Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện
Bối cảnh lịch sử triều đại nhà Minh
Chu Nguyên Chương (1368-1398) vốn đã làm chú tiểu trước khi tham gia khởi nghĩa (1280-1368). Cuộc khởi nghĩa toàn thắng nhờ sự tiếp sức và ủng hộ của những hội kín có liên hệ với Phật Giáo như hội Bạch Liên và hội Di Lặc. Chu Nguyên Chương tự gọi mình là Minh Vương, vì tự cho rằng ông là một vì vua Chuyển Luân có liên hệ với Phật Di Lặc. Do đó, triều đại ông lập nên được gọi là triều Minh. Trong những năm đầu của triều Minh, chư Tăng rất được tôn sùng. Tuy nhiên, việc này khiến cho các Nho sĩ sanh tâm ghen ghét. Kể từ năm thứ 15 của triều Minh, niên hiệu Hồng Võ, Chu Nguyên Chương tăng thêm những sắc lệnh về tôn giáo để khống chế Phật giáo và Nho giáo vì sự thoái hóa do chiến tranh gây nên. Chu Nguyên Chương cũng nhận ra tầm nguy hiểm của các hội kín có xu hướng chống lại triều đình. Năm đầu niên hiệu Hồng Võ, Chu Nguyên Chương lập ra các bộ để giám sát Phật Giáo và Ðạo Giáo trong toàn quốc, như ty Tăng Lục và ty Ðạo Lục. Ðứng đầu ty Tăng Lục là một vị tăng trưởng lão và một vị Thiện Sĩ hoặc một vị cao tăng. Các ngài nhận chức là 6a ( địa vị quan chức trong triều đình vào thuở đó, cao nhất là 1a và thấp nhất là 9b) nhưng không lãnh lương bổng (Sau năm 1393, các vị Tăng Cang và Ðạo Cang đều nhận lương bổng). Trung tâm hành chánh của ty Tăng Lục đặt tại chùa Thiên Giới.
Sau khi hoàng đế dời kinh đô từ Nam Kinh lên Bắc Kinh vào năm 1403, các vị Tăng Cang của ty Tăng Lục cũng được chuyển lên chùa Khánh Thọ ở Bắc Kinh. Song, trung tâm hành chánh phụ của ty Tăng Lục vẫn còn đặt nơi chùa Thiên Giới và Báo Ân tại Nam Kinh.
Chu Nguyên Chương lược kê chư tăng vào các hạng như Thiền (tức tu theo Thiền tông), Giảng (tức giảng kinh thuyết pháp), Giáo (tức nghiên cứu kinh giáo). Thiền, tức Thiền tông, là tông phái mạnh nhất trong triều Minh. Giảng, tức giảng kinh thuyết pháp, và tương đương với Giáo trong triều Tống. Giáo, tức đọc tụng nghiên cứu kinh giáo. Song, chữ Giáo trong triều Minh khác với chữ Giáo trong triều Tống. Ðể tránh lầm lẫn, danh từ “Du Già” thường được thay thế cho chữ ‘Giáo’, nhằm nhấn mạnh rằng những vị tăng thuộc hạng ‘Giáo’ vốn là hạng tu sĩ bình thường, chuyên đọc tụng kinh điển và làm nghi lễ rườm rà.
Trong triều Tống, Phật giáo được phân rõ thành ba tông phái chính: Thiền tông, Giáo Tông, và Luật tông. Ðến triều Minh, Luật tông đã bị thoái hóa nhiều nên Chu Nguyên Chương thay thế Luật tông bằng Giáo tông hay Du Già tông. Theo một sử liệu quan trọng của Phật giáo, mục đích của tăng sĩ thuộc ‘Giáo tông’ trong triều Minh là làm nghi lễ như lễ phóng sanh, lễ cầu nguyện tiêu tai giải trừ họa nạn, lễ diệt trừ nghiệp chướng, lễ cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc được siêu sanh. Danh từ ‘Du Già’ thường được thay cho chữ ‘Giáo’ vì các vị tăng sĩ thuộc hạng này không những thường thực tập pháp Du Già mà cũng thường làm nghi lễ, bao gồm những nghi thức về Mật tông. Vì các vị tăng này thường ra ngoài làm lễ cho dân chúng nên được gọi là ‘Phó Ứng Tăng’.
Ðương thời, dầu Thiền tông rất được trọng vọng, nhưng các tăng sĩ thuộc hạng Giáo tông lại chiếm hơn phân nửa số tăng lữ. Hoàng đế phân biệt rõ ràng giữa Thiền tăng, tức những vị tăng thọ trì giới luật tại giới đàn, và tăng sĩ thuộc hạng cúng bái, tức những người mua giới điệp từ triều đình. Những tăng sĩ thuộc hạng cúng bái thường rất gần gũi với quần chúng Phật tử. Dĩ nhiên, hạng tăng sĩ cúng bái cũng phải theo giới luật của các tùng lâm, tự viện. Ngoài ra, nhờ sự kiểm soát giới điệp và lập những luật lệ khống chế tăng sĩ cúng bái, triều đình có khả năng kiểm soát quần chúng Phật tử và loại trừ những phần tử chống đối triều đình như những hội kín và những tà giáo. Vì hạng tăng sĩ cúng bái thường sống chung với quần chúng Phật tử và đôi khi lại có gia đình, và vì Phật tử tại gia cũng thường hành lễ rất đa dạng, nên bước đầu tiên là tách rời tăng sĩ chính thống cùng tăng sĩ cúng bái ra khỏi đại đa số quần chúng.
Mật giáo Tây Tạng vốn là quốc giáo của triều Nguyên. Do đó, trong những năm đầu nhà Minh, Mật giáo vẫn còn thịnh hành. Chu Nguyên Chương dường như cố gắng kềm chế Mật giáo, như sai ty Tăng Lục ấn hành những bộ kinh chú hợp pháp làm lễ. Những bài kinh chú không hợp với quần chúng hay không thích hợp với luật lệ đương triều đều bị loại bỏ. Những bộ chú thuần Mật giáo cũng không được phép ấn hành. Ðây không có nghĩa là không có ai hành trì Mật chú.
Giá tiền tụng kinh Hoa Nghiêm thời đó là mười lạng bạc. Tụng kinh chú Thủy Lục và chú Thủ Lăng Nghiêm là nửa lạng bạc.
Ðể tránh sự hỗn tạp, ba hạng tăng sĩ được cấp y ca sa với những màu sắc khác nhau. Cũng vậy, tất cả tự viện nổi tiếng được liệt vào ba hạng khác nhau. Vào những năm đầu nhà Minh, chùa Thiên Giới là trung tâm chính của Thiền tông, tức giám sát những tăng sĩ tu theo Thiền tông. Chùa Báo Ân trông coi tăng sĩ thuộc hạng ‘Giảng Sư’. Chùa Năng Nhân chuyên trông coi về tăng sĩ thuộc hạng ‘Giáo Tăng’, tức tu sĩ cúng bái. Ðương thời, ba ngôi tự viện này ở miền Nam vốn là những trung tâm tu học quan trọng nhất. Chúng đều tọa lạc trên đồi, về phía Nam của Nam Kinh, không xa kinh thành cho lắm. Ban đầu, Ngài Hám Sơn vốn là học tăng thuộc về hạng ‘Giảng Sư’ tại chùa Báo Ân, nơi Ngài thọ giới Cụ Túc, nhưng về sau Ngài cũng tu Thiền tại chùa Thiên Giới.
Ðôi khi nhiều ngôi chùa nhỏ liên hợp lại thành một ngôi chùa lớn, và thường được gọi là “đại tùng lâm”. Lắm khi, tăng sĩ và đạo sĩ cùng nhau tu học trong một tùng lâm. Kể từ năm 1372, triều đình ban nhiều sắc lệnh liên hệ với những hoạt động về tôn giáo. Tăng sĩ không được sống chung với quần chúng. Con số tăng lữ và tự viện cũng bị giới hạn.
Theo sắc lịnh vào năm 1387, những ai dưới hai mươi tuổi không được phép thọ giới làm tăng sĩ. Vào năm 1394, lại có một sắc lệnh là những ai dưới hai mươi tuổi muốn vào tu tại các tự viện, phải được cha mẹ và triều đình cho phép. Sau ba năm huấn luyện, điều kiện được thọ giới là những vị sa di phải vào kinh đô để được khảo hạch những kiến thức về kinh điển Phật giáo. Nếu thi rớt, họ sẽ bị đánh và đuổi về làm thường dân. Theo vài tài liệu, bảo rằng triều đình ban sắc lệnh là trong mỗi quận lỵ chỉ được có khoảng từ bốn mươi đến sáu mươi vị tăng. Nếu không có sự chấp thuận của triều đình, không ai được quyền xây thêm chùa chiền. Những tăng sĩ phạm luật này sẽ bị đuổi về làm thường dân và đày làm lính thú tại những vùng biên giới (Vì xây chùa Quán Âm ở Lao Sơn bất hợp pháp mà Ngài Hám Sơn phải bị bắt hoàn tục và làm lính thú ở miền nam vào năm 1596.)
Việc thi hành những sắc lệnh này rất đa dạng và phức tạp vì tùy thuộc vào mỗi niên đại của triều Minh và tùy theo từng vùng trong nước. Dĩ nhiên, đối với Phật giáo, mỗi hoàng đế có những ưu đãi hay bạc đãi riêng biệt. Có lắm khi Phật giáo bị kềm chế gắt gao, và cũng có khi được nới lỏng. Số giới điệp để làm tăng sĩ hay đạo sĩ, được bộ Lễ bán ra vào năm 1440 là 20.000. Vào năm 1487, số giới điệp được bán ra để làm tăng sĩ là 200.000. Ðôi khi, giới điệp được bán nơi chợ búa. Những số tiền bán giới điệp thường được dùng vào những công tác từ thiện như cứu dân chúng bị thiên tai hoạn nạn hay đói kém. 200.000 giới điệp được bán ra vào năm 1487 nhằm vào mục đích cứu nạn đói tại Giang Tây.
Dầu rất thịnh hành, nhưng tông Tịnh Ðộ không được chấp nhận chính thức trong ba tông chính của Phật giáo vào triều Minh. Thật ra, tông Tịnh Ðộ nằm vào hạng Thiền Tông. Vì rất được phổ biến trong đại đa số quần chúng Phật tử, nên tông Tịnh Ðộ cũng liên hệ gần gũi với hạng ‘Giáo Tông’. Ngoài ra, cũng có nhiều tự viện không được xếp đúng đắn trong ba hạng giáo. Vài ngôi chùa có sự liên hệ với tông Tịnh Ðộ và Luật tông.
Thật ra, vào cuối triều Minh, sự phân chia giữa ba loại tông phái không được rõ ràng. Trong những bài luận, ngài Liên Trì thường dựa vào sự phân hạng của triều Tống để phân biệt các loại chùa viện thuộc tông Thiền, Giảng, Giáo, hoặc Luật, chớ không có Du Già. Theo đại sư Liên Trì, khi đại sư mới thọ giới thì thấy tăng sĩ thời đó đắp những bộ ca sa khác nhau, tùy theo ba loại tông phái. Ngược lại, Ngài Hám Sơn kể rõ sự phân chia giữa ba loại tông phái là Thiền, Giảng, Giáo rõ ràng. Ngài trách cứ rằng hầu hết tăng sĩ đều đắp những bộ y ca sa với màu sắc rực rỡ, chẳng khác nào y phục của dân chúng. Ðạo Phật trong thời của ngài Hám Sơn và Liên Trì có thể tương đối hỗn loạn. Giáo (hay Du Già) và Luật có lẽ liên hợp với nhau.
Trong cuối thế kỷ thứ mười sáu và đầu thế kỷ thứ mười bảy, bốn vị cao tăng xuất hiện: Ngài Hám Sơn, Liên Trì, Tử Bá, Ngẫu Ích. Nhờ các ngài mà Phật giáo mới được hồi sinh trở lại.
Ngài Hám Sơn sanh và thọ giới xuất gia vào niên hiệu Long Khánh (1522-1566), tức vua Thế Tông.
(Ghi chú: Quyển Trung Quốc Sử Cương viết: “Vua Thái Tổ lên ngôi, đóng đô ở Kim Lăng (tức Nam Kinh ngày nay), gọi là Ứng Thiên Phủ, lấy đất Khai Phong làm Bắc Kinh… Dẹp yên đâu đấy rồi, vua lo xếp đặt công việc trong nước. Vua thấy nhà Tống, nhà Nguyên cô lập mà mất, bèn phong cho các con em ở chỗ yếu địa: các nước Tần, Tấn, Yên, Tề, Sở, Thục, Hán, Lương lập nên, được chuyên quyền trong nước mình và lại có nhiều binh lính để làm phiên tỳ che chở cho nhà vua. Yên Vương Lệ ở Bắc Bình, Tấn Vương Cang ở Thái Nguyên đều có thể tiết chế các tướng, nên uy quyền rất lớn. Vì đó mới sinh cái hoạn “nồi da nấu thịt” sau này.
Vua lập con trưởng là Tiêu làm Thái Tử. Tiêu mất, con là Kiến Văn được lập làm Thái Tông. Thái Tông còn bé, vua sợ sau khi vua bách tuế, các công thần chuyên quyền hiếp chế nên trước sau tìm kế vu hãm bọn họ, làm cho liên lụy hàng mấy vạn người lương thiện. Các tướng giỏi đã khổ cực với vua như Giám Ngọc, Hữu Ðức, Phùng Thắng đều lần lượt bị giết; vì thế khi cái loạn Tĩnh Nạn xảy ra không có ai dẹp được.
Vua vốn vi tiện xuất thân, nên đối với các văn thần thường hay nghi kỵ, bề tôi dâng biểu chương trong có chữ gì mà nhà vua nghi ngờ có ý nhạo báng vua thì những người liên hệ việc dâng biểu bị giết hết…
Vua băng, Thái Tông Kiến Văn lên ngôi trở thành vua Huệ Ðế. Khi vua Huệ Ðế còn là Thái Tử, thường lo đến cái hoạn các phiên vương mạnh thế có thể làm nguy cho triều đình, nên đem việc ấy hỏi hoàng tử Trừng. Trừng lấy cái loạn bảy nước đời Hán làm gương và cử Tề Thái để giải quyết.
Vua lên ngôi rồi, bèn cùng hai ông ấy mưu việc tước trừ các phiên vương. Phiên vương nhiều người phải tội chết. Vua nước Yên là Lệ, con thứ vua Thái Tổ, vốn giỏi dùng binh và có nhiều tướng sĩ, thấy mình bị xem xét và đề phòng ngặt quá, bèn cử binh phản, lấy tiếng là để giết hoàng tử Trừng và Tề Thái, gọi binh ấy là binh Tĩnh Nạn.
Vua Huệ Ðế sai Cảnh Bính Văn, Lý Cảnh Long chống cự, đều thua to. Vua bèn sai sứ đến Yên xin nghị hòa, nhưng không thành. Yên Vương Lệ vào đánh kinh đô, tướng giữ thành xin hàng. Trong cung phát hỏa, vua Huệ Ðế không biết ra thế nào.
Lệ lên ngôi Hoàng Ðế; ấy là vua Thành Tổ. Việc cướp ngôi này bị thanh nghị hủy báng lắm (Vua Thành Tổ cướp ngôi rồi sai Văn Học bác sĩ là Phương Hiếu Nho thảo tờ chiếu lên ngôi. Nho không chịu làm, vua dọa giết hết cửu tộc. Nho đáp: «Dẫu giết hết mười tộc cũng chẳng sao!»
Vua đưa bút ép, Nho viết lớn bốn chữ: «Giặc Yên cướp ngôi » (Yên tặc thoán vị). Vua giận sai giết hết chín tộc. Vua Thành Tổ giết hại nhiều quần thần triều trước, làm liên lụy đến nhiều người khác. Vua lo phòng bị người Mông Cổ, nên năm 1421, dời đô về Bắc Kinh, nguyên là kinh đô của nhà Nguyên, gọi là Bắc Kinh, còn Kim Lăng thì gọi là Nam Kinh…
Bấy giờ ở nước Việt Nam ta, Hồ Quý Ly đã tiếm ngôi nhà Trần, đổi quốc hiệu là Ðại Ngu. Ðến con là Hồ Hán Thương dâng biểu sang vua Thành Tổ nói dối là nhà Trần hết người, nên y là cháu ngoại lên thay, được phong là An Nam quốc vương. Sau có cựu thần nhà Trần là Bùi Bá Kỳ qua cáo biến, rồi có Trần Thiểm Bình tự nhận là con vua Trần Nghệ Tông qua nói rõ tình hình và xin binh phục thù, vua Thành Tổ sai sứ sang trách, họ Hồ dâng biểu tạ tội và xin rước Thiểm Bình về nước. Vua Minh đưa Bình về, đến Chi Lăng, đã có tướng của Hồ đón, đem về rồi giết. Vua Thành Tổ giận, sai Trương Phụ và Mộc Thạnh sang đánh diệt nhà Hồ, lấy nước ta, đặt Bố Chính Ty để cai trị. Nước Chiêm Thành và nước Lão Qua cũng đều phụ thuộc vào đấy… Ðời vua Thành Tổ đã đem nước Việt Nam ta sáp nhập vào Trung Quốc, chia làm phủ, châu và vệ để cai trị. Bấy giờ con cháu nhà Trần là Giản Ðịnh Ðế, Trần Quý Khoách nổi lên mưu việc khôi phục, nhưng rồi cũng bị Trương Phụ dẹp tan cả. Ðến cuối đời vua Minh Thành Tổ, vua Lê Thái Tổ nước ta là ông Lê Lợi khởi nghĩa, dần dần đánh thắng quân Minh nhiều trận. Ðến vua Minh Tuyên Tông, sai Vương Thông sang chống cự, nhưng Vương Thông cũng thua luôn rồi phải xin hòa. Từ đó, nước Việt Nam ta tách khỏi bản đồ nước Tàu, chỉ còn phải giữ lệ triều cống mà thôi…
Ðời Minh, trong loạn Thổ Mộc, vua Anh Tông đã từng bị bắt. Em của vua Anh Tông là Chu Kỳ Ngọc (tức là Thành Vương) lên ngôi. Sau này Anh Tông được thả về kinh đô. Lúc Chu Kỳ Ngọc bị bịnh nặng, Anh Tông lên ngôi tức vị trở lại. Sách Trung Quốc Sử Cương viết:
“Ðời vua Thành Tổ, phong cho tù trưởng Mã Cáp Mộc làm Thuận Ninh Vương, nhưng sau Cáp Mộc phản, bị đánh thua phải hàng. Ðến đời vua Anh Tông, tù trưởng là Dã Tiên (cháu nội Mã Cáp Mộc) đã mạnh lắm, bắt Trung Quốc hằng năm phải cống tiền của và những đồ vật quý lạ. Rồi sau nhân các điều yêu sách không được thỏa mãn, bèn cử đại binh vào đánh, hạ được nhiều đồn ải. Bấy giờ hoạn quan Vương Chấn đương được vua sủng tín, khuyên vua thân chinh. Vua sai em là Thành Vương giữ kinh đô, rồi đem quân đi, đến Tuyên Phủ, quần thần xin ngừng lại, nhưng Vương Chấn không chịu. Vua đến Ðại Ðồng, Vương Chấn xin tiến nữa, nhưng vua nghe lời thái giám Quách Kỉnh, lui quân. Dã Tiên đuổi theo, vây vua tôi nhà Minh ở đồn Thổ Mộc (phía tây huyện Hoài Lai, tỉnh Sáp Cáp Nhĩ), rồi Vương Chấn cùng nhiều đại thần bị giết, vua Anh Tông bị bắt. Chốn Kinh Sư chấn động, nhiều người bàn nên dời đô về Nam, nhưng Vu Khiêm, Thị-lang Bộ binh không chịu, lập Thành Vương lên ngôi. Ấy là vua Cảnh Ðế, tôn vua Anh Tông làm Thái Thượng Hoàng. Dã Tiên nói là để đưa Thái Thượng Hoàng về, đem quân vào bức kinh đô, và đòi các đại thần phải ra rước Thái Thượng Hoàng. Vu Khiêm đốc suất quân sĩ đại phá được quân Dã Tiên, và nhờ bấy giờ tướng súy trấn giữ các nơi có nhiều người khá, nên thắng quân giặc được nhiều trận. Dã Tiên phải xin hòa, đưa Thái Thượng Hoàng về.
Vua Thái Tổ đã khắc vào bia để ở cung môn cấm hoạn quan dự việc triều chính. Khi binh Tĩnh Nạn dấy lên, có nhiều hoạn quan phụ theo nên vua Thành Tổ mới bắt đầu dùng bọn ấy vào những việc đi sứ, việc quân, và lập ra Ðương Xưởng giao cho hoạn quan làm chủ để dò xét ẩn sự của thần dân. Về sau, hoạn quan dần dần đắc dụng, nhiều khi nắm cả chính quyền, làm cho việc nội trị nhà Minh hủ bại. Ðời vua Anh Tông, hoạn quan Vương Chấn được tin dùng, làm những việc càn dở, kết quả gây nên cái họa ở Thổ Mộc. Khi được Dã Tiên đưa về rồi, vua Anh Tông ở Nam Cung; vừa gặp lúc vua Cảnh Ðế đau, Thạch Hanh mưu cùng hoạn quan là Tào Cát Tường đem gia binh phá cửa vào cung, rước vua Anh Tông trở lên ngôi, phế vua Cảnh Ðế xuống tước Thành Vương. Cậy công ấy, bọn Thạch Hanh tha hồ làm bậy, vu Vu Khiêm rồi đem giết, trăm họ đều oán giận. Về sau Thạch Hanh mưu phản, bị giết chết.
Vua Hiến Tông kế vị vua Anh Tông, ban đầu dùng Lý Hiền, Bành Thời, Thương Lạc làm tướng, dẹp bình nội loạn, lại đánh được rợ Diêu Ðồng ở Ðại Ðằng, trong nước yên được một thời gian. Về sau, Lý Hiền, Bành Thời mất, vua nhác việc triều chính, chỉ vui chơi với các cung phi có đến số vạn. Thái giám là Ương Trực, giống rợ Diêu Ðồng, rất xảo quyệt, được vua tin dùng. Vua lập thêm Tây Xưởng, giao cho Trực trông nom để dò xét việc ngoài, Trực sai Hiệu Úy ra khắp bốn phương, hà nhiễu, vu hại trăm họ, quan dân đều ta thán.
Hiến Tông băng, Hiếu Tông lên ngôi, dùng Lưu Kiện, Tạ Thiên giúp việc, việc chính trị được sáng sủa một thời gian.
Ðời kế vua Hiếu Tông là vua Võ Tông, hoạn quan Lưu Cẩn chuyên hoạnh càng lắm. Cẩn dẫn vua chơi bời, mọi việc triều chính đều tự mình quyết định, lại đến nỗi nhiều khi bày cho vua làm những điều phi pháp. Vua Thế Tông kế vị vua Võ Tông (1521) là người có học vấn, tính nghiêm lệ, giá ngự được bọn hoạn quan, nhưng không sáng suốt, từ trung niên về sau mê việc thần tiên, xao lãng việc chính, để cho Nghiêm Tung trộm quyền làm bậy. Nội chính đã hư, ngoại hoạn lại gấp, nhà Minh bắt đầu đi đến tàn cuộc vậy.
Vua Thế Tông, hiệu Long Khánh (1567-1572), sùng tín Ðạo giáo, nên dành hết thì giờ trong cấm cung để chế thuốc tiên và hành lễ Ðạo giáo mà xao lãng việc triều chính. Năm 1536, nhà vua ra lịnh hủy phá các tượng Phật trong hoàng cung và tại kinh đô. Ông mất vì uống thuốc tiên .
Ðến đời vua Thần Tông, niên hiệu Vạn Lịch (1573-1620), Phật giáo được phát triển mạnh mẽ trở lại. Ngài Hám Sơn trưởng thành trong niên hiệu Vạn Lịch này. Ðạo Phật được phát triển mạnh mẽ trong niên hiệu Vạn Lịch phần lớn nhờ sự ủng hộ của Lý thái hậu (1556-1614). Cuộc đời của ngài Hám Sơn gắn liền với sự tranh chấp quyền hành giữa Lý thái hậu và vua Thần Tông. Kết quả là ngài Hám Sơn bị bắt hoàn tục và lưu đày vào miền Nam. Cấu trúc của chính thể tại triều đình là nền tảng căn bản cho sự tranh chấp. Vua Hồng Võ (Chu Nguyên Chương) thiết lập nội các triều đình cơ bản như sau: trung ương thì đặt Trung Thư Tỉnh, rồi chọn tả hữu Tể Tướng từ trong đó. Bên dưới Tể Tướng là lục bộ: Bộ Lại, bộ Hộ, bộ Lễ, bộ Binh, bộ Hình, bộ Công. Sau này, vì có Tể Tướng là Hồ Duy Dung mưu phản vào năm thứ 13 đời vua Thái Tổ, nên nhà vua ra sắc lệnh những thái tử nối ngôi nhà Minh phải hủy bỏ Trung Thư Tỉnh, và bảo rằng triều thần nếu có ai còn nhắc đến việc lập Tể Tướng thì sẽ bị cực hình. Do đó, nhà vua để cho lục bộ chuyên quyền hành. Vì không có cơ cấu trung ương, nên nhà vua thường dựa vào viện Hàn Lâm để cung cấp quan văn và các đại học sĩ cho triều nội. Từ viện Hàn Lâm sản sinh ra Nội Các. Mỗi phần tử của Nội Các đều tự xưng là Ðại Học Sĩ. Họ phục tùng theo và được viện Hàn Lâm cử vào nhậm chức trong hoàng cung. Ðồng thời họ cũng thường được bổ chức vào lục bộ. Thế nên, Nội Các làm môi giới giao tiếp giữa triều nội và lục bộ. Từ đó, Nội Các dễ dàng bị hoàng tộc, cung phi, thái giám lợi dụng. Họ cũng bị các quan lại trong lục bộ ghen ghét vì thường được bổ chức vụ cao nhờ sự liên hệ với viện Hàn Lâm chứ không phải do kinh nghiệm hành sự ở các bộ. Va chạm quyền hành thường xảy ra một khi hoàng đế và nội các bị hoàng tộc hay các quan thái giám lợi dụng.
Theo sắc lệnh của vua Hồng Võ, các vị vua sau này không được lập ra chức Tể Tướng. Nhưng trên thực tế, có quan Thủ Phủ thường hành sự như quan Tể Tướng. Vì sự sắp đặt triều chính bất định, nên đây là nguyên nhân chính sanh ra các việc tranh giành quyền thế.
Lúc lên ngôi, vua Thần Tông, hiệu Vạn Lịch, chỉ có mười tuổi, nên Lý thái hậu lo việc nhiếp chính triều nội. Dĩ nhiên bà trở thành một nhân vật rất quan trọng trong nước. Theo sắc dụ nhà Minh, chỉ có cha của thái hậu mới được giữ thái ấp. Song, ba tộc của Lý thái hậu đều được phong cấp thái ấp, tức vi phạm sắc lệnh triều đình. Họ cấu kết với nhau thành nhóm và gây ảnh hưởng rất lớn trong triều nội. Nhờ nhóm này mà Trương Cư Chính (1524-1582), một vị Tể Tướng tài ba nhất của nhà Minh, lên cầm quyền. Lý thái hậu là một tín đồ rất sùng bái Phật giáo. Ðây là yếu tố quan trọng cho sự phục hưng Phật giáo. Ngài Hám Sơn thường gọi bà Lý thái hậu là Thánh Mẫu, và quần chúng thường gọi bà là Phật Lão Nương Nương. Sau này, vua Thần Tông ít sốt sắng ủng hộ Phật giáo hơn bà Lý thái hậu. Trong niên đại Vạn Lịch, các bộ kinh Ðại Tạng đều được in ấn.
Sự thăng chức của Trương Cư Chánh là một thí dụ điển hình của việc tranh chấp trong triều nội. Sau khi đậu bằng Tấn Sĩ vào năm 1547, ông trở thành thành viên của viện Hàn Lâm. Năm 1567, vào niên hiệu Long Khánh, ông vừa làm quan nội các vừa làm cố vấn bộ Lại. Sau này, ông làm Giám Học, trông coi dạy dỗ thái tử, tức vua Thần Tông. Khi vua Thế Tông, tức Long Khánh, mất vào năm 1572, Trương Cư Chánh lên làm Thủ Phủ của triều đình. Trong mười năm đầu của niên hiệu Vạn Lịch, quyền hành đều nằm trong tay của Lý thái hậu và Trương Cư Chánh. Nhờ ông ta là một Tể Tướng tài ba lỗi lạc nên quốc gia được hưng thạnh qua những sửa đổi cải cách về ruộng đất, thuế má, biên phòng. Tuy nhiên, ông ta bị quan lại trong lục bộ ghen ghét vì nhiều vị quan bị cách chức.
Khi Trương Cư Chánh mất vào năm 1582, vua Thần Tông bắt đầu tự nhiếp chính triều đình. Nhà vua đã chán ngấy sự dạy dỗ và khống chế bức ngặt của Trương Cư Chánh trong bao năm. Trong việc phấn đấu cho sự độc lập, nhà vua cảm thông nỗi khổ của những người chống chọi Trương Cư Chánh. Thế nên, vừa mất đi thì địa vị và danh tiếng của Trương Cư Chánh liền bị phế bỏ. Bên cạnh đó, mối liên hệ giữa nhà vua và Lý thái hậu cũng sứt mẻ, hàng loạt tranh chấp nổi lên, bao quanh vấn đề chọn lựa thái tử. Những sự tranh chấp này ảnh hưởng lớn lao đối với cuộc đời tu hành của ngài Hám Sơn.
Thần Tông là ông vua biếng nhác thường bỏ bê việc triều chính, chỉ bỏ thời gian hưởng thụ dục lạc với cung tần mỹ nữ trong cấm cung. Những chức vụ trống thường không được bổ sung. Quyết định về những việc quan trọng thường bị đình trệ. Những quan lại thừa quyền của Trương Cư Chánh không đủ sức để lo việc nhiếp chính. Họ vừa bị hoàng tộc và các quan thái giám lợi dụng và vừa bị sự chống đối của các ông quan hủ bại. Sau sự tranh chấp về việc chọn lựa thái tử chấm dứt thì những sự tranh chấp khác lại nổi lên, khiến cho nhà Minh ngày càng bị suy sụp.
Ðảng Ðông Lâm
Sự tranh chấp trong triều nội khiến làm tăng thêm con số quan lại bị bãi chức. Thành viên của đảng Ðông Lâm vốn là những nhà học giả Nho giáo, và hầu hết là theo cánh tả của Vương Dương Minh (Thủ Nhân). Chán chường trước việc triều đình thối nát, họ nhóm họp với nhau để cải cách lại viện Ðông Lâm vào năm 1604 tại Vô Tích ở Giang Tây. Cố Hiến Thành (1550-1612) là một trong những thủ lãnh quan trọng nhất. Ông vốn giữ chức Lại-bộ Viên-ngoại-lang, nhưng vì dâng biểu nói những lời phê bình thẳng thắn nên bị bãi chức, trở về Vô Tích cùng với Cao Phàn Long giảng học ở viện Ðông Lâm. Cố Hiến Thành hết sức bài báng những thất chính của nhà Minh. Bên cạnh những buổi thuyết giảng về văn học, các thành viên còn nghị luận việc triều chính, phê bình các nhân vật quan quyền. Viện Ðông Lâm từ từ nổi danh, nên được sự ủng hộ của các sĩ phu và quan lại triều đình. Dần dần, các thành viên của viện lại nhúng tay trực tiếp vào việc triều chính, nên trở thành đảng phái chính thống, khiến bị các đảng phái của triều thần như Tề-đảng, Sở-đảng, Chiết-đảng, Tuyên-công đảng cùng nhau công kích dữ dội. Ðến đời vua Hy Tông (1621-1627), thái giám Ngụy Trung Hiền chuyên chế việc triều chính, nên bắt bớ, chém giết người của đảng Ðông Lâm, khiến đảng này hầu như bị tiêu diệt. Vua Tư Tông (1628-1644) lên ngôi, giết Ngụy Trung Hiền, rửa oan cho những người bị nó giết hại, nhưng việc triều chính đã đổ nát và việc hoạn quan chuyên quyền làm cho nhà Minh phải mất.
Xuất Thế
Ðại sư Hám Sơn, danh Ðức Thanh, hiệu Trừng Ấn, là một trong bốn vị thánh tăng của triều Minh (Thiền Sư Tử Bá hiệu Ðạt Quán, đại sư Liên Trì, đại sư Ngẫu Ích). Ngài sanh vào ngày mười hai tháng Mười âm lịch, thuộc thời Minh Thế Tông, triều Gia Tĩnh, niên hiệu Long Khánh năm thứ hai mươi lăm (nhằm ngày năm tháng mười một năm 1546, Tây lịch). Ngài xuất sanh tại một huyện thành nhỏ, Toàn Tiêu, thuộc Châu Phủ Chúc Trừ, cách Nam Kinh khoảng ba mươi dặm về phía tây (hiện nay thuộc tỉnh An Huy). Thành Toàn Tiêu nằm trong vùng núi Toàn Tiêu. Tuy không nổi tiếng, nhưng cũng thuộc hàng linh địa, xuất sanh nhiều nhân kiệt. Thành này thuộc vùng phụ cận kinh đô khai quốc của triều Minh: Kim Lăng tức Nam Kinh. Thành tuy nhỏ nhưng không bị cô lập. Cách thành một trăm dặm có núi Lang Gia, nơi tàng trữ bài thơ “Hưởng ký của ông say rượu” của danh sĩ đời Bắc Tống, Âu Dương Tu. Một năm sau khi ngài Hám Sơn nhập tịch, nơi thành Toàn Tiêu lại xuất sanh một danh sĩ Ngô Kính Tân. “Núi non danh tiếng chẳng vì cao, chỉ do thần hiển. Nước linh chẳng vì sâu, chỉ do rồng hiện”.
Ngài tục danh là Thái. Cha Ngài tên là Thái Ngạn Cao. Mẹ Ngài họ Hồng. Gia đình thuộc hàng sĩ thứ. Bình sanh, mẹ Ngài thường thích đến chùa dâng hương lễ bái Bồ Tát Quán Âm vào những ngày Rằm và đầu tháng âm lịch. Ðêm nọ, bà mơ thấy Ðại Sĩ Quán Thế Âm dẫn một đứa bé đến cửa nhà. Bà liền ôm chầm lấy đứa bé. Tỉnh dậy, bà liền thọ thai. Khi sinh ra, thân Ngài được bao bọc bởi một miếng lụa trắng. Lúc giặt giũ mảnh lụa trắng, nước giặt biến thành nước hoa thơm ngát.
Bà mẹ ẵm Ngài đến chùa lễ bái trong dịp ăn mừng ngày đầy tháng. Bà cũng bỏ tiền ra đắp tô tượng Ðại Sĩ Quán Âm cùng bố thí rất nhiều tiền bạc cho những kẻ nghèo hèn khốn khổ. Lòng tín thành Phật pháp của bà đã ảnh hưởng rất lớn đối với sự quyết tâm xuất gia tu học của Ngài sau này. Vào ngày sinh nhật chu niên, khách khứa đến nhà chúc mừng Ngài tấp nập. Chẳng may, hôm đó Ngài bỗng bị cảm nhiệt dữ dội. Thời đó, ngành y thuật vẫn còn lạc hậu. Ðối với những căn bịnh lạ lùng, các thầy thuốc thường phải thúc thủ bó tay. Lúc đó, bịnh tình ngày một tăng, hết phương cứu chữa, nên sinh mạng Ngài chỉ còn trong lằn tơ kẻ tóc. Bà mẹ liền bồng Ngài đến chùa Trường Thọ, bên ngoài huyện thành, cầu thỉnh Bồ Tát Quán cứu giúp. Bà nguyện rằng nếu Ngài thoát chết, bà sẽ cho phép Ngài quy y cửa Phật, xuất gia làm tăng sĩ. Về nhà, bà thương lượng với chồng, đổi tên Ngài là Hòa Thượng. Quả nhiên, bịnh tình của Ngài từ từ thuyên giảm. Từ đó, bà càng ngày càng tin tưởng sự gia trì của Bồ Tát Quán Âm. Sau này, ngày ngày bà thường dẫn Ngài đến chùa, chân thành khẩn thiết lễ bái, xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Âm.
Năm ba tuổi, Ngài thường thích ngồi một mình, chứ không muốn chơi đùa cùng những đứa trẻ đồng lứa. Thấy cử chỉ lạ lùng đó, vào buổi sáng nọ, mẹ Ngài hỏi ông chồng: “Không biết thằng nhỏ nhà mình bị bịnh kỳ quái gì?”
Ông chồng đáp: “Chớ nói bậy bạ. Tôi thấy sức khỏe của nó rất tốt. Ăn được, ngủ được, sao lại có bịnh tật gì!”
Mẹ Ngài nói: “Ðây có phải là do ảnh hưởng của bịnh cảm nhiệt vào năm một tuổi của nó không? Thật ra, vì lỗi của tôi, không lo cho nó không chu đáo!”
Các vị trưởng thượng trong gia đình đương nhiên không thể hiểu nổi tánh tình của Ngài. Tuy còn nhỏ, Ngài đã bắt đầu có những suy tư nghĩ ngợi về việc khổ đau, vui buồn, hợp tan của nhân sanh thế thái. Ông ngoại Ngài thường gọi Ngài là “Cột Gỗ”. Trong gia đình, có một người chú rất thương mến Ngài. Ngày nọ, lúc từ trường trở về nhà, Ngài thấy người chú đó nằm chết sóng soài trên giường. Bà mẹ không nói thật, bảo: “Chú con đang ngủ mê. Con có thể đánh thức ông ta dậy”. Ngài liền đến bên cạnh người chú và cố đánh thức ông ta dậy. Bà cô của Ngài đau lòng khóc nức nở: “Trời ơi! Ông đi đâu vậy!” Nghe thế, Ngài hoài nghi và hỏi bà mẹ: “Thân nằm đây, nhưng chú lại đi đâu?”
Bà mẹ đáp: “Ông chú đã chết rồi!”
Ngài hỏi tiếp: “Thưa mẹ! Vậy chú chết rồi thì sẽ đi về đâu?”
Mẹ Ngài im lặng chẳng biết trả lời như thế nào.
Lần khác, bà dì của Ngài sanh một đứa con. Ngài theo mẹ đến thăm bà dì đó. Khi ấy, Ngài lại hỏi bà mẹ: “Thưa mẹ! Em bé này làm sao chui vào bụng của bà dì?” Bà mẹ vỗ đầu Ngài bảo: “Thằng ngốc! Con làm sao chui vào bụng mẹ?” Chứng kiến những sự việc này, càng ngày Ngài càng nghi hoặc về việc con người từ đâu sanh ra và khi chết rồi thì đi về đâu.
Từ Mẫu
Năm 1553, đời Gia Tĩnh thứ ba mươi hai, lên ngôi chẳng bao lâu, vua nhà Minh bỏ ra rất nhiều tiền tài và nhân lực, tu sửa Vạn Lý Trường Thành để chống lại những sự xâm lược của các bộ tộc Bắc phương. Ðương thời, quân Nhật Bổn thường xâm nhập, cướp bóc dân chúng vùng Ðông Nam duyên hải. Vì họa hoạn, rất nhiều dân chúng vùng Toàn Tiêu, sông Hoài, gần Nam Kinh bỏ nhà lánh nạn đến những nơi an ổn. Ðến năm bảy tuổi, do còn nhỏ lại thường bịnh hoạn, cả gia đình cha mẹ ông bà đều thương mến Ngài. Vì thế, trong một tháng Ngài thường nghỉ học cả nửa tháng. Do dạy dỗ không nghiêm của gia đình, Ngài chẳng thể không sanh tật làm biếng. Năm sau, lúc kiểm tra lại việc học, bà mẹ mới phát hiện vấn đề học hành bê tha của Ngài, nên rất lo lắng. Tuy sức khỏe là quan trọng, nhưng việc học cũng rất trọng yếu. Vào năm đó, bịnh tình của Ngài ngày một thuyên giảm, sức khỏe ngày một tráng kiện. Do đó, mẹ Ngài bèn thương lượng với ông chồng, quyết định gởi Ngài đi học tại một ngôi trường cách nhà một con sông. Trường đó, các thầy cô giáo đều là những nhà giáo nổi tiếng trong vùng Toàn Tiêu. Vì sông ngăn cách, việc qua lại rất khó khăn, nên Ngài ở trú tại nhà người chú. Mỗi tháng chỉ về thăm nhà một lần. Tuy rất thương mến, bà Thái Hồng Thị cắn răng gởi con mình đi học, chỉ vì muốn Ngài tập sống độc lập, tự biết lo học hành. Từ nhỏ, Ngài không thích chơi đùa với những đứa trẻ đồng lứa. Tuy nhiên, vào lúc ấy Ngài vẫn là trẻ con, nên đối với cuộc sống mới, hoàn toàn bỡ ngỡ. Thế nên, vừa đến trường học, Ngài phải tập cách đùa giỡn với chúng bạn đồng lứa. Song, vì ẩn nhẫn không nổi, càng ngày Ngài càng muốn trở về nhà. Lần nọ, lúc về thăm nhà, Ngài không muốn trở lại trường học nữa, nên nài nỉ mẹ cho phép ở lại nhà thêm vài ngày. Trong quyển “Mộng Du Toàn Tập”, kể rõ rằng từ nhỏ đến lớn, Ngài luôn luôn thương mến cung kính người mẹ. Bình thường, bà Thái Hồng Thị, vốn là bậc từ mẫu, rất thương mến nuông chìu Ngài. Song, lần này vì Ngài không muốn sang sông đi học, nên bà Thái Hồng Thị rất nghiêm nghị. Bà xách roi đánh đuổi Ngài ra tận bờ sông. Ðến bờ sông, Ngài cũng không muốn lên thuyền. Bình thường, bà Thái Hồng Thị ít có nóng giận, nhưng ngày đó vì Ngài không nghe lời nên bà phát nộ dữ dội. Bà nắm đầu tóc Ngài, liệng xuống sông. May mắn, nơi bờ sông có rất nhiều người qua lại. Một người nọ chạy về nhà báo tin cho bà ngoại Ngài. Bà ngoại Ngài liền nhờ người chạy đến kéo Ngài lên bờ và dẫn về nhà. Ngài liền theo bà ngoại về nhà. Vừa thấy Ngài, bà mẹ liền mắng: “Không chịu qua sông đi học, trở về nhà làm chi. Thằng con cứng đầu, cứu nó làm gì?”
Nói xong bà liền lấy chổi đánh Ngài thêm vài roi. Ngài vừa khóc rống, vừa chạy né tránh roi của bà mẹ. Mẹ Ngài vừa đánh vừa mắng: “Mi là con trai, sao động chút xíu lại khóc?” Kể từ đó, nhờ sự giáo huấn nghiêm khắc của bà mẹ, Ngài không còn dám bỏ học, trở về nhà nữa. Thế nên, việc học ngày một tiến bộ.
Sau khi Ngài qua sông đi học, bà Thái Hồng Thị mới hiển lộ bản tánh của bà mẹ đối với đứa con trai tám tuổi. Bà đến bờ sông, khóc sướt mước. Bà ngoại Ngài thấy thế, bảo: “Tại sao mi còn khổ tâm? Lúc thằng con của mi trở về nhà chơi, mi lại vừa đánh vừa chửi mắng, muốn nó phải ra đi. Nay nó đã đi rồi, y như ý thích của mi. Vậy còn khóc lóc gì nữa?”
Bà Thái Hồng Thị thưa: “Thưa Mẹ! Vì con muốn nó cắt đứt tình cảm luyến ái gia đình, chỉ lo chăm chú học hành. Sanh ra nó, lẽ nào lại không thương mến? Nó là con trai, phải học hành đàng hoàng, để trở thành người hữu dụng sau này”. Từ đó, bà ngoại và bà mẹ Ngài thường dẫn nhau đến bên bờ sông, khóc vì thương nhớ Ngài.
Mẹ Ngài thật là một đấng từ mẫu chơn thật. Xưa nay, không bao nhiêu thiếu nhi hư hoại tài trí chỉ vì tình thương nhu nhược của người mẹ. Lớn lên, Ngài thông cảm hiểu rõ thâm ý cung cách dạy dỗ của người mẹ. Sự khổ tâm lo lắng giáo huấn của bà Thái Hồng Thị thật không uổng phí, vì nhờ đó mà sau này Ngài trở thành một vị cao tăng.
Một năm sau, tức lúc chín tuổi, Ngài từ từ biết cách học hành. Sống tạm nơi nhà người chú, mỗi ngày sau khi tan học, Ngài thường đến một ngôi chùa để học bài. Thời xưa, các học sinh thường đến chùa viện học hành vì những nơi đó thường có chư tăng học vấn thâm cao dạy dỗ. Lại nữa, nhờ phong cảnh thiên nhiên thanh tịnh trầm lặng, không có những thú vui ồn ào hấp dẫn, nên học sinh dễ dàng chú tâm vào việc học. Vì xa nhà, nên chùa viện thanh tịnh là nơi an ủi tâm hồn cô đơn của đứa bé như Ngài. Lại nữa, mỗi tối thường nghe tiếng tụng kinh của chư tăng, khiến rung động tâm linh không ít. Mỗi lần lên chánh điện, Ngài rất thích được nghe chư tăng tụng đoạn kinh: “…Phật bảo Vô Tận Ý: Này Thiện Nam Tử! Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sanh bị bao khổ não, được nghe danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm, mà nhất tâm xưng danh hiệu của Bồ Tát. Bồ Tát Quán Thế Âm tức thời quán sát những âm thanh đó, thì những chúng sanh kia đều được giải thoát khổ não. Người thường trì tụng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, nếu gặp nạn lửa lớn, lửa chẳng đốt cháy được, vì do oai thần lực của Bồ Tát. Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Bồ Tát, liền được đến chỗ cạn…”
Sau này, Ngài hỏi một chú tiểu về đoạn kinh đó. Chú tiểu đáp: “Ðó là phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa, nói về hạnh nguyện cứu độ chúng sanh khổ não của Bồ Tát Quán Thế Âm”. Ngài hỏi tiếp: “Hạnh nguyện cứu độ chúng sanh của Bồ Tát Quán Thế Âm như thế nào?” Chú tiểu kia hiển nhiên biết mình không thể giải thích rõ ràng, nên chỉ việc tụng thêm một đoạn kinh của phẩm Phổ Môn: “Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì tìm cầu vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, vào nơi biển cả. Giả sử gió đen thổi thuyền kia đến nước quỷ La Sát. Trong đó, nếu chỉ có một người xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì chúng nhơn kia đều được giải thoát khỏi nạn quỷ La Sát. Do vì nhân duyên đó, nên gọi là Quán Thế Âm. Nếu có người sắp sửa bị hại, mà xưng hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì đao kiếm của kẻ muốn hại liền bị đoạn đứt, nên người kia được giải thoát. Nếu trong ba ngàn đại thiên quốc độ, đầy cả quỷ Dạ Xoa, La Sát, muốn đến não hại, nghe người xưng danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm, thì các ác quỷ kia không dám dùng mắt dữ mà nhìn, hà huống gia hại. Lại nữa, nếu người có tội hay vô tội, cầm tù xiềng xích, mà xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì xiềng xích liền bị đứt đoạn, khiến được giải thoát…”
Khi ấy, tuy tuổi còn nhỏ nhưng học thức trí huệ của Ngài vượt hẳn lứa bạn đồng dạng. Nghe văn kinh của phẩm Phổ Môn, tuy không hoàn toàn am tường hết ý nghĩa, nhưng Ngài cũng hiểu đôi chút, nên rất lấy làm thích thú. Do đó, Ngài lập tức xin một bản kinh phẩm Phổ Môn, đem về nhà tụng niệm. Nếu có chữ nào không hiểu, Ngài thường đến hỏi thầy trụ trì. Thầy trụ trì thấy Ngài tuy nhỏ tuổi mà thích tụng đọc kinh điển, nên hết lòng chỉ dạy. Ðôi khi thầy trụ trì cũng kể cho Ngài nghe về sự tích của lịch đại cao tăng như Ðường Huyền Trang qua Ấn Ðộ thỉnh kinh, Ðạt Ma Tổ Sư ngồi Thiền xoay mặt vào vách chín năm v.v…
Ngày thường, mỗi khi học hành xong có chút thời gian rảnh rỗi, Ngài lại tụng đọc kinh điển. Ðối với những lời kinh thâm sâu vi diệu, không thể hiểu nghĩa, Ngài thường tự học thuộc lòng từng chữ. Ví như Phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa không ai bắt buộc, mà Ngài lại tự học thuộc lòng. Nếu có ai hỏi duyên cớ, Ngài đáp rằng vì nghe chư tăng dạy bảo tụng niệm phẩm Phổ Môn thì có thể cứu khổ thế gian, nên tự dụng công học thuộc. Bên cạnh, có một nguyên do quan trọng, thúc đẩy Ngài học phẩm Phổ Môn. Số là mẹ Ngài tuy tín thành Bồ Tát Quán Thế Âm, nhưng chưa hề biết đến hạnh nguyện của Bồ Tát như được trình bày trong phẩm Phổ Môn. Nhằm báo đền ân sâu của từ mẫu, Ngài cố học thuộc lòng phẩm Phổ Môn và chờ đúng dịp để đọc. Lần nọ, về thăm nhà Ngài đi theo mẹ đến chùa lễ bái Bồ Tát Quán Thế Âm. Lễ bái xong, Ngài thưa với mẹ: “Thưa mẹ! Có một quyển kinh nói về hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm. Mẹ có biết không?”
Bà Thái Hồng Thị ngạc nhiên, bảo: “Mẹ chưa từng nghe đến.”
Ngài thưa tiếp: “Ngày thường, khi lễ bái Bồ Tát Quán Thế Âm, mẹ niệm như thế nào?”
Bà Thái Hồng Thị đáp: “Suốt đời, mẹ luôn niệm bảy chữ chơn ngôn ‘Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát’, nên được cảm ứng vô cùng.”
Ngài thưa: “Thưa mẹ! Bảy chữ chơn ngôn này tuy hàm ý bao la vạn tượng, nhưng thiết thật vẫn chưa bằng phẩm Phổ Môn. Nay con sẽ tụng lại cho mẹ nghe”.
Nói xong Ngài liền xướng tụng: “…Chúng sanh bị khổ ách, vô lượng khổ bức thân, Quán Âm diệu trí lực, năng cứu khổ thế gian, đầy đủ sức thần thông, rộng tu trí phương tiện, mười phương các cõi nước, không chỗ chẳng hiện thân, bao loại chư ác thú, địa ngục quỷ súc sanh, sanh già bịnh chết khổ, từ từ đuợc tiêu diệt. Chân quán thanh tịnh quán, quảng đại trí huệ quán, bi quán cùng từ quán, thường nguyện thường chiêm ngưỡng, vô cấu thanh tịnh quang, huệ nhật phá chư ám, năng phục nạn gió lửa, sáng khắp chiếu thế gian, bi thể giới sấm chớp, từ ý diệu mây to, ban mưa pháp cam lồ, diệt trừ lửa phiền não. Kiện tụng nơi cửa quan, sợ hãi trong quân trận, niệm nhớ Quán Âm lực, các oán đều thối tán. Diệu Âm, Quán Thế Âm, Phạm Âm, Hải Triều Âm, vượt hơn thế gian âm. Vì thế phải thường niệm, niệm niệm chớ sanh nghi, Quán Âm bậc tịnh thánh, nơi khổ não tử ách, làm nơi chỗ nương tựa, đầy đủ tất cả công đức, mắt từ nhìn chúng sanh, biển phước tụ vô lượng, phải nên thường đảnh lễ…”
Tụng xong, Ngài giải thích nghĩa của từng câu, y như lời dạy của vị hòa thượng trụ trì thuở trước. Bà Thái Hồng Thị lặng thinh lắng nghe, nhưng nước mắt chảy ròng. Ðợi Ngài giải thích xong, bà ôm chầm lấy đứa con trai, bảo: “Con học được từ nơi nào vậy?”
Ngài thưa: “Con thường đến chùa viện, nghe chư tăng tụng niệm ngày đêm, nên mượn quyển kinh này về học thuộc lòng.”
Bà mẹ nói: “Lạ thật! Giọng của con thật giống như âm thanh tụng kinh của các hòa thượng lớn tuổi.”
Khi đó, trí huệ của Ngài thiết thật vượt hẳn chúng bạn, nhưng ít khi biểu hiện ra ngoài. Tuy biết con mình thông minh, ngày ngày bà Thái Hồng Thị vẫn nhắc nhở thúc giục Ngài học hành. Mới mười tuổi, Ngài không tránh được tánh thích chơi đùa. Vì ngày ngày luôn bị bà mẹ đốc thúc học hành, Ngài tự nhiên nảy sanh tư tưởng chán học. Tuy vậy, Ngài không còn dùng cách thức phản kháng tiêu cực bình thường của các đứa trẻ đồng dạng như trốn học mà lại bắt đầu cùng bà mẹ đối đáp lý lẽ. Ngày nọ, bà Thái Hồng Thị vẫn bảo Ngài lấy sách vở ra học. Vì nhẫn không nổi, Ngài liền thưa hỏi mẹ: “Thưa mẹ! Con có việc muốn hỏi. Khi hỏi, xin mẹ chớ trách mắng.”
Bà Thái Hồng Thị tuy biết thằng con của mình sẽ dùng những lý lẽ quái lạ để bào chữa cho việc làm biếng học hành, nhưng lại không muốn dùng những phương pháp bức bách như xưa. Bà cũng nghĩ rằng đây là cơ hội để răn nhắc giáo dục nó thêm, nên bảo: “Con cứ nói. Mẹ không phiền trách đâu.”
Nghe thế, Ngài an tâm mạnh dạn hỏi: “Thưa mẹ! Cả ngày từ sáng đến tối, mẹ bắt con học hành, vậy có lợi ích gì?”
Bà Thái Hồng Thị bảo: “Người xưa bảo rằng trong sách vở tự có nhà bằng vàng ngọc. Hôm nay nếu con lo lắng học hành giỏi dang thì mai sau sẽ đỗ đạt trạng nguyên, ra làm quan lớn.”
Xã hội của nước Tàu rất trọng học vấn, như câu: “Mọi việc đều là thấp kém, chỉ có học vấn là cao.” Con cái dân thường chỉ nhờ học vấn mà tiến thân trên đường quan lộ, tức có danh phận trong xã hội.
Với tư tưởng đó, bà Thái Hồng Thị nói tiếp: “Từ chức quan nhỏ, trong tương lai nếu có khả năng, sẽ dần dần tiến lên chức Tể Tướng. Khi đó, làm đại quan chỉ dưới nhà vua, nhưng lại hơn muôn người.”
Bà mẹ tưởng rằng nói đến chức vị Tể Tướng sẽ hấp dẫn con mình, nào ngờ Ngài lại hỏi thêm: “Thưa mẹ! Ðược chức Tể Tướng rồi, lại còn có chức nào cao hơn nữa không?”
Bà Thái Hồng Thị gập ngừng đáp chẳng được: “Làm Tể Tướng rồi…” Ðối với quyền thế oai phong của chức Tể Tướng, bà Thái Hồng Thị khó mà giải thích cặn kẽ cho thằng con mười tuổi hiểu được. Vả lại, cả đời bà thường ở trong huyện thành nhỏ, ít khi đi xa thì làm sao biết rõ việc của quan trường. Ðối với việc này, bà chỉ nghe qua nhờ những lời giảng giải của ông chồng. Vì vậy bà đáp: “Làm Tể Tướng rồi, nếu muốn thì có thể từ quan về hưu.”
Nghe thế, Ngài hỏi thêm: “Cả một đời khổ cực học hành. Vậy mà đến chức Tể Tướng, rồi lại về hưu. Như thế làm quan có ích lợi gì?”
Bà Thái Hồng Thị hỏi: “Sao con không muốn tiến thân làm quan?”
Thật ra, bà Thái Hồng Thị chẳng phải nói thế để vạch rõ con đường tiến thân làm quan cho Ngài, mà chỉ vì muốn khuyến khích con mình học hành. Vì vậy bà hỏi lại: “Vậy thì tương lai con muốn làm gì?”
Không suy nghĩ, Ngài đáp: “Thưa mẹ! Tương lai, con nhất định làm việc mãi, chẳng muốn từ chức về hưu.” Bà Thái Hồng Thị bảo: “Chỉ có làm tăng sĩ du phương mới không từ chức về hưu.” Ngài thường được vị hòa thượng trụ trì nhắc đến những lời này tại ngôi chùa viện năm xưa. Thế nên, Ngài lại hỏi: “Thưa mẹ! Làm tăng sĩ có hay lắm không?”
Bà đáp: “Tăng sĩ là đệ tử xuất gia của Phật Ðà, thường luôn du phương hành cước khắp thiên hạ, tự do tự tại, không đắm chấp vào ăn mặc chỗ ở, đi đến nơi nào, đều được người người cúng dường y phục thức ăn. Tương lai sẽ thành Phật, gia đình được tiếng thơm.”
Nghe vậy, Ngài vui mừng đáp: “Như vậy, con sẽ làm tăng sĩ.”
Nhận biết tâm tư con mình muốn xuất gia làm tăng sĩ, bà liền bảo: “Thằng ngu! Xuất gia đâu phải là chuyện dễ làm. Phải xem coi con có duyên phần và đủ phước đức không nữa!”
Ngài hỏi: “Xuất gia làm tăng sĩ, sao lại cần có phước đức?”
Bà đáp: “Ðương nhiên là phải cần có phước đức. Ðường quan lộ tuy thường gặp hiểm nạn, nhưng xuất gia để tu thành Phật lại càng khó gấp trăm ngàn lần. Trên thế gian, rất nhiều người làm Trạng Nguyên, nhưng lại rất ít người làm Phật Tổ. Mẹ thấy con chỉ nói lời xàm bậy. Hãy bỏ ý định đó đi.”
Ngài thưa: “Thưa mẹ! Con tự biết mình có phần phước đức. Tuy nhiên, chỉ sợ rằng mẹ không đành lòng cho con đi xuất gia thôi.”
Nghe vậy, bà đột nhiên toát mồ hôi, như linh cảm có điều chi sẽ xảy ra. Bà nghĩ: “Trời ơi! Thằng con của tôi lại muốn đi tu thật sao?” Tuy nhiên, vì suốt đời bà luôn chân thành khẩn thiết lễ bái cúng dường chư Phật cùng Bồ Tát Quán Thế Âm, nên không dám nói lời lừa lọc con mình: “Này con! Ngày nào đó, vì duyên phận đã định, nếu con có phần phước làm quan hay làm hòa thượng, sao mẹ lại không cho phép! Tuy nhiên, hãy giữ kín chuyện này giữa mẹ và con thôi nhá!” Tưởng đối đáp cho qua loa, ai ngờ rằng chính bà Thái Hồng Thị đã giúp Ngài vạch rõ con đường xuất gia làm tăng sĩ. Sau này, Ngài được vào chùa xuất gia mau chóng, phần lớn là do ảnh hưởng của mẹ mình.
Không những bà Thái Hồng Thị kiên thành lễ bái Bồ Tát Quán Thế Âm mà còn tin Phật trọng Tăng. Bà thường cúng dường y phục ẩm thực cho các du tăng hành khất đến nhà. Ngày nọ, vào năm mười một tuổi, đang chơi trước sân nhà, Ngài chợt thấy có vài vị tăng hành khất, mặc y trăm mảnh, điềm đạm đi đến từng nhà trong thành khất thực.
“Mô Phật! Xin tiểu thí chủ từ bi bố thí cho tăng nhân hành khất!”
Vì đã từng tới lui chùa viện học hành cùng luôn được bà mẹ hun đúc ý niệm xuất gia, nên đối với tăng sĩ, Ngài có cảm tình đặc biệt. Tuy đắp y phục giống như chư tăng ở các tự viện vùng lân cận, nhưng trên gương mặt của họ hiện ra những nét khổ hạnh. Thấy họ, Ngài không biết phải xưng hô đối đãi như thế nào, nên chạy thẳng vào nhà báo tin cho bà mẹ biết. Ngài thưa: “Thưa mẹ! Có các lão hòa thượng từ xa, đứng trước nhà mình, không biết họ muốn gì?”
Bà mẹ đáp: “Họ là những vị du tăng, đều có học vấn cao. Ðể mẹ ra ngoài xem sao.” Thấy bà từ nhà bước ra, các vị du tăng liền để nón xuống bên cạnh gốc cây trước nhà, chào nói: “Mô Phật! Xin nữ thí chủ từ bi bố thí vài chén cơm.” Bà đáp: “Xin thỉnh quý thầy vào nhà.”
Nói xong bà liền dẫn họ vào nhà khách, rồi pha trà, cúng dường cơm nước. Ngài đứng bên cạnh xem xét từng cử chỉ của khách tăng, thấy họ chắp tay cung kính tụng niệm một loạt bài kinh, rồi mới dùng cơm. Những cử chỉ hành động thư thả nhẹ nhàng trầm lặng của họ, khiến Ngài rất thích thú. Dùng cơm nước xong, họ cáo từ chuẩn bị tiếp tục lên đường. Ra đến ngoài sân, vị tăng dẫn đầu chắp tay ra dạng cám ơn. Thấy thế, bà Thái Hồng Thị chợt núp sau cánh cửa, quỳ lạy thưa: “Xin thỉnh quý thầy chớ nói lời cám ơn.”
Cử chỉ của bà, đối với khách tăng thật là bình thường, nên họ không còn chắp tay thi lễ, chỉ đi thẳng ra đường lộ. Thấy họ đã đi xa, Ngài ngờ ngợ hỏi bà mẹ: “Thưa mẹ! Tại sao các khách tăng kia quá lạ kỳ? Ăn cơm của nhà mình xong rồi, chẳng thèm cám ơn, lại đi tuốt mất.”
Bà Thái Hồng Thị nghe thế, liền lấy tay bịt miệng Ngài lại, bảo: “Con chẳng biết rằng chư tăng hành khất đến nhà mình hóa duyên, đó là cơ hội tạo phước cho gia đình mình. Nếu vừa rồi mẹ nhận lời cám ơn của họ thì phước đức sẽ mất hết.” Tuy chẳng hiểu lý lẽ trên, nhưng Ngài vẫn gật đầu. Từ đó, hình ảnh chư tăng hành khất luôn hiển hiện trong tâm tư của Ngài. Ý tưởng xuất gia làm tăng của Ngài, ngày một mạnh mẽ.
Năm mười hai tuổi, khác với bạn bè đồng lứa chỉ biết đùa giỡn, Ngài đã quyết chí xuất gia. Ngài trở thành một thiếu niên lão thành niệm Phật, khiến cho ông cha ưu sầu. Việc bà vợ thường lễ bái chư Phật, cúng dường chư tăng, ông Thái Ngạn Cao không phản đối. Biết ý con mình muốn làm hòa thượng, ông chỉ cười đùa. Dần dà ông nhận biết ý tưởng xuất gia của con mình ngày một mạnh mẽ qua những cử chỉ hành động, ra dáng làm hòa thượng của Ngài. Càng ngày, Ngài càng làm biếng, trễ nãi học “Tứ Thư”, “Ngũ Kinh” cho việc khoa cử. Thấy thế, ông vội đi khắp nơi, định tìm con gái nhà khuê các để gả cho thằng con, hầu mong ngăn chặn ý tưởng xuất gia của nó. Phong tục tập quán của người Tàu là tìm vợ cho con trai sớm chừng nào thì được phước thọ nhiều chừng đó. Vì là gia đình đại phú hộ, cộng thêm danh tiếng thiếu niên hiếu học lão thành, nên việc cầu hôn cho Ngài rất dễ dàng. Tuy nhiên, Ngài tỏ vẻ thái độ kiên quyết khước từ phản đối. Theo quan niệm “tam cương ngũ thường”, “đạo đức nhân luân”, Ngài thật bất hiếu với cha mình. Tuy vậy, nhờ sự tán trợ của bà mẹ, cha Ngài phải miễn cưỡng ngưng việc cầu hôn. Biết rõ ý định của người cha muốn cầu hôn cho mình, Ngài luôn luôn lo sợ không ngừng, suy nghĩ tìm cách xuất gia. Xuất thân từ gia đình giàu có, Ngài tự định lập chí hướng cao cả, khác hẳn với những kẻ đi tu chỉ vì muốn nương nhờ chùa viện ban cho miếng cơm manh áo. Do nhớ rõ những lời giảng dạy của vị hòa thượng trụ trì thuở xưa, Ngài quyết chí xuất gia làm Tổ, thành Phật. Muốn được toại nguyện, đầu tiên Ngài phải thân cận các vị hòa thượng đạo cao đức trọng. Lần nọ, Ngài hỏi thăm một vị hòa thượng từ Nam Kinh đến, được bảo rằng tại chùa Báo Ân ở Kim Lăng, tức Nam Kinh, có một vị hòa thượng đạo cao đức trọng, tên là Tây Lâm. Nghe qua danh tiếng, Ngài tự nhủ thầm rằng hòa thượng Tây Lâm chính là thầy của mình. Tối đến, Ngài trịnh trọng cầu xin người cha cho phép đến chùa Báo Ân ở Kim Lăng học hành. Biết rõ ý của con mình là muốn xuất gia chứ chẳng phải vì việc học hành, nên cha Ngài cố tình bỏ lơ, khiến tình cha con ngày một cách xa. Khi ấy, tuy chỉ mười hai tuổi, Ngài đã kiên quyết hướng về cửa Phật, nên phải xung đột trực diện với người cha. Ngài bắt đầu đóng cửa phòng, nhịn ăn, nhịn uống, không nói năng với ai, kiên quyết muốn đạt được mục đích xuất gia. Người trong nhà không biết cớ sự gì cả. Ðể biểu hiện ảnh hưởng quyền thế trong gia đình, mẹ Ngài nói với người cha: “Làm quan hay làm hòa thượng đều do duyên phận. Không nên cưỡng cam ép quýt. Thằng nhỏ nhà mình do Bồ Tát Quán Âm trong mộng bồng đến. Biết đâu nó có duyên phận thành Phật. Tuy nuôi con, nhưng phải để cho nó tự lập chí. Ông hãy để cho nó đi Kim Lăng học hành. Cưỡng ép nó ở nhà rồi khiến sanh bịnh, hối hận chẳng kịp.”
Cha Ngài chẳng đối đáp được, nên phải đồng ý. Nhờ bà mẹ trợ giúp, tháng mười năm đó, Ngài được toại ý nguyện, đi từ Toàn Tiêu đến Kim Lăng, diện kiến hòa thượng Tây Lâm. Lúc ấy, thuộc đời Minh, triều Gia Tĩnh thứ ba mươi sáu (1557).
Vân Du
Năm 1571, niên hiệu Long Khánh thứ năm, Minh Mục Tông qua đời. Thái tử Chu Dực, mới mười tuổi lên ngôi, hiệu là Minh Thần Tông. Trong những năm kế, do sự nỗ lực của các danh tướng như Tương Tông Hiến, Du Ðại Du, Thích Kế Quang, nạn hải tặc tại vùng duyên hải phía Ðông Nam như Quảng Ðông, Phước Kiến, được tạm thời bình định. Cuộc sống của dân chúng trong vùng đó cũng được tạm an ổn. Năm đó, Ngài chính thức ra khỏi thành Kim Lăng, nơi xuất gia tu học bao năm trường. Tuy nhiên, trước khi đi du phương, Ngài đã trải qua bao rắc rối phiền toái. Ngài tự biết rằng nếu vẫn còn lưu luyến lại vùng Giang Nam thì sẽ gặp rất nhiều chướng ngại, nên quyết định vân du viễn hành. Lại nữa, có rất nhiều nhân duyên khiến Ngài phát khởi ước vọng tu hành. Lúc nhỏ khi gặp các du tăng đến nhà khất thực, Ngài đã có tâm niệm muốn thực hành như họ. Sau này, có vị tăng khuyên Ngài: “Hiện tại Thiền tông ngày một suy vi. Chúng ta là người xuất gia, phải có trọng trách phục hưng Phật pháp. Nhận thấy ý chí của Thầy phi thường, không giống phàm tăng, tương lai chắc chắn có khả năng xiển dương Phật pháp. Thầy còn trẻ tuổi, chớ lãng phí thời gian đi vân du, khiến mọi người thất vọng.”
Ngài liền đáp: “Bần tăng vì đại sự nhân duyên mới đi tham phương hành cước, tầm cầu thiện tri thức. Thứ đến, bần tăng muốn làm người du mục trong hiện thời, chớ chẳng phải làm kẻ lang thang.”
“Tham phương hành cước, tầm cầu thiện tri thức”, cùng “làm người du mục hiện thời”, là hai nhân duyên viễn du trọng yếu của Ngài, nhưng chỉ thực hiện được sau này thôi. Khi khởi hành, tuy Ngài đến rất nhiều danh lam thắng địa, nhưng ít gặp các nhân vật danh tiếng. Sau này đến Bắc Kinh, Ngài mới gặp được và thường qua lại với nhiều vị cao tăng, danh sĩ, cao quan quyền thế. Lần đầu, Ngài cùng ân huynh Tuyết Lãng đến Lô Sơn, vì núi nầy rất gần với những ngọn núi danh tiếng. Thật vậy, Lô Sơn nằm gần sông Trường Giang, nơi có tàu bè thường qua lại nên phương tiện giao thông rất thuận tiện dễ dàng. Ðầu mùa Xuân, hai ngài khởi hành rời Kim Lăng, đến sông Trường Giang, qua Bà Dương, Hồ Khẩu, tới núi Thạch Chung nơi danh sĩ đời Tống là Tô Ðông Pha thường trú ở. Lô Sơn được gọi là Khuông Sơn hay Khuông Lô, nơi có nhiều thắng cảnh tuyệt hảo, danh vang khắp thiên hạ. Danh sĩ xưa nay đều có lời tán thán:
Thi sĩ Lý Bạch đời Ðường có làm bài thơ “Quán Lô Sơn bộc bố thủy” (Xem lại những bài thơ nổi tiếng vào đời Ðường).
Bên cạnh non xanh nước biếc, còn có một nguyên nhân chính hấp dẫn Ngài và thầy Tuyết Lãng. Số là vào đời vua Minh Ðế thời Ðông Hán, Lô Sơn vốn là trung tâm Phật giáo quan trọng nhất, nên xưa nay người xuất gia thường lui tới rất nhiều. Lô Sơn có ba ngôi chùa lớn: Tây Lâm, Ðông Lâm, Ðại Lâm. Ngoài ra còn có năm đại tùng lâm như Hải Hội, Tú Phong, Vạn Sam, Tây Hiền, Quy Tông. Trong chùa Hải Hội còn tàng trữ bài thư pháp trứ danh của Triệu Tử Ngang về kinh Diệu Pháp Liên Hoa vào đời Nguyên. Hòa thượng Tâm Nguyệt tự tay khắc chạm bia hình năm trăm vị A La Hán. Thầy Phổ Siêu tự lấy máu viết tám mươi quyển kinh Hoa Nghiêm. Lại nữa, tại Lô Sơn, tông Tịnh Ðộ do đại sư Huệ Viễn sáng lập.
Vào núi Lô Sơn có hai con đường. Một là đi từ Cửu Giang, tiến vào phía Bắc. Một nữa là đi từ Nam Khang tiến vào núi từ phía Nam. Hai ngài chọn con đường vào núi từ phía Nam. Ði thuyền đến thẳng bến Nam Khang, lên bờ, tiến vào địa phận núi Lô Sơn. Thi sĩ đời Ðường, Tiền Khởi có viết:
“Gió mưa sầu thước tấc
Khuông Sơn khó trèo lên
Chỉ ngại sương mây lấp
Có tăng nhân sáu đời.”
Hai ngài dừng tại một trạm dưới chân núi, ngần ngại chưa dám trèo lên. Chẳng những bị mây mù dầy đặc bao phủ mà Lô Sơn lại có rất nhiều cọp sói thường xuất hiện, giết hại rất nhiều du khách. Chuyện cọp sói giết hại du khách ngày lan rộng. Những thợ săn không dám lên núi một mình huống là hai tăng sĩ trẻ. Hai ngài chẳng phải là cao thủ phục hổ, lại cũng chẳng phải là những võ sĩ kiếm hiệp, nên chẳng có nội công ngoại lực, mà chỉ là tăng sĩ phàm phu. Thế nên, vì sanh mạng và ý nguyện tu hành, nên hai ngài phải thối lui. Nhờ các thợ săn chỉ dẫn, hai ngài chuyển hướng, đi về phía Tây Nam, đến núi Thanh Nguyên ở An Hòa, Lịch Cát (ngọn núi này cùng với núi Nam Ngạc ở Hồ Nam là hai trung tâm chính của Thiền tông, do đệ tử của Lục Tổ sáng lập). Ðối với Lô Sơn, Ngài rất thích thú đến thăm, nhưng vì sợ hổ sói nên chưa dám trèo lên. Sau này, Ngài rất đau lòng vì xấu hổ, tự thừa nhận là không đủ ý chí kiên quyết, nên hoài vọng sẽ có ngày trở lại. Vì vậy, lúc tuổi già, Ngài đến núi Lô Sơn, cư trú tại đảnh Ngũ Nhũ, trong một thời gian dài. Ngài có viết bài thơ ‘Nhớ Lô Sơn’:
“Xa nhớ Lô Sơn, năm núi già
Mây trắng che mù muôn gốc tùng
Trăng treo lơ lửng, bóng ao hồ
Nước chảy ầm ầm như chuông đổ.”
Lại nhớ bài thơ của ông Thiên Trì, Bằng Hư Các:
“Không trung lâu các, các trung nhân
Vườn hoa hoa nở, thân tự tại
Trăng sáng Thiên Trì, giữa đêm khuya
Chẳng biết khi nao, thân cùng ai.”
Hai ngài chí đồng đạo hợp, trèo non lội suối, gặp bao danh lam thắng cảnh, non xanh nước biếc, cho đến mùa Hạ thì tới núi Thanh Nguyên. Trong quyển ‘Niên Giám Thật Lục’, Ngài dùng một câu rất chính xác để diển đạt cuộc hành trình này: “Theo gió đến Cát An.”
Núi Thanh Nguyên nằm tại Giang Tây, cách tỉnh Cát An về phía Ðông Nam khoảng ba mươi dặm. Núi tuy không cao lắm, nhưng có rất nhiều di tích danh lam thắng cảnh, rừng cây rậm rạp, chùa viện trang nghiêm. Chùa viện trên núi Thanh Nguyên được kiến lập vào đời Nguyên (năm 741), do đệ tử thọ y bát của Lục Tổ Huệ Năng, Thiền Sư Hành Tư sáng lập. Là Thiền sinh, tự nhiên Ngài phải đến nơi đó. Trước kia, Ngài đã từng đọc qua những câu thơ tán thán núi Thanh Nguyên:
“Ðến xứ Thanh Sơn, đến xứ nhà
Cọ đá lấy lửa, nấu trà xanh
Lão tăng dắt tôi ra trước suối
Cùng ngắm hoa tuyết, rơi đỉnh núi
Hưng thừa lạc lối, già khó tiến
Lại qua hang hổ, xem bay nhảy
Ðỉnh núi một lằn ánh sáng bạc
Tỏa chiếu không sơn, sáu tháng hàn.”
Ngay cửa núi, có tấm bảng đề chữ ‘Thanh Nguyên Sơn’, do Văn Thiên Tường, một nhân vật lịch sử, ái quốc đời Nam Tống tự tay viết. Hiện thật cùng trí tưởng tượng thật khác nhau xa. Lúc Ngài cùng thầy Tuyết Lãng đến núi Thanh Nguyên, thấy cảnh tượng lạ lùng: Chùa viện hư hoại, mái nóc tan hoang, tăng sĩ đều để tóc dài, nhìn qua nhìn lại chẳng phải tăng cũng chẳng phải tục. Hai ngài cùng nhau nghỉ ngơi trước thềm chùa, thất vọng ê chề, buồn than vì Phật pháp suy đồi, nên đau lòng rơi lệ không xiết. Hai ngài không nỡ ngồi nhìn chùa Thanh Nguyên, thắng địa của Thiền tông, bị hư hoại tan hoang, nên phát tâm trùng tu, kiến lập lại. Thật ra, chẳng phải tăng chúng nhiễm hồng trần, hành sự như người thế tục, mà chỉ vì vùng núi Thanh Nguyên hẻo lánh xa xôi, trải qua bao đời dần dần thất truyền tông chỉ Phật pháp, khiến kẻ tu hành không biết rõ tinh hoa ý nghĩa của Thiền tông, thì làm sao giữ được tâm xuất gia? Hiện tại, có hai thanh niên tăng, phát tâm nguyện ý tuyên dương Phật pháp, tự nguyện đến đó để phục hưng, vì nhận thấy chánh giáo vẫn còn hy vọng phát triển. Hai ngài vốn là thanh niên tăng, tự nghĩ khi hô hào ý kiến phục hưng thì không biết có ai chịu hưởng ứng không? Ðương nhiên, tài sức hai ngài rất giới hạn, nên phải dựa vào quyền thế quan quân. Cùng với tâm chí thành của thầy Tuyết Lãng, Ngài dùng ‘ngôn từ nơi đạo’, nói năng lưu loát, trình bày sự tình minh bạch, nhấn mạnh địa vị quan trọng của núi Thanh Nguyên trong lịch sử Phật giáo, cùng tuyên dương công đức của Thiền Sư Hành Tư, khiến quan quân địa phương chẳng thể không động tâm, nên phái quân đến hỗ trợ hai ngài làm Phật sự. Do lời thuyết phục của Ngài, có hơn bốn mươi vị trên bốn mươi tuổi, phát tâm cạo tóc, hành hạnh tăng sĩ. Khi đó, Ngài bận rộn viết lại những điều lệ, quy củ Thiền môn, tu sửa điện đường mái ngói, khiến ngôi cổ tự ngàn năm được phục hồi sinh hoạt. Mùa hè năm sau, làm xong tất cả Phật sự, Ngài trở lại miền Nam về chùa Báo Ân, để chuẩn bị chuyến vân du kế tiếp. Trở vào Nam, Ngài nhận biết Phật pháp tại nhiều nơi, bên ngoài danh tiếng tuy còn nhưng bên trong thật tế đã suy đồi. Ðồng thời, Ngài rất hối hận tâm yếu hèn, sợ hổ không dám lên núi Lô Sơn thuở xưa. Ngài tự biết ý chí mình còn rất kém cỏi. Do đó, Ngài lại lập chí nguyện sẽ vân du lên miền Bắc, đến những nơi tuyết đóng mùa Ðông, tuyết rơi mùa Hạ, để rèn luyện ý chí của mình.
Mùa Ðông, vào tháng mười một, Ngài lại chuẩn bị hành trang, mục đích đi lên miền Bắc. Thầy Tuyết Lãng lo lắng bảo: “Miền Bắc khí hậu rất lạnh lẽo. Hiện tại nhằm vào mùa Ðông. Sức lực của sư đệ không được khỏe cho lắm, e rằng sẽ không chịu nổi gió mưa sương tuyết.”
Ngài đáp: “Hiện tại, chính là lúc phải nên lên miền Bắc. Muốn làm việc đại sự, đầu tiên phải chịu khổ nung đúc ý chí, rèn luyện thân tâm, xả bỏ thân xác, thì tương lai mới mong trở thành đại pháp khí.”
Thầy Tuyết Lãng lại khuyên: “Sư đệ nếu muốn du hành, đất Ngô Việt cũng có rất nhiều cảnh non xanh nước biếc, sao khổ nhọc ra Bắc làm chi?”
Ngài đáp: “Chúng ta có tập khí xấu, chỉ thích sống nơi cảnh an nhàn ấm áp. Muốn khống chế tâm thức và nghiệp lực, phải tìm đến những nơi khó khăn khổ nhọc để tu hành. Ý nguyện đã quyết, sư huynh xin chớ khuyên lơn.”
Tuy chia tay, nhưng hai ngài vẫn giữ tình huynh đệ mật thiết. Thầy Tuyết Lãng chỉ thích nghiên cứu kinh luận mà không coi trọng phần thực hành của Thiền Quán hay Niệm Phật. Sau này, thầy Tuyết Lãng trở thành vị giảng sư nổi tiếng, nối tiếp sự nghiệp của pháp sư Vô Cực. Cá nhân, Ngài chú trọng vào phần thực hành Thiền Quán, nên một mình đi tìm thế giới ‘Lưu Ly’, tức cảnh giới ‘Thanh Lương’ tại núi Ngũ Ðài.
Do đó, tay mang bình bát, một mình Ngài hành cước ra Bắc. Năm ấy, niên hiệu Long Khánh thứ sáu (1573), hai mươi bảy tuổi Ngài đơn độc đi du hành. Ðầu xuân, Ngài đến Dương Châu nơi tuyết rơi đầy dẫy. Vì không còn cách nào để tiếp tục tiến bước, nên Ngài phải tạm dừng chân. Thân thể Ngài không khỏe cho lắm. Việc này thầy Tuyết Lãng đã ân cần nhắc nhở trước khi ra Bắc. Trên đường mệt nhọc, lại gặp tuyết sương giá lạnh, nên ở tại Dương Châu chẳng bao lâu, Ngài bị nhuốm bịnh. Tuy bịnh hoạn, Ngài cảm thấy thích thú vì đó là cơ duyên tốt để rèn luyện ý chí, chứ không lo buồn. Không đợi lành bịnh, Ngài đắp ca sa, ra đường khất thực. Nhờ còn trẻ, lại có ý chí kiên trì tinh tấn, bịnh tật bớt rất mau chóng. Vì người trong thành Dương Châu thường cho rằng các tăng sĩ rất làm biếng, nên Ngài khất thực cả nửa ngày mà chẳng được gì. Trở về lữ quán, Ngài tự lấy ra hai ngân bạc, rồi lập tức ra lại ngoài phố, thấy tăng sĩ đói khát, khất thực khổ nhọc trong tuyết sương giá lạnh, nên dùng hết số tiền kia thỉnh mời họ đến quán cơm thọ thực. Sáng hôm sau, Ngài lại ra đường khất thực, đến một hai nhà đều được ưu đãi. Từ đó, chỉ cầm một bình bát, Ngài không còn bị đói khát. Khi ấy, Ngài tự bảo rằng âm thanh của một bình bát kêu vang vượt muôn ngàn tiếng chuông, có nghĩa là chỉ cần một bình bát mà có thể chứa vô số thức ăn. Lúc mặc y ca sa, Ngài bảo: “Mặc một y ca sa che trùm khắp thiên hạ.”
Kế đến, Ngài viết bài kệ:
“Ủy nhiệm hình cho Ta
Ta ký thác tâm cho
Một thân đều đầy đủ
Muôn vật chẳng hệ trọng
Tay áo bay trong gió
Mây trắng cuồn cuộn bay
Ðứng lên trên cánh hạc
Tà tà như rồng bay
Lang thang trong hoàn vũ
Ðến trú tại núi rừng
Mặc áo gấm đỏ tím
Sương tuyết chẳng thấm vào.”
Dùng văn từ tuyệt hảo, Ngài diễn đạt tự tâm chẳng tham luyến vinh hoa phú quý, khinh thường vật chất phù du, chỉ muốn du hành trong hoàn vũ, ẩn cư tại núi rừng, sống đời tự do tự tại.
Sau khi tuyết ngừng rơi, Ngài tiếp tục đi về hướng Bắc. Lúc ấy, trong mình không một đồng xu, Ngài thật thụ là du tăng hành cước, vừa đi vừa khất thực. Tháng Bảy, Ngài đến đô thành Bắc Kinh. Tường thành cùng lâu các cao vút. Cửa thành kiên cố. Cây cối được trồng ngăn nắp trên các ụ đất trong thành. Các vị danh nhân cao sĩ, đều thường hội tụ nơi đây. Nơi thành Bắc có rất nhiều vị cao tăng thường lui tới. Ðối với tăng sĩ trẻ tuổi vừa ra khỏi am tranh như Ngài, kinh sư thật chẳng phải là đất dụng công. Thế nên, lúc đến kinh đô cả ngày chẳng khất thực được gì. Ðến tối, Ngài tới quán cơm Thái Bình tại cửa phía tây, mới khất được thức ăn, rồi ngủ tạm tại chùa Hà Khê, Di Giáo. May thay, tại kinh thành Ngài có rất nhiều bạn hữu xưa. Uông Bá Ngọc vốn là đồng bạn của Ngài thuở thiếu thời, đang nhậm chức Hữu Tư Mã. Ông rất bội phục tài hoa của Ngài. Xưa kia, ông đã từng khuyên Ngài lên kinh đô ứng thí để ra làm quan, hầu có chút danh phận. Ông biết Ngài đã xuất gia lâu rồi. Nghe Ngài đến kinh đô, ông cùng người em là Uông Trung Yêm, tìm đến thỉnh Ngài về nhà tiếp đãi rất nhiều ngày. Ðương nhiên, Ngài vui thích qua lại với họ, nhưng chẳng phải vì đói khát mới đến cửa quan. Ý chí lập thân du phương hành cước, mang bình bát đi khắp thiên hạ, luôn luôn kiên cố. Ngài trú tại nhà họ Uông vài mươi ngày, dưỡng sức nghỉ ngơi sau những đêm dài lao khổ trên đường lộ. Vì tính khí năng động, Ngài không thể nghỉ ngơi mãi nơi đó. Vì vậy, Ngài đến Tây Sơn, tham vấn danh tăng, pháp sư Yết Ma Ha Trung. Trú trên núi, ngắm tuyết rơi Ngài nhớ lại ân huynh Tuyết Lãng, nên viết bài thơ “Nhớ Ân Huynh”. Pháp sư Yết Ma Ha Trung rất vui mừng gặp được một tăng sĩ trẻ tuổi có học vấn uyên bác, nên lưu giữ Ngài qua mùa Ðông.
Ngày nọ, vào tháng Mười có một sự việc khiến Ngài thích thú ở lại kinh đô. Sáng hôm đó, khi tuyết ngưng rơi, mặt trời vừa ló dạng, Ngài có ý định là sẽ đến nghe pháp sư Yết Ma Ha Trung giảng pháp, rồi sẽ thỉnh An pháp sư giảng kinh Pháp Hoa cùng luận Duy Thức. Suy nghĩ chưa xong, Ngài chợt nghe có một chú tiểu đến gõ cửa phòng: “Bạch Thầy! Có một vị khách tăng đến tìm Thầy.”
Chưa kịp bước ra khỏi phòng, Ngài thấy một vị hòa thượng tóc dài, đắp y vải bố, vừa tiến vào cửa vừa bảo: “Tôi đã đến.” Vừa gặp mặt vị tăng này, Ngài nhìn kỹ, cảm thấy như đã quen biết rất thân thuộc, nhưng nhớ không nổi danh tánh. Ngập ngừng đôi chút, vị tăng này giương đôi mắt to nhìn chăm chăm, khiến Ngài chợt nhớ ra. Ðó là vị tăng bị bịnh thuở xưa ở chùa Thiên Giới, tức thầy Diệu Phong. Ngài liền vui mừng, bảo: “Ô! Sư huynh đã đến.”
Thầy Diệu Phong hất tóc ra đằng sau, bảo: “Huynh cải trang, để tóc dài, khiến sư đệ không thể nhận ra!”
Ngài đáp: “Bản lai diện mục của sư huynh tại nơi đây. Làm sao cải đổi được.”
Nói xong, hai ngài nắm tay nhau, vui cười hàn huyên tâm sự. Ðến tối, Ngài qua chùa Long Hoa, nơi thầy Diệu Phong đang trú ở. Hai ngài nhóm lửa đàm luận suốt đêm. Ngài cười bảo: “Sư huynh đánh phấn như vầy, vậy mặt mũi Thiền cơ ở chỗ nào?”
Thầy Diệu Phong đáp: “Thiền cơ tùy chỗ hiện. Tóc dài như vầy vì bấy lâu ở trong núi tu hành, chứ chẳng phải nhàn rỗi để tóc chơi. Tham Thiền phản chiếu vào tự tánh, nếu nhập vào vài cảnh giới thì thân thể còn không nghĩ biết đến, huống chi việc để tóc dài nhỏ nhoi.”
Ngài nói: “Sư huynh tinh tấn tu hành, treo ba ngàn phiền não đằng sau tóc gáy. Vọng trần của tiểu tăng vẫn chưa đoạn dứt.”
Thầy Diệu Phong bảo: “Huynh là người miền Bắc. Khi vào Nam thì lại sanh bịnh. Sư đệ là người miền Nam đến phương Bắc, không biết sức khỏe thế nào?”
Ngài đáp: “Lúc trước tại Dương Châu gặp bão tuyết nên nhuốm bịnh nặng, may nhờ chư Phật gia hộ nên được lành. Chẳng biết sư huynh ra Bắc bằng cách nào?”
Thầy Diệu Phong đáp: “Hoàng tử Sơn Ấm vừa xây một ngôi chùa lớn, nên thỉnh huynh đến làm trụ trì. Sư đệ đến đây để làm gì?”
Ngài đáp: “Tiểu tăng đi tầm thầy học đạo, chỉ do thuận đường đến kinh đô, nào ngờ gặp lại sư huynh ở đây. Năm xưa ước muốn cùng sư huynh đi viễn du, nay mới được như ý nguyện.”
Thầy Diệu Phong bảo: “Huynh rất trọng lời của sư đệ. Từ khi xa cách, chẳng ngày nào mà không nhớ đến sư đệ. Lúc ấy vì chưa xếp đặt được hết mọi chuyện, tưởng sẽ không có duyên gặp lại, nào ngờ tương hội nơi đây. Nếu không chê bất tài thì huynh nguyện sẽ giúp sư đệ mang y bát và lo việc nấu nướng.”
Cả hai ngài đồng cười đùa vui vẻ, đàm luận cho đến sáng. Vì có hẹn với pháp sư Tiếu Nham (1512-1581), nên Ngài tạm từ giã, đi đến Tây Thành. Thuận đường, Ngài viếng thăm, lễ bái pháp sư Phiên Dung và cầu chỉ dạy. Pháp sư Phiên Dung chẳng nói lời nào, chỉ nhìn thẳng vào mắt Ngài. Ra về, Ngài đi thẳng đến gặp pháp sư Tiếu Nham. Vị này tuổi ngoài sáu mươi, râu tóc bạc phơ, thần sắc trang nghiêm trầm lặng, vốn là bậc tăng sĩ nổi tiếng đương thời. Vừa gặp pháp sư Tiếu Nham, bậc tiền bối đạo cao đức trọng, Ngài tỏ lòng cung kính sùng bái. Ngài được biết pháp sư Tiếu Nham, một đời hoằng pháp lợi sanh, độ được vô số người, cùng chứng đắc những cảnh giới cao. Thế nên, lúc vừa đến Ngài rón rén bước vào chùa, im lặng chờ đợi pháp sư Tiếu Nham ban pháp nhũ. Khi ấy, tuy đang nhập định, nhưng pháp sư vẫn biết có sự hiện diện của một tăng sĩ trẻ. Pháp sư Tiếu Nham từ từ mở mắt ra, bảo: “Ngươi từ đâu đến đây?” Tuy tuổi ngoài sáu mươi, nhưng âm thanh của pháp sư Tiếu Nham như tiếng đại hồng chung. Nghe thế, Ngài vội cúi mình đảnh lễ thưa: “Bạch Pháp Sư! Ðệ tử từ miền Nam lên đến đây.”
Pháp sư hỏi: “Có nhớ rõ đường đi không?”
Ðây chẳng phải hỏi về đường lộ bình thường, mà pháp sư Tiếu Nham hỏi về đường lộ của nhân sanh. Nhờ trí thông minh lanh lợi, Ngài vội thưa: “Bạch Pháp Sư! Ðường lộ vừa đi qua, liền quên mất. Con đã từng tùy duyên gặp chúng nên được an lành, sao còn cố chấp như người thế tục?”
Pháp sư bảo tiếp: “Nhưng Ta đã biết chỗ của ngươi sắp đến!”
Ngài thành khẩn quỳ xuống hỏi: “Làm thế nào mà Pháp Sư biết được chỗ đến đi của con?”
Pháp Sư bảo: “Tự đến thì đến. Tự đi thì đi. Sao hỏi chi nhiều?”
Nói xong, pháp sư Tiếu Nham lại nhắm mắt, nhập định.
Ngài thưa: “Bạch Pháp Sư! Bạch Pháp Sư…”
Thưa hỏi hai lần, nhưng pháp sư vẫn không phản ứng, nên Ngài lặng lẽ bước ra khỏi phòng thất.
Sau khi đối đáp với pháp sư Tiếu Nham, Ngài mời thầy Diệu Phong cùng đến núi Ngũ Ðài. Chẳng ngờ, thầy Diệu Phong vẫn chưa xếp đặt sự việc xong tại kinh đô, nên bảo Ngài hãy đi trước, rồi thầy sẽ đến sau. Thầy bảo rằng nếu có duyên với nhau, thì nhất định sẽ gặp lại trong một ngày nào đó. Vì đã quen với cuộc sống du phương đơn độc, nên dẫu thầy Diệu Phong không thể cùng đi đồng hành, Ngài chẳng chút do dự, lập tức khởi hành, đi về hướng Tây Bắc, tức núi Ngũ Ðài. Có hai nhân duyên khiến Ngài muốn đến ngọn núi này. Thứ nhất, núi Ngũ Ðài là một trong bốn ngọn núi Phật giáo nổi tiếng (ba ngọn núi kia là núi Nga Mi ở Tây Xuyên, núi Cửu Hoa ở An Huy, núi Phổ Ðà ở Triết Giang). Trên núi có cả trăm ngôi chùa viện lớn nhỏ, hương khói đốt suốt cả ngày, và là nơi mà các Phật tử thuần thành thường xuyên tới lui đảnh lễ. Thứ hai, Bắc Ðài của núi Ngũ Ðài được xưng tụng là núi Thanh Lương, nơi quốc sư Thanh Lương Trừng Quán suốt đời thuyết giảng kinh Hoa Nghiêm. Lại nữa, lúc thiếu thời Ngài đã từng hành Thiền Ðịnh, thâm nhập vào cảnh giới tuyết sương giá lạnh như cảnh tượng khí hậu ở Ngũ Ðài. Do những nhân duyên này, Ngài quyết tâm đi đến đó. Lúc xưa, khi đến chân núi Lô Sơn, vì thấy dấu chân cọp sói khắp nơi, nên mới thối tâm, chẳng dám lên núi. Lần này, Ngài cầm theo quyển “Truyện Thanh Lương”, leo lên núi đi khắp nơi, gặp chùa viện nào liền ở đó tham học. Núi Ngũ Ðài hùng vĩ, chùa viện to lớn, tăng chúng tu hành rất đông, khiến Ngài tâm tịnh thần sáng. Mỗi buổi sáng, Ngài thường đi du ngoạn lên những đảnh núi cao như đảnh Diệp Ðẩu tại Bắc Ðài. Khi đó, trời lạnh tuyết băng. Nhìn xa xa thấy giữa những ngọn núi cao có vài ngôi chùa ngói đỏ vách vàng to lớn.
Ðang rảo bước, Ngài chợt bắt gặp một chú tiểu đi đến liền chỉ tay về hướng một ngọn núi cao và hỏi : “Sư Huynh có biết đó là nơi nào không?” Nhìn theo chỉ tay của chú tiểu, Ngài thấy rõ ngọn núi kia thật rất thanh tú hùng vĩ, mây trắng bay tà tà lưng chừng núi, phảng phất như chỗ tu hành của các tiên nhân, nên rất thích thú bảo: “Ngọn núi đó cũng thuộc dãy Ngũ Ðài chăng?”
Chú tiểu đáp: “Ðó là núi Hám Sơn, tức Long Môn của núi Ngũ Ðài. Hôm nào rảnh rỗi, sư huynh nên đến đó chơi.” Nghe thế, như có một lằn ánh sáng lóe chớp trong tâm, Ngài hỏi: “Hám Sơn? Núi này sao gọi là Hám Sơn? Này tiểu sư đệ, hãy kể cho Ta nghe nhân duyên.”
Chú tiểu kia đáp: “Nay sư huynh thích thú, đệ sẽ kể sự tích núi đó cho nghe. Xưa kia, sau khi thống nhất sáu nước, Tần Thủy Hoàng lên ngôi, lấy hiệu là Thủy Hoàng Ðế. Trong thiên hạ, các danh nhân sĩ phu, loài cầm thú bay nhảy, cỏ cây côn trùng, núi non sông ngòi, không có vật chi mà không nghe hiệu lịnh. Tần Thủy Hoàng vì muốn vượt biển cầu làm tiên nhân, nên đi thẳng về hướng Ðông, gặp nước thì quất đá thành cầu, gặp núi thì quất núi mở đường lộ, không ngờ đến ngay tại ngọn núi đó. Ông lại dùng roi quất, nhưng núi này chẳng di động. Quất lần thứ hai, núi cũng đúng vững như tiền. Tần Thủy Hoàng chẳng biết làm sao, nên hạ lịnh đi đường vòng quanh núi. Y cứ theo truyền thuyết này, người sau đặt tên cho ngọn núi kia là Hám Sơn, tức ngọn núi ngu ngốc. Tần Thủy Hoàng chẳng thể nhận diện ra thần núi, nên không thể cầu mong sống mãi không già, phải bỏ mình trên đường trở về kinh đô.”
Nghe chú tiểu kể thao thao bất tuyệt, Ngài cảm giác như có duyên lành với ngọn núi kia, nên khởi tâm động niệm, thầm nghĩ: “Sao mình không lấy hiệu tên của ngọn núi này, để biểu thị cho sự nghiệp hiến thân vì Phật pháp, như núi Hám Sơn này, vĩnh viễn kiên cố chẳng bao giờ lay động.” Từ đó, Ngài lấy hiệu là Hám Sơn. Người sau cũng thường gọi Ngài là đại sư Hám Sơn. Cảm hứng, Ngài viết hai câu kệ:
“Chớ theo người nhân thế.
Nương đây ngưng vọng tình.”
Núi Ngũ Ðài thuộc miền Bắc, địa thế rất cao. Mỗi năm, đến tháng Tư băng tuyết mới bắt đầu tan. Ðến tháng Chín thì tuyết bắt đầu rơi. Nơi đây, vào mùa Hạ vẫn được gọi là thế giới Thanh Lương. Mùa Ðông tuyết đóng rất lạnh, nên một tăng sĩ mặc y vá như Ngài khó có thể chịu lạnh nổi. Vì vậy, vừa đổi hiệu mình là Hám Sơn nơi vùng núi Ngũ Ðài, Ngài liền xuống núi, trở về Bắc Kinh. Song, vào lúc đó Ngài chưa chánh thức sử dụng danh hiệu Hám Sơn. Trong thời gian đi vân du, Ngài thường dùng tên Trừng Ấn. Mãi cho đến khi tới núi Lao Sơn ở Ðông Hải kết am tu hành, Ngài mới bắt đầu dùng danh hiệu Hám Sơn.
Trở về kinh đô chẳng bao lâu, Ngài lại đến núi Bàn Sơn tại Kế Châu, rất gần Bắc Kinh. Việc trèo non lội suối đối với Ngài rất bình thường. Lúc đến núi Bàn Sơn, Ngài gặp một vị tăng, trầm lặng hành Thiền Ðịnh, chẳng nói năng. Hành động kỳ lạ của vị tăng này khiến Ngài rất thích thú. Các ẩn sĩ phần nhiều có tánh tình kiêu ngạo lạ lùng. Họ thường ẩn mình, chẳng phải vì không sống hợp với xã hội. Dĩ nhiên là Ngài thông cảm mục đích ẩn tích mai danh của họ. Vị tăng ẩn sĩ này không giống như những ẩn sĩ khác, khi thấy có các du khách đến, chuyên biểu hiện những hành tung kỳ quái thần bí, hay kể chuyện tu hành của mình. Vị tăng kia, chẳng màng đến sự hiện diện của Ngài, chỉ chăm chú Thiền Quán. Giống như lúc trước, khi đến gặp pháp sư Tiếu Nham, Ngài lẳng lặng bước vào hang động, ngồi tham Thiền đối diện với vị tăng kia. Quần áo mặt mày lam lũ, vị tăng ẩn sĩ chỉ âm thầm tham Thiền, rồi tự nấu cơm pha trà, chẳng thèm nói năng mời mọc Ngài. Thấy vậy, Ngài cũng không lấy làm bực tức, ẩn nhẫn tự lấy tách uống trà, tự lấy chén ăn cơm. Ngày ngày qua ngày nọ, Ngài cũng không nói lời nào, chỉ tham Thiền, hái củi, nấu cơm, pha trà y như vị tăng kia. Ngài tự biết rằng đây là một cao tăng ẩn sĩ, nên nhẫn nại ở lại để học hỏi. Mỗi tối, Ngài y theo vị tăng kia đi ra ngoài cửa hang để Thiền hành. Ðến ngày thứ tám, vị tăng ẩn sĩ bắt đầu mở miệng hỏi Ngài: “Hiền giả từ đâu đến?”
Nghe thế, Ngài rất vui mừng, liền đáp: “Tôi từ miền Nam lên đến đây.”
Vị tăng hỏi: “Ngài đến đây để làm gì? Núi này không có gì là kỳ đặc. Nước ở đây chẳng phải là nước tiên.”
Ngài đáp: “Chẳng phải vì non nước mà đến. Chỉ vì muốn học đạo nơi Thầy.”
Vị tăng bảo: “Tôi chỉ là người hoang dã, cư trú nơi núi rừng, mặt mũi chỉ bình thường, không có gì là kỳ dị.”
Ngài nói: “Thầy chớ quá tự khinh. Lúc vừa bước vào cửa hang, tôi nhận biết Thầy chẳng phải là bậc phàm nhân.”
Vị tăng nói: “Hơn ba mươi năm trú tại núi này, nay mới gặp được người tri kỷ. Ðời này chẳng hối tiếc. Thầy đã đến đây, vậy hãy ở lại vài mươi ngày rồi hãy đi.”
Ngài đáp: “Vâng, đương nhiên rồi! Chỉ sợ làm phiền hà Thầy thôi.”
Vị tăng bảo: “Chớ lo lắng. Chỉ nên xả bỏ thân tâm, không giữ tạp niệm, không đắm chấp ngoại cảnh nội duyên.”
Thời gian trú tại hang động núi Bàn Sơn, Ngài thường cùng vị tăng ẩn sĩ đàm Thiền luận giáo, khiến đạt được lợi ích rất nhiều. Tối nọ, cũng như thường ngày, Ngài theo vị tăng kia ra ngoài hang đi hành Thiền. Ðột nhiên, trong đầu Ngài chợt nổ vang như tiếng sấm sét. Núi sông cây cỏ, trăng sao trời đất, cho đến thân thể của Ngài đều tan biến mất. Trạng thái tịch tĩnh này, kéo dài cả năm cây nhang. Ngài chưa bao giờ đạt đến cảnh giới như thế này. Từ từ, Ngài mở mắt ra, thấy núi sông đất đá, cảnh vật xung quanh, đều hiện ra như xưa. Thân tâm lúc đó khinh an nhẹ nhàng, sung sướng vô ngần. Lát sau, Ngài trở vào hang động nghỉ ngơi. Thấy Ngài bước vào, vị tăng kia liền hỏi: “Hôm nay thầy ngộ được gì mà trở vào sớm quá vậy? Coi chừng lạc đường!”
Ngài liền thuật lại cảnh giới vừa trải qua. Vị tăng kia trầm ngâm một hồi, rồi nói: “Ðây chỉ là một trạng thái của Sắc Ấm, chẳng phải bản tánh chân thật. Tôi trú nơi núi này hơn ba mươi năm, trừ những khi gió mưa bão tuyết, mỗi tối đi kinh hành, đều nhập vào cảnh giới này. Chỉ việc không đắm chấp vào đó thì nó sẽ không che lấp bản tánh”. Ngài nghe lời chỉ bảo, đảnh lễ tri ơn. Hôm đó, hai ngài đàm luận rất thân mật. Ngài ở tại hang động một thời gian dài.
Theo lời thỉnh cầu của hoàng tử Sơn Ấm, thầy Diệu Phong phải mang Ðại Tạng kinh vào Nam (Hà Ðông). Trước khi lên đường thầy Diệu Phong hỏi thăm quan họ Vương về chỗ ở của Ngài. Quan họ Vương sai người đến Bàn Sơn tìm kiếm, nhắn tin thầy Diệu Phong đang đợi Ngài tại kinh đô. Do đó, Ngài đành bùi ngùi chia tay với vị tăng ẩn sĩ vì phải trở về kinh đô đúng hẹn. Vị tăng ẩn sĩ rơi lệ, tiễn Ngài xuống nửa lưng chừng núi. Vào kinh thành, Ngài được quan họ Vương và thầy Diệu Phong tiếp đón nồng hậu. Họ hỏi: “Sao Thầy đến trễ vậy?” Ngài thuật lại những cảnh giới tu hành trên núi. Quan họ Vương bảo: “Như thế là Thầy đã trụ ở núi rồi.”
Ngài bảo: “Ðó chỉ là con đường phụ thôi.”
Ngài cùng thầy Diệu Phong nhìn nhau rồi tươi cười vui vẻ.
Những kinh nghiệm Thiền hành trong lúc tu trì tại núi Bàn Sơn thật rất nhiều, nhưng khi tự thuật lại trong quyển nhật ký, Ngài chỉ nhắc sơ qua vài điểm then chốt: Núi Thiên Tượng Dục, vị tăng ẩn sĩ, hái củi gánh nước, khất thực trong mùa hè v.v… Ðối với Ngài, kinh nghiệm thâm nhập vào những cảnh giới Thiền rất quen thuộc, như ăn cơm uống trà. Tuy thích ở hang động tu hành, nhưng Ngài vẫn rời bỏ vì không muốn hành hạnh tiểu thừa, tự tu tự độ. Do đó, nghe tin thầy Diệu Phong tìm mình, Ngài liền xuống núi.
Mùa Xuân, năm hai mươi chín tuổi, thuộc niên hiệu Vạn Lịch thứ hai, Ngài đến Tây Sơn, hội hợp với các danh sĩ nổi tiếng đương thời như hai anh em Uông Bá Ngọc, Uông Trung Yêm cùng Vương Thế Trinh (tiến sĩ, làm quan Thượng Thơ, cũng là thi sĩ nổi tiếng cuối triều Minh), Vương Thế Mậu, Vương Ðạo Quán, Vương Ðạo Côn, Nam Hải Âu Trinh Bá. Ngài cùng họ làm thi kệ và luận bàn Xuân Thu Chiến Quốc. Ngày nọ, Ngài đến viếng thăm hai anh em Vương Phượng Châu và Vương Lân Châu. Dưới mắt Vương Phượng Châu, một danh sĩ đương thời, Ngài chỉ là một vị tăng trẻ tuổi, chẳng có danh phận, trình độ tu học chắc cũng rất thô thiển, nên rất khinh thường. Do đó, ông ta ra vẻ trưởng giả ngã mạn, muốn chỉ dạy Ngài làm thơ văn. Thấy vậy, Ngài chẳng cần ra vẻ hiểu biết, chỉ đứng dậy, nhìn thẳng vào mặt ông ta, rồi bỏ ra về, chẳng nói lời nào. Ngày kế, khi nghe anh mình đối xử không tốt với Ngài, Vương Lân Châu liền tìm đến, thưa: “Hôm qua anh tôi thiếu một con mắt. Ngưỡng vọng Thầy hãy bỏ qua.”
Tuy hiểu ý của Vương Lân Châu, nhưng Ngài làm ra vẻ không biết chi, bảo: “Anh ông không có cặp mắt sáng à! Sao lại bảo chỉ có một mắt?”
Vương Lân Châu thưa: “Anh tôi tuy có đủ hai mắt, nhưng không có huệ nhãn, nên không nhận ra được Thầy.”
Ngài bảo: “Vậy hai mắt của ông có tinh tường không?”
Vương Lân Châu thưa: “Tôi vốn sanh muộn học trễ, huệ nhãn chẳng sáng, tri thức nông cạn.” Sau khi đọc xong văn thơ của Ngài, Vương Lân Châu rất cảm kích, bảo: “Tài đức Thầy đầy đủ, có khí khái của vị danh nho. Anh tôi vốn là một văn hào trong hiện đời, sao Thầy không chịu theo học vài năm, tương lai sẽ trở thành một danh sĩ!” Ngài cười mỉa mai ông ta, bảo: “Chí hướng của tôi cùng các ông khác nhau. Lý luận này chỉ có người anh của ông dùng được mà thôi. Vả lại tôi đang đợi ông ta đến cầu yếu chỉ Tây Lai.”
Nghe thế, ông ta không vui lòng, trở về thuật chuyện này lại cho quan tư mã Uông Bá Ngọc nghe. Nghe xong, Uông Bá Ngọc bảo: “Tôi nhận thấy thầy Trừng Ấn tương lai sẽ trở thành bậc cao tăng đại trí đại huệ của nhà Phật, và chắc chắn sẽ nhập vào nhà Ðại Huệ (Thiền Sư nổi tiếng, trụ trì chùa Kim Sơn vào đời Nguyên), cùng Trung Phong (Thiền Sư nổi tiếng, tu tại núi Thiên Mục, đời Nguyên), thì cớ sao lại thích theo học văn chương anh của ông? Các ông thật quá xem thường thầy Trừng Ấn. Thi kệ của thầy Trừng Ấn thật siêu thoát, như câu: “Thân thế như cánh ve sầu. Càn khôn như sợi lông ngựa.” Chúng ta vốn chỉ là kẻ tục thôi.”
Ngày kế, Uông Bá Ngọc thiết buổi cơm trai, mời Ngài cùng thầy Diệu Phong đến dùng. Chủ khách vui vẻ trò chuyện. Lát sau, Uông Bá Ngọc bảo: “Tôi có một câu hỏi, xin Thầy giảng giải.”
Ngài đáp: “Xin Tư Mã Công hãy nói, chớ ngại.”
Uông Bá Ngọc bảo: “Tôi nhận thấy hiện nay Thiền tông rất suy vi. Không biết Thầy có nhận rõ điều này không?”
Ngài đáp: “Tâm tôi như lửa đốt.”
Uông Bá Ngọc bảo: “Tôi nhận biết khí khái của Thầy phi phàm, tương lai chắc sẽ làm được việc lớn. Sao Thầy vẫn đi dạo chơi non nước, mà không tự nỗ lực tu hành để chấn hưng Thiền tông?”
Ngài cười đáp: “Chắc Tư Mã Công chưa rõ cho lắm. Chỉ vì muốn xiển hưng Thiền tông nên tôi mới đi viễn du hành cước.”
Uông Bá Ngọc ngập ngừng hỏi tiếp: “Thầy nói thế nghĩa là gì?”
Ngài đáp: “Hiện tại tôi đi du phương, tham tầm lễ bái các thiện tri thức, cao tăng ẩn sĩ, hầu mong được học hỏi sở tu, sở ngộ của họ, để chuẩn bị cho việc hoằng pháp trong tương lai, chứ chẳng phải đi du ngoạn non nước.”
Uông Bá Ngọc bảo: “Ô! Học thức của Thầy, hiện tại ai dám dạy bảo thêm.”
Ngài bảo: “Tư Mã Công chớ quá lời. Tôi chỉ là kẻ đến sau học muộn. Thiên hạ danh sơn đầy cả long ẩn hổ phục (rồng ẩn, hổ nằm). Tôi bái kiến họ, chẳng biết có nhập được vào cửa đạo không nữa, sao dám vọng chấp tự tôn tự đại?”
Thầy Diệu Phong cười, bảo: “Này sư đệ! Chớ quá tự khinh khi học thức của mình.”
Uông Bá Ngọc bảo: “Lời thầy Diệu Phong rất đúng. Ngoài thầy Diệu Phong ra, chẳng ai có thể kết bạn với Thầy được.”
Ngài bảo: “Xin Tư Mã Công chớ nói quá lời mà tổn đức tôi. Thầy Diệu Phong là bậc huynh trưởng, chứ chẳng phải là pháp hữu của tôi.”
Thầy Diệu Phong bảo: “Thầy không hiểu ý tôi. Tôi chỉ là kẻ xuất gia tầm thường, sao lại bảo làm thầy làm huynh trưởng? Thầy chớ như người thế gian, tán thán kẻ khác quá mức.”
Ngài chắp tay, nói: “Sư huynh dạy như thế, tiểu tăng xin ghi nhớ.”
Những lời đối đáp trên, biểu hiện Ngài rất cung kính nể trọng thầy Diệu Phong.
Ở tại nhà Uông Bá Ngọc vài ngày, thầy Diệu Phong cáo từ vì phải giúp hoàng tử Sơn Ấm mang Ðại Tạng Kinh vào miền Nam. Khi đó, cũng muốn đi du phương, nhưng sợ người ngoài bảo rằng mình bị lệ thuộc vào thầy Diệu Phong, nên Ngài ngập ngừng không dám khinh động. Uông Bá Ngọc biết thế bảo: “Tôi biết Thầy không muốn lệ thuộc, đi theo người khác, nên mới ngập ngừng. Song, người xưa vì chẳng màng việc nhỏ nhặt nên mới thành công đại sự. Tương lai, Thầy chắc sẽ thành tựu sự nghiệp xiển dương Phật pháp, sao lại chấp nê những việc nhỏ nhoi, khiến trở ngại hành trình của mình?”
Nghe thế Ngài bảo: “Tư Mã Công thật là người phi phàm. Tôi sẽ đi với sư huynh Diệu Phong.”
Nói xong, Ngài cáo từ, đi ra ngoài gặp thầy Diệu Phong đang ngồi trên xe. Thầy Diệu Phong bảo: “Sư đệ có muốn đi không?”
Ngài đáp ứng và leo lên xe, không lời từ biệt các thân hữu ở kinh thành.
Mùa Thu, vào tháng Tám Ngài vượt bến Mạnh Tân, đến nơi vua Vũ Vương duyệt binh khi xưa. Nhìn thắng cảnh, Ngài viết kệ:
“Phiến đá trơ trọi cạnh bờ sông
Nơi xưa chư hầu từng hội họp
Vua trị quốc cùng đồng trời đất
Nên cùng sông Hoàng chẳng đoạn lưu.”
Ngộ đạo
Từ nhỏ, Ngài đã học làm thi kệ. Tuy có ý chí kiên quyết xuất gia, cố dẹp trừ hết các tập khí, nhưng Ngài vẫn còn khí chất thi nhân. Thắng cảnh giang sơn, cổ tích nhân văn, mỗi mỗi đều khiến hoài cảm động lòng, nên gặp cảnh nào, Ngài cũng viết thi kệ. Lúc đến nơi Bá Di, Thúc Tề, đem quân mã chặn đánh Võ Vương năm xưa, Ngài lại làm kệ:
“Bỏ nước về Sở, ý thâm sâu
Không dư chùa cũ, cây rập rạp
Thú Dương xanh sắc, màu như thế
Tựa như xưa kia, điều tâm ngựa.”
Kế đến, Ngài tới chùa Thiếu Lâm, lễ bái sơ tổ Bồ Ðề Ðạt Ma. Ngày thứ hai, Ngài đến tham bái nơi ngài Huệ Khả chặt tay cầu pháp. Hồi tưởng công hạnh của các vị tổ sư Thiền tông, Ngài quyết chí sẽ hoàn thành sứ mạng xiển hưng Thiền tông, dẫu gặp gian nan khổ nhọc. Xuống núi Thiếu Lâm, Ngài đến cổ thành Lạc Dương, thăm đài Biên Kinh và chùa Bạch Mã. Không khí trong lành, khung cảnh thiên nhiên, khiến tâm Ngài sảng khoái.
Ngài cùng thầy Diệu Phong đồng hành, đến rất nhiều nơi. Người xưa bảo: “Quân tử thường giao đàm như nước.”
Ðầu tiên, hai ngài đến Hà Nam, rồi tới châu Tây Bồ. Trên đường, hai ngài đồng tham Thiền, cùng viết thi kệ, tiêu diêu tự tại.
Tháng Chín, hai ngài chuyển vận Ðại Tạng Kinh đến điểm hẹn tại Hà Ðông, tức vương phủ của hoàng tử Sơn Ấm. Nghe tin, hoàng tử Sơn Ấm tự thân dẫn thuộc hạ ra nghinh tiếp, cùng khải trống nhạc vang rền và rải hoa đầy khắp đất.
Gặp thầy Diệu Phong, hoàng tử Sơn Ấm thưa: “Bạch Thầy! Thầy quá khổ nhọc vận chuyển Ðại Tạng Kinh vì tiểu vương. Tiểu vương rất cảm tạ tri ơn.”
Thầy Diệu Phong bảo: “Ðiện Hạ chớ quá làm khách! Trở về lần này, có một vị khách cùng tôi đến đây.”
Hoàng tử Sơn Ấm thưa: “Bạch Thầy! Vị đó là ai? Thầy mời vị khách đó, chắc là người có tri thức học Phật thâm sâu. Thầy thỉnh mời cũng như tiểu vương mời vậy.”
Thầy Diệu Phong bảo: “Ðó là sư đệ Hám Sơn, người mà tôi thường nhắc đến.”
Hoàng tử Sơn Ấm xoay người lại chào Ngài, bảo: “Tiểu vương thường nghe thầy Diệu Phong nhắc tới Thầy mãi. Nay được gặp mặt Thầy, thật là phước cả ba đời.”
Nói xong, hoàng tử Sơn Ấm thỉnh Ngài giảng kinh thuyết pháp, nhưng thầy Diệu Phong lại bảo: “Qua bao ngày đi đường, thầy Hám Sơn vẫn còn mệt nhọc. Hãy để cho Thầy nghỉ ngơi một đêm đã.”
Hoàng tử Sơn Ấm chắp tay thưa: “Bạch Thầy! Vì tiểu vương quá vui mừng nên mới hồ đồ thất lễ. Xin Thầy thứ lỗi.”
Nói xong, hoàng tử Sơn Ấm liền sai người chuẩn bị nơi ăn chốn ở cho hai ngài nghỉ ngơi. Kế đó, ông lại ra lịnh xếp đặt Ðại Tạng Kinh vào dinh phủ. Tại dinh phủ, vì là Phật tử thuần thành, nên hoàng tử Sơn Ấm thường đến nơi Ngài ở để hỏi đạo. Khâm phục học thức và đạo hạnh của Ngài, hoàng tử Sơn Ấm thỉnh Ngài giảng kinh Lăng Nghiêm. Nghe lời mời giảng kinh, Ngài liền bảo: “Tài đức tri thức của tiểu tăng chỉ tầm thường, không dám để tiếng xấu lại khiến người cười chê. Lại nữa, tiểu tăng chỉ vân du đến đây. Nếu Hoàng Tử mãi cầu thỉnh, tiểu tăng chắc phải cáo từ.”
Hoàng tử Sơn Ấm thấy Ngài chẳng muốn giảng kinh, nên không cầu thỉnh nữa, nhưng lại cố lưu Ngài ở lại dinh phủ. Ngài an tâm ở lại dinh phủ của hoàng tử Sơn Ấm ba tháng. Khi ấy, lúc an nhàn thư thái, Ngài đọc quyển luận ‘Vật không đổi dời’ của ngài Tăng Triệu (đệ tử của Tam Tạng pháp sư Cưu Ma La Thập). Ðã lâu, Ngài chưa hiểu rõ và vẫn hoài nghi về lý thường trụ bất biến của vạn vật cùng một ngọn gió xoáy thổi nát núi Tu Di. Trong quyển luận này, có đoạn miêu tả một vị Phạm Chí, xuất gia từ thuở nhỏ, trở về nhà lúc tóc bạc phơ. Dân làng thấy thế bảo: “Người này thường ở đây, nay vẫn còn sống.”
Phạm Chí đáp: “Tôi giống người đó, nhưng không phải người đó.”
Ðọc qua đoạn này, Ngài chợt hiểu rõ lý Trung Ðạo, nên tự bảo: “Mình sai lầm rồi! Muôn vật vốn không đến không đi.”
Vừa nói, Ngài vừa bước xuống giường Thiền, thắp hương lễ Phật không khởi một tướng, rồi mở màn lưới, đi ra ngoài phòng thất, đứng nơi thềm cấp. Nhìn xem gió ban chiều thổi nhè nhẹ, khiến lá vàng rơi rụng đầy cả mặt đất, Ngài tự nhủ: “Người hiện tại tức là kẻ hôm xưa. Tịnh tức là động. Ðộng tức là tịnh. Sanh tức là tử. Tử tức là sanh.”
Trở vào phòng thất, Ngài viết kệ:
“Sanh tử ngày đêm
Nước chảy hoa rơi
Ngày nay đã biết
Lỗ mũi hướng xuống.”
Hôm sau, thầy Diệu Phong đến, thấy Ngài vui vẻ, nên hỏi: “Sư đệ đã ngộ được gì?”
Ngài đáp: “Ðêm qua, đệ mơ thấy hai con trâu sắt bên bờ sông, húc nhau rồi nhảy xuống nước, lặn mất. Từ đó, không còn nghe tin tức”. (Hai con trâu húc nhau, nhảy xuống nước, biến mất, biểu trưng cho thân và tâm, sanh và tử, động và tịnh, đều tan biến, không còn khái niệm chấp hai.)
Nghe thế, thầy Diệu Phong bảo: “Sư đệ có chút vốn liếng trụ núi rồi đó.”
Ngài nói: “Nếu được như thế thì rất hay. Chỉ sợ đệ chưa ngộ thấu đến cảnh giới đó thôi.”
Thầy Diệu Phong bảo: “Nếu sư đệ muốn trụ núi tham Thiền, huynh đề nghị một chỗ rất tốt, vì quen biết được vị hòa thượng trụ trì. Nơi đó, mùa Hè rất mát, còn mùa Ðông thì tuyết rơi rất lạnh, chắc sư đệ thích lắm.”
Ngài nói: “Có phải là núi Ngũ Ðài không? Nếu sư huynh cùng đi, thật là điều may mắn cho đệ.”
Thầy Diệu Phong đáp: “Huynh cũng có ý định trở lại nơi đó.”
Ðang bàn luận, bên ngoài có người của hoàng tử Sơn Ấm đến, nói: “Hoàng tử đã thỉnh Thiền Sư Ngưu Sơn Pháp Quang đến dinh phủ giảng Thiền nên mời hai thầy đến tham kiến.”
Hai ngài liền đáp ứng đến sảnh đường. Chưa bước vào sảnh đường mà Ngài đã nghe tiếng giảng kinh đàm Thiền của Thiền Sư Pháp Quang vang rền như trống vỗ. Mỗi lời của Thiền Sư Pháp Quang đều đập vào tâm thức Ngài. Tuy chưa gặp mặt, Ngài tự nhủ: “Thiền Sư này quả nhiên là vị cao tăng, đã minh tâm kiến tánh, nên âm thanh lời nói chẳng đồng với phàm phu. Nếu không được tâm đắc nơi Thiền, thì làm sao có dạng trạng như thế?”
Gặp được Thiền Sư Pháp Quang, Ngài rất vui mừng, cầu thỉnh pháp yếu. Thiền Sư bảo: “Phải rời tâm thức. Vượt đường sở học của phàm thánh.”
Ngày nọ, Thiền Sư Pháp Quang chợt đọc được những bài kệ của Ngài viết, bảo: “Sao Thầy viết được những câu bóng bẩy như thế này. Tuy hay, nhưng có một đoạn chưa thông.”
Ngài hỏi: “Cửa khiếu nào của Thiền Sư đã thông?”
Thiền Sư Pháp Quang bảo: “Ba mươi năm trời chờ đợi bắt rồng chụp hổ, nhưng nay lại để cho con thỏ chạy thoát.”
Ngài nói: “Xem thấy Thiền Sư chẳng phải là tay bắt rồng, chụp hổ.”
Thấy Thiền Sư Pháp Quang định lấy tích trượng đánh mình, Ngài liền chụp lại, vuốt râu, bảo: “Lời Thiền Sư quá nhẹ.”
Thiền Sư Pháp Quang cười rồi bỏ đi. Ngày nọ, Thiền Sư Pháp Quang bảo Ngài: “Thầy không cần đi đâu chi cho mệt. Hãy cùng tôi đến Phục Niên tu hành.”
Ngài nói: “Xem thấy tài biện luận và tri giải của Thiền Sư không thua ngài Ðại Huệ, nhưng phong thái lại điên rồ. Sao Thiền Sư cứ lải nhải, múa may tay chân cả ngày?”
Thiền Sư đáp: “Ðó là Thiền bịnh (Do không tu đúng cách, cùng vì nghiệp chướng và ma chướng gây nên). Vừa phát ngộ, bao ngôn từ, kệ cú cứ tuôn chảy ào ào, chẳng thể kiềm chế được, nên nay thành Thiền bịnh.”
Ngài hỏi: “Khi Thiền bịnh này mới phát khởi thì phải làm sao?”
Thiền Sư đáp: “Lúc vừa bộc phát, nếu không tự nhận biết, phải cần có một vị đại thủ nhãn, đập cho một gậy, khiến ngủ mê thiếp. Khi thức dậy, bịnh sẽ tự hết. Tôi hận cho mình chẳng phải là tay độc thủ.”
Vào tháng Giêng năm kế, biết Ngài sắp đến núi Ngũ Ðài, Thiền Sư Pháp Quang bảo: “Thấy sư tử cỡi mây, nhưng hãy để rồng nghỉ trong hang.”
Ngài lấy làm lạ bảo: “Tri thức cạn cợt, xin Thiền Sư chỉ điểm.”
Thiền Sư Pháp Quang bảo: “Lúc Thầy đến núi Ngũ Ðài, chớ động đến con rắn chết.”
Thầy Diệu Phong nói: “Lời của Thiền Sư thật thâm sâu. Xin hãy giải thích cho sư đệ Hám Sơn nghe rõ.”
Thiền Sư bảo: “Trời Ðông tuyết lạnh, tưởng rằng rắn đã chết, nhưng nó vẫn còn sống. Nếu động đến, nó sẽ cắn ngay.”
Ngài cùng thầy Diệu Phong hiểu Thiền Sư Pháp Quang muốn chỉ việc phải nên cẩn thận trên đường tu hành, chớ xuất đầu lộ diện khi chưa giác ngộ. Lâu nay, nghĩ tưởng Thiền tông chẳng còn các bậc thiện tri thức, nhưng khi gặp được Thiền Sư Pháp Quang, Ngài mới biết là vẫn còn có những Thiền Sư lỗi lạc.
Nghe tin Ngài cùng thầy Diệu Phong muốn đến núi Ngũ Ðài, cùng biết khó mà lưu giữ hai ngài lại, hoàng tử Sơn Ấm không dám cản trở. Hoàng tử Sơn Ấm lại biết cha mẹ Ngài còn tại thế, nên định sai người đem hai trăm lạng vàng đến tặng cho họ để dưỡng già. Ngài bảo: “Bần đạo chỉ là tăng du phương, chưa tự cứu mình, chẳng đủ phước đức, sao lại dám làm lụy đến song thân.”
Vì hoàng tử Sơn Ấm nài nỉ, đưa tặng ba lần, nên cuối cùng Ngài thọ nhận và đem số vàng đó cúng dường lại cho Thiền Sư Pháp Quang để xây chùa đắp tượng Phật.
Tháng giêng năm 1575, Ngài cùng thầy Diệu Phong từ Hà Ðông đến núi Ngũ Ðài. Lúc đến vùng phụ cận tỉnh Bình Dương, đang cười nói thầy Diệu Phong đột nhiên thay đổi sắc mặt, lạnh lùng trầm ngâm. Ngài hỏi han ba câu, thầy Diệu Phong chỉ nói nửa câu. Ngài biết chắc thầy Diệu Phong có nỗi buồn riêng tư gì nên cố hỏi gặng. Cuối cùng, Thầy đành thố lộ nguyên do. Vì tỉnh Bình Dương là quê cũ của Thầy. Lúc Thầy còn nhỏ, vùng này bị nạn đói vì hạn hán. Lần đó, cha mẹ bị chết vì đói khát, nên Thầy mới vào chùa xuất gia. Xã hội nước Tàu vốn là xã hội nông nghiệp, duy trì cuộc sống chỉ nhờ vào nhu phẩm chính yếu, tức lúa gạo. Nếu năm nào bị thiên tai hạn hán thì người chết đói khát cả hàng muôn vạn. Theo chu kỳ, một trăm năm trước khi có một triều đại nào khai quốc thì trong nước sẽ bị nạn thiên tai hạn hán. Lúc có thiên tai, họa hoạn, dân chúng ăn bất cứ gì có thể ăn được. Cha mẹ của thầy Diệu Phong chẳng hơn gì bao người khác. Sau khi chết, không có đất để chôn cất đàng hoàng, nên làm mồi cho loài thú hoang. Nay trở về cố hương, tuy chẳng có y gấm, nhưng có tiền cúng dường của hoàng tử Sơn Ấm cùng hai vị quan thân thuộc, hai ngài dùng số tiền này để mua một khu đất cao ráo, xây lại mộ phần và khắc bia kệ cha mẹ thầy Diệu Phong. Tên tục của thầy Diệu Phong là Tích, xưa kia sống tại phía Ðông thành phố Bình Dương. Thầy là con cháu của Tích Cúc, thời Xuân Thu Chiến Quốc.
Thái Thú tỉnh Bình Dương, Hồ Thuận Yêm, nghe hai vị danh tăng đến vùng mình cai quản, nên rất vui mừng. Vì biết tin quá muộn, lúc hai ngài rời khỏi thành Bình Dương, ông thái thú mới hay biết. Do lòng chí thành, ông Hồ Thuận Yêm liền tìm lộ trình, đến Linh Thạch mới gặp được hai ngài. Sau khi đàm luận mãn ý, ông ta trở về dinh phủ, nhưng lại phái quân lính đi theo hộ tống hai ngài đến tận núi Ngũ Ðài. Ðến Ngũ Ðài, hai ngài chuẩn bị chuyên tâm nhất ý tu hành trong một thời gian, chứ không phải đi du ngoạn như lần trước. Vì vậy, hai ngài chọn Long Môn ở Bắc Ðài làm nơi cư trú. Ðịa thế vùng Long Môn rất cao. Tuy là mùa Xuân, nhưng băng tuyết vẫn còn đóng y nguyên. Núi non u tịch, là nơi lý tưởng cho việc tham Thiền tịnh tâm. Mồng Ba tháng Ba, phát hiện dưới đống tuyết dầy có vài am tranh cũ, Ngài dừng lại ở trọ trong đó. Nhìn chung quanh, núi non đất đai trắng xóa, khiến tâm Ngài sửng sốt, nhớ lại cảnh giới Thiền Ðịnh khi xưa. Hiện tại Ngài như đang lạc vào cảnh giới Lưu Ly.
Ðêm nọ, đột nhiên thầy Diệu Phong hứng chí đi dạo Ngũ Ðài. Biết thói quen của thầy Diệu Phong, Ngài không màng đến, chỉ một mình đơn độc tịnh tâm Thiền Quán trong am tranh. Ðột nhiên gió thổi ào ào, tuyết tan nước chảy ầm ầm, như sấm sét, khiến Ngài ngồi Thiền chẳng yên, nên không thể nhập định. Nửa đêm, gió ngưng thổi, muôn vật bên ngoài đều trở lại tịch tĩnh, khiến nội tâm Ngài an tĩnh, nhưng vẫn còn nghe tiếng động rầm rầm như muôn ngàn binh mã đang giao chiến. Ngài ngồi mỏi mệt suốt đêm, không nhập định được. Hôm sau, trời hừng sáng, thầy Diệu Phong trở về, thấy sắc mặt Ngài trắng bạch, tâm thô, khí nhược, nên rất ngạc nhiên, không biết việc gì đã xảy ra đêm hôm trước, liền hỏi han. Ngài thuật lại sự tình đêm qua. Nghe xong, thầy Diệu Phong khuyên: “Cảnh từ tâm sanh, chẳng từ ngoài đến. Người xưa bảo rằng trong ba mươi năm nếu không còn nghe nước chảy thì sẽ chứng đắc cảnh giới Quán Âm Viên Thông. Nếu đắc được cảnh giới đó thì không còn bị ngoại cảnh chi phối, phiền muộn gì nữa. Huynh tin tưởng là sư đệ sẽ đạt đến cảnh giới đó.”
Ngài vui mừng, bảo: “Câu này đệ thường đọc qua nhiều lần, nhưng chẳng biết tại sao tối qua không nhớ đến! Thật nguy hiểm, nếu không có thầy hiền bạn tốt hướng dẫn chỉ điểm thì chắc sẽ bị mê mù, đọa lạc vào đường ma rồi.”
Nói xong, Ngài lập tức cử động thân thể, đứng dậy, đi ra ngồi Thiền bên cạnh con suối. Mới đầu, vẫn còn bị động tâm vì tiếng nước chảy róc rách. Nếu tâm động thì nghe tiếng nước chảy, bằng ngược lại chẳng nghe gì hết. Ngày nọ, đang ngồi Thiền, Ngài chợt quên mất thân tâm, cho đến âm thanh cũng tịch nhiên bất động. Từ đó, mọi âm thanh bên ngoài không còn ảnh hưởng tâm tư của Ngài nữa. Trong những ngày tự rèn luyện thân tâm tu đạo. Ngài sống trong cảnh gió rét tuyết sương, ăn uống khổ cực vô ngần, chẳng ai chịu nổi. Món ăn hằng ngày chỉ có bột gạo cùng rau dại. Lúc vừa đến Ngũ Ðài, có người cúng dường ba đấu gạo mà cho đến nửa năm vẫn ăn chưa hết. Trong đói rét khổ cực, Ngài tự tu tâm dưỡng tánh. Ngày nọ, vừa dùng cháo xong, Ngài đi kinh hành, rồi đột nhiên nhập định, không thấy thân tâm, duy chỉ có một hào quang lớn chiếu sáng chói cả năm tạng, viên mãn thâm tịch như một tấm kiếng tròn lớn. Núi, sông, đất đai đều hiển hiện trong đó. Khi cảm giác trở lại, tự tìm chẳng thấy thân tâm. Cảnh ngộ này không giống như lúc ở Bàn Sơn, Ngài không còn thấy thân tâm mình ở đâu nữa. Có thể tính đây là lần khai ngộ đầu tiên. Việc khai ngộ tâm tánh khiến Ngài tràn đầy niềm sung sướng, thấy rõ manh mối Thiền cơ. Nhờ dụng công tu hành khổ hạnh, Ngài mới đạt đến cảnh giới này. Vì vậy, Ngài viết kệ:
“Khoảnh khắc nhất niệm, tâm cuồng ngưng
Căn trần nội ngoại, đều thấu suốt
Thân bay độc phá, thái hư không
Vạn tượng sum la, từ đây diệt.”
Khi ấy, trong ngoài thân tâm lắng đọng, âm thanh sắc tướng không còn làm chướng ngại. Những nghi hoặc trước đây, nay đã hiểu rõ. Nhìn vào nồi cơm, chỉ thấy mốc meo, chẳng biết đã nhập định bao lâu.
Năm đó Ngài được ba mươi mốt tuổi. Tuy khai ngộ nhưng không được ai chứng minh, nên Ngài mở kinh Lăng Nghiêm ra để cầu ấn chứng. Ngài nhận thấy sở ngộ của mình rất phù hợp với lời Phật giảng giải trong kinh. Trong vòng tám tháng, do dùng tâm chất trực, không phân biệt hay vọng động, Ngài hiểu rõ nghĩa lý ý chỉ thâm sâu vi diệu của kinh Lăng Nghiêm mà trước đây chưa từng biết đến.
Trải qua năm năm chia cách, thầy Tuyết Lãng luôn nhớ đến, nên thường hỏi han tin tức và tìm kiếm Ngài. Cuối cùng thầy Tuyết Lãng mới thực sự biết tin tức về Ngài đang ở tại núi Ngũ Ðài đã hơn nửa năm. Thế nên, thầy Tuyết Lãng tìm đến, gặp Ngài nơi đảnh núi tuyết băng. Vì nơi núi Ngũ Ðài, đã quen chịu đựng tu hành khổ hạnh, nên khi gặp lại sư huynh mình, Ngài cảm thấy rất khác biệt về tư tưởng cùng cách thức tu hành. Hiện tại, hai ngài đã trưởng thành. Mỗi người đều tự chọn lựa con đường tu hành riêng cho mình, nhưng đạo tình huynh đệ vẫn nồng thắm. Vừa gặp mặt nhau, thầy Tuyết Lãng liền bảo: “Lần này, lên đây huynh muốn mời sư đệ trở vào Nam tu hành.”
Ngài đáp: “Sư huynh chắc đã biết tánh của đệ, một khi đã quyết định làm việc gì rồi thì khó mà thay đổi.”
Thầy Tuyết Lãng nói: “Nếu vậy thì sư đệ có cho phép huynh ở lại đây đồng tu hành chăng?”
Ngài đáp: “Núi Ngũ Ðài là nơi giá hàn tuyết lạnh. Sư huynh là người miền Nam, chắc không thể chịu đựng nổi thời tiết lạnh lẽo. Năm xưa, sư huynh đã từng khuyên đệ chớ nên lên đây tu hành. Nhận thấy sức khỏe của sư huynh không được mạnh cho lắm, nên khó lòng ở lại nơi đây.”
Thầy Tuyết Lãng bảo: “Sư đệ ở được thì huynh cũng ở được. Huynh quyết cùng tu hành sống chết với sư đệ.”
Ngài nói: “Mỗi người chúng ta đều có trọng trách riêng. Nhân duyên tan hợp đều khác với người thế tục.”
Thầy Tuyết Lãng bảo: “Cơ duyên chúng ta gặp nhau hôm nay thật là hiếm có.”
Ngài nói: “Tùy theo nhân duyên, mỗi chúng ta có chí hướng tu hành riêng biệt. Sư huynh có trọng trách rất lớn, phải lo kế thừa y bát của pháp sư Vô Cực, tương lai xiển hưng đạo pháp, chớ nên tu hành như đệ, chỉ ngồi Thiền Ðịnh suốt ngày nơi núi khô rừng vắng, cả đời đi du phương khắp giang hồ. Phật giáo vùng Giang Nam hiện nay rất suy vi, chỉ còn nương nhờ vào tài đức của sư huynh, làm con mắt cho trời người, giáo hóa thế nhân, khiến họ phát tâm tu đạo trở về với chánh pháp, thì mới không phụ công ơn dạy dỗ cùng niềm hy vọng của pháp sư Vô Cực năm xưa.”
Nghe thế thầy Tuyết Lãng nói: “Lời khuyên của sư đệ, huynh nguyện xin lãnh thọ.”
Thầy Tuyết Lãng biết rõ, ngay lúc còn nhỏ, Ngài đã có chí hướng cao cả. Ngài tu hành khổ hạnh nơi núi Ngũ Ðài vì muốn cầu liễu giải đạo lý thâm sâu cao thượng, hầu mong mai sau đem ra giúp ích xiển dương đạo pháp. Tối hôm đó, hai ngài đàm luận suốt đêm. Cuối cùng, thầy Tuyết Lãng quyết định trở về miền Nam hoằng dương Phật pháp. Ngày kế, Ngài trịnh trọng tiễn đưa thầy Tuyết Lãng trở về vùng Ðông Nam hoằng pháp. Trong ba mươi năm giảng kinh thuyết pháp, hoằng dương chánh giáo, thu hút rất nhiều tín chúng, thầy Tuyết Lãng trở nên vị giảng sư nổi tiếng trong vùng Giang Nam, thật sự kế thừa sự nghiệp của pháp sư Vô Cực.
Mùa Xuân, vừa khai ngộ chẳng bao lâu, đại sư Liên Trì đến thăm viếng Ngài. Xin nói sơ về Ðại sư Liên Trì. Ðại sư người Hàng Châu, họ Trầm, tự Phật Huệ, hiệu Chu Hoằng, danh Vân Thê. Thuở nhỏ học Nho giáo. Ðại sư đạo đức, văn chương lỗi lạc siêu quần. Ngày nọ, Ðại Sư nghe tiếng niệm Phật của bà góa phụ láng giềng. Hỏi ra, biết chồng bà lúc còn sống, thường niệm Phật, nên khi lâm chung đắc chánh niệm. Từ đó, tâm Ðại Sư hướng về Tịnh Ðộ, tự viết bốn chữ ‘sanh tử đại sự’ trên phiến đá tọa Thiền. Năm hai mươi bảy tuổi, cha qua đời. Năm hai mươi chín tuổi vợ mất. Năm ba mươi mốt tuổi mẹ qua đời. Năm ba mươi hai tuổi, đến đảnh Tiên Chi ở Triết Giang, lễ bái mộ phần cha mẹ, Ðại Sư tự cảm thán: “Ân sâu nghĩa nặng của cha mẹ. Nay chính là lúc phải nên báo đáp.”
Ngày nọ, bà Thang Thị, người vợ kế, làm bể tách nước trong khi pha trà. Thấy vậy, Ðại Sư bảo: “Lý nhân duyên, không gì là không tan hoại.”
Ngày khác, Ðại Sư bảo bà Thang Thị: “Ân ái chẳng thường hằng. Sanh tử chẳng đợi trông. Nay tôi muốn đi xuất gia. Bà hãy tự lo liệu lấy thân.”
Năm ba mươi ba tuổi, Ðại Sư đến núi Ngũ Ðài, xuất gia theo hòa thượng Tánh Thiên, rồi đến chùa Chiêu Khánh thọ giới nơi luật sư Vô Trần. Năm đó, vì tiên sư viên tịch, Ðại Sư đến núi Lô Sơn, tham bái Thiền Sư Biện Dung. Thiền Sư Biện Dung bảo: “Chớ tham danh mến lợi mà ra vào cửa quyền quý. Ra sức dụng công, nhất tâm tu đạo, kiên cố trì giới.”
Ðại Sư cũng đến tham vấn pháp sư Tiếu Nham. Ngày nọ, đang đi ngang qua vùng Sơn Ðông, đột nhiên Ðại Sư chợt khai ngộ, liền viết kệ:
“Việc hai mươi năm trước đều nghi
Ngoài ba ngàn dặm, sao lạ kỳ
Ðốt hương, ném giáo, đều như mộng
Ma Phật chẳng tranh, thị là phi.”
Lần nọ, tại chùa Ngõa Quan ở Giang Tô, Ðại Sư bị bịnh nặng, khí đoạn như đã chết. Lúc làm lễ trà tỳ, đại chúng nghe trong hòm có tiếng của Ðại Sư: “Tôi vẫn còn chút hơi thở!”
Do đó, Ðại Sư sống trở lại. Năm ba mươi bảy tuổi, nhân đi khất thực tại vùng Phạm Thôn, thấy non xanh nước biếc, thâm u tịch tĩnh, Ðại Sư quyết tâm vĩnh viễn cư trú tại chùa Vân Thê, bên dưới núi Ngũ Vân, do một Thiền Sư phục hổ sáng lập vào những năm đầu đời Tống. Vùng Phạm Thôn có rất nhiều hổ. Khi đến đó, nhờ Ðại Sư thường tụng kinh thí thực, loài hổ dần dần bỏ đi. Năm nọ, trong vùng bị nạn hạn hán, dân chúng đến thỉnh Ðại Sư cầu mưa. Ðại Sư bảo: “Tôi chỉ biết Phật pháp, chứ chẳng có pháp thuật gì!”
Nói xong, Ðại Sư vừa đi chung quanh các thửa ruộng vừa gõ mõ niệm Phật. Lát sau, trời đột nhiên đổ mưa. Từ đó danh Ðại Sư vang rền khắp nơi. Ðại Sư hành trì giới luật tinh nghiêm, vì giới luật là một trong ba môn học vô lậu trọng yếu. Lý thái hậu rất kính phục những bài văn phóng sanh của Ðại Sư, nên bà thường tham vấn Phật pháp và cúng dường y bát. Ðại Sư viết kệ cảm tạ:
“Người tôn vinh hào quý
Do xưa trồng nhân lành
Nhân thắng, quả tất quý
Nay thành tụ đại phước
Thâm đạt tướng tội phước
Trong quả đã có nhân
Ví như hoa trên gấm….”
Ðọc bài kệ này, Lý thái hậu lại càng thâm tín cung kính Ðại Sư. Lúc bốn mươi bảy tuổi, bà Thang Thị, người vợ kế thuở xưa, cảm kích hạnh tu trì của Ðại Sư, nên theo hòa thượng Thiên Tánh xuất gia, với pháp hiệu là Chu Cẩm. Năm năm mươi tám tuổi, bà đặt tên tịnh thất là Nữ Nghiệp Lâm, danh “Hiếu Nghĩa Vô Ngại Am.”
Ðại sư Liên Trì chú trọng giới luật, cổ xướng Thiền Tịnh quy nhất, tức tâm Thiền hạnh Tịnh. Niệm Phật cũng là pháp đốn giáo như Thiền tông, chẳng phải là pháp tướng, mà là trực tánh. Một niệm không sanh tức là Phật. Thể tánh của một niệm, tức là Phật A Di Ðà. Có người hỏi: “Trì danh niệm Phật, có phải là còn niệm không? Một niệm không sanh của Ðốn giáo có phải là vô niệm không?”
Ðại Sư đáp: “Trì niệm tức nhất tâm bất loạn, cũng là vô niệm. Nhất tâm tức không còn niệm.”
Ðại Sư dùng rất nhiều pháp môn phương tiện, lược thuyết có ba: Pháp môn Niệm Phật, pháp môn Chỉ Quán, pháp môn Tham Thiền. Ðại Sư trước tác chú giải kinh Lăng Nghiêm, A Di Ðà Kinh Sớ Sao, kinh Di Giáo, kinh Phạm Võng, cùng những bài trước tác về tông Tịnh Ðộ, giới luật, tạp lục, và tùy bút. Tổng cộng khoảng ba mươi hai loại. Mục đích của Ðại Sư là muốn dung hợp tất cả pháp môn, tông phái. Môn hạ đệ tử của Ðại Sư có hơn cả ngàn người. Năm tám mươi mốt tuổi, Ðại Sư bảo đại chúng: “Tôi thường nhắc mà đại chúng vẫn không để ý. Thân tôi như ngọn đèn trước gió. Dầu cạn, đèn phải tắt… Ngày mai tôi sẽ đi.” Nói xong, Ðại Sư vào thất phương trượng, mắt nhắm không nói lời nào. Sau này, lúc các đệ tử trong thành đến, Ðại Sư bảo: “Ðại chúng hãy chân thật niệm Phật.”
Có vị tăng hỏi: “Bạch Ðại Sư! Ai có thể làm chủ được mình?”
Ðại Sư đáp: “Người có hạnh giải song toàn.”
Trả lời xong, Ðại Sư xoay mặt vào vách tường, niệm Phật, đoan tọa thị tịch.
Ðạo hạnh và học vấn thâm sâu của đại sư Liên Trì khiến tăng chúng trong nước nói chung, cùng tăng chúng tại núi Ngũ Ðài nói riêng, rất kính phục. Lần tương kiến này, đại sư Liên Trì cùng Ngài đàm luận cả vài ngày đêm, rất tương đầu ý hợp. Ðại sư Liên Trì lớn tuổi hơn Ngài. Nhân vật chủ yếu, ảnh hưởng Ngài từ Thiền mà nhập vào Tịnh Ðộ, tức hành Thiền Tịnh Song Tu, chính là đại sư Liên Trì. Sau khi đại sư Liên Trì viên tịch, Ngài đến Vân Thê dự lễ an táng. Ðệ tử của đại sư Liên Trì thỉnh Ngài viết kệ về cuộc đời tu hành của đại sư, khắc lên bia đá…