BIỆT TRUYỆN VỀ SA MÔN HỘ PHÁP ĐỜI ĐƯỜNG LÀ NGÀI PHÁP LÂM

Sa-môn Ngạn Tông chùa Hoằng Phước ở kinh đô biên soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

LỜI TỰA LÂM PHÁP SƯ BIỆT TRUYỆN

Xử sĩ Lý Hoài Lâm ở Lũng Tây soạn.

Phàm xét các việc, ban đầu của thái cực nguyên khí, Tam Quang vẩn còn ẩn dấu, sau Mộc Hoàng Hỏa đế, dùng bát quái hưng khởi, cho nên biết nhân nghĩa dần dần mở ra, mượn Long Đồ mà khởi thành chữ. Đạo đức cho rằng phế, do dấu chim mà ghi thành sách.

Thế nên trong Tả Sử Ký có nói rằng: Hạ Thương đủ ở nơi cáo thệ.

Còn Hữu Sử Ký nói: Đường Ngu để lại khuôn phép, Sử ký ghi từ Ban Cố nối tới Ban Bưu. Bậc anh hùng cao sĩ kỳ cựu đều ẩn dật, làm nên truyện ký đến nay vẫn còn. Huống chi là mây pháp, mặt trời Phật, không đến, không đi. Diệu hữu chân không, lìa sanh lìa diệt. Tuy lý đạt đến lý, bất động vắng lặng nhưng sự cũng tùy cơ mà ứng biến.

Thế nên Phật mới đản sinh ở cõi Tây Vực, Châu Vương nhìn thấy năm sắc vàng chói sáng, ứng điềm vào cõi Đông Hạ. Vua Hán Đế mộng thấy người vàng trượng sáu. Thế là ngài Ma-đằng vì căn cơ chúng sanh mà đến thành Lạc Dương. Triển khai tăng hội, mở đại đạo ở đất Ngô.

Trong đời có một người, là bậc anh hùng trên đời, ở thành Tương Dương tên là Thích Pháp Lâm, nối dấu tứ y nên sanh vào cõi đời có năm thứ vẫn đục gồm cả tám tạng ở trong lòng, ôm hết chín dòng trong dạ. Từ đó duy trì giềng mối đạo lý.

Biên soạn những ý hay tốt trước kia của ngài Long Thọ, nối lại kỷ cương giềng mối còn lại của ngài Mã Minh, đến như những lời nói thẳng không kiêng kỵ. Lắp ván ở Chu Vân, có phạm mà không ẩn. Xa nắm ở Vương Tượng, xúc chạm với Rồng lân mà không dời ý chí. Xét cỏ cứng mà gió mau, mạo hiểm lên tận núi cao mà không đổi chí tiết, thật là bậc trung thần như lá cuối mùa thu. Nhưng văn từ lại nhã nhặn rộng sâu. Tần huyền một chữ cũng không thể sánh bằng. Sự lý đều mở rộng. Nhà Thục quảy ngàn vàng cũng không thể sánh.

Than ôi! Bậc Quân tử của cả Nho giáo, Phật giáo ít người nếm được mùi vị của đạo, tin rằng khúc nhạc càng cao thì người họa theo càng ít. Bao nhiêu người bị chìm mất.

Bấy giờ ở chùa Hoằng Phước, có Tông Thượng nhân bẩm khí tinh anh, thể đạo cao ngời, tư chất như biển núi. Trải qua năm tháng dưỡng đức nuôi tâm, chí khí lóng trong. Thề diệt tà đạo, đem lại sự an ổn cho muôn nơi. Lấy việc mở mang chánh pháp để làm tâm, còn như dùng chỉ vàng mà xâu hoa ngọc điệp, tông thú đến chỗ nhiệm mầu rốt ráo, ủy khúc lại tận cùng u huyền.

Nhưng mà Pháp sư muôn sự thấy nghe, hiểu biết đều có dư, lại thông kinh sử hiểu hết tình lý. Nên bao gồm cả Hoàng Lão, gồm chung cả nho Mặc. Mỗi thứ Lâm Công đều dùng lời nhã nhặn, phân chia ra thành nhiều. Tuân theo pháp của người xưa, sao chép thành một quyển, chia ra thượng trung hạ, đặt tên là biệt truyện. Lý cùng tận đầy đủ, Pháp sư đã xem xét, cắt bỏ chỗ rườm rà, thêm vào chỗ thiếu sót, cũng đều là sử hay trong chúng tăng.

Nhưng mà ghi lời ghi việc, thì nghĩ còn thẹn nhiều với Ban Mã, ghi thẳng nói thẳng vẫn hổ với Trần Phạm Phương. Mới nghiệm rằng sự khai sáng của Pháp sư Lâm, chỉ lấy cái đẹp ở nhất thời, được sự nhuận sắc của Thượng nhân. Mới thành khuôn phép cho muôn đời đệ tử Địch Đạo Lý Hoài Lâm cùng với Tông Thượng nhân, chí hợp với Kim lan, nghĩa tợ keo sơn. Tuy đạo tục có khác, mà khứu vị lại giống nhau. Nhân đó mà ra mắt gom các điều thiết yếu mà trước giảng lại, cho nên dẫn lời tựa ra đây…

 

QUYỂN THƯỢNG

Pháp sư húy Pháp Lâm, họ Trần, người quận Dĩnh Châu. Là con cháu của Trọng Cung. Viễn Tổ vì làm quan nên ngụ ở Tương Dương, lại sớm từ bỏ quan trường, Sư rất tinh thông bác vật nên đến sở Dĩnh thuộc Kim lăng, để tìm hiểu nghiên cứu các kinh giáo của đạo Khổng đạo Phật. Thế là rõ thông hết cửu bộ, tường tận cả trăm nhà hiền triết, suốt thấu lời vàng tỏ sâu giống ngọc. Thường than rằng: Làm bậc Đại trượng phu không có khả năng lập chánh bỏ tà giữ gìn giềng mối Đạo lý, há là chẳng xấu hổ khi nối bước Long Thọ, Mã Minh sao? Nếu không thì nên ẩn mình giữ tâm ở chốn núi sâu hang thẳm.

Thế rồi, vào tháng năm mùa Hạ niên hiệu Khai nguyên thứ mười bốn, đời Tùy Sư đi ẩn dật trong động Quỷ Cốc trên núi Thanh Khê, xem tường các lẽ huyền diệu của Đạo nho, không luống bỏ thì giờ. Lều tranh ở chốn xa xôi chỉ được che bằng nhật nguyệt. Cửa bằng hư không, thở ra hít vào chỉ có gió mây.

Nhân khi chọn lựa lại ghi về núi Thanh Khê, có hơn tám ngàn lời, lý thú thì cao vời mà văn chương thì bóng bẩy. Vì thấy truyền ở đời cho nên ghi chép lại. Nhưng Pháp sư luôn ẩn đức che mình, mỗi lời nói việc làm đều thệ nguyện giữ gìn cho đời mạt thế, quán sát hóa độ những người ở thượng kinh. Thế rồi vào mùa xuân tháng ba niên hiệu Nhân thọ thứ nhất (601) mới bỏ Sở mà đến vùng Tứ Xuyên của Tần. Trải qua ba cõi du khắp tám miền, ở mỗi nơi đều có học tiên thuật, sấm lạc, hư trần của Lý môn. Phục sức màu đen để tìm hiểu nguyên ủy cho được tường tận, mượn y mũ của bọn Hoàng Cân để tìm cho hết cội nguồn tông phái, theo họ đến ở trong quán trọ. Nhưng Pháp sư chay lạt trang nghiêm, mỗi lời nói đều thánh thoát diệu kỳ. Còn các Đạo sĩ, cũng tranh nhau hợp với kim lan, hết dạ kheo sơn, nên khiến cho tam thanh bí điển thông suốt lẽ huyền tân. Các yếu đạo u huyền ở chín phủ đều đạt được ý chỉ cát vọng hư vô. Những điều còn thắc mắc trong lòng đều nhờ họ Lý giải thích rồi ghi nhớ vào tâm.

Đến đầu niên hiệu Vũ Đức, thì trở về với Đạo Phật, đủ để bước chân vào pháp Đạo, đến khắp các trước giảng. Ý muốn dùng Thần Châu để thay đổi trời đất mà làm khuôn phép cho đời. Nhân đó mà đi đến Đạo tràng tế pháp, tâm sống trong định tuệ. Đến tháng chín mùa Thu niên hiệu Vũ Đức thứ tư. Có vị Đạo sĩ trước kia là Thái sử ra lệnh cho quan Phó dịch rằng: Trước vị này cũng mặc áo đội mũ vàng. Lập ra mười một điều để phá hoại Phật pháp. Đại khái như: Kinh điển đạo Phật đều là luống dối, nói các việc yêu tà làm hại nước phá nhà, không hề nghe Đạo này làm lợi ích cho đời. Xin đuổi trả về Thiên Trúc loại tà giáo của ông Phật người Hồ kia, còn bọn Sa-môn thì đuổi về quê nhà. Như thế thì nước nhà mới được xán lạn an lạc giáo lý đạo Khổng đạo Lão mới được lưu hành.

Vua Cao Tổ tiếp đọc hiến thư, liền hạ chiếu hỏi Sa-môn rằng:

Cạo tóc lìa bỏ cha mẹ, bỏ y phục đẹp của các quan. Lợi ở chỗ nào và ích ở đâu? Hai điều này xin giải thích rõ ràng. Mà Pháp sư tu hành đã lâu, biết hết mọi điều. Nay xin thừa theo đây!

Sau khi đọc chiếu, Pháp sư bèn trần tình đáp:

Pháp lâm này nghe, chỗ chí đạo dứt bặt lời nói. Há là ở trong chín cõi mà lại biện bạch. Pháp thân là vô tướng, chẳng thể đem kinh luận mà nói hết được. Nhưng vì chúng sanh trong bốn đường nổi trôi mênh mông trong biển dục. Ba cõi qua lại đọa lạc trong núi tà. Người mê mờ nên tự đốt mình, bị chìm trong biển khổ mà không thoát lên được. Bậc Đại Thánh vì muốn cứu vớt chúng sanh nên xuất hiện ra đời. Bậc chí nhân giáng thần, mở cửa giải thoát, chỉ cho mọi người con đường an ổn. Thế nên từ dòng dõi vua chúa Sát-đế-lợi, đều lìa bỏ ân ái mà đi xuất gia. Hàng quý tộc ở Thiên Trúc, xả bỏ vinh hoa mà vào đạo. Cũng vì vậy mà Thái tử Tất-đạt xả bỏ y phục Long bào để mặc y phục ruộng phước. Thệ nguyện ra khỏi hai thứ sanh tử của thế gian. Chí cầu diệu quả Niết-bàn. Mở mang đạo pháp đền đáp bốn ân, đem công đức cứu giúp khắp ba cõi. Đó chính là điều lợi ích vậy. Trong phẩm Thế Phát Xuất Gia của Kinh Phật Bản Hạnh có bài kệ:

Giả như ở lâu trong ái ân
Đến giờ mạng tận cũng chia lìa
Vô thường khoảnh khắc nên soi xét
Thế nên nay ta cầu giải thoát.

Vì khát ngưỡng ân đức đó mà người tu hành lấy việc dứt bỏ điều ác để lập thân. Khâm kính Đạo phong mà giữ mình tu điều lành cho nên xem thường thân tướng để thành tựu chí nguyện ấy, cho nên cạo bỏ râu tóc, hình dung đẹp đẽ, thay đổi cuộc sống thế tục để hội ý đạo. Cho nên mới xả bỏ y phục đẹp của vua quan. Tuy thiếu sự phụng dưỡng cha mẹ, mà lòng vẫn ôm chữ Hiếu. Lễ tuy trái việc thờ vua mà tâm vẫn giữ ân sâu, chọn lựa oán thân để thành đại thuận. Phước đức thấm nhuần, u hiển há là câu chấp ở chỗ chút trái. Bậc thượng trí y theo lời Phật dạy để làm lợi ích, còn hàng phàm phu vì thiếu lời thánh giáo cho nên bị tổn hại. Thế nên ngăn ngừa việc ác thì kẻ lạm bàn sẽ tự đổi mới, tiến tu điều lành thì sẽ cảm hóa đến người. Cúi mong Bệ hạ là bậc chí đức, dùng tâm nhân từ mà nuôi dưỡng muôn dân. Lại hàng phục dục tình, chánh pháp lưu ý xuất gia, rải mây lành khắp để làm mặt trời Phật thêm sáng, đem lợi ích cho đạo khó có thể nói hết. Từ đây mà Đế nghiệp của Đại Đường ân đức nhuần thấm cả trăm họ. Hạt giống Thánh tạo nền móng lớn, ban ân tuệ khắp muôn nơi. Không dám đem lòng ngu muội mà đo lường tâm trời. Cúi mong Bệ hạ soi xét.

* Bấy giờ, vua Cao Tổ ngự xem các Thiền sư đối đáp, rốt cuộc cũng không từ chối: Pháp sư vào cung, không mong diệt sao?

Vua chỉ truyền nội thị điều trần các việc, chứ chưa cho ban hành, nhưng bài hịch đã công nhiên truyền bá xa gần. Những lời chế giễu đầu trọc truyền khắp làng xóm. Bài vè nói về quỷ hồ rêu rao khắp quán rượu. Đây là muốn che lấp ánh sáng mặt trời Phật để không còn chiếu soi. Làm cho dòng pháp bị tắc nghẽn không thấm nhuần muôn nơi. Lúc này bậc Quân tử thấy xa học rộng càng nhiều. Mà bậc khế lý danh tăng hào khí chẳng phải một.

Có vị tổng trì Đạo tràng là Thích Phổ Ứng, là bậc giới hạnh tinh ròng, bác vật bất quần. Khi xem lời hịch cuồng ngôn, nhân đó mà Ngài soạn bài văn phá tà luận hai quyển. Lại trước kia thường giúp đỡ cho Lý Sư chính nên vị này cũng quy tâm theo Phật lý, dốc lòng với huyền tông. Mà ý còn phẫn giận trong lòng.

Ngài lại soạn ra tập “Nội đức chánh tà nhị luận”, mỗi bài đều dẫn sớ Phật mà chỉ rõ nghiệp duyên, lại dẫn thêm lời phạm nói rõ về tà chánh.

Pháp sư đều có hỏi qua tác giả, xem đủ các văn từ, có chỗ vẫn chưa ổn. Nên nói với mọi người rằng: Kinh giáo để phế lời bài dịch, há là chỉ dẫn lời ra mà phế được chứng thành. Tuy là muốn phá tà quy chánh, mà chưa nêu được nguồn gốc của tà giáo. Nay xét đạo Khổng, đạo Lão thì Sư kính văn Phật, Tông giáo kia làm những điều luống dối sai lầm, mọi người đều cho là phải.

Nhân đó, Pháp sư liền soạn “Phá Tà Luận” một quyển. Có hơn tám ngàn lời, lý lẽ đều hòa hợp, được truyền khắp trong ngoài.

Nhưng ngòi bút của Pháp sư đã đạt đến chỗ thanh thoát diệu kỳ đứng đầu mọi người, bèn khiến cho các bậc hiền sĩ đều thích ghi nhớ trong tâm. Các bậc danh nho trên đời cũng cất trong nhà một bản. Thật có thể nói rằng núi từ sừng sững, biển lý rộng sâu, làm thuyền trong biển rộng, mà làm ngọn đèn biển chiếu soi trong đêm tối. Lúc đầu khi Pháp sư mới soạn luận thì đạo tục đều không nghe biết. Nếu không rộng lưu bố thì làm sao khai đạo nhãn cho người thế tục.

Do đó mà tháng giêng mùa xuân niên hiệu thứ năm. Khải tâu lên Chữ Hậu rằng: Bắt đầu từ thời tam nguyên ngũ vận, hưng khởi Thiên Hoàng nhân đế, lời văn được viết trên mu rùa ô-sách, điển tích được ghi lại trên bảng vàng trúc đỏ. Đo bằng lục hành cửu quang, sách muôn quyền của trăm nhà hiền triết. Không có việc gì mà không tuân theo phong tục nhân luân tín nghĩa, theo lời dạy của Chu Khổng, gom chung các yếu nghĩa đó lại cũng chưa đạt được nguồn gốc sanh tử. Lý này nên rõ vậy.

Không xuất xứ từ chỗ có không, há là bằng năm phần pháp thân, ba minh chủng trí. Vắng lặng thường vui, đâu còn đổi đâu còn dời, rồi đến cảnh chân như chẳng sanh chẳng diệt. Từ đây có thể cứu giúp muôn hữu, từ độ khắp trăm loài, cùng vươn tới bến bờ kia giải thoát. Mở ra con đường rốt ráo vô vi, đưa chúng sanh ra khỏi biển khổ, cứu các con ra khỏi nhà lửa.

Hơn một ngàn năm Phật giáo truyền đến đất Hán, sáu trăm năm khám tháp nhìn nhau. Thần nhân nối gót, cho nên ngài Đạo An lên xe của vua Tần. Ngài Tăng Hội bước lên xe chúa Ngô. Trên tòa cao Pháp sư có thể phô bày tám chánh đạo. Hòa thượng Phật-đà khéo nói pháp năm thừa, pháp hóa khắp cả chín châu, phước thấm nhuần khắp cả ba đời, đều vì lợi ích cho chúng sanh. Chính là nghĩa này vậy.

Nhà Tùy vì đem binh mã gây nhiễu loạn muôn dân nên xảy ra bốn thứ tai ách xấu ác cho bá tánh. Đèn tuệ đã tắt, mưa pháp cũng thôi rơi. Đến thời Đại Đường ta, trên ứng với tâm trời, dưới giúp dân lành tròn ý nguyện. Giúp trời để làm rực rỡ tam tương, giữ đất để an ngũ nhạc. Muôn dân được nhờ ơn tái tạo, Cửa thiền môn cũng nhờ đó mà hưng thạnh. Cho nên muốn cho lục Tư ngũ đế, tứ ba, tam hoàng, đều không trái với phong cách thuần phác để hành hóa pháp vô vi.

Trộm thấy bài dịch truyền bá đó là việc chê bai hủy báng. Tại ty sở đã chưa cho lưu hành, mà bài dịch đã công nhiên truyền bá xa gần. Các quán rượu trong nhân gian tranh nhau đàm tiếu. Đã làm lụy đến phong cách thanh cao mà cũng làm nhơ uế cho tập tục tốt đẹp. Lâu dài thì tà kiến này làm tổn hại ruộng phước nước nhà. Lý không thể được vậy. Cúi mong Điện hạ! Trở về quy y tam bảo, chín cõi đều hành theo mười điều lành, đó chính là chỗ mong chờ của muôn loại. Đến kỳ đạt được đại bảo thì đạo hiệp với Long bình Đức Quang phó Hậu. Một khi phát ra tiếng vang lớn, thì cửa ngõ kín cũng đều mở. Ánh quang minh chiếu sáng khắp nơi, thì mọi ngõ ngách đều soi sáng. Thật là tốt đẹp! Khó thể nói hết đó là ánh sáng đời Hán trở lại nơi đời, trùm khắp muôn năm. Lại có thể để tâm nơi cửa phước, theo tình thắng cảnh, làm cầu bến hào tường trong từng tâm niệm. Lại nguyện-bẻ tà kiến mà đốt lên ngọn đèn chánh pháp. Lấy đó mà điều phục giáo hóa chẳng phải là may mắn lắm sao? Bất kể là chí dù đang lo nghĩ muộn phiền, xin kính cẩn dâng lên Điện hạ “Phá Tà Luận” một quyển. Để tỏ bày sự uy nghiêm và làm tăng thêm niềm tin tưởng.

* Lại vào ngày long tiệm của vua Văn Đế, Pháp sư lại dâng biểu khải tấu.

Pháp Lâm này nghe nói: Người mà tâm tình tha thiết thì tiếng nói chắc chắn buồn thảm. Người lý chánh thì lời nói chắc chắn ngay thẳng. Cho nên gã cùng tử nghĩ thấu đáo ở lời nói. Nhọc người xin ca ngợi việc ấy? Vì sao? Vì trộm thấy vào những năm cuối niên hiệu Đại nghiệp dân chúng trong nước bị tán loạn. Nhị nghi thì chịu thảm độc, nước tứ hải dâng cao. Sóng gầm cát bay, cánh đồng gò cao bị đốt cháy. Năm ngựa tuyệt đường mất hướng. Bọn đồng tử có lời ca “Bình Lũy” hễ giặc nổi lên thì lời hịch cũng bày tỏ sự cần kíp. Ngoài biên ải binh đao nổi lên không dứt. Đạo đức bị tiêu loạn, vận khí đã đến tận cùng. Thây chết như rạ, máu chảy thành sông. Dân không biết nhờ vào đâu mà sống, súc vật cũng chẳng còn. Thế là khống cáo lên không có chỗ ném thi hài. Bá tánh khổ vì đời đảo ngược. Vận nước khốn đốn vì vô chủ. Há là chẳng phải do bánh xe pháp đã không còn vang tiếng, chánh giáo cũng lụi tàn. Thánh thượng vì lòng thương xót nhân dân, thuận theo mạng trời, đem đại nghĩa mà bình định vũ trụ. Lúc này, dân chúng đạo tục ai nấy đều vui mừng, từ đây hiệp với trời đất mà thông tám phong. Đo âm dương mà điều phục bốn mùa. Trên hòa với các nước, dưới thì sắp đặt nhân luân. Công che chở ngang bằng với Thiên thần. Hàng phục mưa gió cho muôn loài lớn lên, mở ra mặt trời, mặt trăng chiếu soi khắp cả, ơn đức

thấm nhuần cả cỏ cây muôn vật. Nên mới muốn thuật lại Cửu trù, chép lại năm giáo, để mở mang sự học cho dân làng. Xa thì nối nghiệp Hy – Hiên, gần thì đồng với Văn cảnh, công đức sự nghiệp muôn đời, không biết lấy gì mà diễn tả cho hết.

Thần trộm thấy, việc truyền bài dịch đó, lý lẽ chưa thông mà năm nội đã tan rã như băng. Người tìm đọc thì phá hết sáu căn than ôi! Lời tà làm mê hoặc chánh, lời ma làm bức bách chân, vẫb không đáng cho những người hạ ngu nghe, huống là muốn cho vua biết trời nghe. Nhưng bài dịch đó truyền ra các nơi đều biết, thì làm sao nhân tình vô tội không gây ra điều ác. Văn đã cạn cợt, hẹp lượng thì sự lý không rõ ràng. Càng làm nhục khuôn phép của tiên vương. Làm bại hoại mẫu mực của nhân luân. Vì sao? Phàm người không nói! Nói thì chắc chắn có ý. Phu tử có nói: Lời nói mà hợp lý, thì thiên hạ đều theo, một việc mà trái thường thì vợ con cũng quay lưng bội phản. Xét bài dịch nói về việc trên, được truyền bá khắp cả kinh đô cùng các vùng xa xôi từ trước đến nay, đều là lừa dối không thật. Thật là hủy nhục bậc Thánh. Như ý của bài dịch này, vốn là muốn nhân đây mà mưu cầu tiến đạt, thật không đem lại ích nước lợi dân. Thật là xem thường trong triều ngoài nội. Nhưng Bệ Hạ đã ứng thiên thuận thời, nắm giữ vận nước, hiểu được tâm tư của muôn dân trong nước, đáp ứng theo niềm vui của mọi người. Đem năng lực để phò nguy giúp đời. Lấy công đức để trừ hung dẹp nạn, uy đức bao trùm tiên vương, tiếng tăm cao hơn các vua trước. Lại còn quy tâm về Tam bảo, để lòng nơi ruộng phước dự vào hàng xuất gia, tất cả đều đội ơn thấm nhuần của vua. Nhưng bởi do chúng tăng không giữ gìn giới hạnh, để đền đáp ơn nước. Người không hiểu biết việc trái đạo, gây ra tội lỗi, cho đến khiến cho người ngoài làm bài dịch, phơi bày những điều xấu này. Đấm ngực đau lòng, không chỗ chôn xác. Nhưng tăng ni có tội, thì cam chịu cực hình. Chỉ giận lời hịch khinh nhục bậc Thánh, ngôn từ tha thiết thảm hại. Sợ để lâu thì bọn tà kiến nhân đây mà làm điều trái đạo. Người không hiểu biết dần dần sanh tâm dị kiến. Lại xét trong kinh xuân thu có nói rằng: Vua Lổ Trang Công vào tháng tư mùa hạ năm thứ bảy, thường thấy sao không hiện, ban đêm trời sáng như ban ngày. Ấy chính là điềm ứng vào ngày Phật đản sinh.

Nhưng Phật có hai thân là chân thân và ứng thân, có hai trí là quyền trí và thật trí. Có ba minh tám giải, năm nhãn sáu thông. Thần gọi là không thể suy nghĩ bàn luận. Pháp gọi là chỗ tâm hành diệt, đạo này cũng đưa chúng sanh và các Thánh vào cõi Nê-hoàn, có năng lực dắt dẫn hạ phàm ra khỏi biển khổ.

Về sau, đời Hán Minh Đế niên hiệu Vĩnh Bình thứ mười ba, vua nằm mộng thấy người thân toàn sắc vàng đi đến. Điềm báo ứng Phật giáo du nhập vào Đông độ chẳng phải một. Có nói đầy đủ như trong sách “Hán Ngụy chư sử Diêu Thạch” v.v… Đến như ngài Đạo An, Đạo Sanh và Đồ-trừng, La-thập, đều là bậc Đạo cao đức trọng hạnh giải sâu xa. Các bậc danh tăng đương thời, đều được Quân vương và những người hiểu biết, quý trọng tôn sùng.

Từ hơn năm trăm năm đến nay, chùa tháp xây dựng khắp cả chín châu, tăng ni đầy khắp ba phủ. Đây là do vua chúa đương thời kính tin, trong triều ngoài nội quy hướng. Đạo pháp hưng thạnh từ đó đến nay không dứt thật là nhờ năng lực của nhà vua, nhưng vua tôi, cha con ở thế gian vẫn là những thứ ân sâu khó báo đền, trời xanh khó đáp trả. Huống chi Phật là đấng cha lành xuất thế của chúng sanh, lại là thầy thuốc hay của cả phàm thánh. Nay muốn bẻ gãy muốn hủy nhục, thì lý ấy thật là không được. Hạnh đức Như Lai, trí vượt ra ngoài hữu vô, Tam Hoàng đâu thể lường được. Công đức Phật bao trùm cả tạo hóa, nhị nghi chẳng đo lường được. Thế nên Liệt tử có nói: Xưa Ngô Đại Tể hỏi Khổng Khâu rằng.

Phu tử có phải là bậc Thánh không?

Khổng Tử đáp rằng: Khâu chỉ là người học rộng nhớ dai, chẳng phải là bậc Thánh.

Lại hỏi: Tam Hoàng có phải là bậc Thánh không?

Đáp rằng: Tam Hoàng khéo dùng trí dũng, còn phải Thánh hay không thì Khâu này chẳng biết.

Lại hỏi: Ngũ Đế có phải là bậc Thánh không?

Đáp rằng: Ngũ Đế khéo dụng nhân tín, còn phải là bậc Thánh hay không thì Khâu này chẳng biết.

Lại hỏi: Tam Vương có phải là bậc Thánh không?

Đáp: Tam Vương khéo biết thời, còn phải là bậc Thánh hay không thì Khâu này chẳng biết.

Đại Tể rất kinh sợ nói:

Vậy thì ai là bậc Thánh?

Khổng Tử nhíu mày rồi đáp rằng:

Khâu này nghe ở bên phương Tây có bậc thánh ra đời. Vị này không trị mà không loạn, không nói mà tự có niềm tin, không giáo hóa mà tự thực hành. Đạo pháp mênh mông, không thể diễn tả được. Nếu Tam Hoàng Ngũ Đế là bậc Đại thánh mà Khổng Khâu này che giấu không nói, thì có lỗi với các bậc Thánh ấy. Lấy đây mà xét thì chỉ có Phật là bậc Đại thánh.

Xét trong Lão Tử Tây Thăng kinh nói rằng:

Thầy của ta đang hóa duyên ở Thiên Trúc, đã khéo nhập Nêhoàn.

Phù tử nói: Thầy của Lão Đam tên là Thích-ca.

Những lời đó nằm ở trong kinh sách của Lão Tử. Những chỗ kính Phật là bậc thầy trong văn chứng minh không phải ít. Há là những lời trong bài dịch mà có thể hủy báng. Xưa Công Tôn Long có soạn Kiên bạch luận, kết tội Tam Hoàng, chê bai ngũ đế. Đến nay người đọc qua còn cho là ấu trĩ, thật đáng buồn thay.

Nay chúa thượng là bậc thánh minh Quân, mà muốn bỏ trâu ngựa, cưỡi lừa đắp mộ mà dấy lên phong cách của Tam Hoàng, khai hóa đạo Thích lão. Thì những lời cuồng gian ấy rất nên đốt bỏ. Nếu nói Đế Vương không có Phật thì việc trị nước được lâu dài, có Phật thì bạo ngược đoản phúc thì xét đời vua Nghiêu vua Thuấn chỉ cai trị đất nước một mình, không truyền cho con cháu. Đời vua Hạ, Ân, Chu, Tần mỗi thời chánh trị đều thay đổi. Việc nghịch loạn dấy lên bên trong vẫn đến, khi ấy đâu có Phật mà vận khí cũng đâu được lâu dài.

Nhưng Pháp Lâm, v.v… trước ở đời Nghiêu, những việc thường ngày đều không biết, thấy bên ngoài các việc truyền hịch xảy ra. Vì sợ các nước xa nghe biết, cho là Hoa Hạ không có người hiểu biết, Phu Tử nói rằng: Nói đủ việc thiên hạ mà miệng không lỗi. Làm đủ các việc trong thiên hạ mà không có điều oán ghét. Thì người nói đó muốn không gây tội. Người nghe để tự răn mình. Những lời nói ra đó của bài dịch khiến cho người nghe đều sợ hãi, sẽ làm cho phong tục nước nhà bị tổn hại. Vậy cúi mong Điện hạ suy xét, xem qua những lời khải tấu này.

Đại Vương Điện Hạ! Trời cao anh linh, tự nhiên vẫn cao lớn khác người. Thần phong chót vót mà độ lượng muôn loài. Lấy điều tốt lành làm vui mà đến cõi Đông Bình. Vì ôn dịch mà thích đến chốn Tây Sở. Hoặc toan tính cho người nương tựa. Hoặc bày ra lục điều. Nhân đức bao trùm khắp muôn vật. Dù làm khách của Yến Văn Nhã, đem lời thơ rất đỗi duyên tình, phú đến chỗ tận cùng của thể vật, thì lòng tin cớthể được yên vui ở trong triều ngoài nội, đội mũ đẹp làm bậc anh minh tiền bối.

Nhưng pháp Lâm này, dù biết mình tài đức chưa trọn vẹn, ít người biết đến, nhưng thấy bài dịch của bọn hạ ngu đem ra để chế giễu phàm tăng. Lời lẽ mắng nhiếc ác độc, tội không phải nhỏ. Từ thời Tôn Lư Hách Tư về sau, sau khi trời đất mở mang thêm, chưa có bài cuồng dịch nào trái lý như thế. Không có ý chặt xương thì đau lòng. Lại đem trình cho vua để bày hết mọi lời lẽ thô bỉ, lời nói lại không chánh đáng, làm tổn giảm uy nghiêm, lại thêm dứt hẳn. Nay xin khải tấu trình lên. Ngày mùng hai, tháng năm, niên hiệu Vũ Đức thứ sáu. Sa-môn pháp Lâm ở chùa Tế Pháp khải tấu chúa Thượng.

Bấy giờ bọn Hoàng Trữ, nhân bài luận tấu của Pháp sư, Cao Tổ còn đang ở chỗ khác, nên giao cho Thị Sở Trần đem vào chánh tẩm để luận bàn. Nay thích môn lại khải tấu, thật là nhờ vua ta thương lượng.

Pháp sư có việc ấy nhưng phó Thị Sở dùng tư tưởng cuồng loạn nịnh hót triều đình, cho nên ôm lòng bất tiếu, muốn ủng hộ tà đạo nên xuyên tạc chánh giáo, ngọc đá cũng lẫn lộn, đỏ tím thật khó phân biệt.

Vua Cao Tổ, chấp nhận lời luận nghị, nhưng không tự rõ. Sau vào tháng ba, mùa xuân niên hiệu Vũ Đức thứ chín, vua ban chiếu hỏi Hoàng Trữ rằng: Trẫm xét, từ khi Phật giáo hưng khởi đến nay. Hàng tăng ni vào đạo vốn cắt đứt duyên đời, thuế má không thâu, lính tráng đều được miễn. Theo lý thì xả bỏ hình tục ở chốn thiền viện lấy đức mà an cư chân tánh, thì nên trọn đời lấy cửa Thích Tôn mà an thân dưỡng tánh. Những năm gần đây bọn Sa-môn lại gây nhiều tội lỗi, trái phạm giới luật lại phiền đến chánh sự, chẳng làm điều ích nước lợi dân, lại tu theo tả đạo.

Giới của Phật tuy có nghiêm lịnh cấm ngăn, nhưng đều không sợ. Lấy việc này cũng đủ rõ, dường như chẳng chân thành. Nay trẫm muốn hủy bỏ hết hình tượng, phế diệt tăng ni. Mà còn sợ làm kinh hãi bậc phàm thánh. Các khanh xét xem có nên không?

Hoàng Trữ đáp rằng: Thần nghe Đạo ba thừa khởi phát đã giúp cho các con thoát khỏi tai họa nhà lửa. Bát chánh đạo khai mở, giúp chúng sanh giác ngộ đạo vô vi. Thế nên khi mây từ giăng phủ thì không phân biệt là cỏ hay hoa. Mặt trời trí tuệ chiếu soi thì đâu kể hang núi bến bờ. Vả lại, từ lúc lập giáo, đạo Phật đã đem mọi phép tắc nhiệm mầu tỏ sáng khắp nơi, chí lý thật là sâu xa khó đo lường được. Tuy có nho thuật của Chu Khổng, huyền phong của Trang Lão, đều muốn tùy theo đây mà không trái đạo lý. Những bậc hiền sĩ ở đời, và đấng minh quân xưa nay, đều tôn sùng quy ngưỡng không có trái phạm. Đời nay, người ta phần nhiều đều gian trá, xảo quyệt. Người xuất gia cũng chưa phải là bậc toàn thiện. Dù đã vào đạo cũng chưa dứt hết sự kiêu dâm. Cũng có người vì trốn thuế trốn nợ mà dối nói là học đạo, tìm cách an thân sớm tối, giả xưng là tăng môn.

Lại có bậc uy nghi đầy đủ, chí nguyện như châu sáng, giới hạnh không thiếu, tâm như ngọc sáng. Nay Bệ hạ muốn họ hoàn tục hết mà không phân biệt được người hiền kẻ ngu, chỉ sợ lửa cháy đến ngọn Côn Sơn thì ngọc hay đá cũng đều bị tiêu diệt hết. Sương rơi xuống khu vườn nào thì cỏ và hoa cũng bị ảnh hưởng. Chỉ lấy việc đó mà nói thôi cũng sợ làm thương tổn sự cai trị của vua. Nay trách Đức Như Lai hàng phục trị phạt để dứt gian, chỉ có Phật tánh từ bi, pháp môn bình đẳng, không có kia đây, không có ta người, dứt hết thương ghét, lòng như biển rộng. Lúc đầy đủ thì không vọng tưởng. Khi hoạn nạn thì không giận dữ, xét rõ việc này cũng có thể chứng nghiệm. Vả lại. Thương Quân sống ở trong triều Thuấn, Đan Chu lớn lên từ nơi cung Nghiêu. Nhị tử tuy chẳng phải là người nhưng vẫn còn không thiếu bậc Thánh của hai vua. Nay bỗng nhiên do lỗi của Ngu tăng mà lại muốn hủy hình tượng Phật.

Việc tiến thoái thương lương, lý vẫn chưa thể được.

Vua Cao Tổ lại hỏi các quan rằng:

Bài truyền dịch mỗi lời đều đối với trẫm mà nói rằng: Phật giáo là vô dụng, trẫm muốn đem việc này ra bàn luận ý các khanh thế nào?

Lúc này, có Quan Tả Bộc Xạ là Ngụy Quốc Công Bùi Tịch, dâng lời can ngăn vua Cao Tổ rằng: Thần có nghe! Thuở xưa Tề Hoàn Công cùng với quần thần là Quản Trọng, Bào Thúc Nha, Ninh Thích…. Cùng uống rượu vui thích, Tề Hoàn Công nói với Bào Thúc rằng: Các khanh hãy vì quả nhân mà chúc rượu đi.

Bào Thúc dâng rượu và chúc rằng:

Nguyện cho vua tôi không quên xuất xuất từ huyện Cử. Nguyện cho Quản Trọng không quên lúc bị trói ở nước Lỗ. Nguyện cho Ninh Thích không quên bữa ăn của ngựa.

Lúc này, Tề Hoàn Công rời khỏi chỗ ngồi mà từ tạ rằng: Quả nhân cùng hai vị Đại phu, sẽ không quên lời nói của phu tử. Được thế thì xã tắc nước Tề chắc chắn sẽ không bị phế diệt, lời này là thường nhớ người xưa vậy.

Bệ hạ! Xưa khai sáng chí của Nghĩa Sư, nương tựa Tam Bảo, nói rằng đem chín mươi lăm lời thệ nguyện mà khai sáng huyền môn. Nay Bệ hạ sáu cõi đã quy về, nhân phú có bốn biển. Muốn theo lời tà mỵ mà hủy phế Phật tăng. Đây là do còn thiếu lòng tin của bệ hạ, nay xin xét lại, đừng để muôn dân mất chỗ trông cậy, lý không thể được vậy.

* Vua Cao Tổ nghe lời can ngăn của bọn Trữ Hoàng, bèn ban sắc rằng: Chỉ lưu lại ba chùa ở kinh đô và một ngàn vị tăng, còn bao nhiêu thì ban cho các vương công, tăng lữ thì trả về đồng ruộng quê nhà.

Nghiêm lệnh đã ban, đen trắng thật khó phân, nên không dám trái ý mà vâng chỉ.

Ngày mùng sáu tháng năm mùa Hạ, vua Cao Tổ băng, văn Đế nhiếp chánh. Đại xá cho người dân trong nước, trở lại thần cư.

Mặt trời Phật nhờ đây mà được hưng thạnh. Lại nhân vì bài dịch truyền trước kia nên có các đạo sĩ là Lý Trung Khanh, Lưu Tiến Hỷ v.v… đều trình bày ý kiến nhỏ hẹp của mình, và soạn dung văn. Họ trước tác “Thập dị, cửu mê” và “Hiển chánh đẳng luận” chê Phật thánh làm tối tăm sanh linh. Lời nói trái khuôn phép, đều trái với kinh sử.

Pháp sư xem qua những lời trước thuật, thì thương xót người lầm lạc, liền soạn luận văn, để làm lời biện chánh. Rõ ràng Pháp sư dùng sự hiểu biết rộng lớn của mình chẳng phải một ngày mà thành. Lúc này dùng văn thư đương nhiên là lần lữa lâu dài. Có Quan Hữu Bộc Xạ Sái Quốc Công là Đỗ Như Hối muốn đem chí khí của mình trình lên Thiên đình, nên cùng Pháp sư dốc chí muốn khai hưng chí đạo Pháp sư cũng mượn lời kẻ sĩ. Nên gửi thư nói với Pháp sư rằng:

Pháp Lâm ở chốn núi non, ăn cây trái mặc áo cỏ. Đối với muôn sự dẫu có chí thành cũng đồng với cây cỏ hư nát. Không biết hết chuyện đời, ngậm miệng không nói đến trọn đời. Trong thì thẹn với đức của người trước, ngoài thì hổ với muôn lời khen. Đó chẳng phải là cô phụ ngài Tuệ Viễn, cũng thật là để lụy cho ngài Đạo An. Thế nên muốn giữ chí mãi với suối xanh, quy tâm vào núi biếc, ẩn mình giữa chốn tòng lâm, thưởng pháp vị của kinh thư. Bên am cốc nơi dòng suối ngắm xem chim cá. Há chẳng phải là chốn từ lâm rộng lớn lại nhập vào cõi trần bao la. Làm khách ở lâu trên đất Tần Xuyên, bỗng chốc lại xa lìa nước Sở. Bèo trôi trên bát thủy, lá rơi trong ba cõi, che lấp tâm khẩu đã lâu. Cái tình của Trọng Thúc đâu có gì đáng nương cậy. Ngồi ở linh đài mà sanh tâm buồn giận, lên Bạch Xã mà than thở, lòng luyến mộ Nam sào càng tăng, thương xót Bắc phong càng tha thiết, bất đắc dĩ phải lãnh thọ truân chiên, dối vịnh “thất ai”, luống ngâm “Cửu thán”. Mạng sống này chẳng biết như thế nào, lại thêm bịnh tật buộc ràng, nhiều năm liền tưởng chừng sắp dứt, chưa biết khi nào. Trăm nhà có muôn quyển chưa rõ ràng nhân người trước truyền lại đều mang nhiều văn vẽ, mà chưa dứt hết tà nguyên. Nay người lại muốn sửa sang để biện chánh, lại vì kinh thư không đủ, sách sử thiếu thốn, tuy hết lòng nhưng ngặt không biết nương dựa vào đâu.

Kính mong Quan Bộc Xạ, đem tài đức mà trù liệu tính toán. Lấy uy quyền của Quan A-hành, Biết được gương sáng của người, ở chốn sông núi xa xôi, mà có tâm tiếp sĩ đãi hiền. Biết được người phong tư soi sáng, thức độ mở rộng. Đã nắm giữ được hạt châu của rắn linh, lại có được ngọc ở Kinh Sơn. Cho nên cùng giúp đỡ nhau công việc văn thư Quan lại. Gương đức thì soi sáng nhà quan mà khen ngợi hình luật trong triều ngoài nội. Lại do môn xưng biển bút, thế hiệu nối tông, không quên bổn hoài đời trước. Luôn có những điều lo buồn chất chứa. Muốn làm cho tro mùa đông thêm ấm, cây mục thành tươi.

Ngày trước, Vương Xán xem sách, để giúp Sái Thị. Tương Như đọc thư, thì phụ giúp Dương Hùng. Đó là ý của các nhà hiền triết và các sách, và văn tịch trong ngoài từ thời nhà Tấn, Tống đến nay. Có sự tương quan với kinh Phật. Nay xin nguyện soi sáng, sao chép ra mà kính trình lên. Mong được đặc ân che phép, đọc qua lời cầu thỉnh này.

Nhưng tà kiến và tín tâm xưa nay đều có người lành và bọn ác ngày nay vẫn còn. Trước đem chuyện phó tử dua nịnh, lược trình lại tiểu luận, lại mong được quan trên soi sáng bao dung, trong lòng chỉ biết hổ thẹn đức tài. Xưa, có bài phú Tam Đô, chưa gặp được Trương Hoa nên không người được thưởng. Nay bộ luận “Phá tà” không gặp Quân tử thì ai biết quý trọng. Rồi đạo tục bốn phương ở các chân trong nước, đều lưu thông sao chép khen ngợi thành chương, xong tâm người tà đạo, phát khởi điều lành cho người ngu, há chẳng phải nhờ năng lực của minh công sa? Chắc chắn có khả năng làm lợi ích chúng sanh, bạc hữu Quần mê. Xin hồi hướng sự trang nghiêm này về Phật đạo.

Bấy giờ, Đỗ Công đáp thư của Pháp sư rằng: Thân hèn này nhờ Đề-bạt mà lưu tiếng với đời. Lời hay bỗng ghi, làm cho lời minh thêm sâu sắc. Kính mong Pháp sư mạng thế càng cao thì lòng càng soi sáng. Khí lượng càng rộng lớn thì sự hiểu biết cang thanh thoát, khí lượng sâu xa mà thức độ thanh thóat. Vượt cả Phật-trừng, La-thập để làm sáng tỏ người trước. Hơn cả Đạo An, Tuệ Viễn mà cùng lưu dấu cho người sau. Nói cười trên đống tro tàn của nhà Hán, luận bàn đương thế của nhà Tần. Trong thì làm cho phong phú năm thừa, hiểu tận cùng tám tạng. Ngoài thì bao gồm cả trăm họ, tỏ thấu cả chín lưu. Ẩn nơi tử đài mà đón rước, trốn giữa thanh khê mà ca ngâm. Đưa ngọn gió của ngài Tuệ Viễn đến chỗ xa xôi mà xem dấu của Đạo Dung. Chí những muốn buộc lại giềng mối đạo mầu. Thế là Pháp sư dời gót khỏi sơn môn mà đến thượng quốc, thấy bài hịch của bọn cuồng đạo. Nên ngài liền làm bài văn phá tà để đối lại với những lời dối trá của bọn Lưu Lý, mà biện luận chánh tà. Kinh nói Bồ-tát Hộ Pháp, chính là nên như thế.

Xưa kia, nghe được lời này, nay lại thấy được người này. Nhưng

Phật tử nay thừa lệnh quan mà cảm thấy xấu hổ, lạm mong được cất nhắc mà rất thẹn với A-hành.

Sách nói: Đem biển bút mà nối tông, cũng thành ra luống dối, huống chi gia nghiệp đệ tử chẳng phải Cấp Quận, há là có sách để luận giải. Thất khác nước Lỗ, lý lại không đủ chữ nghĩa. Người thì lại khác hai đội, đời thì khác ở hai mũ. Ngũ thể cách đoạn, tứ bộ phần nhiều thiếu sót.

Pháp sư đã dựng chí theo Giác Đức, nối gót theo Đề-bà. Đệ tử cũng dám trình bày ra mà sánh với Trung sơn, kính vâng lời các bậc thạc đức mà truy hỏi bọn Hồng nho. Rộng tìm chỗ cần dùng, xa thiết bày những điều cần làm. Cũng mong gần gũi bậc Thánh, phụng thừa đạo pháp. Xem qua văn từ đẹp đẽ của bậc thánh đức. Nghe luận giải của bậc Trưởng giả. Nhưng đệ tử việc vua bề bộn, đợi lúc nghỉ ngơi rảnh rỗi sẽ tìm đến ra mắt.

Bấy giờ, Pháp sư có thiếu thốn điều gì, thì Đỗ Công đều cung cấp đầy đủ.

Pháp sư giải đạo tầm nho một cách cương quyết. Lập luận tạo ra có tám trục mười hai thiên, lưu hành khắp chín châu, truyền bá cả ba phủ, rõ ràng mênh mông ai cũng có thể xem qua. May mắn có thể đến chỗ Đại La Ngọc Đế, lại sợ rằng ở trong chỗ cửa vàng, tiên quân trong chín phủ. Làm rung chuyển cả tứ thiên, sửa đổi quần tà ở cõi khác, chuyển tâm mê mờ của chúng sanh. Huống chi bọn tả đạo Hoàng Cân không làm cho khuynh đảo ư?

Có đông cung học sĩ là Trần Tử Lương, lời nói làm gương mẫu cho thế gian, sự học trùm khắp rừng Nho thấy được luận này nhân đó lấy làm lời huấn cáo. Đầu mối chính là đây vậy.

Nghe rằng, đấng Tuyên Hoàng nằm mộng, đạo pháp nhờ đây mà hưng khởi.

Bách Dương ra khỏi cửa ải, nghĩa nhị thiên liền thành tựu. Hoặc là buộc ý tưởng. Hoặc nghiên cứu sâu xa. Chỗ tên gọi thì không nêu ra, chỗ âm dương khó đo lường được. Vẫn còn có thể dời cả đất trời, bao gồm cả quỷ thần. Đạo không hợp với Đại thiên, lời không vượt ra khỏi nội giới. Huống gì pháp thân thì tròn sáng vắng lặng, vượt ngoài hữu vô. Chí lý bất động, nhiệm mầu, dấu vết khắp cả chân tục. Thể dứt bặt ba tướng, lụy khắp cả bảy đời. Vô tâm tức là tâm, phi sắc chính là sắc. Vì Vô tâm tức là tâm cho nên năng tâm chính là tâm này, vì phi sắc chính là sắc, cho nên năng sắc chính là sắc này vậy. Rắn bay lên hư không, hình tướng, danh sắc đều vắng lặng. Ngoài lưới đánh bắt thì đâu thể dùng lời mà nói được. Như thế, nên Tây Bá bị giam nơi đất Khương mà hiển bày tinh vi. Tử Trương nơi ngục kín mà thành bậc Tiên chí cho đời.

Cho nên Kinh Dịch nói rằng: Việc làm của người xưa thì dễ, nên có lòng suy nghĩ, lo lắng vậy. Hưng khởi luận này cũng chính có lòng tin như thế!

Pháp sư họ Trần, là con cháu của quan Thái Khâu Trương Trọng Cung đời Hán. Vì Viễn Tổ làm quan nên đi khắp vùng Giang Tả. Gần đây do cư ngụ ở đất Kinh Châu, đến đời nhà Tùy thì đến kinh đô theo thầy tạo cơ nghiệp. Có thể gọi là Ngọc dời vào hang núi mà ánh sáng vẫn tỏa khắp cùng. Quế ở trong rừng sâu thì mùi thơm càng bay xa. Pháp sư ứng theo điềm lành của chân nhân, là điều tốt bẩm thọ Hoàng y. Trong thì thông cả ba tang, ngoài tỏ cả chín lưu, đã giỏi về duyên tình lại khéo về thể vật, lại càng có công với muôn loài. Viết sách thì lý nghĩa sâu xa, văn vẽ rõ ràng bóng bẩy đến chỗ tinh hoa chải chuốt. Khi thì nhẹ nhàng mà cao vút đến trời mây, vàng ngọc của Ban Giả cũng chưa thể đồng năm. Lấy hết cây cỏ đất đai ở sông hồ cũng không thể lấp hết. Còn học trò của Trang Tử, Mặc Tử, sách của Hoàng Tử, Lão Tử, văn của Tam Thanh, Tam Đổng. Văn thư cả cửu phủ cửu tiên, dù là chân thật bí truyền. Nghi thức Linh bảo độ mệnh, thuộc như làu trong bụng, nói như nằm trên bàn tay. Lại thêm từng đọc qua Trung Quán, Thiếu Uẩn Pháp Hoa. Đã có văn trì, lại chuyên soạn thuật. Ngoài thì vận dụng suy nghĩ, dắt dẫn không mỏi mệt. Giải thích Trung Quán thì có thể sánh cùng Long Thọ, bàn về thuyết tự nhiên thì không xa Lão Tử. Thế là người trong bốn phương đều kéo đến như trở về vườn Trưởng giả.

Bảy báu đều lẫn lộn như vào chợ Hoa Âm, đó chính là bậc học sĩ tài cao lỗi lạc khắp xa gần. Thật là bậc rường cột của khai sĩ, là tường hào của pháp môn. Bởi vì có các đạo sĩ Lý Trọng Khanh, Lưu Tiến Hỷ v.v… Tự bày kiến thức hẹp hòi của mình bằng văn tự, để hủy báng chánh pháp, khiến cho mọi người sanh tâm kính tin tà vạy. Pháp sư vì lòng thương xót sợ họ đọa vào địa ngục, nên phát tâm đại bi mà soạn ra luận này. Có thể gọi là vang cả biển pháp, động đến núi từ, đá ở trong Bích Khê cùng cạnh tranh. Ngựa tốt Hoàng mã cùng tranh phi nước rút. Chỗ nào lá cây cũng rụng, đưa dao búa lên thì mây tan sương quyện. Cũng giống như đốt lò lớn mà chỉ có một sợi lông nhỏ, như làm nguội lò luyện mà chỉ có chút bay. Những người thích phân thắng thua có thể xem đây mà biết vậy. Bỗng chốc đem lòng từ định mà phá sạch quân ma. Dùng đao trí tuệ mà hàng phục bọn ngu. Mặt trời Phật từ đây càng sáng soi, mây pháp nhờ đây được trùm khắp.

Pháp sư bèn làm các văn từ thi phú, khởi tụng bia chí chương biểu. Tạo ra giáo pháp Đại thừa và phá tà luận hơn ba mươi quyển, lưu truyền lâu ở đời. Luận này văn có tám quyển, mười hai thiên và hơn hai trăm trang giấy. Nói tận cùng cội nguồn giáo lý của đạo Phật, đạo Nho. Nêu danh lý bình phẩm đến chỗ cùng cực. Đã soạn viết nhiều năm mà chưa truyền bá. Xưa, có Tần Hiếu Công nghe thuyết đế lý mà ngủ say, nghe đàm bá mà hưng khởi, Dương Xuân Hòa vì ít hiểu mà sanh lòng buồn thương thở than. Nhưng các tác phẩm do Pháp sư soạn thuật thì nội ngoại điển đều đầy đủ, sợ rằng kẻ hậu sanh thích việc có chỗ chưa rõ. Có đệ tử là Trần Tử Lương ở Dĩnh Xuyên thường gần gũi thưa hỏi cuội nguồn, tự nhiên được sáng tỏ, hiểu thông mọi lẽ vào lòng, ứng cơ vắng lặng, thí như ánh sáng của hạt châu đủ soi chiếu muôn vật. Đã ngộ được sự huyễn hóa của bốn đường, liền dứt sự ngao du trong trăm cõi.

Ngài đem những điều chưa nghe mà chú giải lại, kế đến đem đến cho người cùng thích, cùng xem xét kỹ lại. Niên hiệu Trinh Quán thứ nhất, vua Văn Đế bỏ cung Đại Hòa lại dâng thỉnh lên Cao Tổ khi đến chùa Long Điền, thấy cảnh sông núi hữu tình, trong tâm cho là kỳ lạ. Vả lại, Pháp sư dùng lời thuyết giáo nhã nhặn cao đẹp, bèn dời lên ở nơi đây. Đến tháng hai mùa xuân niên hiệu Trinh Quán thứ bảy, có Thái tử Trung Xá Nhân là Tân Tư, đặt ra hai điều khó để hỏi vị tăng Thích Tuệ Tịnh ở chùa Kỷ Quốc. Tuệ Tịnh nhân đó soạn luận Chiết Nghi để đáp lời Tân Tư. Luận này nằm trong Cao Tăng truyện, Tuệ Tịnh khi soạn luận có trình lên Pháp sư, Pháp sư đáp thư lại rằng: Gần đây có xem qua luận “Chiết Nghi” của Báo Tân Trung Xá Nhân, ý nghĩa văn từ thì bao gồm rõ ràng siêu tuyệt. Ánh sáng ngọc làm cho mắt hoa nên chưa thấy được. Tiếng khua vang làm ù tai. Đó là vì ở trong chỗ diệu tận không còn lời lẽ để diễn đạt. Thí như viên ngọc hành che khắp cả thất chính. Như biển lớn gom chung cả trăm sông. Thật là sáng sủa! Thật là mênh mông!

Lời nói vượt ngoài mọi sự thấy nghe, lý biểu thật không thể suy nghĩ, bàn luận. Đủ để nhìn rõ muôn điều, mở được con đường của ý. Đến như trụ vô sở trụ, nghĩa kiêm tu ở tại đây vậy. Làm cái việc không làm, công đức cứu độ thật rộng lớn. Vẫn giữ lối mềm dịu mà căn lành sâu lắng, lý thì nhỏ nhẹ mà sáng sủa khác thường. Lẽ nào không đồng với huyền đạo. Phàm lập tượng để mà biểu ý, được ý thì quên tượng, nếu quên được cái phải quên, thì tình lý kia đây cũng đều mất. Không quên, cái phải quên thì Đại Tiểu thừa có khác. Cho nên biết khi mặt trời mặt trăng đã lố dạng, thì đâu cần ánh sáng của đuốc. Cũng như khi mưa đã tuôn xuống thì đâu cần nước của ao đầm.

Cho nên nói: Kia đây có thể quên nhưng chẳng phải không có kia đây, đó là ta đã bỏ thân trước kia. Do bỏ thân này mà nói là vô thường, thân mới ta nay đang thọ,mượn nó mà nói là duyên khởi. Chẳng phải mới chẳng phải cũ, nghĩa huân tu này không thành. Vô thiện vô khắc, thì sự tốt xấu không có ai để chấp trước. Bởi mượn sanh diệt này để dứt bỏ các mê chấp đoạn thường kia. Nhờ nhân quả này mà chỉ con đường Trung Quán, dứt đoạn kiến, thường kiến thì kẻ mê lầm sẽ thấy được lối về. Lý Trung Quán đã rõ ràng, thì chân như tự hiển bày, hoặc là nói về nghiệp lý để làm sáng tỏ sự huân tập, vừa mở được báo phần để giải thích tự nhiên. Ý đã xuất ra lời nói ngay thẳng thì ý chỉ vượt ngoài câu văn. Báo phần đang hiện hữu, thì chim cú chim hạc không bỏ thân tốt xấu của nó. Nhân của tướng nghiệp lý, thì ve sầu và loài ong đều tự mình bay lên mà hóa thành. Có thể gọi đó là ở trong không danh tướng, mượn danh tướng để nói. Thể chân hòa hợp với tục há chẳng phải như thế sao? Thấy rõ tài do trời phú của Trung Xá Nhân, cũng chưa bằng với bậc thượng nhân nói cùng tận lý lẽ. Tử Kỳ có thể hổ thẹn đối với Tang Ngẫu. Nhan sanh cũng hổ thẹn với việc chết ngồi, có thể dứt đi mà nắm hai đầu. Dứt hết mọi nguồn gốc hoạn nạn nghiêng ngửa, Sở đã được thì Tề cũng không thể mất. Pháp sư là bậc học rộng không ai bằng, trí tuệ vô cùng. Nay làm bậc rường cột Phật pháp, làm thiện tri thức cho đại chúng. Thật cũng vang danh khắp nẻo, lại thêm nhiều lần ra mắt cửa vàng, thường đến nơi thượng tịch. Thổi gió huyền vào nơi hạc thước, đánh trống pháp ở nơi lầu rồng. Đã ở nơi trời xanh tung cánh, lại tung hoành trong bốn biển. Lấy chuyện xưa mà kể chuyện này, để người biết đến.

Ngài Pháp Lâm cáo bệnh lui về Nam Sơn mà giữ tâm nơi hang vắng. Không hề rời khỏi chỗ, suy tư chốn gió mây mà mọi việc đều không thấy không nghe. Gởi tâm tình ở nơi suối đá. Gặp chuyện thấy tên mà khởi lên ưu phiền. Vừa thấy quỳnh chương dùng để dứt bệnh lâu ngày, bồi hồi ngâm thơ đọc sách chất chứa trong lòng. Bất giác lấy giấy viết lại chuyện xưa, đem chút tâm tư bày trên giấy trắng. Chậm gặp kẻ sanh sau nên càng khai mở cho người chưa hiểu rõ, nên Pháp Lâm không lượng kiến thức hẹp hòi của mình mà thuật lại đôi chút bổn hoài của mình. Lời văn nói rằng: Mong làm sáng tỏ hai câu hỏi của Xá Nhân. Văn từ yếu chỉ rộng sâu, lý đạt đến chỗ mầu nhiệm . Đã mở khai ý nghĩa, văn phong lại rõ ràng vi diệu. Nêu bày Phật tánh vốn bình đẳng. Lược nói về sự dắt dẫn chúng sanh. Trình bày hai câu hỏi khó này, là cùng trở về một mối, khế hợp với đạo lý. Ai có thể vì câu hỏi này mà luận diễn cao xa, thì thấy đẹp, thấy có đẹp mà vẫn còn nghi. Vì sao? Vì tìm về Thượng Hoàng đặt ra phép tắc mới lưu truyền danh hiệu của bậc Tiên Giác. Đấng Pháp vương ứng với cơ duyên vạn vật, bèn nêu lên danh hiệu Phật-đà. Trí tuệ là sự bao trùm tiểu thuật của phân biệt. Bát-nhã là đại tông của vô tri, phân biệt duyên khởi, cho nên xưng đại là Tiên Giác. Tánh vô tri vắng lặng, cho nên mượn gọi là Phật-đà. Sự phân biệt đều ở ngoài cái hữu số. Vô tri cũng ở trong chỗ vô tâm. Ở bên ngoài hữu số, thấy phân biệt mà không mất. Ở trong chỗ vô tâm, công năng dẫn dụ không mất. Thu hào rất nhỏ mà so với núi lớn. Chim Yến nhỏ mà sánh với Đại bàng. Đây không thể đồng niên mà nói được. Trang sanh nói rằng: Ta quên điều phải trái, chứ không quên kia đây. Đây há là việc thường sao? Cho nên kẻ tiểu trí không thể sánh với bậc đại trí. Người nhỏ tuổi không thể sánh với người lớn tuổi. Chỉ có Bành Tổ đặc biệt được nghe, chẳng phải là việc mà mọi người đạt được. Huống chi lý ba đời không sai.

Cửa nhị đế đều có thể chứng nghiệm. Cho nên bậc thánh lập ra nhân quả phàm phu có được kỳ hạn thành Thánh thì đạo xứng rất tự nhiên. Học giả không có lợi ích thành đạo. Từ nhỏ nhiệm mà đến sáng tỏ. Nương vào sự thay đổi mà trở nên tốt đẹp nhờ nhân mà hưởng quả, nương vào huân tu mà bắt đầu thấy biết. Người kia đã biết mà cố hỏi, ta cũng lược đáp lại. Rộng đàm pháp chân như, để tự hiển bày, khi đã hiển bày ra thì càng nhiệm mầu càng tỏ sáng. Cùng trở về thì ai đến ai đi. Bởi biết theo nghiệp mà chịu báo. Hai con chim không biết hiềm khích vì sự xấu đẹp, nhân từ loài thấp sanh mà đến. Hai con muỗi không lựa chọn chỗ hóa sanh, mà là do đợi hay không đợi. Hiểu được đợi mà không đợi, xin hãy thử xem bộ luận này. Thuở xưa, Hám Trạch có hỏi rằng: Khổng giáo và Lão giáo là noi theo trời mà không dám trái mệnh trời. Các vị trời bắt chước Phật không dám trái lời Phật. Còn thuận theo trời mà chế ra Hồng phạm cửu trù. Trên thì nương theo mười điều lành mà phụng theo pháp Phật. Nếu so sánh Khổng giáo Lão giáo với Thánh Tôn thì có thể gọi là Tử Cống là bậc Hiền của Trọng Ni.

Con Ba Ba kiểng chân vượt qua con ngựa giỏi, muốn xem biển khơi mà du ngoạn trên dòng nước. Làm sao loài không mắt mà mong thấy được trời xanh. Người đi bộ mà cầu đến trước, là chuyện không thể có vậy. Vả lại Vương Đạo, Chu Ký mang mũ áo của Tể Phụ. Vương

Mông, Tạ Thượng làm bậc vũ nghi trong nhân luân. Kế đến thì có Khích Siêu, Vương Mật, Lưu Cầu, Tạ Dung v.v… Đều là những vị anh hùng của đất Giang Tả. Hơn bảy mươi người đều học theo Cửu lưu, tài anh khắp thiên cổ, cũng đều nói đến tánh linh chân là thiết yếu, có thể dùng để giữ thân mà cứu giúp thế tục, không gì hơn được đạo pháp của Thích Tôn. Còn như Tống Văn Đế cùng Hà Thượng Chi cũng có luận đàm về việc này. Như thế khắp trong thiên hạ đều tuân theo pháp yếu này, thì ta sẽ ngồi yên mà hưởng cảnh thái bình vậy.

Lại nói: Nếu xướng lên tu mười điều lành thì cõi trời, người thêm đông. Ngũ giới thực hành thì loài quỷ đói, súc sanh cũng được tỉnh ngộ. Đây chính là khuôn phép mầu nhiệm cứu đời. Há là thô tháo mà luận bàn được sao? Văn của Trung Xá Nhân thì dồi dào cao diệu, văn hoa lý lẽ rõ ràng. Đời Tần thì treo một chữ, nhà Thục thì treo nghìn vàng.

 

BIỆT TRUYỆN VỀ SA MÔN HỘ PHÁP ĐỜI ĐƯỜNG LÀ NGÀI PHÁP LÂM

Sa-môn Ngạn Tông chùa Hoằng Phước ở kinh đô biên soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN TRUNG

Thánh giêng mùa xuân niên hiệu Trinh Quán thứ mười một.

Vua Văn Đế muôn tuyên xướng tổ phong, tuân theo Tung Bổn Hệ mà viết ra.

Vua ban chiếu tuyên cáo với lê dân rằng: Khuôn phép của Đạo Lão, nghĩa ở chỗ thanh hư. Di huấn của Đức Thích-ca lý là nhân quả, lấy luận để triển khai giáo lý vậy. Vì muốn dắt dẫn chúng sanh mà lập ra các tông phái, làm lợi ích cho thế gian. Nhưng sự hưng thạnh của đại đạo bắt đầu từ xưa, nguồn gốc ban đầu không có nêu danh, sự nghiệp cao lớn mà biểu hiện có hình thể, vượt qua lưỡng nghi mà vận hành, ôm muôn vật mà nuôi dưỡng. Cho nên việc cai trị đất nước trở nên thuần hòa chất phát. Còn sự hưng khởi của Phật giáo ở bên Tây Vực, từ thời Đông Hán truyền sang Trung Hoa, giáo điển truyền khắp ra nhiều nơi, việc báo ứng chẳng phải một. Gần đây sự sùng tín lại càng sâu rộng. Người muốn được phước ở ngay đời, họa thì lo sợ ở tương lai. Do đó mà người còn đắm chìm trong thế tục, nghe đạo Huyền tông thì cười lớn. Người ưa thích điều lạ nghe chân đế mà tranh nhau quy về. Lúc đầu đao khởi xướng ở chốn làng xã, sau đó vươn tới triều đình. Càng khiến cho kinh điển trở nên khác tục, sự vi diệu hơn hết những giáo điển trước kia.

Trẫm sớm tối thường lo nghĩ xa xôi đến chí đạo, nghĩ tư cách trước đây thường bị trói buộc bởi phép tắc. Huống chi trẫm vốn là trụ cột của nước nhà nên phải khởi xướng lên. May nhờ phước lộc của Thượng Đức mà dân chúng trong nước được đại định, cũng lại nhờ công đức của pháp vô vi, nên mới được pháp mầu mở mang khai hóa ở đây. Từ nay về sau việc thiết trai cúng dường lập hạnh ở nơi giảng luận. Bậc Đạo Sĩ nữ Quan có thể ở trước tăng ni khai hóa đạo mầu ở các nơi tôn trọng phong cách của tổ tông xua tan mọi chướng khí. Bấy giờ, tăng chúng trong các kinh ấp đều đến.

Bài biểu chương của vua vừa ban ra, Pháp sư cũng dâng biểu thưa rằng:

Pháp Lâm nay tuổi hạc đã cao, mới gặp được thời thái bình thạnh trị. Khi sức đã về chiều mới gặp được vị vua Thánh anh minh. Trộm nghe! Con gặp được điều lành liền hiến dâng lên cho cha mình. Bề tôi có điều thiện thì tất sẽ dâng cho vua. Đạo thần tử đối với vua cha dám đâu không tận tâm bày tỏ. Điều gì mà cha thường khuyên bảo con, thì con đâu dám làm điều bất nghĩa. Kẻ sĩ nếu biết can ngăn bạn bè thì thân không lìa việc tốt. Pháp Lâm tuy dự vào hàng xuất gia, nhưng vẫn xếp vào hạng bề tôi, nên có phạm điều gì cũng không dám che giấu mà không trình bày ra kính nhận.

Chiếu thư rằng: Quốc gia vốn nhờ phép nước luật vua mà được bền vững. Thổi ngọn gió của Tôn Tổ, phơi bày kinh điển của người trước. Bố cáo khắp nhân dân trong nước đều được hay biết. Khiến cho bọn Đại Sĩ ở trên tăng ni, chu toàn theo chiếu chỉ đâu dám chống cự. Noi theo khuôn phép của Lão Tử mà cai trị đất nước, sửa đổi việc nhà. Các điều chương đều cảm phục cũng không thay đổi. Chí cao thanh hư không đồng với đời, không lập Quán vũ, không lãnh đồ chúng ở trong chỗ khiêm hạ để giữ toàn chân, ẩn đức lớn để nuôi tánh. Người có trí thấy đó thì cho là Trí. Kẻ ngu thấy vậy thì bảo là ngu. Nếu chẳng phải là Lỗ Tư Khấu thì không ai biết được. Nay Đạo Sĩ không tuân theo pháp tắc, mặc áo đội mão như bọn Huỳnh Cân. Đó vốn chẳng phải là con cháu của Lão Tử, làm các việc tà thuật của Tam Trương, bỏ diệu môn của ngũ thiên. Lại đồng với các câu chương cú ngạo mạn của Trương Vũ. Từ thời Hán Ngụy đến nay, thường đem quỷ đạo biến hóa ở trong cõi Diêm-phù này. Dối gá làm con cháu của Lão Tử, thật là mầm móng của tà đạo. Nếu đặt trên tăng ni thì sợ rằng phàm thánh lộn lạo khó phân, sẽ tổn hại cho việc cai trị nước nhà. Nếu không trình tấu lên, thì làm sao biểu lộ hết cái tình của bề tôi. Cung kính sao lục đạo kinh và các sử của Hán Ngụy thì đều là việc Phật trước Đạo sau, như thế thì không sai trái vậy. Cúi mong Thiên từ dũ lòng xem nghe. Xin trình tấu lên.

Vua cho vời Quan Trung thư thị lang là Sầm Văn Bổn tuyên khẩu sắc rằng: Nói với chúng tăng rằng, chiếu lệnh đã hạ rồi. Nếu cũng không phục. Nước có nghiêm lệnh, Pháp sư ăn chay giữ giới, cho nên nói với chúng tăng rằng:

Vua ở tại Cửu trùng, dung nhan Ngài khó mà thấy được. Giả như muốn kéo áo chặt cầu cũng không do đâu mà làm được. Nếu chưa bằng Chủng Vũ, Khuất Nguyên Thê Hoàng ở chỗ hoang dã, kết cỏ lan mà mặc, tự sống đời thanh bạch.

Đến tháng chín mùa thu niên hiệu thứ mười ba có Hoàng Cân Tần Thế Anh giỏi các việc y phương tế lễ, nên đem tài thuật ra để dua nịnh theo thời, nên được lòng của Trữ Hậu, bèn lén tâu các bài luận của Pháp sư, cho là hủy báng Hoàng tộc, chê bai người trước, mang tội vọng thượng.

Vua nghe bèn nổi giận, sa thải tăng ni. Ra lệnh cho đồ chúng y theo lời di giáo, là pháp Lâm hủy báng tông hệ của trẫm. Nếu không trừng trị, thì không có hình pháp quốc gia là gì. Nay Pháp sư muốn vươn đôi cánh bay lên để đến tận trời xanh. Không đợi truy xét mà hãy đưa đến nha phủ. Bọn Quan lại thừa lệnh chúa Thượng bèn tra hỏi Pháp sư, bắt nhốt ở châu đình. Quan Tư Không là Mao Minh Tố, thường đứng lâu nhìn Pháp sư thanh thản trong chốn u nhàn nên làm thơ nói với Pháp sư rằng:

An nhiên trong lao ngục
Chẳng màng việc tử sanh
Mới nghiệm cây trong núi
Mới biết bậc kỳ tài

Pháp sư cũng làm thơ mà tạ rằng:

Bần đạo thức tánh ngu muội, nên không dám tự thị, mà chỉ mượn mấy lời văn vẻ cuồng giản, kính dâng lên hiền giả. Vì chưa có thể tự vẫn, nên còn chút hơi thở, mà tướng công lại ban cho thanh ngoạn, thì Lâm này cũng cam ở mãi chốn giam cầm này. Xin nói ra vài lời hư huấn này:

Tiếng than đêm u uẩn
Bày ra nỗi khổ cùng
Tại nay ta thất thế
Uổng cùng với người xưa
Cỏ dầy khó thấy trời
Tùng xa dể gặp gió
Nhân nói mà đắc ý
Ai tránh chốn cùng thông

Mao Minh Tố khi đọc thơ của Pháp sư thì kinh dị vô cùng, than rằng:

Than ôi! Thật là biết quá trễ.

Tháng mười mùa Đông năm Quý Hợi, nhân ở chùa Hưng Thiện có thiết trai mời Pháp sư, Pháp sư viết thư tạ rằng:

Lòng thành nhận thọ cúng dường của triều đình, dù chẳng phải trân lương mỹ vị thì cũng là hương phấn lan phần. Đây cũng là ẩn lòng nhân từ khoan thứ sâu xa. Đêm mùi vị mà nuôi dưỡng thân hư huyễn này. Thật là may lắm, may lắm.

Cúi mong đại chúng dừng mọi hành động để cùng hưởng thọ an lành vậy.

Pháp Lâm này thật bất tài nhận thọ của tăng chúng. Cùng nương tựa mà không thể tự dung. Cũng không phải là người có tài đức vượt hơn mọi người, chợt thân này tàn lụi, không thể hòa hợp với nhau, trọn chỉ lo không có tội trạng, môn đồ lại phải quỳ gối ngâm dài phúng điếu thì hổ thẹn cho vong hồn vậy.

Thế nên biết dù người uống rượu say sưa mà tiết tháo tùng bách cũng vẫn còn giữ sạch trong. Làm cho bùn dậy sóng mà sen quế mùi hương càng thanh khiết, Pháp Lâm này đâu được là người như vậy! Đã vậy mà nhân lúc nhàn rỗi làm thơ suy xét việc đời, thì cũng là hủy báng bậc trung sĩ, lại để cho kẻ hạ ngu dẫm lên dấu vết. Và lại để cho người giữ chân kéo đuôi, thì làm sao mà thanh thản được! Vả lại, bậc đạt nhân không mong cầu danh lợi. Người đại đạo giữ trọn khí tiết, thì cho dù suối trong giếng lặng vẫn không thể đo lường được. Nên mới đem sự tăm tối ở chốn này mà làm tiêu mất tiếng tăm ở hang vắng, xua tan đám mây trắng phủ che. Nhàn du ở chốn thông xanh, sớm thấy Tuệ Uyển, tối gặp thiền lâm. Mà quanh năm suốt tháng buông tình theo cảnh vật bên ngoài. Nguyện này chưa đủ bao trùm hết cảnh giới. Nhưng người có tội này nghĩ đem hết từ chương lý lẽ, bút mực thô thiển để nói hết lòng mình, thì thước trắng dễ phiền mà tấc lòng khó hết vậy.

Đến tháng mười, mùa Đông năm Bính Thân. Vua ban sắc cho Quan Kinh Bộ Thượng Thơ Lưu Đức Uy, Lễ Bộ Thị Lang Cô Đức Phân, Thị Ngự Sử Vi Tông, Quan Tư Không Mao Minh Tố v.v….đến tại khám đường, mà hỏi Pháp sư rằng:

Người đã cạo tóc sửa tâm, mọi việc nên giữ điềm tĩnh. Xuất gia xả tục phải khế lý vô vi. Nên ẩn tích tu tứ thiền, tâm thực hành sáu độ.

Đem hết cặn bã của Đạo Nho, Mặc, tuân theo tinh hoa bán, mãn, thành hoa, sao phóng tâm trong chín cõi, anh tâm trong ngũ điển, dẫn rộng tam giáo. Từ lúc thăng trầm trị đạo, nêu đủ mười vua. Nêu lên sự hơn kém về sùng kính. Hoặc thuật lại đạo Phật trước sau. Lúc đàm luận về thầy trò Thích-ca, Lão Tử. Rộng bày mười dụ chín châm, đầy đủ khí thành đạo quả. Lời nói thành tín bị hủy hoại thì rõ ràng bị quả báo. Luận bàn nhân vật thì trải qua hết các sách vở. Việc lầm lỗi của Đạo gia, Tăng sĩ làm sao mà biết thờ Phật. Quy tâm thì giữ lòng trong sáng. Soạn luận căn khởi, quen bài xích ngoại đạo, thì người tội phải chịu lấy.

Pháp sư đáp rằng: Pháp Lâm nghe: Nhất thiết chủng trí hiệu là Tất-đạt-đa, trải qua số kiếp nhiều như bụi nhỏ mà ứng sinh. Người hiền trí thì theo học mà soi sáng khắp nơi: Hoặc mở bày cho ngoại đạo. Hoặc lại hiện làm nho lâm, ứng theo đồng loại mà khuyến dụ. Tùy theo hình loại khác nhau mà hóa độ. Về sau mới xưng là Vô Thượng Sĩ hiệu là Thiên Trung Thiên. Lưu dấu khắp cõi Ta-bà, giáo pháp truyền khắp các cõi nhiều như cát sông. Hoặc là nương an thiền ngộ đạo, tuệ giải mà khai sáng, cho đến dùng thần thông nói pháp khai hóa độ người. Nhưng vì cơ duyên ngộ đạo của chúng sanh khác nhau, cho nên khai tâm Bán giáo, Mãn giáo, mở đạo Nhất thừa, Tam thừa. Tùy căn cơ mỗi loài mà lý giải. Ýcũng do đây. Cho nên Phật khiến trong mười hai thời thì một thời học ngoại điển, đều muốn họ quy phục mà dắt dẫn kẻ tục. Duyên cạn đã sâu, thì dùng lời ái ngữ đồng sự, thế nên trong “Nội điển thông học luận” chép: Phàm ở trên trời thì thành tượng, thành mặt trời mặt trăng tinh dị khác thường. Dưới mặt đất thì biến hình thành sông núi mà khí có động tĩnh. Vật đã vậy thì người cũng như thế, cho nên thể hiện dung nghi đạo hạnh, đầu tròn áo vuông. Đem dụng của tánh tình, âm buồn thảm mà dương thư thái.

Tâm hạnh thì có sự ham muốn khác nhau, đồng cho nên sâu cạn ngu hiền cũng khác. Ý nghĩ tâm niệm cũng phân ra cuồng, thánh. Mở ra các giáo lộ đường tắt, khóc đến bạc đầu vẫn chưa thôi. Sắc tơ mỗi thời đều thay đổi, đem lòng từ bi thương khắp chúng sanh. Đêm tâm tín giải lợi khắp, chín cõi trăm nhà đều khởi xướng. Lễ lạc của Nho giáo Đạo giáo, đem cửu tiên để loạn thần, việc đạo trống không, mà đem sáu kinh làm mất đức. Đem hình dung khác lạc mà luận biện dọc ngang. Đem lời của Khổng Tử làm lưu nhược mũ nhà Nho. Chuyên môn thì nhụt chí do chương cú. Văn chương thì lầm lỗi do khinh bạc. Người tục thì lấy hư vô làm nội điển. Kẻ tăng thì đem sách ngoài làm thí dụ. Giữ tiểu tiết thì bỏ đi rộng lớn, tu theo Đại đạo thì bỏ Tỳ-ni. Các tuệ sĩ thì lấy kiêu ngạo làm đạo phước chí tôn. Người tu thiền thì giữ gìn trí tuệ, phân nhiên dị học thì khó mà thắng lời nói. Các việc thì thích nghi, há cho không tu tập? Thích đồng với ác lạ, giữ chặt mê lầm lâu ngày cũng do đây. Ngôn từ ít thì tri thức cũng không nhiều, há như nửa văn nửa chất, vừa tục vừa chân, xem hết các sách, lao lung các nghề. Chỉ có bậc Năng nhân chủng trí bao trùm xưa nay. Có người ở vương xá, thử dùng bí mật chăn trâu, Phạm Chí ở rừng cây Thái tử Kỳ-đà. Những điều chứng nghiệm thì rất nhiều, khó mà nêu bày tỉ mỉ hết được. Cho nên, Đồng tử Thiện Tài đi tham cầu tri thức mà không biết chán. Trưởng Giả Kỳ vực chí thích học mà thông hiểu, lượng xét mà không bỏ một mảy bụi, vì tích đức rộng như núi, không rơi một giọt nước, nhóm thành biển trí rộng lớn. Rồi có Long Thọ khí lớn, và Mã Minh đức cao, mở mang đạo pháp một thời, truyền pháp cả ngàn năm. Lại có Đạo An thức soi cao như đỉnh. Pháp lan biện luận còn lưu sáng đời sau. Ngài Tăng Hội từ khí thanh cao, Tuệ Viễn thần thái rực rỡ đó đều là bậc lãnh tụ đi trước, cùng cảnh tiến cho hành giả đời sau vậy. Há chỉ có Phương Sóc mới có nhiều tài năng khéo léo. Còn Trương Hoa là người nổi tiếng học rộng mà thôi sao. Nghe rằng: Muối đỏ gọi thì chê bất thức, bồ câu trắng bay lên thì cười bất tri. Còn có người thông hiểu học khắp thì hầu như không có sự hổ thẹn này. Trộm nghe, đức mà bao trùm trong ngoài, thì các thứ tà vạy sợ nép phục. Lý giải cùng tận đại tiểu, tùy căn cơ mà hướng hội. Nếu tiểu giáo chưa thông, thì tuệ phẩm không đủ. Ngoại học có thiếu thì giới thiên còn phạm. Thế nên khéo trau chuốt văn từ, thì vốn thành đức bốn biện. Nếu thanh vận vi diệu hòa nhã thì thật là dự vào phương năm minh. Nhưng mà kinh Hoa Nghiêm thì quở trách học rộng. Pháp Hoa thì răn việc gần gũi. Tự tỉnh ngộ vô chấp mà lại khác với kia sao? Không tự khoe là Tịnh Danh mà kiêu căng với đời. Muốn giúp sức chân đạo mà nương nhờ Chánh giác. Còn Điền Quân dùng kỹ nhạc hạ tọa mà còn có lúc cứu giúp. Người nước Tề có chút thuật toán, còn có thể tự sửa đổi. Huống chi người mài giũa văn chương để noi theo đạo đức của các Tổ. Đã đồng với vàng đá trúc tơ, đều là những âm thanh vui vẻ vậy. Các loại quả trái đều là mùi vị vừa miệng. Thí dụ núi cao dụ cho Sơ địa, thuận với Nan thắng của thế gian. Phong lưu không rơi rớt, văn chương ở đây sao? Cũng khiến cho chư tăng và tục điển không bị hoang phế ở nơi gò vắng. Bậc nho sĩ biết Phật pháp thì không xem thường giới định. Cho nên nói: Bậc Đại sĩ học rộng, thông minh há lại hẹp hòi thủ cựu với người sao! Nhưng Biện Chánh căn khởi do Pháp Lâm soạn có lý do.

Đến giữa mùa Đông niên hiệu Vũ Đức thứ tư được Đạo sĩ Thanh Hư Quán là Lý Trọng Khanh soạn bài văn Thập Dị Cửu Mê. Và Lưu Tiến Hỉ soạn Hiển chánh đẳng luận. Nói về việc khinh thường Đại Thánh, làm mờ tối sanh linh… vọng trích dẫn kinh điển lấy trái làm phải. Lâm này đã giận bọn họ không hiểu biết. Vì nghĩ tội lỗi của họ nên mới rộng góp nhặt “Cửu lưu luận” thành “Bát trục”. Trình bày ra tam giáo chí minh để làm lợi cho đất nước. Nêu thập Đại là ý muốn làm rõ sự tôn sùng. Căn cứ vào sách sử mà biện giải trước sau. Đem lời huấn cáo để làm rõ sự kính trọng tôn sư. Dùng người dụ để bác bỏ mười dị của họ. Lấy chín châm để phá bỏ chín mê. Hào khí căn bản của đạo thì đều có khuôn phép. Đem lòng tín phá tà đạo, nhưng Pháp Lâm đã xưa có soạn “Đạo sĩ ngụy Mâu tử Tế” nói rõ về việc đạo Phật, đạo Khổng, đạo Lão đều cùng quy tâm, vì sao lại tự giữ cho mình. Rồi khi lý phù hợp, sự thuận theo thì thanh bạch rõ ràng. Căn bản đã rõ thì muôn việc đều được.

Bọn Đức Uy v.v… lại hỏi Pháp sư rằng:

Trong luận “Trọng khanh ưu liệt”. Điều thứ chín trong mười điều, là bài văn “Tiến Hỉ Hiển Chánh”, chỉ có một trục, cũng không vọng trình bày những điều tốt xấu, rộng dẫn đế vương, vì sao những lời biện lại lộn xộn lung tung như thế. Giả sử trích dẫn giải cho người có học, mà trình bày những từ ngữ luống dối, vọng trình bày, khai sĩ, Nho sinh toàn không có thật lục, là muốn đem việc ngày nay để rõ việc ngày xưa, ý có chỗ chưa phải. Nay phải trình bày cho rõ ràng không được che dấu.

Pháp sư đáp: Lâm này nghe nói!

Vì sao có sự trái phải, là nói rõ lời của Tư Mã, Tử Mặc, Hàn Lâm thuộc bài phú của Dương Hùng. Lần lượt có bọn Huyền Vi, Cảnh Cơ truyền bá mạnh mẽ ở đương thời. Đó là theo lời của Tuẩn Hoa, Xung Mạc ngày trước, nói rõ ngôn từ của Tông này ngày xưa, khuôn phép đã như vậy, Lâm làm sao mà nói khác được. Nếu không mượn đây để mở tông, thì làm sao lấy chỗ tà đạo để nêu bày tam giáo. Cho nên lúc sáng lập tam giáo, do đây bày ra mà lập luận, kế đến làm sáng rõ chín châm, trả lời thuyết của Trọng Khanh. Trong đó cũng có các sự mê hoặc từ trước đến nay. Nhân đó đem luận để giải thích cho thông suốt. Về sau đến giữa mùa niên hiệu Vũ Đức thứ tám, vua Cao Tổ đích thân đến Quốc học, lúc sắp hành lễ cúng tế, mới trình bày tam giáo đầy đủ. Bấy giờ, cả hai chúng thông nhân Vân La đều nhóm họp đón rước, các vị tài giỏi của năm bộ vân tập nhiều như sao trời trên chiếu nghĩa.

Khi đó, có Phan Diên Hoàng Cân mới vọng tấu trước sau, tâu với vua Cao Tổ rằng:

Thái tử Tất-đạt không thể thành Phật. Sáu năm cầu đạo mới được thành Phật, đây là đạo có công năng sanh ra Phật. Phật do đạo mà thành, Đạo là thầy của Phật. Phật là đệ tử của đạo.

Bèn dẫn trong kinh Phật rằng: Cầu đạo Vô thượng chánh chân. Lại nói rằng: “Thể giải đại đạo, phát vô thượng ý” v.v…

Bấy giờ, có sư Thích Tuệ Thừa chùa Thắng Quang, học nghiệp

sâu xa, tài cao hơn đời. Khi ở trong quân thì tích lương mặc giáp, khi nước nhà có giặc thì đều đến cầu viện. Khi được hỏi về việc khai tông thì liền vỗ núi gõ đá, liền viết lời “Tả Huyền Hà”. Kiêm bài từ của Thổ Phi Long. Nghĩa lý cao sâu mà truyền bá rộng rãi. Không có lời nào mà không ứng cơ. Người này đã khiến Chúa thượng suy nghĩ lại, các quan lễ bái. Bây giờ, bọn cửu tiên ngoại đạo đều thúc lễ ở ngoài cửa ngọ môn. Bọn Tam Đổng Hoàng Cân nghe ngóng rồi nói ra. Pháp Lâm cũng duyên theo đây mà luận nghị, lại chọn ra các sách Phật đạo trước sau giải thích về thầy trò Thích-ca, Lão Tử.

Lại làm bài “Bác Dịch” trình lên rằng:

Sau đời Hậu Hán, ở Trung Nguyên hoàn toàn chưa có lòng tin. Đến đời Tấn, Ngụy người dân mọi rợ một phần có lòng tin. Trong Trọng Khanh Luận chép: Trong bia đá có nói nước Tây Vực cùng Tăng Trừng Đạo nhân, nhờ đây mà Phật pháp ở đây được hưng thạnh.

Lưu Tiến Hỉ nói: Từ Tây Vực truyền đến Trung Hoa qua đất này chưa hoàn toàn có lòng tin. Từ Diêu Thạch về sau, ngọn gió Hồ thổi sang mới bắt đầu hưng thạnh.

Pháp Lâm do ba người này nên không thể im lặng. Bèn khéo rộng trình bày cho Quân Vương, các quan đều kính Phật độ tăng. Dùng ngôn từ đối đáp làm rõ sự luống dối của ngoại đạo. Sau bày tỏ rằng lòng tin phả bỏ giao báo, để chỉ cho Trọng Khanh, nêu rõ kết quả của thiện ác, giúp họ sửa đổi.

Nhưng Trọng Khanh v.v… văn tuy có hai mà sự có nhiều điều. Giả như sách pháp Lâm có tám quyển, cũng vẫn là lược báo. Ngày nay chúa thượng rõ các việc chánh tà, từ đó mà hưng hiển Sa-môn, tôn sùng thích giáo. Há là dám đem việc ngày nay mà so sánh với người xưa. Ý có sự sai lầm nhưng lý số thì rõ ràng, thật là chính xác.

Bọn Đức Uy v.v… lại hỏi Pháp sư rằng:

Trong phần thứ nhất của luận có nói! Đời Đại Đường vua gặp bậc thánh thì chắp tay. Chuộng người hiền đức mà làm việc chánh. Quý bậc nhân đức mà trở nên thuần lương. Phật giáo và Đạo giáo cốt ở sự chánh tín, chẳng phải nóng nảy, gấp rút. Từ lâu muốn trình bày mà chưa dụ, nên còn những điều thắc mắc. Vậy thì điều đó có thật không, Pháp sư nên trình bày lại rõ ràng. Nay Thánh thượng có xem qua, văn tư có chỗ còn chưa rõ cần giảng lại không?

* Pháp sư đáp: Pháp Lâm nghe! Khi Nho giáo cứu giúp thì, người ít biết tôn nghinh. Đạo Phật, đạo Lão làm lợi ích cho muôn vật thì kẻ ngu còn nghi. Cho nên mượn lời trên để làm rõ những điều chưa dẫn dụ. Bậc học rộng nhờ đây mà xướng lên công đức nhiệm mầu này. Vậy nên nói: Tuẫn chúa thờ cha mẹ lấy trung hiếu làm đầu. Toàn thân viễn hại thì đạo đức được tôn trọng. Cứu khổ lợi sanh, thì lòng từ bi. Luôn giữ lòng trung hiếu, mới có thể làm lợi ích cho nước nhà. Hành đạo lập đức có thể truyền bá thân danh. Hưng khởi tâm Đại bi, có thể cứu giúp chúng sanh, cứu giúp chúng sanh thì ân đức ban đều khắp trong sáu đường. Truyền bá thân danh tức làm hiển vinh pháp môn. Nước nhà đem công đức này mà bao gồm cả sáu hợp. Cho nên lấy trung hiếu để giáo huấn thế tục. Đem đạo đức làm phương thuật để giữ thân, hành đạo từ bi để chở che muôn vật, cũng giống như trời có tam quang, mỗi quang đều cân xứng với đức của nó. Như đảnh có ba chân, mỗi chân đều có công năng của nó. Tam giáo đồng tuân thì muôn sự đều tốt đẹp vậy.

Nay Chúa thượng ở ngôi cao tối thượng, lòng cung kính Đạo Vô vi, Văn chương thông minh đều hiểu rõ không cần dẫn dụ. Nhưng vì bọn Trọng Khanh gốc tà kiến sâu xa, khiến cho Đạo pháp thánh thiện chưa thấm nhuần hết. Cho nên mượn ý của Tân chủ để xướng lên khuôn phép này. Nói ra lời lành để nêu cao việc ấy.

Con như hỏi rằng: Hoàng Thượng chưa rõ có thể trình bày không?

Thì xin xem rõ văn tự đều có phân ra rõ hết.

Đức Uy v.v… lại hỏi Pháp sư rằng:

Trong phần thứ hai của luận có nói! Xét các sách sử từ xưa thì biết việc nho học đời trước, không nghe tên linh bảo, chưa ghi thuyết của Thiên Tôn. Lại vọng xưng là thông suốt, rộng chế ra trai nghi, mà không thấy được chỗ thiết yếu. Chỉ tham cầu tiên thuật, danh hiệu Đạo Sĩ không biết từ đâu đến. Lời nói xa xôi như vậy thật không biết gốc gác từ đâu. Nhưng đạo giáo thì nói sự vi diệu của linh bảo, bí mật ở tại huyền đài. Lão giáo thì luận biện thần của Thiên Tôn là Đại La cung kính chắp tay, rồi chế ra ba nguyên mười chân. Đây chính là cách xuất ly. Là nghi thức sáu trai bảt phẩm. Há lại là phương thuật tham cầu. Danh của Đạo Sĩ còn như thế. Những lời như thế đã lâu dài vậy.

Người Hồ bác bỏ sự tôn sùng của triều đình, chẳng phải vì sự tôn kính của nước nhà, môn đồ năm lần nghe chưa vượt hơn ba chương.

Lưới trời mênh mông, thưa mà chẳng lọt.

Pháp sư đáp: Pháp Lâm nghe rằng!

Điển thì có chín đầu hai mắt, Văn thì kim thiên hỏa Đế. Mô là Bạch Tần Xích Hán, Chí là ba Quốc hai kinh. Đó gọi là Tả sử Hữu sử, ký sự ký từ. Đây là lời trực bút trực ngôn, không hư vọng, không luống dối. Cho nên Ngô chủ Tôn Quyền hỏi rằng:

Quan thượng thư lệnh là Hám Trạch rằng:

Tiên có pháp linh bảo. Thế còn Đạo giáo này thì như thế nào?

Hám Trạch thưa: Pháp linh bảo đó, một là không có tên tuổi để nương theo. Hai là không có nơi chốn để thành đạo. Còn Đạo giáo xuất xứ từ hang cốc vắng vẻ, con người chẳng biết được, thật là chỗ thâm sơn mà lạm nói, chẳng phải bậc Thánh chế ra.

Ngô chủ khéo nghe lời đối đáp, lại hỏi:

Danh hiệu Thiên Tôn xuất xứ từ kinh Phật, đó là trộm ý của Đạo Thánh ta sao?

Vì sao xét trong ngũ kinh chánh sử của Tam Hoàng đến nay, đều không cho là riêng chỉ có Thiên Tôn sống trên cõi trời. Nhưng từ thời Chu Công, Khổng Tử đã đặt ra lễ pháp, sau định thi thơ, vì vậy trong năm điển ba phần không thấy xưng là Đại-la. Các vua đời trước cũng không nghe cúng tế Thiên Tôn. Ở điện Đoan Củng cửu Hoa chỉ gọi là Đại Đạo. Ở cung Thống ngự thất Ánh, có Đạo giáo biện luận nói về Thiên Tôn, các nhà hiền triết nói về linh bảo. Đây là chuyện đạo thính đồ thuyết (đầu đường xó chợ), đâu đáng y cứ. Những loại sách quanh co ngõ tắt đó chẳng phải là sách được công nhận. Lại có các sự tích trai nghi kiểu chế có thể tìm đọc. Không thể nào trình bày ra hết. Đó đều là do bọn Tam Trương ngụy soạn, Tu Tĩnh nói dối, bác bỏ như trong luận Pháp Lâm đã nói.

Lại danh hiệu Đạo Sĩ là do Đạo giáo dùng trước, không phải là tên Hòa thượng. Bên Nho giáo chưa có lời biện luận. Vì sao?

Trong Diêu thư có nói rằng: Bắt đầu từ đời Hán Ngụy về sau đã có Phù Diêu, đều gọi chúng tăng là Đạo Sĩ. Đến thời Ngụy Thái Vũ có một bọn tà đạo trộm xưng là Đạo Sĩ, lại đổi là Sái tửu. Đây có lẽ là sự ức đoán của Pháp Lâm, mà chính trong sử sách có nói rõ. Lại trong “Ban Cố Hán Thư Văn Đế Truyện” và “Phiên Nhạc Quan Trung Ký”, trong “Kê Khang Hoàng Phủ Mật Cao Sĩ Truyện” và “Phỏng Phụ Lão v.v…” đều không có nói Hà Thượng Công kết cỏ làm am thất mà hiện thần biến xứ. Các việc đều là luống dối, không có trong sách vở. Chỉ là vọng đem văn chương ma tạo thành pho quyển. Đến nay chúa Thượng cung kính hỏi đạo ở tại triều, Cửu tộc, Tôn thân bình an cả trăm họ. Thật có thể bỏ đi uế thuật của Tam Trương, mở mang diệu môn của ngũ thiên. Pháp Lâm nay vì hấp tấp mà phạm thượng, cúi mong Chúa thượng minh xét. Nếu khư khư mà từ chối thì sợ làm cho Thánh đế trở thành hôn quân. Cúi mong đến muôn lần, xin dâng những lời quê mùa này lên Thánh thượng. Nếu được nạp thọ thì mong được lợi ích thật cao sâu.

Đức Uy v.v… lại hỏi Pháp sư rằng:

Trong phần thứ ba của luận có nói rằng! Vua Cao Tổ nhà Lương để tâm nơi kinh điển nhà Phật, cầu phúc mà xả thân. Vua Tùy Văn Đế gánh vác tứ sanh, làm rường cột cho Tam bảo. Hết lòng gìn giữ chánh pháp. Không hủy phạm tôn dung. Như thế thì chứa lành tích phước sẽ gặp điều an vui, mà xa lìa tai ương. Cớ sao, nhà Ngụy thì mấy đời ngự ở bên ngoài, nhà Chu thì mấy vua đều truyền tự, nhà Lương thì bị nạn lớn lúc còn trẻ, nhà Tùy thì chỉ mới hai đời liền mất, cho nên biết Thiên Đạo không thiên vị, liền thành những lời luống dối. Họa dâm phước thiện, mà nói thật sai lầm. Vì sao lại làm cho đời bị tổn hại. Người sùng kính thì thọ mạng không lâu dài, tới lui vô chừng, mọi việc đã hiển nhiên, đến đi tự trái ngược, cũng đủ thấy đây là luống dối.

Pháp sư đáp rằng:

Pháp Lâm có nghe! Đạo giáo lúc ban đầu há chỉ nói rõ ba báo. Nho Tông lúc sơ khởi đâu chỉ bày một đời.

Cho nên Trọng Ni mới đáp lời Quý Lộ rằng: Sanh là việc của người, ông còn chưa biết. Chết là việc của quỷ thần ông làm sao biết được. Trong “Viên Hoằng Hậu Hán” Thư có nói rằng: Đạo gia có ra từ Lão Tử, Lão Tử thì lấy thanh hư đạm bạc làm chính. Làm thiện lánh ác là giáo lý. Nuôi dưỡng vợ con dùng làm sách bùa. Họa phước báo ứng đều trong một đời. Đây chỉ là lời nói cạn cợt chớ chẳng phải luận đàm xa xôi gì. Cho nên nếu vui với điều nghi lớn, huyễn hoặc sâu xa thì như bậc Thượng Thánh đời Đường Ngu nuôi dưỡng Chu Quân, Hạ Ngu thì sanh ra vua Thuấn. Nhan Hồi là bậc Đại hiền mà phải chết yểu. Thương Thần cực ác mà được nối dõi. Đạo chích ngang tàng bạo ngược mà hưởng phước trọn đời. Di Tề là bậc Chí nhân mà chết đói. Trương Thang làm quan tàn ác mà bảy đời con cháu đều làm quan. Tỷ Can là bề tôi trung chánh mà phải chịu cắt mổ. Các vị như trên đây thật không thể kể hết. Đều là mê hoặc nghi ngờ cho nên là thường tình cả. Cì vậy bậc Đại giác của ta mới riêng xưng hiệu là Biến Tri. Xướng rộng bốn sanh, trình bày ba báo. Là muốn khiến cho bày sự nghi để hiển lộ chánh giáo. Lưu lại phả điệp trình bày rõ ràng đầy đủ những lời vàng. Cho nên trong kinh có nói:

Có nghiệp hiện ra khổ thì có quả báo, khổ đau. Có nghiệp hiện ra khổ mà có quả báo an vui, có nghiệp hiện ra vui thì có quả báo an vui, có nghiệp hiện ra vui mà có quả báo đau khổ, có lẽ là do phước dư chưa hết, điều ác chưa nhận chịu. Hoặc tội lỗi đời trước vẫn còn, mà duyên lành đã phát. Như tro phủ lửa đâu thể nói không có lửa? Nếu trong chỗ tối mà tìm âm thanh nên biết chắc chắn sẽ có. Vả lại thiện ác không rõ ràng, cũng giống như mặt trời thiếu ánh sáng, báo ứng đều có trở về. Khi Kình ngư mất thì các sao hiện ra. Chỉ xét ở phần cảm thông, đủ rõ nguyên nhân của thiện ác, thế nên Tiêu Dương Chu Ngụy có thể không nghĩ mà tự mình giải thích được.

Đức Uy v.v… lại hỏi Pháp sư rằng:

Phần thứ tư của luận có nói rằng: Đời vua Cao Tổ Vũ Hoàng Đế dường như vua ban chiếu rồi mới có soạn luận. Đến nay các vua đều tôn sùng Lão Đam làm gốc. Tuân phụng từ đó mới ban sắc xếp Đạo Lão ở trên hết. Nay Pháp sư vì sao lại cố chống lại chiếu văn. Tội cố hủy phạm chuyện chẳng phải nhỏ, phải trình bày rõ ràng. Không được luống thêm bớt những điều hư hoặc.

Pháp sư đáp: Lâm này soạn luận văn, bổn duyên từ đời Lưu, Lý, thật chẳng phải từ lúc có chiếu lệnh về sau. Đó là do tám năm trước, chỉ vì thụy hiệu chưa thi hành. Từ lúc sáng lập ra gọi là Hoàng Đế, lần lượt y theo Hán Sử mà làm Thái Thượng Hoàng. Sau thấy Đế thụy đã ban hành, mới ghi là Đại Vũ. Xin tìm đọc luận quyển thứ tư, có chỉ ra đức độ hiển nhiên. Nhưng bút ký trong tám năm đủ biết không phải sai lầm. Lẽ nào dám công nhiên hủy báng chiếu thư về sau. Tìm hư mà trách thật, tôi cũng chỗ trở về. Xin xét lần lượt sẽ phân biệt sự trong sạch.

Đức Uy v.v… lại hỏi: Phần thứ năm của luận nói rằng! Theo Y Diêu Trường Khiêm Lịch chép: Phật ra đời năm giáp Dần đời Châu Chiêu Vương, đến năm Nhâm thân vua Mục Vương mới diệt độ. Nhưng vì sao ngài Pháp Hiển lại truyền rằng: Phật sanh vào thời Thánh Ân Vương. Rút ở trong bài ký về Tượng chánh pháp nói là: Năm Chu Bình Vương thì Phật đản sanh. Ngài Đạo An soạn luận lại nói chính xác là đời Hoàn Vương. Trương Phòng sao lục lại thì kiên quyết nói vào đời Trang Đại. Cho nên biết thì việc truyền thuật rất trái ngược lộn xộn, không thể nào y cứ, hiển bày trước sau, xa gần lại khác nhau.

Pháp sư đáp: Tôi nghe rằng! Đức Đại Thánh ứng sanh vốn là để đem lại lợi ích cho chúng sanh, người không căn duyên thì chẳng gặp. Cho nên trong kinh nói rằng:

Phật nói một thứ tiếng, tùy theo loài mà hiểu. Luận về âm thanh đã như vậy, thì ngữ thể cũng thế, nhưng truyện ký có nói rõ, chẳng phải là không có lý lẽ. Nay, Pháp Lâm căn cứ ở nhiều nhà. Trước là nêu bày cái đúng thật rồi sau mới nói cái sai lầm. Y theo Pháp sư Đàm Mô Tối người nước Ngụy, Pháp sư Thượng Tổng đời Tề và Bác sĩ Tu Lịch Diêu Trường Nhượng, v.v… đời Tùy. Lại căn cứ vào “Chu Mục Thiên Tử Truyện” “Chu Thư Dị Ký”, bài tựa “Tiền Hán Lưu Hướng Liệt Tiên Truyện” “Tinh Cổ Cựu Nhị Lục” “Hậu Hán Pháp Bổn Nội Truyện” và “Truyện Nghị Pháp Vương Bổn Ký”

Ngô Thượng thư lệnh Hám Trạch v.v… y cứ theo kinh A-hàm thì xét Phật đản sanh vào đời Chu Cơ thứ năm là năm Chiêu Vương Hà lên ngôi, tức năm Quý Sửu thứ hai mươi ba, ngày mười lăm tháng bảy. Khi ấy, Bồ-tát hiện hình voi trắng mà giáng thần, từ cung trời Đâu-suất thác sanh vào cung vua Tịnh Phạn, Ma-da phu nhân liền thọ thai.

Cho nên trong sách “Hậu Hán Pháp Bổn Nội Truyện” có nói:

Vua Minh Đế Pháp sư Ma-đằng rằng! Ngày tháng Phật đản sanh có thể biết được không?

Ngài Ma-đằng thưa:

Phật đản sanh vào ngày mười lăm tháng bảy năm Quý Sửu, gá thức ấm vào bụng Ma-da, tức là năm này vậy. Đến năm Giáp Dần đời Chu Chiêu Vương thứ hai mươi bốn, ngày mùng tám tháng tư, ở trong vườn Lâm-tỳ-ni dưới cây Ba-la, Bồ-tát từ sườn bên phải đản sanh.

Trong Kinh Phổ Diệu chép:

Lúc Phật đản sanh, khắp nơi đều phát ra ánh sáng rực rỡ chiếu khắp cả thế giới Tam Thiên.

Trong “Chu Thư Dị Ký” chép:

Năm Giáp Dần, đời Chiêu Vương thứ hai mươi bốn, nhằm ngày mùng tám tháng tư. Khi ấy các sông suối, ao hồ bỗng nhiên dâng lên. Giếng khô, suối cạn cũng đầy ngập nước. Cung điện, nhà cửa, sông núi thảy đều rung chuyển. Trong đêm không khí có năm màu sắc, nhập vào trong thái hư rồi biến khắp bốn phương, chỗ tận cùng làm thành màu xanh hồng.

Vua Chiêu Vương liền hỏi Quan Thái Sử là Tô-do rằng:

Đây là điều lành gì?

Tô-do đáp:

Có bậc Đại Thánh vừa hạ sanh ở phương Tây, cho nên hiện ra điềm này.

Chiêu Vương hỏi:

Đối với dân chúng trong nước thì như thế nào?

Tô-do thưa:

Ngay bây giời thì không có chỗ khác. Đến một ngàn năm sau, thanh giáo kia mới đến Trung Quốc.

Chiêu Vương liền sai người khắc bia đá ghi lời này, chôn ở phía

trước đền thờ trời ở ngoại ô phía Nam. Phật đản sanh cũng chính vào năm này.

Đến năm Nhâm Thân, năm Chiêu Vương thứ hai mươi bốn, nửa đêm ngày mùng tám tháng tư vượt thành xuất gia, nên kinh Thụy Ứng chép: Năm Thái tử mười chín tuổi, nửa đêm ngày mùng tám tháng tư người trời liền nhìn qua cửa sổ, chắp tay nói rằng:

Bây giờ chính là lúc nên đi. Nhân đó sai gọi ngựa đem đến đến rồi lên đường, cũng chính là vào năm này.

Đời vua Chu thứ sáu là Mục Vương, húy là Mãn. Vào ngày tám tháng hai năm Quý Mùi niên hiệu thứ hai, bấy giờ Phật ba mươi tuổi vừa thành đạo.

Nên trong kinh Phổ Diệu chép:

Bồ-tát ngồi thiền, khi sao vừa xuất hiện sáng rỡ thì bỗng nhiên đại ngộ. Đây chính là vào năm này.

Vào ngày rằm tháng hai năm năm Nhâm thân đời vua Chu Mục Vương thứ năm mươi hai, bấy giờ Phật bảy mươi chín tuổi mới diệt độ.

Kinh Niết-bàn chép:

Ngày rằm tháng hai là lúc Phật nhập Niết-bàn, phát ra các thứ ánh sáng, mặt đất rung chuyển, âm thanh vang đến trời Hữu Đảnh. Ánh sáng biến khắp cõi Tam thiên.

Trong “Chu thư dị ký” chép:

Khi vua Mục Vương lên ngôi vào năm Nhâm Thân thứ năm mươi hai, nhằm ngày rằm tháng hai. Trời vừa sáng, gió bỗng nhiên thổi mạnh làm cây cối nhà cửa đều gãy đổ, sông núi mặt đất thảy đều rung chuyển. Đến giờ ngọ thì trời tối mây đen. Hướng Tây có mười hai lằn cầu vồng, từ hướng Nam bắc thông qua, suốt đêm không tan.

Vua Mục Vương hỏi Thái sư Hỗ Đa rằng:

Đó là điềm gì?

Hỗ Đa đáp:

Phương Tây có bậc Đại Thánh đã diệt độ nên tướng suy hiện ra.

Phật nhập Niết-bàn cũng chính vào năm này. Bắt đầu đản sanh ở Tây Vực vào năm Giáp dần đời vua Chiêu Vương thứ hai mươi bốn đến nay. Là năm Kỷ Hợi niên hiệu Trinh Quán thứ mười hai đời Đường. Đã trải qua một ngàn sáu trăm mười tám (1.618) năm.

Trong Pháp Hiển Truyện chép:

Phật đản sanh vào thời vua Thánh Ân. Nhưng Pháp Hiển tuy từng đi du giáo hóa ở nước ngoài, nhưng truyện cũng không thể y cứ. Năm tháng sai biệt lớn nên chưa đủ để làm tin.

Lại ngài Đạo An nói từ năm Ất sửu cho đến năm Giáp Dần thì Phật đản sanh, cũng không có căn cứ rõ ràng, chưa đủ chứng nghiệm. Lại trong “Tượng Chánh Chi Ký” cũng ít thấy có bằng chứng để y cứ. Ngài Đạo An soạn luận căn cứ theo lời ký của ngài La-thập. La-thập làm bài ký đó, là nương theo ngài An Thế Cao, ngài An Thế Cao ở tại thành Lạc Dương đời Hán Hoàn Đế mà phiên dịch kinh tạng. Căn cứ theo thời người cầm bút thì thời vua Hoàn Vương. Nhưng ngài La-thập từ đầu nhà Tần đến nay, ngài An Thế Cao từ đời Hán về trước, hai vị Đại sư cách nhau ba trăm năm. Cùng tin tưởng nương theo mà làm bài ký. Chẳng phải là luận của ngài Đạo An soạn ra có lầm lẫn, mà do lỗi của người truyền lại. Lại vào đời Tùy, học sĩ phiên dịch đời Tùy là Phí Trường Phòng nói.

Phật đản sanh vào thời vua Trang Vương, Thí Trường Phòng nói Nhị Trang đồng thời, Chu Trang Vương năm thứ mười, tức là Lỗ Trang năm thứ bảy vậy. Nhưng căn cứ theo hằng tinh làm chứng nghiệm để nói Phật đản sanh thì chưa biết hằng tinh riêng do việc khác.

Pháp Lâm căn cứ theo Văn-thù-sư-lợi Niết-bàn kinh chép:

Sau khi Phật diệt độ sau hai trăm năm mươi (250) năm, ngài Vănthù đến núi Tuyết, giáo hóa cho năm trăm (500) vị tiên, sau đó trở về bổn Quốc, phát ra ánh sáng rực rỡ khắp thế giới rồi nhập Niết-bàn. Điềm lành Hằng tinh tức là vào thời này. Trường Phòng nói ngày tám tháng hai Phật đản sanh. Đó chính là tháng tư chứ không phải tháng hai. Lời Trường Phòng phán quyết đó, là chưa xét cùng tận nguồn gốc. Vì sao?

Trường Phòng nói:

– Nhà Chu lấy tháng mười một làm tháng giêng. Nói tháng hai chính là tháng tư ngày nay. Tuy là nói tháng hai nhưng cuối cùng là tháng tư. Còn xét theo bộ Xuân Thu thì tính năm theo năm của Lỗ Trang Công, còn tháng thì lấy theo tháng của Chu Vương, Hằng tinh vốn là điềm lành xuất hiện vào thời nhà Chu, nên căn cứ vào ngày tháng đời Chu.

Trường Phòng nói rằng:

Phật đản sanh vào ngày mùng tám tháng hai năm thứ mười đời vua Trang Vương. Thật là sai lầm lớn. Nếu nói tháng hai thì không nên luận về sao.

Trường Phòng lại nói:

Phật mùng tám tháng tư gá vào thai bà Ma-da, đó là nói về tháng của nhà Chu. Khi đản sanh cũng theo chu kỳ của nhà Chu. Ở đây nói tháng hai cũng không đúng. Nếu theo lịch nhà Chu lấy tháng mười một làm tháng giêng, thì Như Lai không sanh vào tháng hai. Phàm người tháng giêng thụ thai thì đến tháng mười mới sanh. Tháng tư thụ thai thì tháng giêng mới sanh. Khi Phật hạ sanh thì cũng giống như người đời, nên tháng bảy thụ thai thì đến tháng tư mới sanh.

“Vương Thiệu Tề Chí” có chép:

Tháng tư của nhà Chu chính là tháng sáu nhà Hạ (Chu Hạ phải có hai chữ Thượng Hạ thì mới phân biệt được). Lấy đây mà suy ra thì Phật sanh tháng tư, phải thọ thai vào tháng bảy. Còn nói tháng sáu là lấy theo thời tiết. Tuy đã qua tháng bảy nhưng rốt cuộc thuộc về tháng sáu. Nếu tin lời Vương Thiệu nói thì không sai.

Trường Phòng lại nói:

Vào tháng hai năm Quý Hợi đời Chu Tuệ Vương thứ mười một. Khi sao sáng xuất hiện thì Phật hoát nhiên thành đạo. Đây cũng là sai lầm lớn. Vì sao?

Xét theo sách “Lưu Hướng Cổ Cựu Nhị Lục” chép:

Thời Chu Tuệ Vương thì đã dần bắt đầu có Phật giáo. Một trăm năm mươi năm sau, Lão Tử mới nói “Ngũ Thiên” văn, nếu cho bắt đầu từ thời Chu Vương mới thành Phật, thì không phù hợp với kinh giáo như đã truyền ở Kinh đô Lạc Dương. Lại tính Tuệ Vương tức cháu của Trang Vương. Lấy năm Quý Hợi mà suy thì cách nhau chỉ ba mươi năm, không phù hợp với lúc mới thành Phật. Kinh giáo đã đến Trung Hoa, Như Lai hóa đạo ở thế gian bốn mươi chín năm. Ngài Ca-diếp kiết tập lại sau khi Phật diệt độ. Pháp môn dần dần đi về hướng Đông chính là vào thời nhà Chu. Lời của Lưu Hướng thật không có sai lầm. Trường Phòng sao lục lại nên không đáng y cứ. Nên hiểu là bậc Thánh ứng hiện không có phương lý thì khó mà suy tính ước đoán. Huống chi Đông Tây cách trở niên đại xa xôi. Lại gặp lúc sáu nước ngang dọc, Tần Sở giao tranh. Về niên kỷ thì không ít sự sai lầm, người làm lịch thì nhiều nhà, nên càng có sự sai trái thêm bớt khác nhau, ai cũng cho ý của mình là chỉ Nam, nay Pháp Lâm chỉ nói sơ về sự thấy nghe của mình, để làm rõ các sử lục, trình bày sơ lược những điều xa gần, nêu bày sự chính xác trước sau vậy.

(Đường Hộ Pháp, Sa-môn Pháp Lâm Biệt Truyện – Quyển Trung).

 

BIỆT TRUYỆN VỀ SA MÔN HỘ PHÁP ĐỜI ĐƯỜNG LÀ NGÀI PHÁP LÂM

Sa-môn Ngạn Tông chùa Hoằng Phước ở kinh đô biên soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN HẠ

Đức Uy v.v… lại hỏi Pháp sư rằng:

Phần thứ sáu của luận có nói: Trang sức y phục của Đạo nho gây nên họa hoạn cho nhà Tống. Giữ xiêm y mà con cháu nhà Tấn bị đại bại. Đội mũ đai mà nhà Nam Trịnh phản Hán. Treo cờ phướn mà các nhà bị tru diệt. Nhưng bày biện đủ các loại mũ lớn, mũ nhỏ, bắt đầu từ đời Hán mà hưng thạnh xưa nay. Khăn mão đây là pháp phục của mọi thời đại. Cái đai, cái hốt là cách ăn vận quan trường của kẻ sĩ. Đó là trang phục như Vân-la. Còn Đạo sĩ y phục cũng đồng với các vị Tiên là các loại sa nhiễu như sương.

Cho nên biết dấu vết có thể tìm trong ba chi chẳng xa. Phong tục có thể đón rước bát quế cũng không xa. Cho nên Tiêu sử hòa hảo là ngựa phụng xe loan của nhà Tần. Thục Khanh mênh mang là xe hai trắng của nhà Hán. Như vậy mà cho là bại nước phá nhà sao?

Pháp sư đáp rằng:

Pháp Lâm có nghe “Tiếng điều vang Thuận, hình ngay bóng thẳng, không bao giờ thấy dùi lửa mà được nước, trồng đậu mà sanh ra lúa. Cho nên Tô Tần, Trương Nghi gặp nhau ở nơi hang quỷ. Mỗi bên đều lấy sự dối trá làm đầu, đều ra mắt Mẫn Vương ở cửa Khổng, đều nêu đức hạnh làm đầu. Cho nên biết tu theo sự giáo hóa của nhị thiên thì nhiệm mầu vô vi, thực hành theo phong cách của Tam Trương, đây là đầu mối mưu loạn. Vì sao? Vào thời Thuận Đế nhà Hậu Hán, có Trương Lăng người đất Bái, là khách viễn du tới đất Thục, nghe các vị già nua truyền với nhau:

Xưa Hán Cao Tổ ứng theo hai mươi bốn khí, nên cúng tế hai mươi bốn ngọn núi, mà làm vua khắp trong nước.

Trương Lăng chẳng xét đức độ mình, mà muốn bắt chước theo đây, giết bò cúng tế hai mươi bốn chỗ. Làm đàn đất trên nhà cỏ. Làm hai mươi bốn cái Trị Quán. Trị Quán sanh khởi cũng từ đây. Hai mươi ba chỗ ở đất Thục, một chỗ Y Hy thì ở Hàm Dương. Bấy giờ luống dụ ngu dân, chiêu vời nhóm họp bọn hung đảng, mưu thâu thuế ruộng làm loạn triều đình. Bấy giờ bọn kia không có điều nghịch ác nào mà không làm. Cháu của Lăng là Trương Lỗ, bắt chước thực hành theo, đến đời Hậu Hán tự xưng là Sư Quân, gây họa loạn ở các nơi nổi dậy, bị Tào Công tiêu diệt. Lại vào niên hiệu Trung Bình thứ nhất, có người ở Cự Lộc tên Trương Giác, tự xưng là Hoàng Thiên bộ sư, có ba mươi sáu vị tướng, đều đội khăn vàng. Từ xa cùng với Trương Lỗ tiếp ứng nhau. Quân đến mười muôn người, thiêu đốt thành Nghiệp. Hán Đế mới sai quân ở Hà Nam tiến đánh, quân tướng đều bị tiêu diệt.

Lại, vào niên hiệu Hàm Ninh thứ hai (277) đời vua Vũ Đế nhà Tấn. Có Đạo Sĩ Trần Đoan mê hoặc mọi người bằng Tả đạo, tự lấy hiệu là Thiên sư, đồ đảng cả mấy ngàn, trải qua nhiều năm tháng rồi cũng bị Quan Thứ sử Ích Châu là Vương Tuấn giết chết.

Lại vào niên hiệu Đại Hòa thứ nhất đời vua Văn đế nhà Tấn. Ở Bành Thành có Đạo Sĩ là Lô Tủng, tự xưng là Đại Đạo Tế Tửu, dùng tà thuật để mê hoặc dân chúng, tụ hợp đồ đảng, hướng về mặt trời để xem chiêm bói ngày giờ. Công Quảng Hán Môn chép: “Tây Công ở Nghinh Hải, Hoàn bí” ở trong điện lúc ấy.v.v… Rồi cùng triều đình giao chiến mà bị giết chết.

Lại vào niên hiệu Đại Đồng thứ năm (50) đời vua Lương Vũ Đế có Đạo sĩ tên Viên Căng, dùng lời yêu mị để mê hoặc dân chúng làm những điều tà mị phản trắc rồi cũng bị Quan quân theo bắt giết chết.

Lại vào niên hiệu Khai Hoàng thứ mười (590) đời vua Tùy Văn Đế, ở huyện Xương Long thuộc Miên Châu có Đạo sĩ Bồ Đồng, cùng với hai vị Tả Đồng ở tại quán Băng Khê, tự xưng là đã chứng quả Thánh, lừa dối dân chúng, Y làm một cái giường lớn ở trong phòng, ngồi trên đó mà nói rằng:

Đồng nữ mười lăm tuổi mới có khả năng thọ pháp. Rồi bảo người nữ lên giường, che màn chung quanh mà làm điều gian tặc. Như thế trải qua mấy tháng, sau sự việc bị phát giác, nhân đó mà phải trốn đi.

Lại vào niên hiệu Khai Hoàng thứ mười tám, ở Ích Châu có Đạo sĩ tên Hàn Lãng; ở Miên Châu có Đạo Sĩ Hoàng Nho Lâm, mê hoặc vua Thục làm cho sanh ra những việc ác nghịch, cho rằng: Muốn làm được việc lớn phải nhờ duyên tốt. Bèn tâu vua Thục đem hết kho lẫm ra, tạo được pho tượng cao một ngàn thước, thiết lễ trai tăng một ngàn ngày; họa hình Tiên Đế, bó tay và đầu lại rồi dùng chú ếm. Quan Công ở Hà Bắc là Triệu Trung Khanh, kiểm soát biết được sự thật, bèn bắt đem về kinh thành, tra hỏi nhận tội rồi bị hành hình tại chợ.

Gần đây, vào niên hiệu Vũ Đức thứ ba, ở Miên Châu huyện Xương Lăng có Lý Vọng cùng với Hoàng Lão thường làm các việc yêu tà, ra đi vào những năm cuối niên hiệu Đại Nghiệp.

Có Đạo Sĩ là Bồ Tử Chân, dùng tà thuật yêu mị, bị bắt đưa đến Đông kinh. Nhưng đi đến Lương Hán thì chết, nên an táng ở đó.

Vậy mà Lý Vọng lại nói bịa rằng:

Tử Chân gần đây đã trở lại ở bên cạnh ngọn núi của huyện kia, có một hang đá, trong hang núi vắng vẻ, người không thể thấy được. Lý Vọng lấy đó là cớ để làm những điều yêu hoặc. Ở chỗ sáng thì nói lớn lên là đã đại ngộ, lãnh nạp sự truyền thừa. Ở chỗ tối thì xướng khí tiểu thanh, dối nói những điều họa phúc.

Rồi khiến các Đạo Sĩ đi khắp nơi truyền nói đến tận các châu huyện. Quan quân lúc đầu có kiểm tra, thảy đều tin theo.

Sau có Quan Thứ Sử là Lý Đại Lễ nói rằng:

Việc này chẳng thể xem thường, cần phải tấu trình, cần phải kiểm nghiệm mới định được tội ấy.

Bèn cùng với các Quan ở các châu huyện, cùng với Đạo sĩ hơn một trăm người cỡi ngựa đến nơi hang đá; cùng bái lễ cầu thỉnh.

Lý Vọng bèn dối đáp rằng:

Người nghe phải lắng tâm, duy hướng về huyện Ba Tây, thì được vui vẻ ở đời.

Rõ được cơ tình thì biết đây là dối trá. Bèn đi vào trong am thất để hầu. Thấy Lý Vọng đang làm trò tà mị, mọi người quở trách. Lý Vọng liền chịu tội. Quan bắt về giam ở ngục để định tội. Trải qua mấy ngày thì uống thuốc độc mà chết.

Thế nên biết, làm các việc trái lý, tà đạo làm rối loạn dân chúng, cho điều này là đáng tin. Bọn giặc đội mũ vàng hưng khởi ở Cự Lộc. Lấy sách tà mị ra giảng nói mà nói là phục tượng vân la, cho lời này là đúng. Y phục thì đồng với Vũ Hộc, không gần gũi với nhân tình. Đi thì có ngựa xe, thân thì mặc áo vải bố. Có xe loan ngự phượng, đầu đội khăn da. Đó là bọn Bạch Thạch Xích Tùng, đều chẳng phải quỷ tốt. Lại xem các việc Thiên văn đời nhà Chu của Lý Đam, phục sức đồng với Nho Mặc. Xem ngày đoán giờ thời nhà Hán có Hoàng Cân, noi theo Đạo sĩ Bá Dương bái yết triều đình rồi đem cờ phướn mà làm quy tắc.

Tục lệ này cần phải từ bỏ.

Đức Uy v.v… lại hỏi: Phần thứ bảy của luận có nói!

Kiến An cảm mộng mà lành bệnh, Văn Tuyên Giáng linh mà hết đau. Ngô Vương vây chùa mà Xá-lợi phát sáng, Tề chúa bị hành hình, dao liền gãy từng khúc, Vũ Văn hủy tăng mà bị thương tổn, Thác Bạt phế chùa mà bị đổ máu. Tôn Hạo làm nhơ tượng bị đau đớn chỗ kín, Hách Liên dữ dằn ngang tàng mà bị sét đánh chết. Dẫn chứng các việc rõ ràng ra đây, họ đều là các vị Đế vương, đâu thể bỗng chốc quy tâm mà có thể tiêu trừ các bệnh khổ đau. Rồi vì một chút bỗng nhiên phá hủy mà làm cho nước mất, thân chết sao? Bậc Đế vương mà làm điều sai trái thì tự chuốc lấy vận số ngắn ngủi. Việc hưng suy của Hoàng Vương cũng chẳng phải do lòng tin hay hủy báng. Vì sao lại vọng bày ra các điều họa phước quỷ thuật yêu mị, căn cứ vào đây mà luận tội thì không thể quở trách được.

Pháp sư đáp rằng: Kinh Dịch có nói!

“Tích thiện dư khánh, tích ác dư ương” (làm lành thì vui, làm ác gặp nạn).

Kinh Thư cũng nói:

“Thiện ác chi báo đồng hô ảnh hưởng” (Quả báo của thiện ác, giống như vang theo tiếng, bóng theo hình)

Thế nên lúc văn võ thành khang, mà việc trị đạo được yên bình. Vào hai đời Tần, Hoàng đối xử tàn khốc với dân chúng trong nước. Do đây mà lộc nước ngôi vua chẳng bao lâu bị đứt đoạn, sách vở nói nhiều há lại quan hệ tới vận số. Huống chi Phật được xưng tụng là đấng điều Ngự, tôn quí nhất trong ba cõi. Tăng được gọi là phước điền, bốn loài sanh đều tôn trọng. Lẽ nào có sự cung kính khát ngưỡng mà phước lại không có, còn hủy diệt tiêu trừ lẽ nào không vời lấy tai họa. Trước đã lược qua sự báo ứng đối với bọn tà đạo. Khiến cho người nghe hiểu mà không bị lầm lạc. Như bọn Văn Tuyên, Kiến An, cùng dòng với Ngô Vương, Tề Hậu và cùng với Thác Bạt, Vũ Văn, Hách Liên, Tôn Hạo. v.v… chứng tích về thiện ác truyện ghi đầy đủ, rộng như các việc chứng nghiệm, cảm ứng đã nói. Vả lại thiện ác lý số đều rõ ràng, khuôn phép lưu truyền treo cao như mặt trời mặt trăng, đủ khiến cho người làm ác thấy đó mà tu tỉnh, kẻ hèn yếu biết mà trở về. Thấy người hiền đức suy nghĩ mình phải sánh bằng; mê lầm tự hiểu.

Pháp Lâm chỉ nói lại một phần nào đó mà thôi. Lời nói cạn cợt không thể bày hết ý được. Cho nên nay Thánh Thượng khâm minh, tâm trở về nẻo giác. Đo vườn Trúc mà xây dựng phạm vũ. Đốn rừng cây Thái tử Kỳ-đà mà lập thiền am, tạo tôn tượng Vô Trước mà hàng phục chúng ma. Ân đức sâu rộng đến bờ Mã Minh, đạo trùm đủ cả gò Long Thọ. Phàm làm người ai mà không được thấm nhuần ân đức, Pháp Lâm há dám vọng bày hư dối yêu nghiệt mà làm lầm hại cho nước nhà. Chỉ vì đối với bọn Trọng Khanh, mà soạn ra luận này.

Đức Uy v.v… lại hỏi:

Phần thứ tám của luận có nói rằng: Có ra các đạo tà giáo là thật có vậy, như nai ngựa hình thù khác nhau, người Tần thì tạo ra các hình chất dị kỳ. Tục lệ của người Lỗ thì mê lầm hình dung. Muốn mở bày cho người sau, biết được các điều luống dối. Nhưng “Tử khí phù Quan” Y Hy khơi dậy chỗ sâu xa của hai thiên, trâu xanh ra khỏi phạm vi, Lão Tử trình bày chỗ vi diệu trùng huyền. Vì thế Cảnh Văn nhà Hán, tu trì không biếng nhác, vua ta là người nối gót, phải tự nương theo mà thực hành. Nay bèn hủy báng cuộc sống phù hoa ở cõi này. Xem xét sự gian dối cho nên nhà Vũ thấy đây mà rơi lệ.

Nay Thánh thượng thần mưu, đạt được bốn thông ở nơi sáu hợp. Đem đạo cả soi sáng khắp nhân gian. Bỗng nhiên loài nai ngựa làm hại chốn thần minh. Loài Lân xạ ghen ghét bậc hiền triết. Như vậy thì ai mà nhẩn được, ai có thể dung hòa được.

Pháp sư đáp rằng: Lâm có nghe!

Ngựa trắng đi về hướng Đông. Tam Tạng từ đây mà sanh ra, trâu đen đi về hướng Tây. Nhị Thiên từ đây mà hưng khởi. Hoặc mở rộng đạo nhiệm mầu để hóa độ dân chúng. Hoặc nói tỏ không không mà cứu vật. Nghiệm xét dấu tay trong đồ điệp thì có thể biết. Cho nên mở mang hiển tông rốt cùng cũng ở đời này. Đạo Phật phiên dịch thời đại rõ ràng. Văn sử điển chương lưu lại đầy đủ cho lê dân không còn mê lầm. Còn sách vở Đạo gia thì không rõ ràng. Duy có Nhị Thiên của Lão tử thì đích thân Lý Đam mở mang. Còn các kinh giáo khác thì chế tạp rất phàm tình. Vì sao? Vì thời Tiền Hán có Vương Bao soạn ra Đổng Huyền Kinh. Thời Hậu Hán có Trương Lăng soạn Linh Bảo Kinh và sách của Chương Tiếu Đẳng Đạo có hai mươi bốn quyển. Đời nhà Ngô có Cát Hiếu Tiên soạn ra Thượng Thanh Kinh; đồng thời có Đạo sĩ Vương Phù soạn Minh Uy Hóa Hồ Kinh. Lại có Bão Tĩnh soạn Tam Hoàng Kinh, về sau đổi thành Tam Thanh Kinh. Đời Tề có đạo sĩ Trần Hiển Minh soạn “Chân Thiệp Hư Kinh” sáu mươi bốn quyển. Nhà Lương có Đào Hoằng Cảnh soạn Đại Thánh Kinh và Chương Tiếu Nghĩa mười quyển. Về sau, thời Chu Vũ Đế diệt Nhị giáo, thì Tiền Đạo sĩ ở Hoa Châu là Trương Tân, được ban chiếu cho làm chức Thứ sử châu này.

Tiền Đạo sĩ ở Trường An là Tiêu Tử Thuận tên là Đạo Kháng

được chọn vào khai phủ giữ phong lệnh. Tiền Đạo sĩ Mã Dực, cùng với bốn người là bọn Lý Vận làm biệt giá ở Ung Châu. Niên hiệu Thiên Hòa thứ năm, các vị này đến chùa Thủ Chân ở trong cố thành ở Hóa Châu, nắm giữ hết kinh Phật rồi soạn ra Đạo gia ngụy kinh hơn một ngàn quyển. Bấy giờ người ở huyện Vạn Niên có người đòi trang hoang kiểu cách nhưng lại vụng về, chỉ làm trò cười cho người mà thôi.

Gần đây như vào những năm cuối niên hiệu Đại Đồng có Ngũ Thông Quán Đạo sĩ là Phụ Tuệ Tường, ba năm không nói, nhân đó liền đổi kinh Niết-bàn thành Trường An Kinh, đương thời bị câu thúc không cho đem ra khỏi cửa thành, người trong nhà thấy bên trong mặc áo vàng bèn giữ lại, phát sanh việc sửa đổi kinh điển. Việc bị phát giác bị Quan Thượng Thư Vệ Văn Thăng tâu lên triều đình; kẻ ấy bị chém ở ngoài cửa Kim Quang, bọn tai mắt cũng đều bị cả.

Lại ở trong “Tiếu Đạo Luận” của Chân Loan nói rằng:

Đạo gia vọng chú giải các sách của trăm nhà hiền triết, có ba trăm năm mươi quyển để làm Đạo kinh, lại làm “Huyền Đô Mục Lục” lại vọng lấy tên sách Nghệ Văn Chí, chú giải thành tám trăm tám mươi bốn (88) quyển làm Đạo Kinh.

Nói theo đây thì, đủ thấy sự luống dối vô cùng. Cho nên đời đời xuyên tạc luống dối quá nhiều. Người người ngụy soạn ra văn chương sách vở cũng không ít. Pháp Lâm lại xét, vào niên hiệu Chánh Quang thứ nhất (520) đời Hậu Ngụy. Hiếu Minh Đế vời Đạo sĩ Thanh Thông Quán là Khương Bân cùng với chư Tăng chùa Dung Giác cùng đối luận.

Khương Bân vọng dẫn Khai Thiên kinh nói rằng:

Thiên sư Trương Lăng soạn ra kinh này. Minh Đế mới sai Quan Thái Úy Đan Dương là Vương Tiêu, quan Tán Kỵ là Thường Thị Ôn Tử Thăng v.v… Tất cả là một trăm bảy mươi người, cùng bàn luận rằng:

Lão Tử chính đã soạn Văn Ngũ Thiên. Đem dấu ở sa mạc mà không nói. Chúng thần đã bàn luận Khương Bân đây quả có tội mê hoặc dân chúng.

Vua nói:

Khương Bân đã nói lời yêu hoặc, thì đem giam vào ngục đợi xử trảm.

Lại xét, vào niên hiệu Vĩnh Bình thứ mười bốn (năm72) đời vua Minh Đế thuộc Hậu Hán có Đạo sĩ Chử Thiện Tín cùng với sáu trăm chín mươi (690) người nghe Phật pháp truyền đến Lạc Dương bèn thỉnh cầu luận chiến. Rồi đem hết kinh thư của Đạo gia, hợp thành ba mươi (30) bộ, bảy trăm bốn mươi bốn (7) quyển, tựu trung có năm trăm lẻ chín (509) là của Đạo Đức kinh còn hai trăm ba mươi lăm (235) quyển là sách của các nhà hiền triết.

Lại xét trong “Tấn Cát Hồng Thần Tiên Truyện” nói rằng:

Lão giáo có pháp làm tiêu lửa để độ đời, gồm có chín trăm ba mươi (930) quyển. Các sách phù thơ có bảy mươi (70) quyển. Tổng cộng là một ngàn (1000) quyển.

Lại xét, vào niên hiệu Thái Thỉ năm thứ bảy (72) đời Tống có Đạo sĩ Lục Tu Tĩnh đáp lời vua với Minh Đế rằng:

Kinh sách của Đạo gia gồm Dược phương chú Phù Đồ v.v… tổng cộng có một ngàn hai trăm hai mươi tám (1228) quyển, một ngàn không trăm chín mươi (1090) quyển đã được lưu hành ở đời, còn một trăm ba mươi tám (138) quyển thì vẫn giữ ở cõi trời.

Nay lại xét trong “Huyền Đô Kinh Mục Lục” nói rằng:

Theo Mục Lục của Lục Tu Tĩnh người Tống thì nay nên nói là có sáu ngàn ba trăm sáu mươi ba (6363) quyển v.v… hai ngàn không trăm bốn mươi (200) quyển thấy có bổn này. Còn bốn ngàn ba trăm hai mươi ba quyển thì chưa thấy có bản.

Như thế xem xét tỉ mỉ lại các sự tích thì có thể biết, do sự gian dối này mà các sách sử bộc khởi ra nhiều. Nếu theo lời luận bàn của Tiêu Ôn, thì Đạo Đức kinh chỉ có hai Thiên, như so sánh với thời Hán Đế thì phải là bảy trăm (700) quyển. Theo thuyết của “Cát Hồng Thần Tiên” thì chỉ có một ngàn, theo mục lục của Tu Tĩnh thì hơn trước chín mươi quyển. Còn theo “Huyền Đô Kinh Lục” thì dời đổi rất nhiều. Trước sau đã khác nhau, đủ thấy các việc luống dối rõ ràng vậy.

Tăng thêm số quyển cho đủ thiên chương. Rồi y theo đó hủy báng kinh Phật, sửa đầu đổi đuôi. Hoặc tự bịa ra danh từ sông núi, mà xướng lên là “Tiên Động Phi Lai”. Làm sao để tự biết mà bậc anh hùng hiền giả không thấy. Xin hỏi các bậc Đạo Sĩ đương thời, xem xét hết các kinh sách soạn ra sau này, sách nào là Thiên Tôn nói thêm. Nếu phải của Lão Tử nói thì phải có chứng cứ thời gian, không gian. Ở niên đại nào, nước nào, năm nào, tháng nào? Nếu có căn cứ rõ ràng thì cho lưu hành. Nếu là nói dối thì phải đốt bỏ. Nay Minh Triều trị thế, che khắp trăm quan, Thánh Thượng ngự giá ứng triều cả ngàn năm, nên mới muốn rộng truyền ngũ giáo, dứt bỏ các sách yêu tà gian dối. Thuật lại chín trù, mở mang di huấn của yếu đạo. Nhưng vì bọn Hoàng Cân không hiểu biết chẳng rõ chân ngụy. Vì bọn đạo sĩ không phân biệt được phải trái. Cho nên mới mượn chuyện của người nước Lỗ để so sánh với người nước Tần. Nếu voi rồng ngựa của trời đất mà có thể tung hoành trong trời đất. Lý hẳn không rõ ràng, làm sao bị trách.

Đức Uy, v.v… thu thập các điều Pháp sư trình bày, rồi đến ngày rằm tháng mười một thì làm cáo trạng đầy đủ tâu lên nhà vua. Nhà vua đích thân xem qua và hỏi:

Trẫm vốn nghĩ đến Lão Đam. Thời Đông Chu thì ẩn đức, cuối đời thì tiếp nối. Khởi nghiệp từ Lũng Tây, mở mang Đại Đạo thành Đạo Nguyên, tùy nghinh tiếp mà không đo lường được. Đàm luận điều thượng đức làm đức mẫu; thấy nghe nhưng không biết. Ôm cả bốn tượng để vận hành. Bao gồm cả nhị nghi mà nuôi dưỡng. Đã không được mà xưng vậy. Tin theo nhật dụng mà không biết. Trẫm sở dĩ tôn trọng Tổ phong là trên muốn nêu cao Đạo Nhất thừa, lấy căn bản để giáo hóa, Vì sao lại cho là ngụy tạo thầy trò, dối bày các việc trước sau, không nói thì chết, có nói thì sống.

Pháp sư đáp rằng:

Lâm nghe Sư kinh đối đáp với Văn Hầu rằng! Vua Nghiêu Thuấn chỉ sợ không nói. Vua Kiệt, vua Trụ chỉ sợ lời nói.

Lại có Đông Phương Sóc đáp lời Vũ Đế rằng:

Thần sống cũng nói, mà chết cũng nói. Nay Lâm theo lời dặn của vua Nghiêu vua Thuấn! Làm sao để được vô ngôn đây.

Lâm có nghe:

Thác-bạt-đạt-xà, đời Đường dịch là Lý Dân! Họ Lý của Bệ Hạ là mầm chứ chẳng phải là trụ cột dòng dõi ở Lũng Tây.

Còn xét họ Lý của Lão Đam do Mục mẫu sanh ra. Nếu căn cứ ở Lũng Tây đó đều là con cháu của hàng tôi tớ.

Vì sao trong Đôn Hoàng Bảo Lục nói rằng:

Đời vua Hoàn Vương năm thứ ba mươi chín, lúc rãnh rỗi vua cùng với các quan cả đêm luận bàn chuyện xưa nay.

Vua nói:

Cha của Lão Đam là người như thế nào?

Quan thái thú Thiên Thủy là Thác Tuy đáp rằng:

Cha Lão Đam họ Hàn, tên Kiền, tự là Nguyên Ty. Lưng gù hai chân khô đét. Ở trong thai đã không có tai, một mắt nhìn không rõ. Một mình đi xin ăn, tới năm bảy mươi hai (72) tuổi không có vợ, giao hợp với một người phụ nữ hàng xóm ở nơi đồng hoang mà sanh ra Lão Tử.

Lại trong “Vương Kiệm Bách Gia Phổ” nói rằng:

Họ Lý đó, từ thủy tổ về sau là Cao Diêu, làm lý Quan cho vua Thuấn, nhân đó mà lấy làm họ, xưng là họ Lý. Họ Lý sanh ra từ thời Lão Đam vậy. Vì hạ sanh ông ở dưới gốc cây Lý nên mới lấy họ Lý. Đến thời Hán Thành Đế có Lý Ẩn chống cự triều đình nên bị giết chết. Đồ đảng dòng họ của người ấy bị bắt đến Trương Dịch giữa đường thì bị chết. Bọn nô lệ đem giữ ấn thọ mũ của người mà được làm quan. Cho nên họ Lý ở Lũng Tây được sanh khởi lên từ đây.

Lại, Lão Tử nói rằng:

Ta không dám làm người đi trước của dân chúng trong nước. Cho nên mới soạn ra lời di huấn Ngũ thiên.

Lại nói:

Không cạnh tranh với muôn vật; ở trong chỗ làm ác của mọi người, đã không cạnh tranh với muôn vật, lại không dám làm trước.

Nhún mình mà suy tôn người. Mềm mỏng nhún nhường.

Trong Lão Tử Tây Thăng Kinh lại chép:

Ở Kiền Trúc có Cổ Hoàng Tiên sanh chính là thầy của ta, mãi mãi thường còn, ta nay cũng noi bước theo đó.

Lại trong Phù Tử nói rằng:

Thầy của Lão Tử hiệu là Thích-ca văn.

Trong “Doãn Hy Nội Truyện” nói rằng:

Lão Tử nói! Vua muốn xuất gia, thầy của ta hiệu là Phật, giác ngộ cho tất cả chúng sanh. Hiện giờ đang thọ Thiên Đế thỉnh thực. Khi trở về sẽ truyền giới cho vua và các quan. Trộm nghĩ Thác-bạt đời Nguyên Ngụy, là vua ở Bắc Đại đến núi Xà-đạt-hệ-âm.

Trong Quý Chủng Kinh chép: Đem vàng mà đổi đá, đem lụa đổi lấy vải bố. Như bỏ vợ quý mà thông dâm với tôi tớ. Bệ hạ cũng như người này vậy. Bỏ Bắc Đại mà nhận lấy Lũng Tây.

Lại Lão Tử sanh vào cuối đời vua Chu là Cơ Quý (520 trước Tây lịch). Thích-ca đản sanh vào đầu nhà Chu, cách nhau hơn mười đời vua, trải qua hơn hai trăm năm; lấy đây mà suy nghiệm vậy; trước sau đều hiển nhiên; có thể khám xét rõ ràng ở nơi văn chỉ. Cúi mong Bệ hạ, hiếu sanh mà ghét sự giết chóc, không sát hại cả loài trùng cá. Cứu người nghèo khổ, ơn nhuần cả loài thảo mộc, đồng với đời Tam Hoàng chỉ dạy mà không giết. Đồng với thời Ngũ đế, có quân mà không ra trận. Nếu Bệ hạ lấy việc này mà giận dữ, thì trăm muôn lần cũng không đủ để thỏa tình. Nếu bệ hạ chứa nhóm ân đức hằng năm, thì một lời nói có thể để lại cho con cháu đời sau.

Lúc này, vua nghe liền nổi giận, trợn mắt lại hỏi Pháp sư rằng:

Trẫm nghe Tông tổ nhà Chu thề bỏ hết các dị tánh về sau. Tôn tổ trong người thân thật là do tiên cổ. Vì sao lại chạy theo chỗ dở mà dứt bỏ hết hai đầu. Hãy dẫn chứng ra đầy đủ những lời tương tự, tội ác chồng chất so với đây còn nhẹ. Đem hết giấy bút để ghi lại thì vẫn không hết cái tội hủy báng Tổ tông, Tiên nhân của trẫm. Như thế này thì lý không thể tha thứ.

Pháp sư đáp:

Pháp Lâm nghe! Văn Vương là bậc đại thánh, Chu Công là bực đại hiền, nhớ việc xa xưa mà cẩn thận lúc lâm chung, vói lên trời cao cũng không đáp thì lòng hiếu để soi thấu cả thần minh. Tuy là có trong Tông tộc nhà Chu, mà nghĩa không tranh ngôi thứ. Vì sao? Vì hoàng thiên không gần gũi, duy có đức giúp mình. Người xưa theo lý mà không theo tình thân. Không tự ở trước ta mà cũng không ở sau ta. Không vì người sơ mà không ban thưởng, mà thưởng người có công. Không vì thân mà không trị tội. Trị những người có tội.

Cúi mong Bệ hạ! Đạo rộng khắp mà chiếu sáng rực rỡ, ân đức bao trùm muôn cõi. Đức độ che chở mà vẫn bình đẳng.

Bệ hạ nay nếu có giận dữ, thì Pháp Lâm này cam chịu tội phân thây. Hoặc giả như nhờ ân đức chở che vũ lộ của bệ hạ, tha cho toàn xương cốt, thì về sau có biện luận, truyền hơn hai trăm điều. Hỏi thì không nói, có thiếu cũng không ghi thêm.

Đến ngày hai mươi vua lại ban sắc rằng:

Ông soạn “Biện Chánh Luận” để phá hủy Đạo giáo. Nói niệm Quán Âm dù đao kiếm có chém chặt cũng không thương tổn, nay để có điều linh ứng. Trẫm gia hạn trong bảy ngày sẽ tha cho ông. Trong bảy ngày để cho ông niệm Phật. Đợi lúc hành hình xem đao có chặt thân ông được không. Pháp sư đã bị xiềng xích lại chịu các thứ bức bách, tro lạnh đất đầy khắp thân thể. Đến đêm thứ sáu, đang lúc quanh quẩn buồn bã trầm ngâm; nhìn vầng trăng sáng thì càng lặng lẽ, cảm khái kiếp phù sinh nương gởi, bỗng chốc rơi lệ, nhân đó mà làm thơ nói lên chí mình.

Mạng cỏ như sương rơi

Sống Nhẹ như cánh buồm Thở than đêm trăng sáng Khó đồng với người xưa.

Pháp sư gạt nước mắt xướng thơ, rồi ngước nhìn trời mà than rằng:

Xưa Trâu Diễn bị cầm ở nước Tề. Yên Đan bị giữ ở nước Tần. Đâu chỉ riêng có Pháp Lâm này, mới chịu cảnh dời đổi vô chừng này sao? Nói đoạn, Pháp sư bỗng thấy vị thần nhân thân cao hơn trượng, mặc y phục trắng đội mũ, nhảy qua tường rồi nói với Sư rằng.

Đã có thể vong thân vì đạo, sao lại buộc phiền não. Ở chốn tối tăm mà giữ tâm đạo, thì bao lao nhọc sẽ không còn, nói xong thì biến mất. Pháp sư liền cung kính, gieo năm vóc sát đất, mặc niệm Tam tôn, trong tâm tự nhiên rỗng rang không còn lo sợ.

Đến sáng ngày thứ bảy vua ban sắc cho bọn Lưu Đức Uy đến hỏi Pháp sư rằng:

Nay thời kỳ gia hạn đã đủ, đến lúc phải hành hành. Ông niệm Quán Âm có linh ứng gì không?

Pháp sư đáp rằng:

Từ cuối đời nhà nhiễu nhương, bốn biển dậy sóng, dịch bệnh lan tràn, chiến tranh nổi dậy khắp nơi. Các tướng đem quân chinh phạt, còn các Quan nịnh, vua thì hoang dâm không lo việc trị nước. Giặc giã nổi lên che lấp hết vương lộ, chỉ cố giữ lấy mảnh đất ngoài biên ải. Thánh Hoàng ta khởi tâm điếu phạt, thống nhất cả thiên hạ. Xá bỏ hình phạt ở đô thị, đây chính là Quán Âm. Chôn cất hết thây chết ở đình chợ chẳng khác gì Thế Chí. Luận công so đất này, chính là bậc thượng thánh. Pháp Lâm này trong bảy ngày qua chỉ nghĩ đến Bệ Hạ.

Bọn Lưu Đức Uy lại hỏi Pháp sư rằng:

Trước đã vâng sắc, khiến cho Thầy niệm Quán Âm, vì sao lại không niệm, mà nói chỉ nghĩ đến Bệ hạ.

Pháp sư đáp:

Lâm có nghe! Quán Âm thánh thường soi xét, biến hiện thân hình trong sáu đường. Trên trời, dưới đất đều làm khuôn phép, Thánh Thượng là bậc văn tư thông biện sáng suốt khắp cả trời biển. Cửu di (tru di sáu họ) vâng giữ chức, hình phạt tám biểu đều rõ ràng. Vua Thánh, bề tôi thì hiền tài thật không uổng soi sáng. Nay Bệ hạ nuôi dưỡng người dân như con, như trong kinh ấy chính là Quán Âm. Đã có sự linh ứng phù hợp nhau, cho nên Pháp Lâm chỉ nghĩ đến Bệ hạ. Chỉ vì Lâm này soạn luận để biện chánh tà. Cho là phù hợp với sách sử, một câu sai sót, mà cam chịu gia hình. Nếu Bệ hạ thuận trung thuận chánh, thì Lâm này sẽ không mất một mảy lông, nếu Bệ hạ lạm hình kẻ vô tội, Lâm này cũng chịu chết.

Bọn Đức Uy v.v… viết sớ tâu lên vua, vua đọc xong rất vui, cho mời Pháp sư vào hỏi:

Trẫm đã xem bài văn của Thầy đều cùng với Lão giáo, mà phát ra ý Phật mà đạo Phật thì kém còn đạo Lão thì hơn, nay trẫm chưa hiểu, Phật lớn, Đạo nhỏ. Không phải không rõ điều này. Nên nói hết những điều hơn kém, để không còn nghi hoặc.

Pháp sư tâu rằng:

Tâu Bệ hạ! Lâm này nghe nói: Bậc diệu giác, thân thường trụ vốn không có sắc tướng, vì chúng sanh nên để lại dấu vết hình nghi. Cảm ứng với Hồng chung mà tùy âm thanh có lớn nhỏ, ứng với gương sáng mà cùng muôn vật tươi tỉnh. Nhưng do đạo quan nhị thiên lý vượt hơn trăm họ. Khuôn phép trước mắt mà khó lược nói hết. Cho nên Quan thái phó thời Hậu Hán là Trương Diễn nói ở Nam Nhạc với Đạo sĩ là Hạt Thiện Tín rằng:

Phàm giáo pháp ở bên Tây Vực, là do đấng Pháp Vương nói ra, độ khắp sáu đường, nhuần thấm cả hàm linh. Nếu ông có thể bỏ vọng về chân, gắng tâm học đạo. Còn như không tôn kính phụng trì, có thể gọi là luống độ cả trăm năm. Vô công mà trôi qua. Nếu ông xem thường không tôn kính, cũng có thể chuyên tâm nơi Hoàng Lão. Hoàng Lão tuy không phải là Pháp Vương, thì cũng là tuyển tập của bậc Thánh đời trước. Tuy đồng ngôn hạnh sâu xa của các nhà hiền triết, gá tánh vào nhà vô vi đạo đức. Xưa Hiếu Cảnh Hoàng Đế thường tu hành không mõi mệt, Đạo giáo do đây mà hưng khởi. Các bậc trưởng thượng của trăm nhà hiền triết đều nghĩ kinh Phật là thứ yếu. Đến như Mao Thành Tử, Liệt Tử, Tuệ Tử.v.v… Đều theo học đạo tự nhiên tiêu diêu ngoài cảnh trần. Cũng cho Hoàng Lão là thứ. Ong có thể hâm mộ chăng?

Lại có Ngô Thượng Thư Lệnh Hám Trạch, nói với Ngô chủ là Tôn Quyền rằng:

Thần xét biết Phật là đấng Pháp Vương vô thượng, các thánh đều nương về. Lại giáo hóa tất cả muôn các loài chúng sanh Thật là sâu rộng như biển lớn, không thể xen lẫn với tà giáo khác. Soi sáng khắp nơi mà không mặt trời mặt trăng nào so sánh được.

Xúc cảnh thì hóa duyên, gặp vật đều được nương nhờ. Ở trong cõi trời, cõi người mà được tôn quý tự tại. Giả như trời có công che chở, đất có công mang vác, đều do các Đức Phật xây dựng mà tạo nên như vậy. Thần lại trộm nghĩ suy tầm, như Khổng Khâu nước Lỗ đó là bậc anh tài giỏi giang, thánh đức không ai bằng, đời gọi là Tố Vương, soạn ra kinh điển, lấy đây để huấn thị mọi người trong thời Chu Mạt; dạy dỗ nhân dân lúc cuối mùa. Đem đến cho Nho giáo sự khởi sắc xưa nay. Cũng là đạo ẩn thế an nhàn, như Hứa Thành Tử, Quảng Thành Tử, Nguyên Dương Tử, Quyên Tử, Tuệ Tử, Trang Tử v.v… Kinh sách của trăm nhà hiền triết đều tu tiên tự luyện ở núi non an nhàn vắng lặng, giữ tâm thông thái, học đạo đạm bạc. Mọi việc đều trái với khí tiết nhỏ lớn của nhân luân. Cũng không phải phong cách an đời, dạy người. Thế nên người xưa thường không theo, bởi nghĩa đây vậy.

Đến thời vua Cảnh Đế nhà Hán, khảo sát cả trăm nhà hiền triết, vì Hoảng Tử, Lão Tử nghĩa thể sâu rộng, trong ngoài đều sáng tỏ thấu đạt cho nên đổi Lão Tử thành kinh; mới lập ra Đạo học, vua ban sắc cho trong triều ngoài nội đều đọc tụng kinh này. Nếu đem hai nhà Khổng, Lão ra so với Phật pháp, thì thật là cách xa vậy. Sở dĩ như thế, là do Khổng giáo thiết lập giáo lý, đều theo pháp trời mà chế dụng, mà không dám trái mệnh trời. Còn các Đức Phật lập giáo, pháp trời đều vâng làm, không dám trái với Phật. Nói theo đây thì, thật chẳng thể so sánh.

Ngô chúa nghe điều đó, mới hỏi Hám Trạch rằng:

Ông học rộng thông hiểu mọi chuyện, nên nay phong cho ông làm Thái phó cho Thái tử, lại lãnh thọ chức Thị Trung Thượng Thư như xưa.

Vào thời Lương Vũ Đế, cho hội Tam giáo lại rồi làm thơ rằng:

Tuổi nhỏ học Chu, Khổng
Thông hết cả sáu kinh
Trung niên xem sách Đạo
Có tiếng và không tiếng
Tuổi già xem kinh Phật
Như trời giữa các sao

Lại xét trong Đại phu Tống Quang Lộc nói rằng:

Việc ba đời của nhà Phật, tin mà có chứng cớ. Muôn hạnh đều trở về không. Há là so với chín kinh bác học của trăm nhà hiền triết? Dù là Nghiêu, Thuấn, Chu Khổng, Lão Trang cũng không thể hơn được.

Lại trong Mâu tử luận nói:

Sự giáo hóa của vua Nghiêu, Thuấn, Chu, Khổng, Lão Thị, so với Phật, dụ như nai trắng sánh với kỳ lân.

Lại, vào đời Hậu Chu có Vương Tụ Đình nói rằng:

Nghĩa của đạo gia thì như thân thể mà xả bỏ hết sự thông minh, bỏ cả nghĩa nhân, lìa xa hình trí. Bên Tây Vực có giáo lý của Thích Ca, thấy khổ mà dứt tập, tu đạo chứng diệt, rõ suốt nhân quả; lìa phàm chứng thánh. Đây chính là chỗ cùng cực của giáo lý.

Lại ở trong sách “Giam Ngu Thế Nam Đế Vương Lược Luận” có nói:

Nghĩa của Lão Tử thì cốc thần bất tử, huyền đạo lại còn mãi. Nhìn thấy sống lâu mà nương rồng cỡi hạc. Còn giáo lý của Thích-ca hữu, không đều chẳng dính mắc, nhân ngã đều quên. Ra khỏi sanh tử mà trở về vắng lặng. Đây là bàn về hình tượng bên ngoài. Vả lại dấu vết hơn kém, huấn thị lại như thế, mà dẫn đến sự lớn nhỏ cũng từ đây.

Tâu Bệ hạ! Trước khi chưa có chiếu chỉ thì Phật lớn, Đạo nhỏ. Sau khi ban chiếu rồi thì Đạo lớn, Phật nhỏ. Lớn nhỏ hơn kém nghĩa chính là đây vậy.

Cúi mong Bệ hạ là bậc chí đức thông thần, ban ân đức đối với tăng lữ. Đạo nghĩa gần như cực thánh. Mặt trời mặt trăng soi sáng nơi huyền môn, tiếng vang trần thế. Chỉ có Pháp Lâm mạo phạm dám thuật lại cựu chương làm phiền lòng Thánh Thượng.

Vua thấy Pháp sư đối đáp trôi chảy thì truyền lệnh tha về.

Bấy giờ, có Quan Hiến Tư tâu rằng;

Pháp không thể bỏ qua, nước có luật hình. Tội chê bai phạm thượng, đáng xử trị.

Vua nói:

Pháp Lâm tuy chê bai Tổ Tông của trẫm, không phải là không có chứng cứ. Nay đặc xá cho tội trạng. Đày ra Ích Bộ làm tăng.

Pháp sư được thả về, trong lòng không tự vui bèn làm bài “Điệu Khúc Nguyên Thiên” để bày tỏ chí của mình.

Thơ nói rằng:

Vì đạo trời rất âm chừ
Sự ngang trái bao đời
Khiến cho Khuất Nguyên lòng trung chánh chừ
Mà được thả về
Nịnh thần dua nịnh chừ
Ngôi vị hiển danh
Lời thẳng không kiêng kỵ chừ
Thì gặp tai ương
Ngọc chưa giũa còn ẩn trong đá chừ
Đá yến làm châu báu
Tây thi sắc đẹp mà bất hạnh
Mô Mẫu trông thấy
Nhủ lòng nghĩ nhớ Khuất Nguyên chừ
Học thức sâu rộng
Quân vương chẳng xét
Lòng trung chánh chừ
Nghe lời nịnh thần vu báng
Đuổi ra khỏi nước chừ
Tự hôn mê che đức
Yến Tô bỏ nơi hoang dã chừ
Muôn vật sinh sôi
Chim kêu ở trong rừng chừ
Phượng loan ẩn dấu
Lang Sói tung hoành khắp ngã chừ
Lân Phụng dấu mình
Chim muôn còn muốn nhớ ân đức chừ
Bị phá tổ mà bay cao
Kỳ Lân còn vui với đạo chừ
Thấy bất nhân liền bay đi
Lời trung can ngăn không lọt chừ
Ky Tử giả điên
Đỗ Bá dùng lời ngay chừ
Đều gặp tai ương
Tỷ Can chánh trực bị mổ tim chừ
Ngũ Tử Tư lòng trung mà bị móc mắt
Khuất Nguyên thanh bạch chừ
Trầm mình nơi sông Mịch La

Bấy giờ chư tăng ở Kinh Ấp nói với Pháp sư rằng:

Không thể yên tĩnh tu duy, tinh thần lắng đọng, cầu thoát sanh tử, mà soạn “Phá Tà Biện Chánh” phạm tội với triều đình. Khiến cho chúa Thượng nổi giận, Thích giáo bị lật đổ. Nếu ông trình bày rõ ràng thì đầu đến nỗi phải bị đày đến Kiến Nam. Nếu có công với Phật pháp thì đâu bị lăng trì như thế.

Pháp sư nghe lời này bèn nói với các bạn đồng tu rằng:

Pháp Lâm nghe rằng vua lo buồn thì thần nhục, vua nhục thì thần vong. Bài dịch nói chư tăng là gã đầu trọc, Phật là quỷ nước Hồ. Nghe lời này khó ai mà chịu được. Đến như bực Đại đức như mây, danh tăng như mưa, dù dắt dẫn bốn hàm tám tạng. Tôi đem bút văn để luận biện, luống giải Tam thừa ngũ bộ thì đặt lời nói ở chỗ nào! Pháp Lâm này không lượng mình tài sơ đức bạc, mà muốn buộc lấy giềng mối; nên mới sưu tầm sách xưa mà biên tập lại. Để cho người hiểu được mà bỏ hết lời tà mị. Người tin thì biết rõ lớn nhỏ, chân ngụy mà theo.

Khi vua ban sắc cho Pháp Lâm về Ích Bộ; cũng thành ra phạt tội.

Đối với Pháp Lâm, Phật pháp ngày nay vẫn được bình yên, đây đâu gọi là đảo ngược. Xưa, Khuất Nguyên bị lời sàm tấu mà trầm mình xuống sông; há là chẳng phải vì lòng trung. Biện Thị hiến ngọc mà bị gia hình. Ai nói là lầm lỗi. Đây là do gặp thời vua biết dùng hay không biết dùng. Khuất Nguyên nhờ trầm mình, nên khúc ly tao mới được thanh hành. Biện Thị bị gia hình mà Liên Thành còn vật báu, nhưng dòng nước xanh thước tròn há lại không oán hận. Người đời thật không hiểu ta vậy.

Nói xong, thì để rơi vài giọt lệ, nhân đó mà làm thơ rằng:

Bẩm thừa chí Khuất Nguyên
Không thử lòng ngư phủ
Hỏi rằng gặp thời chuyển
Đáp là thẳng như dây

Ngâm xong nghẹn ngào rơi lệ nói:

Pháp Lâm cũng không gặp thời nên nay bị đày về Nam, ít gặp các bậc hiền đức. Chỉ gởi lại lời thơ để xét việc sanh tử. Bấy giờ, các Đạo tục đều đến đưa tiễn, đông đảo khắp chốn kinh kỳ, đều kính trọng như thần minh. Pháp sư từ biệt mọi người lên xe đi, lại làm thơ rằng:

Phi ý thì chẳng tội
Lìa bạn lại lìa thân
Núi sông cách muôn dặm
Nhọc nhằn thân bảy thước
Du hồn nơi đất Sở
Lòng riêng nhớ cõi Tần
Chẳng phải kẻ biết nhau
Ai thương tử biệt người

Tháng sáu mùa Hạ năm Đinh Mão, Pháp Lâm chùa Bồ-đề ở Bách Lao Quan, vì bị bệnh lỵ rất nặng không chữa được. Lúc gần lâm chung thì than rằng:

Đại trượng phu mang thân bọt huyễn này, có niềm tin mà vô dụng, quán sát như sương sớm. Thật là đáng chán! Vốn muốn tử đao để lập thân, mà không được toại chí. Khóc Phượng thương Lân, lẽ nào lại không buồn thương.

Nói xong thì thị tịch, đó là ngày hai mươi ba tháng bảy mùa Thu niên hiệu Trinh Qúan thứ mười bốn. Thọ sáu mươi chín (69) tuổi, Tăng tục lo an táng, như an táng cha mẹ, chôn Ngài trên núi Đông Sơn, xây ngôi tháp trắng cao. Hành lữ qua lại viếng thăm đều thương tiếc. Dân chúng khắp nơi biết đều rơi lệ. Nhưng Pháp sư nghề nghiệp vốn đã đầy đủ. Văn từ thế hiệu đều gọi là bậc Học hải. Hoặc đoán gió nhìn trăng mà ngâm vịnh; ngắm lan mùa Xuân, cúc mùa Thu. Thể vật duyên tình đều rất rực rỡ. Những sách Pháp sư bí mật làm lúc ở phương Nam, danh vang cả xưa nay. Bèn sưu tập văn từ của Pháp sư, để dẫn giải ra đây.

Nếu các việc thần diệu vô phương chẳng trù tính đo lường đến chỗ lý cùng cực thì chẳng có sự chuẩn mực nào mà có thể biết được chỗ thường đạo vô ngôn. Đây là bến bờ an ổn có thể nương theo đó mà ra khỏi sanh tử, đến nơi an vui giải thoát. Còn như các kinh sách về năm môn năm độ, giáo pháp Bán tự, nhất thừa, chín dòng trăm họ, ba động kiểm v.v… thì làm sao có thể dùng kinh vĩ của Khổng Tử để mở mang cơ đồ, há có thể đem hết tâm lực mà đạt được cảnh giới đó sao? Anh minh tài giỏi đời có được mấy người. Pháp sư thuở nhỏ học thông cả Tam luận, nổi tiếng khắp trong triều ngoài nội. Lớn lên lại giỏi hết các kinh sách, lưu tiếng xa gần, uy nghi trang nghiêm cung kính, khí tiết thông suốt sâu xa. Đem đạo lý cao siêu mà soi cùng xưa nay, tỷ như đất mùa xuân ẩn dụng mà hiển nhân. Như ngu như ngọng mà có công lực, ngoài tối mà trong sáng suốt. Cố nhiên trí có thể đồng với đại dương mà Đạo lại đầy đủ khắp cả cõi trời, người. Há đâu chỉ soi sáng ở chỗ sông núi mà thôi. Văn tình như thế, có điển chương mà không theo khuôn mẫu, rực rỡ mà vẫn có phép tắc, dụ như tám âm cùng tấu lên. Các dây năm màu đều tương ưng, Đạo hạnh thì thâu nạp chánh kiến đối với ba không, cứu vớt chúng sanh ở trong tám khổ. Học hạnh sâu xa mà tâm lại khiêm hạ, cũng giữ vẽ cung kính mà lại cao thâm. Thật là rường cột của họ Thích. Là bậc thiện nhân đầy nghi vũ vậy. Lại thêm cứu khổ phò nguy, trước người rồi sau mới tới mình. Trọng Phong Quang mà soi sáng cửa Thiền lâm ở nơi Sơn thủy, đem đạo pháp đến chốn xa xôi. Đem nguyện lực cứu giúp hết các loài chúng sanh.

Vào những năm cuối niên hiệu Khai Hoàng đời Tùy thì ở ẩn trong động Quỷ Cốc núi Thanh Khê, trên ngọn núi cao, mà che hết mặt trời, mặt trăng. Ở chốn cao mà nuốt hết mây gió. Giữa chốn không gian đem cỏ năm mầu mà đón rước. Đi trong tám thiền mà ngơi nghỉ. Vui trong tùng bách giữa khe xanh. Ăn cây trái, ở sơn động, đều chắp tay quy y, xoa đảnh hỏi đạo, kinh hành điềm tĩnh hơn mười năm trong chốn thanh tịch. Nhưng mà ở rừng núi vòi vọi hiểm trở, tùng bách bao la nơi hoang dã, theo gương người xưa. Ở chốn núi sâu hang rừng không người biết, Ngài liền soạn bài “Thanh Khê Sơn Ký” một quyển. Khi thấy lưu hành ở đời sách này, Thái Sử khiến cho truyền hịch. Người soạn bài này vì học nghiệp thấp kém, sự hiểu biết chưa đủ nên xuyên tạc cho bài của Pháp sư là đoản thiên, lăng mạ Chánh giác. Pháp sư vì lòng xót thương kẻ hậu côn, lại chọn ra bộ luận “Phá Tà” một quyển. Tuy biết bọn họ sàm tấu, dâng biểu lên triều đình. Ngựa tốt ngựa xấu cùng chạy trên đường ngàn dặm, cuối cùng thì sắc màu dù trong dù đục cũng được chia dòng, trách gì bọn phàm nhân muốn làm thánh, kẻ tục lại muốn sanh với chân. Cho nên ngài mới dẫn văn chứng lý, chẳng phải Đạo giáo thì Nho, văn cú đều thâm sâu, ý chỉ thì nghiêm mật. Nên được truyền chép không cùng, lưu bố nơi đời, như vạch mây mà thấy được mặt trời, kẻ cùng mê mà gặp được đạo pháp. Sự soạn thuật của Pháp sư chính là phù hợp với tánh mà lại đúng lý. Vì bị đè nén nên phần nhiều đều bị sót mất. Nay xét lại thì còn các bài thi phú bia chí, những bài tán tụng châm ngôn, ký truyện, khải luận, và tam giáo hệ phổ, Thích Lão Tông Nguyên.v.v… hợp lại thành ba mươi quyển.

Pháp sư cùng với người giúp việc tình như nước bạc, nghĩa tợ kim lan tuy, cung các đạo tục có khác. Mà tánh tình đôn hậu. Hai vị biên chép, nối kết thành chương mục thứ tự, đều là những lời hay ý đẹp.

Tiếng tốt vang xa, truyền khắp trong đạo tục, lưu bố xa gần.

Thích Ngạn Tông có lời khen kinh Dịch rằng:

“Đạo cực sanh lưỡng nghi, Lưỡng nghi sanh tứ tượng”. Lão Tử nói vô danh là nguyên thủy của trời đất. Hữu danh là mẹ của muôn vật. Nói đạo nói đức, luận hiếu luận trung. Đây là chỗ đạt đến những lời chí ngôn trong phương nội. Còn lời đại huấn của Phật giáo, ngoài sự nghe nhìn về tứ đức thường thân, trước là vì hình khí nhất như bất động. Vì muốn cứu giúp muôn loài mà gá thân ở nước Ca-duy, làm lợi ích cho chúng sanh cõi Diêm-phù, dựng cao cây đạo, Phật là đấng đã tịnh năm nhãn mà thông cả ba minh, đầy đủ sáu thông, mà viên thành muôn đức. Soi sáng ánh đạo vàng nơi thế giới Ta-bà, phóng hào tướng ở phương khác. Rung chuyển mặt đất làm kinh hồn mê chúng. Vang pháp âm mà kinh hãi muôn loài. Đầu tiên thì đem pháp vũ đến những nơi hoang dã, soi sáng hàng tiểu căn. Cuối cùng thì đem Đại pháp đến chốn Hạc Lâm, thấm nhuần cả đại thọ. Trong thời gian đó thì tam tà đều bị hàng phục. Bỏ hỏa cụ ở nơi chốn Thiền hà, mười loại đều quy tâm. Gội dòng trong ở nơi đất phước. Từ khi pháp âm vắng tiếng, mặt trời Phật cũng mất dần ánh sáng. Đại nghĩa pha lẫn với tà phong muôn phần dữ dội. Khi ấy thì có Đề-bà, Đồng Thọ, tiếp nối giềng mối đạo. Rồi ngài Long Thọ, Mã Minh giữ gìn đạo pháp. Đến khi vua nằm mộng cảm thấy được người vàng, rồi Tần Thái du tây. Ngọc Mã đi về hướng Đông, cùng với ngài Ma-đằng, Pháp Lan. Thì có chín tiên tả đạo cùng nghị luận ở kinh kỳ. Bọn Ngũ nhạc tà đồ cùng khuấy động triều đình. Lại còn khoe khoang văn điển cao siêu, muốn đem đom đóm mà sánh với trời xanh. Tiến cử cỏ bao cỏ tranh, Lan Công không thể sánh với Lục thao. Hướng gió ngậm ngọc mà được chở che bởi không huyền ngũ vân. Nơi sân sương mù hóa đầy bảy chất báu. Lúc này kẻ bỏ thế tục theo đạo rất nhiều, người theo Đạo giải thoát như gió thổi bạt hết cỏ. Lúc này đạo pháp được mở mang, mặt trời Phật mới lên cao.

Bọn mục dã ngoại đạo không thể so sánh. Từ đó, danh tăng Kỳ thỉnh thoảng xuất hiện. Xem lại sách sử phả diệp; thì đạo pháp soi sáng khắp vùng. Lấy gươm trí mà tung hoành. Trên thì có Hiển Công, ôm pháp màu mà thẳng tiến, bẻ Khương Bân ở nước Ngụy, Thắng Lục Tĩnh ở nhà Tề, giúp thân vũ trong một đời, lưu danh tiếng cả ngàn năm. Vượt Đại Đường mà có dân chúng, vượt Tam Hoàng, qua Ngũ Đế. Mẹ vua Nghiêu, vua Thuấn mà con của Thành Khang. Ánh đạo soi khắp tám miền, vua đến muôn nước, mở mang lời dạy của Ngọc Cổ Pháp Lãi, làm cho mặt trời Phật lên cao, chiếu sáng gương vàng.

Bấy giờ, có Phó Lưu dùng lời vọng mị, nói pháp này cùng hỗ tương như môi với răng. Mà Pháp sư lòng nhỏ lượng cao, chí muốn cứu hết loài hung bạo. Cho nên sưu tập mọi điển chương để viết thành văn lý, treo cao cả mặt trời mặt trăng, đạo tục đều rõ ràng. Đem khí lành cho bốn sanh; chiếu trí tuệ trong ba cõi. Để cho đỏ lam phân biệt, tà chánh rõ ràng, nên mới mạnh dạn nói lên những lời chân thật. Tôi đã từng ở bên Ngài nghe được luận này, nghĩ đến công đức của người nên mạo phạm ghi chép lại. Còn như thi phú làm ra, trình độ bia ký biểu chương, lại bao gồm những văn hoa cao đẹp; phân biệt rõ ràng.

Chẳng phải đây từng nói rằng:

– Viết lại những lời của Phật thánh, ghi lại sách sử của Đấng Pháp Vương. Như đem thiên mạng soi sáng đại đạo, lại chở hết mọi điều thấy đem làm thật lục. Ngõ hầu đạo hạnh của người trước soi sáng cho kẻ hậu sanh. Cũng là bổ khuyết cho sử sách tăng già; để lưu lại ân đức của Pháp sư.

Đường Hộ Pháp, Sa-môn Pháp Lâm Biệt Truyện Quyển Hạ (Hết)