ĐẠI THỪA TRUNG QUÁN THÍCH LUẬN
Tác giả: Bồ-tát An Tuệ.
Hán dịch: Đời Triệu Tống, Sa-môn Duy Tịnh.
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 3

Phẩm 2: QUÁN KHỨ LAI

Phần 2

Lại nữa, tụng nói:

Người đi tức không trú.

Thích: Ở trong một pháp cùng sinh, nghiệp tạo tác mâu thuẫn, lẫn lộn không có tánh. Tụng nói:

Không người đi, không trú.

Thích: Pháp đi dừng lại gọi là trú. Nay không người đi, pháp đi không có tánh, thì cũng không nên là dừng lại (trú). Hoặc nếu vốn có pháp trú có thể nắm bắt, nhưng cũng là pháp trú, không có hai sự hòa hợp. Nếu có hai sự hòa hợp thì nay phải quán như thật. Cho nên tụng nói:

Lìa đi, không người đi
Trú thứ ba sao có?

Thích: Sự đi và không người đi, cả hai việc nầy không trú, nghĩa như vậy tức như trước nói. Tụng nói:

Người đi nếu đang trú
Làm sao có nghĩa nầy
Vì lìa nơi pháp đi
Người đi không thể được.

Thích: Đây là tổng quát về pháp dừng trú. Lại nữa, tụng nói:

Đã, chưa đi, nay đi
Dừng lại các phân biệt.

Thích: Nếu lúc ấy đi kia có thể là không trú thì người đã đi kia phải là trú chăng? Điều nầy không đúng. Người đã đi không có pháp đi khác vì pháp đi đã hoại nên không có trú. Trong đây, không có nghĩa trú của người đã đi. Nay pháp trú ấy đã ngăn như vậy rồi, còn lại các lỗi chỗ nói cũng vậy. Tụng nói:

Pháp dừng, đi hiện có
Đều nói giống nghĩa đi.

Thích: Chỗ thuyết giảng nầy đã nêu, pháp còn lại đều đồng. Pháp đi, nay đi, chưa đi, đã đi không sinh. Đã đi, chưa đi, nay đi, pháp đi mới phát khởi. Đã đi, chưa đi, nay đi, pháp đi dừng lại. Pháp trú cũng vậy. Đã trú, chưa trú, lúc trú, pháp trú không sinh. Đã trú, chưa trú, lúc trú, pháp trú bắt đầu phát khởi. Đã trú, chưa trú, lúc trú, pháp trú dừng lại. Trong đó tự tướng của pháp bình đẳng. Nếu người ngăn phá thì sinh lỗi lầm, trong đó tất cả hai loại pháp đi và người đi ở trong Thắng nghĩa đế mà muốn cầu thật tánh thì cần phải biết như lý: các vật thể “có” của một tánh, khác tánh đều là pháp tánh. Trong đây nếu có chỗ sinh thì đều là việc khách trần, là đối tượng hành và chỗ thành tựu của thế tục, rõ ràng không có tánh khác. Cho nên, hai loại người đi và pháp đi không có tánh khác, điều nầy phải cần tư duy phân minh. Trong đây nên biết, phong giới chuyển động tức có người đi, tướng thân… động phát đi đến phương khác, đây mới gọi là đi, chẳng phải hai tánh người đi và pháp đi riêng khác. Thuyết ở trong tự loại có khác đều là ngăn dừng nghĩa ấy.

Lại nữa, tụng nói:

Pháp đi tức người đi
Việc ấy thì không đúng.

Điều nầy vì sao? Tụng nói:

Nếu cho nơi pháp đi
Tức là người đi nầy
Tác giả và tác nghiệp
Tức một tánh được lập.

Thích: Tuy có hai tướng: tác giả và tác nghiệp, nhưng tác giả và tác nghiệp kia cùng nhau, không có tánh khác. Vì tác giả là tự tướng của tác nghiệp ngưng nghỉ nên hoặc hòa hợp một tánh, tức tướng có của thể và dụng, là điều thế tục xác nhận, là tánh có của thế tục, là thật sự không có chỗ thành tựu. Nhưng mọi việc làm của thế tục, quyết định có thể có được, vì thế cho nên chẳng phải không có tánh, chẳng phải là một tánh. Trong đó, nếu ngăn phá thì trở thành lỗi, vì pháp sinh khởi có rõ ràng. Nếu ngăn phá tức chấp không có thể của quả, cũng không có tướng động phát… đi đến phương khác.

Lại nữa, người Tỳ-bà-sa và người Phệ-dạ-ca-la nói: Người đi và pháp đi có riêng khác. Họ cho: Người đi là công năng đi, chứ chẳng phải là vật thể. Vật thể đi vì do người đi nên nói là có chỗ đi, đối tượng tạo tác như vậy thì chủ thể tạo tác cũng thế.

Lại người, Thắng luận nói: Công năng như vậy ở trong vật là tánh có nên có người đi, sử dụng pháp đi kia mà động phát tướng đi đến phương khác. Ở đây nói như vậy, ngoài ra cũng đều như vậy.

Người giải thích nói: không đúng. Pháp đi nếu vậy thì công năng của tác giả ở trong vật thể là có sai biệt hay không có sai biệt? Điều nầy lại thế nào? Nếu có sai biệt, nghĩa là các năng lực khác nhau hoặc năng lực riêng khác, ngang nhau. Ở trong một chủ thể tạo tác, nếu thành thể tánh thì đây tức là năng lực của tác giả, chẳng phải công năng của đối tượng tạo tác… Đây nếu là năng lực của đối tượng làm ra, tức chẳng phải là công năng của tác giả. Trong đây làm sao quyết định như thật? Hoặc nói là tự tướng sai biệt, điều nầy liền trở thành bất định, hoặc tự tướng không sai biệt, tức là tất cả xứ không có tánh sai biệt. Nay vì vật thể có chỗ nương tựa tăng thượng như vậy: lửa không thể làm thành các vật như đất…, cũng chẳng phải không có việc dùng của nó. Vì năng lực tương ưng của tác giả hòa hợp nên phải biết vật thể chẳng phải công năng của tác giả như vậy, nghĩa này được thành tựu. Vì do như vậy nên chủ thể làm ra như vậy, đối tượng làm ra như vậy và tác dụng tăng thượng nầy như vậy của tất cả vật thể, trong đó tác giả liền được hòa hợp. Cho nên chẳng phải công năng của tác giả kia có sai khác, cũng chẳng phải chỗ thành tựu của tự thể sai khác. Nếu vật thể không có sai khác, tức công năng có thể thành, như vậy cũng đúng. Các năng lực giúp nhau không sai khác, vì một tánh không có khác nên phải biết là vật thể. Nếu là một tánh thì trong đó cũng không có nhiều pháp thành tựu, nếu khác tánh thì trong đó cũng không có nhiều pháp thành tựu thì làm sao hai loại công năng mà có thể thành tựu? Hoặc chổ có được là tánh ly, tức đối tượng tạo tác của kia giống như đây, là công năng tốt duyên pháp mà có sai khác thì vật thể của tác giả do duyên sai khác mà có, đây gọi là sự trưởng dưỡng sai khác vượt trội. Cho nên, chẳng phải công năng của tác giả hòa hợp, hoặc phần vị sai khác. Vì phân biệt tác giả như vậy nên ở đây nói là tác giả. Nếu lúc nhân quả chuyển thì phần vị của tánh nơi chủ thể và đối tượng tạo tác kia có sai khác, tức không thể được. Vì tánh của chẳng phải vật thể ấy sai khác, nên nếu hoặc thiết lập tánh có của công năng v.v… nên gọi là người đi, thì điều này không hòa hợp. Tụng nói:

Pháp đi khác người đi
Việc nầy cũng không đúng.

Thích: Nếu lìa pháp đi mà có người đi kia tức là pháp đi không quyết định. Nếu lìa pháp đi là lúc không quyết định đi, thì không có người đi riêng khác có thể là đi. Sự phân biệt như đây. Nếu có hai loại là người đi và pháp đi có thể được thì liền có người đi và pháp đi có thể thành. Vì do có pháp đi nên liền có người đi, vì có người đi nên liền có pháp đi, như nhân và quả, tánh không lìa nhau, nói nghĩa này thành tựu. Nếu nhân quả đồng sinh tức không có tánh có thể được, như hạt giống sanh mầm. Cho nên vì có pháp đi nên liền có người đi, vì có người đi nên liền có pháp đi. Nếu thành tựu do một tánh, hoặc khác tánh, nhưng người đi và pháp đi, cả hai đều không có ở trong Thắng nghĩa đế, nghĩa nầy nói thành tựu. Vì sao không hề có trong đó? Nghĩa văn nầy rộng lớn, vì sợ phiền tạp nên tạm dừng. Trong đây ngăn phá, chẳng dẫn chứng lại, vì ngăn phá nên biểu hiện ra như vậy. Chỗ thuyết giảng nầy đã nêu, chỗ còn lại phải biết, từ đây về sau sẽ ngăn phá nghĩa gì? Nếu nhờ pháp đi liền biết người đi; đi như thế kia thì sao có hai loại riêng khác? Nếu vậy thì làm sao hòa hợp? Tụng nói:

Nhờ đi biết người đi
Không thể dùng đi nầy.

Thích: Không tạo ra nghĩa nầy, trong đó nên hỏi, vô số nghĩa môn đều từ trong nghĩa giới mà ra, đều chuyển nghĩa nầy. Nay vì sao nói không tạo nghĩa nầy, nên tụng đáp:

Trước không có pháp đi
Nên không (có) người đi, đi.

Thích: Vì pháp đi kia là chổ tạo tác của người đi như vậy, thì làm sao có một chút pháp nào có thể là đi? Vì do như vậy, nên như thế gian thấy có những pháp gì là đã sinh từ trước mà có chỗ đi chăng? Những pháp nào lúc sinh trở về sau mà có chỗ đi chăng? Tụng nói:

Nhân đi biết người đi
Không thể dùng đi khác
Ở trong một người đi
Không có hai việc đi.

Thích: Vì sao có hai việc đi? Một là nhân đi, vì biết người đi. Hai là nếu có người đi lại dùng cách đi. Trong đây ngăn phá, tụng nói:

Nếu thật có pháp đi
Người đi không dùng ba
Không thật có pháp đi
Người đi không dùng ba.

Trong đây, vì sao? Tụng nói:

Pháp đi có, không có
Người đi không dùng ba.

Thích: Hoặc thật có, hoặc không thật có, trong đó người đi và pháp đi không dùng ba việc đi. Nếu thật có thì người đi và pháp đi hòa hợp. Nếu không thật có thì người đi lìa pháp đi. Nếu cũng có cũng không có, cả hai đều không có tánh, hoặc có thể thật có là vì người đi có, không thật có là vì người đi không có, cũng có cũng không là vì cả hai đều không có pháp đi. Cho nên người đi không dùng ba việc đi, do đó không tạo nghĩa nầy. Nếu thật có người đi, thật có pháp đi kia thì đối tượng được tạo tác không có, chủ thể tạo tác không hòa hợp vì không thật có nên liền không có đối tượng tạo tác, không có là vì việc đi không sinh. Cũng có, cũng không có là cũng không có đối tượng tạo làm, vì chủ thể không có tánh, vì không có cho nên người đi không dùng ba việc đi. Vì sao? Vì người đi như vậy, tự nó là vô tánh. Nếu có và không có đều không có việc tạo tác thì người đi, pháp đi kia đều là vô tánh. Nếu nói pháp đi, trong đó đều là tùy thuận chỗ thuyết giảng. Lại nữa, tụng nói:

Cho nên đi, người đi
Chỗ có đi đều không.

Thích: Đây là nói thành tựu trong Thắng nghĩa đế. nói có khác biệt như vậy là vì có chủ thể tạo tác, đối tượng tạo tác và pháp tạo tác, trong đó đều ngăn phá. Trong đó hoặc nói tác dụng của việc đi, phải tư duy như lý. Cho nên phải biết, chỗ nói về tác giả, tác nghiệp và pháp làm có các phân biệt thì đều không có thể thật. Vì để chứng thành nghĩa ấy nên phẩm nầy phát sinh.

 

Phẩm 3 : QUÁN SÁU CĂN

Phẩm trước đã ngăn phá các hành tướng trái nhau của tác giả, tác nghiệp và pháp làm đã tạo tác xong. Lại nữa, tụng nói:

Thấy nghe và nếm ngửi
Sáu căn tiếp xúc, biết
Sáu căn thấy nghe nầy…
Luôn nắm giữ các cảnh.

Thích: Như luận nầy nói: Sáu căn: thấy… hành nơi các cảnh giới như vậy. Nghĩa là mắt thấy sắc cho đến ý biết pháp. Đây có nói thế phải biết đều là đạo lý thế tục và việc làm tăng thượng, ở đây không trái nhau. Nếu ở trong Thắng nghĩa đế, tánh đối tượng nắm giữ và chủ thể nắm giữ của sắc…, mắt…, là không thể có được. Điều nầy tại sao?

Tụng nói:

Mắt nầy thì không thể
Tự thấy nơi thể mình.

Thích: Nếu mắt là tự tánh của chủ thể thấy thì mắt kia tức phải đồng như trước như vậy, tự thấy thể của mình. Vì tự tánh của các pháp không thể tự thấy, vì không có tánh khác, như tánh nóng của lửa, cũng không thể tự thấy thể của mình, trong đó cũng không có tự tánh của chủ thể thấy. Lại nữa, tụng nói:

Nếu không thể tự thấy
Làm sao thấy (chủ thể thấy) cái khác?

Thích: Vì không có tự tánh của chủ thể thấy, ví như tai…, cũng không thể có được tự tánh của chủ thể thấy. Nếu mắt kia nếu do có thể nắm giữ tự tánh trong cảnh sắc mà có đối tượng để thấy, thì đây trở lại xác nhận mắt làm chủ thể thấy. Ví như lửa biến củi thành cái khác, gọi là đốt cháy, chẳng phải tự thể của lửa có thể đốt cháy. Tụng nói:

Dụ lửa là không thể
Thành nơi mắt thấy pháp.

Thích: Vì sao vậy? Nếu tánh nóng kia có thể đốt cháy thì lửa ấy không có tánh nóng. Vì sao không thể cháy? Vì nếu không có củi kia thì lửa nầy không có, vì tánh nóng không phải có thể tự cháy. Lại nữa, tụng nói:

Đã, chưa đi, lúc đi
Trước đã đáp việc nầy.

Thích: Trong việc đã đi, chưa đi, nay đi, không đi như trước đã nói việc nầy, nay việc nầy cũng vậy. Đã cháy, chưa cháy, lúc cháy, không cháy, đã thấy, chưa thấy, lúc thấy, không thấy, cho nên không có việc đã cháy, không cháy, chưa cháy, không xa lìa chỗ cháy, không có việc đã thấy, không thấy, chưa thấy không lìa chỗ thấy. Theo tuần tự của nó như trước đã nói, tùy theo chỗ phải ngăn phá. Lại nữa, tụng nói:

Thấy nếu lúc chưa thấy
Tức không gọi là thấy.

Thích: Nếu là thường, như bình, áo… Lại nữa, tụng nói:

Nếu nói năng, sở kiến
Đây làm sao hòa hợp.

Thích: Vì không hòa hợp, pháp thấy kia cũng lại ngăn phá. Hoặc có thể hai pháp là chủ thể thấy và đối tượng thấy hòa hợp thì pháp thấy kia có thể nói là có chủ thể thấy và đối tượng thấy. Nhưng vì hai pháp kia không hòa hợp. Vì sao? Vì ở trong một pháp thấy mà đối tượng thấy kia không hòa hợp, vì không có riêng khác. Nếu có chủ thể thấy tức chẳng phải không có đối tượng được thấy. Nếu có đối tượng thấy tức chủ thể thấy phải thành. Nếu quyết định có pháp thấy kia tức chủ thể thấy kia cũng phải thành. Chủ thể thấy nếu thành thì đối tượng thấy cũng thế. Lại nữa, tụng nói:

Năng kiến cũng không thấy
Vì pháp thấy vô tánh.

Thích: Nếu lìa mắt thì riêng có tướng thấy, có thể nói là đối tượng thấy, hoặc nói là chủ thể thấy, vì không có chủ thể thấy và đối tượng thấy. Lại nữa, tụng nói:

Sở kiến cũng không thấy
Vì pháp thấy lìa tánh.

Thích: Trong đó, nếu các duyên dừng nghỉ, cũng không có chủ thể thấy và đối tượng thấy để nói. Vì sao? Vì trong đối tượng thấy nầy chẳng có chủ thể thấy. Nếu có tạo tác việc kia tức là có thấy nên gọi là đối tượng thấy. Trong đó cũng vậy, đồng như chỗ đã nói trên, ở trong chủ thể thấy không có việc thấy có thể có được. Vì sao? Trong đó nếu có thể tánh các pháp sai biệt có thể thấy thì thảy đều ngăn phá. Nếu có chủ thể thấy, đối tượng thấy và pháp thấy như vậy phát khởi tức chẳng phải không có người làm, việc làm, pháp làm hòa hợp. Cái thấy và pháp thấy cũng có chỗ khởi, điều nầy vì sao? Lại nữa, tụng nói:

Lìa thấy, không lìa thấy
Người thấy không thể được.

Thích: Vì không có pháp thấy phát khởi, hòa hợp, pháp thấy thứ hai vốn không có tánh nên cũng không quyết định mà có thể phát khởi.

Vì pháp thấy kia lìa tánh đối tượng thấy không hòa hợp, hoặc có thể cả hai chủ thể thấy và đối tượng thấy đều không có. Lại nữa, tụng nói: Vì không có người thấy Sao có đối tượng thấy.

Thích: Tác dụng của tánh nơi chủ thể thấy và đối tượng được thấy trái nhau, nếu lìa tánh hòa hợp tức không có người thấy. Nếu không có người thấy tức tánh đối tượng được thấy không hòa hợp. Trong đó, chủ thể thấy và đối tượng được thấy quyết định không thấy, thì làm sao có thể nói chủ thể thấy và đối tượng được thấy ư? Vì cái thấy lìa tánh nên sự thấy vô tánh. Hoặc có người nói: nếu cho: các hành là không, các pháp vô ngã, vì có lý nầy, như đối tượng thấy của mắt, tức chủ thể và đối tượng thấy không có sai khác. Đối tượng và chủ thể kia không có thật quả có thể nắm bắt, tại sao mới có bốn pháp như thức… phát khởi?

Nên tụng bác bỏ:

Vì thấy, đáng thấy không
Bốn pháp như thức… không.

Thích: Như chỗ nói về lý là chủ thể thấy và đối tượng được thấy nầy đều không thành tựu, quả kia sinh khởi thức, xúc, thọ, ái… bốn pháp như vậy vì sao hòa hợp? Nên quyết định có bốn pháp: thức…, tức có pháp nắm giữ quả kia có thể sinh, vì thật không có nên lần lượt tụng bác bỏ:

Các duyên như bốn thủ
Vì sao phải được có?

Thích: Vì thức… và thủ duyên hữu, sinh duyên lão tử, vì những pháp nầy không có gì là thành tựu nên không có gì là có. Nay, chỗ kiến lập của người khác ban đầu của phẩm nầy về nghe… âm thanh.. nên các thuyết đều dừng. Trong đó người thấy đều không có chỗ tạo làm, cho nên tụng nói:

Nghe, ngửi, nếm, xúc, biết
Các căn có như vậy
Nhưng đều đồng ở trên
Nói trong pháp mắt thấy.

Thích: Trong đây nên biết, đối tượng nghe và chủ thể nghe v.v… giống như nói mắt thấy ở trước. Ví như chủ thể thấy, các việc nghe hiện có v.v… giống như phải nói rộng, nhưng ở đây tạm dừng, vì đã ngăn phá tất cả đối trị không hòa hợp. Việc nói đây đã thành tựu. Về chủ thể thấy, đối tượng thấy, pháp thấy, các vật thể có phân biệt thảy đều không có tánh. Nay, trong phẩm nầy đều là chứng thành nghĩa như vậy.

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9