ĐẠI THỪA TRUNG QUÁN THÍCH LUẬN
Tác giả: Bồ-tát An Tuệ.
Hán dịch: Đời Triệu Tống, Sa-môn Duy Tịnh.
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 9

Phẩm 10: QUÁN CỦI LỬA

Phần 2

Lại nữa, tụng nói:

Tức củi mà không lửa.

Thích: Vì trừ bỏ một tánh.

Củi khác cũng không lửa.

Thích: Vì trừ bỏ tánh khác của hai pháp củi và lửa.

Trong lửa cũng không củi
Trong củi cũng không lửa.

Thích: Vì trừ bỏ chung về tánh khác nên trong đó, một tánh và tánh khác của hai pháp củi và lửa đều không thể thấy, như bình chẳng phải là cây, lại như tánh khác của hoa sen trong nước không thành. Cho nên trong Thắng nghĩa đế, hai pháp củi và lửa chẳng phải làm nhân cho nhau mà có, mà hai pháp kia hoàn toàn là không.

Lại nữa, tụng nói:

Như nói pháp củi, lửa
Năng, sở thủ cũng vậy.

Thích: Một tánh và khác tánh lần lượt làm nhân đối đãi lẫn nhau không thành. Lại nữa, tụng nói:

Các pháp khác đều đồng.

Thích: Chủ thể nắm giữ và đối tượng nắm giữ kia chẳng phải là một tánh của tác giả và tác nghiệp có thể chấp trước, cũng chẳng phải đối tượng nắm giữ có tánh khác, mà lìa cũng không sinh. Nếu đối tượng nắm giữ có tánh khác thì không giúp nhau đến, không đến thì không cháy, không cháy thì không diệt, không diệt tức là thường. Nếu pháp thường trú thì hai pháp kia làm nhân cho nhau, chờ nhau không thành. Nếu hai pháp thành và không thành làm nhân cho nhau, rốt cuộc là không có “thể”. Nếu người nào chấp: lửa từ phương khác đến, có chủ thể nắm giữ và đối tượng nắm giữ của nó thì nghĩa nầy không thành, nên tụng dưới nói:

Cùng với bình, áo… kia.

Thích: Tướng chủ thể, tướng đối tượngđồng sinh và không đồng sinh của hai pháp nhân quả: bình, áo… kia là chỗ thành lập của những pháp ấy. Như chẳng phải nắm đất tức là bình của nó, vì pháp quả của bình kia có tác dụng, cũng chẳng phải bình khác riêng có chỗ thành của tác dụng pháp quả, chẳng phải hai pháp kia làm nhân chờ nhau. Nếu thành và không thành làm nhân cho nhau không có “thể”, vì đây như vậy nên chỗ khác tùy theo chỗ thích ứng mà nói cũng vậy. Nếu trong Thắng nghĩa đế thì không có một tánh khác tánh, vì thế không nên chấp trước.

Như có tụng nói:

Chẳng nhận chẳng không nhận
Khác vì sao lại có
Như năng thủ sở thủ
Các chỗ nêu cũng vậy.
Lại nữa, tụng nói:
Nếu người chấp có ngã
Các pháp có thật tánh
Mỗi một nói sai biệt
Họ không hiểu pháp Phật.

Phẩm 11: QUÁN SINH TỬ

Lại có người nói: Ở trong Thắng nghĩa đế cũng có sinh tử. Vì sao? Như lời Phật dạy: Sinh tử dài lâu, vì chúng sinh ngu mê không biết Chánh pháp. Ta muốn làm cho họ tu hành đúng như chánh lý để được cắt đứt dòng sinh tử, nên mới nói lời nầy: Nầy các Bí sô! Cần phải học như vậy, dùng sự chứng biết ấy mà có sinh tử trong Thắng nghĩa đế.

Luận giả nói: Như lời Phật dạy đều là nêu bày phương tiện cho thế tục, chẳng phải là Thắng nghĩa đế, cũng chẳng phải không có sinh tử mà nói có pháp dài lâu có thể dứt hết chỗ thọ nhận sinh tử kia của chúng sinh. Nếu tu hành đúng chánh lý thì có thể đoạn tận tánh sinh tử hữu kia. Trong đó, trước nói chủ thể nắm giữ và đối tượng nắm giữ của hai pháp củi và lửa, tuần tự của những pháp kia thì đây chẳng hợp lý.

Lại nữa, tụng nói:

Đấng Mâu-ni đã dạy
Sinh tử không biên trước.

Thích: Nghĩa nầy thế nào? Nói sinh tử tức là không có biên vực, không biên vực tức không có bắt đầu, nghĩa nầy là không có trên hết, không có đầu tiên nên nói là không có biên vực. Lại không có khoảng thời gian đầu tiên kia nên gọi là không biên vực. Cho nên tụng sau nói:

Nay đây nói như vậy
Không trước cũng không sau.

Thích: Vì nghĩa trước và sau không có “thể”, không có tự tánh, như sừng thỏ…, cần phải thấy biết như vậy. Vì do như vậy nên ở khoảng giữa cũng nói là không thể đạt được, vì chẳng phải không có, như sừng thỏ…

Lại nữa, tụng nói:

Nếu không có trước sau
Ở giữa sao lại có?

Thích: Sinh tử vốn không có tự tánh, thì vì sao sinh tử kia lại có?

Nên tụng sau nói:

Cho nên trong đó không
Trước, sau cùng tuần tự.

Thích: Trong đó phải hỏi: như chỗ biểu thị, không cùng trước sau, tức là tuần tự không sinh mà sao lại có chúng sinh, thọ nhận sinh, lão, tử? Vì sao lại tu hành để dứt hết tánh sinh tử hữu? Điều nầy sẽ không thành, nên tụng đáp:

Nếu khiến trước có sinh
Sau có lão và tử
Không lão tử, có sinh.

Thích: Nếu không lìa lão, tử mà có sinh thì phải không lìa lão mà có tử chăng? Nên tụng sau nói:

Lão, tử sau chẳng phải.

Thích: Nếu pháp khác có chỗ thành tựu thì ví như thể khác nhau của trâu, ngựa phải được đồng sinh. Vì sao sinh mà không có tử, lại vì sao không tử mà có sinh? Nếu đầu tiên của sinh, lão, tử đều có “thể” thì sinh, lão tử kia xưa nay đều có sinh tử của nó.

Lại nữa, tụng nói:

Nếu khiến sau có sinh
Trước có lão và tử
Tất cả lão, tử kia
Không sinh tức không nhân.

Thích: Không nhân tức không chỗ nương tựa, không chỗ nương tựa thì không sinh, không sinh thì không liên tục có tánh.

Lại nữa, tụng nói:

Không sinh, lão, tử nầy
Cũng không có trước sau
Lão, tử cũng lại vậy
Cũng phải cùng với sinh.

Thích: Nghĩa nầy thế nào? Nếu nói lúc sinh có tử của nó là vì hai pháp sinh và diệt kia không có tánh đồng thời. Lại nữa, cả hai đều là không nhân không sinh, vì cả hai pháp kia đều vô tánh nên hoặc là đồng sinh, lại nữa, sinh, lão, tử đều không có tánh làm nhân chờ nhau.

Lại nữa, tụng nói:

Nếu không sinh thì không
Trước sau cùng tuần tự
Vì sao hý luận nói
Có sinh, lão, tử hợp.

Thích: Vì trong Thắng nghĩa đế, hý luận không sinh.

Lại nữa, tụng nói:

Nếu các pháp nhân quả
Năng tướng và sở tướng
Chỗ thọ và người thọ
Nghĩa chân thật như vậy.

Thích: Tất cả pháp: chủ thể biết, đối tượng biết…, cùng nhau tuần tự trước sau đều không hòa hợp. Nếu trước có quả sau có nhân của nó thì quả tức không nhân, đây tức có mâu thuẩn của nhân. Nếu trước có nhân sau không có quả thì nhân quả không hòa hợp. Nếu hai pháp nhân và quả đồng thời có, quyết định như vậy thì tánh nhân quả kia cũng lại không có “thể”. Hai pháp hoặc đã sinh, hoặc chưa sinh cùng làm nhân cho nhau đều không có “thể” nên chỗ đã nêu về tướng chủ thể, tướng đối tượng cũng thế.

Lại nữa, tụng nói:

Không chỉ nói sinh, tử
Biên trước không thể được
Các pháp cũng như vậy
Biên trước không thể được.

 

Phẩm 12: QUÁN KHỔ

Lại có người nói: Trong Thắng nghĩa đế, có tánh được tạo thành của các uẩn khổ kia. Như lời Phật dạy: Lược nói có năm thủ uẩn, do đó mà nhận lãnh sự khổ.

Luận giả nói: Nói về những thủ uẩn nầy đều là thế tục đế, chẳng phải là Thắng nghĩa đế. Vì sao? Vì do quả của khổ ấy. Quả khổ ấy là phân biệt ra nhiều chủng loại.

Lại nữa, tụng nói:

Tự tác và tha tác
Cùng làm không nhân làm.

Thích: Có một loại người muốn làm cho khổ nầy mỗi một hệ thuộc chỗ riêng biệt, nên tụng sau nói:

Những khổ nơi các quả
Chỗ tạo chẳng hợp lý.

Lại nữa, tụng nói:

Khổ nếu là tự tác
Tức không từ duyên thành.

Thích: Nếu tự làm thì các pháp kia đều là chỗ thành của tự thể, chẳng phải tánh đồng sinh. Nếu lìa tự thể thì không có tánh nhân đối đãi, cũng chẳng phải đồng sinh có thể có, nên tụng sau nói: Do có thủ uẩn nầy Có năm uẩn vị lai.

Thích: Vì sự hợp thành của duyên, nên trong đó nếu tánh hợp thành của pháp duyên thì không tự tác. Đây là ngăn phá chấp tự tướng của pháp, lại cũng chẳng phải là đạo lý tha tác.

Lại nữa, tụng nói:

Nếu có năm uẩn nầy
Khác với uẩn vị lai
Ở trong uẩn đây, kia
Phải có khổ tha tác.

Thích: Nay các đối tượng tạo tác có của năm uẩn nầy và năm uẩn vị lai chẳng phải là hai pháp nầy nương nhau có tha tánh. Vì sao? Vì sự diệt và vị lai sinh là không có tánh. Trong đó, cũng chẳng phải khổ là chủ thể tạo khổ, thì tự tác và tha tác làm sao có thể thành?

Lại nữa, tụng nói:

Nếu người tự tạo khổ
Lìa khổ sao có người
Làm sao trong tự tác
Lìa người mà có khổ?

Thích: Nếu lìa uẩn không có đối tượng được thực hiện, thì uẩn kia làm sao có khổ có thể làm?

Lại nữa, tụng nói:

Nếu khổ người khác thành
Trao lại cho người nầy
Tha (người khác) cũng là tự tác
Lìa khổ sao có khổ?

Thích: Đây chẳng phải lìa khổ lại có khổ, vì không khác khổ.

Lại nữa, tụng nói:

Nếu người khác làm khổ
Lìa người (khác) đâu có khổ
Cũng chẳng có làm xong
Người khác trao cho đây.

Lại nữa, tụng nói:

Nếu tự tác không thành
Sao lại có tha tác
Nếu người khác làm khổ
Thì cũng gọi tự tác.

Thích: Hoặc có người nói: Nếu người tự làm khổ thì chẳng phải là chỗ thành của người khác, phải có người khác làm chăng? Để đối đáp với ý khác nầy, nên tụng dưới nói:

Khổ không gọi tự tác
Cũng chẳng người khác làm
Cho nên trong chỗ làm
Lìa khổ, người vô thể.

Thích: Như vậy là chẳng phải có đối tượng tạo tác, cũng chẳng phải có khổ. Nếu vì khổ kia la tự làm khổ thì chính là sự tạo tác của chính mình, trái với đạo lý. Cho nên ở đây nói, do không có người sao có người khác làm? Vì người kia không có tánh. Nếu người khác không có tự thể thì trong đó vì sao người khác có thể làm khổ? Nếu tự thể của người không sinh thì không hề có “thể” “thể” của người khác không sinh thì không có người khác làm, cho nên không có người khác có thể tạo khổ. Hoặc nếu hai pháp mình và người cùng tạo khổ thì cũng chẳng hợp lý.

Lại nữa, tụng nói:

Nếu có mình, người làm
Thì có cùng làm khổ
Nay mình, người không cùng
Không nhân, chẳng hợp lý.

Như có tụng nói:

Tha tướng nếu tự tác
Tha tướng không nhân nầy
Đây nếu có tự nhân
Sao có làm không nhân.

Thích: Vì trong Thắng nghĩa đế, khổ là không có ‘thể”.

Lại nữa, tụng nói:

Không chỉ nói nơi khổ
Bốn loại đều không có.

Thích: Điều nầy tại sao? Sắc… cũng vậy, nên tụng sau nói:

Các pháp ngoài đều đồng
Bốn loại đều không có.

Thích: Vì sắc chẳng phải tự thể làm nên chủ thể tạo tác và đối tượng tạo tác kia hoặc có hoặc không đều chẳng phải đối tượng tạo tác. Nếu có chủ thể tạo tác thì đối tượng tạo tác không có “thể”, không có tức chẳng phải là chủ thể tạo tác. Vì sao trong sự không có ấy mà chấp có ngã tạo tác? Đây là chấp trước nơi chủ thể tạo tác, cũng chẳng phải tha pháp. Tác dụng sắc pháp thành rồi lại thành, trong đó cũng chẳng phải tha tánh có thể thành. Nay ở đây đã nói nếu sắc từ duyên sinh thì sắc kia không có pháp khác có thể được, cũng chẳng phải duyên pháp tự và tha không sinh, lại vì tất cả pháp chẳng phải không nhân. Do đó trong Thắng nghĩa đế, thể của các pháp sắc… không thể đạt được.

Phẩm 13: QUÁN HÀNH

Như phẩm trước đã nói về sự phá uẩn như sắc…, ở đây cũng có sự đối trị trái nhau. Vì sao? Như lời Phật dạy: Nầy các Bí sô! Các ông phải biết rõ như thật: sắc là vô thường cho đến thức, pháp cũng là vô thường, vì văn nầy chứng minh là có uẩn như sắc v.v…

Luận giả nói: Chỗ nêu về tăng thượng nơi thế tục đế nầy chẳng phải là Thắng nghĩa đế, nên có tụng nói:

Nếu pháp hư vọng kia
Là hữu vi thế tục
Pháp Niết-bàn không vọng
Tức là Thắng nghĩa đế.

Thích: Hư vọng nầy là cảnh giới của tà trí, người ngu không thật ở trong pháp hư dối không phần vị chấp là sắc có tánh.

Lại nữa, tụng nói:

Pháp hư vọng kia là
Do các hành vọng chấp.

Thích: Ở đây tức không có sự trái nhau về chổ có được, nên tụng dưới nói:

Là pháp hư vọng kia
Trong đó chỗ chấp nào?

Thích: Vì không hề có, ví như sừng thỏ… Pháp hư vọng mà không hòa hợp nên pháp hư vọng là tuy có giảng nói đều là hư vọng. Cho nên Phật Thế Tôn rộng vì chúng sinh mà khai thị, Ngài khắp vì tất cả hoặc căn hoặc pháp tùy phiền não và hai chướng sở tri … đều là rỗng không, khiến cho họ được đoạn trừ. Tức là vì tánh không kia, lìa cả hai biên nên trong đó nói về các pháp hư vọng quyết định đều là “có” của thế tục đế. Nếu pháp hư vọng ở trong Thắng nghĩa đế thì như thành Càn-thát-bà. Lại nữa, hoặc pháp hư vọng là tuy ở trong chỗ đã nêu nầy nhưng cũng chẳng phải là pháp vọng có thể có. Cho nên Phật Thế Tôn giảng nói về các pháp “có” đều không có trái nhau. Nếu nói các pháp không có tức là chứng thành nghĩa “không” của tự tánh để trừ bỏ vọng chấp.

Lại nữa, tụng nói:

Các pháp không tự tánh
Vì thấy có tánh khác.

Thích: Nếu thấy có tánh biến dị của pháp thì pháp kia là vô ngã, vô ngã thì vô thường, vô thường tức không có. Đã nói như vậy là vì hư vọng, pháp nầy như vậy, nên tụng sau nói:

Pháp vô tánh cũng không
Vì tất cả pháp “không”.

Thích: Tuy nói các pháp đều là rỗng không tức các pháp kia giống như hoa đốm giữa hư không, nhưng cũng chẳng phải có cái pháp không có tự tánh kia, và hoặc như đối tượng thành tựu của “không có”.

Lại nữa, tụng nói:

Nếu pháp không tự tánh
Tại sao pháp có khác?

Thích: Nếu pháp có khác thì tự tánh cũng khác. Nếu các pháp kia không có tự tánh thì không có hòa hợp. Cho nên, nếu thấy tự tánh mỗi một các pháp có khác biệt thì vì sao không nói đây là hư vọng? Nên tụng sau nói:

Nếu pháp có tự tánh
Lại cũng có khác gì?

Thích: Nếu pháp ấy không có tự tánh thì không có pháp nào có thể có hòa hợp khác tánh. Chấp có tánh thì rơi vào lỗi lầm. Điều nầy tại sao?

Lại nữa, tụng nói:

Nếu các pháp là khác
Pháp không khác được có
Pháp hiện trú nếu khác
Sau biến khác không thành.

Thích: Nếu sau là đổi khác thì ví như già tạo nên tướng già, đây là trái với tỷ lượng của chính nó.

Hoặc có người nói: Nếu có pháp có thể đổi khác, mà không lìa tự thể thì sữa phải tức liền thành lạc. Nếu vậy thì có lỗi hoàn toàn thuộc nhân.

Lại nữa, tụng nói:

Nếu pháp tức có khác
Sữa phải tức thành lạc.

Thích: Cũng chẳng phải lìa vị ngon, sức khí, thể báo… các pháp sữa tức liền thành lạc, mà vì do tánh duyên. Lại nữa, cũng chẳng phải một loại sữa khác có lạc; thì điều nầy đối với thời thứ hai là hoàn toàn có lỗi. Nên tụng sau nói:

Hoặc nếu khác với sữa
Sao lại được thành lạc?

Thích: Cũng chẳng phải sữa khác mà có lạc có thể được, điều nầy không rơi vào lỗi một hướng, cho nên không có pháp khác có thể thấy, có tức là hư vọng. Vì sao? Vì tự tánh rỗng không. Trong Thắng nghĩa đế cũng không có một ít phần pháp “chẳng không”, pháp đối đãi “không” mà có chỗ thành tựu.

Lại nữa, tụng nói:

Nếu có pháp “chẳng không”
Thì phải có pháp “không”
Không chút pháp “chẳng không”
Sao có được “không” ấy?

Thích: Vì nhân không thành nên trong đó chẳng có pháp “không” có thể nói. Nay vì chứng thành như vậy nên Đức Thế Tôn giảng thuyết nghĩa “không”, như chỗ đã nói ấy thì điều nầy thế nào? Nên tụng sau nói:

Trừ có nên nói không
Khiến ra khỏi các kiến
Hoặc nếu thấy có, không
Chư Phật không hóa độ.

Thích: Đây là trừ bỏ các chấp “không”. Chư Phật Thế Tôn giảng thuyết chớ có nghi ngờ, huống gì có sai khác. Nếu muốn có cái “không” ấy thì đây trở thành có sự chấp trước đối với tự tánh của pháp. Trong đó cũng chẳng có tánh có thể nắm giữ, cần phải lìa bỏ. Hoặc nếu đối với “không” mà có chỗ nắm giữ, đây là chấp một bên, người kia chấp có là chấp phương tiện không khác. Phải biết, những người nầy chư Phật không thể giáo hóa.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9