DƯỢC SƯ NHƯ LAI QUÁN HẠNH NGHI QUỸ PHÁP
KINH SỐ 923
Hán dịch: Nước Nam Thiên Trúc_ Tam Tạng THIỆN VÔ ÚY
Sưu tập Thủ Ấn, phục hồi Phạn Chú và Việt dịch: HUYỀN THANH
Trước tiên lễ 3 lễ. Tiếp đến : Sám Hối, Thọ Giới Bồ Đề Tâm. Sau đó niệm Chân Ngôn Thừa Sự 7 biến.
Tiếp Lễ Phật, Kết Giới, Thỉnh Đại Luân Kim Cương rồi cúi lạy Thỉnh Kệ :
“Cúi lạy THÙ KẾ, ĐẠI HOA XỈ
LỰC SĨ MẬT TÍCH, ĐẠI LUÂN VƯƠNG
Ô SÔ SA MA, BẤT ĐỘNG TÔN
HỎA ĐẦU, KẾT GIỚI QUÂN TRÀ LỢI
Hoặc giận hoặc cười tác phẫn nộ
Dời núi thay biển trong chớp mắt
Giáng phục chúng La Sát tâm ác
Nghe nói Chân Ngôn đều sợ hãi
Tồi hoại mười ác , độ hàm linh
Vào biển Công Đức của Như Lai
Vì hộ đệ tử, người trì tụng
Phát Tâm tác thỉnh ứng thanh âm
Nguyện Đại Kim Cương, Chúng thanh tịnh
Cầm chày Kim Cương tự hộ thân
Nơi Đạo Trường này, chốn lễ niệm
Vây khắp chung quanh để kết Giới”
Tiếp kết Đại Luân Ấn. Hai tay cùng cài chéo nhau bên trong, đưa 2 ngón cái vào trong lòng bàn tay.
Nâng Ấn đội trên đỉnh đầu. Gác ống chân trái bên trên bắp chân phải. Tụng 21 biến rồi hướng xuống bên dưới buông Ấn
- ) Nam mô tất chí-ly gia trụy ca nam
- ) Đá đà yết đà nam
- ) Án, tỳ la thời, tỳ la thời
- ) Ma ha chước ca la bạt chiết lý
- ) Tát đa, tát đa
- ) Sa la đế, sa la đế
- ) Đát la duệ, đát la duệ
- ) Tỳ đà ma nễ
- ) Tam bát thệ nễ
- ) Đát la ma để
- ) Tất đà a lị đát lâu diễm
- ) Sa ha
Tụng Đà La Ni này 21 biến liền vào tất cả Man Trà La (Đây là Đàn)
Tiếp nên suy tư quán sát Bản Tính của tất cả hữu tình đều thanh tịnh, chỉ vì bụi trần che phủ nên chẳng ngộ Chân Như. Vì thế cho nên nói Tam Mật Gia trì khiến cho Ta Người đều được thanh tĩnh. Liền chắp tay Hoa Sen, tụng Tĩnh Tam Nghiệp Chân Ngôn 3 biến.
Chân Ngôn là :
“Án, sa-phộc bà phộc, truật đà, tát phộc đạt ma sa-phộc bà phộc, truật độ hám”
Tiếp vào trong Đường (nhà thất…). Lại nữa, nếu muốn vào trong thất của Bản Tôn. Trước tiên quán dung mạo của Bản Tôn, chắp 10 ngón tay rồi cúi đầu. Mỗi khi vào Đạo Trường thì đối diện với Bản Tôn, chỉnh thân ngay ngắn, đứng thẳng chắp tay Hoa Sen, nhắm mắt vận Tâm tưởng đang ở Thế Giới (tên là….) đối diện Đức Như Lai (tên là….) với các Bồ Tát quyến thuộc. Liền cúi 5 vóc sát đất, tưởng cung kính làm lễ trước mỗi một vị Phật Bồ Tát. Phổ Lễ Chân Ngôn là :
“Án, tát phộc đát tha nghiệt đa, bá na mãn na nẵng ca lỗ nhĩ”
Tiếp liền tùy tác Pháp, xưng Hồng Danh của chư Phật
Tiếp quỳ gối phải sát đất, chắp tay để ngang trái tim, chân thành bày tỏ sám hối tất cả tội chướng từ vô thủy đến nay. Lại Tùy Hỷ với sự tu hành phước nghiệp của tất cả hữu tình, Duyên Giác, Thanh Văn, Bồ Tát, Chư Phật. Lại quán hết thảy các Đấng Như Lai thành Đẳng Chính Giác ở khắp mười phương Thế Giới, thỉnh xin các Ngài hãy chuyển bánh xe Pháp. Đối với hết thảy các Đấng Như Lai hiện nhập Niết Bàn thì cầu thỉnh các Ngài hãy trụ lâu dài ở Thế Gian đừng vội vào Bát Niết Bàn.
Lại phát nguyện là: “Con đã gom chứa căn lành qua sự : Lễ Phật, Sám Hối, Khuyến Thỉnh, Tùy Hỷ. Con xin đem Phước đã gom tụ được Hồi Hướng cho tất cả hữu tình, nguyện khiến cho hết thảy đều được vào Mật Tạng của Ba Đức”
_ Tiếp là Văn Sám Hối :
“Quy mệnh Mười phương Chính Đẳng Giác
Diệu Pháp tối thắng, Chúng Bồ Đề
Dùng nghiệp thanh tịnh thân khẩu ý
An cần chắp tay cung kính lễ
Vô thủy luân hồi trong các cõi
Nghiệp thân khẩu ý phát sinh tội
Như Phật Bồ Tát đã sám hối
Nay con trần sám cũng như vậy”
_ Tiếp là Văn Tùy Hỷ :
“Nay con phát tâm hoan hỷ sâu
Tùy hỷ tất cả nhóm Phước Trí
Trong hạnh nguyện chư Phật Bồ Tát
Ba nghiệp Kim Cương, nơi sinh phước
Duyên Giác, Thanh Văn với hữu tình
Có bao căn lành tùy hỷ hết”
_ Tiếp là Văn Khuyến Thỉnh :
“Tất cả Thế Đăng ngồi Đạo Trường
Hé mở mắt Giác chiếu Ba cõi ( Tam Hữu )
Nay con quỳ gối xin khuyến thỉnh
Chuyển bánh xe Diệu Pháp vô thượng
Hết thảy Như Lai, chủ Tam Giới
Đấng vào Vô Dư Bát Niết Bàn
Con đều khuyến thỉnh xin trụ lâu
Chẳng bỏ Bi Nguyện cứu Thế Gian”
_ Tiếp là Nguyện Tán Hồi Hướng :
“Phước : Sám hối, tùy hỷ, khuyến thỉnh
Nguyện con chẳng mất Tâm Bồ Đề
Trong Diệu chúng Bồ Tát của Phật
Thường làm bạn lành chẳng chán bỏ
Xa lià tám nạn sinh không nạn
Túc mệnh túc Trí trang nghiêm thân
Mau lìa ngu mê đủ Bi Trí
Đều hay mãn túc Ba La Mật
Giàu có an vui sinh Thắng Tộc
Quyến thuộc đông đầu luôn lớn mạnh
Bốn Vô Ngại Biện, mười Tự Tại
Sáu Thông, các Thiền đều viên mãn
Như Kim Cương Tràng với Phổ Hiền
Nguyện tán hồi hướng cũng như vậy”
_ Tiếp là Tam Muội phát phần.
Thoạt đầu là Phật Bộ Tam Muội Gia, tiếp liền ngồi Kiết Già hoặc ngồi Bán Già với chân phải đè chân trái, dùng hương xoa bàn tay, kết Phật Bộ Tam Muội Gia : Chắp 2 tay lại giữa rỗng, mở 2 ngón trỏ rồi hơi co lại đều phụ ở lóng trên của ngón giữa, lại mở 2 ngón cái đều vịn lằn thứ nhất bên dưới ngón trỏ.
Kết thành Ấn xong, tưởng Đức Phật (tên là….) với 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp cho rõ ràng. Liền tụng Phật Bộ Tam Muội Gia Chân Ngôn là :
“Án, đát tha nga đô nạp bà phộc gia, sa phộc hạ”
Tụng 3 biến hoặc 7 biến, an Ấn trên đỉnh đầu rồi buông Ấn. Do kết Ấn này và tụng Chân Ngôn sẽ cảnh giác tất cả Thánh Chúng của Phật Bộ đều gia trì hộ niệm cho người tu Chân Ngôn mau khiến cho đắc được Thân Nghiệp thanh tịnh, tiêu diệt tội chướng, tăng trưởng Phước Tuệ.
_ Tiếp kết Liên Hoa Bộ Tam Muội Gia Ấn : Chắp 2 tay lại giữa rỗng sao cho 2 ngón cái, 2 ngón út cùng dính đầu ngón, hơi co các ngón còn lại như hình Hoa Sen hé nở, liền thành Ấn này.
Kết Ấn xong, tưởng Đức Quán Tự Tại Bồ Tát với tướng tốt trang nghiêm, có vô lượng câu chi quyến thuộc Liên Hoa Tộc vây quanh. Liền tụng Liên Hoa Bộ Tam Muội
Gia là :
“Án, bả ná-mô nạp bà phộc gia, sa-phộc hạ”
Tụng 3 hoặc 7 biến, an Ấn bên phải đỉnh đầu rồi buông tán. Do kết Ấn này và tụng Chân Ngôn sẽ cảnh giác Quán Tự Tại Bồ Tát với Thánh Chúng của Liên Hoa Bộ đều đến gia trì cho hành giả đắc được Ngữ Nghiệp thanh tịnh, ngôn âm uy nghiêm khiến cho người thích nghe, được biện tài vô ngại, thuyết pháp được tự tại.
_ Tiếp kết Kim Cương Bộ Tam Muội Gia Ấn: úp tay trái, ngửa tay phải sao cho 2 lưng bàn tay dính nhau, đem ngón cái phải giao với ngón út trái, ngón út phải giao với ngón cái trái, 6 ngón còn lại chạm dính cổ tay như hình cái chày Tam Cổ liền thành.
Kết Ấn để ngay trái tim, tưởng Kim Cương Tạng Bồ Tát với tướng tốt tỏa uy quang, có vô lượng Chấp Kim Cương quyến thuộc vây quanh. Liền tụng Kim Cương Bộ Tam Muội Gia Chân Ngôn là :
“Án, phộc-nhật la nạp-bà phộc gia, sa-phộc hạ”
Tụng 3 biến hoặc 7 biến gia trì, đặt Ấn bên trái đỉnh đầu rồi buông tán. Do kết Ấn này và tụng Chân Ngôn sẽ cảnh giác Kim Cương Tạng Bồ Tát với Thánh Chúng của Kim Cương Bộ đều đến gia trì cho hành giả đắc được Ý Nghiệp thanh tịnh, chứng Bồ Đề Tâm Tam Muội, đời này mau được giải thoát.
_ Tiếp đến Quân Trà Lợi Hương Lô Pháp Ấn Chú (Tụng Tiểu Tâm Chú đủ 21 biến, sau đó đốt hương thì tất cả hoan hỷ)
_ Tiếp đến Quân Trà Lợi Hương Thủy Pháp Ấn Chú (Nếu dùng tạp hoa và bột hương thì tác Ấn này, chú vào nước rồi đặt trước mặt Tượng Phật ắt tất cả hoan hỷ)
_Tiếp bưng lò hương khải bạch với 7 Vị Phật Như Lai thuộc phương Đông, tất cả chư Phật ở 10 phương, 8 Đại, 8 Cúng, 4 Nhiếp Bồ Tát, Nhật Quang, Nguyệt Quang, các Đại Bồ Tát, tất cả Bồ Tát, tất cả Kim Cương, các hàng: Trời, Rồng, Thần; 12 vị Thần Tướng đều có 7 ngàn các Dược Xoa Thần với tất cả hàng Thần trong các nghiệp đạo đều chứng biết.
“Nay con cầu thỉnh. Đất này là địa phương của con. Con ở đất này kiến lập Pháp Môn Đạo Trường Man Trà La của Đức Phật (tên là….) trong 7 ngày 7 đêm. Xin các vị Đại Bồ Tát, tất cả Kim Cương, các hàng Thiên Thần cùng với quyến thuộc hãy chứng cho thành tựu. Con muốn làm Pháp Sự, hộ thân, kết giới ngay tại địa phương này. Đông, Tây, Nam, Bắc, 4 phương bàng, phương trên, phương dưới có bao nhiêu hàng Quỷ Thần ác, Tỳ Na Dạ Ca phá hoại Phật Pháp đều mau ra khỏi bên ngoài chỗ này 7 dặm.Nếu là hàng Quỷ Thần ủng hộ Phật Pháp, làm việc lợi ích cho Phật Pháp thì xin hãy an trú nơi đây” (bạch 3 lần hoặc 7 lần)
_ Hộ Thân Pháp Ấn Chú. Tiếp kết Kim Cương Bị Giáp Trụ Hộ Thân Ấn: 2 ngón út, 2 ngón vô danh cài chéo nhau bên trong (bên phải đè bên trái). Dựng thẳng đứng 2 ngón giữa sao cho đầu ngón dính nhau. Co 2 ngón trỏ như hình móc câu phụ trên lưng 2 ngón giữa sao cho đừng chạm dính. Kèm song song 2 ngón cái vịn ngón vô danh liền thành.
Kết Ấn để ngang trái tim , tụng Chân Ngôn rồi ấn vào 5 nơi trên thân, mỗi một nơi đều tụng một biến. Trước tiên ấn trên trán, tiếp ấn vai phải, tiếp ấn vai trái, tiếp ấn trái tim, tiếp ấn cổ họng. Đấy là 5 nơi. Liền khởi Tâm Đại Từ duyên khắp tất cả hữu tình, nguyện đều mặc giáp trụ trang nghiêm của Đại Từ Bi, mau khiến cho xa lìa các chướng nạn, chứng được sự thành tựu thù thắng của Thế Gian và Xuất Thế Gian. Quán như vậy xong liền thành Bị Giáp Kim Cương, tất cả chúng Ma chẳng dám gây chướng nạn.
Chân Ngôn là:
“Án, phộc-nhật la nghĩ nễ bát-la niệm bả-đá dã, sa-phộc hạ”
Do kết Ấn này, tụng Chân Ngôn. Vì lực thương xót của Tâm Từ mà tất cả Thiên Ma với các loài gây chướng đều thấy Hành Giả tỏa uy quang rực rỡ như mặt trời nên thảy đều khởi Tâm hiền lành chẳng dám gây chướng ngại, kể cả những người ác cũng không có dịp hãm hại. Mọi sự phiền não, nghiệp chướng chẳng dính vào thân, đời sau được xa lìa các bệnh khổ trong nẻo ác, mau chứng Vô Thượng Bồ Đề.
_ Tiếp cầu thỉnh gia hộ ( bưng lò hương ) :
“Nay con ( họ tên….) khải bạch với tất cả chư Phật, tất cả Bát Nhã Ba La Mật, tất cả các vị Đại Bồ Tát, tất cả Quán Tự Tại Bồ Tát, tất cả kim Cương Tạng Bồ Tát, tất cả 8 Bộ Trời Rồng, các hàng Thiện Thần Vương Hộ Pháp với chư vị Hộ Pháp ở khắp mười phương. Con là Tỳ Khưu (tên là…..) vì tác trụ trì Phật Sự mà làm việc ấy. Thỉnh cầu chư vị gia hộ cho thành tựu như ý” (Kết Giới: thoạt tiên gia hộ từ góc Đông Bắc rồi xoay vòng theo bên phải).
Tiếp đến Quân Trà Lợi Tịch Trừ Tỳ Na dạ Ca Pháp Ấn Chú (21 biến)
Tiếp đến Tĩnh Địa Đà La Ni: dùng Nhất Thiết Sự Chân Ngôn và Quân Trà Lợi Đại Tâm Chú, tụng 7 biến rồi rải lên Địa Phương Giới sẽ hay trừ các cấu uế mà được thanh tĩnh. Nhất Thiết Sự Chân Ngôn là :
“Án, cự lỗ đà nẵng, hổ-hồng nhạ”
_Tiếp Mã Đầu Hộ Thân Kết Pháp Giới Ấn Chú: 2 tay từ ngón giữa trở xuống đem các ngón ấy (giữa, vô danh, út) hướng ra ngoài cài chéo nhau rồi chắp 2 tay lại sao cho các ngón dính vào lưng bàn tay, dựng thẳng 2 ngón trỏ để cách nhau chừng 5 phân, kèm 2 ngón cái dính nhau cùng co lóng thứ nhất sao cho đừng chạm vào ngón trỏ rồi đưa đầu ngón qua lại.
Chú là :
“Án, bát la tỳ ca tất đá bạt chiết la bộ-phiệt la la chi, sa ha”
(Pháp Ấn Chú ấy. Nếu muốn thọ trì Pháp của Bồ Tát này, trước tiên dùng Pháp Ấn này tụng Chú để tự hộ thân xong lại chú vào gỗ 7 biến hoặc chú vào nước 7 biến, tiếp dùng Ấn ấn vào nước, hoặc chú vào hạt cải trắng hoặc chú vào tro… mỗi mỗi đều dùng Ấn Chú đủ 7 biến. Tiếp theo đem cây gỗ cắm thẳng ở 4 góc làm Giới rồi đem hạt cải trắng, tro, nước rải khắp 10 phương đều thành Kết Giới. Sau đó làm các Pháp Sự này ắt sẽ ưng nghiệm)
_ Tiếp Quân Trà Lợi Kim Cương Nhất Tự Giáng Ma Vương Ấn Chú
_ Tiếp kết Địa Giới Kim Cương Phàn (hàng rào) Ấn: trước tiên đem ngón phải giữa để vào khoảng giữa ngón trỏ và ngón giữa của tay trái. Đem ngón vô danh phải để vào khoảng giữa ngón vô danh và ngón út của tay trái sao cho ló đầu ngón. Đem ngón giữa trái che trên lưng ngón giữa phải sao cho đầu ngón ở giữa ngón giữa và ngón trỏ của tay phải. Đem ngón vô danh trái che trên ngón vô danh phải sao cho đầu ngón ở giữa ngón vô danh và ngón út của tay phải. 2 ngón trỏ, 2 ngón út đều dính đầu ngón. Hạ 2 ngón cái xuống vịn nhau liền thành.
Kết Ấn này xong, tưởng Ấn như hình cái chày Kim Cương, đem 2 ngón cái hướng xuống chạm vào mặt đát. Tụng Chân Ngôn một biến thì Ấn một lần xuống đất, như vậy đến 3 lần liền thành Toà Kim Cương kiên cố. Địa Giới Chân Ngôn là :
“Án, chỉ lý chỉ lý, phộc nhật la, phộc-nhật lị, bộ-la , mãn đà mãn đà, hồng phát tra”
Do kết Ấn, tụng Chân Ngôn gia trì thì bên giới cho đến bờ mé Kim Cương Luân đều thành giới bất hoại của Kim Cương. Các Ma có sức mạnh cũng chẳng dám phiêu động, chỉ dùng chút ít sức Công Đức cũng thành tựu Đại Hộ. Trong đất có bao nhiêu vật uế ác, do lực gia trì cho nên chúng đều được thanh tịnh. Giới đò tùy theo Tâm lớn nhỏ liền thành.
_Tiếp kết Kim Cương Tường Ấn: Dựa theo Địa Giới Ấn lúc trước, mở chưởng tách thẳng 2 ngón cái như hình bức tường liền thành.
Tưởng từ Ấn tuôn ra ánh lửa cháy bùng. Đem Ấn xoay quanh theo bên phải 3 vòng, xưng Địa Giới lúc trước liến thành tường giới kiên cố của Kim Cương. Chân Ngôn là :
“Án, tát la tát la, phộc-nhật la, bát-la ca la, hồng phát tra”
Do kết Ấn tụng Chân Ngôn kèm với lực Quán Hạnh cho nên tùy theo Tâm lớn nhỏ liền thành Kim Cương Quang Diễm Phương Ngung Tường Giới.Các Ma, người ác, cọp, sói, sư tử, các loài trùng độc chẳng dám đến gần.
_Tiếp kết Quân Trà Lợi Đại Hộ Thân Ấn, trấn ở 4 phương và trấn ở 4 cửa thì tác Pháp đều thành.
Tiếp Quân Trà Lợi Đại Sân Pháp Thân Ấn
Tiếp Quân Trà Lợi Đại Giáng Ma Pháp Thân Ấn
Tiếp Quân Trà Lợi Tam Nhãn Đại Pháp Thân Ấn
Tiếp kết Đại Hư Không Tạng Bồ Tát Ấn: Chắp 2 tay lại, 2 ngón giữa cài chéo nhau bên ngoài, bên phải đè bên trái, đều dính trên lưng bàn tay. 2 ngón trỏ dính nhau như hình Báu liền thành.
Tưởng từ Ấn tuôn ra vô lượng các vật cúng dường, quần áo, thức ăn uống, cung điện, lầu gác…. Như Du Già diễn nói. Liền tụng Chân Ngôn là :
“Án, nga nga nẵng tam bà phộc, phộc-nhật la hộc”
Giả sử người tu hành chỉ có chút ít lực quán niệm thì do Ấn này với lực gia trì của Chân Ngôn mà các vật cúng dường đều thành chân thật , mỗi mỗi như người hành pháp cúng dường rộng lớn trong Thế Giới ( tên là…. ) .
_Tiếp ở trong Đàn tưởng có chữ Ngột-lý (猭:HRĪḤ) phóng tỏa ánh sánh lớn như màu pha lê hồng chiếu khắp 10 phương Thế Giới, chúng hữu tình ở trong các cõi đó gặp được ánh sáng này thì bao nhiêu tội chướng đều được tiêu diệt.
_Tiếp kết Như Lai Quyền Ấn: Đem 4 ngón của tay trái nắm thành quyền và dựng đứng ngón cái. Tay phải tác Kim Cương Quyền nắm móng của ngón cái trái liền thành.
Đem Ấn này ấn lên mặt đất, tụng Chân Ngôn gia trì 7 biến để biến Thế Giới ấy. Chân Ngôn là :
“Án, bộ khiếm”
Do kết Ấn này kèm với lực gia trì của Chân Ngôn liền biến ba ngàn Đại Thiên Thế Giới thành cõi (tên là….) có 7 báu tạo thành mặt đất, nước, chim chóc, rừng cây đều diễn Pháp Âm, vô lượng trang nghiêm như Kinh đã nói. Liền tụng Già Đà (Gāthā: Kệ Tụng) là:
“ Dùng lực công Đức Ta
Lực Như Lai gia trì
Cùng với lực Pháp Giới
Nguyện thành cõi an lạc “
Hành Giả do luôn luôn tập Định này thì đời này mỗi khi ở trong Định đều thấy Thế Giới (tên là….), Đức Như Lai (tên là….) được dự trong Chúng Hội của hàng Đại Bồ Tát nghe giảng vô lượng Khế Kinh. Khi chết thì tâm chẳng tán động, Tam Muội hiện trước mắt trong khoảng khắc mau chóng sinh về cõi ấy, được hóa sinh trong hoa sen, chứng địa vị Bồ Tát.
_Tiếp kết Bảo Xa Lộ Ấn: Ngửa 2 tay cài chéo nhau, bên phải đè bên trái, 2 cạnh ngón trỏ dính nhau, 2 ngón cái vịn dưới vằn lóng thứ nhất của 2 ngón trỏ liền thành.
Tống Xa Lạc Chân Ngôn là :
“Án, đổ lô đổ lô, hồng”
Kết Ấn này, tưởng thành chiếc xe được trang nghiêm bằng 7 báu đi qua Thế Giới (tên là….) thỉnh Đức Phật (tên là….) cùng với các Bồ Tát quyến thuộc ngồi lên chiếc xe này.
Chẳng buông Ấn này, đem 2 ngón cái hướng vào thân mình khêu bới 2 đầu ngón giữa . Liền tụng Thỉnh Xa Lộ Chân Ngôn là:
“Ná mô tất-đề-lý-gia địa vĩ ca nam, đát tha nghiệt đá nam. Án, phộc-nhật lãng nghĩ niệm ca la sái gia, sa-phộc hạ”
Liền tưởng chiếc xe đi đến Đạo Trường trụ trên hư không.
_ Tiếp kết Nghinh Thỉnh Thánh Chúng Ấn: Dược Sư Lưu Ly Quang Phật Ấn (Trước tiên quán tưởng an bày phương vị của Bản Tôn, thỉnh Tôn Tượng ấy rồi liền khởi thân dâng vật chứa nước Át Già ở trước mặt Tôn Tượng) Đem 8 ngón (2 trỏ, 2 giữa, 2 vô danh, 2 út) cài ngược nhau rồi co vào lòng bàn tay, bên phải đè bên trái, 2 cổ tay cách nhau khoảng 5 thốn, đưa 2 ngón cái qua lại.
Chú là:
“Án, hô lô hô lô, chiến đà lợi, ma đăng kỳ, sa ha”
Trước tiên đứng thẳng, chắp tay tùy theo Bản Phương khởi Tâm chí thành phụng thỉnh rồi khải thỉnh là: “Hôm nay con (tên là….) vì việc (tên là….) xin phụng thỉnh các Đấng: Thiện Danh Xưng Cát Tường Như Lai, Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Như Lai, Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu Như Lai, Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường Vương Như Lai, Pháp Hải Lôi Âm Như Lai, Pháp Hải Thắng Tuệ Du Hý Thần Thông Như Lai, Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai”
(Thành Tâm kính ngưỡng, lập lại 3 lần khải bạch Đấng Đại Từ Bi, thỉnh y theo Bản Nguyện giáng đến Đạo Trường)
_ Nhất Thiết Như Lai Tâm Tinh Tiến Ấn (Dùng thỉnh tất cả Như Lai, Kim Cương Bồ Tát, Đế Thích, Phạm Vương và chư Thiên) co 8 ngón tay hợp chặt trong lòng bàn tay, bên phải đè bên trái, rồi nắm lại thành quyền, duỗi ngang 2 ngón cái đè trên lóng giữa của ngón trỏ đừng để đầu ngón bị co. Ấn này, nếu sửa 2 đầu của 2ngón cái lên xuống qua lại thì gọi là Triệu Như Lai Chủng Tộc Ấn. Chú là :
“Ná mô tam mạn đả bột đà nam. Án, hồng nhĩ na chức”
Nhật Quang Bồ Tát, Nguyệt Quang Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Trừ Cái Chướng Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát, Kim Cương Quân Trà Lợi Bồ Tát, Nhất
Thiết Như Lai Câu Bồ Tát (Đông)
Nhất Thiết Như Lai Kim Cương Quyến Sách Bồ Tát (Nam)
Nhất Thiết Như Lai Câu Tỏa Đại Bồ Tát (Tây)
Nhất Thiết Như Lai Nhiếp Nhập Đại Bồ Tát (Bắc)
Nhất Thiết Như Lai Hỷ Ái Bảo Cúng Dường Bồ Tát (Đông Nam)
Nhất Thiết Như Lai Hỷ Ái Mật Cúng Dường Bồ Tát (Tây Nam)
Nhất Thiết Như Lai Ca Vịnh Cúng Dường Bồ Tát (Tây Bắc)
Nhất Thiết Như Lai Vũ Cúng Dường Bồ Tát (Đông Bắc)
Nhất Thiết Như Lai Hương Cúng Dường Bồ Tát (Đông Nam)
Nhất Thiết Như Lai Hoa Cúng Dường Bồ Tát (Tây Nam)
Nhất Thiết Như Lai Đăng Cúng Dường Bồ Tát (Tây Bắc)
Nhất Thiết Như Lai Đồ Hương Cúng Dường Bồ Tát (Đông Bắc)
_ Nhất Thiết Dược Xoa Pháp Ấn Chú: đem 4 ngón của tay phải hướng ra ngoài câu móc 4 ngón của tay trái. Dựng thẳng cứng 2 ngón cái rồi đưa qua lại.
Chú là :
“Án, câu tỳ la, sa ha”
PhÁP Ấn Chú này, nếu lúc tác Pháp Đàn của Đại Bộ thì tác Ấn Chú này kêu gọi chư vị vào Đàn nhận cúng dường ắt tất cả đều vui vẻ.
Cung Tỳ La Đại Tướng (Kumbhīra)
Phạt Chiết La Đại Tướng (Vajra)
Mê Xí La Đại Tướng (Mihira)
An Đề La Đại Tướng (Andira)
At nễ la Đại Tướng (Majira)
San Đề La Đại Tướng (Śandira) Nhân Đạt La Đại Tướng (Indra)
Ba Di La Đại Tướng (Pajra)
Ma Hổ La Đại Tướng (Makura)
Chân Đạt La Đại Tướng (Siṇḍura)
Chiêu Đổ La Đại Tướng (Catura)
Tỳ Yết La Đại Tướng (Vikarala)
Cầu Xin Như Lai, Thánh Chúng chẳng bỏ Bi Nguyện, khởi Tam Ma Địa này tạo thành Đạo Trường của Tịnh Thổ cùng với vô lượng câu chi Đại Bồ Tát nhận sự cúng dường của người tu hành và chứng minh Công Đức.
_ Tiếp kết Mã Đầu Quán Tự Tại Bồ Tát Ấn để tác Tịch Trừ kết Giới. Chắp 2 tay lại, co 2 ngón trỏ và 2 ngón vô danh vào lòng bàn tay sao cho dính lưng ngón, hơi co 2 ngón cái đừng để dính đầu ngón.
Chân Ngôn là :
“Án, a mật-lật đố nạp bà phộc, hồng phán tra, sa-phộc hạ”
Tụng 3 biến, liền đem Ấn chuyển bên trái 3 vòng trừ tất cả chư Ma khiến cho chúng tự lui tan. Đem Ấn chuyển bên phải 3 vòng liền thành Đại Kết Giới kiên cố
_ Tiếp Kim Cương Võng Ấn: Dựa theo Địa Giới Ấn lúc trước, đem 2 ngón cái vịn vằn thứ nhất bên dưới 2 ngón trỏ liền thành.
Tụng Chân Ngôn 3 biến, tùy tụng đưa Ấn lên trên đỉnh đầu chuyển vòng theo bên phải rồi buông. Chân Ngôn là :
“Án, vĩ sa phổ la ná la khất-sái phộc nhật la bán nhạ la, hồng phát tra”
Do kết Ấn này với lực gia trì của Chân Ngôn cho nên liền dùng cái lưới kiên cố của Kim Cương che ở phương trên, cho đến chư Thiên ở cõi Tha Hóa Tự Tại cũng chẳng thể gây chướng nạn. Hành giả được thân tâm an lạc, dễ được thành tựu Tam Ma Địa.
_Tiếp kết Kim Cương Hỏa Viện Giới Ấn: Đem chưởng phải che lưng bàn tay trái sao cho dính nhau, thẳng 2 ngón cái liền thành.Tưởng từ Ấn tuôn ra vô lượng ánh sáng lửa (quang diễm). Đem Ấn xoay bên phải 3 vòng thì ở bên ngoài bức tường Kim Cương liền có lửa rực vây quanh, tức thành Kiên cố thanh tĩnh Đại Kết Giới Hỏa Diễm.
Kết Giới Chân Ngôn là:
“Án, a tam mãng nghĩ ninh, hồng phát tra”
_Tiếp hiến Át Già Hương Thủy Ấn: Khi nâng Át Già nên tụng Chân Ngôn (Bên trên một biến, khoảng giữa 7 biến, bên dưới 21 biến). Phép tắc Át Già là: trước tiên quỳ 2 gối sát đất, tay cần phải đeo vòng bằng cỏ trang tinh sạch nâng Át Già, đốt hương xông ướp rồi thỉnh là: “Nguyện xin Bản Tôn vì Bản Nguyện hãy giáng đến Đạo Trường. Nguyện xin Ngài rũ lòng thương nhận nước Át Già với chút ít vật hiến cúng”. Hai tay nâng vật đựng Át Già đưa ngang trán phụng hiến, tụng Chân Ngôn 3 biến, tưởng rửa 2 bàn chân của Thánh Chúng.
Chân Ngôn là :
“Ná mô tam mãn đa một đà nẫm. Nga nga nẵng tam ma sam ma, sa-phộc hạ”
Do hiến nước thơm Át Già (Ārgha) cúng dường khiến cho hành giả được thanh tịnh 3 nghiệp, tẩy trừ tất cả phiền não tội cấu. Từ Tín Giải Hành Địa cho đến Thập Địa và Phật Địa sẽ chứng Ba La Mật như vậy thời được tất cả Như Lai ban cho nước Pháp Cam Lộ quán đỉnh.
_ Tiếp kết Hoa Tòa Ấn: Dựa theo Liên Hoa Bộ Tam Muội Gia Ấn lúc trước, hơi co ngón tay khiến cho viên mãn liền thành.
Kết Ấn này xong, tưởng từ Ấn tuôn ra vô lượng hoa sen Kim Cương tràn khắp, Đức Như Lai (tên là….), các vị Đại Bồ Tát với tất cả Thánh Chúng trong Thế Giới (tên là ….) đều được tòa hoa sen Kim Cương này.
Chân Ngôn là :
“Án, ca ma la, sa-phộc hạ”
Do kết Ấn này, tụng Chân Ngôn gia trì. Hành giả được mãn túc 10 Địa, sẽ được tòa Kim Cương, 3 nghiệp kiên cố giống như Kim Cương. Khi phụng thỉnh thì nói rằng:
“Tôn Giả khéo đến! Xin thương xót chúng con mà giáng lâm Đạo Trường, lại rũ lòng thương hãy nhận tòa ngồi với chút ít vật hiến cúng”
Lại khởi Tâm thành làm lễ rồi bạch với Tôn Giả rằng: “Xin Đấng Đại Bi hãy rũ lòng thương, vì Đại nguyện mà giáng lâm chứ chẳng phải là khả năng của con”
Tụng Đại Tam Muội Gia sắc Ngữ Ấn Đà La Ni 3 biến. Sắc là: “Tam Muội kết Giới đầy đủ uy nghi. Khải thỉnh Thánh Chúng như Pháp an tọa”
Lại ở cửa Tây, chắp tay đỉnh lễ, quỳ dài cung kính, tay bưng lò hương đốt các loại hương nổi tiếng, tưởng Chư Phật, Bồ Tát, tất cả Thiên Thần như Chân Báo Thân (Báo Thân chân thật) đều nhận tòa ngồi với tướng nhìn ngó Đức Phật thuyết Pháp.
Lại khải bạch Phụng Thỉnh Kết Giới: “Nguyện xin các Thánh Chúng đều y theo Bản vị, đầy đủ uy nghi như pháp mà an trụ” (Nói lời này xong)
Tiếp đến rải hương, liền lấy cái bát bằng bạc chứa mọi loại hương bột, dùng hai tay bốc bột hương, tụng Nhất Thiết Đỉnh Luân Vương Tâm Chú, chú vào bột hương 7 biến rồi
tùy rải bên trongViện với Nhóm Thiên Thần (Hương Tam Muội Đà La Ni)
Rải hoa: Như pháp rải hương bột lúc trước (Hoa Tam Muội Đà La Ni Pháp)
Lại chắp tay chí thành lễ bái và nói lời cảm tạ: “Các thứ cúng dường ở nơi đây như:
hương, hoa, thức ăn uống… phần lớn chẳng được như Pháp, quả thật con rất hổ thẹn“ Tiếp lúc hiến Đồ Hương ( hương xoa ) thì nói kệ là:
“Hương này thơm phức
Như hương cõi Trời Hộ trì thanh tịnh
Nay con phụng hiến
Rũ thương nhận cho Khiến nguyện viên mãn”
Đồ Hương Chân Ngôn là:
“A ca la , a ca la , tát phộc bật địa gia, đà la, bố nhĩ đê, sa-phộc hạ”
Tụng Đồ Hương Chân Ngôn lại tụng Chân Ngôn sở Trì. Tĩnh Trì như pháp phụng hiến Bản Tôn
“ Do con hiến hương xoa
Sẽ được năm Pháp Thân
Nguyện từ Đẳng Lưu này
Được năm hương Vô Lậu
Lau sạch sự nhiệt não
Vượt thoát các Địa ngục”
Dùng Chân Ngôn Hoa khi phụng hiến thì phát nguyện là :
“ Hoa thanh tịnh này
Sinh nơi trong sạch
Nay con phụng hiến
Nguyện thương nhận lấy Ban cho thành tựu” Hiến Hoa Chân Ngôn là :
“A ca la a ca la, tát la bật-địa gia đà la, bố nhĩ đê, sa-phộc hạ”
Do hiến Hoa sẽ được
Băm hai (32) tướng Đại Nhân
Lại hồi hướng phước này
Thành đài hoa Diệu Giác
Tỏa sáng chiếu chạm khắp
Cảnh giác nẻo người Trời
Ham dính các cảnh Dục
Bị tám khổ buộc ép
Thiên lạc (niềm vui của cõi Trời) biến thành khổ
Nguyện cho các Trời Người
Bồi đắp Tâm Bồ Đề
Được Phổ Hiền thường lạc (Niềm vui mãi mãi của Đức Phổ Hiền) _ Hiến hương đốt:
Dùng chất thơm của cây trong rừng hoang dã, chất thơm của keo hay chuyển tất cả ý nguyện của mọi người, chư Thiên thường ăn. Nay con xin dâng hiến, mong rũ thương nhận cho.
Thiêu Hương Chân Ngôn là :
“A ca la, a ca la, tát phộc bật địa gia đà la, bố nhĩ đê, sa-phộc hạ”
Tụng Chân Ngôn Hương này, sau đó tụng Chân Ngôn Sở Trì, Chân Ngôn hương Thiêu như Pháp dâng hiến. Do con dâng hương đốt
Được Phật Vô Ngại Trí (Trí vô ngại của Phật)
Vui chọn đủ trang nghiêm
Hồi thí mây hương này
Thơm lừng khổ hàn băng
_Thứ tự Hiến Ẩm Thực: “ Nay con dùng thuốc có mùi thơm tuyệt mỹ xin phụng hiến Bản Tôn, nguyện xin Ngài rũ thương nhận cho” Trị Thực Chân Ngôn là :
“A ca la , a ca la, tát phộc bật địa gia đà la bố nhĩ đê, sa-phộc hạ”
Chân Ngôn này thông khắp Ba Bộ. Tụng Chân Ngôn Thực, sau đó tụng Chân Ngôn sở trì rồi phụng hiến thức ăn
Hiến thực được Pháp hỷ (niềm vui của Pháp)
Vị giải thoát Thiền Duyệt
Hồi thí nẻo quỷ đói
Tuôn mưa thức ăn uống
Cam Lộ của chư Thiên
Nguyện ăn thức gia trì
Hết thảy đều no đủ
Xa lìa khổ đói khát
Cùng nghiệp ác gian tham
Pháp hiến thực. Trước tiên dùng hương xoa rưới vảy mặt đất, sau đó bày các lá cây, nên rửa tay xúc miệng cho sạch, tiếp để thức ăn theo thứ tự là : món Sa Đề Ca, lá cây có gốc tròn gốc dài, cháo, canh, loại canh có công dụng chống mập, thức uống, sữa, lạc.
_ Thứ tự Phụng Đăng: “ Vì đèn hay khước từ các chướng cho nên dùng tĩnh trừ sự ngủ mê , nay con xin dâng hiến, nguyện rũ thương nhận đèn cho” Chân Ngôn là :
“Án, a lộ ca dã, a lộ ca dã, tát phộc bật-địa gia đà la, bố nhĩ đê, sa-phộc hạ”
Hiến đèn được ngũ nhãn (5 loại mắt)
Dùng làm đèn Bát Nhã
Chiếu rọi A Tu La
Chặt đứt Tâm kiêu căng
Giận dữ thích đấu tranh
Bàng sinh bị roi vọt
Cùng ăn nuốt lẫn nhau
Nguyện được Tâm Từ Huệ
Thường sinh làm người, Trời (trong Dục Giới)
Cõi Sắc và Vô Sắc
Ưa thích vị Tam Muội
Nguyện thoát mọi trói buộc
_ Tiếp kết Quảng Đại Bất Không Ma Ni Cúng Dường Ấn: hai tay kết Kim Cương Hợp Chưởng, 2 ngón trỏ dính nhau như hình báu, kèm song song 2 ngón cái tức thành.
Liền tụng Cúng Dường Chân Ngôn :
“Án, a mô già bố nhạ ma ni bát-nạp mạ phộc-nhật lam, đát tha nghiệt đa vĩ lộ chỉ đế, tam mãn đa bát-la tát la, hồng”
Vừa mới tụng Quảng Đại Bất Không Ma Ni Cúng Dường Đà La Ni này 3 biến ắt thành tập hội của Đức Như Lai (tên là…) và trong vô lượng vô biên quốc thổ đều tuôn mưa vô lượng thứ cúng dường rộng lớn là : mọi thứ biển mây hương xoa, mọi thứ biển mây hoa, mọi thứ biển mây hương đốt, mọi thứ biển mây thức ăn uống màu nhiệm của cõi Trời, mọi thứ biển mây quần áo vi diệu của chư Thiên, mọi thứ biển mây đèn đuốc toả ra ánh sáng của ngọc Ma Ni, mọi thứ biển mây tràng phan lọng báu dù báu, mọi thứ biển mây âm nhạc vi diệu của cõi Trời… tràn khắp chúng hội của chư Phật Bồ Tát thành sự cúng dường rộng lớn chân thật.
Do kết Ấn tụng Chân Ngôn cúng dường cho nên đắc được vô lượng nhóm Phước giống như hư không không có bờ mé, đời đời thường sinh trong Đại Tập Hội của tất cả Như Lai, hóa sinh trong hoa sen, được 5 thần thông, phân thân thành trăm ức thân hay ở Thế Giới ô nhiễm cứu giúp chúng sinh bị khổ khiến cho họ đều được lợi ích an vui, trong đời hiện tại nhận vô lượng quả báo, đời sau được sinh về Tịnh Thổ.
Hiến nước thơm Át Già
Chúng Bình Đẳng Tính Trí
Làm Pháp Vương ba cõi
Lại ban bố rót vảy
Nước Kim Cương Cam Lộ
Tẩy rửa nơi cư ngụ
Lìa hẳn nẻo Bàng Sinh
Mau được Pháp Thân tịnh
Dưới thấu đến Vô Gián
Tất cả các Địa Ngục
Phá Khổ cụ (Dụng cụ hành hình trong Địa Ngục) thành bụi
Biến thành ao trong mát
Các quần sinh chịu khổ
Giải thoát, sinh Tịnh Thổ
_ Tiếp phụng hiến Ứ Già: Kết Quy Mệnh Hợp Chưởng đặt trên đỉnh đầu, suy tư công đức chân thật của chư Phật Bồ Tát, chí thành làm lễ tán thán Đức Phật rồi tán thán Pháp Tăng.Tiếp tán thán Quán Tự Tại, tiếp tán thán Minh Vương Đại Uy Kim Cương. Đọc Già Tha (Gàthà: Kệ Tụng) là:
“ ĐẠI BI CỨU THẾ TÔN
Thiện Tôn (Đấng hiền thiện) Nhất Thiết Trí (sarva-jñā)
Biển Công Đức Phước Trí
Nay con cúi đầu lễ
Chân Như, buông Ma Pháp
Hay tịnh độc tham sân
Khéo trừ các nẻo ác
Nay con cúi đầu lễ
Được Pháp, tăng giải thoát
Khéo trụ các Giác Địa
Tăng phước đức thắng thượng
Nay con cúi đầu lễ
Đại Bi Quán Tự Tại
Tất cả Phật khen ngợi
Hay sinh mọi loại Phước
Nay con cúi đầu lễ
Thân Đại Lực phẫn nộ
Lành thay ! Trì Minh Vương
Giáng phục kẻ khó phục
Nay con cúi đầu lễ “
Như vậy chân thành tán thán Phật Bồ Tát , tiếp lại chắp tay khởi Tâm trân trọng ân cần tán thán công đức với tướng tốt của chư Phật Bồ Tát khác. Bài Văn tán thán đó nên dùng bài kệ khen ngợi (Thán Kệ) do chư Phật Bồ Tát đã nói, cảnh giác Đức Như Lai (tên là…..) chẳng buông bỏ Bi Nguyện, dùng vô lượng ánh sáng chiếu chạm Hành Giả khiến cho Nghiệp chướng tội nặng đều được tiêu diệt, thân tâm an vui, lắng ý ưa thích sự tịch lặng, khi ngồi lâu tụng niệm chẳng sinh sự mệt mỏi, tâm được thanh tịnh, mau chứng Tam Muội.
_ Phật Bộ Tĩnh Châu Chân Ngôn là :
“Án, át bộ yết nhĩ nhạ duệ tất đệ tất đà lạt thê, sa-phộc ha”
Tay phải: đem ngón cái vịn đầu ngón vô danh, dựng thẳng ngón giữa, hơi co ngón út đè bên cạnh lóng trên của ngón giữa. Tay trái cũng vậy. Lại dùng tay trái cầm chày Kim Cương, tay phải nắm tràng hạt, miệng khải bạch rằng: “Nay con (tên là….) đội đầu cung kính tất cả Bát Nhã Ba La Mật Đa, vô biên Pháp Tạng, hằng sa vạn Pháp, khiến theo tất cả chư Phật ở 10 phương kính nhận Pháp này”
Pháp tác nhu vạy gọi là Pháp Đỉnh Đới Cung Kính Thọ Trì.
_ Phật Bộ Trì Châu Chân Ngôn là :
“Án, ná mô bả già phộc đế tất đệ sa đà dã tất đà lạt thê, sa-phộc hạ”
Dùng Châu Ấn trước
Đếu y trong Bộ
Mà tác niệm tụng
Đặt Châu (tràng hạt) ngay tim
Chẳng được cao thấp
Khi phụng tán châu
Hơi khẽ cúi đầu
Dùng Tâm chí thành
Đỉnh lễ Tam Bảo
_ Tiếp lễ 8 vị Đại Bồ Tát
Tiếp lễ Minh Vương với quyến thuộc (Tưởng Sân Nộ Vương như hiện rõ trước mặt)
Lúc Chính niệm Tụng. Nếu bị ho hắng, hôn trầm, quên mất Chân Ngôn liền đứng dậy lấy nước tác Pháp rải tịnh. Liền lấy hạt sen làm tràng hạt đặt ở trong lòng bàn tay, 2 tay nâng tràng hạt chắp lại như hình hoa sen chưa nở, dùng Thiên Chuyển niệm Châu Chân Ngôn gia trì 7 biến.
Chân Ngôn là :
“Án, phộc nhật la ngục tứ gia nhạ bạt tam ma duệ hồng”
Gia trì xong, liền nâng tràng hạt đội trên đỉnh đầu, Tâm phát nguyện là: “Nguyện cho sự mong cầu của tất cả hữu tình về đại nguyện thù thắng thuộc Thế Gian và Xuất Thế Gian mau được thành tựu”. Niệm tụng 108 biến.
Đặt 2 tay ngay trái tim, chụm 5 ngón tay lại thành hoa sen chưa nở. Tay trái cầm tràng hạt, dùng ngón cái và ngón vô danh của tay phải dời chuyển hạt châu, tụng Chân Ngôn một biến khi đến chữ Sa Ha (Svāhā) thì dời một hạt. Khi niệm Châu thì âm thanh chẳng chậm chẳng nhanh, chẳng cao chẳng thấp, chẳng nên phát ra tiếng. Xưng hô chữ của Chân Ngôn đều phải rõ ràng từng chữ. Tâm quán Tam Ma Địa này tạo thành cõi Tịnh Thổ với Đức Phật (tên là….) có đầy đủ tướng tốt đã thỉnh đến lúc trước về ngự ở trong Đàn. Quán Hạnh như vậy mỗi mỗi phải rõ ràng, chuyên chú niệm tụng chẳng để gián đoạn, mau xa lìa sự tán động. Mỗi lần ngồi niệm tụng hoặc 100biến, hoặc 1000 biến. Nếu chẳng đủ 108 biến thì không đầy đủ biến số. Do Đức Như Lai (tên là….) gia trì cho nên thân tâm được thanh tịnh, khi mở mắt thường nhìn thấy Đức Như Lai ấy, ắt trong Định được nghe nói Pháp màu nhiệm thâm sâu. Nơi mỗi một chữ, mỗi một câu ngộ được vô lượng Môn Tam Ma Địa, vô lượng Môn Đà La ni, vô lượng Môn Giải Thoát. Thân này ngang bằng với Vị Bồ Tát (tên là….) mau chóng đi đến quốc thổ của vị ấy.
Niệm tụng đủ số xong, dâng tràng hạt lên đỉnh đội rồi phát nguyện rằng: “Nguyện cho tất cả Hữu Tình được sinh về Thế Giới (tên là…) gặp Phật nghe Pháp, mau chứng Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề”
_ Tiếp kết Định Ấn, tác quán Tâm Bồ Đề trong thân tròn trịa trắng tinh sáng tỏ giống như mặt trăng tròn đầy, lại khởi sự suy tư là: “ Thể của Tâm Bồ Đề lìa tất cả vật, lìa Uẩn Giới Xứ và lìa Năng Thủ Sở Thủ. Vì Pháp không có cái ta (Vô Ngã) nên là một tướng bình đẳng, Tâm vốn chẳng sinh nên tự tính trống rỗng”.
Liền tưởng trên vành trăng trong sạch tròn đầy có chữ Hật Lý (HRĪḤ) Từ chữ này tuôn ra vô lượng ánh sáng. Ở mỗi một ánh sáng quán tưởng thành Thánh Chúng của Thế Giới (tên là….) vây quanh Đức Phật (tên là ….) giống như Kinh Bản Bộ. Như thế niệm tụng tu tập Tam Ma Địa xong. Nếu muốn ra khỏi Đạo Trường, liền kết Bản Tôn Ấn, tụng Căn Bản Đà La Ni 7 biến, rồi đưa Ấn lên đỉnh đầu buông xả. Liền tụng Tán Thán là:
Chư Như Lai hiện tiền
Các Bồ Tát cứu đời
Chẳng bỏ Đại Thừa Giáo
Đến địa vị Thù thắng
Nguyện xin Chúng Thánh Thiên
Quyết định chứng cho con
_ Tiếp kết Phổ Cúng Dường Ấn, tụng Quảng Đại Bất Không Ma Ni Cúng Dường Chân Ngôn. Lại hiến Ứ Già, trong Tâm có cầu nguyện việc gì thì khải bạch với Thánh Chúng: “Nguyện xin Thánh Giả chẳng vượt lời thề của mình (Bản Thệ) khiến cho con thành tựu ước nguyện”. Như vậy kết nguyện xong.
Ở cửa Tây lễ bái và nói rằng: “Thật là tủi thẹn ! Nay con ở trong hội này làm mọi thứ Pháp Sự như hương hoa, thức ăn uống đều chẳng được như Pháp, quả rất xấu hổ với Thánh Chúng ! Nguyện xin các Đấng Đại Từ Bi vui vẻ bỏ qua”. Như vậy cúng dường phát nguyện xong.
_ Liền kết Hỏa Viện Ấn lúc trước, chuyển bên trái một vòng và nói rằng: “Tam muội gia hay kết Pháp sự đã xong. Nguyện xin Thánh Chúng tùy ý ra đi”.
_ Giải bỏ Giới Kết dùng Bảo Xa Lộ Ấn lúc trước, đem 2 ngón cái hướng ra ngoài vỗ đầu 2 ngón giữa, tụng Bản Chân Ngôn phụng tống Thánh Chúng
_ Sau đó kết Bị Giáp Hộ Thân Ấn, ấn 5 nơi trên thân. Liền đối trước Bản Tôn , chân thành phát nguyện, lễ Phật, xưng tên rồi đi ra khỏi Đạo Trường mà tùy ý kinh hành. Nên tán tụng Kinh Bản Bộ, Tâm ôm ấp ý vui thắng thượng, siêng năng niệm tụng, ấn Phật, ấn Tháp, vui hành bố thí. Tu trì: Cấm Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tiến, Định, Trí Tuệ. Bao nhiêu Thiện Phẩm đã tu thảy đều hồi hướng, cùng các chúng sinh đồng sinh Tịnh Thổ Thượng Phẩm Thượng Sinh, chứng Hoan Hỷ Địa, đắc được Vô Thượng Bồ Đề.
_ Đà La Ni khải thỉnh Văn :
“Phụng thỉnh Bát Tư Na Đồng Tử vì đệ tử hãy dẫn truyền khói hương này khải thỉnh chư Phật ,Bồ Tát, Hiền Thánh Chúng trong vi trần số Thế Giới trên hư không giới là: Bảy Đức Phật đời quá khứ Tỳ Bà Thi Như Lai…, 53 Đức Phật Phổ Quang Như Lai…., 35 Đức Phật Thích Ca như Lai…., 25 Đức Phật Bảo Tập Như Lai…., 12 Bộ Tôn Kinh Tu Đa La Tạng Hải Hội Pháp, Bát Nhã. Các vị Đại Bồ Tát : Phổ Hiền, Văn Thù, Quán Âm, Thế Chí, Đại Bi Bồ Tát. 5 Bộ Minh Vương Kim Luân Như Ý Vương…., 28 Bộ Mật Tích Kim Cương Tạng Vương…. Chẳng bỏ Từ Bi chứng minh cho đệ tử.
Thanh Văn, Duyên Giác, Tứ Quả La Hán, Tứ Thiên Đại Vương, Trì Chú ĐạiSư Tử Vương của 36 nước, Ma Ni Khổng Tước Vương, Ca Tỳ La Kim Tỳ La Vương, Trì Chú An Quốc Vương, Đạo Tâm Vương, Ma Hê Thủ La Vương, Thiên Bố Đan Na
Vương, 28 Bộ Quỷ Thần Đại Tướng, A Tra Bà Câu Hộ Pháp Thần Vương, Tu Di Phong Đỉnh Đại Tướng Quân, Quản Lãnh Ngũ Ngục Thần Tướng phóng vành xe quăng mũi nhọn …giáng đến Đạo Trường này nhận khói hương cúng dường cầu thỉnh của đệ tử. Xin hãy vì đệ tử làm rúng động Trời Đất. Trên giăng võng Trời, dưới chăng lưới sắt Thâu nhiếp Thiên Ma, Ngoại Đạo, Quỷ Thần giao cho Tỳ Na Dạ Ca Sứ Giả gấp rút mang loài đang ở trong Giới này bỏ ra ngoài và khiến cho loài ở bên ngoài Giới này chẳng được bước vào.
Đệ tử nhất tâm khải thỉnh 28 vị Kim Cương Tạng Vương, Đại Luân Kim Cương,
Quân Trà Lợi Kim Cương, Đại Ô Sô Sa Ma Kim Cương, Đại Tồi Toái Kim Cương, Hỏa Đầu Kim Cương, Thanh Diện Kim Cương, Tra Ha Kim Cương, Thiết Ái Kim Cương, Lợi Nha Trảo Kim Cương, Thương Kiệt La Kim Cương đều thống lĩnh 5 vạn Dạ Xoa phóng vành xe quăng mũi nhọn … vân tập Đạo Trường nhận các thứ tùy tâm cúng dường của đệ tử . Sau đó ban bố uy lực cho đệ tử. Nguyện Chú Cú như ý nguyện mau chóng được thành tựu.
Phụng thỉnh Đông Phương Đề Đầu lại Tra Thiên Vương trấn giữ Giới phương Đông
Phụng thỉnh Nam Phương Tỳ Lâu Lặc Xoa Thiên Vương trấn giữ Giới phương Nam
Phụng thỉnh Tây Phương Tỳ Lâu Bác Xoa Thiên Vương trấn giữ giới phương tây
Phụng thỉnh Bắc Phương Tỳ Sa Môn Thiên Vương trấn giữ giới phương Bắc
Phụng thỉnh Thượng Phương Đao Lợi Thiên Vương trấn giữ Giới phương trên
Phụng thỉnh Hạ Phương Địa Trục Thiên Vương trấn giữ giới phương dưới
Lục Phương Thiên Vương gấp rút chụp bắt giới 6 phương
Khiến cho Thiên Ma , Ngoại Đạo, Quỷ Thần chẳng được tùy tiện ra vào. Nếu có loài tùy tiện ra vào,xin Hỏa Đầu Kim Cương cầm chày Kim Cương (Vajra:Bạt Chiết La) đập nát thân thể của loài đó thành bụi nhỏ , đầu nó bị bể ra 7 phần như cành cây A Lê. Cấp cấp như Đà La Ni Sắc.
_ Tứ Thiên Vương Kết Giới Chú: một hơi tụng 3 biến: “Cấm tra, cấm tra, tăng cấm tra. Ngô kim ư Tứ phương kết Cấm tra, chung bất vị nhữ giải cấm tra” Nếu tác Pháp, đệ tử thường tụng 3 biến.
DƯỢC SƯ NHƯ LAI QUÁN HẠNH NGHI QUỸ
_Hết_
Hiệu chỉnh xong vào ngày 11/01/2013