trước.

1. Phân rõ về tên gọi, trong này mở rộng về tướng phạm hạnh thanh tịnh thù thắng vi diệu của Bồ-tát tu hành, cho nên gọi là phẩm Tịnh Hạnh; cũng có thể Tịnh là Đức vô cấu, Hạnh là Thể. Lại nữa, Tịnh là Nguyện, Hạnh là sự thanh tịnh mà thôi.

2. Ý đưa ra. Vì sao đưa ra? Bởi vì dựa vào hiểu biết(giải) mà phát khởi thực hành(hạnh); cũng có thể trước là hạnh sau là nguyện.

3. Lấy các nguyện làm Tông.

4. Giải thích văn, văn này có hai: Đầu là Bồ-tát Trí Thủ hỏi, sau là Bồ-tát Văn Thù đáp. Sở dĩ Bồ-tát Trí Thủ hỏi, Bồ-tát Văn Thù đáp, là vì tướng của nguyện ban đầu vi tế, không phải là trí thì không tiếp nhận, tùy tướng phát nguyện không phải là diệu tuệ thì không sáng tỏ.

Nghĩa trong phần hỏi tương tự theo nhau có mười một sự việc, toàn bộ có hai: Một, bảy sự việc trước hỏi thế nào là tướng của nhân thuộc phần mình; hai, từ “Đắc thị xứ trí…” trở xuống trình bày hỏi về tướng của quả thuộc phần thù thắng.

Ngay trong văn phần một:

  1. Một sự việc về nhân hành của phước.
  2. Một sự việc về quả hành của phước.
  3. Một sự việc về nhân hành của trí.
  4. Một sự việc về quả hành của trí.
  5. Một sự việc về nhân hành của pháp trí.
  6. Một sự việc về quả hành của chứng trí.
  7. Một sự việc về tu đầy đủ thành tựu các Độ.

Hỏi về sự việc thứ 1 có chín: Một, ba câu về chủng tử lìa ba độc; hai, một câu về kiên định không lui sụt, đây là không giống với phàm phu; ba, một câu về thành tựu Tự lợi; bốn, một câu về Lợi tha thắng diệu, đây là khác với Nhị thừa; năm, ba câu về lìa thấy của Bồ-tát giả danh trước phần vị Tín. Cũng giải thích ba câu đầu là Đoạn đối trị, tiếp theo ba câu là Thể, tiếp theo ba câu là Tánh đối trị, suy nghĩ thì có thể biết mà thôi. Hỏi về sự việc thứ hai có mười, hỏi về sự việc thứ ba cũng có chín sự việc, trong câu hỏi về sự việc thứ tư có tám, văn còn lại có thể biết .

Thứ hai trong quả, trong câu hỏi về quả thắng tiến, văn có bốn: Một, tiến vào phần quả cho nên có thể nhận vật cúng dường; hai, được trời thần… cung kính bảo vệ; ba, phân rõ về đức thực hành Đại Bi; bốn, phân rõ về đức của phần vị.

Ngay phần thứ hai là Bồ-tát Văn Thù trả lời, trả lời tất cả, suy nghĩ có thể biết, nêu một nguyện trả lời nhiều câu hỏi trước đây không sót lại gì. Văn có ba: Một, trường hàng tóm lược trả lời; hai, kệ tụng mở rộng trả lời; ba, trường hàng kết thúc. Văn phần một có hai: Một là khen ngợi người hỏi nói rõ về lòng dạ của mình có hai có thể biết; hai là từ “Phật tử…” trở xuống chính thức trả lời. Văn trả lời có ba: Một, phân rõ về Tự lợi; hai, từ “Khứ lai kim…” trở xuống là Lợi tha; ba, từ “Minh đạt thật tướng…” trở xuống trình bày về quả hành thắng tiến, văn có hai có thể biết.

Thứ hai là bậc dẫn dắt tôn quý, Phật là một, bởi vì chủ động thưa thỉnh cho nên là hai. Lại đối với nhân của Phổ Hiền là người hướng về quả, lại đầy đủ đạo Tự lợi là đầu, nay trọn vẹn đức Lợi tha là sau mà thôi.

Văn kệ có hai: Một là nhắc lại, hai là kệ trả lời giải thích. Nguyện có hai: Một là trước hành, hai là sau hành. Đây là sau hành, cũng có thể cùng lúc bởi vì chính là hành. Ở đây tổng quát có hai ý: Một, đã chuyển đổi tâm thấy điều ấy liền trở thành Thể của hành; hai, chuyển sang cầu sự việc khác thành tựu sự việc của nguyện kia. Nguyện này có mười loại thế lực:

  1. Thông hiểu sự tiến vào lý, như Bồ-tát tại gia…
  2. Bởi vì nhân giống như quả, nếu như đang tụ hội…
  3. Bởi vì mình giống như người khác, như thấy không hổ thẹn…
  4. Bởi vì người giống như pháp, như thấy người bệnh tật…
  5. Bởi vì nhiễm giống như tịnh, như thấy người bội ân…
  6. Bởi vì thế gian giống như xuất thế gian, như ở trong nhà…
  7. Dùng cảnh đạt được tâm, nếu như đi vào phòng Tăng…
  8. Lấy Thể tùy theo Dụng, như thấy người khổ hạnh…
  9. Tương tự cùng loại thành tựu, như bố thí những vật quý báu…
  10. Bởi vì thật giống như hư, nếu như đang ca hát…, theo đúng như vậy.

Kệ có một trăm bốn mươi kệ, tất cả phân làm hai: Mười một kệ đầu trình bày về pháp của Bồ-tát tại gia không rời bỏ hành thế gian, văn còn lại trình bày về hành của Bồ-tát xuất gia, là không trú vào hành hữu vi.

Văn về xuất gia có năm: Một, mười lăm kệ đầu trình bày về xuất gia thọ giới pháp; hai, từ “Nhược nhập phòng xá…” trở xuống là hai mươi kệ phân rõ tiến vào trú xứ theo pháp hành oai nghi; ba, từ “Thủ chấp tích trượng…” trở xuống là năm mươi bảy kệ trình bày về pháp hành ở đường đi; bốn, từ “Nhập lý khất thực…” trở xuống là hai mươi kệ trình bày về pháp hành khi vào thành ấp xóm làng khất thực; năm, từ “Nhược nhập thủy thời…” trở xuống là mười bảy kệ trình bày về pháp hành xuất ly tu đạo.

Nguyện có ba loại: Một là Thệ nguyện, hai là Hạnh nguyện, ba là tự Thể không chướng ngại nguyện. Một là chưa thành thì mong thành, hai là đích thực thành hạnh, ba là thành đã là nguyện chân thật. Tức là tất cả các nguyện như sáu quyết định và tánh khởi… đều có ba văn: Một câu đầu là cảnh của phần mình, tiếp theo một câu cùng với chúng sinh, tiếp theo hai câu là thâu nhiếp giống như sự việc thù thắng.

Lại hỏi: Vì sao kinh Anh Lạc nguyện nhiều hướng về nơi tiến vào Lý, kinh này nguyện nhiều hướng về Sự?

Đáp: Bởi vì kinh này thuận theo giáo Nhất thừa lợi ích nhiều thuộc về Sự, kinh Anh Lạc thuận theo giáo ba Thừa lợi ích phần nhiều thuộc về Lý, có thể theo đó suy nghĩ.

Phẩm 8: HIỀN THỦ

Bốn môn giống như trước.

1. Phân rõ về tên gọi, phần vị Thập Tín đã đầy đủ là sự bắt đầu của Thánh Hiền, là bậc thứ nhất đến trong Bồ-tát cho nên gọi là phẩm Hiền Thủ.

2. Trình bày về ý đưa ra. Vì sao đưa ra? Bởi vì hạnh đã thành lập, tiếp theo cần phải mở rộng ca ngợi về đức dụng thành tựu phần vị cho nên đưa ra.

3. Tông là ca ngợi về đức.

4. Giải thích văn, phẩm này có bảy trăm mười lăm kệ rưỡi, trong văn có ba: Một, Văn Thù hỏi; hai, có bảy trăm lẻ bảy kệ rưỡi là Hiền Thủ chính thức trả lời; ba, Hiền Thủ nói. Cuối phẩm này đương thời có sáu kệ, do các vị kết tập kinh(kinh gia) hiển bày về sự chứng đắc thành tựu của chư Phật.

Văn hỏi có hai: Một là trường hàng, các vị kết tập kinh tổng quát hiển bày về tướng ý hỏi của Văn Thù; hai, có hai kệ, nhắc lại tịnh hạnh thành tựu trước đây là nhân của Tín, để chính thức thưa hỏi, một kệ đầu là kết thúc phần trước, tiếp theo một kệ là phát khởi phần sau. Sở dĩ Văn Thù hỏi, Hiền Thủ đáp là bởi vì đức viên thông trong phần vị Thập Tín không phải là diệu tuệ thì không thể tiếp nhận, nghĩa sâu xa-đức thanh tịnh chỉ có bậc Hiền mới đạt được.

Trình bày trong phần trả lời thứ hai, văn có bốn: Một, mười ba kệ đầu tổng quát trình bày về Hành tướng phát tâm của phần vị Tín; hai, từ “Thâm tâm…” trở xuống là năm trăm mười chín kệ rưỡi mở rộng trình bày về công năng thù thắng-Thể của đức thuộc phần vị Tín; ba, từ “Nhất thiết chư Phật giai cọng thuyết…” trở xuống là một trăm năm mươi bốn kệ trình bày về tôn chỉ sâu xa đã nói, chúng sinh không hiểu dùng ví dụ để giải thích; bốn, từ “Như ngã sở thuyết chư thí dụ…” trở xuống là hai mươi mốt kệ so sánh khuyến khích phát tâm.

Phần một là tổng quát có ba: Một, nửa kệ đầu nhắc nhủ lắng nghe đồng ý nói; hai, sáu kệ rưỡi tiếp theo nêu ra nghĩa mở rộng để hiển bày văn tóm lược; ba, sáu kệ tiếp theo chính thức nói về hành tướng công đức phát tâm. Phần hai tiếp theo nêu ra nghĩa mở rộng để hiển bày văn tóm lược: Đầu có ba kệ rưỡi trình bày nói về phạm vi, tiếp theo hai kệ hiển bày mở rộng là sâu xa, tiếp theo một kệ thành tựu về nói tóm lược ban đầu. Phần ba tiếp theo tổng quát ca ngợi đức, trong văn có ba: Một là nửa kệ nêu ra hai môn nhân duyên tổng quát ca ngợi đức; hai là một kệ rưỡi sơ lược phân rõ về duyên phát tâm và nhân gồm chung phân rõ hai môn trên; ba là bốn kệ biểu thị về ý phát tâm có hai, một kệ đầu trình bày về sự xa rời, ba kệ sau phân rõ về sự thành tựu. Trong ba kệ này, một kệ đầu tách ra hai môn, hai kệ tiếp theo giải thích hai môn trước đây.

Trong phần thứ hai là năm trăm mười chín kệ rưỡi, có ba: Một, một trăm ba mươi hai kệ phân rõ trong nhân của phần mình tập trung đầy đủ Bồ-đề; hai, từ “Thí giới nhẫn nhục tinh tiến thiền…” trở xuống là ba trăm lẻ năm kệ phân rõ trong quả thắng tiến tập trung đầy đủ Bồ-đề; ba, từ “Thần lực ư thử đắc tự tại…” trở xuống là tám mươi mốt kệ về thành tựu công đức Tự tha không ngăn ngại.

Văn phần một phân hai: Một là một trăm mười chín kệ phân rõ tướng sai biệt của Tự lợi; hai là từ “Hoặc hữu sát độ vô hữu Phật…” trở xuống có mười bốn kệ về hạnh Lợi tha.

Văn phần một về Tự lợi có mười:

  1. Mười tám kệ đầu trình bày tướng của phần vị thứ nhất của Thập Tín, nói rõ về Tín bốn bất hoại.
  2. Từ “Nhược tín cung kính nhất thiết Phật…” trở xuống có mười kệ, là phần vị thứ hai giống như tướng của Địa thứ hai.
  3. Từ “Nhược tín kiên cố bất khả động…” trở xuống có bảy kệ, trình bày về phần vị thứ ba giống như tướng của Địa thứ ba.
  4. Từ “Nhược vi nhất thiết Phật sở hộ…” trở xuống có tám kệ, trình bày về phần vị thứ tư giống như tướng của Địa thứ tư.
  5. Từ “Nhược năng cụ túc Ma-ha-diễn…” trở xuống có chín kệ, trình bày về phần vị thứ năm giống như tướng của Địa thứ năm.
  6. Từ “Nhược đắc Đại Bi tâm kiên cố…” trở xuống có tám kệ, trình bày về phần vị thứ sáu giống như Địa thứ sáu lấy Đại Bi làm đầu để quán sát….
  7. Từ “Nhược giải nhất thiết chúng sinh hạnh…” trở xuống có tám kệ, trình bày về phần vị thứ bảy giống như tướng của Địa thứ bảy.
  8. Từ “Nhược năng siêu xuất tứ ma đạo…” trở xuống có mười chín kệ, phân rõ về phần vị thứ tám giống như hành tướng của Địa thứ tám;
  9. Từ “Nhược thuyết vi diệu thậm thâm pháp…” trở xuống có mười ba kệ, trình bày về phần vị thứ chín giống như tướng thuyết pháp của Địa thứ chín.
  10. Từ “Nhược thân công đức trí tuệ cụ…” trở xuống có mười tám kệ, phân rõ về phần vị thứ mười giống như tướng của Địa thứ mười.

Văn của phần vị thứ nhất có hai: Một là mười sáu kệ đầu phân rõ về đức của phần vị thứ nhất, hai là từ “Thị cố…” trở xuống hai kệ gồm chung ca ngợi đức theo thứ tự của mười phần vị. Văn phần một có hai: Một, bốn kệ đầu phân rõ về cảnh giới của Tín; hai, có mười hai kệ mở rộng nghĩa ca ngợi về đức sinh thiện diệt chướng của Tín. Văn phần một về cảnh giới có hai: Hai kệ đầu là Tam bảo, hai kệ tiếp theo là ba loại Phật tánh. Nếu Tín không thể hoại, thì vì sao Luận nói căn thiện ít Hỷ-Xả…? Giải thích có hai: Một, đây là trình bày về người lập tức tiến vào Nhất thừa; hai, trình bày chủng tử này không phải là phần vị tâm hành bậc Thượng, cũng có thể Tín này đầy đủ tâm luôn luôn không lui sụt. Đây là nói trú trong Tín đầy đủ tâm thực hành mười Giải có thể thành tựu hạnh, bởi vì các kinh nói khác nhau, theo đây suy nghĩ để thâu nhiếp. Hai là từ “Thị cố…” trở xuống kết luận có hai kệ, một kệ đầu là pháp thuyết, một kệ tiếp là ví dụ, hai kệ là văn về hai phần nhân hạnh của phần mình.

Trong phần hai là Lợi tha có bốn:

  1. Tám kệ đầu trình bày về phương tiện thanh tịnh tám tướng thành đạo giáo hóa.
  2. Tiếp theo hai kệ là phương tiện giáo hóa không nhiễm ô.
  3. Tiếp theo một kệ trình bày về Thể của Đại dụng.
  4. Tiếp theo ba kệ là kết luận ca ngợi tự tại.

Phần hai, từ “Thí giới nhẫn nhục tinh tiến thiền…” trở xuống phân rõ về thắng tiến, văn có hai: Một, chín mươi kệ đầu trình bày về hạnh Tự lợi đầy đủ Phật sự; hai, từ “Thuyết pháp giáo giới cập thiền định…” trở xuống có hai trăm mười lăm kệ nói về hạnh Lợi tha. Văn về hạnh Tự lợi có ba:

  1. Bảy mươi kệ đầu là thân nghiệp không Không.
  2. Từ “Nhu nhuyến mỹ thanh như ai loan…” trở xuống có bốn kệ là khẩu nghiệp.
  3. Từ “Chúng sinh khổ lạc lợi vô lợi…” trở xuống có mười sáu kệ là ý nghiệp.

Tiếng (thanh) có tám loại như trong kinh Phạm Ma Dụ nói:

  1. Tiếng hay nhất, tiếng ấy thanh nhã như tiếng Ca-lăng…
  2. Tiếng dễ hiểu, ngôn từ phân biệt rõ ràng.
  3. Tiếng điều hòa, tiếng ấy sang sảng oai hùng.
  4. Tiếng mềm mại.
  5. Tiếng không sai.
  6. Tiếng không yếu đuối.
  7. Tiếng trí tuệ tôn quý nói không run sợ, như người tôn trọng, như người trí tuệ thù thắng nói không hề sợ hãi.
  8. Tiếng sâu xa phát ra từ phần rốn, tiếng giống như sấm chấn động.

Văn bảy mươi kệ đầu có ba: Một, mười kệ đầu là đưa ra Dụng của thân nghiệp, Thể gọi là Định; hai, từ “Nhược dục cúng dường nhất thiết Phật…” trở xuống có ba mươi bốn kệ chính thức trình bày về thân nghiệp; ba, từ “Dục an nhất thiết…” trở xuống có hai mươi sáu kệ trình bày về hiện rõ các pháp môn giáo hóa, cũng chính là việc đã làm.

Hai là văn phần Lợi tha thắng tiến có ba, tức là Tam Luân: Một, hai mươi tám kệ đầu trình bày về Thần túc hóa; hai, từ “Nhược kiến thế gian vô chánh kiến…” trở xuống có chín kệ về Thuyết pháp luân; ba, từ “An ẩn chúng sinh…” trở xuống có một trăm bảy mươi tám kệ về Túc trú luân hóa, tức là nhớ lại giáo hóa. Đây là dựa theo nhân vốn có mà nói, nếu hướng về duyên hiện tại thì tức là Ký tâm luân. Văn về nhớ lại, có ba: Một là tổng quát, hai là riêng biệt, ba từ “Như thị đẳng tỷ…” trở xuống là kết thúc.

Trong riêng biệt gồm có bốn mươi bốn sự việc, mỗi sự việc đều có ba: Một là nêu ra tên gọi và Thể, hai là ánh sáng có tác dụng căn bản, ba là nói về nhân vốn có. Trong văn có mười loại lời nói phi pháp là dựa vào luận sau dùng mười bảy loại lời nói vốn có trong kinh làm mười loại lời nói phi pháp, đó là: Lời nói làm não hại, lời nói thô lỗ, lời nói làm khổ người khác, lời nói làm người khác tức giận, bốn lời nói này là một loại; lời nói ở trước mặt, lời nói không ở trước mặt, lời nói thô ác, lời nói không dứt, bốn lời nói này là bốn loại; lời nói không thích nghe, lời nói nghe không vừa lòng, hai lời nói này là hai loại; lời nói tức giận buồn phiền là một loại; lời nói như lửa giận có thể đốt cháy, lời nói làm cho tâm nóng bức phiền muộn, lời nói không mến, lời nói không thích, bốn lời nói này là một loại; lời nói không khéo tự làm hại mình, cũng làm hại đến người khác, hai lời nói này là một loại; mười lời nói phi pháp này phát sinh phiền não đến sự việc của người khác làm chướng ngại đến Định của họ.

Lại dựa vào mười loại lời nói phi pháp trong kinh Nhiên Đăng:

  1. Lời nói dối.
  2. Lời nói làm khổ tâm.
  3. Lời nói thô lỗ.
  4. Lời nói tệ hại.
  5. Lời nói không vui;
  6. Lời nói không thích.
  7. Lời nói không yêu thương.
  8. Lời nói không hợp lòng người.
  9. Lời nói não hại người khác.
  10. Lời nói kết buộc oán thù.

Văn kết luận có bốn: Một có bốn kệ nêu ra Thể của pháp; hai có sáu kệ phân rõ về lợi ích; ba có bảy kệ về dụ; bốn có ba kệ kết luận khuyến khích có thể biết.

Tiếp theo phần thứ ba có tám mươi mốt kệ, trình bày về thành tựu công đức Tự tha không ngăn ngại có ba: Một, từ “Thần lực ư thử đắc tự tại…” trở xuống có mười bảy kệ trình bày về tự tại đối với Khí thế gian; hai, từ “Đông phương thế giới vô hữu dư…” trở xuống có mười kệ trình bày về tự tại đối với trí Chánh giác; ba, từ “Ư nhãn căn trung nhập chánh thọ…” trở xuống có năm mươi bốn kệ trình bày về tự tại đối với chúng sanh thế gian.

Văn chúng sanh thế gian có năm: Một, có hai mươi bốn kệ trình bày về Tự thân nhập định; hai, từ “Đồng tử thân nhập chánh thọ…” trở xuống có mười bốn kệ trình bày về nhập định đối với thân khác; ba, từ “Nhất mao khổng nhập…” trở xuống có bốn kệ trình bày về Tự-tha xuất nhập tự tại; bốn, từ “Nhất vi trần nhập…” trở xuống có mười kệ trình bày về nhập định ở ngoài bốn đại; năm, từ “Thị danh…” trở xuống là kết luận ca ngợi vô tận.

Văn về Tự thân có mười hai Nhập tức là hai mươi bốn mà thôi. Ba thế gian trên đây tạm thời dựa theo một tướng mà nói, Lý có hai nghĩa: Một, Tự thân Bồ-tát làm ba thế gian; hai, Bồ-tát thị hiện tự tại đối với ba thế gian. Văn trên tức là môn thứ hai.

Thứ ba có một trăm năm mươi bốn kệ trình bày về tôn chỉ sâu xa của pháp, chúng sinh không hiểu được, đưa ra ví dụ tương tự để trả lời. Trên đây là chính thức trả lời để bắt đầu kiến lập, nghĩa về đức hànhcăn thiện hiển bày ở đây, mà phần vị thì nói sau, là bởi vì ngoại phàm mới bắt đầu hạnh của phát tâm. Nhưng kinh văn đã phân rõ, chính là nói Thập Địa cuối cùng tiến vào cảnh giới Vô thượng Bồ-đề của Phật đầy đủ Phật sự. Nói như vậy thì mâu thuẫn, nguyên cớ thế nào? Nếu suy xét kỹ về sự thật ấy, thì đó là hạnh chủ yếu nối thông tông chỉ của Nhất thừa, nghĩa phát khởi nguồn gốc Chân như mà không rời bỏ thế gian, thấu suốt nguồn cội sâu xa, trải rộng khắp nơi pháp giới, diệu tuyệt tình thức thấp kém, công hiển bày không ở ngoài, Thể không có gì không dung hợp, Hạnh không có gì không có mặt, trước sau không hai, mục đích ở tại một Vị. Vốn là quả của quả không khác nhân, nhân của nhân không khác quả, mà nhân quả phù hợp dựa nhau hiển bày đối với duyên, duyên ấy chính là phẩm loại sai khác, cùng vượt qua thiếu đủ tự nó, đối với mình là tự nhiên. Vì vậy dựa vào sự học hỏi của mình để làm sáng tỏ dấu tích phát khởi, công thành có nơi chốn, mà pháp thì mở rộng, hành thì giới hạn, sự hiển bày nghi thức thông thường, hoặc có lúc xem xét chân thật. Vì vậy cần phải lựa chọn rõ ràng, làm cho gương sáng của Viên tông soi chiếu huyền chân thù thắng, lời nói phát ra biểu thị không phải là cảnh giới của suy nghĩ. Như vậy mà tình thức nông cạn vướng mắc, tôn chỉ sâu xa khó lường, trái lại đối với thấy nghe, che kín giáo pháp giữ lấy giải thích, càng thêm mê hoặc tình thức. Tự mình không nhờ vào ví dụ để mô phỏng dẫn dắt đạt được tâm ấy, thì không biết từ đâu dẫn đến tin tưởng, cho nên đưa ra việc gần để hướng về gương sáng huyền diệu mà thôi.

Văn có hai: Một, hai kệ đầu tổng quát nêu ra những sự việc không thể nghĩ bàn của rồng thần và Phật…; hai, từ “Kim thuyết…” trở xuống mở rộng nêu ra nói về dụ.

Có ví dụ về hai mươi sự việc:

  1. Dụ về hình tướng sâu rộng của đức hạnh.
  2. Dụ về đức chân thật lìa xa sai trái.
  3. Dụ về trì pháp rõ ràng.
  4. Dụ về biện tài khiến cho vui thích.
  5. Dụ về khéo léo sử dụng khiến chô vui thích.
  6. Dụ về giảm lớn tăng nhỏ.
  7. Dụ về tác dụng tự tại của Định.
  8. Dụ về biến hóa tự tại.
  9. Dụ về đức hơn hẳn thù oán.
  10. Dụ về lợi ích chúng sinh rộng lớn.
  11. Dụ về chúng sinh yên ổn trừ bỏ sợ hãi.
  12. Dụ về tùy cơ ứng hiện.
  13. Dụ về thâu nhiếp thực hành tự tại.
  14. Dụ về giải thoát tự tại.
  15. Dụ về nhanh chóng biết pháp.
  16. Dụ về thành tựu việc làm không ngăn ngại.
  17. Dụ về thuận theo giáo pháp khiến cho vui thích.
  18. Dụ về rõ ràng thêm cơ.
  19. Dụ về nêu ra dưới thành tựu trên.
  20. Dụ về tự tại đến cùng nguồn cội.

“Như ngã sở thuyết chư thí dụ” là phần thứ tư khuyến khích phát tâm tu hành, văn có hai: Một, bốn kệ đầu phân rõ có thể thuyết giảng là khó; hai, bảy kệ tiếp theo trình bày tin nhận là khó. Tiếp theo mười kệ mượn ví dụ khó có năm sự việc để ca ngợi về thù thắng vi diệu, mà pháp nói ra đã sâu xa, nghĩa ấy hướng về chân thật phát khởi đạt được tâm Thánh cảm ứng. Tiếp theo phần thứ ba có sáu kệ trình bày về thụy tướng xoa đầu khen ngợi thuyết giảng…, thành tựu khéo léo thuyết giảng.

 

Trang: 1 2 3 4 5