Bài ký về chuyện cư sĩ Châu Tử San sanh Tây
Cư sĩ húy Dục Anh, hiệu Tử San, là cháu đích tôn của vị đại thương gia đất Cát An tỉnh Giang Tây tức tiên sinh Châu Phù Cửu. Mất cha mẹ từ bé, do bà nội là Đàm Thái Phu Nhân chăm bẵm thành người, bẩm tánh thông minh, sáng suốt, hiếu học, ưa tìm tòi, nhân từ, hòa nhã, lòng dạ rỗng rang tựa hang trống, sanh trưởng trong nhà phú quý nhưng chẳng có mảy may thói quen kiêu căng, xa hoa. Ra làm quan, hoàn toàn chú trọng trung thực, giữ lòng từ ái. Từ bạn đồng liêu, thân hữu cho đến tôi tớ, nếu ai trái ý chưa hề hiện vẻ giận dữ, thốt lời thô tháo! Luôn luôn tươi tỉnh, hòa nhã, chuyện nghịch xảy đến bèn thuận chịu.
Đến khi cáo quan về ở ẩn, đóng cửa ngầm tu dưỡng, ngẫu nhiên đọc nội điển (kinh Phật) liền biết Phật pháp là căn bản của hết thảy các pháp thế gian lẫn xuất thế gian, tạo phước lợi cho xã hội, phổ độ chúng sanh đều toàn nhờ vào Phật pháp cả! Vì thế, liền quy y với lão pháp sư Đế Nhàn chùa Quán Tông, được đặt pháp danh là Trí Tạng. Từ đấy, ăn chay trường, niệm Phật, kiêng giết, bảo vệ sanh vật, đối xử người khác bằng lòng khoan dung, trung hậu, tự sống đạm bạc, bạn bè thường vay mượn nhưng chẳng nề hà, hết thảy chuyện lành đều khảng khái giúp cho thành tựu. Nêu gương giúp kẻ đói rét là chuyện thường làm, thực hiện những điều lành thế gian đều dùng tâm Bồ Đề để hồi hướng hòng tạo duyên tăng thượng thù thắng nhất hòng vãng sanh Tây Phương. Lại thấy lòng người hiểm ác, thời sự mỗi ngày một sai trái nên càng dốc sức làm lành, lòng ưa – chán[1] càng sâu.
Năm Dân Quốc 21 (1932), tức năm Nhâm Thân, nhằm độ tuổi tri mạng (50), ngày mồng Tám tháng Tư gặp đúng hôm thánh đản đức Thích Ca Văn Phật[2], vào lúc bảy giờ sáng, ông thị hiện chút bệnh nhẹ, cảm thấy hông lưng đau nhức, bảo người xoa nắn nhè nhẹ cho dễ chịu. Tự mình ngồi xếp bằng ngay ngắn hướng về Tây, chuyên tâm xưng niệm A Di Đà Phật. Thanh âm rõ ràng, rồi cúi đầu qua đời. Người nắn lưng thấy [cư sĩ] im lặng hồi lâu chẳng ừ hử gì liền thăm dò hơi thở nơi mũi mới biết cư sĩ đã bỏ báo thân này vãng sanh Tây Phương rồi! Lúc ấy mùi hương lạ ngập nhà, năm ngày sau mới tan. Tướng lành như vậy có thể nói là chánh niệm phân minh, xả báo an tường như nhập Thiền Định, tức là được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương chẳng còn mảy may nghi ngờ, bàn tán chi nữa! Ôi! Đang trong lúc kiếp trược khổ chẳng kham nổi này, cư sĩ đến lúc lâm chung mới thị hiện chút bệnh, chỉ trong khoảnh khắc liền ngồi mà mất, đã nêu tấm gương lớn cho những kẻ chịu đựng khổ sở chẳng kham nổi! Cư sĩ Ngô Nam Phố gởi chuyện này cho Quang, nhân vậy bèn ghi lại những nét chánh yếu.
***
[1] Ưa cõi Cực Lạc, chán cõi Sa Bà.
[2] Thích Ca Văn hay gọi đủ là Thích Ca Văn Ni là cách phiên âm khác của chữ Thích Ca Mâu Ni (đa phần các bản kinh dịch trước thời pháp sư Cưu Ma La Thập dùng cách phiên âm này). Chẳng hạn như trong Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự Kinh (mất tên người dịch), có ghi: “Kim ngã tác Thích Ca Văn Ni Phật, tánh Cù Đàm” (nay ta là Thích Ca Văn Ni Phật, họ Cù Đàm). Phẩm Nhập Lục Đạo Chúng Sanh của Bồ Tát Tùng Đâu Thuật Giáng Thần Mẫu Thai Thuyết Phổ Tế Kinh (Bồ Tát từ trời Đâu Suất giáng thần vào thai mẹ nói kinh cứu tế rộng khắp) do ngài Trúc Pháp Niệm dịch có câu: “Thích Ca Văn Ni Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hạnh Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn nay đang ở trong thai mẹ rộng nói pháp tạng vô thượng thâm yếu”. Phật Thuyết Di Lặc Hạ Sanh Kinh (do ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn) khi nhắc đến danh hiệu đức Phật Thích Ca đều viết là Thích Ca Văn v.v…