GIÁO KHOA PHẬT HỌC
Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ
Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và biên soạn bổ túc

 

CẤP HAI

Bài 6
MƯỜI TÁM KHU VỰC

Hợp sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), sáu trần (hình sắc, âm thanh, mùi, vị, xúc, ý tượng1), và sáu thức (thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, ý thức), gọi là “mười tám khu vực”.

SÁU CĂN cũng được gọi là “sáu xứ trong”. Chữ “xứ” có nghĩa là sinh ra, ý nói, sáu căn là nơi sinh ra sáu thức; hay nói rõ hơn, sáu căn duyên với sáu cảnh liền sinh khởi sáu thức. Vì vậy, sáu căn cũng còn được gọi là “sáu nhập”. Chữ “nhập” có nghĩa là can dự vào, ý nói, căn và cảnh can dự vào nhau; hay căn và cảnh đều là nơi thức can dự vào.

“Căn” nghĩa là có khả năng làm nẩy sinh; như cây cỏ do có gốc rễ mới có thể sinh ra thân, cành. Thức nương nơi căn mà phát sinh – có sáu căn thì phát sinh sáu thức – cũng giống như vậy. Nhưng căn nào phát sinh thức nào? Mỗi khu vực đều có giới hạn của nó, không lẫn lộn, như con mắt (nhãn căn) chỉ có thể sinh ra cái thấy (nhãn thức), chứ không thể sinh ra cái nghe (nhĩ thức), hay cái ngửi (tị thức) được; các căn và thức còn lại, có thể theo đó mà suy ra để biết.

Các căn đều có hai phần: phù trần căn và thắng nghĩa căn. “Phù trần căn” cũng gọi là “phò trần căn”(1), do bốn đại làm thành, hư giả không chân thật, nên gọi là “phù”; che lấp làm tối tăm chân tính, gọi là “trần”. Gọi là “phò trần căn” vì phần này phụ giúp cho phần thắng nghĩa. Phù trần căn cũng tức là bộ phận2 lộ rõ ở bên ngoài của sáu căn(2). “Thắng nghĩa căn” cũng gọi là “tịnh sắc căn”. Phần căn này lấy tịnh sắc(3) làm tánh, tuy không thể thấy được, nhưng mỗi căn đều nương nơi sức tăng thượng(4) thù thắng của nó, đối cảnh phát sinh ra thức, làm thành tác dụng của căn. Cho nên, hai căn phù trần và thắng nghĩa này phải cùng nhau khởi tác dụng một lúc, thì mới sinh ra công hiệu. Như nhãn căn lấy sắc làm cảnh, lấy tịnh sắc làm tánh, cho nên có thể thấy; nhĩ căn lấy thanh làm cảnh, lấy tịnh sắc làm tánh, cho nên có thể nghe; các căn khác cũng vậy.

SÁU TRẦN cũng được gọi là “sáu xứ ngoài”(5). “Trần” nghĩa là nhiễm ô, tức là những thứ này có thể làm nhiễm ô tình thức, khiến cho chân tính không thể phát hiện được. Sáu trần cũng được gọi là sáu cảnh(6), ý nói, sáu thứ này là đối tượng của sáu căn. Nhưng cảnh nào là đối tượng của căn nào? Mỗi khu vực đều có phạm vi của nó, như nhãn căn chỉ có thể duyên với sắc cảnh, chứ không thể duyên với thanh cảnh hay hương cảnh; các căn và cảnh còn lại, có thể suy ra mà biết được.

Sáu căn, mỗi căn đều có giới hạn của nó, được gọi là khu vực nhãn căn, cho đến khu vực ý căn; sáu trần cũng vậy, được gọi là khu vực sắc trần, cho đến khu vực pháp trần; sáu thức cũng vậy, được gọi là khu vực nhãn thức, cho đến khu vực ý thức; hợp lại thì có tất cả là mười tám khu vực –  không khu vực nào xâm lấn khu vực nào. Trong đó, do căn đối trước trần mà ở giữa phát sinh ra thức để phân biệt; như nhãn căn là “năng phát”, nhãn thức là “sở phát”(7), và sắc trần là “trợ phát”. Nhãn căn như vậy, các căn khác cũng như vậy. Ba hiện tượng căn, cảnh và thức của mỗi căn phải có đầy đủ cùng lúc, mới có thể phát sinh hiệu dụng. Mối liên hệ đó sẽ được trình bày trong đồ biểu dưới đây. Tuy nhiên, mối liên hệ đó, ở đây chỉ được nói một cách đơn giản; nếu nói cho thật tường tận, thì mắt phải có đầy đủ chín điều kiện3; tai phải có tám điều kiện4; mũi, lưỡi và thân đều phải có bảy điều kiện5; ý phải có năm điều kiện6, mới có thể phát sinh tác dụng.

Mười tám khu vực và hiệu dụng của chúng

sáu căn              sáu thức            sáu trần           hiệu dụng

nhãn căn —— nhãn thức —–  sắc trần ———- thấy nhĩ căn ——– nhĩ thức ——-  thanh trần ——- nghe tị căn ———- tị thức ———  hương trần —— ngửi thiệt căn —— thiệt thức —— vị trần ———— nếm thân căn —— thân thức —–  xúc trần ———- cảm xúc ý căn ———- ý thức ———  pháp trần ——– tư duy

 

CHÚ THÍCH

1. Pháp trần là cảnh sở duyên của ý căn. Ý căn đối với các cảnh sở duyên của năm căn trước, phân biệt tốt xấu mà khởi lên các pháp thiện ác, gọi là “pháp trần”. Những động tác thường ngày của chúng ta, tuy đã trở thành quá khứ, nhưng những ảnh tượng của trần cảnh vẫn được ghi nhớ, đó tức là tác dụng của pháp trần.(8)

2. Kinh nói: Mắt như trái nho, tai như tờ lá mới cuốn, mũi như đôi móng thòng, lưỡi như trăng nửa mặt, thân như cái trống cơm, ý như thấy phòng tối.

3. Nhãn thức cần có chín điều kiện nới phát sinh được: 1) Ánh sáng: phải có ánh sáng mới thấy được. 2) Không gian: phải có một khoảng cách mới thấy được. 3) Căn: phải có căn (con mắt) mới phát sinh ra thức. 4) Cảnh: phải có cảnh (sắc) mới phát sinh ra thức. 5) Tác ý (tức tâm sở “tác ý” trong năm tâm sở biến hành): khi căn đối trước cảnh thì liền hiểu biết, khiến cho ý thức khởi tác dụng phân biệt. 6) Phân biệt y (tức ý thức): phải có ý thức mới phân biệt được. 7) Nhiễm tịnh y (tức mạt-na thức): tất cả các pháp nhiễm hay tịnh đều do thức mạt-na chuyển, nghĩa là, nếu sáu thức nương nơi sáu trần mà khởi lên các hoặc nghiệp, thì các phiền não nhiễm ô này sẽ được chuyển vào thức a-lại-da, thành các chủng tử hữu lậu; nếu sáu thức tu hành tuệ nghiệp, thì các đạo phẩm thanh tịnh này sẽ được chuyển vào thức a-lại-da, thành các chủng tử vô lậu. 8) Căn bản y (tức a-lại-da thức): thức a-lại-da là căn bản của các thức; tất cả sáu thức đều do từ tướng phần của thức a-lại-da mà phát sinh. 9) Chủng tử y (tám loại chủng tử của tám thức nhãn, nhĩ, v.v…): nhãn thức y nơi chủng tử nhãn căn mà thấy sắc; nhĩ thức y nơi chủng tử nhĩ căn mà nghe tiếng; cho đến ý thức nương nơi chủng tử ý căn mà phân biệt; mạt-na thức y nơi chủng tử nhiễm tịnh mà tồn tại tương tục; a-lại-da thức y nơi chủng tử hàm tàng mà phát hiện ra các pháp. Nhãn thức phải cần có đầy đủ chín điều kiện trên mới phát sinh được.

4. Nhĩ căn, tuy ở chỗ tối vẫn nghe được, vì vậy, nhĩ thức không cần có điều kiện ánh sáng; nhưng tám điều kiện còn lại (giống như nhãn thức) phải có đầy đủ thì mới phát sinh được.

5. Mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị và thân xúc chạm, đều phải do căn và trần xúc chạm nhau, mới cảm biết được; ở chỗ sáng sủa hay tối tăm đều không quan hệ. Bởi vậy, tị, thiệt và thân thức không cần có hai điều kiện ánh sáng và khoảng cách; nhưng bảy điều kiện còn lại (giống như nhãn thức) phải có đầy đủ mới phát sinh được.

6. Trong chín điều kiện trên (của nhãn thức), ý thức không cần có bốn điều kiện ánh sáng, khoảng cách, phân biệt y, và nhiễm tịnh y; nhưng phải có đủ năm điều kiện còn lại, mới phát sinh được.

 

PHỤ CHÚ

1. Phò trần căn: Hai chữ Hán 浮 và 扶, đều đọc giống nhau là “phù”, mà nghĩa khác nhau (đồng âm dị nghĩa): chữ  浮 nghĩa là nổi trên mặt nước, nổi lộ ra phía ngoài; chữ  扶 nghĩa là phụ giúp. Nhưng chữ

“phù” sau (扶) cũng được đọc là “phò”, cho nên, để khỏi trùng lặp và lẫn lộn, thay vì viết “phù trần căn cũng gọi là phù trần căn”, chúng tôi đã viết “phù trần căn cũng gọi là phò trần căn”. Phò trần căn gọi tắt là “phò căn” (căn phụ giúp); trong trường hợp này, thắng nghĩa căn được gọi là “chánh căn” (căn chính yếu); có nghĩa là, phò căn chỉ có nhiệm vụ làm chỗ y cứ cho chánh căn, không có tác dụng nhận thức.

2. Trong bài học tác giả viết: “Phù trần căn cũng tức là bộ phận lộ rõ ở bên ngoài của sáu căn”. Thực ra, chỉ có năm căn là có bộ phận bên ngoài (tức bộ phận lộ rõ ở bên ngoài, ai cũng có thể thấy được, sờ mó được) mà thôi; còn ý căn là một căn đặc biệt, tuy cũng có hai phần, nhưng cả hai phần đều không lộ ra bên ngoài, không thể trông thấy, sờ mó được. Phù trần căn của nó là phần vi tế ẩn trong não bộ (vẫn còn nằm trong lĩnh vực sinh lí), nhưng thắng nghĩa căn, phần chính yếu của nó, thì hoàn toàn thuộc lĩnh vực tâm lí – nó chính là một thức, tức mạt-na thức, cho nên không có bộ phận bên ngoài.

3. Tịnh sắc: là loại sắc pháp cũng do bốn đại hợp thành, nhưng ẩn nhiệm ở bên trong (được hiểu như hệ thần kinh), mắt thường không thể thấy được. Nó là bản thể của phù trần căn; lấy phù trần căn làm chỗ y cứ mà phát ra tác dụng nhận thức.

4. Tăng thượng: tức là cái tác dụng thêm sức mạnh để giúp cho sự tiến triển.

5. Trong “mười hai nhân duyên” có một khâu gọi là “sáu nhập” (lục nhập). Chữ “nhập” ở đây có nghĩa là tiếp xúc, can dự vào, nhập vào nhau để phát sinh ra nhận thức. Bởi vậy, sáu nhập này phải có hai phần: trong thân và ngoài thân. Sáu thứ ở trong thân gọi là “sáu nhập trong” (lục nội nhập), tức “sáu căn” gồm nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, và ý; sáu thứ ở ngoài thân gọi là “sáu nhập ngoài” (lục ngoại nhập), tức “sáu cảnh” gồm sắc, thanh, hương, vị, xúc, và pháp. Gộp lại sáu nhập trong và sáu nhập ngoài, ta có danh số gọi là “mười hai nhập”. Vậy, sáu nhập cũng tức là mười hai nhập. Và danh số “mười hai nhập” cũng được gọi là “mười hai xứ” (thập nhị xứ). Chữ “xứ” có nghĩa là nơi y cứ, từ đó mà thức được phát sinh. Do chữ “xứ” này mà có các danh số “sáu xứ trong” (tức sáu nhập trong, hay sáu căn) và “sáu xứ ngoài” (tức sáu nhập ngoài, hay sáu cảnh).

6. Sáu cảnh: Chữ “cảnh” ở đây có nghĩa là đối tượng của căn, hoặc cảnh giới cảm giác của thức: 1) Sắc, đối tượng của nhãn căn (hay cảnh giới cảm giác của nhãn thức), có hai loại: hình sắc (như vuông, tròn, dài, ngắn, cao, thấp, thẳng, cong, v.v…) và hiển sắc (trắng, xanh, vàng, đỏ, đen, tím, sáng, tối, bụi, khói, mây, v.v…). 2) Thanh, đối tượng của nhĩ căn (hay cảnh giới cảm giác của nhĩ thức), gồm có các loại tiếng do từ thân thể các sinh vật phát ra (tiếng nói; hoặc không phải tiếng nói như la, khóc, cười, rên, rống, gáy, hú, gầm, kêu, v.v…); hoặc do từ các loại vật chất khác phát ra (tiếng sấm, gió rít, thân cây kẽo kẹt, nước róc rách, sóng rì rào, v.v…). 3) Hương, đối tượng của tị căn (hay cảnh giới cảm giác của tị thức), là các loại mùi thơm (như trầm hương, hoa bưởi, hoa lài, v.v…); mùi hôi thúi (như phân, thịt rữa, cá tanh, cơm thiu, v.v…); lại các mùi thơm, thúi cũng có mùi nặng, mùi nhẹ. 4) Vị, đối tượng của thiệt căn (hay cảnh giới cảm giác của thiệt thức), là các thứ vị mà lưỡi nếm biết được, như ngọt, mặn, chát, đắng, cay, chua, v.v… 5) Xúc, đối tượng của thân căn (hay cảnh giới cảm giác của thân thức), là các xúc cảm nóng, lạnh, mát, cứng, lỏng, trơn, nhám, nặng, nhẹ, đói, khát, v.v… 6) Pháp, đối tượng của ý căn (hay cảnh giới tri giác của ý thức), gồm một phạm vi vô cùng rộng rãi, phức tạp và trừu tượng, là tất cả những đối tượng cảm giác của năm thức trước, những ý tượng, ảnh tượng, và tư tưởng không ảnh tượng; ngoài ra, cũng còn phải kể tới các loại vô biểu sắc, các loại tâm sở, các pháp “bất tương ưng hành”, và các pháp “vô vi”.

7. Năng – sở: Một động tác thường có hai phần: phần chủ thể gây nên động tác, và phần đối tượng mà động tác ấy ảnh hưởng đến. Trong thuật ngữ Phật học, chữ “năng” được dùng để chỉ cho phía chủ thể; và chữ “sở” được dùng để chỉ cho phía đối tượng. Hai chữ này được dùng rất thường xuyên, tạo thành những đôi thuật ngữ ngắn gọn, xuất hiện rất nhiều trong kinh luận. Ví dụ: “Tâm biết (tri) vật”, thì TÂM gọi là “năng tri”, VẬT gọi là “sở tri”; “mắt thấy (kiến) sắc”, thì MẮT gọi là “năng kiến”, và SẮC gọi là “sở kiến”; “ý thức phân biệt pháp trần”, thì Ý THỨC gọi là “năng phân biệt”, và PHÁP TRẦN gọi là “sở phân biệt”; v.v…

Câu này, nguyên tác của tác giả viết: “… tức pháp trần chi tác dụng dã.” Sự thực, những ảnh tượng của trần cảnh tức là pháp trần, chứ không phải là tác dụng của pháp trần. Cho nên, đúng ra phải nói: “… những ảnh tượng của trần cảnh vẫn được ghi nhớ, đó tức là pháp trần.”

***

 BÀI TẬP

– Hãy liệt kê: sáu căn; sáu trần; và sáu thức.

– Hãy giải thích ý nghĩa của “sáu xứ trong” và “sáu nhập”.

– “Phù trần căn” nghĩa là gì? Đó là những cái gì? Thế nào là “thắng nghĩa căn”?

– Hai phần phù trần và thắng nghĩa phải cùng nhau khởi tác dụng một lúc, mới phát sinh công hiệu; hãy nêu một ví dụ.

– Hãy giải thích ý nghĩa của hai từ “sáu trần” và “sáu cảnh”.


Tổng Hợp Yếu Chỉ Các Bài 4, 5 và 6

1- Sự diễn tiến của thời gian đã khiến cho cục diện thế giới phát sinh bao nhiêu biến hóa. Sự kiện đó thật không thể nghĩ bàn! Vạn pháp không lúc nào là không ở trên con đường sinh diệt, hết cũ đến mới, cái bánh xe to lớn của thời đại đã xoay chuyển ngay từ sát na đầu tiên. Kết quả của sự biến hóa đổi thay, về phương diện tình thế gian, không có chúng sinh thì bỗng nhiên có, trẻ nhỏ bỗng nhiên lớn lên, rồi già, rồi chết, tuần hoàn không dứt; về phương diện khí thế gian, bờ cao sụp xuống thành hố sâu, biển xanh biến thành ruộng dâu, cuối cùng thì bị tai nạn lửa đốt cháy, tất cả đều tiêu diệt. Lại trải qua bao nhiêu thời gian, thế giới mới lại hình thành, lại y như cũ mà tới lui qua lại; sự biến thiên của người và vật trong giai đoạn đó, khi thời điểm chưa đến, chắc chắn là cái trí biết của người đời không thể nào dự đoán được. Ở thời đại con người còn cọ gỗ để lấy lửa, chắc chắn đã không tưởng tượng nổi sẽ có đèn điện nhiều màu! Ở thời đại con người còn dùng cung tên, chắc chắn đã không đoán biết được sẽ có vũ khí hạch tâm, hay hỏa tiễn liên lục địa! Nhưng đó vẫn chỉ là khoảng thời gian vài ngàn năm mà thôi. Thiết Luân vương ra đời cách nay còn đã hai trăm vạn năm, Kim Luân vương ra đời cách nay cũng phải đến tám trăm vạn năm, hiện tượng thế giới của mấy trăm vạn năm sau này, so với những gì ở trước mắt, đương nhiên là hoàn toàn khác nhau. Chúng ta không thể nào căn cứ vào cái nhìn ngày hôm nay mà bác bỏ những lời Phật dạy về thế giới mấy trăm vạn năm sau này; như trong kinh Di Lặc Hạ Sinh, đức Phật từng bảo tôn giả Xá Lợi Phất: “Đến lúc nước biển giảm dần đến ba ngàn ba trăm do tuần(1), đại lộ Luân vương hiển hiện, lục địa châu Thiệm-bộ rộng thêm đến vạn do tuần. Lúc đó Luân vương xuất hiện, chúng sinh no đủ, quốc độ giàu mạnh; không có các tai nạn; nam nữ đều do nghiệp lành mà sinh ra; mặt đất không có gai gốc, chỉ thuần cỏ mịn; gạo thơm tự có, các món mĩ vị đầy đủ; cây cối sinh ra y phục với nhiều loại vải lụa màu sắc trang nhã; thọ mạng con người đến tám vạn tuổi; không có tật bệnh, đau khổ, buồn phiền, luôn luôn an vui; đủ tướng đoan nghiêm, hình sắc và khí lực đều viên mãn.” Y cứ vào lời dạy này, thì sự xuất hiện của vị Chuyển luân thánh vương, thật là việc hoàn toàn không thể nghĩ bàn trong thế giới vị lai. Lời đó chính là thánh ngôn, không thể không tin được.

2- Theo những lời dạy trong kinh điển về Chuyển luân thánh vương, chúng ta thấy, Luân vương đời trước tuy có tu phước nghiệp, nhưng đã không hồi hướng về Tịnh-độ; đó là chưa đoạn trừ sắc dục, tu phước thì nhiều mà tu tuệ thì ít. Chức vị là như vậy, cho nên, tuy ông có bốn thứ phước báu đứng đầu thiên hạ, nhưng khi đã sống hết tám vạn bốn ngàn tuổi, vẫn không thể không trở về chỗ huyễn diệt. Phật dạy: “Tất cả pháp hữu vi đều như mộng, như huyễn, như bọt nước, như bóng ảnh.” Cho nên quí vị hành giả cần phải tu nhiều về tuệ nghiệp, nỗ lực cầu đạo xuất thế. Nếu làm lành tu phước, cũng nên hồi hướng công đức, cầu sinh về Tịnh-độ, vĩnh viễn thoát li ba cõi, đạt được cảnh giới an vui rốt ráo; không nên ham cái phước đức hữu lậu của thế gian, vì khi phước đức đó hết, chúng ta lại vẫn bị đọa lạc vào các đường dữ.

3- Khổ là cái mà mọi người đều không ưa thích. Nói đến “khổ”, không ai là không sợ hãi. Đó là nhân tình, không lấy gì làm lạ. Nhưng, những nỗi khổ đều có nguyên nhân của chúng. Tất cả những ý nghĩ và hành vi xấu ác, như tham lam, giận dữ, ngu si, kiêu ngạo, keo kiệt, nhiều dục vọng, v.v… đều là nguyên nhân của đau khổ. Nếu lúc nào cũng biết kiểm điểm từng tư tưởng và hành vi, nỗ lực diệt trừ nguyên nhân, thì kết quả sẽ không có căn cứ để sinh khởi; đó chính là việc làm của hàng Bồ-tát, và là ý nghĩa của câu nói “Bồ-tát sợ nhân”. Thường ngày buông lung sáu căn, không kềm chế, nói năng và hành động nhiều điều trái luật mà không hề quan tâm, đến khi quả báo đau khổ ập xuống, mới nghĩ đến chuyện chạy trốn; đó chính là cái thói quen của chúng sinh, là ý nghĩa của câu nói “Chúng sinh sợ quả”. Người đời không biết nghĩa lí này, chỉ theo nghiệp mà lưu chuyển, điều đó đã đành; nhưng người tu học Phật, đã hiểu rõ giáo pháp, biết nhân thấy quả, thì không nên gieo trồng cái nhân đau khổ để sẽ phải chuốc lấy quả báo đau khổ ở mai sau. Mặt khác, đối với nghịch cảnh thì nên nhẫn chịu, khởi tâm sám hối, nỗ lực làm lành để mong chuyển nghiệp. Đó thật là chánh hạnh của người Phật tử.

4- Khổ hoàn toàn không phải là điều xấu xa. Thế gian nếu không có khổ thì không ai tu học Phật pháp để thoát li ba cõi. Châu Bắc Câu-lô bị coi là một trong tám nạn(2), là một ví dụ. Từ đó có thể thấy, những cảnh huống như tan nhà, người mất, tật bệnh, ngửa nghiêng, nghèo cùng, cô độc, tai trời, họa người v.v…, đối với người biết cảnh giác, đó toàn là những dữ kiện tốt lành, hoàn toàn không phải là những hiện tượng xấu ác. Phật pháp được xây dựng trên sự khổ. Chư Phật trong ba đời đều lấy sự khổ làm thầy, mà được thành chánh giác. Thuở ban đầu, thái tử Tất Đạt Đa đã theo học với ngoại đạo, tu khổ hạnh, hình vóc gầy khô; rồi xuống sông Ni-liên tắm rửa, ngồi cội bồ đề, đã đến chỗ gần như tuyệt vọng, cơ hồ mọi sự đều tắt ngúm, nhưng sau đó thì tỏ ngộ đạo lí nhiệm mầu! Vương Thủ Nhân(3) không xu phụ kẻ quyền quí, bị giáng chức làm viên dịch thừa(4) ở trạm thơ Long- trường, trôi nổi khốn đốn, bèn nghĩ thầm rằng: “Nếu các bậc thánh hiền mà ở vào hoàn cảnh này, ắt phải có con đường nào chăng?” Do đó mà tâm trí chợt ngộ, phát minh ra đạo lí “trí lương tri”(5). Đó đều là những ví dụ rất hay để thấy rõ “sự khổ đau có thể giúp ích nhiều cho con đường đạo”. Từ đó có thể thấy, đời sống sung sướng thoải mái chỉ là nguồn họa. Cư sĩ Bàng Uẩn(6) đã đem tất cả tài sản quí báu ném hết xuống sông, cả nhà về sống đời nông dân; thật là thấy xa vậy.

5- Ở tất cả mọi hoàn cảnh, dù thuận, dù nghịch, nếu biết hành xử một cách khéo léo, đều có lợi ích; không biết cách hành xử, đều bị tổn hại. Ví dụ, ở trong cảnh giàu sang, đầy quyền thế, nếu hành xử khéo léo thì sẽ giúp ích cho cả ức vạn người; như trường hợp các vua Nghiêu, vua Thuấn(7) chẳng hạn. Nếu ngược lại, cả bốn biển sẽ bị tai họa; như trường hợp các vua Kiệt, vua Trụ(8) chẳng hạn. Ở trong cảnh nghèo cùng khốn khổ, nếu biết cách hành xử sáng suốt, sẽ thấy rõ sự đau khổ; sẽ khởi ý chí diệt trừ nguyên nhân sinh đau khổ; sẽ phát tâm tu tập chánh đạo; và sẽ đạt được thành quả giác ngộ giải thoát. Đó chính là cái tác dụng của việc “chuyển phàm thành thánh”. Nếu ngược lại, thì nhân khổ mà khởi hoặc, nhân hoặc rồi tạo nghiệp, lưu lạc làm kẻ gian tham trộm cắp, đọa lạc vào ba đường ác, khó có thể cứu vớt. Người Phật tử khi đối diện với khổ đau, nên biết đó là quả báo của nghiệp nhân đời trước, một mặt nhẫn nhục, cắn răng chịu đựng, một mặt nỗ lực tu trì Phật pháp, mong đến lúc xa lìa khỏi thế gian uế trược này; một khi đã giải thoát thì vĩnh viễn giải thoát, đó mới là người có chánh tri kiến, và sự khổ đau như thế lại trở thành là người ơn của mình.

6- Trong mười tám khu vực, sáu căn là sáu loại công cụ, sáu trần là sáu thứ ngoại cảnh. Công cụ là bị động, ngoại cảnh thì vô tri. Còn sáu thức thì thế nào? Năm thức trước đối với ngoại cảnh chỉ là hiện lượng, không có khả năng phân biệt; mà tất cả cái đại quyền để thương, ghét v.v…, cùng thi thố như thế nào, toàn là cậy nơi ý thức. Cho nên, đầu não của cả mười tám khu vực, chính là ý thức. Lúc hành giả tu tập, như ngồi thiền, niệm Phật, tụng kinh, trì giới, cho đến ứng phó với mọi hoàn cảnh, chỉ cần khống chế được ý thức, thì mọi việc liền được an định. Bài tụng về Ý thức trong Bát Thức Qui Củ Tụng, nói rằng: “Mỗi cử động của thân thể, mỗi lời nói được phát ra, đều do một mình Ý thức chủ động; cả dẫn nghiệp và mãn nghiệp(9) cũng đều do nó chiêu cảm mà kéo đi.” Như thế thì cái khả năng lớn lao, cũng như sự trọng yếu về mọi mặt của thức này, chúng ta có thể suy tưởng mà biết rõ được.

7- Nỗi khổ về sự SINH trong bốn nỗi khổ sinh, già, bệnh, chết, là chỉ cho nỗi đau khổ lúc sinh ra từ thai mẹ; nhưng, chữ “sinh” này, cũng có thể hiểu là sự sống còn, tức là bao quát tất cả mọi sinh hoạt hằng ngày. Con người sinh ra là đã có bao mối lo rầu đeo theo cùng lúc; rồi các vấn đề cơm áo, và những sự chung đụng trải qua trong đời sống, đều đầy dẫy những chua cay, đau khổ; cho nên nói là “sinh khổ”. Như thế thì bốn thứ khổ sinh, già, bệnh, chết, chúng bao trùm suốt cả thời gian từ lúc ra khỏi thai mẹ cho đến lúc vào quan tài, không lúc nào gián đoạn. Nếu không như thế, thì từ lúc sơ sinh cho đến khi già bệnh, vài chục năm ở khoảng giữa đó, không có gì gọi là khổ ư?

8- Phân tích giáo nghĩa, không nên quá câu nệ, cứng ngắc, mà phải thấm nhuần nhiều mặt để thông suốt toàn diện, nghe một hiểu mười, như thế thì tìm vào chỗ nào cũng không bị trở ngại, mà ý nghĩa sâu xa sẽ hiển lộ dễ dàng. Ví như “ái biệt li khổ”, phạm vi của nó rất rộng. Những cảnh đẹp bị bỏ hoang tàn, tài sản bị mất mát, v.v… đều thuộc phạm vi của “ái biệt li khổ”; chứ không phải chỉ có sự biệt li giữa thân bằng quyến thuộc mà thôi. “Oán tắng hội khổ”, phạm vi cũng rộng. Chiến tranh tràn tới, gặp lúc thiên tai, rắn cắn, xe đụng, v.v… đều thuộc phạm vi “oán tắng hội khổ”; chứ không phải chỉ có những kẻ thù địch phải đối mặt nhau mà thôi.

 

CHÚ THÍCH (của người dịch)

– Do tuần: là tiếng dịch âm từ Phạn ngữ “yojana”, dịch ý là hạn lượng, hòa hợp, một lộ trình; là đơn vị đo chiều dài lộ trình của người Ấn-độ. Lại nữa, do từ ngữ căn “yuj”, chữ yojana (do tuần) cũng có nghĩa là “mang ách”, tức chỉ cho chiều dài của đoạn đường mà con bò mang cái ách đi trong một ngày. Sách Đại Đường Tây Vực Kí (do Phật Quang Đại Từ Điển trích dẫn) thì nói rằng, “do tuần” là chỉ cho lộ trình một ngày hành quân của vua chúa. Về cách tính toán, có nhiều thuyết không giống nhau, theo đó, một do tuần có thể là 12 dặm, 16 dặm, 17 dặm, 30 dặm, 32 dặm, 42 dặm, 46 dặm; hoặc 7.3 km, 8.5 km, 14.6 km, 17 km, 19.5 km, 22.8 km, v.v…

– Tám nạn (bát nạn): Chữ “nạn” ở đây có nghĩa là chướng ngại, ngăn trở chúng sinh không đến được với Phật pháp, do đó mà không có cách nào tu tập để cầu thoát li ba cõi. Không thể gặp được Phật pháp là điều bất hạnh to lớn của chúng sinh, cho nên được coi là tai nạn, chướng nạn, hay gọi tắt là “nạn”. Trong kinh điển thường ghi có tám nơi chướng nạn như vậy: 1) Cõi Địa-ngục (Địa-ngục nạn): Đó là nơi hết sức tối tăm, những chúng sinh ác nghiệp nặng nề mới phải đọa vào đó, phải chịu khổ đau triền miên, cho nên không thể thấy Phật nghe pháp được. 2) Cõi Ngạ-quỉ (Ngạ-quỉ nạn): Ở đây chỉ cho cảnh giới của loài ngạ quỉ ác nghiệp nặng nề nhất, suốt kiếp đói khát khổ sở, cả đến tiếng “nước uống” cũng không được nghe, huống hồ là được thấy Phật nghe pháp! 3) Cõi Súc-sinh (Súc-sinh nạn): Những loài cầm thú, côn trùng, nói chung là động vật, tâm ý mê muội, chỉ biết sống theo thú tính tự nhiên, chịu muôn điều khổ sở do con người hành hạ, giết hại, hoặc do chúng nó tự xâu xé, ăn thịt nhau, đâu có điều kiện thấy Phật nghe pháp! 4) Giới người đui điếc câm ngọng (manh lung ám á nạn): Những loại người này vì nghiệp chướng nặng nề mà phải mang những chứng tật suốt đời đau khổ, khó tiếp nhận Phật pháp. 5) Giới người thông minh thế tục (thế trí biện thông nạn): Những người thông minh tài giỏi ở thế gian, dù có trí tuệ hơn người, nhưng chỉ biết phục vụ cho những tham vọng và quyền vị cá nhân, hoặc cho những chủ nghĩa tội ác, những âm mưu tranh đoạt, giết chóc, gây đau khổ, tang tóc cho người đời, hoặc tin tưởng mù quáng theo những tà thuyết mê tín, dị đoan, thì không bao giờ thấy được chánh đạo. 6) Những thế hệ người sinh ra trước và sau thời Phật ra đời (Phật tiền Phật hậu nạn): Do vì không duyên lành, cho nên những hạng người này sinh ra vào những thời kì không có Phật xuất thế, cho đến cả giáo pháp của Phật cũng không còn tồn tại ở thế gian, cho nên không có cách gì thấy Phật nghe pháp. 7) Châu Bắc Câu-lô (Bắc Câu-lô châu nạn): Người ở châu này sống lâu ngàn tuổi, không chết yểu, suốt đời sung sướng, đắm mê hưởng thụ dục lạc, không có ý niệm tu hành, cho nên không có duyên lành thấy Phật nghe pháp. 8) Cõi trời Vô-tưởng (Vô-tưởng thiên nạn): Cõi trời này thuộc trong phạm vi cõi trời Tứ-thiền của Sắc giới. Người ở cõi trời này sống lâu năm trăm đại kiếp, hoàn toàn không có bất cứ niệm tưởng nào nảy sinh, như người đông lạnh, cho nên không thể thấy Phật nghe pháp. Thật ra, tám nạn ấy chẳng phải ở đâu xa, mà lúc nào cũng có đầy đủ trong thế giới loài người; và cũng chẳng phải chỉ có ở thời đại chúng ta, mà cả ở thời đại Phật tại thế vẫn có đầy đủ. Những người được thấy Phật, hoặc được biết có Phật, nhưng không tin Phật, tính tình kiêu ngạo, phỉ báng Tam Bảo, thì làm sao được gặp Phật, được nghe Phật Pháp! Chúng ta cứ chiêm nghiệm thì tất thấy rõ.

– Vương Thủ Nhân (1472-1528): tên tự là Bá An, người đất Dư-diêu, tỉnh Triết-giang (Trung-quốc), sống vào đời nhà Minh. Vì ông cất nhà ở động Dương-minh (cách Hàng-châu 20 dặm), nên các học giả đều gọi ông là Vương Dương Minh. Năm 28 tuổi (1499) ông đỗ tiến sĩ, văn võ toàn tài, giỏi cả về chính trị và kinh tế, gây thành công nghiệp lớn lao. Về hoạn lộ, ông thuộc loại quan cao chức trọng trong triều đình, nhưng lại thường bị các gian thần ganh ghét, gièm pha, đến nỗi có lúc phải bị đày về miền rừng thiêng nước độc. Về võ công, ông từng nhiều phen lãnh chức thống soái, cầm quân dẹp giặc khắp nơi, trận nào cũng chiến thắng vẻ vang, đem lại đời sống thanh bình cho dân chúng. Về văn học và tư tưởng, từ thuở nhỏ ông đã có cái chí học để làm bậc thánh nhân, cứ ra vào các cửa Nho, Lão, Phật; nhưng đến ngoài 30 tuổi mà vẫn chưa có định kiến gì cả. Năm 35 tuổi, vì vua Võ-tông (1506-1521) nhà Minh tin dùng viên gian thần là hoạn quan Lưu Cẩn, làm nhiều điều mê muội trong việc triều chính, ông can gián, nên bị gian thần gièm siểm, bị giáng chức và đày đi làm dịch thừa (trưởng trạm bưu điện), coi trạm Long-trường, là nơi rừng núi độc địa, dân cư mọi rợ không nói được tiếng Hán. Dù vậy, ông vẫn vui với cảnh ngộ, lúc nào cũng để tâm về những thao thức của mình. Ông ở đây đến hai năm. Trong thời gian đó, ngày đêm ông cứ nghĩ rằng: “Nếu các bậc thánh hiền mà ở vào hoàn cảnh này, ắt phải có con đường nào chăng?” Bỗng một đêm kia ông chợt tỉnh ngộ, thấy rõ cái đạo thánh nhân vốn tự có đầy đủ trong tâm con người. Từ đó cho đến cuối đời, ông chuyên phát huy cái học thuyết gọi là “Tâm Học” (làm cho cái tâm sáng rõ thì thấy được mọi biến đổi của vạn vật – tâm là gốc của vạn vật). Học thuyết này vốn đã được manh nha từ Mạnh Tử (khoảng 372-289 tr. TL), nay được ông làm cho sáng rõ. Ông nhấn mạnh vào hai điểm nổi bật: “Tri hành hợp nhất” (hiểu biết và thực hành là một – tri là khởi thỉ của hành, hành là thành tựu của tri; tri và hành là một, không thể tách rời); và “Trí lương tri” (phải đạt đến “lương tri”, là cái biết bản nhiên, sáng rỡ, linh diệu, ở trong tâm con người). Ông mất khi mới có 57 tuổi; và 39 năm sau mới được vua Mục-tông (1567-1572) ban cho tên thụy là Văn Thành, phong tước Tân-kiến hầu; rồi 16 năm sau nữa, vua Thần-tông (1573-1620) mới cho thờ ông trong Văn-miếu. Môn đệ của ông đã tập hợp tất cả luận thuyết của ông làm thành tác phẩm Vương Văn Thành Toàn Thư, gồm 38 quyển.

– Dịch thừa: Chữ “dịch” nghĩa là ngựa hay xe dùng để chuyển văn thư của chính quyền (Trung-quốc thời xưa) giữa các phủ, huyện và kinh đô. Đi đường xa phải có trạm nghỉ chân, cho nên chữ “dịch” cũng có nghĩa là trạm nghỉ chân của những người đưa thư; và dần dần biến thành những trạm nhận và chuyển các công văn, thư tín của nhà nước (tương tự các chi nhánh bưu điện ngày nay). Nhà Minh đặt dịch trạm ở mỗi châu, phủ, huyện, cử một viên quan điều hành, gọi là “dịch thừa”.

– Trí lương tri: “Lương tri” là cái linh giác của thiên lí, là cái biết bản nhiên, rất sáng suốt, rất linh diệu, lưu hành khắp vũ trụ mà không bao giờ biến đổi. Nó sinh ra trời đất muôn vật. Nó ở trong tâm con người, luôn luôn chiếu sáng. Sở dĩ có lúc nó bị che tối là vì con người khởi lên vọng niệm, tư dục, vị ngã. Sự học là cốt đẩy được cái bóng tối vọng niệm ấy, để làm cho ánh sáng của lương tri chiếu rõ trở lại; như thế gọi là “trí lương tri”. – Chữ “trí” nghĩa là tới, đến được, đạt được. Thánh nhân hơn người là vì giữ được hoàn toàn cái lương tri trong mọi hành động. Vì vậy, bất cứ người nào cũng có thể trở thành thánh hiền, miễn là biết “trí” cái “lương tri” trong chính tâm mình.

– Bàng Uẩn (?-808): là một vị cư sĩ nổi tiếng vào đời Đường (Trung-quốc). Ông người đất Hànhdương, tỉnh Hồ-nam, thuộc dòng dõi Nho gia. Năm 785 ông tham yết thiền sư Thạch Đầu Hi Thiên (700790), được khai ngộ. Ông lại hâm mộ cái phong thái của thiền sư Đan Hà Thiên Nhiên (739-824), cho nên kết làm bạn trọn đời. Ngoài ra, ông cũng thường tới lui đàm đạo với chư vị thiền sư thạc đức đương thời như Dược Sơn Duy Nghiễm (751-834), Đại Mai Pháp Thường (752-839), Ngưỡng Sơn Tuệ Tịch (807-883), v.v… Một ngày nọ, hòa thượng Thạch Đầu hỏi ông: “Từ ngày ông gặp lão tăng đến nay, hàng ngày làm việc gì?” Ông trả lời: “Nếu hỏi công việc hàng ngày thì không có chỗ mở miệng.” Rồi ông trình bài kệ, có hai câu chót rằng: “Thần thông diệu dụng, gánh nước lượm củi.” Hòa thượng chuẩn nhận bài kệ; lại hỏi: “Ông muốn xuất gia, hay vẫn ở tại gia?” Ông thưa: “Xin theo cái con thích.” Rồi không xuất gia, cứ giữ thân phận tại gia suốt đời. Sau đó ông đến Giang-tây tham lễ thiền sư Mã Tổ Đạo Nhất ((709-788), hỏi rằng: “Người không làm bạn với vạn pháp là người gì?” Thiền sư đáp: “Đợi khi nào ông hớp một miệng hết nước sông Tây-giang, ta sẽ nói.” Từ câu nói đó, ông nắm được ý chỉ, đốn ngộ huyền cơ; bèn xin ở lại hai năm để tu học. Khoảng niên hiệu Nguyên-hòa (806-820), ông du hành về phương Bắc, thấy phong thổ vùng Tương-dương thích hợp, bèn đem hết của cải chất lên thuyền, nhận chìm hết xuống sông; rồi cùng vợ con cày ruộng ở chân núi Lộc-môn, sống cuộc đời đạm bạc. Người đời nghe tiếng, tìm đến ông hỏi đạo ngày một đông. Được nghe những đối đáp giữa ông với mọi người, vợ con ông cùng được ngộ đạo. Sau khi ông tịch, mọi người đều xưng ông là vị đại cư sĩ đất Tương-dương, hay thiền giả tại gia, hoặc Duy Ma ở Đông-độ. Người bạn của ông làm tiết độ sứ Vu-điền, đem những lời nói của ông, chép thành quyển Bàng Cư Sĩ Ngữ Lục, rất được chốn thiền môn coi trọng; các sách thiền học như Tổ Đường Tập, Tông Cảnh Lục, Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, v… đều có dẫn chứng. Sách Tổ Đường Tập ghi rằng: Trong lúc sắp tịch, Bàng Uẩn bảo con gái là Linh Chiếu, ra ngoài sân xem trời sớm tối. Cô ra xem rồi vào thưa rằng: “Trời đang giữa trưa, nhưng đang có nhật thực.” Ông liền bước ra khỏi phòng để xem. Và ngay lập tức, Linh Chiếu ngồi vào chỗ ngồi của ông, chắp tay mà hóa. Ông trở vào thấy thế, cười nói: “Con bé thật quá quắt!” Rồi ông quyết định dời lại bảy ngày sau mới tịch.

– Nghiêu (khoảng 2333-2233 tr. TL), Thuấn (khoảng 2233- 2183 tr. TL): tên hai vị thánh quân điển hình của thời thượng cổ Trung-quốc. Nghiêu tức Đế Nghiêu hay Đường Nghiêu, là con của Đế Khốc (khoảng 2435-2365 tr. TL, vua thứ tư của thời đại “Ngũ-đế”), họ Hi-kì, tên Phóng Huân. Ban đầu ông được phong ở đất Đào, sau lại được phong ở đất Đường, nên có hiệu là Đào Đường Thị. Vua thứ năm của thời đại “Ngũ-đế” là Đế Chí (khoảng 2365-2357 tr. TL), tính tình nhu nhược, chư hầu bèn tôn ông lên ngôi vua, đặt quốc hiệu là Đường. Ông siêng năng chăm lo việc triều chính, lấy nhân đức trị dân, khắp nước được hưởng cảnh thái bình an lạc. Sau ông truyền ngôi cho ông Thuấn, lập ra triều đại Ngu Thuấn. Vua Thuấn cũng là người tài đức (xin xem lại chú thích số 10, bài “Tổng Hợp Yếu Chỉ Các Bài 1, 2 và 3”, sách GKPH I), cho nên người Trung-hoa đã tôn hai vua Đường Nghiêu và Ngu Thuấn là hai bậc thánh quân.

– Kiệt, Trụ: là hai ông vua hôn ám và tàn bạo điển hình của thời cổ đại Trung-quốc. Kiệt (khoảng 1802-1751 tr. TL) là vua cuối cùng đời nhà Hạ (khoảng 2183-1751 tr. TL). Lúc còn thế mạnh, Kiệt đem quân đánh họ Hữu Thi. Họ này thua, bèn đem nàng Muội Hỉ dâng cho Kiệt để cầu hòa. Muội Hỉ là một giai nhân tuyệt sắc, nên từ khi được nàng này, vua Kiệt mê say đắm đuối, ngày đêm mải miết trong cung, hoan lạc trác táng, quên cả việc triều chính, khiến cho dân tình loạn lạc, muôn bề thống khổ. Sau bị vua Thành Thang (khoảng 1751-1733 tr. TL) diệt và lập ra triều đại nhà Thương. Trụ (khoảng 1175-1111 tr. TL) là vua cuối cùng của nhà Thương, vốn tính tàn bạo, ưa dùng cực hình, khiến nhân dân đồ thán; lại mê say nàng Đắc Kỉ, hoang dâm vô độ, giết hại hiền thần, bỏ bê triều chính; bị vua Võ Vương (11221104 tr. TL) của nhà Chu diệt.

– Dẫn nghiệp và mãn nghiệp: Đó là hai loại công năng của nghiệp, hỗ trợ cho nhau, dắt dẫn hữu tình đi thọ sinh (thọ quả báo) vào một trong sáu nẻo (lục thú). Dẫn nghiệp là công năng của nghiệp đưa đẩy hữu tình đi thọ sinh ở một loài chúng sinh nào đó (súc sinh, ngạ quỉ, loài người, v.v…). Khi một chúng sinh sinh vào loài người chẳng hạn, chúng sinh ấy phải mang lấy thân thể, hình dáng, các giác quan, tâm ý, cách thức sinh hoạt, đi đứng nằm ngồi, ăn uống, ngủ nghỉ, v.v… giống như bao nhiêu người khác; vì vậy, “dẫn nghiệp” cũng được gọi là “tổng báo nghiệp”. Mãn nghiệp là công năng làm cho chính nghiệp ấy trở nên đầy đặn, chín muồi trong hướng đi tới của nó. Đã đành là khi sinh vào loài người thì chúng sinh ấy phải mang lấy thân thể, hình dáng, tâm ý, v.v… của chung loài người, nhưng trong cái thế giới loài người đó, có người phái nam, có người phái nữ, có người xinh đẹp, có người xấu xí, có người thông minh, có người ngu dốt, có người hiền lành, có người độc ác, có người dễ thương, có người dễ ghét, v.v…, nghĩa là chẳng ai giống ai, đó là cái kết quả của “mãn nghiệp”; và vì vậy, nó cũng còn được gọi là “biệt báo nghiệp”.