LUẬN ĐẠI THỪA CHƯỞNG TRÂN
Tác giả: Bồ-tát Thanh Biện
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
QUYỂN THƯỢNG
(Thanh Biện tôi) vì lợi ích khắp tất cả hữu tình mà thật sự phát đại nguyện Bồ-đề vô thượng. Cùng xét thấy thế gian, thường là những hạng tầm tứ bất chánh, tâm nhiễu loạn tương tục, như gió thổi mịt mù, bị lưới tà kiến vây mắc, bị lồng sinh tử bủa chụp, bị tên độc của vô lượng sầu khổ bắn trúng, các tạo tác hiện có đều xa lìa trí tuệ sáng suốt. Vì thế tôi nương dừng ở nơi chốn như bầu hư không trong sạch để dứt trừ mọi hý luận, được tịch tĩnh, an lạc, lý thắng nghĩa đế. Nhưng bi nguyện cứ canh cánh trong lòng, không nỡ thấy họ bị mọi khổ đau hội tụ, và nhằm muốn giải thoát các thứ phiền não liên tục của mình và người nên cố giữ vững buộc nên trú nơi không thoái, mất và tiến xa hơn bằng bánh xe kim cang kiên cố, tăng trưởng ý vui thích, thệ nguyện vô biên, chẳng thấy hãi sợ trong biển lớn sinh tử – nơi nhận chịu tai họa của vô lượng các khổ mà phát khởi tinh tấn bất hoại dụ như Kim Cang. Để thật sự khai tỏ, hiểu rõ sự quán xét như vậy, là cần phải chứng được trí không phân biệt của thế gian thì, mới có thể nhận biết đúng những gì trước kia chưa hiểu. Như là: Tụ căn, thắng giải, cảnh giới hành của tất cả hữu tình đều sai biệt cho đến có thể phá tan tất cả như : lưới phiền não – gốc rễ mọi khổ, tập quán chấp có, chấp không mà mình và người xưa nay thường dấy khởi. Lại cũng có thể vì người khác mà phát khởi thệ nguyện chân chánh, kiên cố thọ trì giới hạnh Đại sĩ. Nhưng muốn chứng trí không phân biệt của đạo xuất thế thì cần phải tích lũy tu tập khả năng phá trừ tất cả màn che trong mắt tà kiến bằng vị thuốc An thiện na, quán “không” không điên đảo. Tích lũy, tu tập bằng vị thuốc An thiện na, quán “không” không điên đảo như thế, cần phải dựa vào Văn tuệ mới có thể trừ bỏ tự tánh của tất cả sở duyên. Do đó, hoặc có người nương vào văn nghĩa rộng lớn, làm môn Quyết trạch chính thức. Đã thể nhập pháp tánh, lại còn siêng tu thắng tấn gia hạnh, thì đối với văn nghĩa rộng lớn sự quyết trạch sẽhiện tiền. Như thế thật là khó nhọc nên tâm sinh mệt mỏi, biếng nhác. Hoặc có người tuy chưa thể nhập pháp tánh mà do là lợi căn; vì muốn khiến cho họ dễ chứng Chân không, mau chóng thể nhập pháp tánh, nên Tôi lược bày Luận Chưởng Trân nầy.
Chân tánh hữu vi không
Vì duyên sinh như huyễn
Vô vi không thật có
Không khởi như không hoa.
Đối với tự, tha tông có sự xét lường đều sai biệt. Tuy có rất nhiều biến kế sở chấp, nhưng cảnh của đối tượng nhận biết tóm lược có hai loại: một là hữu vi, hai là vô vi. Vì mọi phàm phu không biết rõ một cách chân chánh về lý Thắng nghĩa đế, hữu vi, vô vi, tánh không điên đảo mà vọng chấp tự tánh của các pháp sai biệt, càng làm tăng thêm đủ loại mạng lưới tà kiến. Như ở đời có một họa sĩ vô trí vẽ hình quỷ Dạ xoa rất đáng sợ, hoặc vẽ hình người nữ, mắt nhìn loạn ý cho là thật có. Vì chấp là thật có nên tự sinh khởi sợ hãi, hoặc sinh khởi tham nhiễm. Đối với cảnh giới ấy có rất nhiều sự suy lường, làm tăng trưởng mạng lưới các kiến phân biệt. Nếu biết rõ một cách chân chánh về lý Thắng nghĩa đế, hữu vi, vô vi, tánh không điên đảo lúc ấy như có một họa sĩ trí tuệ ở đời, không chấp vào các hình ảnh kia có tự tánh chân thật. Chẳng phải như trước nói tức: cảnh giới hữu vi, vô vi có sai biệt, lưới tà kiến tự quấn lấy mình như tơ quấn quanh chỗ tằm. Vì cảnh giới ấy chẳng thật có nên trí tuệ không phân biệt thể nhập hạnh thành tựu.
Vì để hiển bày về nghĩa nầy nên trước biện luận về hữu vi. Vì các thế gian phần nhiều đối với cảnh giới nầy thường khởi phân biệt nên nói lời nầy. Chân tánh hữu vi là không, vì duyên sinh như huyễn. Trong đó, thế gian đều cho là có, nghĩa là vì tự mình cũng cho thế tục là có, nên hiện lượng thế tục sinh khởi nhân duyên cũng cho là có. Mắt v.v… thuộc thế tục đế hữu vi, kẻ chăn trâu… cũng đều biết rõ. Vì pháp hữu vi: mắt… là thật có nên chớ làm trái với quan niệm của tự tông như vậy. Vì hiện lượng cũng biết rõ nên lấy chân tánh để giản lược thành một tông biệt lập. Vì tự thể của chân nghĩa nên nói là chân tánh, tức Thắng nghĩa đế. dựa Thắng nghĩa đế lập hữu vi không, chẳng phải dựa các duyên thế tục hợp thành. Vì có sự tạo tác nên gọi là hữu vi tức mười hai xứ, chỉ trừ một phần pháp xứ hư không, trạch, phi trạch diệt và tánh chân như. Ở đây lại loại trừ tha tông cho là hư vọng để hiển hiện hữu vi là huyễn. Nếu lập hữu vi là không thì lập xong trở thành lỗi. Nếu chổ khác biến kế sở chấp về hữu vi dựa trên tự tánh thật có của Thắng nghĩa đế thì nay lập đó là không. Ví như nhãn xứ một loại hữu vi, căn cứ ở Thắng nghĩa đế biện minh về thể của nó là không. Sự sai biệt của các môn Không và vô tánh, hư vọng hiển hiện, đó gọi là lập tông. Các: nam, nữ, dê, nai, do mọi duyên dấy khởi là các sự huyễn … tự tánh thật ra không có mà hiển hiện, tợ như có. Pháp sở lập (đối tượng lập) và năng lập (chủ thể lập) đều là dung thông với cái có, vì đồng với pháp dụ nên nói là như huyễn. Tùy theo chỗ thích ứng mà tạm nói pháp năng lập, sở lập là đồng. Vì tạm nói đồng nên tất cả pháp trong đồng ví dụ, đều khó khiến cho thật có. Như nói khuôn mặt người nữ đoan trang như mặt trăng không thể khiến cho tất cả pháp mặt trăng đều có trên khuôn mặt. Tùy theo pháp kết tụng mà nói đây đồng với ví dụ. Do nửa bài tụng ấy lần lượt như vậy, vì sơ lược về bản xứ nên không có quên mất. Pháp “có” được thiết lập đều từ duyên sinh, vì lập pháp nầy nhân đó nói duyên sinh. Đối tượng được sinh do nhân và duyên cùng hiện có nên nói là duyên sinh, tức là nghĩa đối tượng được khởi của duyên, đối tượng được hiện bày của duyên. Vì nhằm ngăn chận phẩm dị lập dụ của pháp dị, phẩm dị không có nên nghĩa ngăn chận đã thành. Vì thế không nói nơi phần giải thích, biện minh.
Giả nói phẩm Dị kiến lập tỷ lượng cũng không có lỗi.
Thế nào là trong đây kiến lập tỷ lượng? Nghĩa là dựa vào chân tánh thì tánh của nhãn xứ là không, vì do các duyên sinh. Các duyên sinh nghĩa là đều căn cứ ở chân tánh, thì tự tánh của nó là không. Như người chăn trâu, người nữ… còn cùng biết rõ nếu như có chú thuật, oai thần, sức thuốc gia bị vào, các vật, cây cỏ, gạch đá v.v… các duyên hiển hiện các tướng: nam nữ, voi ngựa, cung điện, vườn rừng, nước lửa… vô số huyễn sự của kẻ cuồng ngu. Nếu tự tánh ấy ít có thật thì nên chẳng phải điên đảo.
Cho nên, Đức Thế Tôn nói: Tất cả pháp tánh chẳng phải là chỗ thấy của mắt. Các pháp duyên sinh đều không có tự tánh. Các người có trí tuệ nếu biết duyên sinh tức biết pháp tánh, nếu biết pháp tánh tức biết tánh “không”, nếu biết tánh không tức là người thấy trí. Lại nói như vầy: Các duyên sinh đều là không sinh, do vậy nên tự tánh đều không sinh. Nếu nói duyên sinh tức là nói tánh “không”, người biết được tánh “không” tức không phóng dật. Ở trong đó tất cả luận giả “Bất không” đều nêu bày vấn nạn: Nếu lập tất cả hữu vi đều “Không”, liền trở thành như duyên nơi sừng thỏ, vô sắc… Trí hiện lượng sinh, lý không thành tựu; với sắc tương tợ v.v… duyên các hiện lượng thì giác cũng nên không sinh. Nhưng sự thật có ấy, mỗi một đều có nội chứng riêng, cho nên tông của ông chống trái với pháp tánh, liền có lỗi trái với hiện lượng và có lỗi lầm trái hại với cùng biết; tức bác bỏ không có tất cả kẻ chăn trâu cùng đồng biết rõ và thể của mắt…. Cho nên, nay các người có trí tuệ phải trừ bỏ bè nhóm, cố chấp, độc hại, đứng ở giữa, trí tuệ phải cùng nghĩ suy: Tông của tôi lập ra là sẽ trái hại với hiện lượng vốn sinh ra trong sự tương tục của tự tông hay là sẽ trái hại hiện lượng vốn sinh ra trong sự tương tục của tha tông. Nếu nói trái hại hiện lượng vốn sinh ra trong sự tương tục của tự tông, là nói cái biết (giác) về hiện lượng dựa trên Thắng nghĩa đế thì tự tánh của nó đều không, vì các duyên sinh; như trong giấc mộng cái biết về hiện lượng chẳng phải là hiện lượng thật. Thế thì tông của tôi không trái hại với hiện lượng vốn sinh ra trong sự tương tục của tự tông. Nếu nói trái hại với hiện lượng vốn sinh ra trong sự tương tục của tha tông, chẳng phải mắt sáng là hiển bày rất nhiều việc kia, vật thấy của người mắt mờ là không thật, búi tóc mặt trăng đều là hư vọng hiện ra thì trái hại với hiện lượng ấy, cũng phải nên là đạo lý đúng. Cho nên, tông của tôi cũng không trái hại với hiện lượng vốn sinh ra trong sự tương tục của tha tông. Nếu theo tổng tướng mà nói như hiện lượng của tất cả thế tục ngu phu đã sinh khởi thì nay đây không ngăn cản thế tục cho là có nên không hề có sự trái hại. Nói có lỗi trái hại với cùng biết, điều đó cũng không đúng. Nếu nói trái hại với tự luận cùng biết thì không hợp lý, vì tự luận chấp nhận. Giả thiết trái với tự luận là trái với tự tông thì chẳng phải lỗi trái hại cũng biết. Nếu nói trái hại với tha luận cùng biết cũng không hợp lý. Tất cả việc hưng tạo luận đều vì sự phá bỏ sự cùng biết của thuyết khác. Nếu nói trái hại với kẻ chăn trâu… cùng biết cũng không hợp lý. Các đệ tử của Phật lập tất cả hành đều là sát na diệt, các pháp vô ngã, hữu tình cũng vô ngã. Các người của Thắng luận cho là có sắc khác là thật, có cái khác là thật…. Các người của Số luận nói: Thể của giác chẳng phải tư duy dù đã diệt, chưa sinh đều là thật có. Như thế, các loại đều hiển bày cái đạo lý vốn có của riêng tông mình, đều nên gọi đó là trái hại với cùng biết, rõ ràng không nên chấp nhận. Do trong tông của tôi là căn cứ ở Thắng nghĩa đế, mà quán sát các pháp chẳng liên quan đến sự cùng biết của kẻ chăn trâu v.v… lại trong sự lập tông, dùng Thắng nghĩa đế chọn lọc phân biệt đối tượng được lập nên nhất định không dung nạp. Như nói sự trái hại là do đây thì cũng không trái với lỗi của tự tông.
Có chổ khác lại nói: Luận giả tánh “không” căn cứ ở Thắng nghĩa đế cho nhãn xứ… là không, trở thành có lỗi về pháp “có” không thành tông, cũng có lỗi về chổ nương tựa, không thành nhân. Điều nầy nói không hợp lý. Chỗ cùng biết rõ của kẻ chăn trâu v.v… chổ rất thành tựu về mắt v.v… chung lấy làm tông, tức nói pháp ấy được dùng làm nhân. Cho nên đây giống như lỗi về pháp “có” không thành tông, cũng tựa như là lỗi về chỗ nương dựa không thành của nhân.
Có các Luận giả chánh lý bất thiện, nói lời vấn nạn nầy: Nếu dựa vào chân tánh thì mắt… đều không, do các duyên sinh; mắt … đã không thì làm sao duyên sinh? Nếu duyên sinh thì tại sao thể là không? Tông, Nhân như vậy lại trái ngược nhau, liền trở thành lỗi lầm trái nhau với tông. Đây hoặc là giả nêu lên lỗi lầm sự lập tông để phương tiện hiển bày Nhân không đồng pháp dụ. Hoặc là lỗi ở không thành lập như nói âm thanh là thường, tất cả là vô thường. Đây là phương tiện hiển bày chẳng phải tất cả. Không nói rõ về nhân tức có lỗi không thể thành lập được. Vì âm thanh được thâu gồm ở trong tất cả. Lại cũng không có đồng dụ thì như thế nào là thường mà chẳng phải tất cả? Điều nầy không hợp lý. Vì duyên sinh nên Nhân và dụ như huyễn đều cùng được biết nên nhân, dụ đều thành. Cho nên, ông vấn nạn trọn không thể làm cho người trí vui thích.
Luận giả hữu tánh lại nói: Ông phải tin nhận nhãn căn là có tánh vì có chỗ tạo tác. Các luận giả vô tánh cho là không có chỗ tạo tác, như thạch nữ. Mắt có chỗ tạo tác, nghĩa là sinh nhãn thức. Như đã nói về mắt vì có lực dụng nên mắt nhất định có tánh. Đây nếu căn cứ theo luận giả kia (vô tánh) thì tự tánh của trí tuệ vốn biết nơi kẻ chăn trâu là không phải học mà thành tựu. Căn cứ thế tục mà nói thì thành lập pháp hữu vi như: mắt v.v… là có tánh, rất thuận tiện thiết lập đã thành. Nếu dựa theo thắng nghĩa thì không có đồng pháp dụ, chỉ có ngăn chặn nghĩa yêu thích được thành trong phẩm dị là không đúng đạo lý. Như luận giả cho, âm thanh thường trú, nói âm thanh là thường vì tánh của đối tượng được nghe . Bình… là vô thường, vì không phải tánh của đối tượng được nghe. Âm thanh đã là đối tượng của sự nghe nên tánh thường. Lại dựa vào thế gian cùng biết, đồng dụ cho có chỗ tạo tác nên thành nhân trái nhau. Cũng có thể thành lập như mắt… đều là thuộc về ngôn thuyết của thế tục, cho tự tánh là có.
Ngoài ra lại vấn nạn: Hữu vi không, nghĩa là hoặc nhân hoặc dụ đều thâu gồm ở trong đó, do cùng chủng loại nên có lỗi khuyết về tỷ lượng. Nay trong tụng đây nêu chung về lượng quả, trong lúc quán sát và lúc lập lượng thì mỗi mỗi thứ như mắt v.v… biệt lập làm tông nên không có lỗi nầy. Tổng lập tất cả hữu vi làm tông cũng không có lỗi nầy. Do duyên sinh nên nhân đó hai tông đều chấp nhận nên chẳng phải không thành. Nếu nói nhãn không, vì tánh của nó không thì Nhân nói ở đây có thể có lỗi nầy, cũng chẳng phải không có dụ như là có huyễn v.v… Nếu thiết lập huyển như trong dụ đã nói, lấy làm tông thì liền có trùng lập, tức lỗi đã thành lập. Có người trí kém vấn nạn: Nếu lập tánh của tất cả pháp hữu vi là không, nhân nơi hữu vi nên tánh của nó cũng không, thế thì nhân nầy có lỗi không thành lập được. đây là tương tợ không thể thành lập, chẳng phải thật sự không thành lập được. Như đệ tử Phật lập tất cả hành đều không có ngã, vì do nhân “có” nên có vấn nạn: nhân nầy thuộc trong các hành, cũng là vô ngã nên có lỗi không thành lập được. lại người Số luận lập các việc bày rõ, cho khổ, lạc, si làm tự tánh của nó, cùng với tư duy phân biệt nên có vấn nạn: nhân nầy thuộc trong việc hiển hiện cũng dùng lạc… làm tánh nên có lỗi không thành lập được. lại người Thắng luận lập âm thanh vô thường, vì tánh đã tạo ra, nên có vấn nạn: nhân nầy dùng âm thanh làm thể cũng vô thường nên có lỗi không thành được. như vậy các luận giả đối địch, tuy gắng tìm rộng về lỗi của luận giả đã lập, như lvừa nói trên, thì về lý cuối cùng cũng chẳng thể phá hoại được luận khác. Nếu có lý nầy thì chỗ nào, ai có thể kiến lập tỷ lượng, phá hoại được đạo lý mà tôi đã ưa thích đã nói?
Lại có người hỏi: do duyên sinh nên Nhân rốt cuộc không thể xác lập; nghĩa của Nhân cần lập vì là tánh Không, như âm thanh được phát ra từ Thạch nữ. Nhân nầy tự có tức là lỗi không thành lập được. Nếu nói đó là tông khác đã chấp nhận thì cũng không hợp lý. Vì dựa theo tông khác nói tánh không cho nên nghĩa ấy chưa rõ. Nếu nghĩa “chẳng phải có” là nghĩa Nhân thì nhân nầy không thành tựu được “Chẳng phải, chẳng phải có”. Nếu là nghĩa có mà hư vọng hiển hiện, tức là nghĩa Nhân thì âm thanh nơi thạch nữ hoàn toàn không có, thí dụ nầy là pháp không thể xác lập. Lại do âm thanh biến hóa, tức có lỗi về bất định, nó có thể thành tựu vô lượng hữu tình, vì việc lợi lạc. Lại chẳng phải một mình tông khác chấp thuận là Nhân, vì năng lập và sở lập không thành một. Lại cũng như chỗ tông khác không thành lập Nhân vì trái nhau với tỷ lượng đã tổn hại, nên có lỗi lầm theo đuổi thái quá, như lập tuệ… chẳng phải tâm tương ưng. Vì thuộc hành uẩn nên như lập danh thân v.v… lập hư không v.v… đều chẳng phải là thường. Vì chỗ nương tựa của đức, nên cũng như địa… lập ngã, chẳng phải tư duy. Vì chẳng phải việc hiển bày, nên cũng như tối thắng. Như thế những loại phá hoại những lỗi lầm theo đuổi của tất cả tông nên nhất định phải tin cái mà hai tông cùng chấp nhận mới trở thành gọi là Nhân, do đạo lý nầy như lỗi đã nêu thì không dung chứa được có.
Có Luận giả chánh lý bất thiện khác vì hiển bày lỗi của Tông nên lại nói: Nếu tự tánh là không thì sở lập và năng lập đều không thành tựu. Như âm thanh phát ra của thạch nữ thì năng lập thuộc trong hữu vi nên đồng với sở lập kia, tánh ấy cũng không. Vì đều là không, nên sở lập, năng lập đều không thành tựu. Nếu kia bỏ sở lập thì thể của pháp năng lập cũng tức là bỏ tự tướng của pháp “có” hiển bày lỗi của tông đã lập. Nhân nơi tự tha kia hổ tương không thành, vì không quyết định, nên lỗi dụ về có và như thứ tự trước đã nói cũng không hợp lý. Tuy có bày đặt các nguyên nhân khác thì cũng không thể che lấp lỗi lầm của tự tông. Có chổ khác lại bày ra phương tiện khác để che lấp lỗi của tự tông nên nói như vầy: Đã nói về chân tánh hữu vi là không thì đây lập tông ngôn nghĩa ấy chưa rõ. Nếu căn cứ chân tánh của tất cả hữu vi đều không có thật, là lập nghĩa của tông thì ngôn thuyết được nói cũng lại thuộc trong pháp hữu vi nên đồng với các hữu vi cũng phải không thật. Nếu ngôn thuyết được nói chẳng phải không thật thì hữu vi cũng đều chẳng phải không thật, và ngôn thuyết nầy phá nghĩa đã lập của mình. Cho nên, gọi là trái với ngôn thuyết của tự tông là lỗi về tông đã lập. Như lập tất cả ngôn thuyết đều là vọng. Nếu căn cứ chân tánh của tất cả hữu vi không hề có, là lập nghĩa của tông, tức bài báng tất cả đều không có gì cả. Chỗ lập như vậy liền rơi vào tà kiến. Trong đây như có người nói: ngã nhất định nương vào ngã, ai nói cái khác là chổ nương tựa, người trí khéo điều phục ngã, nên được vui cõi trời. Kia căn cứ thế tục nói tâm là ngã, căn cứ Thắng nghĩa đế lập là phi ngã thì không trái với ngôn, thuyết của tự tông, không có lỗi của tông đã lập. Cũng như vậy, căn cứ tánh thế tục nói có mắt… thì Thắng nghĩa đế đều lập mắt… ấy là không, nên không có lỗi. Lại có thuyết nói: “Tất cả pháp sinh đều quy về tử”. Lời của Đức Thế Tôn nhất định không có hư vọng, tự thân đã sinh thì cũng phải quay về tử, chúng không hề rời nhau. Chỗ lập tông kia tuy có thể chứng minh tự nó cũng quay về tử mà vì được chấp nhận nên không trái với ngôn thuyết của tự tông. Không có lỗi của tông đã lập. Cũng nói như vậy, căn cứ vào chân tánh hữu vi đều là không, vì các duyên sinh là ngôn thuyết của tông đã lập. Vậy đã là các duyên sinh cũng nên phải là tánh Không, vì không rời nhau. Đây lập ngôn thuyết của tông tuy có thể chứng tánh Không của ngôn thuyết chính mình, nhưng vì được chấp nhận nên không có lỗi tự phá nghĩa đã lập. Như Phạm chí nói Thế Tôn: Tất cả ngã đều không nhẫn. Phật nói: Phạm chí nhẫn việc nầy được không? Trong đó Phạm chí nhẫn việc nầy một cách vững chắc mà nói: tất cả ngã đều không nhẫn. Lời nói kia do trái với cái của chính mình vốn chấp nhận, nên đáng có lỗi trái với ngôn thuyết của tự mình. Nhưng chẳng phải tất cả xứ đều có lỗi nầy, như chỗ khác đức Thế Tôn nói: Tất cả hành đều không có ngã. Lại nói ở chỗ khác: các hành vô thường, là pháp có sinh diệt. Nếu không vậy, Phật đã nói các hành vô ngã, vô thường thì Phật cũng có nói lỗi như chỗ đã nói. Nhưng thật ra không có lỗi ấy. Như để ngăn chặn tánh ngã tánh thường của các hành nên ngôn thuyết của tông đã lập đây cũng chấp nhận giống như nói vô ngã, vô thường kia vậy. Đây cũng như vậy. Nói hữu vi là không thì ngôn thuyết của tông đã lập cũng chấp nhận tánh nó là không, đó là thuận theo xác lập nghĩa của chính mình vốn chấp nhận rồi. Vì thế, ông nói tôi phá nghĩa đã lập của chính mình thì nhân nầy không thành. Lại như Số luận lập các sự hiển bày lấy lạc… làm tánh, tuy có vấn nạn. Nếu sự hiển bày lấy lạc… làm tánh thì ngôn thuyết của tông đã lập cũng phải dùng lạc… kia làm tánh. Nếu ngôn thuyết của tông đã lập chẳng phải lạc v.v… kia làm tánh thì sự hiển bày cũng chẳng phải lạc … kia làm tánh. Nhưng tông đã lập không có lỗi như vậy. Như lập hữu vi, vô thường, vô ngã, cũng không phải như kia đã nêu về lỗi của tông, thì đây cũng không có lỗi đã nêu như vậy, vì ý vốn chấp nhận. Lại luận giả kia không thể bào chữa quan điểm đã lập, mà trái lại vặn hỏi: Nếu căn cứ chân tánh thì hữu vi là không thật tức ngôn thuyết về hữu vi không thật đã nói ấy cũng phải không thật. Sự vặn hỏi nầy không thể cứu khỏi lỗi của tông mình mà còn vọng càn nói tông khác giống như lỗi mình có. Như ờ đời có giặc ngu dốt, đã bị bêu xấu không thể thanh minh mình là trong sạch trái lại còn lập ngôn thuyết đạo lý vu khống người khác. Ông cũng là giặc. Đây rõ ràng chẳng phải ngôn từ phát xuất từ sự quán xét kỹ càng. Lại có chỗ kia nói: Nếu như chân tánh của tất cả hữu vi đều là vô sở hữu, đó là lập nghĩa của tông, tức là bài báng tất cả đều không có gì; chỗ lập như vậy là rơi vào tà kiến. Trong đây, nghĩa của tông như trước đã nói rộng, nghĩa là sai biệt của các môn không, vô tánh, hư vọng hiển hiện, chứ chẳng phải tất cả loại đều bài báng là không có. Cho nên, ông không nên vấn nạn như vậy.
Lại nữa, có Sư khác như Hoài Thông, Duệ Mạn vấn nạn: Nếu các hữu vi căn cứ Thắng nghĩa đế thì cũng như không của như huyễn v.v… là không có tự tánh tức là chẳng phải có; chấp chẳng phải có nên trở thành kiến chấp “không”. Sự kia muốn che lấp lỗi của tông mình mà vấn nạn, bịa đặt bài báng nói, chứ đâu có thể đây cùng có lỗi. Chớ vì chổ lập của luận giả không, suy lường thành bài báng Thắng nghĩa đế thì lỗi lầm rất lớn. Đây nói “chẳng phải có” là nghĩa già, thuyên (ngăn chặn và diễn giải) . Ông chấp vào lời nầy lấy sự tiêu biểu diễn giải làm hơn, tôi nói lởi này lấy sự ngăn chặn làm hơn. Đây nói “chẳng phải” chỉ là: ngăn chặn công năng của tánh có, chúng hoàn toàn không có năng lực lại diễn giải nghĩa khác, như thế gian nói: chẳng phải là lụa trắng, tức không thể liền chấp. Lời nầy diễn giải về lụa đen, tức cho người năng thuyết có lỗi lập tông. Nói chẳng phải lụa trắng, chỉ là ngăn chặn công năng tấm lụa là trắng, chúng hoàn toàn không có lực nào khác, để diễn giải chúng là lụa đen, lụa đỏ, lụa vàng v.v… Nay trong luận nầy căn cứ ở Thắng nghĩa đế là đối với cảnh hữu vi, làm cho thoát khỏi thiên lệch kiến chấp Thường, tạm thời ngăn chặn tánh có. Như thế, ở chỗ khác làm cho thoát khỏi kiến chấp Đoạn thì ngăn chặn tánh không; cùng làm thoát khỏi kiến chấp nhị biên thì ngăn chặn tánh có, không. Lại để thoát khỏi lỗi lầm vọng chấp khác cho đến sở hành của tất cả tâm thì thảy đều ngăn chặn sở hành, nếu diệt thì tâm chính là theo diệt. Lại ở chỗ khác, Phật nói với A-nan-đà: Nếu chấp tánh có, tức đọa vào một bên là thường kiến, nếu chấp vào tánh không tức rơi vào một bên là đoạn kiến. Chỗ khác lại nói với Ca-diếp-ba như vầy: Có là một bên thì không có là bên thứ hai. Vì do những A-cấp-ma như vậy và tương đương các đạo lý đã nói, nên chỗ lập tông của tôi không tiếp xúc, như phân, không thấy lỗi lầm.
Có sư không nỡ thấy lỗi lầm vướng mắc tích tập trong đạo lý nơi tông của mình, vì muốn giấu kín, lại nói như vầy: Luận giả tánh “không” tuy thường vui cầu tuệ không phân biệt, nhưng thường phân biệt tánh Không của tất cả hữu vi, vô vi. Tức là thành lập biến kế sở chấp phân biệt hư vọng, mất đi tông tự vui với chính mình, như vậy cũng là ngăn chặn nên không có lỗi nầy. Có chỗ khác lại nói : Nếu nhân không đã nói căn cứ thế tục, hoặc căn cứ thắng nghĩa, thì nghĩa nhân chỉ đối với mình, còn đối với người khác không thành, hai tông cùng chấp nhận thì không bày rõ sự sai biệt. Nói về pháp môn tổng tướng làm rõ chánh lý, thì cho là nhân, nhưng chỗ lập của ông lại là vướng mắc giống như lỗi không thể thành lập nhưng chẳng phải sự thật không thể thành lập. Như người Thắng luận lập âm thanh là vô thường, vì tánh có tạo tác. Luận giả âm thanh là thường thì nói kia có lỗi tức phận biệt nghĩa nhân là tánh tạo tác của yết hầu hoặc của gậy v.v… Phân biệt như vậy thì nghĩa nhân không thành. Như người của số luận lập năm căn hữu tình như: năng văn (chủ thể của sự nghe)… chẳng phải do sắc tạo ra mà là tánh của căn; năm căn:, mắt… cũng như ý căn. Người luận chủ trương do sắc tạo ra thì nói kia có lỗi. Vì tánh căn là nhân. Như nói tánh bốn đại tạo, hoặc tánh lạc thì chỉ đối với mình còn với người khác, nghĩa nhân phân biệt như vậy tức không thể thành lập. Hai loại thuyết kia, tợ như lỗi không thể thành lập, nhưng chẳng phải thật sự không thể thành lập. Cho nên không hợp lý. Đây cũng như vậy. Lại có sự khác do thông minh, kiêu mạn, tham muốn tông mình, bị ái mê hoặc làm loạn mằt tuệ không thể quán sát khéo nói sự sai biệt được, mất xấu xa của luận của mình đã quý trọng, nên vọng căn bày, nói về lỗi của chỗ lập thí dụ: chú thuật, sức thuốc gia bị cho các vật: hoa quả, đất đá… làm cho các loại sắc tượng: voi, ngựa, thỏ… đều hiển hiện. Tông tôi không chấp nhận tự tánh của chúng là không thì đồng dụ liền khuyết, vì chỗ lập là không. Nếu nói tướng voi, ngựa… như huyễn, không có tánh thật khác của voi, ngựa… nên nói là không thì mắt v.v… cũng như vậy, không có tánh khác, lập làm Không là liền có lỗi của tông, vì đã lập thành nên vấn nạn kia không đúng. Chú thuật, dược lực gia bị các vật: hoa quả, đất đá… các duyên sinh ra tướng: voi, ngựa…, tánh voi, ngựa là tánh Không vì nói là dụ nên nghĩa đã lập được thành tựu. Nếu ông cho: việc voi, ngựa… do huyễn thuật làm ra, thì tuy tánh voi, ngựa… không có sự thật khác nhưng không thể nói vì tánh kia Không nên tánh đây cũng không. Chẳng lẽ không như tướng trạng kia hiển hiện, tức có tự tánh các vật như vậy, như chỗ nói của ông về các vật: hoa quả? Nếu vậy, tức lẽ ra các việc: voi, ngựa do huyễn thuật làm ra thuật làm ra thật có tánh voi ngựa như vậy, nhưng thật không có. Cho nên, biết tự tánh của tất cả các việc voi ngựa… do huyễn thuật: làm ra đều là không, cho nên thật có. Như chỗ nói về dụ thì nghĩa đã lập thành, cũng không có thành lập rồi, trở thành lỗi lầm. Tức căn cứ tự tánh không thành lập mắt… hữu vi không.
Lại có các người có trí tuệ không dị biệt hiển bày riêng về lỗi lầm của dụ. Tuy các huyễn sĩ vì chẳng phải thật sĩ nên nói là không, nhưng các huyễn sĩ kia tự tánh chẳng phải không, vì có hư vọng hiện ra thể tướng sĩ. Do đạo lý nầy nên như cú nghĩa đã lập trước không thành, vì dụ không thành. Nay phải cật vấn người kia: hư vọng hiện tướng thể huyễn sĩ nầy là từ duyên sinh phải không? Người kia đáp: Từ duyên sinh. Nếu vậy thì vì sao gọi là hư vọng? Vì như chỗ hiển hiện chẳng phải có như vậy. Chẳng lẽ mắt cũng không từ duyên sinh hay sao? Như chỗ hiển hiện không phải có như vậy, vì đồng dụ thành nên nghĩa tánh Không thành. Ông nên tin nhận. Người kia nói: không nên tin nhận là vì các huyễn sĩ chẳng phải như thật sĩ. Tức có thể quán sát kỹ đây đối đãi với thật sĩ kia, thì đây hư vọng nên gọi là không. Chẳng phải lập luận của các ông là lìa chỗ nêu ở trước về hữu vi: mắt mà riêng có: mắt… có thể quán sát kỹ cái đối đãi với kia để nói, tánh không của mắt v.v… đây có thể làm cho tin nhận. Tuy không xa lìa chỗ đã nói về mắt.. riêng có mắt… nầy nhưng có tánh không duyên sinh như vậy. Hai pháp: Sở lập và năng lập thành tựu, nhưng do dụ nầy đầy đủ có thể chứng thành nghĩa đã dụ. Nay vì ông phân biệt riêng về pháp dụ nên bèn thành loại lỗi phân biệt tương tự, phô bày cái trí tuệ nhỏ yếu của mình đối với luận giả đối nghịch. Như người Thắng luận nói âm thanh vô thường, vì tánh có tạo tác, ví như: bình… Không nên vặn hỏi: Chỗ thành của bình… đất sét vào khuôn… có thể nung đất, có thể thấy dùng cây gậy đập phá, có thể là vô thường. Âm thanh không như vậy, nên chẳng phải là vô thường. Ở đây vì cũng phân biệt pháp dụ riêng, vì cũng thành loại lỗi phân biệt tương tự nên phải tin nhận. Tánh của mắt… là không, vì tánh “Không” không lìa nhân duyên sinh. Lại như tướng hiện tức có, trước vì tự tánh đã phá trừ nên điều nầy cũng phải vậy. Cho nên các ông nói: không thể xóa sạch lỗi lầm của tông mình.
Có sư Số luận vấn nạn: Tôi lập các tụ chuyển biến của đại v.v… là chỗ vì hiển bày tánh duyên sinh nên Nhân có lỗi chẳng thể thành lập. Vì tất cả đều có, là thể của tất cả vì các căn hiện bày khắp tất cả xứ, nên trong huyễn sĩ ấy cũng có “thể” nầy. Lập tánh Không nầy không đồng pháp dụ. Trong đây tạm nương vào sắc mà quán sát, giác (biết rõ) nghĩa là biết rõ các sắc chẳng phải là chỗ hiển bày duyên, vì tùy theo duyên riêng biệt kia mà có sự chuyển biến khác. Như tùy theo đất trong khuôn của thợ gốm có các duyên của tâm vui muốn… khác nhau mà có bình, chậu… hoặc lớn, hoặc nhỏ. Như vậy, do các duyên sai biệt cũa mắt v.v…mà biết rõ sắc kia theo đó đủ loại chuyển đổi khác. Tùy theo mắt sáng, tối, mà biết rõ sắc nhanh, chậm; tùy theo cảnh giới khác nhau như: xanh… mà biết rõ tương tợ sắc xanh, hiển hiện khác nhau. Thế gian hiện thấy là vật vốn hiển bày, không tùy theo duyên chuyển biến sai khác kia. Cũng như đèn sáng dược châu… ban ngày, hiển bày ra nhiều vật như: hoàn xuyến… biết rõ về sắc thì không vậy. Như quán xét về biết rõ sắc, mắt v.v… cũng vậy. Nghĩa nầy thành sự thật mà thế gian cùng biết, nên nhân đã nêu không có lỗi không thể thành lập. Lại như chỗ nói của ông: tất cả đều có, là thể của tất cả… là căn cứ vào sự hiển bày hay y cứ vào dụng ẩn kín. Nếu y cứ vào sự hiển bày, chấp tất cả có, là thể của tất cả thì như ở nơi chỗ bình có sự hiển bày là bình, ở nơi chỗ chậu… cũng phải khắp có, vì sự hiển bày của bình nầy có “thể” hiện bày khắp. Một bình như vậy tức phải biến đầy khắp vô lượng trăm ngàn du thiện na, ở nơi chỗ bình… cũng phải có đủ. Sự hiển bày của chậu… chẳng phải sự hiển bày của bình…, vì bị che bóng, sự hiển bày của chậu… cũng bị che bóng, vì hình lượng lớn. Vật hình lượng lớn càng che bóng hình lượng lớn, thì sự hiển bày của bình chậu đều bị che bóng nên tất cả xứ, thời không thể có được. Cho nên tông của ông y cứ vào sự hiển bày ấy, chấp vào tất cả đều có, là thể của tất cả thì không hợp đạo lý. Nếu y cứ vào dụng ẩn kín chấp tất cả có, thể của tất cả thì chổ chấp như vậy cần phải quán sát rộng mới có thể biết đúng là thật hay chẳng phải thật. Sợ văn quá nhiều, nên không quán sát rộng. Tông ông cũng chấp nhận chổ hiển bày của huyễn sĩ là chổ hiển không của thật sĩ nên chổ lập dụ của tôi không có lỗi không thể thành lập thế nên, nghĩa tánh “không” đã lập được thành tựu. Số luận sư và ông, chẳng phải là xứ để các căn gửi vào tức cũng chẳng phải các căn biến khắp tất cả xứ, vì có sở nhân, như là chổ nương tựa của căn. Như vậy, có thể làm sinh nhân cho lạc, khổ, si, giác nên nhiều loại chứng minh nhân cũng phải nói rộng. Vì do phá các căn biến khắp tất cả xứ nên trong huyễn sĩ không có “thể” của các căn, chẳng phải “không” đã lập là không có đồng pháp dụ. vì vậy, ông trở thành phân biệt hư vọng, là mê muội quỷ võng lượng mới chấp như thế.
Luận sư Tương ưng có nói: Ông dựa vào chân tánh lập hữu vi không, vì là duyên sinh. Nếu nói nghĩa nầy thì các pháp hữu vi từ các duyên sinh, chẳng phải là tự nhiên có, tức dựa trên tánh “không” của sinh lập nên hữu vi kia là không. Thế thì đây xác lập trở thành nghĩa của các luận sư Tương ưng lại phù hợp chánh lý. Lại nói như vậy: do nương vào kia nên là không, thật kia là không, do nương vào đây nên là không, thật đây là có. Tánh không như vậy là lời như thật của bậc Thiên nhân sư. Lời dạy nầy ý nói: Biến kế sở chấp dựa trên y tha khởi, tự tánh vốn không, vì chẳng phải tánh kia. Vì chẳng phải như chủ thể giảng giải có tánh đối tượng giảng giải, cũng chẳng phải như đối tượng giảng giải có tánh nơi chủ thể giảng giải. Trên tự tánh có của y tha khởi nên tự tánh biến kế sở chấp vốn không. Do dựa vào kia nên nói là không, tức là việc vọng chấp suy lường, tự tánh kia không có. Do dựa vào đây nên nói là không, tức là việc duyên sinh, tự tánh đây có. Nếu tự tánh đây không có tức là đoạn diệt thì ở trên việc gì để nói cái gì là không? Việc duyên sinh nầy tức là gọi là tánh y tha khởi. Nương vào đây mà có được giả lập tánh chuyển tự tánh sai khác của sắc, thọ, tưởng,… Nếu tánh đây không có thì pháp giả lập cũng không có trở thành kiến chấp “không có”. Người như thế, không nên cùng nói, không nên cùng trú, tự sẽ rơi vào đường ác, cũng làm cho kẻ khác đọa lạc vào đó. Như vậy, thành lập biến kế sở chấp với tự tánh là không và tự tánh y tha khởi là có, thì khế hợp với chánh lý. Nếu nghĩa nầy nói tánh y tha khởi cũng không hề có nên lập là không thì ông liền đọa lạc hầm sâu lỗi lầm như đã nêu trên, cũng lại tạo thành lỗi lầm phỉ báng Thánh giáo của Thế Tôn. Trong vấn đề này còn phải rộng tranh luận với những người hướng đến Thừa khác, và các ngoại đạo, người lìa bỏ đố kỵ, bủn xỉn thích cầu thuyết hay, huống gì các thầy cùng hướng một thừa hợp thời luận bàn. Cho nên ít cùng quyết trạch việc nầy. Rộng thì như người nếm vị cam lồ thật sự đã tự đủ phân biệt. Vì vậy, không có biện minh tiếp khiến người sợ văn rộng, sẽ không hoan lạc. Nói pháp hữu vi từ các duyên sinh chẳng phải tự nhiên có; căn cứ tánh không của sinh nên nói hữu vi kia là “Không”, đây có nghĩa gì? Nếu theo nghĩa nầy mà nói: hữu vi: mắt… dựa trên y tha khởi, không từ nhân sinh, thường không hoại diệt, vì tự tánh mắt… rốt ráo là không nên nói là không, liền lập đã thành, đồng tông với Loại Số luận, Thắng luận… vì đều cùng chấp nhận. Nhưng nói mắt… chẳng phải là “không” đã tạo tác ra, mà là tự tánh không thì phải nói là không sinh, không tánh nên là “Không”; không nên nói dựa vào tánh không của sinh mà nói hữu vi kia là không. Nếu lúc hữu vi kia khởi dựa trên Thắng nghĩa đế là có tự tánh sinh, thì sao nói là sinh không có tự tánh? Nếu thật không có sinh vì thể nó không có thì không nên nói có thật tánh Duy thức. Nếu vậy thì có lỗi trái với tự tông. Nếu y tha khởi tự nhiên sinh tánh không thì không có cớ gì nói đó là không, thế thì trở lại xác lập “Có”, tức thành lỗi với quan điểm đã lập ban đầu. Trước đã chấp nhận nương vào các duyên khác mà sinh, vì thật chẳng là không, nên phải không gọi là “không”. Tôi thì không vậy, thì làm sao mê mờ thành nghĩa của luận sư tương ưng. Lại như đã thuyết : “Do nương vào kia nên là không, thật kia là không; do nương vào đây nên không, thật đây là có”… Nếu mắt v.v… do sức nhân duyên sinh ra tất cả thế gian cùng cho là thật có thì đó là chỗ hiện hành trong trí tuệ, hiểu biết của các phàm phu, ngu si. Cái mà hiển hiện ở thế tục dường như là có tự tánh ấy nếu dùng Thắng nghĩa đế tìm cầu thì giống như huyễn sĩ kia đều không có tánh thật. Cho nên nói: “ Do nương vào kia nên không, thật kia là không”. Vì muốn ngăn chặn lỗi rơi vào biên kiến thường cũng như vì muốn xả bỏ lỗi rơi vào thường kiến nên nói “kia là không”. Cũng vì xả bỏ lỗi rơi vào đoạn kiến nên nói “đây là có”. Nghĩa là mắt v.v… do nhân duyên sinh ra là thuộc thế tục đế, vì tự tánh là có, không đồng với không hoa, hoàn toàn không có vật. Nhưng căn cứ vào chân tánh thì xác lập đó là không. Cho nên nói: “Nương vào đây nên không, thật đây là có”. Tánh không như vậy là lời như thật của bậc Thiên Nhân Sư. Nếu dựa theo nghĩa nầy nói tự tánh của y tha khởi là có tức là khéo thuyết! Tự tánh như vậy, tôi cũng chấp nhận nên tùy thuận ngôn thuyết thế gian mà gồm thâu hai thứ tư lương là phước đức và trí tuệ. Chỗ nương tựa giả lập của thế tục là có, thì pháp giả cũng phải có. Nhưng lại nói: Nếu đây không thì pháp giả cũng không, liền thành chấp kiến “không” không nên cùng nói… Những lỗi như vậy đều không thể tạo thành. Nếu kiến lập tánh y tha khởi thì thế tục nên có, liền lập đã thành. Nếu lập tánh nầy theo Thắng nghĩa đế là có, thì không đồng pháp dụ. Như đã ngăn chặn chấp tánh “có” nhất định thì cũng nên ngăn chặn chấp tánh “không” nhất định. Vì thế, không nên phỉ báng nói thêm bớt về tánh y tha khởi như đã nói. Nếu nói tông tôi xác lập có huyễn cùng tánh ly ngôn thì đồng dụ không có nên chẳng phải chủ thể lập, tức đạo lý tánh thật ly ngôn kia không thành nên không có lỗi. Nếu vậy thì tánh thật ly ngôn của ngoại đạo, đã chấp là ngã v.v… ai có thể ngăn phá? Họ cũng nói có tánh, thật là Ngã v.v… chẳng phải sở hành của trí tuệ, ngôn thuyết. Cho nên, nếu sức các duyên sinh ra tất cả tánh y tha khởi, dựa trên Thắng nghĩa đế là có tự tánh thì huyễn sĩ phải có tự tánh của thật sĩ. Nếu có tánh khác cũng không hợp lý, vì trong con trâu không thể có tánh con lừa. Cho nên, tánh tác, phi tác, thật có, thật không, hữu tánh và vô tánh đều gồm thâu trong đó. Như chỗ lập nầy không đồng pháp dụ, hoặc mới lập đã thành, vì cả hai lỗi đều nhiễm nên không hợp lý. Lại các pháp hữu vi từ duyên sinh, dựa theoThắng nghĩa đế nếu cho là tánh có thì chỗ tạo tác làm nhân, chứng tánh không kia sẽ trừ đi tánh kia là có, nên là lỗi tông đã lập trái với tỷ lượng. Các pháp từ duyên sinh đều cùng biết rõ. Tánh có của thế tục như là chấp có nhất định. Có của Thắng nghĩa đế thì nên dùng lý nầy để ngăn phá tông kia. Lại nữa, tông kia không nên tâu nhận luận nầy. Căn cứ Thắng nghĩa đế phân biệt thành hai loại là không hợp lý. Lại như đã thuyết: “chẳng phải như chủ thể giảng giải có tánh đối tượng giảng giải, chẳng phải như đối tượng giảng giải có tánh nơi chủ thể giảng giải”. Các luận giả đối địch không nghi ngờ vấn đề này nên nói ngăn chặn lỗi xác lập đã thành. Lại như đã thuyết: “ Trên tự tánh có của y tha khởi, tự tánh của biến kế sở chấp vốn là không”, đây cũng là luận khác. Bởi không nghi ngờ, nên nói ngăn chặn lỗi xác lập đã thành. Nếu nói vì do chấp, chủ thể giảng giải, đối tượng giảng giải tự tánh biến kế sở chấp có lực sinh phiền não nên cần phải ngăn chặn thì điều nầy cũng không đúng. Các cầm thú… không rõ về sự tương ưng của chủ thể giảng giải và đối tượng giảng giải, cũng vì ở nơi cảnh giới, chấp không như lý nên sinh phiền não. Có đầy đủ chủng loại có thể làm cho ý vui, cũng có nhiều loại Thánh ngôn vi diệu. Giáo lý về tự tánh biến kế sở chấp là không chỉ ích lợi cho thiểu số mà không khắp tất cả. Tôi không riêng lập đó là không, nên tạm dừng lại sự luận bàn quanh co, mà hãy nên đi vào biện giải chánh luận.
Như vậy, các đạo lý như trước nói cũng đã đủ thành lập tự tánh: của mắt là không rồi. Lại có sư khác vấn nạn: Đây là ngăn phá nói có tự tánh. Nếu là có thật thì mất đi nhân của tông đã lập, trở thành bất định. Nếu chẳng phải có thật tức không có tự tánh thì không thành năng phá. Điều nầy cũng không đúng. Như Thế Tôn nói: “Phạm chí phải biết! Tất cả lời Như Lai nói là thật chẳng phải thật. Như Lai đều nói là chẳng phải thật, chẳng phải vọng”. Do Thánh giáo nầy và các đạo lý đã nói, sẽ nói dựa theo Thắng nghĩa đế thì thật và không thật đều không kiến lập. Cho nên, không có lỗi như chỗ đã nêu. Lại như ý ông, thì đạo lý đã nói là đối tượng ngăn là không nên chủ thể ngăn cũng không, chẳng phải chủ thể ngăn dừng là không mà đối tượng ngăn dừng là có. Nhưng do bản tánh của đối tượng ngăn dừng là không nên chủ thể ngăn dừng cũng không. Chỉ có chủ thể ngăn dừng mới có thể biện luận biết rõ đối tượng ngăn dừng là vốn không có tự tánh. Chẳng phải chủ thể phá hoại là tự tánh của đối tượng ngăn phá. Như nói: Bồ-tát không thể dùng “Không”, không tất cả pháp, nhưng bản tánh của tất cả pháp tự nó là không, cho đến nói rộng. Lại như lúc chủ thể chiếu chiếu đối tượng chiếu, không nên nói, vì đối tượng chiếu là các vật: bình, áo… là không, nên chủ thể chiếu cũng không, cũng không nên nói: tánh của vật đối tượng chiếu, xưa không nay có. Chỗ lập của tôi là chủ thể ngăn dừng, đối tượng ngăn dừng, chủ thể lập, chủ thể phá, hữu đảo, vô đảo đều là thế tục có. Nếu ông ngăn phá đối tượng lập, chủ thể lập, tức là trái với tự tông. Đây là dựa chủ thể ngăn dừng mà nói tương ưng, chằng phải là chủ thể lập, vì chẳng phải thật. Như chỗ phát âm thanh của thạch nữ, ông đã cho là có chủ thể lập tỷ lượng, tôi cũng phải vậy, vì thế tục có. Như trước đã nói, chỉ dừng sự tranh luận rộng. Vì các người có chán sợ văn nghĩa rộng sẽ khó thọ trì. Như vậy, như tỉ lượng đã nói không có các chướng nạn nên tông đã xác lập. Nghĩa là dựa vào chân tánh thì nhãn xứ tánh ấy là không, đạo lý đó thành tựu. Lại nữa, vì nhân duyên sinh đã lập nên lược nêu danh tướng, để ngăn chặn nói tự tánh của mắt, hoặc lại có nhân khác. Nghĩa là, vì có thể hoại, vì tùy duyên riêng khác, vì có thể sinh khởi nên có lúc có thể khởi trí chánh, tà. Do những nhân nầy như chỗ thích ứng ấy, tùy theo nó mà đối trị tương ưng, chính thức ngăn phá. Lại có thuyết nói: mắt tánh thật là có, vì tướng nhân quả của nó đều hiện hữu, nên chẳng phải tánh thật là không vì hiện có tướng… mắt… hiện thấy tướng… hiện có. Vì thế, mắt… chẳng phải tánh thật là Không.
Đây căn cứ ở thắng nghĩa thì không đồng dụ nên tánh có không thành. Nếu dựa theo thế tục cùng biết thì tánh thật, liền lập đã thành. Lại dựa vào nhân đồng dụ thì trở thành trái nhau, vì đồng dụ chỉ có tánh thế tục. Như căn cứ chân tánh thì tánh của nhãn xứ là không. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý, sắc, hương, vị, xúc xứ và pháp xứ cũng có tánh không như vậy. Hành giả tu quán cũng nên ngộ nhập tánh Không như vậy. Lại nên từ tổng, biệt tướng dựa theo chân tánh của nó thành lập uẩn, giới, duyên khởi niệm trú, chánh đoạn, thần túc, căn lực, giác chi, Ba-la-mậtđa, các Tam-ma-địa, môn Đà-la-ni, các vô ngại giải, mười lực vô úy, pháp bất cộng, trí Nhất thiết trí… thảy đều tự tánh là “Không”. Hành giả tu quán cũng nên ngộ nhập tánh không như vậy. Lại nữa, các ngoại đạo biến kế sở chấp về đại và chấp Ngã chỉ là suy lường căn, đại, thật ra có đức nghiệp để làm cú nghĩa đều thuộc trong mười hai xứ là vì tướng kia. Hành giả tu quán cũng nên ngộ nhập về tánh không như vậy.
Như vậy, tuy do sức suy tư, chọn lựa nên ngộ nhập tánh không, mà thiếu sót lực tu tập thì ví như cánh của các chim mới sinh chưa có tác dụng. Cho nên phải siêng năng huân tập sức tu tập. Như người mắt mờ, nhờ thuốc hay mà có thể trừ được sự mờ tối của mắt nên mắt được sáng ra, ngoài các vật to, cảnh giới các vật rất nhỏ của ruồi muỗi cũng thấy rất rõ. Nhờ sức siêng năng tu tập như vậy nên có thể trừ bỏ được sự chấp giữ tướng hữu vi nghi hoặc, tà trí. Tu hành quán thật sự lúc mới hiện tiền, không nhờ duyên khác mà thọ nhận sự hỷ lạc vi diệu. Không thủ giữ tất cả tướng hữu vi, không chấp giữ tất cả vật bố thí, người bố thí, người thọ thí, không chấp giữ tất cả người bố thí, người nhận bố thí và quả bố thí nên hai loại ba luân đều được thanh tịnh. Như vậy mới có thể chánh cần thâu tóm vô lượng tư lương phước trí. Hai loại gánh nặng không hề tham cầu, quả hiện tại chẳng phải hiện tại cũng không hề vui thích. Việc hiện tại, quả vị lai được thân cận cúng dường, được những thiên thần có đức yêu mến, cũng không vọng chấp: đức là tác giả, ngã là tác giả. Đại tự tại thiên và cực vi tánh là bình đẳng nên thường tu đại xả. Những việc như vậy đều do đã nói, sẽ nói về chánh lý chứng đắc tất cả đối tượng phá, chủ thể phá, hữu vi, vô vi, vì pháp tánh không. Như Thế Tôn nói: Bồ-tát không nên an trú các việc mà hành bố thí, phải đều không có gì an trụ mà hành bố thí, cho đến nói rộng. Đức Thế Tôn lại nói: Nếu các Bồ-tát chuyển tưởng hữu tình thì không nên gọi là Bồ-tát chân thật. Thế Tôn lại nói: Không có một ít pháp gọi là có thể phát khởi hướng thừa Bồ-tát. Các Bồ-tát nầy còn không mong cầu Bát Niết bàn nên siêng tu phạm hạnh, huống gì là vui thích sinh tử nơi ba cõi. Như vậy chánh tu quán tánh không của tất cả pháp hữu vi rồi lại nên chánh quán; nếu tự tánh Không, tức là không có sinh, nếu không có sinh tức là không có quá khứ, vị lai, hiện tại, ở nơi ba đời ấy không hề có chướng ngại. Chánh quán ba đời đều là tướng thanh tịnh, nương vào lý không điên đảo như trước đã nói thì ba luân thanh tịnh hướng đến Đại Bồ-đề. Như có người hỏi: Mạn-thù-thất-lợi: Vì sao Bồ-tát hướng đến Đại Bồđề? Đáp: Phạm chí! Phải như Bồ-đề. Lại hỏi: Vì sao gọi là Bồ-đề? Đáp: Phạm chí! Đây chẳng phải là quá khứ, cũng chẳng phải vị lai và hiện tại, cho nên Bồ-tát nên quán tướng ba đời đều là thanh tịnh, ba luân thanh tịnh hướng đến Đại Bồ-đề.
QUYỂN HẠ
Như vậy, đã nói về người tu hạnh quán là ngộ nhập về tổng tướng tánh không của hữu vi mà chưa ngộ nhập tánh không của vô vi. Nếu không khai thị thì không do đâu ngộ nhập, nếu không ngộ nhập tuệ không phân biệt, mà có thể hướng vào tu hành thì rốt cuộc không được thành tựu. Vì khai thị nên lại nói lời nầy: vô vi không có thật, không khởi giống như hoa đốm giữa hư không. Trong đây ngôn từ lập tông đã rút gọn tức ý chân tánh trên đã nói nên cần rút gọn, như trước nên biết. Vì căn cứ chân tánh nên lập vô vi không, chẳng phải dựa theo thế tục. Chẳng phải hữu vi nên gọi là vô vi. Đối ngược với hữu vi là nghĩa vô vi. Tức là hư không trạch, phi trạch diệt và tánh chân như. Nghĩa là dùng một phần pháp xứ đã trừ ở trước để làm rõ chỗ ngộ nhập. Tánh không của hư không dễ khai thị nên chỉ dựa vào nghĩa không là vật không có chất trở ngại, mà thế gian cùng gọi tên là hư không. Do đây là chỗ vô vi tánh không khác làm cửa ngộ nhập, tức đây là hư không mà thế gian đã biết. Căn cứ ở chân tánh nên “Không” không có thật, đó gọi là lập tông. Tức chỗ lập nầy dựa vào chân tánh nên không có hư không thật. Vì hai tông đều cho là không khởi, hoặc giả lập là pháp không khởi nên gọi là nhân. Vì hoa đốm giữa hư không không thật, cũng không khởi nên lập làm đồng dụ. Không nói ngăn chặn phẩm dị lập là không đồng pháp dụ. Như trước nên biết. Thế nào là trong đây kiến lập tỷ lượng? Nghĩa là căn cứ chân tánh thì hư không không thật, vì không khởi. Các sự không khởi kẻ ngu, người trí cùng biết, tánh ấy không thật giống như hoa đốm giữa hư không. Vì nhân đã lập nầy không khởi nên lược nêu danh tướng. Lại có nhân khác, như chẳng phải chỗ tạo tác, chẳng phải năng tác, không có hoại diệt. Các nhân như vậy có thể ngăn chặn chỗ thuyết giảng về tự tánh của vô vi, cho nên như sự thích ứng đều được làm nhân. Như nói ông phải giữ bơ nầy trong tay, chớ cho chim chóc đến gần, khiến cho chỗ giữ gìn không bị hao tổn, cũng phải che giữ các loại mèo, chuột…
Sư Tỳ-bà-sa đều hỏi: Nếu chỗ lập tông vô vi không thật, là nghĩa không, có thì định đẳng chí, không xứ, tức là không có đối tượng duyên vậy sao được có? Nhưng sự không chướng ngại là tướng hư không. Nếu đây phương tiện tỷ lượng nói: định đẳng chí, không xứ thật có đối tượng duyên, hoặc cảnh thật có. Vì đẳng chí nầy, hoặc cảnh nơi đối tượng duyên của đẳng chí nầy, như đẳng chí khác, hoặc như duyên kia. Đẳng chí khác ấy và đối tượng duyên kia là hữu vi. Đã biện luận rõ tánh không thì không có đồng dụ, đó chính là căn cứ ở thắng nghĩa biện minh về tướng hư không. Nếu dựa theo chỗ lập của thế tục thì hư không cũng chẳng thật có, vì là không khởi, giống như hoa đốm giữa hư không. Do đây mà tỷ lượng với chỗ kiến lập thật có kia thì không thành tựu. Lại cũng do nhân mà tôi nói ở đây. Ông nói là cảnh nơi đối tượng duyên của Đẳng chí nên nhân có, quyết định thành lỗi lầm trái nhau. Vì vậy, nghĩa mà tôi đã lập trước thành tựu, vì không chướng ngại.
Tự bộ, Tha bộ nói như vầy: Nếu căn cứ ở chân tánh hư không thì không thật, vì không khởi. Nếu chuẩn theo nghĩa câu nầy thì cái gì khởi đều là thật. Nếu nói cái khởi cũng không có thật đó là nhân nầy không khắp, thì tánh nhân đồng phẩm sẽ không thành tựu. Nếu chuẩn theo nghĩa nầy tức là loại lỗi tương tự lỗi về tương tợ chẳng thể thành lập. Đây xác định lại câu nói: các thứ không khởi đều là không có thật, chứ không phải xác định nói các thứ không thật thảy đều không khởi. Tuy siêng năng dõng mãnh phát khởi không gián đoạn. Không khắp mà đồng phẩm cũng chấp nhận là nhân nên không có lỗi nầy.
Có chỗ khác vấn nạn: Hư không có tánh, ở đời cùng biết, hoa cũng có tánh, Ốt -bát-la… cũng hiện thấy ở đời. Hoa đốm giữa hư không có hai loại tuy không tương ưng nhưng chẳng phải không có tự tánh nên dụ hoa đốm giữa hư không vốn đã lập không thể thành. Vấn nạn nầy không đúng. Dụ hoa đốm ở hư không là căn cứ bậc chuyển y thứ sáu đã giảng dạy. Vì hoa đốm ở giữa hư không nên gọi là Không hoa. Dây vốn đã chẳng phải có cho nên làm thí dụ, chứ chẳng phải không có.
Do đạo lý nầy nên hành giả tu quán phải ngộ nhập tánh không của hư không một cách đúng đắn, đối với đạo lý tánh khôngcủa ba loại vô vi: trạch diệt… cũng phải ngộ nhập.
Các thầy Tỳ-bà-sa chẳng chịu việc ngăn phá trạch diệt vô vi. Họ lại nói: Phật thuyết trạch diệt để đối trị hữu vi nên gọi là xuất ly. Nếu bài báng cho là không thì các ông liền có lỗi trái nghịch với tông. Lại nữa, Thế Tôn nói: Hỷ và tham cùng hành, các thọ tận diệt gọi là Niếtbàn tịch tĩnh vi diệu, vì sao lại nói là không? Phải biết đây là, Thế Tôn muốn khiến cho người được giáo hóa ở nơi cảnh hữu vi siêng tu xa lìa, ở nơi cảnh vô vi tùy thuận an lạc. Dựa theo Thế tục nói có trạch diệt xuất ly Niết-bàn tịch tĩnh vi diệu. Như Phật nói có hữu tình hóa sinh, nói có Niết-bàn vô vi cũng vậy. Chấp nhận điều nầy là có nên không có lỗi trái với tông. Nhưng căn cứ ở chân tánh để ngăn phá trạch diệt, nên đức Thế Tôn nói: người có tìm cầu Niết-bàn là tánh có. Như Lai nói họ là người si mê, đệ tử ngoại đạo, cho đến nói rộng. Lại nói: Như Lai không thấy sinh tử cho đến Niết-bàn. Nói Niết-bàn là Như Lai giả lập, trong đó đều không có tự tánh Niết-bàn, cho đến nói rộng. vì thế, cũng không có lỗi bài báng Thánh đế. Vì căn cứ Thế tục nói: Có ái khổ thì rốt cuộc không sinh, Niết-bàn xuất ly tịch tĩnh vi diệu, không điên đảo. Chẳng phải căn cứ Thắng nghĩa nói: có ái khổ rốt cuộc không sinh bản tánh tịch diệt, gọi là diệt đế. Do Thánh giáo nầy và đạo lý đã nói trên căn cứ ở chân tánh nên nói không trạch diệt thì không có lỗi nầy.
Có Luận giả chánh lý bất thiện vấn nạn: Chỗ lập tông nói vô vi không thật, vô vi đã không thì chỗ lập cũng không thành, chỗ dựa cũng không thành, vì hoa đốm hư không là không nên pháp có không thành. Nhân dụ lập tông đều có lỗi. Vấn nạn nầy không đúng. Muốn thiết lập lực ở nơi chỉ là không có vật có chất ngại, nên lập làm hư không. Do tuệ giản trạch ở nơi chỉ không có phiền não sinh khởi, nên lập làm trạch diệt. Do khuyết các duyên ở nơi chỉ không có các pháp sinh khởi nên lập phi trạch diệt. Ở nơi chỉ không có tất cả sở chấp nên lập làm chân như. Muốn thiết lập lực, chấp nhận có giả lập hư không là đồng đẳng nên không hiển bày sai biệt. Do sức cùng chấp nhận tổng lập có sai biệt của pháp, nên ngăn chặn trừ bỏ những thứ không cùng biết mà lập làm pháp của tông. Cùng biết rõ thứ không khởi…. kia lập làm pháp của nhân. Cho nên không có lỗi lập nhân của tông. Không hoa nói ấy, tuy không có sự, mà là pháp có của pháp không khởi, không có tự tánh là tánh, do đó nghĩa chủ thể thành, đối tượng thành được xác lập nên không có lỗi ở pháp không thể thành lập.
Các Sư Tỳ-bà-sa lại nói: Điều nầy cũng không đúng, trạch diệt thật có vì là đối tượng duyên của đạo, vì trái với phiền não nên chẳng phải không có pháp thật. Việc này đáng có. Câu nầy chỉ có tác dụng ngăn chặn phẩm dị như ngăn chấp hư không là tánh thật có. Ở trên đã phá đầy đủ, không nên chấp nữa!
Các Sư Kinh Bộ đều nói: Lập hư không v.v… đều chẳng phải thật có. Tỉ lượng (so sánh) như vậy đã thành thái quá! Nếu với nghĩa nầy mà nói thì không có tánh của sắc có trở ngại làm thể, chứ không phải đã lập xong thì kia mới là không. Vả lại, chỗ lập tông nói vô vi không thật. Lời nầy chính để loại bỏ sự chấp trước về tánh có thật, cũng như bên cạnh còn chấp trước về tánh “không” là thật.
Sư Đồng Diệp bộ lại nói: “Các sắc trong khe cửa hở gọi là hư không. Tông tôi lập đó là hữu vi”. Ông loại bỏ vô vi mà lập đã thành thái quá. Tự tánh hữu vi như trước đã loại bỏ nên cũng không đúng. Các sư Tỳ-bà-sa và Độc Tử Bộ phần nhiều giống với chấp đây, nên như kia mà phá.
Các sư phái Tương ưng Luận lại nói: Ở trên thắng nghĩa lại không có thắng nghĩa, chân như tức là thắng nghĩa của các pháp, nên căn cứ thắng nghĩa mà nói chân như không. Lời nầy xứng hợp lý. Nhưng nói chân như chẳng phải thật có, cho là điều nầy không xứng hợp lý thì làm sao trí không phân biệt xuất thế cùng với thế trí thanh tịnh hậu đắc nầy, duyên với cảnh vô vi là thích ứng chánh lý? Nếu quả thật là không hợp lý như nói trí nầy duyên với cảnh vô vi là không hợp chánh lý, như vậy trí nầy duyên với cảnh hữu vi cũng không thích ứng chánh lý. Chẳng phải chấp chân như thật có mới là ứng hợp với lý! Tánh thật có nầy vì khó thành lập nên trí duyên chân như, chẳng phải là trí xuất thế, không phân biệt. Vì có đối tượng duyên và vì cùng với hữu vi trí duyên nầy. Cho nên kinh nói: Nầy Mạn-thù-thất-lợi! Tuệ nhãn thấy gì? Đáp: Tuệ nhãn đều không có chỗ thấy. Lại nói: thế nào gọi là Thắng nghĩa đế? Đáp: Ở trong đó trí còn không hành, huống là các danh tự. Lại nói: Phạm chí! Bồ-đề Như Lai chẳng phải có thể hiện quán. Khế kinh lại nói: Nầy Mạn-thù-thất-lợi! Thế nào là kiến đế? Đáp: Trong đó không có một pháp có thể nhớ giữ. Các Khế kinh nầy đều không thuận cho, trí không phân biệt nầy là có thể hiện quán và duyên chân như. Lại nữa, chân như kia chẳng phải là chân thắng nghĩa, vì là đối tượng duyên cũng như sắc… Như ông nói ở trên thắng nghĩa lại không có thắng nghĩa. Những lời như vậy nghĩa là như trên vật này là “không” lại không có vật này nữa nên gọi là Không. Trên các áo lụa lại không có áo lụa, người chăn trâu cũng cùng biết rõ. Người kia cũng phải gọi là người thấy chân lý. Lại vì để đối trị các ác kiến nên nói về lý “Không” như vậy. Ở trên thắng nghĩa lại có thắng nghĩa, vì loại ác kiến nầy chưa từng có nên không cần ngăn trở người kia thuyết về lý Không như vậy. Lại nữa, chân như kia chẳng phải là tánh thật có, trái với thuyết như trước đã nói, là vì lý tỷ lượng. Như nói Như Lai không thấy sinh tử cho đến Niết-bàn, đã chánh biết rõ, chẳng có chỗ khởi phiền não của điên đảo, bản tánh rốt ráo là tự tánh không sinh. bản tánh rốt ráo chánh tri như vậy chẳng phải là chánh tri, chẳng phải là không chánh tri. Do Thánh giáo nầy nên phải biết chân như chỉ là sự diệt sạch hẳn tất cả phân biệt, chẳng phải là tánh thật có, chẳng phải là xa lìa chẳng phải có tánh thật. Chân như lấy chuyển y làm tướng, Pháp thân là thành tựu. Do được đạo đối trị chân thật của quán không, nên tất cả các chủng tử phân biệt, chủng tử biến kế sở chấp của tất cả sự phân biệt, chủng tử phân biệt trong thức dị thục đã nương tựa vĩnh viễn đoạn trừ không còn. Nhân duyên không nên rốt ráo không sinh, bản tánh không sinh, bản tánh thường trú, đó gọi là Như Lai chuyển y thành tựu pháp thân. Như Khế kinh nói: Mạn-thù-thất-lợi! Nói Như Lai tức là câu nói bản tánh không sinh rốt ráo, pháp thường không sinh gọi là Như Lai, cho đến nói rộng. Nếu nói chân như tuy lìa ngôn thuyết nhưng là thật có, tức như ngoại đạo nói ngã danh tưởng sai biệt, thuyết là chân như. Như chân như ấy tuy là thật có nhưng căn cứ ở thắng nghĩa thì phân biệt là có, chẳng phải có đều không thành. Tôi cũng như kia cũng cho là ngã; tuy là thật có hiện bày khắp, thường trú tác giả, thọ giả mà lìa phân biệt. Vì chẳng phải chỗ hành xứ của ngữ ngôn, vì giác tuệ phân biệt không thể duyên nên gọi là lìa phân biệt. Trong giáo kia nói: Vì ngôn thuyết không hành, tâm ý không chứng nên gọi là ngã. Tướng ngã đã vậy mà lại nói: Trí duyên chân như có thể đắc giải thoát, chứ chẳng phải trí duyên ngã. Điều nầy có khác biệt gì! Đều là không có ngôn thuyết, chấp có thật tánh chì là chấp giữ bè phái mà nói như thế. Vì vậy, tôi không thể tin nhận tương tợ như thế. Chân như của tôi nói là thật có mà chẳng phải có. Thôi tạm dừng tranh luận rộng. các người chán sợ văn nghĩa rộng sẽ khó thọ trì. Người thật sự nếm vị cam lồ sẽ tự đủ phân biệt thôi! Lại có người thuộc thừa yếu kém, thừa đồng loại nói như vậy: Mười hai xứ thâu gồm hữu vi, vô vi nhất định có tự tánh. Vì có mười sáu Thánh hạnh, quán bốn Thánh đế: khổ; hai đạo kiến, tu siêng năng tu tập, có thể dứt trừ tất cả lửa phiền não thiêu đốt thuộc kiến tu đạo và làm cho các khổ ba cõi chấm dứt. Nếu không khai mở tánh không các pháp thì ai sẽ có thể xả bỏ lỗi lầm như vậy, ai lại có thể tu công đức như vậy. Ba thừa tuy có tư lương về căn tánh giải thoát sai khác nhưng hiện quán Thánh đạo phải không sai khác. Tất cả như vậy tôi đều tin nhận, vì muốn đoạn trừ phiền não chướng. Dựa vào lý thế tục thì đạo kia sai biệt. Nếu lìa chứng nhập tánh vô ngã của pháp thì không thể đoạn dứt vĩnh viễn sở tri chướng. Đại sư phải nên thành tựu ít phần giải thoát để không nói giải thoát là giải thoát không sai biệt chăng chăng? Thật có thuyết nầy, vì đều đồng giải thoát phiền não chướng nên nói như vầy: Chẳng phải là tất cả chủng loại. Ví như lỗ chân lông và tánh thái hư tuy đồng nhưng chẳng phải không sai khác. Nếu không như vậy, thì nên không phát tác dụng thắng quả như ý thần thông, làm gì và quả chứng đắc chẳng phải là rốt ráo chân thật. Thôi tạm dừng bàn luận rộng, nên đi vào chánh luận!
Hành giả tu quán như đã ngộ nhập tánh không của hư không mà tông của mình đã nhận định; cũng phải ngộ nhập các cú nghĩa “không” về tự tánh, sĩ phu, cực vi, tự tại, thời, phương, mang v.v… của tông khác đã nhận định.
Trong đó, luận giả Tự tánh sĩ phu vấn nạn như vầy: Tông tôi cho tất cả trong ba cõi đều như hoa đốm hư không chuyển biến, chẳng phải không có hoa đốm ở hư không. Do kia là có đồng dụ, không trái với chỗ lập. Nay phải hỏi lại: Ông nói tất cả ba cõi đều tợ như hoa đốm giữa hư không chuyển biến. Như vậy, ba cõi là hoa đốm hư không hay không phải hoa đốm hư không? Nếu nói ba cõi đều là hoa đốm hư không thì trái với tự tông và mọi người cùng biết nên không hợp với đạo lý. Nếu nói ba cõi chẳng phải là hoa đốm hư không thì đó là không có đồng dụ thành tựu làm mất bản tông của ông. Nếu nói để không mất hoa đốm hư không, không có âm thanh và tánh có của ba cõi như đã nói nên là vậy thì nên quán sát kỹ: Ông cho tôi nói hoa đốm hư không không có là đồng pháp dụ hay nói hoa đốm hư không là đồng pháp dụ. Nếu ông cho tôi nói hoa đốm hư không không có là đồng pháp dụ thì tức là nhận xét ác. Vì tôi nói hoa đốm hư không là đồng pháp dụ. Nếu nói hoa đốm hư không là đồng pháp dụ tức là chẳng phải ba cõi. Không nên nói: vì ba cõi là có nên hoa đốm hư không cũng là có. Lời nầy hiển bày trí tuệ nhỏ yếu của chính ông. Lại theo nghĩa ngăn chặn, diễn giải mà nói ( già và thuyên), thì nghĩa ngăn chặn là hơn. Ngăn chặn cái đối tượng được ngăn rồi, công năng liền hết không thể còn biểu đạt sự sai biệt của cái đối tượng được ngăn. Những ngôn từ vấn nạn như vậy đã giải thích đầy đủ ở trước nên chẳng phải người có trí để tâm tin nhận. Các sư Số luận lại nói như vầy: Tuy ngã không thể đích thân hiện hữu, thành lập sĩ phu tối thắng, nhưng dựa vào sự cùng biết về các tụ biến dị, mà phương tiện thành lập thể của nó là có thật. Nghĩa là các sự hiển bày tức tánh có làm nhân, vì chủng loại có các chủng loại có tất cả đều thấy, tánh có làm nhân, như đàn phiến…. Sự hiển bày đã là chủng loại có nên tánh có làm nhân. Như vậy, sự hiển bày là có chủ thể thọ dụng và đối tượng thọ dụng. Với các đối tượng thọ dụng thì tất cả đều thấy có chủ thể thọ dụng. Như loại ăn uống của Bà la môn thọ dụng. Sự hiển bày đã là đối tượng thọ dụng nên có chủ thể thọ nhận. Tỷ lượng như nói ở trước liền trở thành chỗ trái hại của suy lường đối nghịch. Đây căn cứ thế tục nói, nếu dùng tổng tướng lập các sự hiển bày, với tánh có làm nhân thì không cần biện luận sai biệt, liền lập đã thành. Nếu lập sự hiển bày với lạc v.v… làm nhân, tức không có, nhân đồng dụ cũng không thành. Chủng loại: lạc… chẳng phải mọi người cùng biết. Nếu dùng tỷ lượng thành lập nhân mà nói thì bốn uẩn đều là tánh: vui, khổ, si, vì tánh uẩn nầy. Cũng như thọ uẩn tức là tánh si vừa nói chứ không phải thuộc về thọ uẩn, tức đồng dụ không thành. Lại nữa, sĩ phu và ông có nhiều thể tướng hiện bày khắp, có nghĩa tích tụ, tức là nghĩa uẩn. Do đó, nhân của sĩ phu trở thành bất định. Lại nữa, lạc… của ông mỗi mỗi khác biệt, mỗi một không thể lập tông, vì tánh uẩn nầy nên nghĩa nhân không thành. Nếu dựa trên thắng nghĩa thì có thật đàn phiến, tánh có làm nhân, nhưng chẳng phải cùng chấp nhận nên đồng dụ không thành. Lại căn cứ Thế tục nói, nếu dùng tổng tướng lập các sự hiển bày, có chủ thể thọ nhận, không luận sự sai biệt, liền lập đã thành, vì thế gian cùng biết, người thọ nhận là có. Nhưng nếu lập sự hiển bày, với người thọ nhận có thật thường trú hiện bày khắp lấy tư duy làm tự tánh thì đồng dụ không thành. Thể tướng như vậy, các Bà la môn chẳng phải cùng biết. Nếu căn cứ Thắng nghĩa với đồng dụ không thành, người thọ nhận và vật ăn, uống đều là tánh thật có, nhưng chẳng phải cùng biết. Cho nên tỷ lượng như trước nói không có suy lường đối nghịch có thể làm trái hại.
Các sư Thắng luận nói như vầy: Các hơi thở ra vào, nhắm mắt, mở mắt đều làm cho ý hành động. Tướng trạng của các căn biến động v.v… nhất định có tướng, của đối tượng là tướng của chủ thể. Như thấy khói… đây dựa Thế tục nói, nếu dùng tổng tướng lập các tướng kia thì nhất định có tướng của đối tượng, không luận sai biệt, liền lập đã thành, vì thế tục cùng biết ngã chẳng phải là không có. Nếu lập tướng ấy có tướng của đối tượng nơi ngã thường trú hiện bày khắp. Thì những đối tượng nương theo như lạc v.v… trở thành không có, và đồng dụ, trái với chỗ lập. Nếu căn cứ thắng nghĩa cũng có như vậy tức lỗi dụ không thành lập. Thời, phương, không v.v… do đạo lý nầy nên cũng phải ngăn phá.
Các sư Thắng luận lại nói như vầy: Cực vi cùng với ý ngã lập vô vi, thành lập nhân “Không” vì không khởi, nghĩa là tự nó chẳng thành nhân. Nếu cho hai việc ấy là thuộc hữu vi thành lập nhân Không vì duyên sinh, thì cái khác chẳng thành nhân, nên thành một ít phần về sự ngộ nhập tánh Không. Nếu ý và cực vi, thế tục cũng chấp nhận là vô vi thì có thể có vấn nạn này. Nhưng ý đã lập chẳng phải là sinh nhân của trí vô vi, giống như sắc… như là cú nghĩa với tánh đồng, dị là sanh nhân của ý niệm. Ngoài nên những thứ này, nhân tương ưng cũng nên nói. Lại nữa, các cực vi cũng chẳng phải vô vi, là chủ thể thành nhân, giống như tơ… như vậy, ngoài ra còn có nhân hợp, ly, đồng, dị v.v… tùy theo tương ưng cũng phải nói. Hoặc có vật thô do hai cực vi tạo thành, nó chẳng thường làm nhân, mà là đối tượng được tạo thành giống như bình… Như vậy, ngoài ra còn là đối tượng được tạo tác, có thể hoại diệt, vì là nhân có, những nhân nầy tùy theo tương ưng cũng nên nói. Do đạo lý nầy nên có chỗ vọng chấp vào cái khác, ý và cực vi đều là tự tánh không, cho nên không có lỗi như đã nêu.
Như đã nêu trên sẽ ngăn phá nhiều loại đạo lý, cú nghĩa của Số luận, Thắng luận. Chỗ chấp cú nghĩa của những luận vô y… cũng tùy theo chỗ thích ứng mà sẽ lập làm Không.
Trừ bỏ các lỗi như vậy xong, người tu quán hành nhờ sức chánh tỷ lượng, ngộ nhập tánh không vô vi của hai tông tự tha đã chấp nhận, tuy có lực nền tảng của trí tuệ do nghe hiểu (văn tuệ) đã bước vào lý tánh không nhưng khuyết thiếu sức tu thù thắng, chưa có thể đoạn trừ vĩnh viễn chướng ngại cần phải trừ nên lại tinh cần huân tập sức tu thù thắng. Nếu ở trong đây tùy có một loại là tướng vô vi còn hiện hành có gián đoạn, không gián đoạn, thì lúc ấy liền phải như lý quán tánh không ấy để trừ bỏ tướng kia, khiến không hiển hiện; ngộ nhập các pháp, xa lìa tự tánh nên tánh ấy vốn Không. Do tánh Không nên tướng không thành thật, tức là vô tướng. Do vô tướng nên không có gì để nguyện cầu, tức là vô nguyện, do lìa tướng cấu nên thành sự xa lìa. Do tánh xa lìa nên duyên phiền não kia rốt ráo không sinh nên thành tựu sự tịch tĩnh. Vì tự tánh không khởi nên thành không sinh, do không sinh nên không có vô thường, cũng không có khổ, cũng không vô ngã. Lại nữa, vì không sinh nên không có tướng, do vô tướng nên có thể dùng sự tu hành một tướng vô tướng quán tất cả pháp ngộ nhập không hai. Do hành tướng nầy nên siêng năng huân tập tu hành thù thắng, tăng trưởng sức tu thù thắng như vậy nên trừ bỏ được tướng thô, khiến cho không còn hiển hiện. Do đó nên làm cho tướng hành không có gì để hành, nghĩa là nắm giữ hành tướng hữu vi, vô vi. Như người bị hoa mắt, nếu lìa được sự hoa mắt thì mắt được sáng trở lại bình thường, nhưng không thấy được chỗ nắm giữ các tướng từ trước cho đến về sau. Tuy ở trong đó đã được vô trú nhưng do sự phân biệt: “Không”… hiện hành, tâm có công dụng vẫn còn trú liên tục. Nên chưa đạt được sự biết rõ không dao động về phân biệt “không” hiện hành, chướng ngại trí tuệ không phân biệt của đạo xuất thế. Vì muốn xả bỏ thì phải dũng mãnh thật sự siêng năng quán sát như thế. Dựa vào thắng nghĩa nên phân biệt Không… trên cảnh tánh Không, cũng chẳng phải có thật, vì từ duyên sinh, giống như huyễn… Siêng tu như vậy có thể trừ bỏ được sự phân biệt: Không…, nhờ trừ bỏ được vậy nên xa lìa nhị biên: Không và Bất không…, không dùng hành tướng không ấy để quán sát các pháp nữa. Như thuyết Bát nhã Ba-la-mật-đa, lúc chánh hiện hành, ở trên sắc ấy không quán là thường, không là vô thường, không quán là vui, cũng không là khổ, không quán là ngã cũng chẳng phải vô ngã, không quán tịch tĩnh cũng chẳng phải không tịch tĩnh, không quán là Không cũng chẳng phải Bất không, không quán là tướng cũng chẳng phải vô tướng, không quán là nguyện cũng chẳng phải vô nguyện, không quán xa lìa cũng chẳng phải không xa lìa. Cũng như vậy, đối với trong thọ, tưởng, hành, thức, tất cả sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, tất cả nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba-la-mật-đa, niệm trú, chánh đoạn, thần túc, căn lực, giác chi, đạo chi, tĩnh lự vô sắc đẳng chí thần thông, mười lực vô úy, các vô ngại giải, pháp bất cộng Phật, các Tam-ma-địa, môn Đà-la-ni, Nhất thiết trí đều không quán là thường cũng chẳng phải vô thường, cho đến nói rộng.
Đã có thể xa lìa nhị biên như vậy, tức có thể sinh trưởng diệu hạnh ở giữa (trung đạo). Chỗ lìa nhị biên này tức lý trung đạo. Do hai loại tỉ lượng như trên nói, thì sắc của hữu vi, vô vi giống như không có cho nên gọi là vô sắc. Do vô sắc nên cũng không có cùng các phân biệt tức không có một chút pháp có thể là tướng để biểu thị. Nói kia đã vậy, đây cũng như vậy nên gọi là không có biểu thị. Vì do vô tánh nên đối tượng nương tựa và chủ thể nương tựa đều không thành tựu. Vì không có trụ giữ nên gọi là vô trú. Hoặc tướng hữu vi, hoặc tướng vô vi, hoặc đối tượng phân biệt chẳng phải đối tượng phân biệt, hoặc chủ thể phân biệt chẳng phải chủ thể phân biệt, các tướng như vậy, tuệ giác biết không hiện hành nên gọi là vô hiện, xa lìa. Tất cả tướng có, tướng không các cảnh giới nầy thức đều không sinh nên gọi là không liễu biệt. Do vô sắc nên vô hình chất. Cờ hiệu các phương đều không có nên gọi là không cờ hiệu. Như Đức Thế Tôn bảo Ca-diếp-ba: Thường là một bên, vô thường là bên thứ hai. Ơ giữa hai bên nầy là không sắc, không biểu thị, không trú, không hiện, không có gì liễu biệt, không có cờ hiệu, đó gọi là diệu hạnh ở giữa quán sát như thật tánh của tất cả pháp. Nói rộng cho đến hữu vi là một bên, vô vi là bên thứ hai… cho đến nói rộng. Lại như Phật bảo Ca-diếp-ba: Minh và vô minh đều không có hai, không có hai sai biệt. Chánh trí trong đó thì gọi là diệu hạnh ở giữa. Đã có thể xa lìa nhị biên như vậy, thì ở trong tưởng không hai có thể an trụ, và cái tưởng không hai vốn khởi phân biệt ấy cũng có thể biết rõ đó là chướng ngại sự an trú tịch tĩnh và trí không phân biệt của đạo xuất thế. Như nhân đã nói có thể mau chóng dứt trừ vĩnh viễn, vì dứt trừ vĩnh viễn nhân ấy nên không có phân biệt ngữ ý như vậy, như vậy, cả hai ngôn thuyết đều cùng bặt dứt, chứng đắc vô động, vô hiện, vô tướng, lìa các hý luận, tánh thật của các pháp. Đối với các sở duyên kia không động mà chứng nhập, tự tướng diệu trí an trú tương tục. Tuy siêng tu tập quán “không” không có điên đảo nhưng đối với tánh Không trọn không tác chứng, như vậy gọi là tĩnh lự thắng nghĩa. Như đức Thế Tôn nói: Tuy tu tĩnh lự nhưng không nương sắc mà tu tĩnh lự. Như vậy, không nương thọ, tưởng, hành, thức mà tu tĩnh lự. Không nương nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý mà tu tĩnh lự. Không nương sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà tu tĩnh lự. Không nương nơi thân phân biệt an trú mà tu tĩnh lự. Không nương nơi tâm phân biệt an trú mà tu tĩnh lự. Không nương nơi đất, nước, lửa và gió mà tu tĩnh lự. Không nương nơi hư không, mặt trăng, mặt trời, tinh tú mà tu tĩnh lự. Không nương nơi Đế thích, Phạm vương Thế Chủ mà tu tĩnh lự. Không nương nơi Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới mà tu tĩnh lự. Không nương nơi đời nầy và đời khác mà tu tĩnh lự. Không cao không thấp, chứng trú vô động mà tu tĩnh lự. Không nương vào ngã kiến mà tu tĩnh lự. Như vậy không nương nơi hữu tình, mạng giả, dưỡng dục, sĩ phu, Bổ-đặc-già-la ý sinh, Ma-nạp-bà, kiến giải mà tu tĩnh lự. Không nương đoạn, thường kiến, kiến hữu, vô mà tu tĩnh lự. Không vì lậu tận mà tu tĩnh lự. Không vì thể nhập chánh tính ly sinh mà tu tĩnh lự. Không vì chứng quả mà tu tĩnh lự. Không vì rốt ráo không chỗ tạo tác mà tu tĩnh lự. Tuy vì tu tập quán “không” không có điên đảo mà tu tĩnh lự nhưng đối với tánh “Không”, không vì tác chứng mà tu tĩnh lự.
Luận giả Tương Ưng có định chấp nói: Tất cả phân biệt đối tượng được chấp giữ và chủ thể chấp giữ thảy đều xa lìa là trí không phân biệt xuất thế gian, tức ở trong đó khởi tưởng chắc thật, siêng năng tu tập. Có sự khác đối với nghĩa này suy xét kỹ mà nói: Trí sinh như vậy, tuy không phân biệt như đã nói ở trên nhưng vì tùy theo tướng nơi cảnh vô tướng mà dấy khởi, nên cái mà phân biệt theo đuổi của tự tánh ấy là hữu vi. Giống như một hiện lượng khác có giác biết phân biệt, không thành trí không phân biệt của đạo xuất thế. Lại cái đối tượng kia cho là ly tướng, ly ngôn, chân như thắng nghĩa, cũng chính là đối tượng duyên. Cho nên giống như một đối tượng duyên khác, không thành thắng nghĩa, tức do nhân đây đều có chứ chẳng phải tối thắng. Như Khế kinh nói: Thế nào ở trong đó gọi là Thắng nghĩa đế? Nghĩa là ở trong đó, trí cũng không hành. Lại như hỏi Mạn-thù-thất-lợi: Tuệ nhãn là phải quán chỗ nào? Đáp: Nếu có một ít đối tượng quán thì tức chẳng phải tuệ nhãn. Do tuệ nhãn đây không phân biệt nên không quán hữu vi, cũng lại không thể quán nơi vô vi, vì các vô vi chẳng phải là chỗ nên hành của tuệ nhãn nầy. Do giáo lý nầy, Luận giả tương ưng kia cũng nên đoạn trừ định chấp ấy. Lại suy xét kỹ nói: Dựa theo Thắng nghĩa đế thì trí không phân biệt của đạo xuất thế như vậy cũng chẳng phải có thật, là từ duyên sinh nên cũng như huyễn sĩ. Đối với đối tượng nơi có, có lỗi lầm vướng mắc, và xem thấy như lý phải chính thức trừ bỏ. Nếu trí có thể dứt trừ định chấp như vậy, ở đây cũng như kia, đều có lỗi lầm nên không siêng năng xét kỹ, khai thị nữa, những chấp trước như vậy vốn đã diệt rồi thì đối với tánh nơi cảnh vô tướng của chỗ nên nhận biết cũng không hành giải, vì khuyết thiếu nhân duyên nên trí khác không sinh. Do không hành giải, cho nên gọi là hành giải chân thật. Như Thế Tôn nói: Thế nào gọi là hành giải chân thật? Nghĩa là đối với các pháp đều không hành giải thì đó gọi là hành giải chân thật? Lại như kinh nói: Bồ-đề Như Lai đều không hiện quán. Lại như Đức Phật hỏi Mạn-thù-thất-lợi: Các người kiến đế phải thấy chỗ nào? Đáp: Không có chút pháp có thể thấy. Vì sao? Vì hễ có đối tượng nhận biết là đều có hư vọng. Nếu không có đối tượng nhận biết mới gọi là kiến đế. Lại hỏi: Thế nào là siêng năng ứng tu hiện quán? Đáp: Nếu biết không có một ít pháp tư duy phân biệt thì như vậy là siêng năng ứng tu hiện quán. Lại hỏi: Thế nào là đã chứng hiện quán? Đáp: Nếu có thể quán tất cả pháp đều là tánh bình đẳng. Lại hỏi: Có chủ thể thấy tánh bình đẳng của tất cả pháp chăng? Đáp: Không có chủ thể thể thấy tánh bình đẳng. Nếu có đối tượng thấy thì sẽ thành thấy không bình đẳng. Hiện quán kiến đế, hành giải chân thật đều đồng một nghĩa. Người tu quán hành thì tâm, ý, thức, trí lúc ấy không hành, đó gọi là tuệ chánh hành không phân biệt. Nếu có thể hành mà không có gì là hành như vậy thì được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chân thật thọ ký. Như Khế kinh nói: Bạch Thế Tôn! Bồ tát tu hành thế nào nơi Chánh đẳng Bồ đề Vô thượng ấy để được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chân thật thọ ký? Nầy Phạm chí! Bồ-tát nếu ở lúc nầy không hành nơi sinh, không hành nơi diệt, không hành nơi thiện, không hành nơi bất thiện, không hành thế gian, không hành xuất thế gian, không hành hữu lậu, không hành vô lậu, không hành có tội, không hành vô tội, không hành hữu vi, không hành vô vi, không hành tương ưng, không hành bất tương ưng, không hành nơi đoạn, không hành nơi bất đoạn, không hành sinh tử và Niết-bàn, không hành nơi kiến, văn, giác, tri, không hành nơi thí và xả bỏ, không hành nơi giới và luật nghi, không hành nơi nhẫn, không hành tinh tấn, không hành tĩnh lự, không hành đẳng trì, không hành nơi tuệ, không hành nơi giải, không hành nơi trí, không hành nơi chứng. Bồ-tát hành mà không có gì là hành như vậy, nơi Chánh đẳng Bồ đề Vô thượng ấy được chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chân thật thọ ký.
Tuệ hành như vậy gọi là Thánh mặc nhiên. Như Khế kinh nói: Nơi ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề, như lời phật dạy mà khai thị như thật, đó gọi là thuyết pháp. Lại đối với pháp nầy, tuy dùng thân chứng nhưng không quán sát có pháp lìa thân, cũng không quán sát có thân lìa pháp. Quán sát như vậy, nghĩa là quán không hai, cũng chẳng phải không hai. Lúc quán như vậy không tùy theo sự quán sát của tri kiến hiện lượng, vì không quán sát nên gọi là Thánh mặc nhiên. Nhờ giáo lý nầy nên lúc quán sát kỹ tự tánh của tất cả pháp hữu vi, vô vi thì không có gì có thể là tự tánh của cảnh giới: hoặc tâm, hoặc tuệ, hoặc có phân biệt, hoặc không phân biệt. Biết như vậy rồi thì ánh sáng mặt trời minh tuệ có thể chiếu trừ tất cả sự tối tăm ngu si.
Cảnh hiện các tâm, tuệ
Người trí do không thủ
Tuệ hành không phân biệt
Không gì hành mà hành.
Trong đó có thể hội tụ chủng tử các hành, hoặc vì chỗ tập hợp của chủng tử các hành gọi là tâm. Có thể nắm giữ thắng đức, hoặc nhờ sự nắm giữ ấy mà làm cho không tan mất, cho nên gọi là tuệ. Đối tượng hành của tâm tuệ gọi là cảnh của tâm tuệ. Đối tượng hành của cảnh địa gọi là sai biệt ở tâm, cảnh tức là tất cả các tướng hữu vi, vô vi, tuệ cảnh tức là tất cả tánh không hữu vi, vô vi. Như Khế kinh nói: “Tuệ” vô tướng phân biệt không hề chuyển, “Hiện” là hiển hiện, tức là nghĩa hiện ra tương tợ tánh tướng của cảnh giới đối tượng hành nơi tâm tuệ… “chư” nghĩa là các là địa, tùy theo một loại của nó hoặc tổng, hoặc biệt. Mắt… và sắc… như vậy tùy theo một loại của nó hoặc tổng, hoặc biệt. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức như vậy, tùy theo một loại của nó hoặc tổng, hoặc biệt. Niệm trú, chánh đoạn, thần túc, căn lực, giác chi, đạo chi, Ba-la-mật-đa, tất cả thần thông, mười lực vô úy, pháp Phật bất cộng, các Tam-ma-địa, môn Đà-la-ni, Dự lưu, Nhất lai và Bất hoàn, hoặc tất cả đạo quả A-la-hán, tùy theo một loại của nó hoặc tổng, hoặc biệt, nói rộng cho đến Nhất thiết trí tri. Đối với tất cả pháp có thể nhận biết rõ tánh không điên đảo nên gọi là “Người trí”. “Do” nghĩa là nhân duyên xả tướng. Nói “không thủ” nghĩa là không chấp, không thấy, tức là nghĩa giác tuệ không lường xét. Do nhân không giữ lấy (thủ) nghĩa là không chấp, không thấy, tức là nghĩa giác tuệ không lường xét. Do nhân không giữ lấy là chứng đắc gì? Câu “ Tuệ hành không phân biệt, không gì hành mà hành”: Tuệ tức là trí không phân biệt. Tuy xa lìa vĩnh viễn tất cả phân biệt, mà tăng ích giác tuệ, tạm gọi là trí. Giống như cảnh giới không ảnh tượng, vô tưởng, vô ngôn, khởi tướng tự tánh phân biệt, cũng không có nên gọi là không phân biệt. Tuy là vô trú nhưng dựa ở vị trí khác nên tên gọi tạm được kiến lập. Như nói đèn diệt, A-la-hán diệt. Giác tuệ tăng ích là dựa vào thế tục mà nói. Nói nơi sự tương tục nầy gọi là không phân biệt. Như trí phân biệt gọi là có phân biệt. Trong đó ý thủ, trí không sinh hành, đó gọi là hành. Do trí nầy hành tất cả chủng tướng, pháp tánh tự, tha, chẳng phải đối tượng nhận thức nên không gọi là chủ thể nhận thức, tức chẳng phải chủ thể nhận thức gọi là chân kiến, như chỗ chứng đắc. Chẳng phải chẳng phải là đối tượng nhận thức làm tướng nơi đối tượng nhận thức, hoặc có phân biệt hoặc không phân biệt, chân kiến được thành. Nếu chân như là tánh của đối tượng nhận thức thì không nên nói là chẳng phải tánh có thể thấy biết. Tuy nương vào thế tục có nhận thức bình đẳng nói là chân kiến nhưng không nên chấp vào nhận thức không bình đẳng nầy gọi là chân kiến. Các thứ có thể nhận thức đều là không chân thật, vì là nhân dấy khơi sự hiểu biết. Như như bóng nước trên mặt đường giữa trưa nắng gắt (dương diệm), tất cả có thể thấy mà đều chẳng phải chân thật. Nếu chân như là tánh có thể thấy biết thì nắm giữ tướng có thể thấy biết không thành chân kiến. Nếu chẳng phải có thể thấy biết thì không nên nói là chứng thấy chân như. Thấy và không phải có thể thấy há gọi là bình đẳng. Lại nữa, trí hữu vi, tánh chân như vô vi không bình đẳng. Nếu là thấy thì phải thành thấy không bình đẳng. Lại tánh các pháp đều chẳng phải chủ thể thấy, thấy cũng phải vậy, vì cùng lấy không sinh làm tự tánh. Chẳng phải thấy như vậy tạm gọi là thấy, chẳng phải không bình đẳng. Lại nữa, một sát na chứng tất cả pháp đều không hiện quán gọi là chân hiện quán. Không nên vấn nạn: Vì tự thể phản chiếu khó thành lập nên trí phải không chứng thật tánh của trí. Cả hai loại đều chẳng phải tánh nơi cảnh có thể nhận thấy, vì không sai biệt nên đồng thời cùng chứng. Nếu căn cứ thắng nghĩa thì giống như trí nơi cảnh tướng, vì bản tánh không sinh nên không hiện quán, cũng không chứng đắc. Như Khế kinh nói: Ông không nên dùng hiện quán mà chứng đắc, quán thể Như Lai là vô vi, vì vượt trên tất cả đối tượng hành của mắt. Như thể, Phạm chí! lúc Như Lai an tọa nơi tòa Bồ-đề chứng tất cả pháp đều không có gì là đạt được, vĩnh viễn dứt trừ tất cả phiền não do hư vọng điên đảo dấy khởi. Những kinh như vậy thảy đều tùy thuận. Thôi tạm dừng bàn rộng, nên bàn chánh luận. Du hóa gọi là hành, không du hóa gọi là không có gì hành, là nghĩa không hành giải, không sinh dấy khởi. Tuệ không phân biệt do không hành tướng mà là hành tức không có gì là hành gọi là hành. Đây là lược thuyết, còn lại như phần trước nói về thành lập quả do chánh cần.
Người tu quán hành tức là tuệ hành không phân biệt như vậy, không hành mà hành, hành tức là không hành, xa lìa tất cả sở duyên tác ý. Đối với tất cả pháp đều không có gì chấp trụ, giống như hư không. Xả bỏ tất cả biến kế phân biệt, vắng lặng thuần nhất như nhập diệt định quán tánh các pháp. Pháp thân chư Phật không thể nghĩ bàn, không thể liễu biệt, không nhị, không tàng, không tướng, không kiến. Không thể biểu thị, không sinh, không diệt, không có khởi tận, vắng lặng đạm bạc không có sai biệt, không tướng không ảnh, lìa các vết nhơ, vượt trên tất cả nẻo đường cảnh giới của giác tuệ, ngữ ngôn. Tuy quán như vậy mà không có gì là thấy, không thấy mà thấy, thấy tức không thấy. Tiếp nhận những thứ thuộc về cái thấy vi diệu như vậy, nên có thể tăng trưởng vô lượng tụ phước chân chánh, có thể cảm nhận vô biên quả lạc vi diệu, một vị thanh tịnh có thể diệt trừ khổ cho mọi người. Như Dược thọ vương tạo lợi ích cho tất cả chỗ mong cầu chính đáng. Chánh quán Pháp thân Như Lai như vậy, là không thấy tướng có, tướng không của các pháp nên gọi là chánh kiến. Vì dứt bặt tất cả biến kế phân biệt gọi là chánh tư duy. Do chứng các pháp, lìa các hý luận, tất cả ngữ ngôn đều lặng dừng gọi là chánh ngữ. Do tất cả pháp chẳng phải là tánh tạo tác nên chẳng tạo cho chúng nhân nơi nghiệp thân, ngữ, ý gọi là chánh nghiệp. Vì tất cả pháp đều là pháp tánh không tăng không giảm, tất cả sự tăng giảm vĩnh viễn đều không sinh gọi là chánh mạng. Vì dùng tất cả pháp đều làm phương tiện dõng mãnh không có tạo tác, không chỗ phát khởi gọi là chánh tinh tấn. Vì đối với các pháp rốt ráo không chứng tánh nơi cảnh có, không, không nhớ nghĩ, không có gì là tư duy gọi là chánh niệm. Vì tất cả chủng tử không chấp giữ, các pháp, không có gì là nương trú gọi là chánh định. Chánh quán như vậy là có thể tu như tám Thánh đạo nầy. Nghĩa này rộng như khắp chổ trong tạng Bồ-tát đã tuyên nói.
Chánh quán như vậy chẳng những có thể tu tám chi Thánh đạo, mà cũng có thể lược thuyết viên mãn sáu loại Ba-la-mật-đa. Tuy không có gia hạnh nhưng có việc nầy. Nghĩa ấy là sao? Nghĩa là có thể xả bỏ tất cả chủng tướng và có thể xả bỏ tất cả phiền não, đó gọi là Thí Bala-mật-đa, có thể ngưng nghỉ tất cả đối tượng duyên tác ý, tu không thủ đắc, đó gọi là Giới Ba-la-mật-đa. Đối với mọi đối tượng duyên, có thể không nhẫn thọ, đó gọi là Nhẫn Ba-la-mật-đa. Không thủ không xả, lìa tất cả hành, đó gọi là Tinh tấn Ba-la-mật-đa. Tất cả tác ý đều không hiện hành, đều không hề chấp trụ, đó gọi là Tĩnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tất cả pháp, không khởi hý luận, xa lìa hai tướng, đó gọi là Bát nhã Ba-la-mật-đa. Nghĩa nầy tuyên thuyết rộng nhiều chỗ trong kinh Phạm Vấn. Sự an trú vi diệu có vô lượng môn như thế, trong vô lượng kinh, Đức Thế Tôn đã nói rộng, có nghĩa lợi lớn, nhiều lợi ích. Các bậc có trí nên biết như thật, lìa các phóng dật, phải siêng năng tu học.