CẢNH ĐỨC TRUYỀN ĐĂNG LỤC

Sa môn Đạo Nguyên đời Tống – biên soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 30

CÁC BÀI MINH – KÝ – CHÂM – CA

  1. Minh về Tâm vương của Phó Đại sĩ
  2. Minh về Tín tâm của Đại sư Tăng xán-Tam Tổ
  3. Minh về Tâm của Thiền sư Pháp dung Sơ Tổ ở núi Ngưu Đầu
  4. Minh về Tức Tâm của vị Tăng mất tên
  5. Lược biện về 4 hạnh nhập Đạo Đại thừa của Bồ đề Đạt-ma
  6. Hiển Tông ký của Hà Trạch Đại sư
  7. Tham Đồng Khế của Đại sư Thạch Đầu ở Nam Nhạc
  8. Đáp lời Hoàng Thái tử hỏi tâm yếu của Đại sư Trừng Quán ở Trấn quốc ở núi Ngũ Đài
  9. Tọa Thiền Châm của ở Hòa thượng Ngũ Vân Hàng châu
  10. Chứng Đạo Ca của Đại sư Chân Giác ở Vĩnh Gia
  11. Liễu Nguyên Ca của Hòa thượng Đăng Đằng
  12. Bài ca của Hòa thượng Lãn Tỏa ở Nam Nhạc
  13. Thảo Am ca của Hòa thượng Thạch Đầu
  14. Lạc Đạo ca của Hòa thượng Đạo ngô
  15. Nhất Bát ca vô danh
  16. Phù Âu ca của Hòa thượng Lạc Phổ
  17. Mục Hộ ca của Hòa thượng Tô Khê
  18. Cổ Kính ca (3 bài) của Thiền sư Pháp Đăng
  19. Biến Tham Tam-muội ca của Long Hội Đạo Tầm ở Đàm châu
  20. Ngoạn Châu ngâm (2 bài) của Hòa thượng Đơn Hà
  21. Hoạch Châu ngâm của Trưởng lão Quan Nam
  22. Lệ Giác ngâm của Hòa thượng Hương Nghiêm
  23. Qui Tịch ngâm của Hòa thượng Hương Nghiêm
  24. Tâm Châu ca của Hòa thượng Thiều Sơn

 

1. Minh về Tâm Vương của Phó Đại sĩ.

Quán tâm không vương huyền diệu khó lường không hình không tướng mà có Đại thần lực có thể diệt hết ngàn tai ương và thành tựu muôn đức. Thể tánh tuy không nhưng hay làm phép tắc. Xem thì vô hình mà gọi thì có tiếng. Vì Đại pháp đem tâm giới truyền kinh, là vị muối trong nước, keo trong sắc. Quyết định là có dù chẳng thấy hình. Tâm Vương cũng thế.

Dừng ở trong thân ra vào trước mặt, ứng vật tùy tình tự tại vô ngại, chỗ làm đều thành. Hiểu bổn thì biết tâm, biết tâm thì thấy Phật. Tâm ấy là Phật, Phật ấy là tâm, niệm niệm Phật tâm Phật tâm niệm Phật. Muốn được sớm thành giới tâm tự luật (răn tâm giữ luật). Tịnh luật thì tịnh tâm, tâm tức là Phật. Trừ Tâm Vương này lại không Phật khác. Muốn cầu thành Phật chớ nhiễm 1 vật. Tâm tánh tuy không nhưng tham sân là thể thật. Vào pháp môn này ngồi nghiêm thành Phật. Đến bờ kia rồi thì được Ba-la-mật. Chân sĩ mộ Đạo tự quán tâm mình, biết Phật ở trong chẳng hướng ra ngoài mà tìm tức tâm tức Phật, tức Phật tức tâm. Tâm sáng biết Phật, hiểu liễu biết tâm. Lìa tâm không Phật, lìa Phật không tâm. Không Phật chớ suy lường không chỗ kham nhậm. Chấp không trệ tịch ở đây nổi chìm. Chư Phật Bồ-tát không phải tâm an này (không để tâm này). Đại sĩ sáng tâm ngộ âm (tiếng) huyền này thì thân tâm tánh diệu, dụng không thay đổi. Thế nên người trí buông tâm tự tại. Chớ nói Tâm Vương trống không không thể tánh hay khiến sắc thân làm tà chánh, chẳng có chẳng không, ẩn hiển bất định. Tâm tánh lìa không hay phàm hay Thánh. Thế nên khuyên nhau hãy tự đề phòng cẩn thận, sát-na tạo tác lại phải nổi chìm. Hãy thanh tịnh tâm trí như vàng ròng trên đời. Bát Nhã pháp tạng đều ở tại thân tâm. Pháp báu vô vi không cạn không sâu. Chư Phật Bồ-tát liễu Bổn tâm này. Có duyên thì gặp, chẳng có tới lui.

2. Minh về Tín Tâm của Đại sư Tăng Xán Tam Tổ:

Chí Đạo không khó chỉ hiềm chọn lựa. Chỉ chớ yêu ghét rỗng rang sáng tỏ. Mảy may có sai khác thì cách xa như trời với đất. Muốn được hiện tiền chớ còn thuận nghịch, trái thuận tranh nhau ấy là tâm bịnh. Chẳng biết huyền chỉ thì luống nhọc niệm tịnh. Viên đồng Thái hư chẳng thiếu chẳng dư. Bởi do lấy bỏ cho nên chẳng Như. Chớ theo duyên có, chớ trụ nhẫn không. Một thứ bình hoài lặng mất tự hết. Chỉ động cố về chỉ thì chỉ lại càng động. Chỉ trệ 2 bên đâu biết là 1 thứ. 1 thứ chẳng thông thì 2 chỗ mất công. Khiển có mất có, theo không trái không. Nói nhiều nghĩ nhiều càng chẳng tương ưng. Dứt nói dứt nghĩ không chỗ nào chẳng thông. Về căn được chỉ tùy chiếu mất tông. Phút giây phản chiếu liền thắng không trước. Không trước chuyển đổi đều do vọng thấy. Chẳng cần cầu chân chỉ cần dứt thấy. Thấy 2 chẳng trụ, cẩn thận chớ truy tìm. Vừa có thị phi liền lăng xăng mất tâm. 2 do 1 có, 1 cũng chẳng giữ. 1 tâm chẳng sinh, vạn pháp không lỗi. Không lỗi không pháp chẳng sinh chẳng tâm. Hay tùy cảnh mất, theo cảnh hay chìm. Cảnh do năng cảnh, năng do cảnh năng. Muốn biết 2 đoạn nguyên là 1 không. 1 không đồng 2 đều gồm vạn tượng. Chẳng thấy tinh thô thì đâu có bè đảng riêng. Đại Đạo thể rộng không dễ không khó thấy hẹp nhỏ hồ nghi thì có gấp có chậm. Chấp thì suy đoán sai lầm vào đường tà, buông thì thể tự nhiên không đi không ở, mặc tình họp Đạo, tiêu diêu dứt não. Hệ niệm là trái chân, hôn trầm thì không tốt, chẳng cần nhọc thần sao dùng thân sơ. Muốn lấy nhất thừa chớ ghét 6 trần. 6 trần chẳng ghét lại đồng Chánh giác. Người trí không làm người ngu tự cột. Pháp không khác pháp vọng tự yêu đắm. Đem tâm dùng tâm há không phải là lầm lớn sao? Mê thì sinh tịch loạn, ngộ thì không tốt xấu. Tất cả 2 bên bởi do châm chước. Mộng huyễn hoa đốm sao nhọc nắm bắt, được mất thị phi 1 lúc buông bỏ hết. Mắt nếu không ngủ thì các mộng tự trừ, tâm nếu chẳng khác thì vạn pháp hoàn toàn giống nhau. Nhất như thể huyền cao tột quên duyên, vạn pháp xem ngang nhau thì trở về tự nhiên. Tiêu tan như vậy cho nên không có thể ví dụ. Chỉ động không động, động chỉ không chỉ. Cả 2 chẳng thành thì 1 sao lại có. Rốt ráo cùng cực chẳng còn phép tắc. Khế họp tâm bình đẳng chỗ làm đều dứt. Hồ nghi dứt sạch, chánh tín điều trực. Tất cả chẳng lưu giữ không thể ghi nhớ. Trống sáng tự chiếu chẳng nhọc tâm lực. Không chỗ suy lường thc tình khó biết. Chân như pháp giới không mình không người. Yếu gấp tương ưng, chỉ nói chẳng 2. Chẳng 2 đều đồng không gì chẳng bao dong (gồm chứa?). Kẻ trí mười phương đều vào tông này. Tông này không gấp dài 1 niệmnhư muôn năm, không đâu chẳng ở mười phương như trước mắt. Nhỏ nhất đồng lớn quên mất cảnh giới, lớn nhất đồng nhỏ chẳng thấy biểu hiện. Có tức là không, không tức là có. Nếu chẳng như thế ắt chẳng phải giữ. Một tức tất cả, tất cả tức một. Chỉ hay như thế lo gì chẳng rốt ráo. Tín tâm chẳng 2, chẳng 2 tín tâm, đường nói năng dứt, không phải là quá khứ-vị lai-hiện tại.

3. Minh về Tâm của Thiền sư Pháp dung Sơ Tổ ở núi Ngưu Đầu:

Tâm tánh chẳng sinh sao cần thấy biết. Vốn không 1 pháp sao luận hun đúc. Tới lui không đầu mối truy tìm chẳng thấy. Tất cả chẳng làm minh Tịch tự hiện Bờ trước như không biết chỗ mê tông, chiếu cảnh rõ ràng, tùy chiếu ngầm được. 1 tâm có trệ thì các pháp chẳng thông. Tới lui tự như thế vì sao mượn suy xét đến cùng? Sinh không có tướng sinh, sinh chiếu cùng. Muốn được tâm tịnh thì vô tâm mà dụng công. Dọc ngang không chiếu rất là tâm giữ tịnh cũng là chưa lìa bịnh. Sinh tử quên ông tức là bản tánh. Chí lý không lời, không mở không cột. Linh thông ứng vật thường ở trước mắt. Trước mắt không vật không vật rõ ràng. Không nhọc trí xét thể tự hư huyền. Niệm khởi niệm diệt trước sau không khác. Niệm sau chẳng sinh, niệm trước tự dứt. ba đời không vật không tâm không Phật. Chúng sinh vô tâm, y vô (không) thì tâm hiện (xuất). Phân biệt phàm Thánh phiền não càng nhiều. So tính là trái thường, cầu chân là trái chánh. 2 mất mà đối trị thì rỗng suốt sáng sạch. Chẳng cần công khéo giữ hạnh trẻ thơ. Tỉnh tỉnh hiểu rõ thì lưới kiến càng lớn. Tịch tịch chẳng thấy nhà tối chẳng dời. Tỉnh tỉnh không vọng, tịch tịch sáng rỡ. Vạn tượng thường chân, sum la 1 tướng. Tới lui ngồi tất cả chớ chấp, quyết định vô phương ai là ra vào. Không họp không tan, chẳng chậm chẳng nhanh thì sáng lạng tự nhiên chẳng thể nói kịp. Tâm không khác tâm, chẳng đoạn tham dâm, tánh không tự lìa mặc tình chìm nổi, không trong không đục, chẳng cạn chẳng sâu. Xưa nay chẳng cổ, thấy có chẳng kim. Thấy ở vô trụ, thấy ở bản tâm. Xưa nay không còn, xưa nay tức nay. Bồ đề vốn có chẳng cần phải giữ, phiền não vốn không chẳng cần phải trừ. Linh tri tự chiếu, vạn pháp về như. Không về không nhận, dứt quán quên giữ . 4 đức chẳng sinh, 3 thân vốn có. 6 căn đối cảnh phân biệt chẳng biết, 1 tâm không vọng vạn duyên điều trực. Tâm tánh vốn bằng đồng ở không dắt. Không sinh thuận vật, tùy chỗ ngầm ở. Giác do chẳng giác, tức giác không giác. Được mất 2 bên ai luận tốt xấu. Tất cả hữu vi vốn không tạo tác. Biết tâm chẳng tâm không bịnh không thuốc. Khi mê bỏ sự, ngộ dẹp không khác. Xưa không thể lấy nay sao cần bỏ. Bảo có ma hưng, nói không mà tượng đủ. Chớ diệt phàm tình chỉ dạy dứt ý. Ý không thì tâm diệt, tâm không thì hành dứt. Chẳng cần chứng không tự nhiên sáng suốt. Diệt hết sinh tử tâm ngầm vào lý. Mở mắt thấy tướng tâm tùy cảnh khởi. Ở tâm không cảnh, ở cảnh không tâm. Đem tâm diệt cảnh kia đây do đó mà xâm nhập. Tâm tịch thì cảnh như, chẳng khiến chẳng câu chấp. Cảnh tùy tâm diệt, tâm tùy cảnh không. 2 chỗ chẳng sinh vắng lặng trong sáng. Bóng Bồ đề liền hiện nước tâm thường trong. Đức tánh như ngu chẳng lập thân sơ. Yêu tìm chẳng đổi, chẳng chọn chỗ ở. Các duyên dứt nhanh tất cả chẳng nhớ. Trọn ngày như đêm, trọn đêm như ngày. Ngoài giống ngoan hiêu, trong tâm lại hư chân. Đối cảnh chẳng động có sức đại nhân. Không người không thấy không thấy mà thường hiện. Thông đạt tất cả chưa từng chẳng khắp, suy nghĩ hành tối, mịch loạn tinh hồn. Đem tâm ngăn động càng ngăn càng chạy. Vạn pháp không chỗ chỉ có 1 môn. Chẳng vào chẳng ra không tịnh không ồn. Trí Thanh văn Duyên giác chẳng thể luận. Thật không 1 vật diệu trí riêng còn. Bổn tế hư xung chẳng phải chỗ cùng của tâm. Chánh giác không giác, chân không chẳng không. ba đời chư Phật đều nương tông này. Tông này hào mạt sa giới đều chứa. Tất cả chớ đoái hoài an (để) tâm không chỗ. Không chỗ an (để) tâm, hư minh (rỗng sáng) tự hộ. Yên vắng chẳng sinh phóng khoáng dọc ngang. Chỗ làm không trệ đi đứng đều bình. Mặt trời Tuệ tịch tịch, định quang sáng suốt. Chiếu vườn vô tướng sáng thành Niết-bàn. Các duyên dứt hết thuyên thần định chất. Chẳng khởi pháp tòa ngủ yên nhà trống. Lạc Đạo điềm nhiên ưu du chân thật. Không làm không được, y không tự ra. 4 Đẳng 6 Độ đồng nẻo Nhất thừa. Tâm nếu chẳng sinh, pháp không sai khác biết sinh không sinh hiện tiền thường trú. Người trí mới biết chẳng phải nói năng giải thích mà ngộ.

4. Minh về Tức Tâm của Tăng mất tên.

Pháp giới có báu Như ý, người sao giam thân lâu. Khắc vào ngực rằng: Xưa người ta nhiếp tâm. Hãy cảnh giác, hãy cảnh giác, không nghĩ ngợi nhiều, không hay biết nhiều. Biết nhiều thì nhiều việc, không bằng dứt ý. Nhiều nghĩ ngợi nhiều mất mát không bằng giữ 1. Nghĩ nhiều thì chí tan, biết nhiều thì tâm loạn. Tâm loạn thì sinh não, chí tan thì ngại Đạo. Chớ nói có gì hại bằng khổ sầu lo mãi có gì đáng sợ bằng họa của đỉnh nước sôi. Từng giọt nước chẳng dừng, 4 biển đầy ắp. Mảy may chẳng quét sạch, 5 núi sắp thành. Đề phòng ngọn tại gốc, tuy nhơ mà không khinh thường. Hãy bít kín 7 lỗ, đóng chặt 6 tình, chớ nhìn sắc chớ nghe tiếng. Nghe tiếng thì điếc, nhìn sắc thì mù. Một văn 1 nghe là con ve trong hư không, 1 tài 1 năng là ngọn đèn nhỏ dưới ánh mặt trời. Anh Hiền tài nghệ bị ngu che, vứt bỏ thuần phác thì chìm đắm trong phóng túng hoa lê. Ngựa thức dễ chạy, khỉ tâm khó kềm chế. Thần đã nhọc thì hình ắt tổn thương. Hạnh tà trọn mê thì đường tu đầy sình lầy. Chớ quý tài năng ngày càng hồn . khoe vụng ham khéo mà đức chẳng lớn. Danh dày mà hạnh mỏng thì trên sẽ mau lở sụp, trong ôm kiêu phạt ngoài sẽ oán ghét. Hoặc nói ở miệng hoặc viết ở tay. Đón người khiến khen cũng là lỗ thúi. Phàm gọi là tốt, Thánh gọi là lỗi. Thưởng thức tạm thời buồn khổ dài lâu. Sợ ảnh sợ dấu càng xa càng tột. Ngồi nghiêm dưới tàng cây mà dấu mất bóng chìm. Chán sinh già bịnh mà tùy nghĩ tùy tạo tác. Tâm tưởng nếu mất thì sinh tử tuyệt giống. Chẳng tử chẳng sinh không tướng không danh. 1 Đạo hư tịch vạn vật đều bình đẳng. Có gì quý có gì tiện sao nhục sao vinh, có gì hơn kém, có gì nặng nhẹ. Lắng hồn trời, tịnh mặt trời sáng mà thẹn sáng. Ở đính núi Đại đồng với thành vàng. Kính tặng hiền triết Đạo này lợi trinh.

5. Lược nói về 4 hạnh nhập Đạo Đại thừa của Bồ đề Đạt-ma.

– Tựa của đệ tử Đàm Lâm.

Pháp sư là người nước Nam Thiên Trúc ở Tây Vức, là Hoàng tử thứ 3 con của một Đại quốc vương Bà-la-môn, tinh thần thông tuệ vừa nghe đều hiểu, chí cầu Đạo cao siêu, cho nên bỏ tục xuất gia nối thạnh dòng Thánh tâm ngầm hư tịch thông suốt việc đời. Trong ngoài đều sáng, đức đáng tiêu biểu trên đời, thương dạy khắp chốn ngầm giúp chánh giáo. Bèn xa xôi dạo khắp núi sông truyền hóa Hán Ngụy. Người quên tâm đều qui tín nhưng kẻ còn kiến thì lại chê bai. Lúc đó có Đạo Dục, Tuệ Khả 2 Sa-môn tuổi tuy còn nhỏ nhưng chí cả cao xa, may gặp Pháp sư và hầu hạ suốt mấy năm, cung kính học hỏi rất hợp ý thầy Pháp sư cảm sự tinh thành của họ mà truyền cho chân Đạo khiến an tâm như thế, phát hạnh như thế, thuận vật như thế, phương tiện như thế. Đây là pháp Đại thừa an tâm khiến không nhầm lẫn. Như thế mà an tâm là ngồi nhìn vào vách. Như thế mà phát hạnh thì có 4 hạnh. Như thế mà thuận vật là đề phòng có ghen hờn. Như thế mà phương tiện là khiến không đắm trước (đây là sơ lược nói về nguyên do như vậy.

– Chánh văn: Nói đến vào Đạo có nhiều đường, nói tóm tắt thì chẳng ngoài 2 thứ: 1 là lý nhập, 2 là hạnh nhập.

– Về lý nhập tức là nhờ giáo mà ngộ tông tin chắc các loài hàm sinh đồng 1 chân tánh, chỉ vì khách trần vọng tưởng che lấp mà không có thể hiển bày rõ ràng. Nếu cũng bỏ vọng về chân, chăm chú nhìn vào bức tường không mình không người, phàm Thánh đều là 1, bền chặt không đổi dời. Lại không theo văn giáo. Đây là cùng lý ngầm phù hợp không có phân biệt, yên vắng vô vi thì gọi là lý nhập.

– Về hạnh nhập, tức là 4 hạnh, ngoài ra các hạnh khác đều ở trong đây. Những gì là 4: 1 là Hạnh báo oán, 2 là Hạnh tùy duyên, 3 là Hạnh không chỗ cầu, 4 là Hạnh xứng pháp.

a. Hạnh báo oán: Nghĩa là người tu hành khi gặp các khổ thì phải tự nghĩ rằng: Mình từ vô số kiếp trước đã bỏ gốc theo ngọn mà trôi dạt trong các hữu (cõi) khởi nhiều oán ghét gây hại vô cùng. Nay tuy không phạm tội gây ác nhưng do ác nghiệp nhiều đời trước nay quả đã chín, không có trời người nào cùng thấy cứu được cho nên hãy cam tâm nhận chịu không hề oán trách. Kinh nói: Gặp khổ chẳng rầu lo, vì sao thế, vì thấu biết tâm này khi sinh thì cùng lý tương ưng, hiểu oan khiên là để tiến Đạo (1 thử thách), nên nói là Hạnh báo oán.

b. Hạnh tùy duyên: Tức là chúng sinh vô ngã đều duyên với nghiệp mà chuyển, khổ vui cùng chịu đều từ duyên sinh. Nếu được thắng báo (quả báo tốt) thì danh dự sung sướng các việc. Ấy là vì nhân xưa đời quá khứ đã cảm nên nay mới được. Duyên hết thì lại không nào có gì vui. Có được mất là theo duyên, tâm không tăng giảm. Gió mừng chẳng động ngầm thuận với Đạo. Thế nên gọi là Hạnh tùy duyên.

c. Hạnh không chỗ cầu: Người đời mê mãi chỗ chỗ đắm trước (mê đắm) gọi là cầu. Kẻ trí ngộ chân lý khác với tục, an tâm vô vi hình theo vận chuyển vạn hữu riêng không chẳng có mong vui. Công đức đen tối thường theo đuổi nhau, ba cõi ở lâu cũng như nhà lửa. Có thân đều khổ có ai được an. Hiểu được chỗ này cho nên buông bỏ các có, dứt tưởng không cầu. Kinh nói: Có cầu đều khổ, không cầu bèn vui. Xét biết không cầu mới là chân Đạo hạnh. Cho nên gọi là Hạnh không mong cầu.

d. Hạnh xứng pháp: Lý tánh tịnh gọi là pháp. Lý này các tướng riêng không, không nhiễm không đắm trước, không đây không kia. Kinh nói pháp không có chúng sinh vì lìa chúng sinh cấu pháp không có ngã vì lìa ngã cấu. Người trí nếu hay tin hiểu lý này thì nên xứng pháp mà làm. Pháp thể không keo kiệt bỏn xẻn thì đối với thân mạng tiền của đem bố thí tâm không hề luyền tiếc. Hiểu rõ 3 không chẳng nương chẳng đắm. Chỉ vì bỏ cấu nhiễm, xứng hóa chúng sinh mà không chấp tướng. Đây là mình tự làm (làm lợi mình) mà hay lợi người, cũng có thể trang nghiêm Đạo Bồ đề. Bố thí như thế thì 5 độ mà không chỗ làm. Đó gọi là Hạnh xứng pháp.

6. Hiển Tông ký của Đại sư Hà Trạch.

Vô niệm là tông, vô tác là bản, chân không là thể, diệu hữu là dụng. Phàm chân như vô niệm không cần tưởng niệm mà biết được thật tướng. Vô sinh há là sắc mà tâm hay thấy. Vô niệm mà niệm tức là niệm chân như, vô sinh mà sinh tức là tức là sinh thật tướng, vô trụ mà trụ tức là luôn trụ Niết-bàn, vô hạnh mà hành tức là vượt bờ kia. Như như bất động, động dung vô cùng. Niệm niệm không cầu, cầu vốn vô niệm, Bồ đề không được, tịnh 5 nhàn mà liễu 3 thân. Bát Nhã, không biết vận 6 thông mà hoằng 4 trí. Thế mới biết tức định mà không định, tức Tuệ mà không huệ, tức hạnh mà không hạnh (làm?). Tánh như hư không, thể đồng pháp giới. 6 độ từ đây mà đầy đủ, đạo phẩm từ đó mà không thiếu. Thể mới biết háp ta thể không, có không đều mất. Tâm vốn vô tác, Đạo luôn vô niệm. Không niệm không nghĩ không cầu không được, chẳng kia chẳng đây không lui không tới. Thể ngộ 3 minh. Tâm thông 8 giải. Công thành 10 lực, giàu có 7 báu. Vào môn Bất Nhị mà được Lý Nhất thừa. Diệu trong diệu tức pháp thân, trời của trời chính là Kim cang huệ. Rỗng sáng thường tịch ứng dụng vô phương. Dụng màthường không, không mà thường dụng. Dụng mà chẳng có tức là chân không, không mà chẳng không liền thành Diệu hữu. Diệu hữu tức là Ma-ha Bát Nhã, chân không tức là Thanh tịnh Niết-bàn. Bát Nhã là nhân của Niết-bàn. Niết-bàn là quả của Bát Nhã. Bát Nhã không thấy mà hay thấy Niết-bàn, Niết-bàn không sinh mà hay sinh Bát Nhã. Niết-bàn Bát Nhã tên khác mà thể đồng. Tùy nghĩa mà lập tên nên gọi là Vô định tướng. Niết-bàn hay sinh Bát Nhã tức gọi là chân Phật pháp thân. Bát Nhã hay kiến tạo Niết-bàn nên gọi là Như Lai Tri Kiến. Tri tức là biết tâm không tịch kiến tức là thấy tánh vô sinh. Tri kiến (liền thấy) rõ ràng chẳng một chẳng khác. Cho nên hay động tịch luôn diệu, lý sự đều như như. Tức chỗ chỗ hay thông suốt tức lý sự vô ngại. 6 căn chẳng nhiễm tức là công của Định huệ, 6 thức chẳng sở nhiếp tức là sức của như như. Tâm như thì cảnh chết, cảnh mất thì tâm không. Tâm cảnh đều quên, thể dụng chẳng khác. Chân như tánh tịnh thì gương Tuệ vô cùng. Như nước phân ngàn trăng mà hay thấy nghe hiểu biết. Thấy nghe hiểu biết mà luôn không tịch. Không tức là vô tướng, tịch tức là vô sinh. Chẳng bị thiện ác cột trói, chẳng bị tịnh loạn nhiếp giữ, chẳng chán sinh tử, chẳng ham Niết-bàn. Không gì chẳng không, có chẳng thể có. Đi đứng ngồi năm tâm chẳng lay động. Trong mọi lúc được cái không chỗ được. ba đời chư Phật giáo chỉ như thế, tức Bồ-tát Từ Bi kịp truyền trao cho nhau. Từ khi Đức Thế Tôn diệt độ rồi thì trời Tây 28 Tổ cùng truyền tâm vô trụ, đồng nói tri kiến Như Lai. Cho đến Đạt-ma ở cõi này là đời thứ nhất truyền mãi đến nay không dứt. Chỗ truyền bí giáo cần giao được người, như châu trong búi tóc không hề dối cho. Phước đức, trí tuệ 2 thứ trang nghiêm, hạnh giải tương ưng mới có thể kiến lập. Y là pháp tín là y tông. Duy chỉ y pháp truyền nhau trọn không pháp khác. Trong truyền tâm ấn, ấn khế họp với bản tâm . ngoài truyền ca sa biểu hiện cho Tông chỉ. Không phải y thì chẳng truyền pháp, không phải pháp thì chẳng nhận y. Y là y pháp tín, pháp là pháp vô sinh. Vô sinh tức là không hư vọng chính là tâm không tịch. Biết không tịch mà liễu pháp thân, liễu pháp thân thì chân giải thoát.

7. Tham Đồng Khế của Hòa thượng Thạch Đầu ở Nam Nhạc.

Cõi Tây Trúc Tâm Đại Tiên, Đông Tây ngầm truyền trao nhau. Căn người có lợi độn, mà Đạo thì không có Tổ Nam hay Bắc. Nguồn linh sáng sạch, chi phái riêng truyền chấp sự vốn là mê, khế lý cũng chẳng ngộ. Môn môn tất cả cảnh, hồi hỗ chẳng hồi hỗ, trở về mà can thiệp nhau, chẳng thể thì y vị mà trụ. Sắc vốn khác chất tượng, tiếng vốn khác khổ vui, hiểu rõ lời nói trên biết rõ câu trong đục. Tánh 4 đại tự còn như con được mẹ. Lửa nóng gió động lay, nước ướt đất bền chắc. Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi người mùi, lưỡi nếm mặc chua. Song y vào mỗi mỗi pháp, thanh tịnh vào rễ lá mà phân bố. Gốc ngọn phải trở về Tông, tôn ty dùng ở lời, ắt trong sáng có tối, chớ lấy tối mà gặp nhau. Phải trong sáng có tối, chớ dùng sáng mà thấy nhau. Sáng tối đều đối nhau, ví như bước trước sau. Vạn vật tự có có công, phải ngôn dụng kịp chỗ. Sự còn bị che lấp thì lý phải dùng tên nhọn mà chống đỡ. Nhân lời nói mà hiểu Tông, chớ tự lập qui cũ (phép tắc). Đầy mắt chẳng phải Đạo, cất bước sao biết đường. Tiến bước chẳng gần xa, mê thì cách núi sông. Kính bạch người tham huyền chớ để ngày tháng trôi qua luống uổng.

8. Đáp lời Hoàng Thái tử hỏi tâm yếu của Đại sư Trừng Quán ở Trấn quốc núi Ngũ Đài .

Chí Đạo vốn gọi tâm ấy, tâm pháp vốn bảo vô trụ. Vô trụ thì tâm thể linh tri bất muội, tánh tướng lặng lẽ, bao hàm đức dụng, gồm nhiếp trong ngoài, hay sâu hay rộng, chẳng có chẳng không. Chẳng sinh chẳng diệt, vô thỉ vô chung (không đầu không cuối), cầu thì chẳng được, bỏ lại chẳng rời. Mê hiện lượng thì hoặc khổ lăng xăng, ngộ chân tánh thì thấu suốt trống sáng. Tuy tức tâm tức Phật nhưng chỉ người chứng mới biết. Song nếu có chứng có biết thì Tuệ nhật chết chìm ở hữu địa. Nếu không chiếu không ngộ thì mây tối che lấp không môn. Nếu 1 niệm chẳng sinh thì trước sau dứt bờ mé. Chiếu thể riêng lập, vật ngã (mình người) đều như. Ngay ở nguồn tâm không trí không đắc. Chẳng lấy chẳng bỏ không đối trị không tu hành. Song mê ngộ lại y chân vọng mà đối đãi nhau. Nếu cầu chân bỏ vọng thì cũng như nhọc mình (hình) bỏ bóng. Nếu biết vọng tức chân thì giống như đứng chỗ tối ắt bóng mất. Nếu vô tâm quên chiếu thì vạn lo nghĩ đều mất. Nếu mặc tình vận tịch mà biết thì các hạnh bèn khởi. Buông lỏng mặc nó ở đi tịnh xét, biết rõ nguồn gốc, nói im chẳng mất huyền vi động tịnh chưa lìa pháp giới. Nói chỉ thì mất biết (tri mà tịch) luận quán thì 2 chiếu lặng biết (tịch mà tri). Nói chứng thì chẳng thể chỉ bày người, nói lý thì không chứng nào không liễu. Do đó ngộ tịch mà không tịch, chân tri mà không tri, vì tri tịch chẳng 2 là 1 tâm, khế không có đều chứa trung đạo. Không trụ không trước, chẳng nhiếp chẳng thâu, thị phi đều quên, năng sở đều dứt. Cái dứt này cũng vắng lặng thì Bát Nhã hiện tiền. Bát Nhã không phải ngoài tâm mới sinh, Trí tánh vốn xưa nay đầy đủ. Song vốn lặng (tịch) không thể tự hiện, thật là do công Bát Nhã. Bát Nhã cùng trí tánh trái nhau (qua lại) mà thành. Bản trí cùng thủy tu thật không 2 thể. 2 quên chánh vào thì Diệu giác viên minh, đầu cuối gồm dung thì nhân quả giao suốt tâm tâm làm Phật, không 1 tâm nào chẳng phải nước Phật. Chốn chốn thành Đạo, không 1 trần nào chẳng phải nước Phật. Cho nên chân vọng vật ngã nêu 1 thì gồm thâu. Tâm Phật và chúng sinh trộn nhau đều bằng cả. Thế nên biết mê thì người theo pháp. Pháp pháp vạn sai mà người chẳng đồng. Ngộ thì pháp theo mọi người người 1 trí mà dung muôn cảnh. Nói cùng nghĩ dứt thì cái gì là quả là nhân, thể vốn tịch liêu (trống vắng) ai đồng ai khác. Chẳng quên ôm hư lãng thì tin tức xung dung. Cũng như trăng thấu nước hoa hư không mà chẳng thấy. Không tâm mà sai hình ảnh, chiếu mà thường không.

9. Tọa Thiền Châm của Hòa thượng ở Ngũ Vân Hàng châu.

Ngồi chẳng trói thân, thiền không dính cảnh trói thì lười mỏi, dính thì chẳng tịnh. Chẳng trói chẳng dính thì chân quang xa lẽ, 6 môn đều ứng, vạn hạnh đồng bày. Than ôi! Kẻ sơ cơ chưa đạt huyền vi chỗ chìm tùy động năng sở chi ly, chẳng có quyền xảo làm càn đối trị, khu sách ức án quân điều hôn loạn dứt lo nghĩ quên duyên đồng với thây chết, tùy duyên đóng mở, chẳng chuyên bích quán (ngó vào vách), chạy nhảy tưởng lại nhiều An-na-bát-na duyên lưu kiếm cáo không trệ ngỗng gỗ. Như lửa cháy được nước, như bịnh được thuốc. Bịnh lành thì thuốc dẹp, lửa tắt thì nước quên. Một niệm thanh tịnh thể tịch thường linh. Linh ấy lịch ấy không linh không tịch. Thị phi mặc tình sinh thì phạm lỗi vô cực, trước mất thì sau lại nổi lên như bước đi. Bịnh đi chẳng biết, biết thì không lỗi, ngày tiếp lưng đêm gương kia chiếu ra sau. Đây thì chẳng thế, tròn sáng thông suốt. Chiếu mà chẳng duyên tịch mà ai giữ vạn tượng doanh âu thái hư điện chớp làm dụp đổ cung ma nghiêng ngã điện Phật. Què đi được, mù thấy được. Pháp giới trần hoàn cùng lúc hiện ra nhanh rộng rãi (mênh mông) gò đồi hoặc ngồi hoặc ngủ. Đã nói phương tiện bèn gọi Kim Tiên. Ta tuy gượng nói bèn phù hợp lời Thánh. Lời Thánh nói sao phải cần trùng tuyên. Bất (chẳng) động chẳng thiền là thiền vô sinh. Lại nói nếu học các Tam-muội là Đông chớ chẳng phải ngồi thiền, vì tâm trôi theo cảnh giới, sao gọi là định được? Cho nên biết trải các đời Tổ chỉ truyền 1 tâm này. Ánh sáng Tổ đã lớn xa, chúng ta may mắn nhận được. Hãy thuật lại chỗ không ngôn chỉ, bèn gọi là Tọa thiền châm.

10. Chứng Đạo Ca của Đại sư Chân Giác ở Vĩnh Gia

Ông không thấy
Dứt học vô vi người nhàn Đạo nhân
Chẳng trừ vọng tưởng, chẳng cầu chân
Không biết thật tánh tức Phật tánh
Huyễn hóa không thân tức pháp thân
Pháp thân hiểu rõ không một vật
Bổn nguyên tự tánh là Phật thiên chân
Năm ấm mây nổi không tới lui
Ba độc bọt nước dối hiện ẩn
Chứng thật tướng rồi không nhân pháp
Sát-na diệt mất nghiệp A-tỳ
Nếu đem vọng ngữ gạt chúng sinh
Ắt bị cắt lưỡi trần sa kiếp
Đốn giác liễu Như Lai thiền
Sáu độ vạn hạnh thể trung viên
Trong mộng sáng sáng rõ có 6 thú
Giác rồi không không không đại thiên
Không tội phước không tổn tích
Trong tánh tịch diệt chớ hỏi tìm
Ví nay trần cảnh chứng từng mài
Ngày nay rõ ràng cần mổ xẻ
Ai vô niệm, ai vô sinh
Nếu thật vô sinh không gì chẳng sinh
Gọi lấy cơ quan người gỗ hỏi
Ra công cầu Phật sớm muộn thành
Bỏ bốn Đại chớ nắm bắt
Trong tánh tịch diệt tùy ăn uống
Các hạnh vô thường tất cả không
Tức là Như Lai Đại viên giác
Quyết định nói biểu chân thừa
Có người chẳng chịu trưng nhậm tình
Cắt đứt căn nguyên Phật đã ấn
Vạch lá tìm cành ta chẳng thể
Ma-ni châu người chẳng biết
Trong Như Lai Tạng thân thâu được
Sáu thứ thần dụng không chẳng không
Một quả viên quang sắc chẳng sắc
Tịnh năm nhãn, được năm lực
Chỉ chừng bèn biệt thật khó lường
Trong gương xem hình thấy chẳng khó
Bắt trăng trong nước sao nắm được
Thường riêng đi riêng bước một mình
Người đạt đồng dạo đường Niết-bàn
Điệu cơ thanh gió tự cao
Mặt gầy xương cứng người chẳng đoái
Cùng Thích tử miệng xưng nghèo
Thật là thân bần Đạo chẳng nghèo
Nghèo thì thân thường mặc áo xấu
Đạo thì tâm chứa vô giá châu
Vô giá trân báu dùng vô tận
Lợi vật đúng lúc trọn không tiếc
Ba thân bốn trí thể Trung Viên
Thượng sĩ một quyết tất cả liễu
Trung hạ nghe nhiều nhiều chẳng tin
Chỉ trong lòng mình cởi áo dơ
Ai hay hướng ngoài khoe tinh tấn
Từ người chê, mặc lỗi người
Cầm lửa đốt trời là đốt mình
Ta nghe giống uống nước cam linh
Tiêu Dung sớm vào chẳng nghĩ bàn
Xem lời ác là công đức
Đây thì thành Thiện tri thức của ta
Chẳng do chê bai khởi oán thân
Sao biểu vô sinh sức từ nhẫn
Tông cũng thông nói cũng thông
Định Tuệ viên minh chẳng trệ không
Chẳng chỉ ta nay riêng liễu đạt
Hà sa chư Phật thể đều đồng
Sư tử rống nói vô úy
Trăm thú nghe tiếng đều xé óc
Hương tượng bôn ba mất hết oai
Thiên long lặng nghe sinh vui mừng
Dạo sông biển lên đồi núi
Tìm thầy học Đạo làm tham thiền
Tự theo nhận được nẻo Tào Khê
Hiểu rõ sinh tử chẳng liên can
Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền
Nói im động tịnh thể an nhiên
Dâu gặp mũi nhọn thường bình thản
Nếu nhiều thuốc độc cũng nhàn nhàn
Thầy ta được thấy Nhiên Đăng Phật
Nhiều kiếp từng làm nhẫn nhục liền
Mấy lúc sinh, mấy lúc tử
Sinh tử dong dài mãi không ngừng
Từ khi đốn ngộ liễu vô sinh
Đồi với vinh nhục không mừng lo
Vào núi sâu ở Lan Nhã
Núi cao sâu kín dưới thông già
Ưu du tịnh tọa sân nhà Tăng
Vắng lặng yên ổn thật tiêu sai
Giác liền liễu chẳng ra công
Tất cả hữu vi pháp chẳng đồng
Trụ tướng bố thí sinh phước trời
Cũng như ngửa mặt bắn hư không
Hất sức tên kia liền rơi xuống
Mà được đời sau chẳng như ý
Sao bằng vô vi thật tướng môn
Một vượt vào thẳng đất Như Lai
Chỉ được chớ lo ngọn
Như tịnh lưu ly ngậm trăng báu
Đã hiểu được chân như ý này
Tự lợi lợi tha trọn chẳng hết
Trăng sông chiếu tòng gió thổi
Suốt đêm thanh vắng sao có làm
Phật tánh giới châu tâm địa ấn
Mù sương mấy ráng thể thượng y
Bát giáng long, gậy giải hổ
Hai đùi về vòng vàng kêu rõ ràng
Chẳng phải nêu hình luống trì
Gậy báu Như Lai thân dấu vết
Chẳng cầu chân chẳng đoạn vọng
Hiểu rõ hai pháp, vô tướng
Vô tướng chẳng không, chẳng bất không
Tức là tướng chân thật của Như Lai
Tâm cảnh gương sáng vô ngại
Rỗng rang sáng suốt khắp sa giới
Vạn tượng sum la hiện trong ảnh
Một quả tròn sáng không trong ngoài
Thông suốt không, bác nhân quả
Rậm rạp mênh mông với tai họa
Bỏ có đắm không bịnh cũng thế
Như tránh chết chìm mà nhào vào lửa
Bỏ vọng tâm, lấy chân lý
Tâm lấy bỏ thành dối trá
Học nhân chẳng hiểu đem tu hành
Thật là nhận giặc cho là con
Tốn pháp tài diệt hết công đức
Đều do tâm ý thức này
Do đó thiền môn hiểu biết tâm
Sớm vào vô sinh Trí kiến lực
Đại trượng phu cầm kiếm huệ
Giáo Bát Nhã, lửa kim cang
Không chỉ phá được tâm ngoại đạo
Sớm làm rơi rụng mật thiên ma
Trấn động sấm pháp, đánh trống pháp
Giăng mây từ, rót cam lộ
Bước đi long tượng thấm vô biên
Ba thừa năm tánh đều tỉnh ngộ
Núi tuyết cấu dơ lại không tạp
Thuần là Đề Hồ ta ăn vào
Một tánh viên thông tất cả tánh
Một pháp khắp chứa tất cả pháp
Một trăng khắp hiện tất cả nước
Tất cả trăng nước 1 trăng nhiếp
Pháp thân chư Phật vào tánh ta
Tánh ta lại cùng Như Lai họp
Một Địa đầy đủ tất cả Địa
Chẳng sắc chẳng tâm chẳng hạnh nghiệp
Thiền chỉ viên thành vào vạn môn
Sát-na diệt hết nghiệp A-tỳ
Tất cả mấy câu chẳng mấy câu
Cùng ta linh giác sao giao thiệp
Chẳng thể chê, chẳng thể khen
Thể nếu hư không chớ bến bờ
Chẳng lìa đương xứ liền rỗng rang
Tìm thì biết chẳng thể thấy
Lấy chẳng được bỏ chẳng được
Trong chẳng thể được chỉ được gì
Im khi nói, nói khi im
Mở cửa Đại thí không lấp kín ,
Có người hỏi ta hiểu lông nào
Báo Đạo Ma-ha Bát Nhã lực
Hoặc phải hoặc trái người chẳng biết
Đi nghịch đi thuận trời khó lường
Ta sớm từng trải nhiều kiếp tu
Chẳng phải đẳng nhàn lừa gạt nhau
Dựng tháp tràng lập tông chỉ
Nói sáng lệnh Phật Tào Khê đó
Ngài Ca-diếp đứng đầu truyền đăng
Hai mươi tám đời Tổ nối ở Tây Thiên
Pháp truyền về Đông vào cõi này
Bồ đề Đạt-ma là sơ tổ
Sáu đời truyền y thiên hạ nghe
Người sau được Đạo số vô cùng
Chân chẳng lập, vọng vốn không
Có không đều khiển chẳng không không
Hai mươi không môn vốn chẳng đắm
Một tánh Như Lai thể cùng đồng
Tâm là căn, pháp là trần
Hai thứ cũng như gương trên thẹo
Theo dơ trừ hết sáng mới hiện
Tâm pháp đều mất tánh liền chân
Than ôi, thời thế ác ma pháp
Chúng sinh phước mong khó điều chế
Cách Thánh xa và là kiến sâu
Ma mạnh pháp yếu nhiều oái hại
Nghe nói Như Lai Đốn giáo môn
Hận chẳng diệt trừ khiến ngói nát
Tâm làm mà khổ họa ở thân
Chẳng cần oán trách lại hơn người
Muốn được chẳng bị nghiệp vô gián
Chớ chê chánh pháp luân của Như Lai
Rừng chiên đàn không cây tạp
Rậm kín thâm trầm chỗ sư tử ở
Cảnh tịnh suối rừng dạo một mình
Thú chạy chim bay đều xa cách
Chúng theo sao sư tử con
Ba tuổi liền gầm hét lớn tiếng
Nếu là giả can theo Pháp vương
Trăm năm yêu quái luống mở miệng
Giáo viên đốn chớ nhân tình
Có nghi chẳng quyết ngay phải tránh
Chẳng phải Sơn tăng trình người ta
Tu hành rơi hố đoạn thường
Quấy chẳng quấy phải chẳng phải
Sai một hào ly mất ngàn dặm
Đó tức Long Nữ thành Phật nhanh
Không phải sao thiên sinh hãm đọa
Ta từ sớm đã nhiều học hỏi
Cũng từng thảo sớ tìm kinh luận
Phân biệt danh tướng chẳng biết thôi
Vào biển đếm cát uổng tự khốn
Liền bị Như Lai quở trách nhiều
Đếm trân báu người có ích gì
Đến nay ngơ ngác biết hư hạnh
Nhiều năm uổng làm khách phong trần
Chủng tánh là, hiểu biết nhầm
Chẳng đạt Như Lai viên đốn chế
Nhị thừa tin tấn mất Đạo tâm
Ngoại Đạo thông minh không trí tuệ
Cũng ngu si cũng lẩn thẩn (thờ khạo)
Ngón trên nắm tay sinh hiểu thật
Chấp ngón là trăng uổng ra công
Trong pháp căn cảnh luống lạ lùng
Chẳng thấy một pháp tức Như Lai
Mới được gọi là quán tự tại
Liễu tức nghiệp chướng xưa nay không
Chưa liễu lại phải đền nợ trước
Đói gặp cơm vua chẳng thể ăn
Bệnh gặp thuốc vua sao được dùng
Ở Dục hành Thiền sức tri kiến
Trong lửa hoa sen trọn không hoại
Mạnh thí phạm nặng ngộ vô sinh
Sớm được thành Phật ở tại đây
Sư tử rống – không sợ nói
Than thở mịt mù tham da đát
Chỉ biết phạm nặng chướng Bồ đề
Chẳng thấy Như Lai mở bí quyết
Có hai Tỳ-kheo phạm dâm sát
Ba li ngọc sáng tăng tội kiết
Duy Ma Đại sĩ mau trừ nghi
Lại đồng mặt trời sáng tiêu sương tuyết
Lực giải thoát bất tư nghì
Đây liền thành Thiện tri thức của ta
Bốn sự cúng dường dám từ nhọc
Vạn lượng vàng ròng cũng tiêu được
Thân nát xương tan cũng khó đền
Một câu hiểu rõ vượt trăm ức
Vua trong (của) pháp, tối cao nhất
Hà sa Như Lai đồng cùng chứng
Ta nay hiểu châu như ý này
Người tin nhận đều tương ưng
Thấy rõ ràng không một vật
Cũng không người, cũng không Phật
Đại thiên thế gian bọt trong biển
Tất cả Thánh hiền như điển chớp
Giả sử vòng quanh đỉnh thiết luân
Định Tuệ viên minh trọn chẳng mất
Mặt trời có thể lạnh, mặt trăng có thể nóng
Các ma chẳng thể hoại chân thuyết
Tượng ngựa cao vót lừa đường tiến
Ai thấy châu chấu hay chống xe
Voi lớn chẳng đi đường thỏ chạy
Đại ngộ chẳng chấp ở tiểu tiết
Chớ dòm ống mà chê trời xanh
Chưa hiểu ta nay vì ông quyết.

11. Liễu Nguyên ca của Hòa thượng Đằng Đằng.

Tu Đạo, Đạo không thể tu
Hỏi pháp, pháp không thể hỏi
Người mê chẳng hiểu sắc không
Kẻ ngộ vốn không thuận nghịch
Tám vạn bốn ngàn pháp môn
Chí lý chẳng lìa gang tấc
Biết lấy thành quách nhà mình
Chớ dối tìm làng quận người khác
Chẳng cần rộng học nghe nhiều
Chẳng cần thông minh tài giỏi
Chẳng cần biết tháng thiếu đủ
Chẳng biết năm nào có nhuận
Phiền não tức Bồ đề
Hoa sạch sinh ở bùn nhơ
Người đến hỏi ta làm gì
Chẳng thể cùng họ đàm luận
Buổi sáng ăn cháo đỡ đói
Buổi trưa ăn cơm thật nhanh
Hôm nay mặc tình bốc lên
Ngày mai bốc lên mặc tình
Trung tâm rõ ràng hiểu biết
Mà làm như dáng ngu si.

12. Bài ca của Hòa thượng Lại Tỏa ở Nam Nhạc.

Sừng sửng vô sự không thay đổi
Vô sự đâu cần luận một đoạn
Tâm thẳng không tán loạn
Việc khác chẳng cần dứt
Quá khứ đã qua đi
Vị lai cũng chưa tính
Sừng sửng vô sự ngồi
Đâu từng có người gọi
Công phu hướng ngoài tìm
Đều là kẻ ngu si
Lương chẳng chứa một hạt
Gặp đói chỉ biết nhịn
Thế gian người nhiều việc
Cùng đuổi nhau chẳng kịp
Ta chẳng thích sinh lên trời
Cũng chẳng ưa phước điền
Đói đến thì ăn cơm
Mệt đến thì đi ngủ
Kẻ ngu cười ta,
Người trí mới biết
Chẳng phải ngu si,
Bản thể như thế
Muốn đi thì đi
Muốn đứng thì đứng
Thân mặc một áo rách
Chân mang đôi giày cỏ
Nói nhiều thì nhiều lời
Do đây mà lầm nhau
Nếu muốn độ chúng sinh
Không gì hơn tự độ
Chớ lừa cầu chân Phật
Chân Phật chẳng thể thấy
Diệu tánh và linh đài
Đâu từng chịu huân luyện
Tâm là tâm vô sự
Mặt là mặt cô nương
Kiếp đá còn dời được
Trong đó không biến đổi
Vô sự vốn vô sự
Đâu cần đọc văn tự
Dẹp bỏ gốc nhân – ngã
Ngầm họp ý trong đó
Các thứ nhọc gân xương
Chẳng bằng ngủ trong rừng
Sừng sửng đầu nhìn mặt trời cao
Xin cơm từ đâu ra công
Dụng công mở rộng mênh mông
Lấy thì chẳng được, chẳng lấy tự thông
Ta có một lời dứt lo nghĩ quên duyên
Khéo nói chẳng được, chỉ dùng tâm truyền
Lại có một lời không bằng cho chân
Nhỏ thì tí xíu, lớn thì vô cùng
Vốn tự viên thành, không nhọc luyện tập (dệt vải?)
Việc đời dong dài không bằng núi đồi
Tòng xanh che mặt nhựt, khe biếc, chảy mãi (suối dài)
Mây giăng trên núi, trăng liền nửa đêm
Nằm khối đá gối đầu
Chẳng chầu thiên tử nào muốn vương hầu
Sinh tử chẳng lo lại còn lo gì
Trăng nước vô hình ta luôn an ổn
Vạn pháp đều thế, vốn tự vô sinh
Sừng sửng vô sự ngồi Xuân đến cỏ tự xanh

13. Thảo Am ca của Hòa thượng Thạch Đầu.

Ta kết thảo am không bảo bối
Cơm xong thong dong tính ngủ nghê
Lúc thành trước thấy am tranh mới
Phá rồi lại đem cỏ tranh che
Ở am người trong trần thường có
Chẳng thuộc khoảng giữa và trong ngoài
Chỗ ở người đời ta không ở
Chỗ yêu người đời ta không yêu
Am tuy nhỏ bao trùm pháp giới
Phương trượng người già cùng hiểu rõ
Thượng thừa Bồ-tát tin chẳng nghi
Bậc trung hạ nghe liền thấy lạ
Hỏi rằng am này hoại hay chẳng hoại
Hoại cùng chẳng hoại chủ vốn ở
Chẳng ở Nam Bắc cùng Tây Đông
Trên nền bền chắc là tốt nhất
Dưới tòng xanh sáng trong cửa sổ
Điện ngọc lầu son chưa là đối
Áo nạp trùm đầu vạn sự ngưng
Lúc này Sơn tăng đều chẳng hiểu
Ở am này thôi hiểu biết
Ai khoe phố chiếu tính người mua
Hồi quang phản chiếu liền trở về
Khuếch đạt linh căn không trái hướng
Gặp Tổ sư thân dạy dỗ
Kết cỏ làm am chớ lui sụt
Trăm năm ném bỏ mặc tung hoành
Buông tay mà đi lại không tội
Ngàn thứ nói, vạn thứ hiểu
Chỉ cần dạy ông luôn chẳng muội
Muốn biết trong am người bất tử
Há lìa bỏ túi da ngay nay.

14. Lạc Đạo ca của Hòa thượng Đạo ngô.

Lạc Đạo Sơn tăng buông thả tánh
Trời quay đất chuyển mặc tình nó
Nằm nhàn núi cao không bèn bạn
Riêng hát vô sinh một khúc ca
Ca vô sinh vui xuất thế
Đáng cười thời nhân họa chẳng đắm
Thỏa tình lạc đạo hơn sống tàn
Trương Tam Lý Tứ đều quên hết
Đại trượng phu phải khí khái
Không thuận tình người, không ngăn ngại
Ông nói thuận tức là Bồ đề
Ta gọi xưa nay tự trái tướng
Có lúc quả quyết, có lúc ngu si
Không phải đường ta sao biết được
Đặc đạt một đời thường nhậm vận
Khách quê không làng để trở về
Ngày nay Sơn tăng chỉ như thế
Nguyên xưa Sơn tăng lại làm gì
Thăm Tổ Cơ, không Vương Tử
Thể giống mây bay mất ở cuối đời
Từ xa xưa vẫn khoát ý nạp y
Đã qua mấy phen ấm lạnh
Chẳng phải là chân, chẳng phải Ngụy
Tránh trống lục thần mà quì lạy
Sáng suốt một Đạo mây sông Hán
Núi xanh duyên nước chẳng giống nhau
Bản tánh thành, không biến đổi
Kết sừng màng lụa chẳng ngại nhau
Hoặc vận tâm từ bi hỷ xả
Hoặc gặp người mà dùng gậy mở
Từ bi ân ái lạc cột ràng
Gậy đánh dạy họ phá ân ái
Báo ở dưới trăng người lữ thứ
Nếu có ân tình ta vì đổi

15. Nhất Bát ca của vô danh.

Ngăn tiếng kèn ồn ào khó chịu
Đều là dằng dặc gây đánh nhau
Như đói ăn muối lại càng khát
Uổng cả một đời cỏ xanh xanh
Rốt ráo chẳng thể biết trước sau
Ném quách thây chết thoát chỗ nào
Khuyên anh nỗ lực cầu giải thoát
Nhàn sự đến lúc cần rút lại
Lửa rơi trên thân phải phủi nhanh
Chớ đợi gặp việc gọi Bồ-tát
Trượng phu nói thoại cần thông suốt
Chớ học người ngu chịu xoa vuốt
Khi đuổi trong kết học buông phủi
Cũng học nhu hòa cũng gạo thô
Cũng cạo tóc cũng khoát áo (y)
Cũng học lối sống theo phàm phu
Nói thẳng với anh anh chưa hiểu
Lại làm trường ca ca một bát
Ca một bát một trong nhiều nhiều trong một
Chớ cười người quê ca một bát
Từng đem một bàt độ Ta bà
Trời canh vắng vẻ một vừng trăng non
Bấy giờ bóng không trùm vạn tượng
Mấy chỗ phù sinh tự phải quấy
Một nguồn thanh tịnh không lui tới
Lại chớ đem tâm tao bọt nước
Trăm lông chảy máu là giáo ái
Chẳng biết tịnh tọa chân như Địa
Trên đầu người khác chim làm tổ
Muôn đời là con vua kim luân
Chỉ cái chân như Linh giác đó
Dưới cội Bồ đề chúng sinh
Độ hết chúng sinh chẳng sinh tử
Chẳng sinh chẳng tử chân trượng phu
Vô hình vô tướng Đại Tỳ Lư
Trần lao diệt hết chân như hiện có
Một quả viên minh vô giá châu
Mắt chẳng thấy, tai chẳng nghe
Chẳng thấy chẳng nghe chân thấy nghe
Xưa nay một câu không lời nói
Ngày nay ngàn lời cưỡng làm phần
Cưỡng làm phần, cần lắng nghe
Mọi người đều có tánh chân như
Giống như vàng ròng ở trong khoáng
Luyện đi luyện lại thể vàng sạch
Chân là vọng, vọng là chân
Nếu trừ chân vọng lại không người
Chân tâm chớ dối sinh phiền não
Ăn mặc tùy lúc nuôi sắc thân
Tốt cũng đắm, yếu cũng đắm
Tất cả vô tâm không nhiễm trước
Cũng không xấu cũng không tốt
Hai bờ thản nhiên Đạo bình đẳng
Thô (dở) cũng ăn mà tế (ngon) cũng ăn
Chớ yhọc phàm phu tướng thượng quán
Cũng không thô, cũng không tế
Thượng phương hương tích không gốc rễ
Ngồi cũng đi đi cũng ngồi
Dưới cây sinh tử quả Bồ đề
Cũng không ngồi cũng không đi
Không sinh đâu cần tìm vô sinh
Sinh cũng được, tử cũng được
Nơi nơi đương lai gặp Di Lặc
Cũng không sinh, cũng không tử
Ba đời Như Lai đều như thế
Lìa thì đắm, đắm thì lìa
Trong môn huyễn hóa không nghĩa thật
Không thể lìa, không thể đắm
Chỗ nào lại cầu không bình thuốc
Lúc nói thì im, lúc im thì nói
Nói im dọc ngang đều không chỗ
Cũng không nói, cũng không im
Chớ gọi Đông Tây là Nam Bắc
Giận tức mừng, mừng tức giận
Ta từ hàng ma chuyển pháp luân
Cũng không giận, cũng không mừng
Nước lìa sóng, sóng tức nước
Tham thì bỏ mà bỏ thì tham
Chẳng lìa trong ngoài và khoảng giữa
Cũng không tham mà cũng không bỏ
Vắng lặng trống không chẳng thể nắm
Khổ khi vui, vui khi khổ
Chỉ ngăn (thế?) tu hành dứt cửa nẻo
Cũng không khổ, cũng không vui
Xưa nay tự tại không buộc ràng
Cấu tức tịnh, tịnh tức cấu
Hai bên rốt ráo không trước sau
Cũng không cấu, cũng không tịnh
Đại thiện đồng một tánh chân như
Thuốc là bịnh, bịnh là thuốc
Đến lúc hai việc cần nắm lấy
Cũng không thuốc, cũng không bịnh
Chính là chân như tánh linh giác
Ma làm Phật, Phật làm ma
Trong gương tìm hình, sóng trên nước
Cũng không ma, cũng không Phật
Ba đời xưa nay không một vật
Phàm tức Thánh, Thánh tức phàm
Keo xanh trong sắc, muối trong nước
Cũng không phàm, cũng không Thánh
Vạn hạnh tổng trì không một hạnh
Giả trong chân, chân trong giả
Tự do phàm phu khởi vọng trần
Cũng không chân, cũng không giả
Nếu chẳng gọi sao có dạ
Xưa nay không họ cũng không tên
Chỉ ma bốc cao tin mà đi
Có lúc chợ búa đều quán thịt
Một đóa sen hồng sinh trên lửa
Cũng từng vác gậy dạo kinh Lạc
Thân giống mây bay không định hướng
Huyễn hóa do đó giống ở tạm (nhờ)
Chỗ thuộc nhà khác lại thanh hư (trống không)
Nếu tìm giới, ghẻ loét ba độc khi nào lành
Nếu tìm thiền, ta tự dọc ngang gối đá ngủ
Rất đáng thương chẳng phải điên
Thế gian xuất thế trời trong (của) trời
Người thời ấy chẳng hiểu ý trong đây
Đánh dính bên Nam động bên Bắc
Nếu tìm pháp thì hỏi Ca-diếp trong núi Kê Túc
Đại sĩ cầm y ở trong đó
Xưa nay chẳng cần cầu chuyên giáp
Nếu tìm kinh, pháp tánh chân nguyên không thể nghe
Nếu tìm luật, cùng tử chẳng cần dạy chạy ra
Nếu tìm tu, tám vạn phù đồ (tháp) chỗ nào lại
Chỉ biết lá vàng ngăn gào khóc
Chẳng biết mây đen che mặt trời
Chớ quái lạ nói không thứ lớp
Sàng lọc vào dần tế trong thô.

Chỉ tế trong thô cũng không tức là viên minh chân thật đế.

Chân thật đế vốn chẳng phải chân, chỉ là danh vặn (tiếng khen) tức là trần.

Nếu hướng trong trần mà hiểu chân thật – Liền là đường hoàng người xuất thế – Người xuất thế chớ tạo tác – Một mình riêng bước không đòi hỏi (trói cột?) – Không sinh không tử không Niết-bàn – Xưa nay sinh tử chẳng liên can – Không thị phi (phải quấy) không động tịnh – Chớ lừa (dối) đem thân vào giếng không – Không thiện ác chẳng tới lui – Cũng không gương sáng treo đài cao. Sơn tăng thấy hiểu chỉ như thế – Chẳng tin theo khác tạo kiếp tro.

16. Phù Âu ca của Hòa thượng Lạc Phổ.

Mây trời mưa xuống nước trong sân
Trên nước bập bềnh thấy bọt nổi
Bọt trước mất rồi bọt sau sinh
Trước tiếp nhau mãi không thôi
Bởi nhân giọt mưa nước thành bọt
Lại do gió đập bọt về nước
Chẳng biết bọt nước tánh không khác
Tùy nó chuyển biến mà có khác
Ngoài sáng chói, trong trống không
Trong ngoài long lanh như châu thật
Chính ở lắng sóng trông như có
Kịp khi xao động lại như không
Có không động tịnh việc khó nói
Có hình tướng trong không hình tướng
Chỉ biết bọt kia từ nước sinh
Há biết nước cũng từ bọt sinh
Quyền đem bọt nước ví thân ta
Năm uẩn trống không giả lập người
Hiểu rõ uẩn không bọt chẳng thật
Mới hay thấy rõ xưa nay chân

17. Mục Hộ ca của Hòa thượng Tô Khê.

Nghe nói Nạp Tăng chăn giữ
Mặc tình tiêu dao không trụ
Một bát, một áo bách nạp
Để mà sống tạm qua ngày
Vì cầu chí lý tham tìm
Chẳng sợ nóng lạnh cay đắng
Lại từng bốn biển dạo chơi
Núi sông gió mây đầy bụng
Trong trừ giới luật tinh nghiêm
Chẳng học oai nghi bước đi
Ba thừa cười ta bất tài
Ta cười ba thừa lừa dối
Người trí quyền lập bậc thang
Đại Đạo vốn không mê ngộ
Người Đạt chẳng nhờ tu trị
Chẳng ở lời lẽ nói năng
Dụi mắt nên thấy không hoa
Chớ ngăn Vương hầu không đoái
Đạo nhân bản thể như như
Chẳng phải biết Phật chỗ đi
Sống thì cũng như mặc áo
Chết thì khác nào cởi áo
Sống cũng không mừng không lo
Tám gió há phải kinh sợ
Tướng ngoài cũng giống người ngu
Trong bụng chẳng luôn làm cao
Đời sống chẳng có một xu
Dám cùng Quân vương so giàu
Người ngu buông tay ghen ghét
Kẻ trí gật đầu khen nhau
Ai biết hình nộm giật dây
Ca múa đều do hạnh chủ
Một lời nói với các người
Đánh vỡ bình vẽ về đi

18. Cổ Kính ca ba bài của Thiền sư Pháp Đăng Thái Khâm.

* Bài 1:
Đều nói gương xưa chẳng từng thấy
Mượn người thời nay thấy một khắp
Trước mắt chẳng thấy một mảy may
Rồng suốt sáng lạnh ngưng một mảnh
Ngưng một mảnh không mặt lưng
Mô mẫu điểm trang chẳng xứng tình
Phan sinh quay đầu nhiều mừng khen
Sao mừng vui, sao lo sầu
Xấu đẹp do đâu mà có đó
Đó chỉ là do đam mê
Diễn nhược sớm nhìn sợ lúc chạy
Suy lường tử tế mà lại có
Ta hỏi điên cuồng chẳng tạm về
Khóc lóc hướng ta tiếng bi ai
Nghẹn ngào chưa thể nói ra được
Đầu ông cùng bóng dong dài thay
Dong dài thay đã lâu rồi
Trong đó lại mở mây mê
Cắt tay cùng đi lên đài cao.

* Bài 2:
Ai nói kính xưa không gương mẫu
Xưa nay ra vào cửa nẻo nào
Cửa nẻo khi ông xem chẳng thấy
Liền đây vì ông toàn hiển bày
Toàn hiển bày, cùng ôn đời trọn bảo hộ
Nếu gặp tri âm đến thỉnh ích
Gặp người chẳng được dối (nhẹ) phân phó
Chỉ mặc tình thấy mặt, chẳng cần sinh sợ hãi
Xem lấy lúc này diễn nếu nhiều
Thẳng đến như nay thành lầm lẫn
Như nay chẳng tỉnh ảnh rõ ràng
Lại là lúc ấy đồng một đoái hoài
Đồng một đoái hoài khổ khổ khổ!

* Bài 3:
Kính xưa sáng tỏ rực rỡ
Rực rỡ khắp chiếu hà sa
Đến chỗ sao gọi tên chữ
Trừ ta lại còn có ai
Quá khứ vị lai hiện tại
Vết ngọc nhỏ trên gương chư Phật
Vết ngọc nhỏ dơ hết không vật
Hoa sen ở trong lửa chân này
Ngàn đóa vạn đóa hoa sen
Đóa đóa đều có Phật Thích Ca
Ai nói Cu thị nhập diệt
Ai nói xuyên gối mầm tranh
Chẳng tin trong gương xem lấy
Xe dê xe nai xe trâu
Người thời ấy chẳng biết kính xư
Đều nói xưa nay thanh tịnh
Chỉ xem thanh tịnh là giả
Chiếu được hình dung chẳng quán
Hoặc tròn hoặc ngắn thành dài
Nếu có mảy may đều bịnh
Khuyên ông chẳng bằng đánh phá
Kính tan vết tiêu có thể sáng (trong suốt)
Cũng thấy đổ khẩu tỳ da
Cũng biết viên thông dư chút ít.

19. Biến Tham Tam-muội ca của Đạo Tầm Long Hội ở Đàm châu.

Góc biển chân trời tham tri thức
Khắp hỏi Tuệ (tư huệ) ta toàn gắng sức
Sư bèn trách ta lui bước tìm
Tỉnh táo rộng lớn từ đây dứt
Thấy các phương thùy đới trực
Thiện Tài gặp chỗ khó không dạ
Gậy đánh hét rồi bày sâu lạ
Đuổi đi giựt lại xem lạ kỳ
Ải Triệu châu – Trèo núi tuyết
Đấp núi Hạp trước nghiệm hư thật
Căn cứ chứng linh mà mở vạn cơ
Múa ngang đạo Tổ nghe ba cõi
Cuốn mở lớp lớp ai hiểu rõ
Thôi trình thức ý lừa ngờ suy
Nạp tử nhướng mày trợn mắt hét
Huỳnh Hải lộn ngược mỏ Côn lôn
Quy Sơn Ngưu Đầu Đạo Ngô hát xướng
Mã Sư hăng hái trình tướng viên
Cầm nước ném kim làm phép sau
Nắm gương ôm phướng xem thợ trước
Quảng Lăng ca ai hát tiếp
Định nối cung thương khác khó bày
Người đá uẩn sắc bị roi đánh
Ngựa gỗ chạy hý trên Phạm thiên
Vàng lệ thủy, ngọc lam điền
Họp ngọn Chúc Dung lo sóng tương
Trăng tròn lắng khe tòng giọng thanh tao
Rồng kia nổi mây xem rất đẹp

20. Ngoạn Châu ngâm hai bài của Hòa thượng Đơn Hà.

* Bài 1:
Linh Châu Bát Nhã diệu khó lường
Trong biển pháp tánh mà nhận được
Ẩn hiển thường dạo trong năm uẩn
Trong ngoài ánh sáng thần lực lớn
Châu này không lớn cũng không nhỏ
Ngày đêm ánh sáng đều luôn chiếu
Lúc tìm không vật lại không dấu vết
Ngồi đứng theo nhau luôn rõ ràng
Huỳnh đế từng dạo ở Xích thủy
Tranh nghe tranh cầu đều không được
Không hình không tâm mà được châu
Hay thấy hay nghe là hư ngụy (dối trá)
Thầy ta quyển chỉ dụ Ma-ni
Biện (cưu) vô số người chìm ao xuân
Sao (tranh) lấy ngói gạch đem làm báu
Người trí an mà nhận được
Sum la vạn tượng hiện trong ánh sáng
Thể dụng như như chuyển không chuyển
Vạn cơ tiêu khiển trong tấc tâm
Trong mọi lúc dùng phương tiện khéo
Thiêu 6 giặc đốt các ma
Hay xô núi Ngã làm cạn sông ái
Long Nữ Linh Sơn hiện cúng Phật
Trẻ nghèo dưới áo mấy lần lửa
Cũng gọi tánh cũng gọi là tâm
Không tánh không tâm vượt cổ kim
Khi toàn thể sáng (nói) sáng chẳng được
Lúc này quyền làm lọng châm ngâm

* Bài 2:
Biết được báu trong áo
Say vô minh tự tỉnh
Trăm xương tuy nát tan
Một vật trấn mãi linh
Biết cảnh lộn lạo không phải thể
Thần châu chẳng định hình
Ngộ thì ba thân Phật
Trốn nghi vạn quyển kinh
Ở tâm tâm suy lường
Ở tại tai nghe hỏi
Vô hình trước trời đất
Suối huyền linh mờ mịt
Vốn cứng không cần rèn luyện
Vốn tịnh không cần lắng dừng
Bàng bạc ánh nhật sáng
Lung linh sao sáng sớm
Điềm sáng luôn chảy mãi
Chân khí đụng liền sinh
Gương chiếu không động vắng
Màng lồng pháp giới sáng
Bẻ (bỏ) phàm công chẳng mất
Vượt Thánh quả không đầy
Long nữ tâm hiến dâng
Xà vương miệng tự trình
Người giữ ngỗng liền sống
Ý Huỳnh tước cũng nhẹ
Hiểu lời chẳng khóa lưỡi
Hay nói chẳng phải tiếng
Dứt lên Di Hãn Mạn
Không bờ đều không bình
Diễn giáo không là nói
Nghe tên chớ nhận tên
Hai bên đều chẳng lập
Trung đạo chẳng cần đi
Thấy trăng thôi nhìn ngón
Về nhà khỏi hỏi đường
Biết tâm tâm tức Phật
Còn Phật nào lại thành

21. Hoạch Châu ngâm của Trưởng lão Quan Nam.

Ba cõi hề như huyễn sáu Đạo hề như mộng
Thánh hiền ra đời hề như điện
Cõi nước cũng như bọt trên nước
Vô thường sinh diệt ngày biến đổi
Chỉ có Ma-ha Bát Nhã bền
Chắc như kim cang chẳng thể tan
Mềm như Đẩu-la đại đẳng không
Nhỏ hơn vi trần chẳng thể thấy
Ôm giữ khiến tụ mà không tụ
Phải dẹp khiến tan mà không tan
Nghiêng tai muốn nghe mà chẳng nghe
Trợn mắt nhìn kỹ mà chẳng thấy
Ca lại ca trên đá Bàn đà cười ha ha
Cười lại cười dưới bóng tòng xanh cao tiếng gọi
Từ đây mà được tâm châu này
Đế Thích Luân ương đều chẳng chẳng cần yếu
Chẳng phải Sơn Tăng riêng ra làm
Từ xưa Tiên Hiền đều làm điều này
Chẳng ngồi thiền, chẳng tu đạo
Mặc tình tiêu dao chỉ hiểu gì
Chỉ hay vạn pháp chẳng can dự
Vô thủy đâu từng có sinh già.

22. Lệ Giác ngâm (2 bài) của Hòa Thượng Trí Nhàn Hương Nghiêm.

1. Lệ Giác ngâm:
Đầy miệng nói năng không chỗ nói
Sáng suốt hướng người Đạo (nói) chẳng quyết
Gấp gắng sức siêng mà cắn răng
Vô thường đến rồi cứu chẳng thấu
Trong ngày nói lời sai
Vui mài dùi xưa, tịnh đưa cao
Lý giác hết tự giữ gìn
Việc đời này trọn chẳng nói
Huyền học cầu khác cổ Lão ngâm
Thiền học cần cùng tâm ảnh dứt.

2. Qui Tịch ngâm, tặng ông Đồng Trụ
Đồng Trụ Đạo nhân hơn bảy mươi
Cùng lìa thành quách vui núi rừng
Thân như gỗ lạnh, răng tâm mất
Chẳng nói lời Đường, thôi Phạm thư
Tâm hẹn chỗ hết, thân tuy mất
Đệ tử Như Lai dạng Sa-môn
Tin sâu cung kính Bát tháp thành
Vòi vọi để trên tay thanh sơn
Kẻ quán tham Đạo chẳng hư dối
Thoát bỏ hình hài rất cao thượng
Từ xưa chẳng nói việc sáng nay
Trong tối chôn đầu ẩn huyền sướng
Chẳng lưu dấu vết khác nhân gian
Thần quang thâm diệu no ánh sáng.

23. Tâm Châu ca của Hòa thượng Thiều Sơn.

Sơn tăng tự đạt không môn lâu
Tôi luyện Tâm châu công đã câu thành
Châu về long lanh chủ khác phần
Thường thường tiếng như sư tử rống
Sư tử rống chẳng phải nghĩa thường
Đều nói Phật tánh lý chân như
Có lúc thường thường tự suy tư
Rỗng sáng Đại ý tâm vui sướng
Hoặc tạo kinh hoặc tạo luận
Hoặc nói tiệm, hoặc nói Đốn
Như ở chư Phật vận thần thông
Hoặc ở phàm phu nỗi mến tiếc
Tâm châu này như trăng trong nước
Góc bể chân trời không khác nhau
Chỉ nhân mê ngộ có sai khác
Do đó Như Lai nói nhiều thứ
Địa ngục thủ, ngạ quỉ thú
Sáu Đạo luân hồi không tạm dừng
Đây chẳng phải chư Phật không từ bi
Há là Diêm vương làm giao phối
Khuyên luôn luôn biết thể sâu
Thấy ở Tâm châu chớ lãng quên
Năm uẩn toàn thân còn chẳng biết
Trăm xương tan rồi tìm chỗ nào?

Hàn Lâm Học Sĩ Thị Lang Công Bộ kính lặng Lễ Bộ Thượng Thư là Văn Công Dương Ức Nhậm làm Bí Thư Giám tri ngày ở Nhữ Châu từng có thơ gởi Lý Duy Nội Hàng, kể rõ trước sau về Sư thừa.

– Thư rằng:

Bệnh do từ xưa ngu xuẩn nhận được đoái tưởng nêu hỏi ý chỉ của Nam Tông từ lâu đã tiếp giúp thượng quốc, động tịnh hỏi hang chu tuyền sách phát khiến mổ tâm có chỗ đến, kẻ ngó vách không thẹn. Thật là ta từ chiếu trên giường. Huống lại là Cô An Công Đại sư thường chỉ dạy. Từ khi Song lâm ảnh mất, 1 chiếc dép về Tây, trong tâm mịt mờ chẳng biết ý chỉ. Vẫn nhiều bịnh lâu năm thần lự mê hoảng. Gần đây biện lại phương vị, lại được Vân Môn Lượng Công Đại sĩ đoái xem chỉ thú của Cảo Bồng Lượng chính cùng An Công đồng dấu đều từ Lô Sơn qui Tông Vân Cư mà đến đều là hậu duệ của pháp nhãn. Năm rồi nhờ trấn thủ quận này, vừa gặp Quảng Tuệ Thiền Bá, thật nối ngài Nam Viện Niệm. Niệm nối ngài Phong Huyệt, Phong Huyệt nối ngài Tiên Nam Viện, Nam Viện nối ngài Hưng Hóa, Hưng Hóa nối ngài Lâm Tế, Lâm Tế nồi ngài Huỳnh Nghiệt, Huỳnh Nghiệt nối ngài Tiên Bá Trượng Hải, Hải nối ngài Mã Tổ. Mã Tổ sinh ra Nhượng Hòa thượng. Nhượng tức là Đích tôn của Tào Khê.

Ăn chay cốt giản dị, ăn rồi rãnh ranh hoặc được mời mà đến hoặc theo lệnh vua mà ở, học hỏi nhiều gặp trệ thì mở nhanh, nửa năm sau thì rỗng rang hết nghi, như quên chợt nhớ, như ngủ mới thức dậy. Các vật ngại trong lòng từ xưa bỗng nhiên rơi mất, việc chưa sáng từ nhiều kiếp bỗng nhiên tiền chắc chắn cũng rỗng rang chọn lựa, ứng tiếp không khập khiểng. Lại nghĩ Tiên Đức đã đốc suất nhiều tham tìm, như ngài Tuyết Sơn trên 9 lần, ngài Động Sơn trên 3 lượt. Ngài Đầu Tử nối ngài Đức Sơn, ngài Lâm Tế được pháp với ngài Đại Phu, cuối cùng thì nối ngài Huỳnh Nghiệt, ngài Vân Nham nhiều lần được ngài Đạo Ngô dạy dỗ, bèn làm con của Dược Sơn. Ngài Đơn Hà được Mã Tổ ấn khả mà làm hậu duệ của Thạch Đầu. Ở xưa có nhiều người đối với lý không hiềm nghi. Bịnh là do đệ tử nối pháp thật thuộc ở Quảng Tuệ mà tự đề khích thật sinh ra Miết Phong. May thay may thay!

– Thị lang hỏi Quảng Tuệ Hòa thượng: Bình thường Hòa thượng có nói: Tất cả tội nghiệp đều do tiền của sinh ra. Khuyên người, coi thường (đừng tham) tài lợi huống là chúng sinh Nam Diêm phù đề lấy tiền của làm mạng sống. Cõi nước lấy tiền của đề nhóm tụ người. Trong giáo có tài pháp 2 thí. Sao được khuyên người coi thường tiền của. Quảng nói trên đầu nhọn cột phướng có đầu rồng sắt. Thị lang nói trong Hải Đàn con ngựa con giống con ngựa ô lớn. Quảng nói: Gà sở chẳng phải là phụng núi Đan. Thị lang nói: Phật diệt độ đã 2.000 năm Tỳ-kheo sao ít hổ thẹn. Hỏi: Môn Tăng là Biểu Trừng nhân có lời nói: Trên trời không có Di Lặc, trên đất không có Di Lặc, chưa biết Di Lặc ở đâu? Trừng nói gồ trên tay. Thị Lang nói tội có chỗ về. Trừng nói: Biết lỗi người khó được. Thị Lang nói ăn lấy gậy Trừng hét. Thị Lang nói chẳng thể buông lỗi.

Thị Lang hỏi phò mã rằng: Thích Ca 6 năm khổ hạnh thành được việc gì? Ưu nói: Gánh vác biết củi nặng. Hỏi: 1 người mù dẫn chúng mù lúc đó thế nào? Ủy nói: Mù. Thị Lang: Rõ ràng Ủy liền thôi.

Vua Đồng Quang hỏi Hưng Hóa Hòa thượng rằng: Trẫm thâu được báu Trung Nguyên chỉ là không người trả giá. Hưng Hóa nói: Xin bệ hạ cho xem báu. Vua: Lấy tay chỉ từ đầu đến chân mình. Hưng Hóa nói: Báu của Quân vương ai dám trả giá. – Huyền Giác nỏi: Chỉ như mắt của Hưng Hóa ở đâu, nếu chẳng chịu thì lỗi ở đâu. Thị Lang nói: Hưng Hóa mặc đối đáp sao là chịu Trang Tông hay chẳng chịu Trang Tông thử biện xem?

Nhân Tăng đàm đạo Thị Lang nói: Đạo chẳng lìa người, người hay hoằng Đạo (người hoàng được Đạo?) – Đại phàm người tham học trong suốt 12 giờ (24 giờ) luôn chiếu cố chẳng thấy được Đạo của Nam Tuyền. 30 năm xem 1 con trâu nước đực nếu xâm phạm lúa thóc của người khác thì nắm mũi kéo lại, như nay đã thành trâu trắng ở trên đất (lộ địa?), trên đất rộng thả nó không chịu đi. Các người phải luôn chẳng nắm chút (tinh thái) thì chẳng thể nói Thiền Đạo. Lúc tiện có cái chiếu đến đáy đạo lý. Khi chọn rau làm mùa chẳng thể không đi. Như gà ấp trứng, nếu bỏ đi thì bơi ấm chẳng nối tiếp thì không thành con. Như nay vạn cảnh sum la 6 căn phiền động lại mất chiếu cố (ngó ngàng đến) thì tan thân mất mạng chẳng phải là việc nhỏ, nay lại chịu duyên đời này mà bị sinh tử cột trói. Bởi vì trần kiếp đến nay đã thuận tâm sinh diệt bị nó lưu chuyển cho đến như nay. Muốn biết trâu trắng lộ địa chăng, thử kéo lỗ mũi xem. – Thị Lang nói Hòa thượng Huyền Sa nói: Trong nước Đại Đường việc trong Tông Môn chưa từng có người nêu lên. Nếu có người nêu lên thì khắp nơi mọi người đều mất tánh mạng giống như chùy sắt không lỗ. 1 thời quên mũi nhọn kết lưỡi đi. Lại nói là rất đạo lý. Như nay giả lập chủ khách. Động thì 2 mảnh da dựng ngón tay, đưa cao phất trần, bỗng thành tri kiến điên đảo, thuận theo ý điên của ông dạy ông có chỗ bày câu hỏi. Nếu là người mắt sáng thì trước sao nắm lấy ra được. Chỉ như Lỗ Tổ Hòa thượng thấy Tăng đến thì quay mặt vào vách. Ngài Trường Khánh nói đất nào tiếp người. Năm lừa được 1 cái đi. Ta nói Lỗ Tổ cũng chỉ là chẳng biết xấu hổ. Người sáng mắt khác sao lại chịu như thế. Nay việc không được cùng các người làm tri kiến điên đảo 1 như kết khăn làm ngựa, dụi mắt thấy không hoa. Thượng tổ (Tổ xưa) nói: Đó là khai Phật tri kiến, Thị Phật tri kiến, ngộ Phật tri kiến và nhập Phật tri kiến. Dạy người khác mặc tình nói, đè xuống nhiều ít oai quang – Lại nói các người phần thượng có thiếu sót cái gì. Tuy thế, nếu ta chẳng mặc cùng ông nghe biết, ông lại có chỗ nào thấy được. Người xưa nói kẻ biết ân rất ít. Lại nói nhân rất nhiều ân người do đây mà chẳng sáng, hỏi lấy lộ trụ đi. Thị Lang nói: Việc này rất khó. Thích Ca và Lão Tử trong 21 ngày suy tư lại muốn vào Niết-bàn bị Đế Thích Phạm Vương ân cần 3 lần mời thỉnh, bất đắc dĩ mà phải chịu. Đầu tiên ở vườn Lộc uyển, cuối cùng ở thành Câu-thi-la, trong 49 năm ở giữa ra làm Phật sự lớn lao nói 5 thừa 12 phần giáo, như bình rót nước, trước sau đều ở hội Linh Sơn. Mắt nhìn Ca-diếp bảo đại chúng rằng: Ta có chánh pháp nhãn đã giao phó cho Ma-ha Đại Ca-diếp. Lại nói: Ta trong 49 năm không từng nói 1 chữ. Đây là lý lẽ gì. Nếu các người phần Thượng đắm mê 1 thứ bỏ không được. Các người ai nấy đều có sự kỳ đặc. Ở chỗ gọi kỳ đặc sớm là không trúng. Ta nói Thích Ca là tướng bại quân, Ca-diếp là người tan thân mất mạng. Các người lại hiểu thế nào? Chẳng thấy nói Niết-bàn sinh tử đều là lời mộng, Phật cùng chúng sinh đều là lời nói thêm. Phải như thế hiểu lấy 1 chẳng nên hướng bên ngoài mà tìm cầu. Nếu ở đây cũng chưa sáng, thì dám nói các người rất trái nhiều không ít. Thị Lang đưa bút lên luận rằng: Hiểu vạn vật là mình chỉ là Thánh nhân thôi sao? Như nay núi sông đất liền cây cối nhân vật đầy đất là đồng hay khác. Nếu nói là đồng thì khắp các vật mọi thú đều chẳng đồng. Nếu nói là khác thì sao người xưa lại nói hiểu vạn vật có mình, thì hiểu thế nào? Chỉ như trong giáo nói: Nếu có 1 người phát chân qui nguyện (về nguồn), thì mười phương hư không cùng lúc xiềng xích rơi hết. Cổ Đức cũng nói: Nếu người biết được tâm, đất liền không tấc đất. Đây là rất có lý. Ngay đây hết cả mười phương thế giới đều gom vào mắt ông. Tất cả chư Phật trời người quần sinh các loại đều nương oai quang của ông mà lập ra, cần phải tin chắc như thế mới được – Thị Lang trước khi lâm chung 1 ngày đã tự viết 1 kệ đưa cho người nhà bảo hôm sau đưa đến chỗ Lý phò (phụ) mã. Kệ rằng:

Bọt sinh và bọt mất
Hai pháp xưa nay bằng
Muốn biết chỗ chân về
Triệu châu ở Tây Đông viện.

Ủy tiếp được kệ nói: Trong miếu Thái Sơn bán giấy tiền.

Trích trong Thánh Quảng Đăng Lục quyển thứ 18

Năm Diên Hựu thứ 3, năm Bính Thìn, ở Tứ Minh có Bí Sô Hy Vi đề xướng việc Y Bát tự nuôi sống – Theo Lô Sơn Ẩn Am cựu Bản phiên san ở Đạo tràng thiền U am mà làm các Thiện lợi để tin báo 4 ân, dưới giúp ba cõi, pháp giới hữu tình đồng viên chủng trí.

* Lời Bạt:

Bản Cảnh Đức Truyền Đăng Lục trên là do Tăng Cũng Thần ở viện Thiết Quán Âm tại Hồ châu soạn ra sách viết xong đem dâng chốn kinh sư (dâng lên vua quan ở kinh sư). Trong lúc đi đường đã đưa chó một vị Tăng đồng thuyền cùng xem. Một đêm nọ vị Tăng ấy lén lấy sách đem đi. Kịp đến kinh thì Đạo Nguyên Giả đã dâng lên mà bị đền tội. Việc này cùng Quách Tượng trộm đem chú Tú Trang Tử thì đồng. Củng Thần nói: ý tôi muốn làm sáng Đạo của Phật Tổ mà thôi. Phàm đã ra làm thì ở đây hay kia đều đồng là tội vì danh lợi, thì dứt khoát không có (nói tới). Dụng tâm của Củng Thần tôi như thế, so với người Khổng Tử, người mất cung mà tìm lại được thì ý đồng mà tôi cũng chung như thế. Lại được Dương Văn Công chọn đủ pháp nhãn xem là cương định. Sách này do đó rất đáng tin. Phàm Tục Đăng Lục trách Tăng nhặt việc mà chịu tên kim xí để làm gián đoạn kẻ loạn chân. Hoặc có người còn nghi Phật Tổ truyền pháp kệ không có người truyền dịch, đây là loài sâu mùa hạ hiểu biết xuân thu. Phật Tổ tuy nói truyền mà không truyền, đến như nhân giao phó há chịu chẳng biết. Lại Tổ Đạt-ma đủ Chánh biến tri, tiếng Hoa Ấn ắt đều thông suốt. Xem chỗ hỏi đáp sao có truyền dịch. Đây như người ngu ở đời bảo giáo ngoại biệt truyền bất lập văn tự (ngoài giáo truyền riêng không lập chữ nghĩa), liền nghi Lăng Già kinh Tông đã có, không phải là Đạt-ma đem đến, há chẳng ngang ngược (trái lẽ) sao? Vị Tăng Chánh Tri Tạng ở chùa Đại Trung tại Phước châu, vì tránh giặc loạn mà đến Văn Tịch Đạo Ách mà mộ duyên. Lại in sách này cho tiện Đạo tục, mang đến tôi xem nhờ làm tựa ở cuối sách vậy.

Năm Thiệu Hưng (Nhâm Tý), ngày 10 tháng Đầu Đông. Trường Lạc Trịnh Ngang, kính lời.

– Lời sớ của Hòa thượng Hoằng Trí Thiên Đồng soạn.

Trong Đạo khu thì Hư Lý chẳng có ta (Ngã?) mà lấy danh tượng; trong Linh Cơ thì phát trí chẳng có ta mà lánh khỏi Hóa thông. Một niệm thấu suốt nguồn cội, 6 nghĩa đủ thì thành thần dụng, ra hôi mũi vui từ miệng Phật sinh. Trong khoảng nháy mắt, trong khoảng khảy móng tay, rộng khắp như Lôi Long phá chập, cháy sáng như Vụ Báo biến văn, truyện các phương nạp tử làm 1 bậc trượng phu, phù hợp phù mà qui cũ đầu nhau, tâm ấn tâm nói im đều đến, đèn đèn nối ngọn, phân ánh sáng chiếu khắp thế gian chẳng dứt, lá lá thơm lừng, nối linh chủng chẳng khô sắc, mà nối liền Tổ phả. Sư nối Tông ai, dày đặc người nối gót, đích đích con khắc gia, cương nhu đều được, rực rỡ thường vàng trăm luyện truất chẳng dời, khu khu ôm giữ tam hiến chi phác chẳng thể hẹn. Đào ao được trăng mà khó khế, chặt cỏ ném kim, ra khỏi lò nung mà phóng quang, vào kềm đập mà thành vật dụng. Từ được thọ dụng liền cầu chứng minh mà si si hòa hòa. Buông giáo trên lưỡi lông mọc mà lỗi lỗi lạc lạc. Gõ khiến trán đổ mồ hôi, múa quyền đáng sợ. Dõng ấy liền đến thì bứt nhổ râu cọp, ra thế múa gậy, lại sợ xem lấy chơi rắn bằng tay (thủ đoạn?) phân ra tròn khuyết ứng dụng họp nghi. Vị bày chánh thiên, tùy cơ trúng phép, mảy may có sai sót mà trời đất cách xa nhau tí chút chưa sạch thì ruồi kiến mãi bu. Chẳng nghe chẳng thấy mà hàng ma. Cái đó chẳng phải phiếm phiếm (phù phiếm) tự hộ tự ứng mà làm chủ. Cho là tỉnh táo biển ở trên đầu, sự sự trốn đi, trong túi vải mà được các thứ dài ngắn ở ta. Bảo Công đầu gậy dao cắt, tiết tấu do mình vạn hồi hoài trung hoa cổ (vạn hồi trống hoa trong lòng). Tăng già dương chi dâng lên Đại sĩ, vỗ bảng mà ca, lưới phương câu ba ba. Bổn phận công phu lặn mò tôm hến. Bình sinh vui sướng, ứng tiếp cái diệu của già xay, đối đáp cái phương của dùi đục. Cơ luân như điển cuốn, hỏi đáp như gió chạy. Câu đánh cỏ rắn sợ, công thăm gậy bóng cỏ. Cắn mổ đồng thời, tâm mắt chiếu nhau. Mặc tình bốc lên mà không lụy, lòng bình thường bằng phẳng không ràng cột, nhân duyên xuất gia hành cước là thời tiết ngồi thoát đứng mắt ghi lại thành sách như thấy người xưa đem vỏ rùa mà cách hậu học, phải họp thần khế cẩn thận chớ nói cầu, sợ hạng miệng tai xem là thân tâm chướng ngại. Tỳ-kheo Tư Giám ôm ấp điều này Tổ nào truyền đăng muốn thành ấn ấy. Vào mắt cần phân xanh trắng, mở miệng chớ loạn đỏ vàng (cái đực). Tổ Cát đằng chẳng làm, tự lão cột ván gánh lấy, chẳng sợ người gọi là triếp đầu. Đồng Đạo cùng kết duyên.

– Lời tựa sau của Cảnh Đức Truyền Đăng Lục- Tả Triều Phụng Đại phu Doãn Hữu Văn điện tu soạn – Quyền Phát Khiển Thai Châu Sự Lưu Phỉ soạn.

Truyền Đăng Lục khắc bản đã lâu, từ khi chinh chiến nổi lên đến nay thì bản in đã cháy mất. Kẻ mộ tâm tông sợ không có sách. Tăng Tư Giám người ở Vụ châu, dép cơ hỏi Đạo suốt 30 năm, cũng muốn người đồng ngộ Diệu Tâm Niết-bàn mà nghĩ có giúp để phát. Bèn rộng quyên mộ Thiện Tín để khắc bản, Đạo tục khen ngợi mà giúp thành. Có người nói pháp tự tâm là vô hình, chẳng từ người mà được. Sơ tổ Thích Ca giáng sinh, không có 1 Tổ Sư nào chẳng ngầm khế hợp mà tự chứng. Cho nên Đạt-ma chỉ thẳng chẳng lập văn tự, ở Thiếu Lâm 9 năm chỉ xây mặt vào vách mà thôi. Tuy Nhị tổ đứng ngoài tuyết chặt tay mà 1 chữ cũng không hề nói, là để ngăn cái lỗi của tri kiến. Nhị Tổ nhân đó mà được Chánh tri kiến, rỗng rang tỉnh lớn, thì Nhị tổ cũng chẳng từ câu lời của Đạt-ma để vào, mà là tự chứng. Lại ngài Bách Trượng mở quyển, ngài Tuyết Phong hổn cầu, Lỗ Tổ xây mặt vào vách, Thanh Củng giá tiển Đạo Ngô múa hốt, Điểu Khòa thổi lông vải Câu Chỉ đưa 1 ngón tay. Cổ Đức như thế chỉ bày người rất nhiều mà chẳng dùng câu nói vậy. Câu nói còn thế huống là chữ nghĩa (văn tự). Tâm tông cần ở tự tham (tham lấy mình), câu nói của Tổ Sư có cho gì ta. Tôi nói chẳng phải thế. Tâm pháp tuy nói vô hình nhưng khắp mọi nơi thì trúc xanh đều là chân như, hoa vàng đều là Bát Nhã. Con giun dế phát cơ ống dây mà truyền tâm, cho đến tường vách ngói vạch đều nói pháp. Cho nên ngài Linh Vân thấy hoa đào mà ngộ Đạo, ngài Huyền Sa nói tiếng chim yến nói nhiều thật tướng. Vậy thì khắp nơi đều là ngộ môn, có gì chẳng phải là Đạo này, huống là câu lời của Minh Tâm Tông, huống là chữ nghĩa có chứa Minh Tâm Tông. Nếu cả 2 thứ đối với Tâm Tông đều không có, thì Tiến Phúc xưa vì sao xem Vân Môn Lục mà tỉnh biết. Huỳnh Long Tâm vì sao đọc lời Đa Phước mà ngộ ra. Bởi lời nói tướng vắng lặng, văn tự tánh không, cũng là Đạo này mà thôi. Nếu từ lời nói văn tự mà thấy tánh tướng không tịch (trống vắng) thì tức là 1 vượt mà vào thẳng. Cho nên ta biết sách lưu truyền khắp nơi là để pháp môn tâm địa nhiều người, là mộ duyên của Giám vậy. Người họ châu ở ấp Ninh Hải, Thai Chi khen rằng: Đất ta có cây lê lớn xem suốt ba đời, so với người tuổi ta đều thường mộng thấy trên đó có lầu các và vô số Tăng qua lại ở đó, bèn nghi thì nay mới ngộ (biết) xét ra là bản lục này bèn mua gỗ mời Giám về nhà gọi thợ đến khắc bản in. Khắc xong thì họ Châu mộng thấy có 6 Tăng đến xin bản khắc. Châu hỏi Giám rằng: Đây là Tăng nào? Đây là 6 đờiTổ Sư truyền y bát đặc biệt đến chứng minh việc này. Than ôi, sách ấy làm 1 việc lớn thì phải có điềm lành cảm phát để phát ngộ tâm người. Do đó tôi nêu ra đây để mọi người xem biết không phải là duyên nhỏ mà là 1 việc làm bền chắc tín tâm vậy.

Năm Thiệu Hưng 4, ngày rằm tháng riêng tại am Đẳng Từ, thiện nam tử là Duy Dương Lưu Phỉ Trọng Thầm, kính lời tựa.

– Hoa Nghiêm Trưởng lão ở Ngụy Phủ dạy chúng rằng:

Việc Phật pháp ở tại chỗ làm hằng ngày (nhựt dụng) ở đó đi đứng ngồi nằm, mà uống trà, mà ăn cơm, mà nói năng hỏi đáp nhau, chỗ làm lụng tạo tác, mỗi nghĩ suy động niệm đều là đó cả. Hiểu không? Nếu hiểu được thì nay là chân nhân vô ngại tự tại. Nếu cũng chưa hiểu thì là người tội nặng mang công cùm xiềng xích. Vì sao như thế? Phật pháp chẳng cách xa trần sa kiếp, chỉ trong 1 niệm mà ông thấy được. Ở trên lông mày, ở lỗ mũi nếu ông không thấy được thì như tiếp gậy trúc điểm trăng tại chỗ (là sao), cần thiết chẳng suy tư, chẳng thể nói năng. Khi ấy trong đó nhờ ân lực gì. Nếu biết được ông sẽ có chỗ vui mừng. Người xưa nói: Thường mà tịch, tịch mà thường rõ ràng, chư Phật chẳng cầu tìm thấy, chúng sinh đoạn dứt tin tức. Ông hiểu được chăng? Tất cả các pháp vốn vô tình, tất cả chư Phật vốn tự linh. Hổn nhiên đồng với Thái hư không thiếu cũng không dư. Hiểu chăng? Nếu không hiểu thì là gặp dâu cũng thành trệ. Chẳng biết lạc địa (đọa lạc) mịt mờ kiếp kiếp (mênh mông nhiều kiếp) chỉ là do mê luyến vật đắm trước cảnh, nhận sắc làm thật, chẳng bỏ ân ái, si mê tiền của. Lập ngã tranh người 1 đống ý khí chút ít trái tình mặt xanh mặt đỏ, nói mạnh nói yếu, ta chẳng nhận người khác dối lừa, ta là kẻ đại trượng phu nuôi vợ nuôi con. Ông há biết đó là ở trong biển nghiệp ở trong hầm tội, ăn thịt như ngạ quỉ nuốt thây chết, uống rượu như chó đói uống nước, ái sắc như ruồi khát liếm máu. Chẳng biết thân này hoạn nạn lớn. Mặc tình buông lung vô minh ngu muội ý khí, chẳng bao lâu thì bại hoại sống trôi giạt uổng đời, trải ngàn vạn kiếp luống uổng ra vào. Sao chẳng biết lấy thể kim cang bền chắc, lấy Đạo trường sinh bất tử. Ở trên đời như cỏ trên đất, bô bô đầy miệng, nhấp nháng đầy mắt. Khi quỷ dữ vô thường đến bên giường cũng còn khiến tâm dùng hạnh mà mến tiền ưa cảnh. Bỗng nhiên bị bắt đi gặp Diêm Vương thì một lời cũng không nói được mà lò sắt than nóng, cột dồng núi dao đều là trò chơi. Mặc lúc hối cãi thì nạn lớn khó tránh khỏi. Như nay ông bịnh chưa đến thân, sao không ở trong 12 giờ mà tìm 1 chút thiện lợi để làm cầu bến. Sắc thân huyễn hóa này dựa vào đâu làm thật. Chư Phật quá khứ lưu lại các kinh, tạo các luận, tất cả thiện pháp đem cho ông người mới học, sám hối tội lỗi, diệt bỏ các chướng dần dần lợi ích thêm lớn, tìm cầu Thiện tri thức chỉ bày các pháp môn giải thoát, ở trong tánh vô minh mà nhân ra ông chủ chân thật. Ở trong vạn kiếp được thân người chẳng phải dễ dàng gì. Ông lại biết bản tánh của thân cùng Phật đồng thời vốn không thiếu sót. Có 1 việc lớn ở trong đống cứt đái của ông, sáng rực rỡ, tròn đà đà, lại tin được chăng. Nếu không tin được thì ông từ biển tội hầm sâu mà trầm luân rơi mãi vào. Nếu ông hồi quang phản chiếu, trong 1 sát-na tâm niệm dứt hết trong lúc mê hoặc phiền não, si ám cuồng tình sớm nhanh chóng tiêu mất. Các duyên cảnh giới đổi thành cam lộ đề hồ, cõi nước an lạc, há chẳng tốt ư? Thánh nhân nói: Vạn pháp do tâm sinh, vạn pháp từ tâm diệt, đều do tâm ông. Thiện ác cũng chỉ do tâm ông, Thiên Đường địa ngục cũng chỉ do tâm ông. Chỉ nay tương ưng cùng Phật họp. Trí tức là Phật cũng không gạt nhau. Ngay đây mà tin chắc không nghi tâm tức Chánh giác. Lại đâu cần phải trải A-tăng-kỳ kiếp. Đời này thân ấy rất khó gặp. Chớ bảo ta là phàm phu mà tự lui sụt. Ngàn kinh vạn luận đều nói, chỉ vì chúng sinh mê loạn chẳng biết bản tánh. Ông tạm thời lấy chút công phu tham vật xem nghĩa lý trên kinh sách. Chỉ nói chúng sinh bị tất cả cảnh nhiếp giữ vì cớ ham muốn. Sơn Tăng mỏi miệng thật lo đau đáu. Ông lại chịu chăng, ông lại tin chăng. Bình thường chịu lạnh chịu nóng, chút ít trái tình như ăn cay nuốt đắng chẳng bỏ được. Trong cuộc sống hằng ngày không tự tỉnh ngộ, chỉnh đốn lấy tâm là hay vì thân là tốt. Trăm năm nhanh như tên bay, giàu sang như mộng, ân tình cũng chẳng lâu dài. Trăm tuổi không bao lâu, đầu bạc là do bịnh đến, bịnh là do nợ nghiệp lại nợ nghiệp là chết đến, chết là địa ngục đến. Ông chớ nói: Ta là người bình sinh hảo tâm làm thiện, chỉ theo bổn phận mình mà không làm ác thì không có tội lỗi gì. Riêng dạy ông có chỗ hiếu sinh. Ta sáng nay chưa tin ông vì sao ở chỗ rất bình đẳng. Ông lại biết chăng. Nếu chẳng nương Phật pháp thì tất cả pháp đều là tà pháp, là kiến giải (hiểu biết) của ngoại đạo. Lại chớ nói vì gánh người mà gánh (vì gánh lấy trách nhiệm của người?) mà ta tham sắc mến tiền của, ăn cá thịt nói dối nói thêu dệt ngày bỏ việc trên (Thượng sự) thì tội nghiệp càng sâu nặng. Ông chớ nói: Ta bỏ tiền của xây cất chùa cúng Tăng in tụng kinh và làm công đức lâu dài, lấy đó làm thật mà có thể ký thác trong chúng, thì lão Hòa thượng cũng cứu ông chẳng được (chẳng làm gì được?). Ông lại biết chăng? Ông có ngàn vạn thứ vô minh tội nghiệp, Phật cũng không cứu ông được. Ông cần phải tự mình cố gắng đường trước tự lo liệu. Nếu ông làm tất cả công đức hữu vi thì chỉ là tạo nghiệp, Tăng thêm ngoan phước, chẳng sinh tri kiến thanh tịnh. Sơn tăng cũng thể. Câu được cúng dường ngày đêm không yên vì lo chưa có. Lại biết chăng? Mặc ông nói vớc các phương, các bậc kỳ túc cười ta, sợ (hiềm vì) Sơn tăng chẳng được. Muốn hỏi ông thí chủ chỗ được tiền, nghĩ ông chẳng chịu cứu giúp người, chẳng cứu giúp kẻ nghèo khổ. Tiểu được thì hiểu lấy ăn tốt, hiểu được thì mặc lấy tốt, sớm tu hành tốt, độ thân này tốt, hối lấy tâm tốt, hối lấy tâm tốt. Rất mong. Trân trọng.