TRANG 2

Thiền Định

Ngài có mối liên hệ thân thiết với giới quan phủ, như quan tư mã Uông Bá Ngọc, vốn là bạn học thuở thiếu thời. Lắm khi Ngài đến dinh phủ, cùng họ đàm luận hay tạm trú vài mươi ngày. Lắm khi Ngài cũng tránh xa cửa quan, nhưng lại bị họ tìm kiếm. Ðiển hình là lúc lánh nạn ẩn cư tại Bàn Sơn, quan Uông Bá Ngọc lại phái người đến thỉnh mời Ngài trở về Bắc Kinh.

Vào đời Minh, mối liên hệ giữa tăng lữ cùng quan quân rất mật thiết. Nhiều cao tăng đại đức thường lui tới dinh phủ cùng quan quân đàm luận giao hảo.

Thái thú Hồ Thuận Am vừa nhậm chức tại ải Nhạn Môn, một cửa ải chiến lược trọng yếu ở miền Bắc, gần núi Ngũ Ðài, lên núi thăm viếng Ngài. Trên núi, Ngài chiêu đãi ông ta thức ăn đạm bạc. Ngày thường ăn sơn hào hải vị, nay được đổi khẩu vị bằng rau tươi, cải luộc, khiến ông ta rất thích thú. Lúc đó, thời tiết cuối hè tại núi Ngũ Ðài rất mát mẻ, nhưng vào buổi trưa thì rất nóng. Ngài cùng ông ta đàm Thiền, luận Phật. Ông hỏi: “Ngày Hạ nóng nực như vầy, pháp sư làm sao giải nhiệt?”

Ngài đáp: “Tâm tịnh thì tự nhiên lòng trong mát. Thái Thú sao nhọc lòng lo lắng cho bần tăng. Phàm muôn sự đều tùy duyên nhậm vận, sao còn cảm giác nóng nực hay lạnh lẽo?”

Thái Thú thưa: “Pháp sư đạo hạnh thâm cao, người phàm khó thể so sánh. Ngưỡng vọng Pháp Sư từ bi chỉ dạy cách giải nhiệt.”

Ngài đáp: “Suối nguồn ở nơi đây vẫn còn đóng băng. Bao mùa Hạ băng tuyết chưa tan. Nếu Thái Thú thích, hãy ở lại đây vài hôm để được giải nhiệt. Thật ra, khí nóng hay giá lạnh đều do tâm mà phát sanh. Tâm của chúng ta vốn là Phật, không nóng cũng không lạnh. Dùng nước đá giải nhiệt, cũng là dùng ma chế ma, nên nhà Phật không chấp vào nó.”

Hồ Thuận Am cười đáp: “Nơi của Pháp Sư trú, thật là một thế giới đặc biệt. Lời chân thật của Pháp Sư khiến cho Hồ Mỗ Mao chợt đốn ngộ việc phân tranh vinh nhục đều hư vọng. Vọng niệm của phàm phu đều như nước đá đóng băng.”

Ngài bảo: “Nếu Thái Thú giữ được niệm đó, thì sẽ cùng tâm Phật không cách xa.”

Thái Thú thưa: “Ða tạ Pháp Sư chỉ điểm. Sau này lão Hồ nếu giúp gì được, xin Pháp Sư chớ ngần ngại bày tỏ.”

Ngài đáp: “Bần đạo vốn là người hoang dã, sao làm nhọc lòng Thái Thú.”

Mùa Ðông, tháng mười, phương trượng trụ trì chùa Tháp Viện là Ðại Phương bị bổn đạo vu oan, kiện cáo là có vợ, nên bị quan quân bắt nhốt, khiến hoàn tục. Số là trên núi Ngũ Ðài, có rất nhiều cây quý, khiến gian thương muốn đốn lấy. Nhiều lần chúng lén đốn cây, nhưng bị thầy Ðại Phương ngăn chận. Lại nữa, quan phủ địa phương luôn bảo hộ chùa viện, nên chúng không biết làm sao. Khi thái thú Hồ Thuận Am lên núi, chúng liền vu cáo thầy Ðại Phương. Lúc đó, Ngài đang tu Thiền tại Long Môn, chưa biết đến việc này. Ðến khi Thiền Sư Triệt Không từ Lô Sơn tới thăm, thuật lại việc thầy Ðại Phương bị vu oan và bị phán quan cưỡng bách hoàn tục thì Ngài mới tỏ rõ. Lúc đó, gian thương đang đốn phá cây cối chung quanh chùa viện. Nghe việc này, Ngài an ủi Thiền Sư Triệt Không: “Thầy chớ đau buồn. Việc này bần tăng có thể giải quyết được.”

Thiền Sư Triệt Không bảo: “Quan phủ có thế lực. Phận mình là tăng sĩ, không quyền thế tiền tài, chỉ có hai bàn tay trắng, làm sao cứu được thầy Ðại Phương?”

Ngài đáp: “Xin Thầy chớ lo buồn. Tôi sẽ cố gắng cứu giúp thầy Ðại Phương trở về chùa.”

Nói xong, Ngài liền lội tuyết đến ải Nhạn Môn, tại núi Sùng Sơn. Lúc ấy, vào triều Minh, vùng biên cương phía Bắc ít khi có nạn binh đao. Ải Nhạn Môn tuy nằm trong vị trí chiến lược hiểm yếu, nhưng ít khi có giao tranh, nên thái thú Hồ Thuận Am cũng được an nhàn rảnh rỗi. Người qua lại cửa ải Nhạn Môn cũng rất ít. Ðang nghỉ ngơi trong doanh trại, thái thú Hồ Thuận Am nghe báo cáo là có một tăng sĩ đến tìm ông. Ông ta chợt lấy làm lạ, thời tiết lạnh lẽo như thế này, ai lại tìm đến đây? Tuy nghĩ vậy, ông vẫn đi ra ngoài doanh trại xem coi. Ra đến, ông đâu ngờ, người tìm mình chính là ngài Hám Sơn, đột nhiên xuất hiện tại vùng biên ải. Ông vui mừng, lấy áo bào đắp lên thân Ngài, rồi hướng dẫn Ngài vào doang trại, bảo: “Muốn lên núi lễ bái tham vấn Pháp Sư, nhưng cả mấy ngày nay tuyết rơi dầy đặc, che lấp đường đi, nên không tiện. Nào ngờ hôm nay Pháp Sư đến. Lão Hồ này thật có phước đức.”

Sưởi ấm xong, Ngài nói: “Hôm nay bần tăng lội tuyết đến đây, vì có một chuyện, mong nhờ Thái Thú giúp đỡ.”

Thái Thú hỏi: “Có việc gì quan trọng, khiến Pháp Sư phải cực nhọc, lặn lội đến đây?”

Ngài đáp: “Nếu Thái Thú vui lòng, bần tăng mới dám trình bày sự việc.”

Thái Thú bảo: “Pháp Sư hãy an tâm mà kể rõ sự tình. Nếu giúp được, lão Hồ không quản khó khăn đâu.”

Ngài nói: “Cách đây vài hôm, thủ hạ của Thái Thú đã bắt giam thầy Ðại Phương, hòa thượng trụ trì tại núi Ngũ Ðài. Xin Thái Thú hãy rộng tình tha thứ cho thầy Ðại Phương.”

Nghe lời này, ông chợt nhớ lại việc bắt giam thầy Ðại Phương. Nếu nể lời Ngài mà thả thầy Ðại Phương ra thì ông sẽ mất mặt với bộ hạ và các thương nhân. Ngược lại, nếu từ chối thì làm sao đối diện với Ngài. Lúc ông ta đang suy gẫm việc tiến thối lưỡng nan này, Ngài lại bảo: “Núi Ngũ Ðài có cây cối già cả hàng trăm năm. Nếu để cho gian thương vì chút lợi nhỏ mà chặt phá, thì đạo tràng của Bồ Tát Văn Thù không còn là thắng cảnh, non xanh nước biếc nữa. Thái Thú sao không vì con cháu đời hậu lai, mà ngăn cấm việc chặt cây phá rừng?”

Vì nghe lời bộ hạ cùng bọn thương nhân, ông mới bắt lầm thầy Ðại Phương. Lúng túng, ông đáp: “Lúc trước, vì nghe thầy Ðại Phương có những chuyện không hay, và thường làm trở ngại các thương nhân, nên mới tạm giam để chờ xét xử. Bảo hộ rừng cây núi Ngũ Ðài là việc cần làm. Thầy Ðại Phương thật ra có công mà lại chuốc tội. Việc này vì bọn thuộc hạ của lão Hồ quá hồ đồ. Xin Pháp Sư an tâm. Lão Hồ sẽ thả thầy Ðại Phương ra ngay.”

Ngài chấp tay bảo: “Nam mô A Di Ðà Phật. Lành thay! Lành thay! Thái Thú thật sáng suốt. Muôn dân nương nhờ Thái Thú mà hưởng phước. Song, nếu Thái Thú có thể ra lệnh, cấm chỉ chặt cây phá rừng thì công đức này vô lượng. Từ đây về sau, rừng cây nước nhà được bảo tồn. Dân chúng sẽ dùng không hết gỗ mộc. Những chuyện trộm cắp vặt, chắc sẽ ít phát sanh.”

Thái Thú bảo: “Lời của Pháp Sư thật có lý.”

Nói xong, ông liền ra lịnh phóng thả thầy Ðại Phương cùng viết công cáo, cấm việc chặt cây đốn rừng trên núi Ngũ Ðài. Những bọn lưu manh du đãng trên núi cũng dần dần bỏ đi mất.

Ðến ải Nhạn Môn, Ngài vốn chỉ muốn cứu thầy Ðại Phương thôi, nào ngờ lại được ông Thái Thú thông cảm, phê chuẩn cấm việc phá hoại rừng cây.

Bàn về việc công xong, Thái Thú mời Ngài ở lại doanh trại bàn luận Phật pháp qua mùa đông. Vì không thể từ chối, Ngài đành phải nán lại nơi đó qua năm mới. Quan quân tại ải Nhạn Môn, nhộn nhịp sửa soạn đón Giao Thừa. Cảnh tưng bừng nhộn nhịp đón mừng năm mới, nào hợp với tâm định tĩnh của người tu hành. Thế nên, suốt ngày Ngài ở trong doanh trại, không đi đâu cả, chỉ khi nào ông thái thú đến, mới đàm luận xã giao.

Quan khai phủ Cao Công, vừa dời về Ðại Châu, nghe tin Ngài đang ở doanh trại của thái thú Hồ Thuận Am, liền đến gặp, cầu Ngài viết một bài thơ phú chúc tết. Vì khai phủ Cao Công là bạn thân của thái thú Hồ Thuận Am, nên Ngài đáp: “Học thức bần tăng cạn cợt. Vả lại, trong đầu không có một chữ, làm sao viết thơ kệ!”

Tuy Ngài cự tuyệt, nhưng Cao Công vẫn khăng khăng khẩn cầu. Vì vậy, Hồ Thuận Am lại yêu cầu Ngài viết kệ. Cuối cùng, Ngài nhờ Hồ Thuận Am lấy những bài thi kệ thuở xưa ra, rồi vừa đọc vừa viết kệ. Ðang viết, đột nhiên bao thi kệ trào ra liên tục, Ngài không thể kềm chế. Hồ Thuận Am vừa ra khỏi khách đường, liền trở lại. Lúc đó, Ngài đã viết xong khoảng ba mươi bài kệ rồi. Ngài tự bảo: “Ðây là tập khí của con quỷ văn tự.”

Vì vậy, Ngài lập tức ngừng viết, cố khống chế tư tưởng, không nghĩ về văn tự. Ngài chỉ đưa cho Cao Công một bài kệ để thỏa mãn lòng mong muốn của ông ta, rồi bước vào phòng riêng ngơi nghỉ. Song, những bài thi kệ đã đọc và viết xưa nay, tự nhiên tuôn trào ra trước mắt, đầy khắp hư không. Khi ấy, thân Ngài như khẩu miệng, tuôn tràn bao dòng kệ. Ngài không còn biết thân tâm ở đâu, chỉ cảm giác lâng lâng, cứ để mặc tình thơ kệ trào ra.

Hôm sau, Hồ Thuận Am tiễn đưa Cao Công ra doanh trại, chỉ còn một mình Ngài ở lại. Ngài tự suy nghĩ: “Ðây chính là Thiền bịnh mà Thiền Sư Pháp Quang đã nói đến khi trước. Hiện nay không có ai giúp mình ra khỏi cơn bịnh này. Vậy, chỉ việc cố ngủ say sưa thì mới mong trị được nó.”

Sau đó, Ngài đóng cửa phòng lại, rồi ngồi Thiền, cố định tâm. Hồi sau, Ngài nhập định lúc nào mà vẫn không biết. (Ðịnh nằm trong ba môn vô lậu học, Giới, Ðịnh, Huệ. Từ Ðịnh, trí huệ Bát Nhã được khai mở, khiến viễn ly phiền não). Ðồng tử hầu cận gõ cửa phòng Ngài nhưng không nghe tiếng trả lời. Sau khi trở về, Hồ Thuận Am nghe tin Ngài không ra ngoài ăn uống cả ba ngày. Ông hỏi han, đồng tử hầu cận đáp: “Ðã ba ngày, Pháp Sư chưa bước xuống giường Thiền.”

Ông bảo: “Vậy ngươi có gõ cửa không?”

Ðồng tử đáp: “Tiện nhân có gõ cửa vài lần, nhưng không nghe tiếng trả lời.”

Hỏi han xong, ông Hồ Thuận Am dẫn gia nhân đến phòng Ngài. Từ ngoài cửa sổ nhìn vào, ông thấy Ngài an nhiên ngồi Thiền, sắc mặt vẫn hồng hào như thường. Vì thường giao tiếp với các Thiền sư, ông bảo: “Pháp Sư đã nhập định. Các ngươi chớ làm rộn Ngài. Khi đúng thời thì Ngài sẽ xả định.”

Hai ngày sau, Ngài vẫn chưa xuất định, khiến cho Hồ Thuận Am lo sợ. Ông bảo gia nhân trèo vào cửa sổ, gọi Ngài xả định. Bọn gia nhân kêu gọi, lung lay thân thể, nhưng Ngài vẫn ngồi Thiền bình thường, hơi thở vẫn còn ra vào. Nhìn xung quanh phòng, Hồ Thuận Am thấy có một cây khánh dẫn lễ ở trên bàn thờ Phật. Ông chợt nhớ lại lúc trước đã từng hỏi công dụng của cây khánh. Khi đó Ngài đáp: “Các vị Tổ ở Ấn Ðộ, thường nhập định rất lâu. Nếu muốn các ngài xả định, phải dùng đến cây khánh dẫn lễ này.”

Nhớ đến đây, Hồ Thuận Am liền cầm khánh, kê bên tai Ngài, rồi đánh vài tiếng. Nhờ vậy, Ngài từ từ xuất định. Thấy thế, Hồ Thuận Am vui mừng bảo: “Ô! Pháp Sư đã xả định! Một chút xíu nữa là lão Hồ này đã chết ngất vì Ngài rồi.”

Song, lúc đó Ngài vẫn không biết thân tâm hiện giờ đang ở tại đâu, bảo: “Ðây là nơi nào? Tôi chỉ vừa thở hơi thở thứ nhất!”

Hồ Thuận Am đáp: “Lão Hồ vừa tiễn Cao Công ra về thì Pháp Sư liền nhập định liên tục cả năm ngày đêm rồi.”

Nghe thế, Ngài lại im lặng quán sát kỹ càng những việc vừa xảy ra. Ý thức Ngài không biết hiện đang ở đâu và từ đâu đến. Quán sát trở lại lúc còn ở trên núi Ngũ Ðài cùng những cuộc hành trình lúc trước, mỗi mỗi đều như xảy ra trong mộng, chẳng thể mong cầu chấp trước. Hư không náo nhộn như mưa rơi, mây tụ. Vạn vật đều tịch tĩnh an nhiên vô tướng. Tâm không cảnh tịnh, an lạc vô cùng, khiến Ngài viết kệ:

“Cực tịnh sáng thông đạt
Tịch nhiên chứa hư không
Xoay về quán hư không
Như việc trong huyễn mộng.”

Nhìn lại nửa đời vân du bốn bể, chỉ như cảnh mộng. Bao phiền não chất chứa trong tâm tan biến như mây khói.

Xả Ðịnh, Ngài trở về núi Ngũ Ðài. Bao ngày, thầy Triệt Không đang bồn chồn chờ đợi. Ngày nọ, một chú tiểu từ dưới chạy lên núi, báo tin rằng Ngài đã trở về, khiến thầy Triệt Không rất vui mừng, chạy ra đón rước. Nhìn thấy sắc diện hồng hào của Ngài cùng một tiểu đội quân lính tháp tùng, thầy Triệt Không cảm giác an lòng. Bộ hạ của Hồ Thuận Am được lịnh phải trở về doanh phủ. Vài ngày sau, thầy Ðại Phương được thả về. Quan quân địa phương lên núi, ra thông cáo cấm chặt cây đốn rừng. Thầy Triệt Không, Ðại Phương v.v… biết ‘thần thông’ của Ngài thật quảng đại. Từ đó, tăng chúng trên núi Ngũ Ðài rất kính trọng Ngài. Tuy được thỉnh mời trú tại Ngũ Ðài, nhưng Ngài lại khước từ, và vẫn ở tại am Long Môn tu khổ hạnh cùng với thầy Triệt Không.

Lúc đó, đột nhiên có một trận bão tuyết thổi đến Ngũ Ðài. Tuyết trắng phủ đầy khắp nơi. Núi Ngũ Ðài trở thành thế giới lưu ly. Am tranh tại Long Môn bị tuyết lấp kín. Song, Ngài cùng thầy Triệt Không vẫn điềm nhiên ngồi Thiền. Mỗi ngày, họ thổi lửa nấu cơm nước một lần. Tuyết rơi càng ngày càng dầy đặc cả vài mươi ngày. Nhờ việc giải cứu thầy Ðại Phương, Ngài được tăng chúng trên núi kính trọng như bậc cao tăng. Thầy Triệt Không cũng là khách tăng của núi Ngũ Ðài, nên phải được bảo hộ chu toàn. Vì vậy, khoảng ba trăm tăng chúng tại Bắc Ðài, Trung Ðài, cùng chùa Bạch Mã, cầm cuốc xẻng đi đến am Long Môn. Ðường lộ đến Long Môn lởm chởm, gồ ghề. Tuyết rơi phủ khắp nơi. Nếu không để ý thì dễ dàng trượt chân xuống hố tuyết. Vì tuyết đóng dầy đặc, tuy có hơn ba trăm tăng chúng, nhưng đào xới cả hai ngày họ mới tìm thấy am tranh của Ngài và thầy Triệt Không. Tăng chúng bước vào am tranh, thấy hai ngài đang ngồi Thiền gần lò bếp. Vừa thấy tăng chúng, Ngài mời họ vào nhúm lửa nấu trà, bảo: “Nước đá ngoài cửa đã được đun thành nước lỏng cam lồ. Quý vị vì cứu bần tăng mà phải chịu cực khổ bao ngày. Xin mời ngồi xuống uống trà.”

Trước việc sống chết trong đường tơ kẽ tóc, sắc mặt Ngài vẫn điềm nhiên, tâm tư tự tại, khiến tăng chúng rất đỗi ngạc nhiên. Nghe tin Ngài bị nạn tuyết vùi lấp cả bao ngày mà không chút lo sợ, toàn thể tăng chúng trên núi Ngũ Ðài rất kính phục, và bảo nhau rằng Ngài được bình an là nhờ chư Phật gia hộ. Hôm sau, dân chúng trong vùng, nghe tin hai ngài được thoát nạn, liền đem bánh trái, rau quả đến am Long Môn. Sau này, trong những lần bão tuyết khác, Ngài cùng thầy Triệt Không thường nhập định tại am Long Môn. Việc tu Thiền trong tuyết lạnh giá băng thật rất quen thuộc với Ngài.

Mùa Xuân năm sau, Ngài lại đến Nhạn Môn để cảm tạ thâm ân của Hồ Thuận Am. Trở về Ngũ Ðài, Ngài định báo đáp thâm ân sanh thành dưỡng dục của cha mẹ. Lúc trước, Ngài đã từng xem qua văn phát nguyện cứu độ cha mẹ của đại sư Nam Ngạc Hành Sơn. Lại nữa, Ngài nhớ đến chư cao tăng trong đời quá khứ thường trích máu viết kinh. Vì vậy, Ngài quyết định trích máu viết kinh Hoa Nghiêm với mục đích là trên kết duyên cùng trí huệ Bát Nhã thù thắng, dưới đáp đền ân trọng của cha mẹ. Trước đó, Ngài đã từng ghi danh vào đoàn cao tăng trong toàn quốc, tụng kinh cầu nguyện quốc thái dân an do Lý thái hậu bảo trợ. Nghe tin Ngài định viết kinh Hoa Nghiêm bằng máu, Lý thái hậu sai người đem giấy bằng bột vàng đến cúng dường. Việc này, khởi đầu cho sự liên hệ mật thiết nhưng phức tạp giữa Ngài và hoàng tộc. Lý thái hậu là mẹ của vua Minh Thần Tông, tức hoàng đế Vạn Lịch. Chiếu theo sử triều Minh, Lý thái hậu dạy Minh Thần Tông rất nghiêm khắc. Lúc nhỏ, những khi Minh Thần Tông làm biếng, không thích học hành, bà phạt ông ta quỳ cho đến khi nhận lỗi mới thôi. Ngay cả sau khi Minh Thần Tông lên ngôi hoàng đế, bà vẫn không lơi lỏng quản giáo con mình. Lần nọ, Minh Thần Tông tại Tây Thành thiết tiệc. Ăn uống say sưa xong, ông ta bảo quan nội thị xướng ca. Quan nội thị từ chối vì không biết ca hát. Việc này làm Minh Thần Tông nổi giận rồi tạt rượu vào mặt quan nội thị, lại định rút gươm ra chém. Nhờ tả hữu can gián, quan nội thị thoát chết. Minh Thần Tông vẫn chưa nguôi giận, nên nắm tóc quan nội thị mà cắt. Nghe việc này, bà liền viết thơ trách mắng con mình, cùng sai người đưa Minh Thần Tông vào cung gặp bà. Vào cung, Minh Thần Tông quỳ xuống khóc lóc nhận tội trước mặt bà.

Lý thái hậu quản giáo con mình rất nghiêm khắc, khiến cho Minh Thần Tông âm thầm bất mãn. Song, trong triều nội, ngoài bà ra, không ai có thể can lơn được Minh Thần Tông. Sau này, vì tin tưởng Phật pháp, bà thường cúng dường tiền bạc, xây dựng sửa chữa các chùa viện trong ngoài kinh sư. Vì nể mẹ, Minh Thần Tông cũng hỗ trợ tiền tài rất nhiều. Do đó, tại kinh đô, dân chúng thường gọi bà là ‘Phật lão nương nương’. Việc ‘trợ thí vô số tiền bạc’ khiến Minh Thần Tông rất đau lòng. Lại nữa, triều đình phải bỏ ra rất nhiều tiền bạc cho việc chi phí quân binh, đánh dẹp cướp biển ở vùng Ðông Nam. Sau này, dựa vào việc Lý thái hậu cúng dường tiền bạc cho Ngài để trùng hưng các tự viện, Minh Thần Tông làm nháo rộn lên. Nhờ sự can gián của bá quan, tình mẹ con giữa bà và Minh Thần Tông được hàn gắn. Song, việc tranh chấp trong triều nội, khiến Ngài cùng các vị tăng sĩ bị liên lụy. Ðiển hình là việc Ngài bị lưu đày cả vài thập niên sau này, còn Thiền Sư Ðạt Quán thì bị chết trong tù.

Năm ba mươi ba tuổi, niên hiệu Vạn Lịch năm thứ sáu (1579), Ngài chuyên tâm nhất ý viết kinh bằng máu. Thư pháp của Ngài rất tuyệt vì thuở nhỏ đã từng học qua thư pháp của các bậc vương giả trong bao triều đại. Mỗi lần viết nét chữ nhỏ hay lớn, Ngài cũng đều niệm Phật. Khi chư tăng, kẻ tục lên núi viếng thăm, Ngài vừa viết vừa trò chuyện, tay không dừng nghỉ, miệng không quên lời đối đáp, nhưng không viết sai chữ nào. Chư tôn trưởng lão thấy vậy rất kinh ngạc, nên thường đến thử thách, cố ý làm rầy để khiến Ngài bị phân tâm. Tuy vậy, Ngài vẫn không viết sai một chữ (Danh tiếng đạo đức tu hành của Ngài, ngày một nổi bật, khiến rất nhiều người trọng vọng, đến núi Ngũ Ðài thỉnh giáo lễ bái). Tăng chúng thấy thế, hỏi thầy Diệu Phong. Thầy đáp: “Vì sư đệ của tôi có công phu Thiền định thâm sâu, nên trí huệ mới được như thế.”

Từ lúc trú tại núi cho đến khi bắt đầu viết kinh, Ngài thường gặp những giấc mơ lành:

“Thứ nhất, Ngài mơ thấy mình đi vào động Kim Cương. Ngay nơi cửa đá có khắc bảng: “Chùa Ðại Bát Nhã.” Bước vào, Ngài thấy chùa rộng lớn như hư không. Mái chùa, lầu các trang nghiêm vô cùng. Trong chánh điện chỉ có một sàng Thiền to lớn. Ngài lại thấy quốc sư Thanh Lương đang nằm trên sàng Thiền, còn thầy Diệu Phong thì đang đứng hầu bên trái. Thế nên, khi vừa vào, Ngài lập tức lễ bái rồi đứng về bên phải. Ðược nghe quốc sư Thanh Lương khai thị: “Vừa nhập vào cảnh pháp giới viên dung, gọi là sự hỗ nhập của cõi Phật, chủ khách tương giao, tướng đến đi chẳng động đậy.”

Như những lời thuyết giảng của quốc sư Thanh Lương, những cảnh giới đó hiện ra rõ ràng trước mắt và Ngài cảm thấy thân tâm hòa đồng với chúng. Khi đó, Ngài nghe thầy Diệu Phong hỏi quốc sư Thanh Lương: “Bạch Quốc Sư! Ðây là những cảnh giới gì?”

Quốc sư Thanh Lương cười đáp: “Vô cảnh giới của cảnh giới.”

Thức dậy, Ngài tự thấy thân tâm cùng khung cảnh xung quanh dung hợp triệt để, không còn bị nghi tình làm chướng ngại.

Ðêm khác, Ngài tự thấy thân mình vụt thăng lên hư không, cao đến vô cực. Hạ xuống, Ngài thấy mười phương thế giới đều lắng đọng, vắng vẻ, không có một vật chi, duy chỉ có đất bằng như tấm gương, long lanh chiếu sáng. Nhìn xa xa, Ngài chỉ thấy một lầu các rộng lớn, bằng phẳng như hư không. Trong lầu các hiện ra tất cả sự vật trên thế gian như con người, động vật, chợ búa, thành ấp lớn nhỏ; mỗi mỗi đều nằm trong đó; chúng đến đi không ngăn ngại. Trong lâu các có đặt một tòa Thiền màu vàng đỏ tím óng ánh. Tự tâm Ngài bảo rằng đó là bảo tòa Kim Cang. Sự trang nghiêm của lâu các này vi diệu, không thể nghĩ bàn. Ngài vui vẻ muốn tiến đến gần. Tâm Ngài chợt nghĩ rằng trong cảnh giới thanh tịnh này cũng có tán loạn, uế trược. Khi vừa khởi niệm thì tòa lâu các xa dần dần. Ngài lại tự bảo rằng cấu uế hay thanh tịnh đều do tâm sanh. Nghĩ đến đó thì lầu các lại hiện gần hơn. Trong những cảnh giới đó, Ngài chợt thấy có rất nhiều chư tăng. Hình tướng các ngài cao lớn, sắc thân trang nghiêm đoan chánh vô cùng. Ngài lại thấy một chú tiểu đồng từ tòa ngồi đứng dậy, tay cầm một quyển kinh bước xuống sàng tòa, đưa cho Ngài, nói: “Hòa Thượng đang thuyết kinh này, nên bảo tôi mang đến cho Ngài.”

Ngài tiếp nhận, mở kinh ra đọc, thấy toàn là chữ Phạn viết bằng vàng, nhưng không biết chữ nào hết. Ngài bỏ quyển kinh này vào túi và hỏi chú tiểu đồng: “Hòa Thượng đang giảng kinh là ai?”

Chú tiểu đồng đáp: “Là Di Lặc Bồ Tát.”

Ngài rất vui vẻ, theo chú tiểu đồng, bước lên tầng cấp lâu các. Khi ấy, Ngài vừa đứng vừa nhắm mắt giữ chánh niệm, rồi chợt nghe tiếng khánh. Mở mắt ra, Ngài thấy Bồ Tát Di Lặc đã lên tòa ngồi. Ngài liền cung kính chiêm lễ. Ngưỡng đầu nhìn lên, Ngài thấy sắc diện Bồ Tát Di Lặc màu đỏ tím, sáng chói oai nghiêm mà trên thế gian này không gì so sánh bằng. Ðảnh lễ Bồ Tát Di Lặc xong, Ngài tự nghĩ rằng hôm nay Bồ Tát đặc biệt thuyết pháp cho mình. Căn cơ thật rất khế hợp. Thế nên, Ngài quỳ xuống trước Bồ Tát Di Lặc, rồi mở quyển kinh ra. Ngài nghe Bồ Tát thuyết: “Phân biệt là thức. Vô phân biệt là trí. Y theo thức thì bị nhiễm ô. Y theo trí thì được thanh tịnh. Vì nhiễm ô nên có sanh tử. Vì thanh tịnh nên chẳng có chư Phật.”

Nghe đến đó, đột nhiên Ngài cảm giác thân tâm mình như đang trong mộng huyễn.

Ngài lại nghe âm thanh của Bồ Tát Di Lặc trong hư không rõ ràng, khai sáng đất tâm. Thức dậy, âm thanh đó vẫn còn văng vẳng bên tai, chẳng quên mất một chữ. Từ đó, Ngài biết rõ sự khác biệt giữa trí và thức, tâm nhãn (mắt của tâm thanh tịnh) liễu nhiên. Nhận biết cõi nước mà Ngài vừa đến, chính là lâu các của Bồ Tát Di Lặc tại nội viện của cõi trời Ðâu Suất.

Ðêm khác, Ngài nằm mộng thấy một vị tăng đến bảo: “Bồ Tát Văn Thù trên đảnh Ðài Bắc có thiết lễ tẩy tịnh. Nay thỉnh Ngài đến.”

Ngài bước theo vị tăng đó. Ðến nơi, Ngài bước vào một điện đường rộng lớn, mùi hương lạ bay tràn khắp nơi. Các thị giả đều là Phạm Tăng. Ngài được dẫn vào một buồng tắm. Sau đó, Ngài cởi y phục ra và tắm, nhưng thấy có người đã ở trong bồn tắm. Nhìn kỹ, đó là một cô gái. Vì vậy, Ngài không dám bước vào. Cô gái trong bồn tắm chợt chuyển hình tướng trở thành người nam. Thế nên, Ngài bước vào, cùng tắm chung. Người đó, lấy tay múc nước và xối trên đầu Ngài. Nước chảy từ đầu xuống chân, thấm vào mình Ngài như tẩy rửa một thùng thịt sống. Năm tạng trong người không còn nữa, duy chỉ còn lại bọc da, trong trắng như lưu ly, thấu suốt rõ ràng. Khi ấy, người kia gọi đem trà. Ngài thấy một vị Phạm Tăng, tay cầm sọ nửa đầu người, giống như trái dưa. Ngài nhìn vào, thấy máu mủ tủy não trong đó, nên khởi tâm nhờm ớn. Vị tăng kia dùng ngón tay, quẹt lấy tủy não, bảo: “Ðây là vật bất tịnh à!”

Sau đó, vị tăng kia liền đút tay vào miệng Ngài. Ngài nuốt xuống, mùi vị ngọt như mật. Cứ như thế, Ngài nuốt hết tủy não, duy chỉ còn máu. Người trong bồn tắm bảo: “Hãy đưa cho ông ta.”

Vị tăng thị giả liền đưa cho Ngài. Nuốt vào, Ngài cảm giác như uống nước cam lộ. Nuốt vào cổ, nước chảy thấu đến từng sợi lông. Uống xong, vị Phạm Tăng xoa lưng và đột nhiên vỗ tay thật lớn, khiến Ngài thức giấc. Mồ hôi trong mình đổ ra như tắm. Năm tạng trong người được thanh lọc rửa sạch. Từ đó, thân tâm như được tẩy tịnh, khiến Ngài cảm thấy sung sướng nhẹ nhàng vô vàn. Trong những giấc mộng, Ngài đều thấy chư thánh Bồ Tát. Hầu hết những giấc mộng đó đều là điềm lành. Ðức Phật nói: “Thường mộng điềm lành”, đó là những điềm quý báu.

Mùa Thu năm 1581, công việc xây chùa Ðại Từ Thọ đã xong. Lúc đầu Lý thái hậu muốn sửa chữa chùa Tháp Viện và Bảo Tháp Xá Lợi tại núi Ngũ Ðài để cầu siêu cho chồng bà, tức vua Long Khánh, và cầu phước lành cho con bà, tức vua Vạn Lịch đương thời. Triều đình đã ban sắc lịnh thi hành điều nguyện ước của bà. Nhưng vì núi Ngũ Ðài quá xa Kinh Ðô, nên nhà vua (chưa bàn với Lý thái hậu) chọn nơi gần nhất để xây chùa Ðại Từ Thọ. Khi kiến lập chùa Ðại Từ Thọ xong, triều đình mới bẩm tấu với Lý thái hậu. Vì chưa được mãn nguyện, Lý thái hậu ra lịnh cho hoàng đế sai nội quan dẫn hơn ba ngàn công nhân đến núi Ngũ Ðài tu sửa chùa chiền. Ðây là lần đầu tiên triều đình làm Phật sự và gởi nội quan ra ngoài làm việc. Sợ nội quan không thể hoàn thành công việc đàng hoàng, có thể tổn hại đến Phật pháp, nên Ngài đích thân điều động và chỉ dẫn cách thức. Thế nên, mọi việc từ đầu đến cuối đều được hoàn thành theo ý muốn. Sự liên hệ giữa Ngài với hoàng tộc ngày một khắng khít.

Vào năm Vạn Lịch thứ tám, giống như bao triều đại trước, hoàng đế ra lịnh thanh tra đất đai để đánh thuế. Thấy dân chúng ngày một tăng gia sản xuất, triều đình càng đánh thuế nhiều thêm để lấy tiền dùng vào sanh hoạt vinh hoa phú quý cho hoàng triều. Lệnh thanh tra đóng thuế của hoàng đế vừa ban ra, liền được các quan địa phương hoan hỷ nghinh tiếp, vì đây là cơ hội vón vét tiền bạc ruộng lúa của dân chúng. Trong mười phần lúa gạo do dân đóng thuế, chỉ có khoảng hai ba phần là bỏ vào công khố hoàng cung, bảy phần còn lại là bị quan quân cường hào địa phương vơ vét ăn chặn.

Núi Ngũ Ðài vốn thuộc tài sản chùa viện, nên xưa nay không bị thanh tra đóng thuế tiền bạc ruộng lúa. Song, lệnh của vua ban ra, quan huyện nào dám cãi lại! Vì vậy, quan huyện Ngũ Ðài yêu cầu tăng sĩ trên núi Ngũ Ðài đóng thuế năm trăm thặng lúa. Ðồng thời quan quân thường phái người đến thanh tra đất đai. Lâu sau, cuộc sống tu hành của tăng chúng trên núi đều không được bình an. Vì vậy, tăng sĩ từ từ bỏ núi đi nơi khác tu hành. Nếu không có ai hộ pháp, núi Ngũ Ðài sẽ sớm biến thành rừng hoang cỏ dại. Do đó, chư sơn trưởng lão tại các tự viện tùng lâm, cùng nhau tìm Ngài để thương lượng giải quyết vấn đề. Ngài bảo: “Xin thỉnh các ngài chớ bận tâm lo lắng. Hy vọng, trong vài ngày sẽ có tin tức lành.”

Có người nghi ngờ bảo: “Ðây là thánh chỉ của hoàng đế. Không ai dám chẳng tuân theo!”

Song, hòa thượng Ðại Phương cùng một số tăng sĩ biết Ngài có mối quan hệ mật thiết với triều đình, nên một lời của Ngài nói ra, liền khiến họ an tâm phần nào. Quả nhiên, vài ngày sau Ngài viết thơ gởi về triều đình thỉnh nguyện cho núi Ngũ Ðài được miễn thuế. Cuối cùng triều đình đáp ứng, không thu một đồng một cân lúa. Tuy mới có ba mươi lăm tuổi, nhờ uy tín và trí huệ mà Ngài bảo tồn được tài sản của núi Ngũ Ðài.

Pháp Hội Cầu Thái Tử

Năm ba mươi sáu tuổi, Ngài kiến lập pháp hội Vô Giá. Xưa kia, thầy Diệu Phong cũng phát nguyện lấy máu viết kinh Hoa Nghiêm như Ngài. Nay, Ngài cùng thầy Diệu Phong đồng phát nguyện kiến lập một đạo tràng viên mãn, gọi là pháp hội Vô Giá (được tổ chức vào mỗi năm, với mục đích ban phát của cải cho người nghèo. Ðây cũng là pháp hội sám hối. Ở Ấn Ðộ, pháp hội Vô Giá thường được nhà vua tổ chức để cúng dường thức ăn cho chư tăng và phân phát đồ đạc cho người nghèo). Trong quyển ‘Lịch Sử Văn Minh Ấn Ðộ’, trang 157, ông Nguyễn Hiến Lê viết: “…Huyền Trang, nhà sư đi thỉnh kinh nổi tiếng nhất của Trung Hoa, bảo rằng vua Harsha cứ năm năm lại tổ chức một đại lễ để bố thí. Ông mời đại diện tất cả tôn giáo, gọi tất cả những người nghèo khổ trong nước lại. Ông có thói quen, trong quốc khố còn chứa bao nhiêu tiền thuế dành dụm từ đại lễ lần trước (nghĩa là năm năm trước), lần này đem ra bố thí hết. Huyền Trang ngạc nhiên thấy biết bao nhiêu vàng bạc, tiền và nữ trang, tơ lụa gấm vóc chất đống trong một khoảng rộng, chung quanh có cả trăm cái lều chứa cả ngàn người. Ba ngày đầu cúng bái, tụng kinh; ngày thứ tư bắt đầu bố thí. Theo lời vị cao tăng đó – có vẻ không tưởng tượng nổi – hàng vạn tăng được cấp thức ăn uống, rồi được tặng mỗi người một viên ngọc trai, y phục, hoa, dầu thơm và trăm đồng tiền. Các tu sĩ Bà La Môn cũng được hậu tặng gần như vậy, rồi tới các tu sĩ Jain, rồi tới các giáo phái khác, sau cùng tới lượt các người nghèo không theo một tôn giáo nào, những trẻ mồ côi trong nước. Có khi bố thí tới ba bốn tháng mới hết. Sau cùng chính nhà vua Harsha cởi hết y phục rực rỡ, lột hết vàng bạc châu báu đeo trong mình để phân phát.”

Pháp hội này trở nên thịnh hành tại Tàu kể từ đời vua Lương Võ Ðế. Pháp hội Vô Giá thường bị hiểu lầm là pháp hội cúng Mông Sơn Thí Thực. Có thể pháp hội Vô Giá gần như giống pháp hội Thủy Lục, vì khi chuyển đổi để cầu nguyện Thái Tử thì pháp hội Vô Giá trở thành pháp hội Thủy Lục. Sau khi thầy Diệu Phong đi hóa duyên tiền bạc và lương thực đầy đủ, năm trăm đại đức danh tăng từ Bắc Kinh được thỉnh đến núi Ngũ Ðài. Những việc cần thiết đã được chuẩn bị, sắp đặt đầy đủ tại đạo tràng. Ngay khi đó, hoàng đế sai quan thỉnh các đạo sĩ tại núi Võ Ðang làm lễ cầu thái tử. Lý thái hậu cũng sai quan triều đình đến núi Ngũ Ðài, yêu cầu chư tăng làm lễ cầu Thái Tử.

Tại chùa, Ngài suy nghĩ rằng giữa những lễ nghi, làm Phật sự để cầu quốc thái dân an thì việc cầu Thái tử nối tiếp ngôi vua là quan trọng nhất. Thế nên, thay vì tổ chức pháp hội Vô Giá (pháp hội sám hối của các tỳ kheo và cũng là pháp hội bố thí thức ăn tiền bạc cho người nghèo) đã được xếp đặt hoàn tất, Ngài đổi ngược lại thành pháp hội cầu nguyện chư Phật ban cho hoàng đế một thái tử để nối ngôi.

Thầy Diệu Phong không hề hiểu ý Ngài. Lý thái hậu phái quan mật sử đến bàn chuyện với Ngài. Ðương thời, quyền hành đã nằm hết trong tay hoàng đế. Tuy là người của Lý thái hậu, nhưng quan mật sử lại không dám làm trái ý của hoàng đế vì sợ sau này sẽ liên lụy tánh mạng. Do đó, đến núi Ngũ Ðài, quan mật sử bàn với Ngài rằng hãy lập đàn tràng pháp hội cầu thái tử cho qua loa thôi, chớ nên tổ chức rườm rà. Ngài biết rõ hoàng đế không có ý ủng hộ Phật pháp, nên công việc hoằng dương chánh pháp sau này chắc sẽ bị cản trở. Ngược lại, Lý thái hậu vốn là Phật tử thuần thành. Bà đã từng dựng chùa lập tháp tại hoàng cung, nên Ngài có ấn tượng tốt đối với bà. Vì vậy, Ngài nhất quyết không nghe lời phân bua của quan mật sử.

Ðương thời, thế lực Minh triều suy vi, nhân dân thường khởi nghĩa. Lúc pháp hội Vô Giá chưa khai mở, quân phiến loạn chống triều đình tại Giang Nam thường vào núi Ngũ Ðài. Trong triều nội, những quan lại ganh ghét Lý thái hậu và Ngài, lấy lý do đó để phản đối pháp hội Vô Giá. Song, vì Ngài hết sức kiên quyết, nên pháp hội Vô Giá vẫn được chuẩn bị. Năm đó, sửa chữa tháp viện hoàn tất xong, Ngài đặt kinh Hoa Nghiêm do chính Ngài viết bằng máu và bài phát nguyện để vào trong đó. Ngài góp nhặt tạng kinh Hoa Nghiêm Thế Giới Chuyển Luân và tất cả kinh điển dùng để tụng đọc trong chùa cùng những pháp khí trong dịp cử hành pháp hội, như pháp cụ, vật tế, pháp khí. Thầy Diệu Phong đang ở tại Bắc Kinh để cung thỉnh năm trăm vị danh tăng. Trong chín mươi ngày đêm Ngài không chợp mắt vì chuẩn bị những pháp khí, kinh điển cho pháp hội. Theo đúng thời hạn, đến tháng Mười, thầy Diệu Phong hướng dẫn hơn năm trăm vị cao tăng từ Bắc Kinh đến Ngũ Ðài. Như thế, tập họp chúng tăng ở núi và ở kinh đô lại khoảng hơn một ngàn vị. Ngài cung cấp chỗ ăn nơi ở đầy đủ, không thiếu thốn lộn xộn. Chư khách tăng lấy làm ngạc nhiên vì không biết những nơi ăn chỗ ở này từ đâu mà có đủ. Pháp hội Thủy-Lục-Không kéo dài liên tục trong bảy ngày đêm. Vào thời gian đó, tuy không ăn một hạt cơm mà chỉ uống nước, nhưng Ngài vẫn lo lắng chu toàn pháp hội. Mỗi ngày thay đổi hoán chuyển thức ăn cúng dường chư Phật chư Bồ Tát hơn năm trăm bàn mà không thiếu thốn sai chạy. Người đến xem và tham dự rất ngạc nhiên, nghĩ tưởng những đồ vật cúng dường như thế không biết từ đâu ra, chắc là do thần thông mà có. Tuy nhiên, Ngài biết rõ, mọi việc đều do chư Phật chư Bồ Tát gia hộ hết.

* Lời chú giải của Phước Chưng * :

Một bên, hoàng đế sai quan triều đến núi Võ Ðang để mời các đạo sĩ cầu Trịnh Quí Phi sanh thái tử. Một bên, Lý thái hậu gởi quan nội sử đến núi Ngũ Ðài, thỉnh tăng chúng làm lễ, cầu nguyện Vương Cung Phi sanh thái tử (Theo phong tục, dầu cung phi hay quý phi, ai sanh thái tử trước thì sẽ làm hoàng thái hậu sau này). Như thế, chứng minh hoàng đế và Lý thái hậu tin tưởng khác tôn giáo và khác sự mong cầu. Quan nội sử được Lý thái hậu sai đến núi Ngũ Ðài. Vì sợ liên lụy và không muốn làm nghịch lòng hoàng đế, ông ta không trung thành với Lý thái hậu, nên khuyên Ngài hãy làm lễ đơn sơ thôi.

Ðối với Diệu Phong, thầy không hiểu vì lý do gì mà việc cầu thái tử lại xảy ra trong pháp hội Vô Giá. Ngài Hám Sơn giữ vững lập trường trong việc cầu thái tử, vị hoàng đế tương lai cho quốc gia, là quan trọng hơn hết. Cá nhân, trong chín mươi ngày đêm không chợp mắt, Ngài chuẩn bị sửa soạn kinh điển, pháp khí cho pháp hội. Trong bảy ngày của pháp hội, Ngài không ăn một hạt cơm nào, chỉ uống nước lã. Mọi Phật sự gồm có cúng dường hơn năm trăm bàn thức ăn mỗi ngày, không thể làm được nếu không có sự gia bị của chư Phật và trí huệ sáng suốt của Ngài. Sau này, khi việc rắc rối xảy ra tại triều đình, hoàng đế bảo: “Cả triều đình đều theo tăng sĩ. Riêng một mình ta, theo đạo sĩ.” (Câu này nói tóm gọn chuyện cầu thái tử tại núi Võ Ðang và núi Ngũ Ðài.)

Sau khi pháp hội Vô Giá hoàn tất, danh tiếng của Ngài vang lừng khắp nơi. Khách thập phương lũ lượt đến viếng núi Ngũ Ðài. Thấy thời cơ hoằng pháp đã đến, Ngài đăng đàn giảng kinh. Năm 1572, Ngài giảng Hoa Nghiêm Huyền Ðàm (do quốc sư Thanh Lương chú giải). Mỗi ngày, có hàng ngàn người đến nghe giảng kinh thuyết pháp. Con số này nhiều hơn số người tham dự pháp hội Vô Giá. Vì ngưỡng mộ danh đức của Ngài và núi Ngũ Ðài, tổng cộng có trên trăm ngàn tăng tục đến nghe thuyết pháp, khiến khí thế của đạo tràng Ngũ Ðài cực thạnh. Trong sử Phật giáo, ít có những pháp hội hy hữu này. Trong một trăm ngày, tăng chúng và cư sĩ nhóm họp đông đảo để nghe giảng kinh. Hằng ngày, phải cung cấp thức ăn cho hơn mười ngàn người đến nghe giảng kinh. Lúc thọ trai, mọi người rất theo thứ tự. Trong những buổi giảng kinh, không nghe những tiếng ồn náo. Mọi việc đều do Ngài xếp đặt và quản lý. Không ai biết làm sao Ngài tổ chức được như thế. Mọi khí lực Ngài đều dồn vào pháp hội giảng kinh. Sau khi pháp hội giảng kinh Hoa Nghiêm chấm dứt, mọi người đều trở về quê quán. Tiền tín thí cúng dường được hơn mười ngàn đồng. Số tiền này được sung vào công quỹ thường trụ để trang trải cho chi phí của pháp hội.

Năm đó, vào tháng Tám, Vương cung phi hạ sanh thái tử Chu Thường Lạc, tức vua Quang Tông sau này (Lý thái hậu rất cảm kích chư tăng tại núi Ngũ Ðài về việc tổ chức pháp hội cầu thái tử thành công viên mãn.) Theo sử triều Minh, sau khi hoàng đế đến khuê phòng, Vương cung phi liền mang thai, nhưng hoàng đế lại cố tình không chấp nhận. Lý thái hậu nhắc lại ngày giờ mà hoàng đế đến đó và khuyên ông hãy chấp nhận việc Vương cung phi mang thai. Vì thế, hoàng đế mới chính thức nhìn nhận Chu Thường Lạc vào tháng Tư âm lịch năm 1582.

Ngài đến chùa Trung Phong, phía tây Bắc Kinh, trông nom việc khắc bản Trung Phong Quảng Lục. Mùa đông, Ngài làm lễ Thủy Lục tại thạch thất.

Năm ba mươi tám tuổi, vào tháng giêng, đàn tràng Thủy Lục được chấm dứt. Do được nổi tiếng vì pháp hội cầu thái tử được kết quả như ý, nên danh tiếng núi Ngũ Ðài vang dội khắp nơi. Bên trong triều nội, ai ai cũng biết đến danh Ngài cùng núi Ngũ Ðài. Bên ngoài, quần chúng Phật tử cũng đều nghe danh Ngài. Tám năm trú tại núi Ngũ Ðài, Ngài tu hành, khai ngộ, thành thục, thậm chí đạt đến đỉnh cao danh vọng.

Biết rõ thanh danh thường làm chướng ngại cho việc tu hành, và nhận thấy rằng khó lòng ở dài lâu tại Ngũ Ðài, nên Ngài qua Ðông Hải ẩn cư. Từ đó, Ngài chính thức bỏ hiệu Trừng Ấn mà dùng pháp hiệu Hám Sơn. Chỉ mang một bình bát, Ngài cùng thầy Diệu Phong bắt đầu cuộc hành trình dài dẳng. Thầy Diệu Phong đến Lô Nha, còn Ngài vì bị bịnh nên qua Chân Ðịnh, Chướng Thạch Nham để điều dưỡng. Khi đó, Ngài viết kệ:

“Vót núi dựa bầu trời,
Mặt trời bị che khuất
Vách núi cắt đường lộ
Chỉ còn cây thang bay.”

Khi xưa, chùa Báo Ân bị cháy, Ngài đã từng phát nguyện trùng hưng lại. Trong tám năm trú tại Ngũ Ðài, Ngài có rất nhiều cơ hội để thực hiện. Vì sợ nếu đi chỗ xa xôi sẽ bỏ lỡ cơ hội, nên Ngài quyết định ẩn cư tại Ðông Hải. Ngày tám tháng Tư, Ngài đến núi Lao Sơn. Trước khi chia tay, thầy Diệu Phong bảo đệ tử là Ðức Tông, đi theo Ngài làm thị giả vì sợ Ngài bịnh hoạn, không thể đi một mình. Ngài liền chấp thuận. Nơi đó, Ngài bắt đầu duyệt sớ sao kinh Hoa Nghiêm của quốc sư Thanh Lương. Một hôm, Ngài duyệt đến phẩm Bồ Tát Trụ Xứ: “Nơi Ðông Hải có một chỗ gọi là động Na La Diên. Từ xưa đến nay, chư Bồ Tát thường đến trụ nơi đó.”

Sớ sao kinh Hoa Nghiêm của quốc sư Thanh Lương viết: “Na La Diên là tiếng Phạn, dịch thành Kiên Lao, tức núi Lao Sơn tại Ðông Hải.”

Theo quyển Ngu Cống, Thanh Châu, Ðăng Lai Cảnh thì hang này nằm khoảng giữa Ðăng Châu và Lai Châu trong huyện Thanh Châu.

Vì có lòng mong muốn, Ngài tìm đến Lao Sơn (Xưa kia, Tần Thủy Hoàng, Hán Võ Ðế, vì muốn tìm thuốc tiên, nên đã từng đến Lao Sơn. Ðường Huyền Tông cũng đã từng phái người đến tìm thuốc tiên. Ðồng thời, từ đời Tống, Nguyên về sau, Lao Sơn là danh sơn của Ðạo giáo. Những đạo sĩ trứ danh như Khưu Xứ Cơ, Trương Tam Phong đã từng đến đó tu đạo). Quả nhiên, Ngài tìm gặp không khó, nhưng không thể cư ngụ. Kế tiếp, Ngài đi vào núi, hướng về phía Nam, đến nơi thâm sơn cùng cốc; nơi đó, sau lưng là những dãy núi bao quanh, trước mặt là biển cả. Thật là một vùng đất kỳ dị tuyệt diệu, có thể không phải là chỗ của người thế gian. Vùng này có một ngôi chùa được gọi là chùa Quán Âm, nhưng nay chỉ còn nền móng.

Xem xét, Ngài khám phá rằng trong những năm đầu đời Nguyên (1280-1341), bảy ông đạo sĩ, giả dạng dựa tên vua Thế Tổ, chuyển đổi chùa Phật giáo thành đền miếu Ðạo giáo. Lúc vua Thế Tổ trở về sau cuộc lưu đày, chư Tăng dâng sớ thỉnh cầu nên núi Lao Sơn được trả trở lại cho tăng sĩ. Núi Lao Sơn không ai lo chăm sóc vì bị bờ biển cách biệt. Do đó, ngôi chùa Quán Âm bị bỏ hoang phế. Vì thích chỗ ẩn cư tuyệt thế, Ngài quyết định ở lại. Ðầu tiên, Ngài dùng chiếu làm màn che bên dưới gốc cây. Bảy tháng sau, cư sĩ Trương Ðại Tâm cùng dân địa phương đến giúp Ngài xây một căn chòi lá. Ngài ở đó với tâm an lạc hơn một năm mà không vãng lai kết bạn với ai. Khi ấy, pháp sư Quế Phong, trụ trì chùa Linh Sơn ở Tức Mặc, là bậc pháp nhãn trong vùng, thường đến đàm đạo với Ngài.

* Lời bàn của Phước Chưng *:

Trú tại núi Ngũ Ðài và thường lui tới kinh thành, mục đích chính yếu của Ngài là tìm cách dựa vào sự giúp đỡ của hoàng triều để trùng hưng lại chùa Báo Ân. Làm mọi Phật sự tại núi Ngũ Ðài, Ngài đều nhắm vào mục đích đó.

Núi Ngũ Ðài trở nên danh tiếng vì pháp hội cầu Thái Tử cho triều đình được như ý. Hơn nữa, vì làm hoàng đế và các quan nội sử buồn bực, nên danh tiếng của núi lại càng vang xa thêm. Ðấy là lý do tại sao nơi này và những vùng kế cận Ngài Hám Sơn không thể ở lại được. Chỉ còn một cách giải quyết là Ngài phải đến vùng hẻo lánh, tức núi Lao Sơn ở Ðông Hải.

Năm Ngài ba mươi chín tuổi. Vào tháng chín, vì tri ân chư Phật ban cho một thái tử, qua pháp hội cầu nguyện Thủy Lục tại núi Ngũ Ðài mà chủ chốt là Ngài, thầy Diệu Phong và ngài Ðại Phương, nên Lý thái hậu thỉnh mời cả ba ngài lên Bắc Kinh thọ nhận tặng phẩm. Thầy Diệu Phong và Ðại Phương lên kinh đô để nhận lễ lộc. Tuy nhiên, Lý thái hậu không thể kiếm gặp Ngài. Do đó, thái hậu nhờ thầy Ðoan Yêm, trụ trì chùa Long Hoa, đi tìm Ngài. Biết Ngài đang trú tại bờ bể vùng Ðông Hải, nên thầy Ðoan Yêm chống gậy tìm đến thăm viếng. Thầy nói rõ việc Lý thái hậu muốn tưởng thưởng, nhưng Ngài tỏ lòng chân thành cám ơn, nói: “Nay mong nhờ Thánh ân, được sơn hải cằn cỗi này là đã mãn nguyện lắm rồi. Tôi không dám thọ lãnh phần thưởng.”

Thầy Ðoan Yêm chuyển lời thỉnh cầu của Ngài cho Lý thái hậu, nhưng bà không vui, nên quyết định xây một ngôi tự viện tại Tây Sơn, để thỉnh Ngài đến đó trụ trì. Một vị quan nội sử lại đến, ép thọ nhận nhưng Ngài từ chối. Quan nội sử trở về thuật lại việc Ngài đã quyết chí tu hành ở núi Lao Sơn cho Lý thái hậu nghe. Lý thái hậu bỏ qua việc này và vì nghe Ngài không có phòng xá để ở, nên cúng dường ba ngàn lạng vàng cho Ngài để sửa chữa chùa Quán Âm tại núi Lao Sơn. Khi quan triều đình mang vàng đến, Ngài liền từ chối, bảo: “Tôi có vài căn chòi lá, đủ để tu hành an ổn rồi. Sao còn tạo duyên chi nữa.”

Quan sứ giả kiên quyết, bảo rằng không dám đem lời của Ngài thuật lại cho Lý thái hậu nghe. Ngài bảo: “Theo ý của bần tăng, năm nay dân chúng tỉnh Sơn Ðông đang bị đói khát vì thiên tai hoạn nạn. Sao không dùng danh nghĩa của Lý thái hậu để cứu tế dân nghèo đói, hầu mong Thánh Mẫu tích đức dài lâu, khiến dân chúng kính phục?”

Những lời này khiến cho quan nội sử rất khâm phục tâm lượng của Ngài không đắm nhiễm danh lợi, chỉ an bần thủ đạo, khắc khổ tu hành. Vì vậy, sứ giả triều đình đến các phủ lý, dùng món tiền đó để cúng dường cho chư tăng, giúp đỡ cô nhi quả phụ, người già bịnh tật, và tù nhân, cùng cứu tế dân chúng đói khổ vì nạn hạn hán. Quyển sổ ghi chi phí tiền bạc bố thí cúng dường được đưa về tận tay Lý thái hậu. Xem qua, bà rất vui mừng và cảm động. Sau này, khi bị phán quan làm rắc rối về việc “lạm dụng tài sản triều đình”, Ngài liền bảo phán quan rằng hãy xem lại quyển sổ kiểm kê tài vật của triều đình. Khi tìm thấy chỉ có một phần tài sản triều đình được dùng vào việc cứu tế nạn đói, thì hoàng đế mới thấy rõ sự tố cáo giả dối của kẻ gian đối với Ngài.

* Lời bàn của Phước Chưng *:

Tiền “ngân khoản triều đình”, thật ra không được trả trực tiếp từ ngân quỹ triều đình. Số tiền này gồm có khoản tiền dành dụm từ tiền chi phí thức ăn cho Lý thái hậu và các cung phi trong triều đình. Những chi phí này được giảm bớt để cung cấp vào ngân khoản xây dựng, trùng tu lại chùa Báo Ân. Việc này không liên hệ gì với số vàng mà Lý thái hậu định cúng dường cho Ngài. Tựu chung đây chỉ là mưu kế của triều đình lập ra để bắt tội Ngài.

Người địa phương xưa nay chẳng biết đến Tam Bảo. Ngài sống ở vùng núi, nơi bộ tộc họ Hoàng là lớn nhất. Họ từ từ đến gần gũi thân cận Ngài. Bộ tộc này, khi đó có tên là ngoại đạo La Thanh (biến thái của Ðạo giáo). Họ là người Thành Dương, tức nơi sanh trưởng, trước khi đổ dồn về miền đông, tuyệt chẳng biết đến ngôi Tam Bảo (Phật Pháp Tăng). Ngài trú nơi đó, dần dần dùng phương tiện nhiếp thọ giáo hóa họ. Chẳng bao lâu, các vị sư trưởng của họ dẫn dắt họ đến quy y với Ngài. Từ đó, họ bắt đầu biết đến Phật Pháp.

Trong những năm đầu khai quốc của Minh triều, Minh Thái Tổ và Minh Thành Tổ vì muốn chấn hưng Phật giáo, nên ra lệnh khắc ấn Ðại Tạng Kinh, nhưng sau này dần dần những bản kinh này hầu như bị thất lạc hết. Ðến đời Minh Thần Tông, Lý thái hậu ra lệnh cho in khắc lại Ðại Tạng Kinh, cộng thành năm mươi bộ. Khi in xong, Ðại Tạng Kinh được phân phát đến nhiều tự viện. Hoàng đế ra lịnh ban mười lăm bộ Ðại Tạng Kinh cho mười lăm ngôi tự viện danh tiếng trong toàn nước. Bốn bộ Ðại Tạng Kinh được gởi đến bốn vùng biên địa: Núi Lao Sơn ở Ðông Hải, núi Phổ Ðà ở Nam Hải, núi Nga Mi ở Tứ Xuyên, núi Lô Nha ở miền Bắc.

Do nhớ nhân duyên (pháp hội cầu thái tử) ở núi Ngũ Ðài và vì Ngài liên tiếp từ chối đến Bắc Kinh để nhận lễ vật, Lý thái hậu gởi một bộ Ðại Tạng Kinh đến Ðông Hải. Vì Ngài không biết việc này nên khi Ðại Tạng Kinh được gởi đến, không có chỗ để chứa. Do đó, Ðại Tạng Kinh được giữ tại dinh phủ của quan huyện. Vì dùng danh nghĩa lập nơi cất chứa Ðại Tạng Kinh, Lý thái hậu ra lịnh cho xây cất chùa viện nơi đó, khiến Ngài không còn cách khước từ. Do thọ nhận ân huệ của Lý thái hậu, giúp đỡ kiến lập tự viện, và do không thể thái quá bỏ qua thế tình, nên Ngài tự thân vào kinh đô để cảm tạ ân của bà. Nhân dịp đó, Lý thái hậu cũng ra lịnh cho các cung phi cúng dường tiền xây chùa cất chứa Ðại Tạng Kinh. Bà ra lịnh đặt tên cho chùa tại Ðông Hải là Hải Ấn.

Lúc đang ở tại Bắc Kinh, Ngài nghe tin Thiền Sư Ðạt Quán đến Ðông Hải tìm Ngài. Thế nên, Ngài vội vàng cáo từ Lý thái hậu để trở về Ðông Hải. Khi vừa đến chân núi thì Ngài gặp Thiền Sư Ðạt Quán cũng vừa xuống núi. Vì vậy, Thiền Sư Ðạt Quán cùng Ngài trở về núi và ở khoảng hai mươi ngày. Khi ấy, Thiền Sư Ðạt Quán tặng Ngài bài kệ:

“Nhàn rỗi đến trú bên bờ biển.

Hư danh lạc đến núi miền Ðông.”

(Vì thanh danh lừng lẫy tại núi Ngũ Ðài, Ngài Hám Sơn đến vùng Ðông Hải để quên đi hết những hư danh này. Ngài tự tại, không chấp trước vào việc thế gian.)

Kể từ chia tay với thầy Diệu Phong, Thiền Sư Ðạt Quán là vị pháp hữu thân mật nhất của Ngài.

Chùa Hải Ấn được xây xong, Ngài cùng với Thiền Sư Ðạt Quán đàm luận cả bốn mươi ngày đêm. Thiền Sư Ðạt Quán lớn hơn Ngài ba tuổi. Học thức và kiến giải của hai ngài đều tương đồng. Sau này, Thiền Sư Ðạt Quán muốn viết bộ “Minh triều Truyền Ðăng Lục”. Xét thấy Thiền tông bị mai một, Ngài cùng Thiền Sư Ðạt Quán đồng nguyện ước đến Tào Khê để phục hưng, trùng khai mạch phái Thiền tông. Ngài Ðạt Quán định ước là sẽ đến Lô Sơn để đợi Ngài (Song, sau này có ai ngờ được là do thọ nhận Ðại Tạng Kinh của Lý thái hậu gởi đến và việc kiến lập chùa Hải Ấn, khiến Ngài phải bị hoàng đế ra lệnh hạ ngục, bắt hoàn tục, và đày vào miền Nam, đến Lôi Châu. Tại Lô Sơn, nghe tin Ngài bị nạn, ngài Ðạt Quán liền tụng một trăm bộ kinh Pháp Hoa để cầu nguyện chư Phật gia hộ cho Ngài thoát hiểm nạn. Khi ghe đưa Ngài tạm ghé vào Nam Kinh, ngài Ðạt Quán tức tốc tìm đến để gặp mặt.)

Sau những năm dài lao động (trí óc lẫn thân thể) kể từ lúc ba mươi sáu tuổi, cuối cùng vào tháng mười một Ngài mới thật sự an cư tại Thiền thất mới xây cất. Thân tâm phóng xả, an lạc vô cùng. Ðêm nọ, sau buổi ngồi Thiền, Ngài đứng dậy thấy biển trời xanh thẫm trong vắt, trăng mây tương giao chiếu sáng. Ðột nhiên, Ngài cảm thấy thân tâm, thế giới đều lắng đọng, như hoa hiện ở hư không. Ðại quang minh tạng được soi chiếu rõ ràng, chẳng còn một vật. Do đó, Ngài thuyết kệ:

“Biển sâu trời trong, trăng chiếu tuyết
Nơi đây phàm thánh tuyệt dấu vết
Mắt Kim Cang hiện hoa hư không
Ðất đai đều quy tràng tịch diệt.”

Ngài liền trở vào am thất, mở kinh Lăng Nghiêm ra ấn chứng. Lấy kinh ra, Ngài đọc đến đoạn: “Thân tâm của ông đồng với những vật bên ngoài như núi sông đất đá, hư không, đều là những vật nằm trong chân tâm diệu minh.”

(Mắt Kim Cang tượng trưng cho trí huệ Bát Nhã. Hoa đốm giữa hư không tượng trưng cho cảnh vật thế gian. Tất cả đều là huyễn hóa không thật. Tịch diệt của Niết Bàn chẳng thể đạt đến nếu không dùng trí huệ Bát Nhã đập nát giả tướng của muôn vật.)

Do đó, toàn bộ cảnh tượng của kinh đều hiện rõ trước mắt và trong tâm Ngài. Sau đó, Ngài liền bảo người trong chùa mang bút giấy đến để viết quyển “Lăng Nghiêm Huyền Kính.”

Ngài viết xong quyển “Lăng Nghiêm Huyền Kính” trong vòng nửa đêm thì chấm dứt. Ngài gọi thầy Duy Na vào thất, đọc quyển sách này. Ngài cảm tưởng rằng mình đang chú giải quyển sách này trong mộng.

* Lời bàn của Phước Chưng *:

Lúc trẻ, Ngài đã từng cùng thầy Tuyết Lãng đến núi Lô Sơn. Khi đó, vì chưa đủ định lực, Ngài sợ thú dữ nên không dám trụ lại núi. Việc này khiến Ngài tự hổ thẹn suốt cả đời. Vì vậy, ngày đêm tại Lao Sơn Ngài thường tự rèn luyện định lực cho kiên cố. Ban tối cũng như ban ngày tâm không hề sợ sệt. Trong những quyển nhật ký, Ngài Hám Sơn viết: “Chúng ta phải biết tất cả đều là không thật, huyễn hóa. Phải biết dùng huyễn hóa chứ không để nó chuyển. Ngày nọ, khi đang ở tại chùa Hải Ấn ở Ðông Hải, tôi chợt nhớ câu chuyện một người lạ mặt vào chặt đầu tổ Huệ Năng. Vì vậy, tôi quyết định tu cách đạt định lực kiên cố như Lục Tổ. Mọi ngày, lúc ngồi Thiền tôi để cửa chánh điện mở trống, sẵn sàng xả đầu mình cho bất cứ ai muốn “mượn”. Dần dần, tôi cảm thấy sự tu trì có phần tiến bộ.

Vào đêm nọ, đột nhiên tôi được đệ tử cho biết là sẽ có ăn trộm đến. Tôi bảo: “Hãy để hắn vào.”

Tôi ngồi thẳng người bên cạnh cây đèn cầy, không chút bối rối. Khi đến cửa, gã ăn trộm ngập ngừng, không dám bước vào. Người gã rất cao ráo. Tôi gọi gã vào và bảo: “Trong đây không có gì cả.”

Sau đó, tôi bảo thị giả lấy hai trăm đồng xu được giấu trên mái nhà để cho gã. Nếu tôi không chuẩn bị việc này thì chắc sẽ sợ hãi lắm.

Ðêm khác, tôi nhập định nên cảm thấy thời gian và không gian đều trống không. Tôi lại thấy chùa Hải Ấn phóng ánh sáng. Núi non, sông ngòi đều chấn động. Tôi nhận ra trí huệ chân thật (phát sanh từ định lực) của tự tánh. Chốc sau, tôi khai ngộ và nhập vào cảnh giới siêu tột mà kinh Lăng Nghiêm miêu tả tường tận. Tôi nhớ cảnh giới này rất rõ ràng. Khi ấy, tôi vội đốt đèn cầy và viết lại cảnh giới mà mình vừa thâm nhập. Tay tôi không ngừng viết suốt canh năm (từ ba giờ sáng đến năm giờ sáng). Cuối canh năm, quyển Lăng Nghiêm Huyền Kính được viết xong. Thị giả đến và ngạc nhiên vì thấy tôi thắp ngọn đèn cầy từ sáng sớm.”

Năm bốn mươi hai tuổi, Ngài tu sửa lại chùa chiền. Ðầu tiên, Ngài khai đường thuyết giới cho chư đệ tử. Khi ấy, chư tăng bốn phương đổ dồn đến. Ngài viết Tâm Kinh Trực Thuyết cho các đệ tử tại gia. Mùa Thu, Hồ Thuận Am từ quan về hưu tại quê quán (Ông vốn là bạn thuở thiếu thời của Ngài từ năm 1575. Ngài gặp ông ta tại Bình Dương, Sơn Tây, nơi ông ta đang nhậm chức Tổng Ðốc. Năm kế, ông ta được chuyển về Ứng Môn, phía Bắc tỉnh Sơn Tây, tại Vạn Lý Trường Thành để giữ gìn biên giới, chống quân Mông Cổ. Trên đường lên miền Bắc, ông ta ghé lại núi Ngũ Ðài thăm Ngài. Trong thời gian trấn thủ tại Ứng Môn, ông ta thường viết và in lại những bài giảng Tự Ngôn của Ngài. Ngài thường viết lách thơ văn theo văn thể của Lão Tử và giải thích Ðạo giáo theo trí huệ Phật giáo, tức ám chỉ rằng lời dạy của Lão Tử và Trang Tử chỉ giống như giáo lý sơ đẳng của Phật giáo).

Ông dẫn đứa cháu đến, cho xuất gia và làm thị giả Ngài, với pháp hiệu là Phước Thiện. Phước Thiện là thị giả thường đi theo Ngài bên tả hữu, chịu đựng những gian nan hiểm trở với Ngài, và viết lại hầu hết những thơ văn và kinh văn chú giải của Ngài. Bộ ‘Ðông Du Tập’ của Ngài do chính tay Phước Thiện ghi lại. Bộ ‘Hám Sơn Ðại Sư Mộng Du Tập’ phần lớn cũng do Phước Thiện ghi lại. Trong những môn đệ, Phước Thiện ngộ tánh tối cao và rất có khí khái. Lúc trú tại Ngũ Cửu Phong ở Lô Sơn, Ngài giao Phước Thiện cho ngài phương trượng. Sau này, Phước Thiện trở thành phương trượng trụ trì chùa Pháp Vân ở núi Lô Sơn.

* Lời chú giải của Phước Chưng *:

Khi Ngài đến miền Ðông, tôi có gặp Phước Thiện, đệ tử thị giả của Ngài. Thị giả Phước Thiện trợ giúp và góp nhặt hồi ký “Ðông Du Tập”. Phước Thiện là vị đệ tử giỏi nhất, thường theo hầu Ngài trong những hoàn cảnh khó khăn và nguy hiểm. Hầu hết những bài chú giải kinh điển, thơ văn trong quyển ‘Hám Sơn Ðại Sư Mộng Du Tập’, đều do thầy Phước Thiện tự tay viết lại. Sau này, thầy Phước Thiện làm trụ trì tại chùa Pháp Vân tại Lô Sơn. Năm bảy mươi tuổi, thầy Phước Thiện ngồi tọa Thiền rồi thị tịch.

Năm Ngài bốn mươi ba tuổi, một đệ tử của Ngài sau khi đọc “Lăng Nghiêm Huyền Kính”, liền bảo: “Kinh này nói về sự quán chiếu của tâm rõ ràng, nhưng vẫn chưa hoàn toàn bỏ hết văn tự. Sợ những kẻ hậu học khó mà hiểu rõ những nghĩa thâm sâu. Hy vọng mỗi chữ của Thầy sẽ giúp chúng con trở về quán tâm, thì mới thật là bố thí pháp.”

Nghe thế, Ngài bắt đầu viết ‘Lược Thuật Thông Nghĩa Kinh Lăng Nghiêm’. Mặc dầu đã viết ra cấu trúc, nhưng Ngài chưa viết rõ hết hoàn toàn.

Năm bốn mươi bốn tuổi, Ngài đọc Ðại Tạng Kinh, giảng kinh Pháp Hoa cùng luận Ðại Thừa Khởi Tín cho bốn chúng. Từ khi rời núi Ngũ Ðài, Ngài thường có tâm niệm thăm viếng cha mẹ. Ngài sợ bị lạc vào thế đế, nên tự kiểm nghiệm thân tâm. Ðêm nọ, đang khi ngồi Thiền, đột nhiên Ngài mở mắt ra, đọc bài kệ:

“Ngày ngày khói lửa xông hư không
Chim cá đồng du trong tấm kính.
Ðêm qua ánh nguyệt sa bầu trời
Trăng đơn tự ứng với rồng đen.”

(Ánh trăng sa ngoài bầu trời, tượng trưng cho sự giác ngộ, tức vượt ngoài sanh tử, hay ra ngoài bầu trời của thế gian. Rồng đen có hạt châu đen huyền vô giá đeo dưới cổ. Hai câu đầu biểu trưng cho cuộc sống tạm bợ ở cõi Ta Bà hiển hiện rõ trong tấm gương lớn. Hai câu sau miêu tả sự biến mất của ánh trăng. Ánh trăng sa xuống cõi Ta Bà để hòa hợp với Rồng Ðen. Ðây nói về sự xả bỏ mọi chấp trước thế tình của mẹ Ngài).

Ngài liền gọi thị giả, bảo: “Hôm nay, Thầy sẽ trở về quê quán thăm cha mẹ.”

Năm Vạn Lịch thứ 17, vào tháng mười Ngài đi từ Lao Sơn lên kinh đô thỉnh một bộ Ðại Tạng Kinh cho chùa Báo Ân do hoàng đế ra sắc lệnh ban tặng. Ngài bắt đầu cuộc hành trình mang bộ Ðại Tạng Kinh trở về chùa Báo Ân. Tháng mười một, Ngài đến chùa Long Giang. Nơi đó, bảo tháp trong chùa phóng ánh sáng liên tục cả mấy ngày. Ngày Ðại Tạng Kinh được đưa đến chùa, bảo tháp phóng ánh sáng vòng cầu, hướng về phía Bắc, như cung nghinh ngưỡng đón. Chư tăng trong chùa sắp hàng đi theo hướng bảo tháp phóng ánh sáng. Sau khi đặt Ðại Tạng Kinh vào Tàng Kinh Các an toàn, hào quang chiếu sáng liên tục vài ngày không dứt. Người đến chiêm lễ trên cả hàng chục ngàn người. Mọi người đều cho là việc hy hữu kỳ lạ. Khi nghe Ngài sắp trở về, bà mẹ liền cho người đến chùa Báo Ân để hỏi ngày nào Ngài sẽ trở về nhà. Ngài đáp: “Tôi đến vì việc của triều đình chứ không phải vì việc của gia đình. Nếu mẹ tôi vui vẻ như lúc chia tay thì tôi sẽ ở lại nhà hai đêm. Ngược lại, tôi sẽ không trở về nhà.”

Mục đích hồi gia là chuyển vận Ðại Tạng kinh, nên Ngài sợ rằng tình mẫu tử sẽ ngăn trở và làm phiền lụy đến con đường tu đạo của mình.

Nghe người đưa tin thuật lại lời này, bà mẹ nói: “Nhân duyên gặp lại con mình rất khó được. Niềm vui mừng sung sướng tràn đầy. Tại sao phải buồn tủi khóc lóc? Một lần gặp là đủ rồi, sao thầy còn bảo là sẽ ở lại hai đêm?”

Năm mười hai tuổi, Ngài rời nhà vào chùa. Năm bốn mươi bốn tuổi, Ngài trở về nhà thăm cha mẹ ngoài tám mươi. Khi trở về, cha mẹ Ngài rất vui mừng. Ngài rất ngạc nhiên khi nghe lại câu chuyện trong buổi đàm luận của mẹ Ngài với một vị trưởng lão trong tộc. Vị trưởng lão hỏi: “Thầy trở về bằng đường thủy hay bằng đường bộ?”

Bà mẹ đáp: “Tại sao lại hỏi Thầy trở về bằng đường thủy hay bằng đường bộ?”

Trưởng giả hỏi: “Vậy Thầy từ đâu trở về?”

Bà mẹ đáp: “Thầy từ hư không trở về!”

Qua câu chuyện này, khiến Ngài ngạc nhiên, bảo: “Thật chẳng ngạc nhiên gì việc lúc trước mẹ có thể xả bỏ, cho mình đi xuất gia.”

Ngài hỏi bà mẹ: “Từ lúc ra đi, mẹ có nhớ Thầy không?”

Bà mẹ bảo: “Sao lại không nhớ! Tuy hiện nay Thầy là một vị cao tăng, nhưng vẫn là nắm ruột của mẹ.”

Ngài hỏi tiếp: “Làm thế nào mẹ có thể quên đi niềm thương nhớ đó?”

Bà mẹ đáp: “Ðầu tiên, mẹ không biết làm cách nào. Sau này nghe Thầy đang tu tại núi Ngũ Ðài, nên hỏi các vị tăng trong vùng rằng ngọn núi đó ở đâu. Họ trả lời là ngọn núi này nằm dưới sao Bắc Ðẩu. Từ đó, mỗi tối mẹ lễ sao Bắc Ðẩu, cùng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Âm. Nhờ thế mà mẹ không còn nhớ đến Thầy nữa. Nếu nghe Thầy đã chết thì mẹ sẽ không còn lễ bái và tưởng nhớ đến Thầy. Nay thấy Thầy, như thấy hóa thân vậy (tức hóa thân Phật Lô Xá Na).”

Cung cách và tư tưởng của bà mẹ ảnh hưởng rất lớn đối với cuộc đời của Ngài, như sự giáo dục nghiêm khắc và lòng tín thành Phật pháp.

Ngày thứ hai ở tại nhà, Ngài lễ các phần mộ của tổ tiên, tìm được nơi chôn cất cho cha mẹ (phong tục người Tàu là tìm kiếm chỗ chôn cất cha mẹ trước khi họ qua đời). Ngài nói đùa với cha Ngài, lúc đó đã hơn tám mươi tuổi, là hôm nay Thầy sẽ chôn sống cha để khỏi trở về nhà nữa. Nói xong, Ngài dùng xẻng, cuốc đất lên. Mẹ Ngài giựt cây xẻng và bảo: “Hãy để lão bà tự làm lấy. Sao lại làm phiền người khác!”

Nói xong bà cuốc xuống đất vài nhát. Ngày thứ ba, Ngài từ giã cha mẹ. Bà mẹ vui mừng như bình thường, không chút quyến luyến. Ngài biết được rằng bà mẹ không phải là người bình thường.

Nguyên nhân trọng yếu khiến Ngài trở về Nam Kinh lần này là vì chùa Báo Ân. Sau khi chùa Báo Ân bị hỏa hoạn, Ngài cùng với thầy Tuyết Lãng phát nguyện tận lực trùng tu tự viện.

Lúc ấy thầy Tuyết Lãng vân du giảng kinh thuyết pháp. Thầy cũng giành dụm được một số tiền để xây dựng lại chùa Báo Ân. Nhờ sự nỗ lực của thầy Tuyết Lãng, chùa Báo Ân được trùng tu phần nào. Song, quy củ mô phạm của ngài Tây Lâm không thể hồi phục.

Lúc đang tu tại núi Ngũ Ðài, không ngày nào mà Ngài chẳng nhớ đến lời phát nguyện trùng tu chùa Báo Ân thuở xưa. Ðương thời Ngài cũng dành dụm một số tiền. Lần này, đem Ðại Tạng kinh trở về chùa Báo Ân, Ngài dùng số tiền này để xây dựng lại tự viện.

Khi mới phát tâm xây lại chùa Báo Ân (đã bị đốt cháy vì sét đánh năm xưa), Ngài đến núi Ngũ Ðài. Mặc dầu có nhiều dịp để thực hiện lời nguyện, nhưng công việc sửa chữa chùa cần phải có khoảng vài trăm ngàn đồng vàng, khó mà gom góp được. Vì vậy, Ngài tạm cư trú tại vùng duyên hải để chờ cơ hội chín mùi. Thừa dịp thỉnh Ðại Tạng Kinh từ Bắc Kinh trở về Nam Kinh (chùa Báo Ân), Ngài đệ đơn phụng tấu Lý thái hậu giúp đỡ việc xây dựng lại chùa Báo Ân. Ngài nhấn mạnh rằng phải cần một số tiền lớn để thực hiện việc khó khăn này. Ngài đề nghị Lý thái hậu giảm một trăm lượng bạc chi tiêu cho thức ăn mỗi ngày thì chương trình trùng tu chùa Báo Ân sẽ bắt đầu trong vòng ba năm tới và sẽ hoàn thành trong vòng mười năm. Lý thái hậu rất vui vẻ và ra lịnh việc dành dụm tiền sẽ bắt đầu vào tháng chạp.

Bị Nạn

Năm bốn mươi lăm tuổi, Ngài có đệ tử tên là Hoàng Sanh Nạp, tự Tử Quang, là em của quan huyện họ Hoàng tại vùng Tức Mặc. Khi Ngài đến vùng biên hải, Tử Quang được mười chín tuổi, đến quy y và xin làm đệ tử. Tử Quang thỉnh Ngài dạy Phật pháp. Ngài liền dạy kinh Lăng Nghiêm. Trong vòng hai tháng, Tử Quang thuộc lòng bộ kinh này. Từ đó, Tử Quang phát nguyện ăn chay trường mặc dầu cha mẹ cấm đoán. Tử Quang chưa hề thối thất tâm Bồ Ðề, thiết tha quyết chí tu Thiền, lưng chưa từng đặt xuống chiếu. Khi Ngài trở vào Nam, Tử Quang tự nghĩ: “Mình sanh nhằm vùng biên địa. Bao kiếp lâu dài không nghe danh Tam Bảo. Nay may mắn gặp đại thiện tri thức, không thỉnh mà đến. Nếu Ngài không trở về, mình sẽ mất nơi chỗ nương tựa.”

Nói xong, Tử Quang cắt da, làm tim đèn, cúng dường và cầu đại sĩ Quán Âm gia hộ cho Ngài sớm trở về. Mặc dầu, chỗ lát da rất đau, nhưng Tử Quang vẫn cố chịu đựng và niệm danh hiệu đại sĩ Quán Âm. Ba tháng sau, vết thương lành lặn. Khi ấy, ngay tại vết thương hiện ra hình đại sĩ Quán Âm. Lông mi mặt mũi, thân hình, y áo, rất giống như tượng vẽ. Vợ và mẹ của Tử Quang chưa từng biết đến việc này. Sau này, Tử Quang luôn cầu xuất gia, nhưng Ngài không khứng chịu. Tử Quang thưa: “Con đã đổi sao Bắc Ðẩu rồi, sao Thầy lại không cho phép?” Việc này chứng minh rằng ngay cả tại vùng biên địa nghèo nàn khổ ải, hạt giống Phật vẫn không ngừng đâm chồi nẩy nở.

Vì Lao Sơn vốn là đạo tràng của Ðạo giáo bấy lâu nay, nên tín chúng theo Ðạo giáo rất đông. Lúc Ngài vừa đến, họ rất khinh khi. Dần dần, do đức độ tu hành khổ hạnh, Ngài cảm hóa được rất nhiều người trong vùng. Nay chùa Hải Ấn vừa xây xong, các đạo sĩ rất ghen ghét nên nghị định cùng nhau lập kế hãm hại Ngài, bằng cách thưa kiện quan phủ là Ngài chiếm đạo quán của họ để lập tự viện. Sự tranh chấp giữa Phật giáo và Ðạo giáo ngày càng căng thẳng. Theo tín đồ Phật giáo thì quyền sở hữu của chùa Hải Ấn và khu đất lân cận thuộc về người Phật tử. Lao Sơn xưa kia vốn có chùa chiền Phật giáo. Những năm đầu nhà Nguyên, các đạo sĩ đến đó xâm chiếm. Hiện tại bất quá chỉ trùng hưng chùa chiền lại thôi. Các đạo sĩ bảo rằng núi Lao Sơn vốn thuộc quyền sở hữu của Ðạo giáo, mà ngày nay bị tăng sĩ đến cưỡng đoạt.

Khi ấy, có một nhóm người muốn chiếm đoạt ngôi chùa của Ngài. Họ hợp tác với các đạo sĩ, tự đặt điều là đền miếu Ðạo giáo bị xâm chiếm. Họ tụ tập rất đông đảo, rồi đến kiện tụng tại dinh phủ quan huyện. Quan huyện họ Lê, biết rõ đầy đủ sự kiện và rất chán ghét những kẻ đặt điều gian trá, nên bảo quan phủ Lai Châu điều tra sự việc rõ ràng. Ngài tự thân ra huyện đường nghe xử kiện. Vài trăm người la lối, làm nháo động trước dinh phủ. Khi đó, Ngài bị họ bao quanh. Có hai thị giả cùng đi theo hầu, nhưng Ngài bảo họ đi nơi khác. Một mình Ngài đơn độc đi vào giữa đám đông. Tên thủ lãnh rút đao ra, định chém Ngài. Tuy cái chết nằm trong đường tơ kẽ tóc, Ngài vẫn ung dung tự tại bước đi chậm rãi, không hề lộ vẻ sợ sệt, bảo: “Ông giết tôi, có tốt lành gì đâu, vì chính ông tự đưa mình vào chỗ chết.”

Ðối mặt với một tăng sĩ điềm đạm lại nghe những lời này, khiến cho gã thủ lãnh áy náy, nên từ từ bỏ đao vào vỏ, rồi đi cùng với Ngài cả hai dặm. Ðến ngã ba đường, vừa gặp quần chúng thì gã thủ lãnh liền khuyên họ hãy nên trở về thôn làng. Nghe thế, quần chúng tức giận, nghi hoặc gã phản bội, nên muốn giết gã. Ngài suy nghĩ: “Nếu bị quần chúng vây đánh, gã chắc sẽ bị nguy hiểm tánh mạng.”

Ngài vội kéo gã thủ lãnh ra khỏi đám đông, rồi dẫn ông ta đến nơi Ngài cư trú. Ðóng cửa lại, Ngài bảo gã thay đổi quần áo, rồi cả hai giả bộ cười nói tự nhiên, cùng mang trái cây ra dùng. Lúc ấy, tin đồn các đạo sĩ giết tăng sĩ lan tràn khắp huyện. Quan thái thú nghe thế, liền sai quan tuần phu đi bắt đám quần chúng hỗn loạn. Họ sợ hãi, chạy đến cầu Ngài giải cứu. Biết thời điểm xuất đầu lộ diện đã đến, Ngài an ủi quần chúng: “Chớ sợ sệt! Hãy để tôi nói chuyện với quan tuần phủ.”

Khi quan tuần phủ đến, Ngài hỏi: “Không biết quan tuần phủ đến đây tìm ai?”

Quan tuần phủ đáp: “Nghe nói có người địa phương giết tăng sĩ, nên tôi đi tìm kẻ ấy.”

Ngài nói: “Ô! Ðó là việc hiểu lầm. Tôi vẫn còn sống và cùng ông thủ lãnh đàm đạo và dùng trái cây tại đây!”

Tuần phủ hỏi: “Vậy thì tại sao dân chúng tụ tập cùng bảo nhau là có việc này xảy ra?”

Ngài đáp: “Chắc chỉ là những tin đồn nhảm thôi.”

Tuần phủ bảo: “Tuy Ðại Sư trần thuật sự tình như thế, nhưng xin để tiện nhân bắt chúng đem về huyện trừng phạt ngõ hầu làm gương cho những kẻ không coi trọng luật pháp.”

Ngài ngăn lại và bảo: “Tôi có ý kiến là hãy phân tán họ đi. Bắt bỏ tù chỉ khiến họ lại tụ tập nữa.”

Tuần phủ nghe thế liền đồng ý, nên ra lịnh cho quan quân địa phương đuổi họ trở về nhà. Trong ba ngày, quần chúng cuồng tín đều giải tán. Trật tự được vãn hồi trở lại. Các đạo sĩ thấy kế đó không thành, và thấy oai thế của Ngài quá mạnh, nên phải trở về.

Lúc về chùa, các đệ tử rất ngạc nhiên, hỏi han cớ sự. Họ không biết Ngài dùng cách gì mà giải quyết êm xuôi được việc náo loạn này. Ngài không đáp lời chi, chỉ đưa quyển “Luận Tâm Pháp” cho họ đọc, bảo:

“Lúc nhỏ, thầy không thích đạo của ông Khổng Tử hay Lão Tử, nên vào núi tập tu Thiền Ðịnh, quán tâm nhiếp ý. Nhờ thế mà trực nhận ba cõi đều do tâm tạo, muôn pháp do thức biến hiện. Thức quán duy tâm, nhận biết mọi cảnh vật đều là ảnh của tâm. Tất cả âm thanh đều là âm hưởng của tâm. Ảnh tượng của các bậc thánh nhân đều đoan chánh. Âm hưởng của mọi ngôn giáo đều chánh thuận. Do biết vạn pháp duy tâm sở hiện, nên nói mọi ngôn ngữ trị thế, hay tạo dựng nghề nghiệp đều hợp với chánh pháp. Biết rõ ngoài tâm không có pháp, nên pháp pháp đều là chân. Kẻ mê vì đắm chấp nên không thấy lẽ vi huyền. Người ngộ tự tâm thì thấy pháp muôn pháp đều vi diệu. Tâm và pháp cùng đồng vi diệu, mà chỉ có chư thánh hiền mới nhận biết.”

Nhờ đức độ và tài hùng biện mà Ngài giải quyết êm xuôi sự kiện này. Song, ba năm sau triều đình lại đem việc này ra để bắt tội, bỏ tù và lưu đày Ngài. Song, nguyên nhân chính là sự tranh giành quyền thế trong triều nội.

Năm đó, Ngài viết luận về sự ảnh hưởng của Lão Trang.

Năm Ngài bốn mươi sáu tuổi, Lý thái hậu tạo tượng Phật Tỳ Lô Giá Na bằng gỗ hương trầm. Năm đó, chánh điện chùa được hoàn tất. Mùa Thu, đệ tử Ngài là Hoàng Tử Quang ngồi Thiền mà thị tịch.

Năm 1592, vào tháng Bảy, Ngài lên Bắc Kinh thăm Thiền Sư Ðạt Quán (pháp hiệu là Tử Bá, sanh tại Tô Châu, tên tục là Trầm. Vóc dáng to lớn. Năm mười sáu tuổi, bỏ nhà mang kiếm đi du phương. Tại Tô Châu, vì ngưỡng mộ đức hạnh của một Thiền Sư nên xuống tóc xuất gia. Thiền Sư có bầu nhiệt huyết hy sinh vì Phật pháp, nên đi khắp đó đây để phục hưng tòng lâm tự viện. Thiền Sư tu sửa được mười lăm ngôi tùng lâm tự viện. Thiền Sư tu theo hệ phái Thiền Lâm Tế. Những tác phẩm chú giải của Thiền Sư được ghi lại trong quyển “Tử Bá Tôn Giả Toàn Tập”. Tại ngọn núi Phương Sơn gần kinh đô, vào đời Tấn (590-618), Thiền Sư Tịnh Uyển sợ nạn thiên tai gió lửa, không còn Phật pháp, nên khắc Ðại Tạng Kinh vào thạch đá và để trong hang động. Tháp viện đó đã được bán cho chư tăng và nay được Thiền Sư Ðạt Quán chuộc lại).

Khi thấy Ngài đến, Thiền Sư Ðạt Quán rất vui mừng vì luôn nhớ đến và muốn Ngài viết lại di tích lịch sử đó. Vì thế, Ngài cùng đi với Thiền Sư Ðạt Quán qua ngọn núi khắc Ðại Tạng kinh. Nơi đó, Ngài viết sự ký ‘Tháp Viện của Thiền Sư Tịnh Uyển’ và ‘Trùng Tạng Xá Lợi’. Ngài cũng viết theo thứ tự để sau này, trở về chùa Hải Ấn, viết lại hoàn hảo hơn. Tại vườn Tây Giao ở kinh thành, Ngài cùng với Thiền Sư Ðạt Quán ngồi Thiền đối mặt nhau cả hơn bốn mươi ngày. Ðây là cơ duyên hy hữu nhất trong đời của Ngài. Cả hai ngài đồng phát nguyện đến Tào Khê chấn hưng lại Thiền tông và tu chỉnh quyển ‘Truyền Ðăng Lục’. Bất hạnh thay! Vì thế sự biến chuyển, nên ước vọng của hai ngài không thể thực hiện được.

Ðương thời, Ngài không còn ẩn cư, mà thường qua lại vùng Sơn Ðông và Bắc Kinh. Trong vòng năm năm, Ngài lui tới kinh thành thường xuyên, nên danh tiếng ngày một vang xa. Việc Lý thái hậu tích trữ tiền của để giúp Ngài trùng tu lại chùa Báo Ân, trong kinh thành ai ai cũng đều biết đến.

* Lời bàn của Phước Chưng *:

Ở vùng Phương Sơn có một núi đá, mà trong đó có trữ Ðại Tạng kinh được khắc bằng đá. Vào đời Tấn, Thiền Sư Tịnh Uyển khắc Ðại Tạng Kinh lên đá và tàng trữ trong thạch thất. Liên tục trong vài đời, càng có nhiều bộ kinh được khắc trên đá. Sau khi Thiền Sư Ðạt Quán trông nom thạch thất tàng chứa Ðại Tạng Kinh, có một vị tăng cũng phát tâm khắc thêm kinh lên đá tại đó.

Tôi nghe thị giả của ngài Hám Sơn thuật lại như sau:

Năm Vạn Lịch thứ hai mươi (1592-93), sau khi gặp nhau Ngài cùng Thiền Sư Ðạt Quán ngồi Thiền đối mặt nhau, bất động không ngủ nghê cả bốn mươi ngày liền. Khi dự định viết quyển “Phật Tổ Tâm Ðăng” cho đời Minh, hai ngài định đặt thời gian để du hành đến chùa Nam Hoa tại Tào Khê, nơi thờ nhục thân của Lục Tổ Huệ Năng, hầu mong khai thông mạch pháp.”

Năm Ngài bốn mươi tám tuổi, nạn đói kém xảy ra tại Sơn Ðông, người chết đầy đường. Tất cả thức ăn, lương thực của chùa chiền đều được phân phát hết cho dân nghèo đói khát, nhưng vẫn không đủ. Ngài chèo thuyền đến Liêu Ðông mua vài trăm tạ gạo để cứu đói. Nhờ thế dân chúng trong bốn xã chung quanh núi không có ai bị chết đói. Tích tụ thiện nghiệp tức có báo ứng. Sau này bị đại nạn mà Ngài không chết.

Năm 1594, vào tháng ba quan phủ tỉnh Sơn Ðông, Trịnh Côn Nhai, đến núi tham vấn Phật pháp. Ngài thuyết lời phương tiện cho ông ta hiểu Phật pháp. Vào dịp lễ Ðông Chí, Ngài vào kinh đô chúc mừng Lý thái hậu. Do thỉnh cầu, Ngài lưu lại chùa Từ Thọ tại kinh đô để giảng về giới luật. Ðược biết Lý thái hậu đã dành dụm đủ số tiền để sửa sang chùa Báo Ân, Ngài xin bà bắt đầu công việc trùng tu chùa. Ðương thời, Nhật Bổn xâm lược Triều Tiên, mà Triều Tiên được nước Tàu bảo hộ. Lấy lý do đó, hoàng đế đột nhiên trưng dụng tiền tích trữ của Lý thái hậu vào quốc khố để dùng vào việc hưng binh sang Triều Tiên. Vì đây là việc quốc sự, nên Ngài không thể bàn tính gì được. Việc thương nghị trùng tu chùa bị đình hoãn. Công sức vận động sửa chữa chùa chiền bị thất bại.

* Lời chú giải của Phước Chưng *:

Nhân ngày lễ đông chí, Ngài đến Bắc Kinh chúc mừng Lý thái hậu. Sự thỉnh cầu thuyết giới của Lý thái hậu cho Ngài dịp may để khởi đầu sự liên hệ với chùa Từ Thọ (đã được xây vào niên hiệu Vạn Lịch năm thứ bảy). Ðối với việc trùng tu chùa Báo Ân, Lý thái hậu đã dành dụm gần đủ số tiền để thực hiện dự án. Tuy nhiên, đến giờ phút chót lại bị đình hoàn. Như thế là cuộc hành trình về hướng Bắc với mục đích trùng hưng chùa Từ Ân của Ngài bị thất bại. Trong quyển “Tự Thuật Tiểu Sử”, Ngài kể rõ rằng nếu không vì mục đích trùng tu lại chùa Báo Ân, Ngài sẽ không đến kinh đô để chúc mừng Lý thái hậu. Nếu Ngài không đến thăm viếng Bắc Kinh trong ba năm liền thì chắc Ngài sẽ không bị dính líu vào những chuyện rắc rối xảy ra sau này.

Tôi nghe thị giả của Ngài thuật lại như sau:

Lý thái hậu thỉnh Ngài đến chùa Từ Thọ giảng giới luật và cúng dường rất trọng hậu. Chùa Từ Thọ cũng được gọi là chùa Ðâu Suất Sơn. Phòng Phương Trượng được trang hoàng với những vải lụa sặc sỡ. Vật cúng dường chư Phật gồm có những món ăn, trái cây hiếm có và kỳ lạ, được mang từ khắp nơi đến. Y phục, thức ăn, pháp khí và những vật cần dùng của ngài Phương Trượng được cung cấp bởi quan bộ lễ. Những đồ vật này được mang vác trên đường phố dài như dòng suối nguồn trôi chảy. Người xem đứng chật cả đường phố giống như tường vách. Thực vậy, những phẩm vật được Lý thái hậu và các quan cúng dường nhiều quá đến nỗi không thể tính đếm được. Tất cả trẻ em vào chùa lễ Phật đều được tặng quà. Tiền bạc và thức ăn được cúng dường từ quốc khố của triều đình không được chấp nhận. Các thùng và giỏ trong chùa đều đựng đầy cả đồng vàng cúng dường. Kho chứa của chùa luôn luôn đầy ắp cả y phục và lúa gạo. Mỗi ngày, vài ngàn người đến dùng những thức ăn thịnh soạn được nấu trong chùa. Mồng tám tháng Chạp, Lý thái hậu cúng dường cho Ngài một chiếc mũ Phật Tỳ Lô Giá Na, một bộ y ca sa bằng gấm màu tím, một đôi giày Bảo Chí, cùng vải lụa che thân (Những tặng phẩm này thường được cúng dường cho các vị cao Tăng. Chiếc mũ được gọi là mũ của Phật Tỳ Lô Giá Na, tức pháp thân của chư Phật. Ðôi giày Bảo Chí là do lấy tên của ngài Bảo Chí, một vị thánh tăng đã từng giúp vua Lương Võ Ðế soạn ra bộ kinh lễ sám Thủy Lục. Y gấm ca sa màu tím cũng được cúng dường cho ngài Liên Trì).

Song, Ngài đều từ chối, không nhận những phẩm vật cúng dường này. Sau ba lần cầu thỉnh, cuối cùng Ngài bị bắt buộc phải nhận, nhưng không bao giờ mặc những đồ đó.

Lúc ấy, Thiền Sư Ðạt Quán đang trú tại thạch đá để khắc kinh. Ngày nọ, mở cửa thạch thất ra, Thiền Sư tìm thấy bên dưới tượng Phật có một hộp chứa Xá Lợi Phật. Lý thái hậu nghe việc này nên sai quan nội sử đem phẩm vật đến cúng dường Xá Lợi Phật và một bộ y ca sa màu tím cho Thiền Sư Ðạt Quán. Sau ba ngày cúng dường, Xá Lợi Phật được thỉnh vào thờ trong thạch thất. Thiền Sư Ðạt Quán không nhận phẩm vật cúng dường (y ca sa bằng gấm, màu tím), nhưng đề nghị y ca sa này phải nên cúng dường cho ngài Hám Sơn. Ngày cúng dường y ca sa gấm tím, Lý thái hậu thỉnh Ngài vào hoàng cung để được ban cho pháp danh. Biết được rằng việc này không phải do ý của hoàng đế, nên Ngài từ chối lời mời và viện lý do là giới luật cấm tăng sĩ không được vào hoàng cung.

Sau này, quan nội sử được lịnh mang hình của Ngài vào hoàng cung cùng với pháp danh của Lý thái hậu. Lý thái hậu ra lịnh rằng hình của Ngài phải được treo trong hoàng cung. Xa hơn nữa, bà còn bảo hoàng đế cùng bà ta cúi mình đảnh lễ hình ngài Hám Sơn để nhận pháp danh. Mặc dầu hoàng đế rất hiếu thảo, nhưng không thể dằn được sự tức giận vì việc này.

Lập thái tử là việc rắc rối nhất đối với hoàng đế, vì ông ta phải chọn lựa giữa Chu Thường Lạc, được Lý thái hậu cầu tự tại núi Ngũ Ðài, và Chu Thường Tuân, tức con của Trịnh Quý Phi được ông ta sủng ái. Vì vậy, Ngài là “tội nhân đứng đầu” trong việc cầu tự. Lúc trước, khi chưa nắm hết quyền uy (Trương Cư Chánh vẫn còn sống), hoàng đế không dám làm theo ý mình. Sau vụ cầu tự ở núi Ngũ Ðài của Lý thái hậu và bị bắt buộc phải lạy hình tượng Ngài, hoàng đế chỉ chờ cơ hội thuận tiện để bắt tội Ngài. Con dê tế thần trong buổi ban đầu là ông quan nội sử thân tín của Lý thái hậu và thường qua lại với Ngài. Duyên cớ là ông quan nội sử được Lý thái hậu phái đem Ðại Tạng Kinh đến bốn núi danh tiếng như Lao Sơn, Phổ Ðà, Nga Mi, Lô Nha rất ham tiền. Thế nên, công việc chuyên chở vận tải Ðại Tạng Kinh rất tốn kém. Mâu thuẫn giữa Lý thái hậu và hoàng đế ngày càng trầm trọng. Những ông đại quan quyền quý nịnh bợ tìm kiếm cơ hội tâng bốc hoàng đế để được thăng chức.

Năm 1595, khi từ Bắc Kinh trở về vùng duyên hải (Ðông Hải), Ngài liền bị tai nạn dồn dập. Nguyên nhân chính là hoàng đế rất ghét và ưu phiền những quan nội sử thường làm Phật sự tại hoàng cung. Ðầu tiên, do lầm lỗi của quan nội sử mang Ðại Tạng Kinh đến cho Ngài, khiến cho Lý thái hậu phải bị hàm oan đơn độc tại triều đình. Các đại quan tả hữu đều lo ngại. Trong triều đình, vì ghen ghét quan nội sử lo về việc chuyển vận Ðại Tạng Kinh, nên nhà vua ra lịnh xử chém quan nội sử như để làm dê tế thần. Cảnh Nghĩa Lan vốn là một kẻ vô loại tại Sơn Ðông. Năm xưa, hắn ta có tham dự vào những việc tranh chấp chùa chiền đất đai tại Lao Sơn. Sau này, hắn đến chùa Hải Ấn, tự vỗ ngực xưng tên và bảo rằng có đầy đủ bằng cứ để chứng minh là chùa Hải Ấn thuộc về quyền sở hữu của các đạo sĩ. Vì có sự che chở của quan phủ trong vùng, nên Ngài không thèm để ý đến tên đạo sĩ vô loại kia. Thấy yếu thế, hắn định rút lui nhưng lại cầu xin Ngài là hãy đút lót tiền thì hắn sẽ hủy bỏ chứng cứ. Biết hắn là loại người nào, nên không những không đưa tiền cho mà Ngài còn trách mắng, khiến hắn phải xuống núi. Hắn nhục nhã, không biết cách gì để báo thù, nên tìm gặp và thuật lại chuyện đó cho những ông đại quan nịnh bợ (Triều Minh là triều đại của quan lại tham ô hoành hành, còn quan quân thanh liêm thì rất ít).

Những ông đại quan nịnh bợ kia nắm lấy cơ hội này, bèn đem hắn vào mật thất ở kinh đô để chỉ dẫn cách thức vu oan Ngài. Ngày thứ hai, họ sai đông đảo vệ sĩ giả dạng đạo sĩ cùng đi với Cảnh Nghĩa Lan vào triều nội đánh trống trước cửa hoàng cung để dâng sớ biểu nghị. Ðọc qua bài sớ vu khống đó, và vì đã hận ngầm Ngài, nên thừa dịp này vua Thần Tông sai người bắt Ngài lên kinh đô phán xét. Trong triều nội, những đại quan có cảm tình với Ngài thấy hoàng đế ‘nổi giận lôi đình’ nên không dám hở miệng để bào chữa cho Ngài.

Nghe tin hoàng đế muốn bắt mình vào kinh đô để phán xử, Ngài điềm nhiên chuẩn bị tư tưởng và vân tập các tín chúng đệ tử, bảo: “Phật vì muôn loài, không xả bỏ chúng sanh trong ba đường ác (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh). Ðông Hải, vùng biên địa nghèo hèn kém phước, xưa kia chưa từng nghe đến danh hiệu Tam Bảo. Tôi đã đến đây giáo hóa hơn mười hai năm. Nay, ngay cả đứa bé ba tuổi cũng biết niệm Phật. Biết bao người bỏ tà quy chánh. Lời nguyện của tôi đã hoàn mãn, nên chẳng chút sợ chết. Duy chỉ còn một việc đau buồn là dự định trùng tu lại chùa Báo Ân chưa hoàn thành.”

Khi Ngài rời chùa Hải Ấn đến thành Tức Mặc, các sĩ phu, dân chúng, già trẻ đều rơi lệ tiễn đưa; điều này chứng minh rằng Ngài đã chiếm được lòng dân chúng. Ngài bị bắt vào kinh đô để làm con mồi cho sự tranh chấp quyền thế giữa thái hậu và hoàng đế. Bao năm, bộ mặt giả dạng nhân nghĩa hiếu đễ của hoàng đế nay đã lộ rõ. Ðến Bắc Kinh, hoàng đế ra lịnh cho Ngài ra chất vấn trước phán quan. Tại nơi tòa, Ngài bị đánh đập. Phán quan nhận được lịnh hoàng đế, gán cho Ngài tất cả tội lỗi. Ông ta chất vấn Ngài về việc Lý thái hậu cúng dường khoảng vài trăm ngàn đồng vàng cho các tự viện nổi tiếng trong toàn quốc. Tuy bị tra tấn cực hình, nhưng Ngài vẫn cố nhẫn chịu, không thể nói rõ hết vì sợ liên lụy đến thái hậu. Những hình phạt vào đời Minh rất tàn bạo và thường khủng bố tội nhân. Trong vụ này, đích thân hoàng đế ra lệnh phán quan tra khảo đánh đập Ngài dã man. Sau này trên đường bị giải vào Nam, trong tập thơ “Tụng kinh Viên Giác” Ngài viết:

“Cửa sắt khóa chặt khó mà mở
Xiềng xích trùng trùng thật khổ thay
Rên rỉ thương thay khách đêm dài
Chẳng biết nhân nào đưa vào đây.
(Chúng sanh tướng).
Gậy đánh máu tuôn rất vô tình
Xúc trước thuận dạy đoạn sống chết
Chạm đến đau buốt thấu mũi
Mới biết vương pháp thật phân minh.”
(Thọ giả tướng)

Trước phán quan, Ngài nói: “Tôi hối tiếc là làm tăng sĩ, không thể báo đáp ân trọng quốc gia. Nay nếu chết cũng vẫn an lòng, nhưng tiếc thay sẽ làm tổn thương đến lòng đại hiếu của hoàng đế (Nếu như Ngài từ chối hết tất cả những tội bị gán ghép thì Ngài gián tiếp bảo rằng hoàng đế hoàn toàn sai lầm vì không chuẩn y lịnh xây cất chùa chiền, tức chẳng làm tròn chữ Hiếu đối với Lý thái hậu. Việc này rất cấm kỵ đối với các vua Tàu). Ngay cả nếu tôi dùng ý của mình mà bóp méo sự việc để phù hợp với lời khai hầu mong lợi ích cho mình, và nếu tôi nghe theo lịnh của hoàng đế để gia hại nền đạo đức luân lý thì thật không hợp với tâm của người quân tử. Xa hơn nữa, lịch sử sẽ viết gì về việc này? (Mọi vua Tàu đều muốn để lại tiếng thơm. Họ rất sợ các sử gia thanh liêm chính trực)”

Ngài dùng hết sức bình sinh để trả lời mọi chất vấn. Ngài chấp nhận là có thọ nhận tiền cúng dường khoảng trên bảy trăm đồng vàng. Còn số tiền ba ngàn đồng vàng mà Lý thái hậu đã cúng dường cho núi Lao Sơn, Ngài yêu cầu hoàng đế nên thẩm tra lại số tiền được ghi lại trong sổ biên nhận của triều đình. Khi kiểm tra lại biên nhận thì chỉ thấy số tiền này được dùng vào việc cứu trợ nạn nhân nghèo đói. Do đó, sụ tố cáo được chứng minh là vô căn cứ. Hoàng đế đã thấy rõ sự tình. Từ đó, tình mẹ con giữa Lý thái hậu và hoàng đế được hàn gắn. Tuy nhiên, vì thọ nhận từ ân của Lý thái hậu, Ngài bị xử phạt tội xây chùa Quán Âm tại Lao Sơn trái phép. Thế nên, Ngài bị bắt hoàn tục và lưu đày đến Lôi Châu.

* Lời bàn của Trầm Ðức Phù *:

Trường Bổn là một trong những quan nội sử thân tín của Lý thái hậu. Ông gởi rất nhiều bản Ðại Tạng Kinh đến Lao Sơn, thay vì gởi đến những nơi khác. Việc này khiến cho rất nhiều người ganh ghét. Một đạo sĩ, tên Cảnh Nghĩa Lan, giả dối tuyên bố chùa Hải Ấn nằm trong vùng của các đạo sĩ. Ý chính của hắn là muốn kiếm chút tiền từ ngài Hám Sơn. Tuy nhiên, không những Ngài không chịu đút lót mà còn trách mắng hắn. Do đó, Cảnh Nghĩa Lan giả dạng làm học trò đạo sĩ, dâng sớ thỉnh nghị đến hoàng đế. Có thể Cảnh Nghĩa Lan là viên chức của bộ Hình miền Ðông Hải, được lịnh của các quan nội sử quyền thế trong triều giả danh là đạo sĩ, lên kinh đô đánh trống Ðăng Văn (Khi đánh trống lên, tức thỉnh cầu hoàng đế xét những nỗi oan ức). Các đạo sĩ dùng kế thuật tạo những tin đồn thất thiệt để chiếm đoạt lại núi Lao Sơn. Ðây cũng nói lên sự căng thẳng giữa đạo sĩ và tăng sĩ sau việc lập đàn tràng cầu thái tử tại núi Ngũ Ðài và Võ Ðang. Sau này quan nội sử Trương Bổn bị xử chém vì làm sai lịnh triều đình, mặc dầu ông ta nghe theo lịnh của Lý thái hậu.

Rõ ràng, việc ngài Hám Sơn bị bắt là vì sự quan hệ mật thiết với Lý thái hậu. Ðây là sự tranh giành quyền thế giữa Lý thái hậu và hoàng đế. Sự chọn lựa Ðông Cung thái tử là trọng tâm chính của sự tranh chấp, bắt đầu tại núi Ngũ Ðài vào năm 1581, khi bà thái hậu thỉnh cầu chư tăng lập đàn cầu Thái Tử.

Lúc ngài Hám Sơn bị bắt vào năm 1595, con trai của Vương cung phi là Chu Thường Lạc (1582-1620) được mười bốn tuổi. Trịnh quý phi, người được hoàng đế sủng ái, sanh một hoàng nhi tên là Chu Thường Tuân vào năm 1586. Ngài Hám Sơn bị bắt vào lúc sự tranh chấp ngôi vị thái tử giữa hoàng đế và Lý thái hậu đang căng thẳng. Lý thái hậu thì muốn lập ngôi thái tử cho Chu Thường Lạc. Ngược lại, hoàng đế lại muốn chọn Chu Thường Tuân làm thái tử. Ða số quan lại triều đình trong nội cung và ngoại cung đều ủng hộ ý muốn của hoàng đế. Chỉ có số ít quan lại ủng hộ Lý thái hậu như thừa tướng Trương Vị. Nhóm thứ ba đề nghị rằng không nên lập ngay đông cung thái tử liền, mà hãy lập vương vị cho Chu Thường Lạc, Chu Thường Tuấn, Chu Thường Hạo. Thật tế, vì không đủ sự ủng hộ của tất cả quan triều trong việc lập Chu Thường Tuấn làm thái tử, nên vào năm 1593 hoàng đế ban sắc lịnh là ba vị hoàng tử Chu Thường Lạc, Chu Thường Tuấn, và Chu Thường Hạo đều được nhậm chức thái tử. Ðây là cách trì hoãn việc giao ngôi vị thái tử chính thức cho Chu Thường Lạc. Song, sau này sắc lịnh trên được hủy bỏ vì sự chống đối của một số quan triều. Năm 1594, nhân nhượng áp lực của quần thần, hoàng đế cho phép Chu Thường Lạc được học hành đàng hoàng, nhưng từ chối không ban cho ngôi vị thái tử. Năm 1595, một quan triều kiến nghị lên hoàng đế là pháp hội cầu thái tử tại núi Ngũ Ðài và chùa Tu Thọ là hành động xâm phạm quyền lợi quốc gia, do một tăng sĩ (tức ngài Hám Sơn), tổ chức. Thật ra, ngài Hám Sơn chỉ là con dê tế thần cho Lý thái hậu. Vì lý do hiếu thuận, nên hoàng đế không thể đối đầu trực diện với Lý thái hậu.

Song, tại tòa án ngài Hám Sơn không bị tố cáo là xen vào chuyện lập thái tử, nhưng lại bị tra tấn và ép buộc phải chấp nhận là Lý thái hậu đã cúng dường hàng trăm ngàn đồng vàng cho các tự viện nổi tiếng trong toàn quốc. Tuy vậy, ngài Hám Sơn không chịu nhận vì nếu làm thế sẽ làm tổn thương đến “lòng hiếu thảo cao siêu” của hoàng đế. Thực sự, đây là tòa án kết tội Ngài và Lý thái hậu. Cuối cùng Ngài bảo là có nhận khoảng bảy trăm đồng, còn ba ngàn lạng vàng thuở xưa do Lý thái hậu cúng dường đều dùng hết vào việc cứu trợ dân chúng tỉnh Sơn Ðông bị chết đói vì thiên tai hoạn nạn. Việc đó có thể tra xét trong sổ bộ của quốc khố. Sau khi thẩm tra sổ bộ, hoàng đế không còn cách nào để bắt tội, nên phán xử Ngài được vô tội. Tuy nhiên, hoàng đế không thể tha bổng Ngài được vì sẽ bị mất mặt với triều thần, nên lợi dụng việc tranh chấp đất đai chùa chiền giữa Phật giáo và Ðạo giáo tại Lao Sơn, hoàng đế phán rằng Ngài bị phạm tội ‘tự ý xây chùa’ Hải Ấn (do sự bảo trợ của Lý thái hậu, chứ không phải hoàng đế). Kết quả chùa Hải Ấn bị phá hủy. Ngài bị bắt phải hoàn tục và đày đến vùng biên cương, tức Quảng Ðông, như tù nhân chính trị.”

Sự Tranh Chấp Về Ngôi Vị Ðông Cung Thái Tử

Sau cái chết của Tể Tướng Trương Cư Chánh, Lý thái hậu là nhân vật có thế lực nhất mà hoàng đế phải đương đầu. Sự tranh chấp về quyền độc lập của hoàng đế, khiến cho tình mẹ con bị sứt mẻ. Ngôi vị Ðông Cung thái tử là đề mục chính của sự tranh chấp.

Theo sử nhà Minh, vào ngày nọ Lý thái hậu hỏi hoàng đế về lý do tại sao không lập Chu Thường Lạc lên ngôi thái tử. Hoàng đế trả lời là Chu Thường Lạc chỉ là con của một cung phi. Lý thái hậu tức giận bảo: “Ngươi cũng là con của một cung phi thôi mà!”

Hoàng đế nghe thế, liền quỳ xuống không dám đứng dậy. Song, hoàng đế trì hoãn việc lập ngôi thái tử cho Chu Thường Lạc. Những quan triều ủng hộ việc lập Chu Thường Lạc đều bị bãi chức hay bị tù đày. Sau vụ ngài Hám Sơn bị bắt, hoàng đế không tìm được cớ gì để gán tội cho Ngài (có liên quan với thái hậu), nên đành chịu tội với thái hậu. Cuối cùng hoàng đế phải lập Chu Thường Lạc làm thái tử vào năm 1601, lúc ông được hai mươi tuổi. Hôn lễ của Chu Thường Lạc cũng được tổ chức vào dịp đó. Hơn chín triệu đồng vàng được dùng vào buổi lễ đó. Chu Thường Tuân được phong chức Phúc Vương, nhưng từ chối đi Lạc Dương nhận đất thái ấp. Khi ở tại kinh đô, lợi dụng quyền thế Chu Thường Tuân tự làm giàu bằng cách sung công các đất đai, tiếp thâu vàng bạc của nông dân.

Mẹ của Chu Thường Tuân, tức bà Trịnh quý phi, cũng là nhân vật chính ảnh hưởng một nhóm quan nội sử trông coi việc thâu thuế “khoáng vật” trong toàn quốc, gồm có việc thâu thuế và lấy vàng bạc từ những ngôi mộ cổ xua, và những châu báo của những người khác, đặt biệt là những người thương buôn cùng các công xã khoáng chất.

Sự có mặt của Chu Thường Tuân tại kinh đô khiến cho quan triều ngoại cung nghi ngờ là ông ta muốn chiếm đoạt ngôi thái tử của Chu Thường Lạc. Năm 1603, những tấm giấy “Yêu Thư” chỉ trích và trách mắng xuất hiện, do một người lạ mặt tung ra, nói rằng Chu Thường Tuân đang lập kế chiếm đoạt ngôi thái tử. Hoàng đế tức giận, ra lịnh bắt rất nhiều người. Khi đó, Thiền Sư Ðạt Quán, hiệu Tử Bá, đang ở tại kinh đô, tìm cách cứu ngài Hám Sơn ra khỏi tù. Quân lính tìm thấy một lá thư của Thiền Sư Ðạt Quán biện hộ cho Lý thái hậu và chỉ trích sự tàn phá chùa Hải Ấn cùng sự đày ải ngài Hám Sơn trong túi của một đệ tử Thiền Sư Ðạt Quán. Người đệ tử này cũng bị bắt vì có sự liên hệ với nhóm ‘Yêu Thư”. Bởi thế, Thiền Sư Ðạt Quán cũng bị bắt vào tù. Nghĩ rằng không có hy vọng sống sót, Thiền Sư Ðạt Quán nhập vào thâm định rồi thị tịch (Một phần của lá thư viết là Lý thái hậu muốn xây chùa chiền, nhưng hoàng đế lại không giúp mẹ mình. Hành động này sao gọi là hiếu thảo?)

Vì việc Chu Thường Tuân vẫn còn ở lại kinh đô, nên nhiều chuyện rắc rối xảy ra. Vì vậy, lần cuối hoàng đế khuyến khích Chu Thường Tuân hãy mau rời khỏi kinh thành để đến Lạc Dương. Trịnh quý phi cầu xin hoàng đế cho phép con bà ta ở lại kinh đô đến ngày lễ sinh nhật của Lý thái hậu. Tuy nhiên, Lý thái hậu ra lịnh Chu Thường Tuân phải rời kinh thành ngay lập tức. Mặt dầu Chu Thường Tuân đã rời kinh đô, nhưng hoàn cảnh vẫn chưa được yên ổn cho lắm. Năm 1615, có một gã cầm dùi và cố tình chạy vào hoàng cung bằng cách đánh quân giữ thành. Cuối cùng gã bị bắt. Phát hiện ra, gã là người anh bà con của Trịnh quý phi, tên là Trịnh Quốc Thái. Vì vậy, bà Trịnh quý phi và Trịnh Quốc Thái bị nghi ngờ là mướn người để giết thái tử Chu Thường Lạc. Lo sợ tin đồn thất thiệt này, bà Trịnh quý phi cầu xin thái tử Chu Thường Lạc đừng hiểu lầm. Hoàng đế cũng ra lịnh cho thái tử Chu Thường Lạc thuật rõ sự tình trước mặt bá quan văn võ. Trịnh Quốc Thái bị cho là điên khùng và sau này bị xử tử. Sự việc này được viết trong sử, gọi là Án Ðỉnh Kích.

Năm 1620, Chu Thường Lạc trở thành hoàng đế Thái Xương. Một quan trong bộ lễ dâng một viên thuốc hồng để chữa trị bịnh cho hoàng đế do Trịnh quý Phi chăm nom. Kết quả, hoàng đế Thái Xương qua đời sau khi làm vua được một tháng. Ðây là vụ án Hồng Hoàn, được ghi trong lịch sử. Vụ án này khiến khơi lên thêm sự tranh luận, liên hệ với việc nghi ngờ đầu độc nhà vua. Cuộc đời của Chu Thường Lạc thật rất bi đát. Có thể nghĩ rằng ông là một phẩm vật được chư Phật ban cho. Ðợi chờ trong ba mươi tám năm, cuối cùng ông được lên ngôi vua một cách kỳ lạ. Kết quả này có thể khiến cho ngài Hám Sơn vững lòng tin hơn về việc chọn đúng con đường, tức phò Lý thái hậu và Chu Thường Lạc (được sanh ra là nhờ pháp hội cầu nguyện do Ngài tổ chức tại núi Ngũ Ðài năm xưa). Mặt khác, ngài Hám Sơn cũng chắc buồn vì nhìn thấy bi kịch cuối cùng qua vụ án ‘hồng hoàn’. Ðịch thủ của Chu Thường Lạc, tức Chu Thường Tuân cũng bị chết bi thảm. Ông ta bị Lý Tự Thành, một thủ lãnh nông dân, chém chết vào năm 164. Khi chiếm kinh thành Lạc Dương, quân lính của Lý Tự Thành lấy máu của Chu Thường Tuân hòa với rượu mà uống; họ gọi rượu này là rượu Phước Lộc, vì lấy tên hiệu của Chu Thường Tuân, tức Phước Vương.

Tuy nhiên, công nghiệp của ngài Hám Sơn không bị quên lãng trong triều nội vì hai vị vua kế tiếp chính là con của Chu Thường Lạc. Sau khi Lý thái hậu qua đời vào năm 1614, một ngôi điện đường Cửu Liên Bồ Tát Ðường, được xây ngay tại trong nội cung để tưởng nhớ bà. Hình Ngài cũng được treo nơi đó. Vua Sùng Trinh (1628-1644) viết bài kệ tán thán ngài Hám Sơn:

“Lão Tăng này

Hình tướng gì!

Giữ thành pháp

Tự được Ngài ủng hộ

Tin tưởng như tay phải của thiên tử

Ngài là bóng hình của chư Phật Tổ.”

Nếu còn sống, ngài Hám Sơn chắc buồn lắm khi biết Sùng Trinh là vị vua cuối cùng của triều Minh (Ông đã tự tử mà chết.)

Tháng Ba năm đó, khi Ngài bị cầm tù tất cả tự viện chùa chiền trong kinh thành đều tụng kinh bái sám, cầu nguyện chư Phật chư Bồ Tát gia hộ cho Ngài. Có chư tăng đốt hương trên tay cúng dường, tụng kinh chú, cầu nguyện chư Phật gia hộ cho Ngài. Tại Kim Ngô, công tử Phạm Khê, con của quan đại tư mã An Túc Trịnh, tuy chưa từng gặp mặt Ngài, nhưng vẫn thiết lập buổi tiệc, mời những quý khách trưởng lão, trợ giúp trong việc cứu giúp Ngài. Với những giọt lệ ưu sầu, công tử Phạm Khê nói rõ sự vô tội của Ngài. Tất cả người tham dự buổi tiệc đều chia sẻ nỗi buồn cho Phật pháp. Việc này biểu hiện sự cảm thông Phật pháp của nhân tâm thời bấy giờ.

Ngài bị giam trong ngục tám tháng liền. Trong lúc đó, chỉ có thị giả Phước Thiện là người duy nhất mang cơm nước cho Ngài. Tháng mười, Ngài bị đày về miền Nam. Các quan chức triều đình tống biệt Ngài đến bờ sông nơi kinh đô. Lúc rời kinh đô, thị giả Phước Thiện cùng ba tăng sĩ đồng theo Ngài.

Tháng mười một, khi được giải đến Nam Kinh, đứng bên bờ sông, Ngài chia tay từ biệt thân mẫu. Khi đó, Ngài viết bài thơ Mẫu Tử. Khi đó, Ngài cũng dẫn theo đứa cháu mồ côi cha mẹ là Khả Cửu.

Xưa kia, lúc trú tại núi Thạch Kinh (Ðại Tạng Kinh được khắc lên đá), Ngài cùng Thiền Sư Ðạt Quán, vì thấy sự suy đồi của Thiền tông, nhất là mạch nguồn tại Tào Khê bị mai một, nên đồng có ý chí phục hưng. Do đó, Thiền Sư Ðạt Quán đến Khuông Sơn trước đợi Ngài. Lúc đang ở tại Thiên Trì, nghe tin Ngài bị nạn, Thiền Sư Ðạt Quán bảo: “Thế là cuộc đời của ngài Hám Sơn đã chấm dứt, nhưng chí nguyện đến Tào Khê chẳng dứt.”

Trước hết, Thiền Sư đi Tào Khê, rồi trở lại Bắc Kinh. Khi biết Ngài vừa ra ngục và được giải đến Liêu Thành, Thiền Sư liền trở lại Kim Long chờ đợi. Khi đến Kim Long, Ngài từ biệt Thiền Sư tại một am tranh cạnh bờ sông. Thiền Sư muốn dùng hết sức lực để giãi bày nỗi oan uổng của Ngài, nhưng Ngài ngăn lại, bảo: “Vua như cha. Thần dân như con. Không thể làm nghịch lời. Hơn nữa, đây là định nghiệp của đệ. Sư huynh chớ nên giãi bày làm chi.”

Trước khi giã từ, Thiền Sư nói: “Tại Thiên Trì, nghe sư đệ bị nạn, huynh liền phát nguyện tụng một trăm bộ kinh Pháp Hoa, để cầu nguyện chư Phật gia hộ cho sư đệ. Tâm huynh tức là lưỡi của sư đệ vậ. (Ngài yêu cầu Thiền Sư Ðạt Quán chớ giãi bày chi. Thường thường, nếu bị bắt tội oan ức, thì phải dùng lưỡi mà giãi bày. Vì Ngài không chống lịnh triều đình, nên tâm của Thiền Sư Ðạt Quán sẽ thay thế lưỡi của Ngài để cầu nguyện chư Phật gia hộ cho Ngài)

Ngài đa tạ cám ơn lòng thành của Thiền Sư rồi từ biệt. Thiền Sư Ðạt Quán tặng Ngài bài thơ “Tống Khách Thuyết.”

* Lời bàn của Phước Chưng *:

Khi ngài Hám Sơn lập pháp hội cầu thái tử thì cả triều đình đều biết đến. Ngài tránh được những sự rắc rối là nhờ lánh nạn tại vùng duyên hải. Song, vì nhớ lời nguyện trùng tu lại chùa Báo Ân, Ngài vẫn thường tới lui kinh đô nhiều lần trong ba năm liền. Sự dành dụm chi tiêu trong triều đình khiến nhiều người bàn tán chỉ trích Ngài.

Lại nữa, vì đề nghị với Lý thái hậu giảm một trăm đồng vàng mỗi ngày về sự chi tiêu của triều đình trong ba năm, nên Ngài khiến cho quan chức trong triều khó làm việc. Vì luật hoàng gia không cho phép thái hậu xen vào chuyện quốc sự, nên nhiều người trong hoàng cung và ngoài kinh đô lợi dụng việc này để chỉ trích lên án Ngài.

Vì Lý thái hậu tự ra lịnh xây cất chùa Hải Ấn tại Ðông Hải ở núi Lao Sơn, nơi Ngài hoằng pháp trong mười năm, chứ chẳng phải lịnh của hoàng đế, nên Ngài bị ghép tội là cất chùa trái phép. Trong tiểu sử tự truyện, Ngài không nói rõ lịnh đập phá chùa, nhưng việc này được nhắc đến trong bài hồi ký về sự xây dựng tháp kỷ niệm Thiền Sư Ðạt Quán.

Trong quyển nhật ký về cuộc lưu đày, Ngài kể: “Tôi bị khó khăn trong công cuộc hoằng pháp, như việc khơi dậy sự tức giận của hoàng đế. Âm thanh tức giận đó chát chúa như sấm sét. Tôi nghĩ rằng nếu mẹ mình mà biết được thì chắc sẽ sợ hãi lắm. Mạng sống còn là nhờ từ ân của hoàng đế, chỉ bị lưu đày tại Lạc Dương. Tôi gặp bà mẹ bên bờ sông Trường Giang khi được giải ngang qua làng quê. Lúc đó, chúng tôi vui mừng và cười hớn hở. Không có nổi đau buồn thống thiết.

Tôi hỏi bà mẹ: “Khi nghe Thầy trở về, tránh được cái chết trong lằn tơ kẽ tóc, mẹ có buồn không?”

Bà đáp: “Việc chết sống là định nghiệp, sao mẹ lại buồn rầu cho thầy? Ngay chính mình còn không lo lắng, sao mẹ phải lo lắng cho Thầy chứ? Song, nghe tin đồn mà mẹ không thể nghĩ rằng Thầy bị đày như thế này. Nay thấy Thầy khoẻ mạnh là mẹ mừng lắm rồi.”

Ðến chiều tối, tôi từ biệt mẹ mình lần cuối. Mẹ tôi bảo: “Vì Phật pháp, hãy bảo trọng. Phải biết tự trọng, chớ làm trái với lương tâm.”

Ngài đáp: “Xin vâng lời mẹ! Chỉ vì mẹ tuổi tác già nua, Thầy sống xa xôi nơi miền biên giới, không thể xả bỏ được tâm lo lắng cho mẹ.”

Bà mẹ đáp: “Chớ lo lắng cho mẹ. Mẹ đã chuẩn bị hành trang rồi. Xưa kia mong muốn gặp mặt Thầy lần cuối. Nay gặp lại đây, mẹ đã mãn nguyện lắm rồi. Hiện tại mẹ phải đi. Hôm nay là ngày mà mẹ con phải vĩnh biệt. Thầy hãy tự bảo trọng”. Vui vẻ, mẹ tôi bỏ đi thẳng không quay ngó lại.”

Sau này, Ngài viết bài thơ Mẫu Tử:

“Tình mẹ và con
Nam châm hút sắt
Thiên nhiên huyền diệu
Bổn gốc tròn đầy
Tôi thấy mẹ mình
Như gỗ phụt lửa
Khi gỗ cháy xong
Lửa lại vô ngã
Sống không quyến luyến
Chết cũng chẳng màng
Xét thấy thân mình
Là con của đá.”

Bị Lưu Đày Vào Nam

Năm 1596, vào tháng Giêng, Ngài vượt sông Văn Giang, đến thăm quân sư họ Châu. Cư sĩ Vương Tánh Hải ở Lô Long đến lễ bái và thỉnh Ngài viết chú giải về kinh Lăng Già, bên bờ sông. Tháng hai, Ngài leo lên đỉnh Ðộ Dữu, nơi Huệ Minh truy tầm Lục Tổ Huệ Năng để lấy y bát. Nhân xúc cảnh, Ngài làm kệ:

“Nghĩ về hành trình vượt đêm lạ lùng của người xưa

Nay đạt được tâm gì trên đỉnh núi!”

Vì thấy người bộ hành trên đường phải đi vất vả, nên Ngài bảo một thị giả, lập quán trà trên núi.Vì đường lộ quá gồ ghề khó đi, nên Ngài khuyến tấn các Phật Tử trong vùng cùng nhau sửa sang lại. Qua vài năm, đường xá được bằng phẳng.

Ðến Thiều Dương, Ngài vào núi lễ tháp Lục Tổ. Uống nước Tào Khê, Ngài làm kệ:

“Tào Khê trích nước từ nguồn Linh
Lưu nhập biển khơi sóng vỗ nền trời
Vài con cá rô biến thành rồng.
Nơi nguồn một làn gió lạnh thổi qua
Tiều phu vừa bỏ đá đeo lưng
Hoàng Mai nửa đêm buồn tịch tĩnh
Từ lúc cầm bình bát vào Nam
Thằng bé khí khái ngày một kiêu.”

Năm xưa, Ngài đã từng cùng với Thiền Sư Ðạt Quán phát nguyện đến Tào Khê chấn chỉnh Thiền tông. Ðại nguyện chưa thành thì Ngài bị nạn lưu đày, còn Thiền Sư Ðạt Quán vì muốn cứu Ngài nên phải bị tù đày và chết trong ngục tối. Nay do bị lưu đày vào Nam mà Ngài mới đến được Tào Khê. Thật tình trong họa hoạn vẫn có phần phước.

Tiếc thay, tổ đình Tào Khê đã bị hư hoại quá lắm. Ngôi chánh điện bị hư mục. Tượng Phật Tổ nay làm hang động của trùng rắn. Cỏ lau cao ngất mọc đầy chùa. Tăng sĩ chẳng khác với người thế tục.

Vì lúc đó vốn là tội nhân của triều đình, không thể lưu lại Tào Khê được, nên Ngài rơi lệ xót xa mà giã từ, nhưng tâm nguyện khôi phục lại tổ đình Tào Khê vẫn mãi nung núc trong lòng. Ðến Ngũ Dương ở Quảng Châu, Ngài trình giấy tờ cho tướng quân họ Vương. Ngài không ngờ được là ông ta đích thân ra ngoài cởi trói và mời Ngài vào dinh nghỉ ngơi.

Ngài từ chối, bảo: “Thân tôi đang mang tội, không dám làm phiền Ngài.”

Tướng họ Vương bảo: “Việc của Ngài tôi đã biết rõ ràng. Ngài là vị thế ngoại cao nhân, vì việc cầu thái tử cho quốc gia mà phải bị tội vạ, và vì do người hãm hại nên mới bị hoạn nạn như vầy. Ngài chớ lo lắng thủ hạ của tôi sẽ không đối xử với Ngài như những tội nhân bình thường đâu!”

Nói xong, ông ta thiết buổi cơm chay mời Ngài dùng. Ngài cùng ông ta hàn huyên tâm sự thật rất tương đắc. Sau này, ông ta đưa Ngài về trú tại chùa Hải Châu. Chiếu theo lệ thường, nếu tăng sĩ bị bắt hoàn tục làm lính vùng biên cương thì không được mặc y ca sa và cũng không được coi là tăng sĩ. Trường hợp của Ngài thì lại khác hẳn. Tuy bị bắt hoàn tục và mặc y phục thế tục, nhưng tướng họ Vương vẫn đối đãi Ngài như một danh tăng. Ông thiết đãi cơm nước, mời trú tại tự viện, và cho Ngài quyền lợi mà kẻ tội nhân không bao giờ được hưởng, đó là đi đứng tự do.

Thật vậy, trong thời gian bị lưu đày tại Lôi Châu, Ngài được đi lại tự do trong vùng Quảng Châu. Ðồng thời, Ngài cũng thường qua lại với các danh nhân nhã sĩ trong vùng. Các quan sử trong vùng đó cũng ưu đãi Ngài rất thâm hậu.

Khi quan triều Châu Nhữ Ðăng đang dạy về Vương Dương Minh, nghe tin Ngài đến, bèn dẫn vài mươi bạn hữu và đồ đệ đến thăm Ngài. Khi tất cả đều ngồi xuống, Châu Nhữ Ðăng hỏi câu: “Chỉ biết chân lý khi hiểu việc ngày đêm”, nghĩa là gì?

Trong nhóm có một đạo trưởng đáp: “Tri giác của mọi người tại nơi việc làm hằng ngày. Tối đến, trong mộng cũng có cái tri giác đó. Vì thế bảo rằng chỉ hiểu rõ chân lý sau khi biết việc ngày đêm.”

Mọi người trong nhóm lần lượt trình tri kiến của mình.

Châu Nhữ Ðăng bảo: “Ðại chúng đều trình bày ý kiến, nhưng tôi chưa hài lòng cho lắm.”

Sau đó ông ta xoay qua hỏi Ngài: “Lão Thiền Sư! Thỉnh Ngài trình bày lời chỉ giáo và cho ý kiến.”

Ngài hỏi: “Lời này xuất phát từ kinh sách nào?”

Châu Nhữ Ðăng đáp: “Xuất phát từ Kinh Dịch.”

Ngài đáp: “Ðây là lời Thánh Nhân dạy bảo phàm phu là phải giác ngộ đạo lý sanh tử.”

Châu Nhữ Ðăng nói: “Lời của lão Thiền Sư thật rất có lý. Một lời chân đế vượt hơn sách vở để trong kệ cả chục năm!”

Vì các đệ tử Châu Nhữ Ðăng không hiểu rõ, nên yêu cầu ông giải thích cặn kẽ thêm. Ông đáp: “Sanh tử đồng như ngày đêm. Khi hiểu rõ lý này thì siêu vượt ngày đêm.”

Ðại chúng đồng tán thán.

Tên tuổi của Ngài vang lừng khắp vùng Lôi Châu. Quan lại trong vùng cũng rất chiếu cố đến Ngài. Vì vậy, tuy mang tiếng là bị đi tù đày tại vùng biên cương, nhưng việc tu tập và hành Phật sự của Ngài tại vùng đó không khác gì với lúc trú tại núi Ngũ Ðài hay Lao Sơn. Chế phủ đại tư mã Trần Ðại Liệu sau này cũng đối đãi với Ngài rất thâm hậu.

(Ghi chú: Ngài bị đày ải và đặt dưới sự kiểm soát của quan quân. Bị bắt hoàn tục, Ngài được biết đến với tên tục là Thái Ðức Thanh. Ngài phải mặc quân phục thay cho y ca sa. Râu tóc Ngài cũng để dài ra. Ngài được chính thức ân xá trở lại làm tăng vào năm 1607, khi Hoàng Tôn (cháu nội) của vua Vạn Lịch ra đời. Mãi cho đến lúc Lý thái hậu qua đời vào năm 1614, Ngài mới cạo râu tóc và mặc y ca sa trở lại. Trong khi bị tù đày, Ngài được hưởng quy chế tự do đi lại tối thượng vì quen biết các quan lại cao cấp trong triều. Ngài chỉ bị yêu cầu trình quan quân trong một thời điểm nhất định. Hầu hết trong mọi thời gian, Ngài ở tại chùa viện với các đệ tử. Lúc trùng hưng lại chùa Nam Hoa ở Tào Khê, vị trí Ngài vẫn là tù tội. Mặc dầu không mặc áo quần tù nhân, nhưng Ngài mặc y phục thường dân, cùng để râu tóc rất dài. Dẫu có hình tướng như dân thường, nhưng ý chí và lòng Ngài vẫn là tăng sĩ.

Trong mười tám năm, những chỗ chính mà Ngài thường tới lui là Lôi Châu, Tào Khê. Ngài thường phải hiện diện tại các doanh trại ở Lôi Châu trong thời gian đó).

Mồng một tháng tư, Ngài bắt đầu chú giải kinh Lăng Già. Năm ấy vùng này bị nạn hạn hán kéo dài cả một năm mà không mưa. Người chết nhiều không thể kể. Ngài cảm giác như đang ngồi trên nghĩa địa. Nhờ Phật pháp gia trì nên Ngài được yên ổn. Các giếng nước đều khô cạn. Mỗi ngày, thị giả Phước Thiện phải đợi đến nửa đêm mới múc được một thùng nước để dùng cho cả ngày. Ðối với người khát nước, một giọt nước là một giọt cam lồ. Trong và ngoài thành, đâu đâu cũng có xác người chết. Mùa Thu, Ngài cùng hiếu liêm Khả Thời Phục kêu gọi dân chúng chôn những xác chết. Có hơn mười ngàn xác chết được chôn. Khi ấy, Ngài lập đàn tràng vừa cầu siêu độ vong linh vừa cầu mưa. Vào ngày đó, trời mưa tầm tã. Nước đầy ngập cả ba tấc. Từ đó, nạn hạn hán chấm dứt.

Vào triều Minh, vùng Quảng Châu vốn là nơi hoang dã. Lôi Châu lại nằm về phía Nam tỉnh Quảng Châu. Dân chúng lại rất ít biết đến Phật pháp. Song, sau sự linh ứng của việc cầu mưa, dân chúng tin tưởng Phật pháp ngày một đông đảo. Vào mùa Xuân năm kế, lại thêm một bịnh dịch lan tràn khắp vùng. Ngài lại kêu gọi dân chúng chôn cất hàng ngàn xác chết. Ngài cũng lại lập đàn tràng cầu siêu và cầu mưa trong bảy ngày bảy đêm.

Tháng tám, quan phủ ra lịnh Ngài phải đi Ngũ Dương. Ngài cư trú tại doanh trại huấn luyện quân sĩ. Nơi đó, Ngài viết hai mươi bài kệ kể việc tới lui trong doanh trại. Trên đường đến Ngũ Dương, Ngài đi qua Khổ Ðằng thuộc vùng Ðiện Bạch, là cửa ải của miền nam núi Lĩnh Nam. Nơi đây, Ngài cũng viết kệ kỷ niệm và bảo thị giả lập một quán trà để phục vụ khách qua đường. Quan Ðinh Hữu Võ vì chủ trương lập Chu Thường Lạc làm thái tử nên bị vua Thần Tông bãi chức và đày xuống Lôi Châu. Ngài cùng ông ta bị lưu đày vì cùng một nguyên nhân. Thế nên, Ngài và ông ta kết tình bạn hữu rất thân mật.

Mùa Xuân năm 1597, trên đường phố ở trấn Ngũ Dương, có la liệt các xác chết vì nạn hạn hán. Ngài khuyên dân chúng hãy cùng nhau chôn nguời chết, khoảng vài ngàn người. Ngài cũng tổ chức pháp hội cầu siêu độ trong bảy ngày bảy đêm. Ông Ðinh Hữu Võ cũng giúp Ngài. Từ đó, dân ở Quảng Ðông bắt đầu tin tưởng Ngài. Mùa hè, tháng tư, Ngài chú giải xong bộ kinh Lăng Già. Do có những đệ tử quy y chưa thể nhập lý lẽ nhà Phật, Ngài trước tác bộ Trung Dung Trực Chỉ (Vì hầu hết đệ tử là nho sĩ, nên Ngài phải giải thích quyển Trung Dung, một trong bốn quyển Tứ Thư của Nho giáo, theo nhãn quan Phật giáo).

Quan đại tư mã Trần Ðại Liệu hành pháp rất nghiêm minh, không thiên vị công hay tư. Dân thường không ai dám gặp mặt ông trực tiếp. Song, ông thường gởi người đến gặp và thăm hỏi Ngài. Tháng chín, Ngài cùng ông Ðinh Hữu Võ, đến yết kiến ông ta. Quân giữ cổng báo tin Ngài và ông Ðinh Hữu Võ đến thăm, nhưng không ai ra đón tiếp, nên phải trở về. Tối đó, quan đại tư mã Trần Ðại Liệu gởi người đến mời Ngài lên một chiếc thuyền để tiếp đãi trà nước. Họ đàm luận cho đến khuya canh ba. Việc này khiến cho mọi người kinh ngạc, vì trước kia thấy Ngài là vị tăng bị phạm tội, họ rất khinh thường. Sau cuộc thăm viếng, quan đại tư mã Trần Ðại Liệu, ca ngợi Ngài trước mặt các quan triều: “Ngài Hám Sơn là bậc lân phượng giữa các tăng sĩ.”

Quan đại tư mã Trần Ðại Liệu cũng ra lịnh cho quan triều thuộc ba bộ (bộ hình, bộ văn, bộ võ) ở Quảng Châu đến bái kiến Ngài. Từ đó, dân chúng vùng Lĩnh Nam đều kính phục tăng sĩ.

* Lời bàn của Phước Chưng *:

Ngài Hám Sơn thuật lại như sau: “Khi đến thăm doanh trại của quan đại tư mã Trần Ðại Liệu, tôi phải đứng ngoài sân nhưng không được cho phép trở về. Tôi nghĩ rằng phải hô to tên của mình (như trong những trường hợp tội phạm bị chất vấn). Không còn cách nào khác, nên tôi phải cố gắng hô to lên là yêu cầu được gặp mặt quan đại tư mã. Tôi không được tiếp đãi, nhưng lại được cho phép trở về chùa. Hôm sau, tôi đến lần thứ hai, nhưng cũng bị đối xử tệ hại như lần đầu. Sau này mới biết được hảo ý của ông ta là vì tôi thường có những liên hệ mật thiết với các quan lại, nên đi đến đâu đều được tiếp đãi trọng hậu. Nếu ông ta cứ đối đãi tôi như thế thì sớm muộn gì hoàng đế cũng biết việc này và chắc gì tôi sẽ tránh tội chết. Lại nữa, ông ta tự bảo: “Quan võ làm sao biết cách đối đãi vị tăng trí thức!”

Cuối cùng, quan đại tư mã Trần Ðại Liệu hẹn gặp tôi trên một chiếc thuyền. Nơi đó, ông ta sắp đặt buổi cơm chay để tiếp đãi tôi. Lúc đến đó, tôi được mời ngồi vào hàng ghế danh dự. Quan đại tư mã cười bảo: “Tại hạ biết Ðại Sư có tánh tự cao. Thế nên, hai ngày trước tại hạ cố tình làm như thế để giúp Ngài thành công trên đường đạo. Xin Ðại Sư miễn chấp”.

Chúng tôi ngồi trò chuyện thân mật. Tôi rất ngưỡng mộ ông ta và rất ngạc nhiên khi biết được rằng giữa các đại quan, vẫn có người tâm lượng rộng rãi, nhân từ hiền hậu như ông ta. Song, đối với người phạm nhân như tôi, thủ hạ của ông ta rất khinh rẻ. Biết được việc này, ông ta trách phạt và bảo họ phải xin lỗi tôi. Từ đó, họ không còn dám khinh khi tôi nữa. Sau khi đến Lôi Châu, tuy bị bổ nhập vào quân binh, nhưng tôi thường trú tại một ngôi cổ tự ở Tây Thành, và được tự do đi lại cùng chú giải bộ kinh Lăng Già. Lúc đó, tôi cũng viết rất nhiều bài thơ hoài niệm”.

Năm 1598, quan ngự giám Phàn Hữu Hiên, có liên hệ việc giảm tiền chi tiêu trong cung nội để dành tiền trùng tu lại chùa Báo Ân, nên bị đày tới Lôi Châu. Ðầu tiên, ông ta đến gặp Ngài tại Ngũ Dương. Khi ấy, Ngài đang thảo lại bản văn chú giải kinh Lăng Già. Lúc ông ta hỏi về phong cảnh của Lôi Dương như thế nào, Ngài liền đưa bản thảo chú giải kinh Lăng Già cho ông xem và bảo: “Ðây là phong cảnh của Lôi Dương.”

Xem xong, ông ta rất kinh ngạc và tán thán Ngài. Ông cũng gom góp tiền cúng dường để khắc bản chú giải này lên bản gỗ để ấn loát. Chu Hải Môn, trưởng quan thuế muối tại Quảng Ðông, thường tới lui hỏi han Phật pháp nơi Ngài. Vì trú tại Nam Thiều, nên ông ta thỉnh Ngài viết biên sử chùa Nam Hoa ở Tào Khê (Biên sử chùa Nam Hoa ở Tào Khê, nói rõ về lịch sử thành lập chùa, quy chế tự viện được các vị cao tăng lập ra, tên những vị pháp sư trú ngụ tại chùa để tu học trước và sau ngài Lục Tổ, cùng những việc liên hệ đến Phật pháp).

Khi ấy, có rất nhiều người tại Quảng Ðông không hiểu Phật pháp. Quan triều Châu Ðơn Thích, đang dạy huyền học Vương Dương Minh. Ông cũng thường dẫn các đệ tử đến thăm viếng và hỏi đạo nơi Ngài. Một đệ tử của ông tên là Long Sanh, khi nghe Ngài luận nghị, tâm rất kính phục. Trở về nhà, Long Sanh bảo bạn mình là Vương An Sanh và Phùng Xương Lịch: “Lời thuyết pháp của vị Thiền Sư từ miền Bắc xuống, thật là vi diệu.”

Nghe thế, Vương An Sanh và Phùng Xương Lịch đến cầu thỉnh vấn đạo nơi Ngài. Ðược Ngài chỉ dạy pháp hướng thượng, họ tin tưởng xác thật không nghi ngờ, nên phát khởi ý chí thiết tha tham tầm tu học. Hai cậu học trò này thật có phước đức. Số người quy y Tam Bảo ngày một tăng thêm. Từ đó, người biết đến Tam Bảo (Phật Pháp Tăng) tăng rất nhiều. Thế nên, sự giáo hóa của Phật pháp lan tràn khắp nơi. Ba cậu học sinh cống hiến sức lực rất nhiều trong việc giúp đỡ Ngài truyền bá Phật pháp. Khi xưa, Thiền Sư Ðạt Quán có nguyện rằng sẽ tụng kinh Pháp Hoa một trăm lần để cầu chư Phật gia bị cho Ngài mau sớm thoát cảnh khổ tù đày. Mùa Hè năm đó, để đền đáp ân nghĩa của Thiền Sư Ðạt Quán, Ngài cho xây một Thiền đường bên trong thành. Ngài mặc khăn đóng trong khi giảng kinh thuyết pháp giống như Thiền Sư Ðại Huệ thuở xưa (Lúc xưa, ở Tàu, dân thường mặc khăn đóng, nhưng tăng sĩ thì không. Thiền Sư Ðại Huệ và ngài Hám Sơn mặc khăn đóng vì không muốn tăng đoàn bị mang tai tiếng do lỗi lầm của cá nhân mình).

Ðể tụng kinh cùng giảng thuyết kinh Pháp Hoa, Ngài nhóm họp những đệ tử xuất gia tại chùa Pháp Tánh dưới cội cây Bồ Ðề như Thông Ngạn, Siêu Dật, Thông Quýnh v.v…tổng cộng hơn một chục người. Khi giảng đến phẩm Hiện Bảo Tháp, Ngài chợt liễu ngộ ý của đức Phật. Nơi cõi Ta Bà, Ngài thấy trước mặt mình là cõi Tịnh Ðộ của chư Phật. Sau đó, Ngài viết bài chú giải Pháp Hoa Kích Tiết (bài chú giải tán thán kinh Pháp Hoa.)

Ðinh Hữu Võ tánh tình rất nóng nảy, nhưng rất khẳng khái. Ông biết cung kính chư Tăng, nhưng không hiểu Phật pháp. Khi tiễn đưa ông ta ra bến tàu để trở về quê quán, Ngài véo ông ta một cái khiến cho ông ta chợt đại ngộ. Sau đó, Ngài đặt pháp danh cho ông ta là cư sĩ Giác Phi. Ngài cũng viết kệ “Trừng Tâm Minh” để thức tỉnh ông ta trong mọi trường hợp:

“Chân tánh thậm thâm
Như nước lắng trong
Nếu bị ái dục động
Sóng phiền não khởi
Khởi rồi không ngưng
Tự tánh vẫn đục;
Phiền não vô minh
Lại tăng bất giác
Dùng ngã buộc người
Như bùn trong nước
Dùng người động mình
Như mỡ thêm lửa
Người loạn ta chân
Loạn thật ngã sanh
Nếu không sanh ngã
Kiếp hỏa thành băng
Thế nên người trí
Phải không ngã tướng
Nếu không ngã tướng
Chướng kia sao sanh
Công phu bỏ ngã
Phải nên kiên nhẫn
Tập khí vừa phát
Phải mau tỉnh giác
Nơi tỉnh tức giác
Một niệm hồi quang
Quét sạch dấu vết
Lập tức mát trong
Mát trong tịch tĩnh
Thản nhiên độc lập
Ðiềm đạm di thần
Vật không đối địch.”

Vì phải thay đổi để thích hợp môi trường mới, Ngài bắt buộc phải viết thi kệ để diễn đạt cảm giác nội tâm. Ngài phân chia sự khác biệt giữa kệ tụng trong kinh Phật và thơ kệ (tức thơ kệ viết những việc thế sự). Trong lời giới thiệu về quyển “Mộng Du Thi Tập”, Ngài bảo rằng nhận thấy theo truyền thống, thi kệ được viết với những ngôn từ mỹ miều, diễn đạt cảm tưởng dồi dào, không phải là phương tiện chân chánh để miêu tả chân lý nhà Phật. Song, Ngài biện hộ thi kệ của mình mới thật bộc lộ tư tưởng của nhà Phật; cuộc đời trôi nổi lang thang như giấc mộng dài.

Công nghiệp hoằng pháp của Ngài cũng ảnh hưởng lớn đến quần chúng địa phương. Giết hại sanh vật để cúng tế tổ tiên là truyền thống xưa nay của người Tàu. Tại Quảng Ðông, phong tục này lại càng được thạnh hành. Mỗi năm vào dịp lễ Trung Nguyên tức ngày Rằm tháng Bảy âm lịch, tại các đạo tràng Phật giáo, tăng sĩ thường tổ chức những buổi lễ cầu siêu độ cô hồn tử sĩ, tụng đọc kinh điển cùng làm lễ phóng sanh. Khi ấy, Phật tử thường đến chùa cúng dường Tam Bảo. Tuy nhiên, đối với dân dã vào những ngày này, họ thường giết heo, bò, gia súc để cúng tế ông bà, cô hồn uổng tử.

Hầu mong chuyển đổi phong tục tập quán xấu xa, Ngài thiết hội lễ Vu Lan Bồn để cầu siêu độ cho vong linh quá cố cùng ngạ quỷ đói khát. Trong những dịp đó, Ngài cũng khai đường giảng ‘Hiếu Thuật Sao’ để khuyến khích dân chúng giữ trai giới, phóng thả súc sanh hầu mong cầu siêu độ tổ tiên, và chỉ cúng đồ chay cho tổ tiên ông bà. Ngài lại thuyết giảng về hiếu hạnh, mạnh mẽ cổ động Phật tử cúng dường trai tăng. Người nghe theo lời khuyên của Ngài rất nhiều. Từ đó, trong những dịp tang chế, sinh nhật cha mẹ, lễ cầu tiêu tai hoạn nạn, lễ sám hối, hay lễ phóng sanh, đều đưọc thiết đãi bằng đồ chay và động vật cũng được phóng sanh. Chẳng bao lâu, hội phóng sanh được thành lập rất nhiều nơi. Các hội đoàn này trợ giúp Ngài rất nhiều trong việc chuyển hóa quần chúng quy y Phật pháp.

Theo truyền thống, tại các tự viện thường có đào ao thả cá phóng sanh. Tăng sĩ hay cư sĩ thường mang chim chóc ra đồng vắng hay lên núi cao để thả. Ðại sư Liên Trì, sống cùng thời với ngài Hám Sơn, là nhân vật quan trọng trong việc cổ động truyền thống phóng sanh.

Mặc dầu không còn mặc y ca sa, năm năm mươi bốn tuổi Ngài vẫn tiếp tục giảng kinh, viết chú giải. Vừa khi đến Lôi Châu, việc khắc bản gỗ quyển Lăng Già Bút Ký được hoàn tất. Nhân dịp đó, Ngài giảng bộ kinh Lăng Già cho các đệ tử nghe. Một trăm bộ Lăng Già Bút Ký được ấn tống và gởi đi đến các tự viện nổi tiếng cùng các đại quan triều đình, hộ pháp, nhằm chứng minh rằng tuy bị hoạn nạn, Ngài vẫn không quên làm việc Phật sự. Trong trường hợp Ngài mất đi mà không ai hay biết, quyển chú giải kinh Lăng Già này sẽ tiết lộ mục đích tu hành của Ngài. Tuy vậy, vẫn có người không tin mà lại hủy báng Ngài.

Vào tháng năm, quan đại tư mã Trần Chế Phủ đi kinh lý, đến trấn phủ. Vừa bước xuống xe, chưa kịp gặp mặt quan địa phương thì ngã lăn ra chết. Ngài bảo môn hạ của ông ta làm một trăm món thức ăn chay để làm lễ tang chế. Từ đó, ai ai cũng biết cúng chay rất là quan trọng trong những dịp tang lễ.

Quan nhân ở Huệ Châu, Dương Thiếu Tể, xưa vốn là bạn hữu thân thiết của Ngài, đã trở về quê quán để tang cha mẹ. Trong mùa Thu, khi Ngài đến viếng thăm thì ông ta đã qua đời trước đó. Sáng hôm sau, vừa định trở về núi, thì nghe tin linh cữu của ông ta được mang đến thị trấn. Ngài liền đến nơi làm tang lễ và tặng một chiếc hòm cho ông ta (Trước khi mất, ông ta chẳng để lại đồng nào.)

Quan quản đốc họ Nhậm đưa Ngài đến Huệ Dương và thỉnh Ngài đến Tây Hồ. Ngài cùng ông ta leo lên Bạch Hạc Quán, nơi Tô Ðông Pha thuở xưa đã từng trú ngụ. Ngài rất khâm phục Tô Ðông Pha, một đại thi hào triều Tống và là một Phật tử có kiến thức Phật pháp thâm sâu. Ðối với tâm tánh và vận mạng, Ngài và Tô Ðông Pha rất tương hợp. Hai vị đều có biệt tài, được thái hậu ban đặc ân, nhưng cũng bị triều đình bắt tội mà giải vào Nam.

Khi trở về, Ngài không tiếp khách và tự biệt lập tu hành Thiền Ðịnh.

Năm 1600, toàn trấn bị chấn động vì sự hiện diện của quan thâu thuế. Lại nữa, sự quấy nhiễu của hải tặc Nhật khiến nhân tâm đều lo âu sợ hãi. Ngài bảo các đệ tử phải tản mát đi nơi khác, còn Ngài và Phước Thiện ẩn cư bế quan. Song, chẳng bao lâu dân chúng hai tỉnh Quảng Ðông và Phúc Kiến vì gạo lúa mà phát sanh quấy loạn, đến bao vây doanh phủ của đại tướng quân. Vì lời yêu cầu của đại tướng quân mà Ngài bất đắc dĩ phải xuống núi giải cứu.

Tỉnh Quảng Ðông sản xuất lúa gạo thơm ngon. Người Phúc Kiến thường dùng tàu bè vận chuyển lúa gạo. Vì vậy, người Quảng Ðông sợ giá lúa gạo sẽ tăng, nên rất căm hận người Phúc Kiến. Do đó thường có sự xung đột giữa người Quảng Ðông và Phúc Kiến. Vào năm đó, vị đại tướng quân có quan hệ mật thiết với Ngài chuẩn bị từ quan về hưu. Vị tân đại tướng quân lại là người Phúc Kiến. Công tử con của ông cựu đại tướng quân có mấy chiếc tàu mới. Người địa phương thấy vậy hoài nghi rằng ông cựu đại tướng quân cùng tân đại tướng câu thông chở lúa gạo. Quan thuế do vua Thần Tông phái đến, lợi dụng lúc ông cựu đại tướng quân sắp về hưu, định soán đoạt quyền lực của ông tân đại tướng quân, nên cố ý đưa tin bảo rằng tân đại tướng quân đem rất nhiều lúa gạo tặng cho con ông cựu đại tướng quân. Dân chúng địa phương bèn tụ tập cả hàng ngàn người, lấy gạch ngói ném các chiếc tàu của công tử con của cựu đại tuớng quân. Thấy việc này chưa đủ, ông quan thuế lại bảo quần chúng: “Việc này đều do tân đại tướng quân làm dấy động. Vậy mọi người hãy đến tìm cựu đại tướng quân thì mới được giải đáp thoả đáng.”

Vì thế, dân chúng cầm binh khí như côn, quyền đao v.v… đến vây và tấn công doanh phủ. Tân đại tướng quân là người khiêm hòa. Lúc đó ba ty huyện phủ quan sử đều đến Ðoan Châu dự lễ. Ðại tướng quân tuy có binh mã, nhưng không thể điều động, nên đành thúc thủ. Trong cơn hiểm nạn đó, có một ông lính nghĩ đến ngài Hám Sơn. Thật ra, lúc đó họ chỉ muốn dùng ngựa chết để cứu ngựa sống. Trong vùng đó, danh tánh của Ngài ảnh hưởng quần chúng rất lớn, nên tân đại tướng quân tin tưởng lời nói của Ngài đối với dân chúng rất có tác dụng, nên cho ông lính kia đi mời Ngài đến để cứu nạn. Ông lính đó liền giả dạng thường dân, xuất thành để tìm Ngài. Ðến nơi, ông ta bảo: “Ðại tướng quân có nạn. Hy vọng Ðại Sư mau chóng qua doanh phủ để cứu trợ.”

Thấy Ngài không phản ứng gì, ông lại nói: “Ðại Sư! Hiện nay có hàng ngàn dân chúng đang vây quanh doanh phủ. Thủ hạ binh mã của đại tướng quân tuy nhiều, nhưng ba ty quan sử đều ra ngoài tỉnh, nên không cách nào điều động được. Tình hình hiện tại thật rất nguy kịch.” Song, thấy việc xuất đầu lộ diện trong vụ này thật rất vô lý, nên Ngài khước từ, bảo: “Tôi chỉ là người tầm thường, không có thần thông huyễn thuật thì làm sao giải được nạn đó?”

Ông lính nói: “Nếu Ðại Sư không nghĩ đến tình riêng với đại tướng quân thì cũng được, nhưng còn sanh linh bá tánh trong vùng thì sao? Nếu họ xung đột lẫn nhau, tức song phương phải bị tử thương. Ðại Sư nhẫn tâm ngồi nhìn được sao?”

Vì thân phận bị tù đày, nên Ngài không muốn dính vào những chuyện thị phi. Nhưng vì tánh mạng của hàng ngàn người dân, Ngài không thể từ chối, nên đành lòng ra thất. Ngài tự một mình đi đến gặp loạn dân để chiêu an. Lúc đến gặp họ, Ngài nói to: “Quý vị tạo náo loạn để mong giảm giá gạo, nhưng thật ra đã vi phạm luật triều đình, nên tự chiêu lấy tội chết. Nếu chết rồi thì việc giảm giá gạo có ích lợi gì?” Dân chúng ô hợp nghe lời của Ngài rất có lý, nên giật mình sợ hãi mà tự động giải tán. Dinh phủ không còn bị bao vây. Cuộc sống trở lại bình thường. Các trưởng lão trong thị trấn rất cảm kích Ngài. Danh tánh của Ngài từ đó lại càng vang xa. Ngài dự biết từ đây về sau sẽ không còn tu hành an ổn. Thật vậy, sau này có rất nhiều quan lại đến thăm viếng Ngài.

Ðang dự tiệc tại Tuyền Châu, ba vị quan phủ nghe việc dân chúng nổi loạn, liền trở về Quảng Ðông ngay lập tức. Khi về đến, thị trấn yên ổn như bình thường, nhưng họ biết được là nhờ Ngài mà quần chúng mới chịu giải tán. Quan sử họ Nhâm nghe tin nên viết thư cho Ngài, bảo: “Nếu Ngài không xuống núi thì vùng này sẽ xảy ra chuyện gì? Nay đã xuống núi thì việc gì sẽ xảy ra đến với Ngài?”

Vào tháng Bảy, nhân dịp quan sử Chúc Tinh Tồn ở Nam Thiều mời đến Tào Khê, Ngài thừa dịp này mà vào núi hầu Lục Tổ (Ngài thích đến thánh địa để tu hành như đã dự định khi trước, còn hơn ở lại thị trấn náo động). Trước khi đi, Ðái Diệu, tân thống đốc của Quảng Ðông, biết Ngài có công trong việc trấn an loạn dân, nên muốn gặp mặt Ngài. Ông ra lịnh cho viên đại tướng người Phước Kiến, dẫn Ngài đến gặp mặt. Lúc đến, Ngài được ông tiếp đãi buổi cơm chay thân mật. Ðược biết Ngài sẽ trở về Tào Khê, ông ta hứa rằng sẽ hết lòng hộ pháp. Nếu Ngài cần chi, ông ta sẽ giúp đỡ. Việc này khiến Ngài được an tâm đôi phần.

Pages: 1 2 3