LUẬN ĐẠI TRƯỢNG PHU
Tác giả: Bồ-tát Đề Bà La
Hán dịch: Đời Bắc Lương, Sa-môn Đạo Thái
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN THƯỢNG

Phẩm 1: THÍ THẮNG

Kính lạy Đẳng Chánh Giác
Thế Tôn đại từ bi
Nhân đấy khởi chánh pháp
Chân tế trong ba cõi.
Chúng trung tôn đệ nhất
Chứa công đức vô lượng
Vốn hành hạnh Bồ-tát
Con sẽ nói phần ít.
Nay con thương chúng sinh
Mở bày môn thí diệu
Tất cả các hiền sĩ
Cần hoan hỷ lắng nghe.
Lúc Bồ-tát hành thí
Đại địa thảy chấn động
Biển lớn trào các báu
Mây tuệ mưa hoa diệu.
Vô tâm còn như vậy
Huống hồ loài tình thức?
Bồ-tát thí rộng lớn
Như cảnh giới hư không.
Giả sử Tiên năm thông
Đầy khắp mười phương cõi
Lắng nghe hãy còn khó
Huống lại phân biệt nói.
Không có địa phương nào
Mà không dùng nước thí
Nước sạch ngấm vào đất
Không nơi nào không khắp.
Không có một vật gì
Bồ-tát chưa từng thí
Không có một chúng sinh
Chưa từng thọ cúng thí.
Luận nói về đại địa
Tất cả nên lễ ông
Vì sao lễ đại địa
Nơi Bồ-tát hành thí.
Bồ-tát một ngày thí
Vô số các tạp vật
Phật-bích-chi trăm kiếp
Không thể biết biên vực.
Sở dĩ không thể biết
Đại bi là thể thí
Thường thành quả chủng trí
Vì nhân thí rộng lớn.
Đây là người trí nói
Bố thí đến bờ kia
Nếu khi đến bờ kia
Các độ thảy đầy đủ.
Nghĩa Ba-la-mật ấy
Gọi là hòa tập thanh
Giống như nơi nhiều người
Gọi đó là đại chúng.
Chủng tử của Bồ-đề
Hay thành quả đại trí
Tất cả các việc đủ
Thành thảy đều do thí.
Bố thí sinh cõi trời
Bào thai của xuất thế
Thí vô tướng là tuyệt
Bình đẳng là tối thắng.
Thân và vật đều thí
Không hề có tiếc nuối
Tất cả nơi bố thí
Không một nơi nào không.
Tất cả thời đều thí
Không lúc nào không thí
Ở trong bốn bố thí
Tâm trí luôn bất động.
Người hành thí như vậy
Gọi thí bất tư nghị
Nếu thí một chúng sinh
Tất cả đều được vui.
Nếu thí không như vậy
Đó gọi là khi dối
Tuy gọi thí một người
Là bố thí hết thảy.
Sở dĩ gọi tất cả
Vì tâm đại bi phủ
Đại bi sở dĩ trùm
Vì cầu quả chủng trí.
Cúng dường Phật, La-hán
Ruộng phước tốt thế gian
Không thương, thí bình đẳng
Là bố thí tối thắng.
Thí vô lượng của báu
Không bằng tạm thời dừng
Tâm bi thí một người
Công đức như đại địa.
Vì mình thí tất cả
Phước báo bằng hạt cải
Cứu người khỏi ách nạn
Hơn hẳn mọi điều thí.
Các sao tuy ánh sáng
Không bằng một vầng trăng
Tâm chúng sinh thô trược
Bố thí luôn vì mình.
Bồ-tát tâm bi thí
Như tro trừ sạch cấu
Từ bi thí cứu giúp
Khắp vì mọi chúng sinh.
Từ bi thí như vậy
Công đức không cùng tận
Thí vi diệu như thế
Chúng sinh đều an vui.
Dốc cầu trí tuệ Phật
Tâm không hề chán đủ
Tâm bi thí như vậy
Thường diệt chướng vô minh.
Mở dẫn dắt người ngu
Khiến đạt mắt trí tuệ
Thường diệt các kiết – sử
Trừ bỏ già bệnh chết
Thí cùng với tâm bi
Cam lồ của chúng sinh.

Phẩm 2: THÍ THẮNG VỊ

Đại bi phát khởi thí
Ý nguyện thành Bồ-đề
Người thấy biết như thế
Thành tựu mọi bố thí.
Thí tất cả như thế
Trọn thành trí nhất vị
Tâm đại bi là thể
Thường khởi vô số thí.
Vô số cứu chúng sinh
Đến được nơi trí tuệ
Thường diệt mọi ái kiết
Cùng cấu bẩn vô minh.
Luôn khiến mọi chúng sinh
Thảy đều được an lạc
Tâm bi thí như vậy
Ai không sinh yêu thích.
Tâm đại bi đã khởi
Công đức nơi thí lớn
Không thể sinh yêu thích
Quay lưng lìa cứu giúp.
Người nầy vì ái buộc
Thật khó đạt Bồ-đề
Người muốn cầu quả Phật
Vui thích thí cam lồ.
Người trí vui bố thí
Vui pháp vị Bồ-đề
Thấy rõ lỗi ba cõi
Niết-bàn pháp vị vui.
Muốn nhanh chóng xa lìa
Trong một niệm không trụ
Lại thấy vui thích thí
Lại hơn hẳn Niết-bàn.
Vui thích thí tự tại
Tâm liền quên Bồ-đề
Tâm đã quên Bồ-đề
Là Bồ-đề khó đạt.
Tự quán tâm vui thí
Vì thương xót chúng sinh
Không hiểu vị lạc thí
Thí có ba vị vui.

Một là vị bố thí cầu phước báo. Hai là vị bố thí cầu giải thoát. Ba là vị bố thí cầu tâm đại bi.

Ba loại vị nầy là ý vị bố thí làm tăng trưởng an lạc.

Phẩm 3: CHỦ THỂ THÍ

Người thọ nhận được vô lượng châu báu nên tâm vô cùng hoan hỷ. Người ban thí, lúc thực hiện một phần bố thí nhỏ, tâm cũng hết sức hoan hỷ, hơn hẳn người thọ nhận gấp trăm ngàn vạn lần. Nếu hành thí có thể như vậy thì đó là hạnh bậc nhất.

Thành tựu hạnh cứu giúp
Uống cam lồ đại bi
Bồ-tát hành hạnh nầy
Trừ hẳn xan – bệnh – già.

Tâm bi của Bồ-tát lấy bố thí làm thể. Chúng sinh ở thế gian lấy kiết sử làm thể, chỉ thuần lấy các khổ cho là một vị, để được yên vui nên thực hành tâm bi bố thí. Mặt trời lấy chiếu sáng làm dụng. Mặt trăng lấy trong lành làm tánh. Bồ-tát lấy tâm bi làm thể, trí tuệ và của cải đem bố thí để làm cho tất cả được yên vui. Như từ Ca-la-la (Thời kỳ thai kết sau bảy ngày) cho đến lúc già là mười giai đoạn sai biệt, tuy đến khi già nhưng không xả bỏ tướng trẻ thơ. Bồ-tát đem hết tâm bố thí cứu giúp chúng sinh cũng không lìa bỏ phàm phu. Lìa cõi Dục đến cõi Phi tưởng, không rời xa tướng của phàm phu. Bồ-tát không xả bỏ tâm bố thí sự cứu giúp chúng sinh, lại cũng như vậy. Muốn trừ cơn khát bố thí cần phải uống nước đại bố thí, cơn khát bố thí tạm thời ngưng lại, nhưng các thứ khát khác vẫn còn mãi không thôi, vì yêu thích bố thí. Tất cả chúng sinh dựa nơi ăn uống mà sống, còn đại bi cũng vậy, dựa nơi bố thí mà tồn tại. Pháp của thân Bồ-tát không nương vào ăn uống mà được tồn tại. Đại bi là thức ăn giữ gìn thân của Bồ-tát. Tâm bi như lửa, mong muốn bố thí giống như đói, bố thí như thức ăn, Bồ-tát vui thích ban bố không bao giờ có sự chán đủ. Tâm bi như biển cả, bố thí như đá ốc tiêu (Núi đá hút nước nơi đáy biển lớn), tâm cứu tế là nước, như đá ốc tiêu nuốt chửng dòng nước. Mong muốn hướng đến Bồ-đề lấy chúng sinh làm bạn, tâm bi làm thể, bố thí không hề thấy đủ như biển cả, gồm thâu mọi dòng nước mà không bao giờ ngừng lại.

Tất cả chúng sinh đến
Mỗi mỗi mong vật khác
Bồ-tát đều ban phát
Tâm không có mỏi mệt.
Mọi chúng sinh khổ não
Thảy đều được diệt trừ
Giả như chưa dứt trừ
Tâm chẳng hề chán đủ.

Phẩm 4: THÍ CHỦ KHẤT GIẢ TĂNG TRƯỞNG

Người có đại bi tức có khả năng ở nơi sinh tử bố thí tất cả để diệt trừ đau khổ cho chúng sinh. Nếu đạt được như vậy thì khéo an trụ trong sinh tử.

Phước đức trượng phu thiện
Tâm Bi thí cùng tuệ
Vượt bùn lầy bần cùng
Cứu người không tự thoát.

Tâm bi làm thể nên có khả năng thực hành đại bố thí diệt trừ đau khổ cho chúng sinh. Như vào lúc nóng nực, mây mưa ầm ào nổi lên, mây đại bi phát khởi trút xuống cơn mưa lớn bố thí, phá trừ sự bần cùng, như hủy hoại núi đá, cứu giúp kẻ bần cùng nên bố thí không hề giới hạn, khiến kẻ nghèo khổ kia mãi mãi lìa xa đói khó khổ cực. Dùng mưa đại bố thí rưới khắp, tạo lợi ích cho tất cả, chúng sinh bần cùng vĩnh viễn không còn ở nơi đau khổ. Bồ-tát vì cứu giúp chúng sinh nên lúc tu hạnh bố thí, ma cùng đám quyến thuộc đều sinh tâm đố kỵ buồn lo khổ não. Lúc Bồ-tát tu tập hành thí vô lượng của cải và giáo pháp, thì các thứ tham lam keo kiệt đố kỵ thảy đều hoảng sợ, gào khóc, không thứ gì là không lo lắng, kinh hãi.

Tâm Bi trang nghiêm thân
Tâm Bi là ngàn mắt
Thí là chày kim cang
Bồ-tát như Đế Thích.
Tất cả đều đánh bại
A-tu-la bần cùng
Cùng tâm Bi Bồ-tát
Đủ loại thí làm tên.
Phá giặc oán nghèo khổ
Mãi không còn chỗ trụ
Tâm Bi gốc kiên cố
Ái ngữ dùng làm thân.
Nhẫn nhục làm cành, nhánh
Bố thí dùng làm quả
Người cầu là chim, nai
Người xin như gió lớn.
Thổi rụng quả bố thí
Người nghèo được đầy đủ
Bồ-tát hiện giữa đêm
Tâm Từ như trăng tròn.
Tịnh thí làm ánh sáng
Người cầu như sen trắng
Nhờ ánh sáng tịnh thí
Khiến đều được nở rộ.

Người xin đã được đầy đủ nên vui vẻ sung sướng, chuyển sang ban bố cũng như Bồ-tát. Người cho người cầu xin kia lần lượt cùng nghe cũng như Bồ-tát. Bồ-tát bố thí tất cả đều nghe biết, những người bần cùng đều đến quy phục, như cây to lớn giữa cánh đồng rộng lúc người đi đường nóng nực đều tụ đến nghỉ ngơi. Mến mộ, yêu thích tên gọi thù thắng của Bồ-tát nên đạt được nơi chốn tốt đẹp. Vì sao? Vì khiến cho người cầu xin tìm tới, làm cho mình đạt được phước bố thí, vì phước bố thí nên gọi là đạt được nơi chốn tốt đẹp, tất cả chúng sinh đều đến quy tụ. Đại sĩ như thế thảy nên kính lễ. Tâm Bồ-tát hoan hỷ tức biết thân nhẹ nhàng, vì tướng nầy nên biết chắc chắn có người đến cầu xin. Nếu có người đến thưa với Bồ-tát: Có người cầu xin tới, Bồ-tát hoan hỷ liền lấy của cải ban thưởng cho sứ giả. Bồ-tát liền lấy vật khác ban cho người xin. Thấy người cầu xin đến thì hoan hỷ ái kính. Người cầu xin nói xin ăn, lúc nói lời nầy trong tâm Bồ-tát hiện rõ sự thương xót. Nếu có người cầu xin không biết thể tánh của Bồ-tát là vui thích bố thí, Bồtát cầm tay hoan hỷ chuyện trò, giống như bạn thân. Lòng dạ người kia không biết, khiến sinh khởi tướng biết. Người cầu xin kia có được của cải nên rất vui vẻ, người bên cạnh nhìn thấy cũng lại vui vẻ, nguyện cho mình và người cứu giúp nầy trường tồn ở thế gian. Đây chính là cứu giúp chân thật cho người cầu xin. Lúc Bồ-tát thấy người cầu xin thì thân tâm vui vẻ, khuôn mặt tựa trăng tròn, khiến cho tâm người cầu xin kia cũng vui sướng như được cam lồ rưới nơi tâm. Bồ-tát vui vẻ hòa nhã, đem tâm từ bi nhìn người trước mắt như uống vị cam lồ. Giống như có người ăn trộm đồ vật của người khác, mang đến chợ bán, nếu bán được mau thì tâm rất vui mừng. Lúc Bồ-tát được bố thí đồ vật cho người cầu xin, tâm vô cùng hoan hỷ vượt hơn điều ấy. Như người rất giàu có, của cải châu báu nhiều vô cùng, ngàn con đầy đủ tùy ý ban cho, lòng càng thương yêu vui sướng, không bằng tâm cùng cực hoan hỷ ban cho của Bồ-tát đối với người cầu xin. Bồ-tát khi thấy người cầu xin, tâm vô cùng hoan hỷ, hơn hẳn người giàu có kia thấy những người thân của họ. Hoặc thấy người trước được nhiều của cải châu báu, tùy tâm mặc ý tự chuộng giữ. Bồ-tát thấy vậy càng sinh tâm hoan hỷ. Nếu lúc nhìn thấy người cầu xin cất lời: Tâm khao khát bố thí của Bồ-tát thật sâu rộng, tai nghe lời nói của người cầu xin như uống vị cam lồ. Hoặc nghe lời nói của người cầu xin mà tâm sinh ái kính, thì không ai có thể hủy hoại được. Hoặc nghe đầy đủ thì hủy hoại tâm tham ái. Bồ-tát đối với người cầu xin thường sinh ý niệm yêu thương. Hoặc nghe đầy đủ âm thanh thì lòng dạ tràn đầy ý vị yêu thương ấy. Bồ-tát quán xét phước điền thọ thí trước, chỉ có người cùng như chúng ta nhân đó thấy tham ái, chúng sinh tức giống như chúng ta. Vì sao như vậy? Vì tâm tham kia không được đầy đủ thì tâm thí của mình không chán lìa. Tâm tham kia là yêu thích đại thí chủ.

Bồ-tát thấy nhiều người cầu xin cũng sinh tâm ái kính sâu xa. Người tham cầu thường cầu người bố thí, muốn cầu người bố thí luôn ban cho những gì người cầu xin mong muốn. Bồ-tát thường cùng với người cầu xin ở thế gian, đều đến nơi người bố thí để cầu xin. Bồtát chính vì người cầu xin mà bố thí. Người cầu xin nghe người bố thí hết sạch của cải châu báu thì sinh ra khổ não vô cùng. Lúc người cầu xin không được, tâm Bồ-tát sinh ưu não còn vượt quá người kia trăm ngàn vạn lần. Đối với người cầu xin, Bồ-tát suy nghĩ: Đức Phật dạy cầu không được thì khổ, thật đúng như vậy. Bồ-tát đối với người cầu xin sinh ra ý tưởng khó gặp. Vì sao? Vì nếu không có người cầu xin thì bố thí Ba-la-mật không đầy đủ, Bồ-đề vô thượng tức không thể đạt được, nên đối với người cầu xin sinh ra bi não lớn. Nếu có người cầu xin thì Bồ-đề vô thượng mới có thể đạt được không khó. Bồ-tát nghe người cầu xin nói “Ban cho tôi, ban cho tôi” thì tâm sinh hoan hỷ, người nầy sẽ ban cho mình quả vị Bồ-đề vô thượng. Chúng sinh ngu tối ở thế gian nếu nghe cầu xin của cải thì sinh ra khinh thường, không hề ái kính. Bồ-tát nghĩ sở dĩ gọi là người cầu xin, vì chúng sinh phần lớn là ngu tối, do tâm tiếc lẫn nên tạo ra tên gọi xấu ác. Những người như vậy mới đáng gọi là người bố thí, là tuy có của cải nhưng lại không có tâm bố thí, tuy có tâm bố thí của cải nhưng lại không có người thọ nhận. Nếu đầy đủ ba việc ấy thì người nầy là đại phước đức. Như có người nghèo khổ gặp được kho báu lớn, cũng sinh tâm sợ hãi. Hoặc do vua quan, trộm cướp, lửa nước ập đến bất ngờ thấy mà chiếm đoạt, gặp người bạn thân bèn nói: Tôi nay vì ông tạo các phương cách khiến không mất mát, nên lập tức vui mừng vô cùng. Bồ-tát gặp được người cầu xin lấy làm bạn tốt, tâm vô cùng hoan hỷ cũng lại như vậy. Tâm bi của Bồ-tát bao trùm tất cả mọi nơi chốn, đối với người cầu xin kia sinh lòng thương xót đặc biệt. Tâm bi của Bồ-tát thấy người cầu xin luôn vui vẻ hòa nhã, khiến người cầu xin kia phát sinh ý tưởng tất sẽ đạt được. Lúc người cầu xin nhìn thấy nét mặt vui vẻ, hòa nhã của Bồ-tát, liền phát sinh ý tưởng nhất định đạt được. Bồ-tát khi nhìn thấy người cầu xin, nói: Ông nay muốn những gì, cứ tùy ý mà lấy! Rồi nói lời an ủi: Hãy đến đây Hiền giả, đừng sinh lòng sợ hãi, ta sẽ làm nơi nương tựa cho ông! An ủi người cầu xin với vô số lời như thế, thường dùng ái ngữ làm cho tâm người cầu xin cảm thấy mát mẻ. Bao nhiêu của cải châu báu tùy ý ban cho. Những người cầu xin luôn đầy dẫy lửa tham, Bồ-tát thường dùng sữa bố thí để diệt trừ lửa tham cầu. Nếu người có thể bố thí những loại như vậy, gọi là người sống, nếu không thể hành trì như thế gọi là người chết. Người thọ nhận bố thí được của cải vật dụng nhiều, những người khác thấy hoan hỷ khen ngợi. Bấy giờ Bồ-tát đối với quả Bồ-đề chắc chắn có thể đạt được. tâm bi tịnh tức bố thí thanh tịnh, nếu không có tâm bi mà bố thí thì không thể thanh tịnh. Bồ-tát suy nghĩ như vầy: Người khéo điều phục thuận theo ý ấy là cung kính, tâm bi thù thắng thường khiến cho bố thí được thanh tịnh. Bồ-tát nhìn thấy người bần cùng thì tâm bi hiện bày vô cùng sâu nặng, chúng sinh nghèo khốn cùng cực được Bồtát bố thí khiến trở thành giàu có, giống như có người được ngọc báu Như ý, mong muốn gì đều đạt được. Những người bần cùng được gặp Bồ-tát thì tất cả sự nghèo khó khốn khổ thảy đều trừ diệt. Bồ-tát trước thực hành tài thí, tiếp theo là xả bỏ người thân của mình, sau đó xả bỏ tay chân, tiếp tục là xả bỏ thân mạng, như thế dần dần theo thứ tự mà xả bỏ. Bồ-tát hướng về người cầu xin ban cho những của cải, kêu gọi người cầu xin ban cho những gì thân thiết của mình. Hoặc người cầu xin tự đến trước mặt Bồ-tát cầu xin ban cho tay chân, hoặc cất tiếng cầu xin nên xả bỏ thân mạng, hoặc người không đến mà Bồ-tát tự hướng về để bố thí. Có người tới cầu xin, hãy còn xả bỏ thân mạng huống hồ là của cải mà không ban cho. Bồ-tát thành tựu tâm bi giống như thể của chính mình chưa hề xa lìa. Thấy người đến cầu xin, đối với tự thân đã sinh ra ý tưởng là của người khác, trong thân Bồ-tát sinh ra sự buồn bực khổ sở. Tại sao ngu si là ở nơi thân ta sinh ra ý tưởng nơi người khác? Nên nói với người cầu xin: Tất cả của cải trước đó đều ban cho ông, đều là của ông, nay ông chỉ việc lấy, tại sao nói là xin? Những người cầu xin nói: Thấy cho lúc nào? Bồ-tát trả lời: Trước đây ta ở trước Đức Tôn quý trong ba cõi thệ nguyện rộng lớn, lúc nầy ban cho ông, nay ông tại sao còn cầu xin nơi ta?

Bồ-tát phát tâm nguyện cho tất cả chúng sinh đối với của cải của mình sinh khởi ý tưởng là chính của họ có, như sông Tân-đầu, chim chóc muông thú hướng đến nơi đó tùy ý mà uống, không có gì ngăn trở giữ gìn. Ban cho hay không ban cho, trước kia đã lìa bỏ tất cả, nên không thể nói là ban cho, lại cũng không sinh tâm hoan hỷ. Vì sao? Vì trước kia đã ban cho tất cả, đã xả bỏ tất cả, khiến mọi chúng sinh đều được an vui. Bồ-tát đối với tất cả chúng sinh chỉ là người đi sứ, tất cả chúng sinh đều là người bố thí. Lúc tâm những người bần cùng đầy đủ thì bấy giờ bố thí Ba-la-mật của Bồ-tát thảy đều được đầy đủ. Lúc bố thí Ba-la-mật đầy đủ thì biết công đức đầy đủ.

Khi người tham lam bỏn sẻn nhìn thấy người cầu xin thì quay mặt đi. Lúc người tu tập công đức nhìn thấy người cầu xin thì hoan hỷ chiêm ngưỡng, thân cận, người cầu xin liền đạt được. Bồ-tát khi bố thí nhìn thấy người thọ nhận bố thí lần lượt bố thí lẫn nhau, càng sinh hoan hỷ, tất cả chúng sinh cùng vui vẻ ca ngợi, Bồ-tát nghe sự ca ngợi đó thì tâm vui sướng, hơn hẳn niềm vui được giải thoát. Lúc tâm bi của Bồ-tát hành bố thí, nhìn thấy tất cả chúng sinh được nhiều của cải vật báu tràn đầy vui sướng, những chúng sinh đều được vui sướng rồi, lại phát nguyện: Con sẽ mãi ở nơi sinh tử tu tập các công đức, không cầu mong giải thoát. Bồ-tát nhìn thấy chúng sinh có thể ở lâu dài nơi sinh tử thì tâm vô cùng hoan hỷ, mình nay đạt được quả báo hiện tại, giả như không đạt được Bồ-đề cũng đã là đầy đủ.

Phẩm 5: GIẢI THOÁT THÙ THẮNG

Bồ-tát suy nghĩ: Người luôn luôn thích bậc giải thoát thù thắng đi đến giác ngộ cho mình, người kia đến không vì của cải châu báu, mà vì muốn thành tựu đại sự của mình mà đến. Bồ-tát hoặc làm vương cõi người, người tu tập các công đức tới thưa với nhà vua: Có người xin ăn đến. Nhà vua liền nghĩ: Nói người ăn xin nầy, chính là sự giải thoát thù thắng đến, ta nay đạt được điều đó. Nhà vua tự nghĩ: Ta nay không tham đắm vương vị, vì muốn tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh, không nên an nhàn ngồi ở ngôi vua, cần phải tu tập đầy đủ quả bố thí, sứ giả kia chính là người giác ngộ cho ta. Đã là người xin ăn thì dung mạo rất khó coi, lòng dạ hổ thẹn, lời nói sắc mặt biến đổi khác lạ. Bồ-tát liền biết ý nghĩ đó nên an ủi: Nếu có cần gì cứ tùy ý cầu xin! Người xin ăn đã được của cải thì tâm vui mừng vô cùng. Người bố thí, người thọ nhận, cả hai cùng vui vẻ, giống như niềm vui của Niết-bàn an lạc. Sinh tử nơi ba cõi luôn thiêu đốt tạo khổ lớn, Bồ-tát ở đấy xem như là Niết-bàn an lạc. Vì sao? Vì muốn cứu giúp cho tất cả chúng sinh, Bồ-tát suy nghĩ: Thương xót chúng sinh, chính là sự giải thoát của mình, đem ân đức bố thí to lớn cứu tế chúng sinh, chúng sinh được vui sướng tức là mình được giải thoát. Tuy tiếp tục bố thí rộng lớn mà không có tâm bi thì không gọi là bố thí, nếu đem tâm bi bố thí rộng lớn tức là giải thoát. Bồ-tát nghĩ: Ngày xưa mình ở trước Đức Tôn quý nơi ba cõi nghe pháp giải thoát cực lạc, nay mình đã chứng được. Vì sao? Vì hợp ý bố thí tức là giải thoát. Nếu giải thoát an lạc của A-la-hán tương tự với sự an lạc của bố thí từ tâm bi phát khởi thì mình sẽ ái mộ, nếu không tương tự thì mình không thể ái mộ, chỉ ái mộ sự an lạc của bố thí để được giải thoát. Tâm bi phát khởi bố thí đạt được an lạc không gì có thể so sánh. Niềm vui giải thoát của sự bố thí không có tâm bi trăm ngàn vạn phần không thể làm ví dụ được, so với sự an lạc đạt được do tâm bi bố thí, nếu có thể dùng dụ để ví dụ, thì thật là vô cùng to lớn, cho nên không thể ví dụ.

Phẩm 6: THÍ CHỦ TĂNG TRƯỞNG

Tâm bi phát khởi bố thí, có thể ban chúng sinh sự an lạc lớn, như vậy người bố thí ban cho chúng sinh sự an lạc ấy là thù thắng, hơn sự giải thoát nên gọi là tối thắng. Người bố thí trở thành niềm an lạc cho người, vì người tu tập tâm bi đối với tất cả chúng sinh, tâm đều được bình đẳng, người như vậy gọi là Đàn-việt, người không thể bố thí như thế gọi là Khất giả (người xin ăn). Nếu lúc thực hành bố thí, khiến cho người nghe thương cảm xót xa, đó gọi là thiện thí, nếu không như vậy thì không gọi là thiện thí thủ. Nếu hành bố thí, có thể làm cho con cháu người thọ nhận tùy ý thọ dụng, vui vẻ ngợi ca, gọi là kiện thí chủ (người bố thí dũng mãnh). Nếu cầu xin mà bố thí thì không gọi là thí chủ, tự hướng đến mà bố thí mới gọi là thí chủ. Nếu xả bỏ tất cả của cải, tâm còn ái luyến mà bố thí không gọi là thí chủ. Người có tâm bi tuy không cho vật dụng, cũng gọi là đại thí chủ. Những người đến cầu xin mong muốn, đều khiến tùy ý xứng hợp với hy vọng ban đầu của họ gọi là thiện thí chủ, không thể xứng hợp với hy vọng ban đầu của họ, cho dù rất giàu có vẫn gọi là bần cùng. Người giàu có tuy cấp cho nhưng không có tâm thương xót, gọi là ban cho, không gọi là thí chủ. Tâm thương xót bố thí mới gọi là thí chủ. Nếu không tạo sự ăn uống không có quả báo, thì bố thí tuy là ban cho nhưng không gọi là bố thí. Bố thí không có tâm bi thì tuy là ban bố nhưng không gọi là bố thí. Người có tâm bi dù không bố thí nhưng vẫn gọi là bố thí. Nếu người cầu phước báo mà bố thí được gọi là người bố thí, thì người buôn bán cũng có thể gọi là bố thí. Nếu bố thí cầu phước báo thì quả báo hãy còn vô lượng, huống hồ là có tâm bi, bố thí không cầu báo thì phước báo sao có thể lường tính được. Nếu bố thí cầu phước báo chỉ có thể tự mình vui sướng, thì không thể nào cứu tế vì chỉ có riêng mình mỏi mệt. Người đem tâm bi bố thí thì hay có sự cứu tế, về sau đạt được quả có thể tạo lợi ích to lớn. Người bần cùng không giống như người có của cải. Người có của cải không giống như người có thể ăn uống. Người có thể ăn uống không giống như người có thể bố thí. Người đem tâm bi bố thí là người tốt nhất đối với tất cả chúng sinh. Người giàu có cần phải bố thí, người bố thí cần phải từ bi. Người giàu có thường bố thí thì sự giàu có được bền vững. Người bố thí thường từ bi thì bố thí được chắc chắn. Người tu hạnh bố thí được giàu có, người tu hạnh thiền định được giải thoát, người tu tập tâm bi đạt được Bồ-đề vô thượng thù thắng nhất trong các quả.

Phẩm 7: CUNG KÍNH NGƯỜI XIN

Bồ-tát suy nghĩ: Nhờ người xin ăn kia mà đạt được Bồ-đề, ta nên đem quả vị Bồ-đề nầy hướng về ban cho tất cả chúng sinh, vì để báo ân, nay ta nhờ bố thí cho chúng sinh mà đạt được niềm an lạc không gì sánh kịp, nhờ niềm an lạc nầy nên thành tựu được Bồ-đề, như vậy quả vị Bồ-đề ta sẽ ban bố cho người xin ăn. Ta nay nhờ bố thí cho người xin ăn mà đạt được sự vui sướng hơn hẳn niềm an lạc giải thoát. Sự an lạc nhờ vào bố thí thành tựu hãy còn như thế, huống hồ là Bồ-đề vô thượng, ta nên xả bỏ để bố thí cho những người xin ăn. Như vậy, ân đó rất sâu nặng, không thể nào báo đền được đối với người xin ăn. Như thế, người xin ăn chính là nhân tố có thể ban cho ta sự an lạc to lớn. Nếu dùng của cải châu báu để báo ân thì không đủ, nên đem quả Bồ-đề vô thượng đã đạt được mà ban bố cho họ. Nhờ vào phước của ta, nguyện cho người xin ăn ở đời kiếp vị lai cũng như ta bây giờ, trở thành một vị đại thí chủ. Trong tâm Bồ-tát tự suy nghĩ: Nhờ vào người xin ăn mà được niềm vui sướng bố thí, làm cho người xin ăn đạt được Bồ-đề vô thượng, là pháp thí nơi đàn-việt. Những người cầu xin thấy Bồ-tát bố thí rộng lớn, bèn hỏi Bồ-tát: Vì cầu những gì mà cùng thực hành bố thí rộng lớn? Bồ-tát trả lời cho tất cả: Ta nay không cầu quả báo nơi cõi trời người, hay Niếtbàn của hàng Thanh văn, mà nguyện đạt được Bồ-đề vô thượng để cứu độ tất cả chúng sinh. Những người tham lam keo kiệt lại suy nghĩ, hỏi: Bồ-tát làm thế nào có thể thực hành bố thí rộng lớn mà tâm không hề chán mệt?
Bồ-tát trả lời: Thầy ta là Đấng Tôn quý trong ba cõi luôn thương xót nghĩ đến tất cả chúng sinh. Ta nay không lấy gì để báo đền ân đức của thầy, cho nên bố thí không hề chán mệt. Tất cả sự vui sướng không gì hơn được niềm an vui giải thoát. Ta yêu thương chúng sinh hơn yêu thích giải thoát, ta vì yêu thương nghĩ đến chúng sinh, muốn khiến họ được giải thoát nên tu tập các hạnh bố thí. Nếu sinh tử ấy không đau khổ cùng cực, thì ta bố thí suốt đời, không mong cầu Bồ-đề. Do sinh tử khổ nên ta bố thí để cầu đạt Bồ-đề. Dứt trừ sinh tử khổ đau ấy thì ai là người thực hành? Phiền não do những nghiệp đã tạo tác, khiến tất cả chúng sinh lấy tâm bi làm thể để luôn luôn vui thích bố thí.

Phẩm 8: THÍ CHO KẺ BỎN SẺN

Người không nghĩ đến ân đức không có tâm bi, nếu không có tâm bi thì không thể thực hành bố thí. Nếu người không bố thí thì không thể cứu độ sinh tử cho chúng sinh. Người không có tâm bi lại không hề có thân hữu, người có tâm bi luôn luôn có thân hữu. Kẻ chấp ngã là lấy ái làm thể. Người cứu tế lấy bi làm thể. Tâm có nặng về ái không có ai biết. Người nặng về tâm bi cũng không thể nào biết. Nếu không thực hành bố thí thì tâm bi bị che lấp, như đem khắc vào đá mới biết rõ thật giả. Nếu người gặp khổ ách có thể thực hành đại thí thì biết là có tâm bi. Người nhiều tâm bỏn sẻn giả như người thân của mình đến cầu xin, tức trở thành oán ghét. Người nhiều tâm bi giả sử gặp oan gia cũng xem như thân hữu. Người tâm nhiều keo kiệt tuy bố thí bùn đất mà coi nặng như vàng ngọc. Người nhiều tâm bi tuy bố thí vàng ngọc mà xem nhẹ tựa cỏ cây. Người nhiều tâm keo kiệt mất mát của cải châu báu thì tâm vô cùng sầu não. Người nhiều tâm bi tuy có của cải châu báu nhưng không có nơi bố thí thì tâm u hoài đau khổ, còn hơn xa kẻ kia. Người xả bỏ của cải, đại khái có hai loại: Một là lúc mạng chung thì xả bỏ. Hai là lúc bố thí thì xả bỏ. Người xả bỏ lúc chết, tất cả đều xả bỏ, không có mảy may nào còn lại cho đời sau. Người xả bỏ khi bố thí, thì bố thí một ít của cải, đạt được quả báo to lớn. Ai đâu có biết, gặp phải tai họa nầy không thực hành bố thí? Nếu lúc thực hành bố thí, khiến cho người thọ nhận vui sướng, thì tự mình cũng vui sướng, nếu người không thể sinh niềm vui sướng sâu xa thì tự mình cũng vui sướng, nếu người không thể sinh niềm vui sướng sâu xa thì tự mình khinh dối. Nếu người xin ăn có sự cầu xin, vì cầu mong có, nên ban bố cho chút ít của cải, tâm họ liền vui vẻ. Lại có người bố thí tự mình hướng đến ban cho, không cầu mong quả báo mà thực hành bố thí rộng lớn, có còn lại chút ít, trong tâm vui sướng không thể ví dụ được. Nếu có thức ăn ngon, mà không bố thí, chỉ để ăn thì không thể lấy làm ngọn được. Giả như làm thức ăn dở mà thực hành bố thí, sau đó mới ăn, trong lòng vui thích thì lấy làm rất ngon. Nếu thực hành bố thí xong, có còn thừa lại, tự mình ăn, bậc trượng phu thiện sinh tâm hoan hỷ, như đạt được Niết-bàn, người không có tâm tín thì ai tin nổi lời nầy? Giả như người có thức ăn ngon, người đói đang ở trước mặt, không thể ban cho họ, người nầy thức ăn hãy còn không thể ban cho, huống gì là sự giải thoát thù thắng mà có thể ban bố cho người hay sao? Giả sử khiến có nhiều của cải, có người đến xin ăn, hãy còn không có tâm bố thí, huống gì có chút ít tài sản. Không thấy người nầy có chút gì vui sướng ở trong sinh tử, chỉ có thể trụ ở Niết-bàn. Như người ở bên bờ sông lớn mà không thể lấy chút nước ban cho, trong khổ não vô lượng của sinh tử, ông đừng trụ trong đó, chỉ có thể mau chóng đi vào Niết-bàn. Như có dòng nước lớn muốn bố thí nước cho người không lấy gì làm khó. Như có tâm bi muốn giữ lấy Niết-bàn cũng không gọi là khó. Rác rưởi nơi thế gian dễ đạt được hơn nước, người tham lam bủn xỉn, nghe xin rác rưởi hãy còn ôm lòng tiếc muối, huống là của cải.

Phẩm 9: TÀI VẬT THÍ

Như có hai người, một thì rất giàu có, một thì thật nghèo khổ. Có người xin ăn đến, hai người như vậy đều ôm lòng khổ não, người có của cải sợ sự cầu xin, người không có tài sản thì nghĩ mình phải làm sao có được chút ít của cải để ban bố. Như thế sầu khổ của hai người tuy giống nhau, nhưng quả báo lại khác biệt. Người suy nghĩ xót thương sầu não, sinh trong cõi trời người, thọ nhận vô lượng niềm vui sướng. Người tham lam bủn xỉn sinh trong ngạ quỷ, nhận chịu vô lượng khổ đau. Nếu Bồ-tát có tâm thương xót, ở trước chúng sinh đã là đầy đủ, huống hồ lại ban cho đôi chút tài sản. Như người giàu có đủ mọi thứ của cải châu báu, tùy ý sử dụng, tâm sinh vui sướng. Tâm bi của Bồ-tát nghĩ đến bố thí mà xót thương sầu não, vượt quá người nầy trăm ngàn vạn lần. Người có tâm bi không có tài sản, lúc gặp người xin ăn trong lòng không nỡ nói không thương xót, rơi lệ. Người thấy khổ não không thể rơi lệ, sao có thể gọi là người tu hạnh bi? Người chiến thắng giả như nghe người khác khổ đau hãy còn không thể nào chịu đựng nổi, huống hồ mắt nhìn thấy người khác khổ não mà lại không cứu giúp? Không thể có điều ấy. Người có tâm bi thấy chúng sinh bần cùng khổ sở, không có tài sản có thể chu cấp, xót thương than thở không thể nào ví dụ. Người cứu chúng sinh, thấy chúng sinh nhận chịu khổ đau, thương xót rơi lệ, vì rơi lệ nên biết tâm của người đó mềm mỏng, thể thanh tịnh của Bồ-tát thảy đều hiển hiện. Vì sao? Vì biết sự hiển hiện đó, nơi mắt rơi lệ khi nhìn thấy nỗi đau khổ của chúng sinh, do đấy nên biết được thể thanh tịnh mềm mỏng của Bồ-tát. Tâm bi của Bồ-tát giống như tuyết tụ, tuyết tụ gặp mặt trời thì đều tan ra. Tâm bi của Bồ-tát có ba lúc: Một là thấy người tu tập công đức, vì ái kính nên vì thế mà lệ trào. Hai là thấy chúng sinh khổ não, không có công đức, vì thương xót nên lệ trào. Ba là lúc tu tập đại thí, vui buồn phấn khích lại cũng rơi lệ. Nghĩ là lệ của Bồ-tát tuôn rơi từ xưa đến nay nhiều hơn nước nơi bốn biển lớn. Chúng sinh ở thế gian xa lìa quyến thuộc buồn đau than khóc lệ rơi, không sánh bằng lệ buồn xót thương của Bồ-tát khi nhìn thấy chúng sinh nghèo khốn khổ sở mà không có của cải để bố thí. Bồ-tát nhập thiền định cứu chúng sinh, tâm hết sức vui thích tương ưng với kho báu vô tận tự nhiên hiển xuất, tất cả người cầu xin tự nhiên tìm đến. Bậc trượng phu thiện có thể đem tài sản bố thí rộng lớn cho người cầu xin, người cầu xin có được tài sản rồi cũng thực hành bố thí rộng rãi. Bồ-tát có thể đem của cải bố thí cho chúng sinh, khiến tất cả được đầy đủ sung túc, đem những tâm bi, nghe âm thanh của người cầu xin mà rơi nước mắt. Người cầu xin nhìn thấy Bồ-tát rơi nước mắt, dù không nói ban cho, nhưng nên biết là chắc chắn được, Bồ-tát không thấy người cầu xin đến, sinh lòng bi khổ vô cùng, lúc người cầu xin có được của cải sinh tâm vui mừng nên bi khổ được trừ diệt. Lúc Bồ-tát nghe người cầu xin nói, nên thương xót rơi lệ, không thể nào tự ngăn lại được, người cầu xin nói đã xong, bấy giờ mới nén lại. Bồ-tát tu hành các hạnh bố thí đầy đủ cho chúng sinh rồi, liền đi vào rừng núi tu hành thiền định. Làm thế nào để diệt trừ các tai họa khổ đau của ba độc cho chúng sinh. Tài vật của Bồ-tát nhiều vô cùng mà không có người cầu xin để bố thí, ta nay vì sao giữ lấy điều đó được, nay nên xả bỏ mà xuất gia.

Phẩm 10: XẢ NHẤT THIẾT

Bồ-tát có rất nhiều tài sản mà không có người cầu xin, gọi họ không đến, nên Bồ-tát suy nghĩ: Vì đoạn trừ các kiết sử nên không có người đến. Tâm bi của Bồ-tát ràng buộc do các khổ đau của tất cả chúng sinh, nên phát nguyện cứu độ các chúng sinh, những gì chúng sinh tìm cầu, Bồ-tát đều xả bỏ tất cả, không vật gì là không ban cho, muốn cầu trí Phật tối thượng để cứu giúp tất cả chúng sinh, tôn trọng người có tâm bi thù thắng, muốn thực hành cứu giúp thì vật gì không xả bỏ. Người có tâm bi, vì người khác nên Niết-bàn hãy còn xả, huống hồ là xả thân. Xả bỏ thân mạng, tài sản có những khó gì? Người xả bỏ tài sản không bằng xả bỏ thân mạng, người xả bỏ thân mạng không bằng xả bỏ Niết-bàn. Niết-bàn hãy còn xả bỏ, thì có gì không xả bỏ? Tâm bi thấu triệt tận xương tuỷ tức đạt được bi tự tại. Người thực hiện cứu tế là Bồ-tát thì bố thí rộng lớn hoàn toàn không có gì khó khăn. Là người thân thiết nhất của tất cả chúng sinh, làm nhân hướng đến nơi an lạc cho mọi người. Bi là xả bỏ tất cả, lìa xa mọi sự chán mệt, đích thực cứu giúp tất cả chúng sinh, oán thân bình đẳng, thân mạng hãy còn ban cho thì có vật gì không xả bỏ được. Tất cả chúng sinh rất chú trọng đến của cải lợi lộc, yêu quý thân mạng nặng hơn tài sản. Tất cả chúng sinh xả bỏ tài sản thì dễ, xả bỏ thân mạng là khó. Bồ-tát xả bỏ tất cả của cải, hoan hỷ không bằng sự hoan hỷ thù thắng đạt được khi xả bỏ thân mạng. Bao nhiêu ý vị bố thí thảy đều biết rõ, vì bố thí là thức ăn, nhờ đó mà được tồn tại. Người ban cho người khác niềm vui, muốn biết mùi vị bố thí thân mạng, nên bố thí thân mạng, gặp người khác cầu xin tay chân, thân thể, trong tâm hoan hỷ hơn hẳn sự hoan hỷ xả bỏ tài sản. Như người vui thích bố thí, đạt được niềm vui hoan hỷ, không bằng sự hoan hỷ thù thắng của Bồ-tát đạt được khi xả bỏ thân mạng. Con người nơi cõi Diêm-phù-đề cầu xin tài sản, vì phước đức vô ngã nên được người cầu xin thân mạng tới. Người xả bỏ tài sản thì tài sản theo người khác hoặc không hợp ý. Người xả bỏ thân mạng thì chính mình được tự tại, tùy ý ban cho không vì người khác. Thân nầy là vật không vững bền, không cố định, mau chóng suy yếu. Người có thể yêu thích, có thể mau chóng giữ lấy. Những người ăn thịt nói với Bồ-tát: Nay ông đem máu thịt nóng bố thí cho tôi, tôi nên lấy gì để báo ân? Bồ-tát trả lời: Nếu muốn báo ân thì lại nói với người khác: Người có tâm bi có thể bố thí thân máu thịt, nên đến đó nhận lấy, nếu có thể như thế thì chính là báo ân. Nói với người cầu xin: Nay ông vì tôi giữ lấy thân không bền chắc, khiến tôi đạt được thân bền chắc, ân của ông thật sâu nặng, lấy gì đền đáp được. Quả xả thân trong đời vị lai, tức là công dụng bố thí cho ông. Tôi vì cứu giúp cho tất cả chúng sinh, do đó xả bỏ thân mạng. Người xả bỏ thân mạng đạt được pháp thân. Người đạt được pháp thân thì đạt được Nhất thiết chủng trí, khiến cho tất cả chúng sinh đều đạt được quả nầy. Người xả bỏ thân mạng nầy đạt được pháp thân, pháp thân ấy luôn luôn ban bố lợi ích cho tất cả chúng sinh. Có thể suy nghĩ như vậy, tại sao không sinh vui mừng mà mau chóng xả bỏ thân mạng nầy? Lúc Bồtát xả bỏ thân mạng, tư duy như vầy: Ta vì chúng sinh làm người thân hữu, ta đã vượt qua sinh tử, cần phải cứu độ tất cả chúng sinh thoát khỏi sinh tử. Vì thế nên nay ta xả bỏ thân mạng.

Bồ-tát tư duy như vầy: Ta xả bỏ thân mạng nầy, công đức không thuộc về mình, cũng chẳng phải cho nhiều chúng sinh, mà còn vì nuôi dưỡng công đức pháp thân cho mình. Nếu lúc tâm quyết định như vậy, thì ý tưởng xả bỏ thân mạng không có gì khó khăn. Sở dĩ Bồ-tát xả bỏ thân mạng không khó khăn, vì sẽ thành tựu pháp thân, cho nên hoan hỷ. Người tham ái sâu nặng phần lớn khi đạt được tài sản thì vui mừng vô cùng, không sánh bằng sự hoan hỷ xả bỏ thân mạng của Bồ-tát hơn trước trăm ngàn vạn lần. Bồ-tát lấy trí tuệ, tâm bi làm thể, vì chúng sinh nên cầu mong pháp thân. Bồ-tát xả bỏ thân mạng thì vui mừng, vượt xa người thế gian, đạt được mọi diệu lạc tự tại của bậc Chuyển luân Thánh vương. Như giòng Sát đế lợi, nếu phá tan trận địa của quân địch, có thể xả thân mạng, được sinh lên cõi trời, lúc xả thân mạng thì vui mừng vô cùng. Bồ-tát dùng trí tuệ tâm bi xả bỏ thân mạng thì sự hoan hỷ vô cùng thù thắng, càng vượt quá đối với những người kia. Chúng sinh phàm ngu vì tài lợi nên xả bỏ thân mạng ở nơi trận địa của quân địch, trở thành giải thoát, lao vào đá, nhảy vào lửa, bỏ mạng vô số, huống hồ là Bồ-tát dùng trí tuệ, tâm bi, vì tất cả chúng sinh mà lại không xả bỏ thân mạng? Chúng sinh ngu si, lấy tâm ái chấp làm quốc độ nên xả bỏ thân mạng. Bồ-tát lấy trí tuệ tâm bi, vì muôn vật mà xả bỏ thân mạng, đâu đủ để gọi là khó. Lúc Bồ-tát phát thệ nguyện, thì tất cả đều xả bỏ, tuy có nói tất cả chúng sinh quả thật chưa được lợi ích, nên tu hạnh bố thí, lúc ấy tất cả chúng sinh đạt được lợi ích thọ dụng. Bồ-tát xả bỏ thân mạng không đủ cho là khó. Biết thân vô thường – khổ – không – bất tịnh, vì chúng sinh nên không xả bỏ thân mạng đấy tức là khó. Bồ-tát tâm bi vì chúng sinh xả bỏ thân mạng không đủ là khó, vui thích xả bỏ, không hề có sự chán đủ, vậy mới là khó. Giả sử khiến một phàm phu làm xoay chuyển đại địa, sức lực không thể nào làm được nên sinh lòng buồn khổ vô cùng.

Lúc Bồ-tát thấy chúng sinh đau khổ mà chưa được độ thoát, lòng dạ xót thương sầu não lại vượt quá như thế. Vì tâm bi, Bồ-tát quán thân nhẹ như hàng cỏ cây, đất đá, vì chúng sinh mà xả bỏ thân mạng đâu đáng lấy làm khó. Như người vì bản thân mình nên trong một ý niệm thọ giới bất sát, người nầy mạng chung chắc chắn sinh lên cõi trời. Bồ-tát vì chúng sinh mà xả bỏ thân mạng, tất cả công đức trong cõi sinh tử không có thọ nhận điều gì, chỉ đến Bồ-đề mới có thể nhận lãnh. Nếu lúc Bồtát nghe có người đến cầu xin thân mạng, tức thời sinh khởi ý niệm: Đã từ lâu, ta xả bỏ thân mạng nầy sao lại không tự mình giữ lấy, còn theo ta nài xin chắc chắc sẽ cho ta có tâm tiếc muối mà thử ta thôi.

Phẩm 11: XẢ ẤM THỌ ẤM

A-la-hán xả bỏ thân cuối cùng đạt được Niết-bàn an lạc, không sánh bằng sự an lạc lúc Bồ-tát vì chúng sinh mà xả bỏ thân mạng. A-lahán đạt được giải thoát, không bằng sự an lạc lúc Bồ-tát vì chúng sinh mà thọ thân. Bồ-tát sinh khởi ý niệm: Ta đã không giữ lấy Niết-bàn, vì chúng sinh nên thọ thân nầy, là sự vi diệu vô cùng. Bồ-tát nghĩ: Ta xả bỏ thân mạng dùng để bố thí, lại tiếp tục thọ thân, không vào giải thoát, thật là vô cùng thù thắng. Ta vui mừng nghe công đức cứu độ chúng sinh của Như Lai, ta đạt được pháp vị của tâm bi cứu giúp chúng sinh, không giữ lấy Niết-bàn, việc nầy thật là vui sướng. Lúc Bồ-tát vì chúng sinh xả bỏ thân mạng để bố thí, tuy không chứng Niết-bàn, nhưng hơn hẳn người đạt được Niết-bàn, vì vị ấy không có được pháp vị vì chúng sinh mà xả bỏ thân mạng. Bồ-tát thọ nhận thân ấm nầy thật là cùng cực đau khổ, giống như những sự vui thích lúc xả bỏ thân mạng cho chúng sinh, không có gì khác biệt. Phàm phu thế gian vì sự ràng buộc bức bách của bần cùng, bệnh khổ, không thể xả bỏ thân mạng để xa lìa vui thú dục lạc. Chúng sinh chán ghét, lo lắng thân ấm không ai có thể cứu giúp, nên mong muốn mau chóng vào Niết-bàn.
Bồ-tát tư duy: Niết-bàn thật an lạc, thân ấm sinh tử thật là cùng cực khổ đau, ta nên thay thế cho tất cả chúng sinh nhận chịu sự khổ đau của thân ấm nầy, khiến họ được giải thoát. Thân A-la-hán tận thì thân Phật cũng tận, thân tận tuy đồng, nhưng không thể cứu giúp, vì thân Phật diệt độ là thiện.

 

Phẩm 12: XẢ THÂN MẠNG

Bồ-tát vì cầu đạt Nhất thiết chủng trí nên tâm đại bi vì tất cả chúng sinh, xả thân xả mạng đạt được quả báo “chẳng không”. Nếu tất cả sự xả thân không đạt được quả báo gọi là không xả thân. Bồ-tát xả thân vì muốn khiến cho chúng sinh tất cả đang tham đắm của cải sinh tâm hổ thẹn . Bồ-tát vì chúng sinh mà xả bỏ thân mạng, dễ dàng hơn người tham tiếc xả bỏ một nắm cơm. Bồ-tát xả bỏ thân mạng vì nhằm khiến cho kẻ tham lam keo kiệt sinh tâm xấu hổ. Bồ-tát xả bỏ thân mạng là bảo vệ mạng sống của người khác. Vì sao? Vì mạng của người khác tức là mạng của mình. Bồ-tát tuy xả bỏ thân mạng nhưng không cứu được người khác, ấy là xả vì quán xét lỗi lầm của thân ấm, vì lợi ích cho chúng sinh nên lại tiếp tục thọ thân. Nếu chẳng phải đại bi sao người có trí mà lại vui thích thân ấm? Nếu không có đại bi, thì ý vị bố thí ấy không thể nào vui thích nơi sinh tử. Bồ-tát thường vui thích thực hành bố thí, đại bi tự tại, tùy ý thọ thân sinh tử giống như niềm vui nơi Niết-bàn.

Phẩm 13: HIỆN BI

Tâm bi vô cùng rộng lớn của Bồ-tát ở trong thân nhưng không có người nào biết được. Lúc Bồ-tát xả bỏ thân mạng thì tất cả trời người vì thế mà được biết. Tâm bi của Bồ-tát sâu rộng cùng cực, khắp nơi tất cả chúng sinh không có người nào thấy được, nhờ vào tài thí – pháp thí – vô úy thí mới thảy đều thấy biết. Thân của tất cả chúng sinh không đâu không phải là bệnh, không có người nào biết được. Do ba điều nên biết là có bệnh. Những gì là ba? Đó là ăn uống, áo quần, thuốc thang? Tâm bi của Bồ-tát do ba sự nên được hiển bày. Những gì là ba? Tức là tài thí – pháp thí – vô úy thí. Bồ-tát ban cho tất cả chúng sinh làm niềm vui, vì diệt trừ khổ đau cho tất cả chúng sinh, nên xả thân cứu giúp, Bồtát không cầu quả báo mà xem nhẹ thân như cỏ rơm. Đại bi của Bồ-tát thực hiện vô số phương tiện, giống như sữa kết tụ – lấy máu bố thí cho người dễ hơn người thế gian lấy nước dùng để bố thí. Như Bồ-tát xưa kia lấy máu nơi năm chỗ bố thí cho các quỷ Dạ-xoa, tự phấn đấu hoan hỷ, không gì có thể ví dụ, vì muốn cứu giúp cho tất cả các chúng sinh. Có người khác hỏi Bồ-tát: Đại bi ấy có ý vị gì, có thể khiến xả bỏ máu huyết dễ dàng hơn xả bỏ nước lã? Tâm đại bi Bồ-tát trả lời: Vì không cầu quả báo mà làm cho người khác được vui sướng, nên xả bỏ thân mạng. Vì sao? Vì niềm an vui vô tướng là điều đầu tiên đi vào niềm an lạc của tâm bi. Có người thấy đại bi của Bồ-tát nghi ngờ về điều ấy là thể của bi, dùng đại thí nên biết là thể của bi. Người thế gian sinh nghi, cho bi đi vào trong thân Bồ-tát, nên Bồ-tát hướng vào tâm bi. Bồ-tát xả thân, tất cả chúng sinh không thể nào giống được, chỉ có đại bi là có thể, lúc đạt được Nhất thiết chủng trí thì tất cả chúng sinh đều không thể nào sánh bằng. Có tâm đại bi làm lợi ích cho chúng sinh thì mọi mong muốn đều đạt được. Không có khó khăn ấy, thì quyết định đạt được là không. Tâm đại bi muốn đem lại lợi ích cho chúng sinh nên thường ở nơi tâm ấy, thì Bồ-đề vô thượng như ở trong tay không khác. Được trụ nơi nhẫn vô sinh, nên có thể hiển hiện Đà-la-ni, được an trụ nơi thập địa, nên biết tự tại giống như Phật.

Phẩm 14: PHÁP THÍ

Người bố thí của cải, trong cõi người có trăm ngàn vạn, quả báo của bố thí của cải là có thể đạt được pháp thí. Chỉ có đại bi mới có thể đạt được quả báo của bố thí của cải và pháp thí, thân đời sau đạt được vô lượng an lạc. Bi là pháp thí hiện chứng đạt Niết-bàn. Vui thích bố thí, đầy đủ mùi vị cam lồ hoan hỷ, đồng nhất vị tâm bi của Bồ-tát. Vì nhân duyên nầy nên không một sát na muốn hướng về giải thoát. Các loại pháp thí hoàn tất, thỉnh cầu những người nghe pháp: Lúc tôi đạt được quả pháp thí, chắc chắn thọ nhận lời tôi thỉnh cầu. Lúc Bồ-tát bố thí gọi là dục thí không phải là căn bản thí. Lúc thành Phật bố thí, gọi là pháp thí căn bản.

Trí Phật ở hư không
Đại bi là mây lớn
Pháp thí như mưa ngọt
Tràn đầy ao ấm giới.
Bốn nhiếp làm phương tiện
Nhân giải thoát an lạc
Tu tập tám chánh đạo
Thường đạt quả Niết-bàn.

Tài thí diệt trừ khổ đau nơi thân chúng sinh, pháp thí diệt trừ khổ đau nơi tâm chúng sinh. Trải qua vô lượng đời kiếp tài thí, để đạt được quả pháp thí, pháp thí luôn ban bố vô úy thí cho chúng sinh. Người trí rất chán ngán sinh tử, nên mong cầu Niết-bàn, người thương xót cứu giúp chúng sinh cầu mong nơi pháp thí. Bồ-tát thọ dụng tiền tài vì tu bố thí, lúc tu hạnh bố thí là vì đạt được pháp thí, thấy chúng sinh có hai loại là tham ái – ngu si. Người nhiều tham ái thì bố thí cho của cải châu báu. Người nhiều ngu si thì ban cho pháp thí. Người bố thí tài sản làm cho tiền tài không bao giờ hết. Người bố thí chánh pháp khiến đạt được trí vô tận. Người bố thí tài sản đạt được an lạc nơi thân. Người bố thí chánh pháp đạt được an lạc nơi tâm. Tùy theo chúng sinh nơi chỗ giáo hóa, mong muốn đạt được nghĩa lý phù hợp với tâm ý, đầy đủ phù hợp, không có ý chán mệt, đạt được công đức to lớn, đạt được pháp thí hoan hỷ, tăng thêm sự đoan nghiêm như vầng trăng tròn mùa thu, thường khiến cho tâm mắt của chúng sinh không rời xa. Người bố thí tài sản được chúng sinh yêu quý, người bố thí chánh pháp thường được thế gian cung kính tôn trọng. Người bố thí tài sản được người ngu yêu mến, người bố thí chánh pháp được người trí quý kính. Bố thí tài sản phá tan nỗi bần cùng về của cải, bố thí chánh pháp phá tan sự bần cùng về công đức, hai loại bố thí nầy có ai không kính trọng? Người bố thí tài sản có thể ban cho niềm an lạc hiện tại, người bố thí chánh pháp có thể ban cho sự an lạc nơi cõi trời Niết-bàn. Người vui thích yêu quý tâm bi luôn luôn yêu mến tất cả chúng sinh, yêu mến tất cả chúng sinh tức là yêu thương chính bản thân mình. A-la-hán xa rời chúng sinh đau khổ, thì ai sẽ yêu mến vui thích? Thường thực hành bố thí xa lìa mười điều ác, cung kính với cha mẹ, nếu người luôn như thế tức là báo ân cho ta. Nếu người muốn tiếp nối Phật chủng, nên lấy tâm bi làm đầu, để tạo lợi ích cho người khác. Đức Phật thường nhớ nghĩ đến mà thành tựu sự nghiệp hóa độ chúng sinh.

QUYỂN HẠ

Phẩm 15: PHÁT TÂM BỒ ĐỀ

Sự nghiệp bố thí đã đầy đủ, làm người gần gũi với tất cả chúng sinh, chưa hề có một niệm tương ưng với tâm bi. Tâm bi của Bồ-tát trùm khắp, duyên với tất cả, không chỗ nào là không duyên. Do tâm bi trùm khắp mọi nơi, nên sau khi thành Phật đạt được Nhất thiết chủng trí không có gì chướng ngại. Vì tâm bi nên xả bỏ sự giải thoát của Thanh văn mà phát tâm Bồ-đề. Tâm của một niệm đầu tiên nầy, chỉ có Phật mới biết được dung lượng đó, huống hồ là sự an lạc giải thoát của hạnh Bồ-đề? Phát tâm Bồ-đề, đang còn ở một niệm ban đầu, giống như mặt đất vàng ròng, mặt đất cát đá, không thể ví dụ với nhau. Lúc mới phát tâm, vì có thể làm thanh tịnh các kiết sử khiến tất cả công đức đều quy tụ. Bồ-đề là quả của phát tâm, vì tất cả chúng sinh nên cầu an lạc. Bồtát phát tâm Bồ-đề xong, người chưa phát nguyện hỏi: Giải thoát như thế nào? Vì nhân duyên gì mà hỏi? Vì người phát tâm giống như từ trong giải thoát đến, nên hỏi: Như thế nào là tướng giải thoát? Vì hướng đến giải thoát nên biết là đến từ giải thoát. Người đã phát nguyện trả lời: Lúc phát tâm Bồ-đề, hoan hỷ vui sướng giống như giải thoát, nên có thể biết rõ. Người muốn cúng dường hết thảy chư Phật cần phải phát tâm Bồ-đề, người muốn báo đền ân Phật cần phải phát tâm Bồ-đề kiên cố, ngoài phát tâm Bồ-đề ra, lại không có pháp nào có thể đến được Bồ-đề. Nếu không có tâm Bồ-đề thì không đạt được quả Phật, nếu không đạt được quả Phật thì không thể cứu độ chúng sinh. Muốn ban cho tất cả chúng sinh vô lượng sự an lạc to lớn, cần phải phát tâm Bồđề. Vì sao? Vì tâm Bồ-đề ấy là nhân an lạc cho tất cả chúng sinh. Tất cả các sắc không lìa bốn đại, tất cả sự an lạc không xa rời tâm Bồ-đề. Lạ lùng thay! Vì sao không sợ khổ đau của sinh tử mà lại sợ tâm Bồ-đề vô úy? Nếu người muốn khổ đau của tất cả chúng sinh dừng lại, không có gì hơn là phát tâm Bồ-đề. Người phát tâm Bồ-đề là nhân đình chỉ đầu tiên, đình chỉ đầu tiên sẽ đạt được đình chỉ vô thượng. Đạt được lợi ích về tài sản vật báu không bằng đạt được lợi ích về công đức. Đạt được lợi ích về công đức không bằng đạt được lợi ích về trí tuệ. Đạt được lợi ích về trí tuệ không bằng đạt được lợi ích của tâm Bồ-đề. Nếu người buông lung, bỏ quên không nhớ đến tâm-Bồ-đề, giống như loài cầm thú không khác. Ông nay vì sao không phát tâm bi, nên biết tâm bi ấy chính là đại Bồ-đề, muốn hướng đến trí Phật cần phải phát tâm Bồ-đề, vì kiết sử làm chướng ngại thì không thể nào phát tâm giải thoát, vì nghiệp báo làm chướng ngại thì không thể nào phát tâm Bồ-đề. Thế nào là đường tà, thế nào là nẻo chánh? Vì có ái dẫn dắt, lấy bốn không làm giải thoát, gọi là hướng về tà. Phát tâm Bồ-đề, tu tập tám chánh đạo, gọi là hướng về chánh. Để được quả báo giàu có thì tu tập thực hành bố thí, để được quả báo an lạc thì tu tập thực hành tâm bi, vì muốn cứu giúp tạo an lạc cho chúng sinh cần phải phát tâm Bồ-đề kiên cố. Người không tu tập phước đức có ba điều khó đạt được: Một là không được thân cận với các thiện hữu. Hai là chán ngán xa lìa sự phát tâm Bồ-đề. Ba là không thể kính trọng người phát tâm Bồ-đề, đạt được Nhất thiết chủng trí.

 

Phẩm 16: CÔNG ĐỨC THÙ THẮNG

Có những người dùng tài sản bố thí cùng một phước điền, tâm không đồng nên quả báo đạt được có nhiều loại. Có người đạt được niềm an lạc trong ba cõi, có người đạt được niềm an lạc tịch diệt, có người đạt được niềm an lạc lợi tha. Tư duy và nguyện khác hẳn nên quả báo đạt được không đồng. Người dùng tâm ái làm phước khi thọ nhận quả báo thì ngu si tối tăm. Người dùng tâm bi tu phước khi thọ nhận quả báo thì được trí tuệ. Người không làm tổn hại tâm Bồ-đề, vì lợi ích cho chúng sinh mà làm phước, nên biết phước nầy là thù thắng nhất trong mọi phước, những phước tu còn lại là phước tương tự không phải là phước bậc nhất. Nhất vị trí tuệ của Phật, nên biết phước nầy nầy là bậc nhất, vì đem lại lợi ích cho thế gian nên chủng tử Tam bảo không đứt đoạn. Biết nghiệp biết quả biết quy y Phật từ bi, như chấp ngã khi thực hành phước, giống như người làm điều ác, thật đáng hổ thẹn. Bậc trượng phu thiện thấy trời, người nơi thế gian không ai cứu giúp, suốt đời không vì bản thân mình mà tu phước, khổ đau trong sinh tử, hãy còn không nghe, huống hồ là mắt thấy. Chúng sinh thọ thân thật đáng sầu lo chán ngán, tại sao tu phước tạo nghiệp bi ấy là vì ngã mà không thể thực hành? Trong một sát na không lìa xa tâm bi, vì chúng sinh làm thân hữu, tại sao tạo phước cho ngã? Người thưởng thức ý vị công đức tu phước được tự tại, được mùi vị hơn hẳn người khác báo ân, trong mộng còn không tu phước cho bản thân mình, huống hồ là lúc tỉnh. Dùng trí nên có thể thấy được lỗi lầm cuối cùng không cầu hữu để tạo phước. Tâm bi ấy cuối cùng không vì giải thoát mà tu phước. Người trí vì xả bỏ cầu nghiệp hữu (thọ thân), người bi xả bỏ nghiệp giải thoát. Vì sao? Vì người bi làm lợi ích cho mọi người, không có trí tuệ thù thắng mà tạo tác bình đẳng, nhân của phước là một, mà quả của phước không có ai sánh bằng. Từ mười lực đạt được trí, làm cho chính mình được an lạc mà xả bỏ sự an lạc lợi tha gọi là người bội ân, chỉ có mình luôn luôn biết. Từ Phật được biết, vì tất cả chúng sinh là bạn tu phước của mình. Giả sử đạt được quả mà một mình ta thọ dụng thì gọi là người bội ân. Đạt được an lạc vô cùng, lẽ nào đạt được rồi chỉ mình ta thọ nhận? Như vậy bậc trượng phu đó vì xả bỏ tất cả, giả như đạt được sự an lạc của ngàn Niếtbàn mà không làm lợi ích, thì không bằng cứu giúp một chúng sinh đau khổ, còn hơn xa việc đạt được sự an lạc của ngàn Niết-bàn. An lạc giải thoát còn không thọ nhận một mình. Vì sao? Vì thấy chúng sinh nơi thế gian không có lối về, không ai cứu giúp, nên an lạc giải thoát hãy còn không thọ nhận một mình, huống hồ là Bồ-đề vô thượng?

 

Phẩm 17: THẮNG GIẢI THOÁT

Hơn nữa, có những cảnh giới Tam-muội định tuệ, chúng sinh thảy đều làm Phật, vì có Tam-muội nầy nên không muốn giữ lấy giải thoát. Hạnh đầu đà trừ bỏ tất cả lỗi lầm xấu ác đạt vắng lặng tĩnh mịch như ở trong miệng, người cứu tế chân thật vì chúng sinh đau khổ nên không chứng mà thôi.

Định tuệ bi tự tại
Thấy các khổ thế gian
Người chân thật cứu đời
Trọn không vượt qua bờ.

Như sóng biển suốt mùa không vượt qua giới hạn, người tu hành bi, trăm kiếp khổ hạnh, nếu có thể cứu độ một người cũng trọn không gắng sức thoát khỏi sinh tử, có thể được giải thoát nhưng vì chúng sinh nên ở lại nơi sinh tử. Đối với ba loại thí trong tất cả mọi lúc, thường giống như lễ hội. Người không vui với niềm vui của mình mà tạo niềm vui cho người khác, ngày đêm ở trong sinh tử nhưng là không ở, mà hoan hỷ an lạc như ở Niết-bàn. Bồ-tát thường vì chúng sinh tạo nghiệp lợi ích thấu hiểu được ý vị an lạc hoan hỷ. Bồ-tát ngay cả trong mộng, luôn được hoan hỷ an lạc còn hơn hẳn giải thoát. Bồ-tát được pháp vị tạo an lạc cho người. Hết thảy chúng sinh không đạt được ý vị chứng đạt giải thoát. Người trí nếu được giải thoát biết đến ý vị hoan hỷ an lạc của sự lợi tha, nhất định sẽ trở lại làm lợi ích cho chúng sinh. Người sợ hãi sinh tử vì lợi ích cho chính mình, mong cầu giải thoát cho là an lạc vô cùng, không bằng Bồ-tát lúc thọ nhận thân ấm thì hoan hỷ vui sướng, vì sẽ tạo lợi ích cho mọi người. Nếu người tự một mình đã nhận chịu đau khổ bức bách, mới đáng đi vào Niết-bàn, thì tất cả chúng sinh đang nhận chịu đau khổ bức bách, tại sao xả bỏ họ mà đi vào Niết-bàn? Người thấy tự bản thân mình đau khổ bức bách mới đáng đi vào Niếtbàn. Người có tâm bi thấy tất cả chúng sinh đau khổ đều trụ nơi tâm mình, tại sao xả bỏ họ mà đi vào Niết-bàn? Nếu có thể đem lại hoan hỷ tạo an lạc cho người khác đó chính là Niết-bàn, nếu không như thế tức là sinh tử. Người có tâm bi bình đẳng đối với chúng sinh, hoan hỷ tạo an lạc cho họ tức là Niết-bàn. Chư Phật đã khen ngợi: Nếu người giải thoát hoan hỷ, an lạc giống như tạo lợi ích cho một người, thì được người trí yêu mến. Nếu người ban cho người khác sự an lạc sâu xa không suy tính công lao đó tức là giải thoát. Người có tâm bi làm cho người khác an lạc mà không mong cầu quả báo, nếu có thể như thế tức là giải thoát, nếu không được như thế tức là sinh tử. Nếu người vì bản thân mình cầu mong an lạc đó tức là đau khổ. Xả bỏ là sự an lạc của mình, vì người khác cầu an lạc tức là Niết-bàn. Chúng sinh ở thế gian vì nhằm phá trừ đau khổ nên gọi là giải thoát. Người tu bi, có thể phá trừ khổ của kẻ khác tức là giải thoát thù thắng. Người phá trừ đau khổ cho người khác thì cả hai đều được an lạc. Có người trí nào xả bỏ hai giải thoát để giữ lấy một giải thoát? Người thế gian nói: Người có trí đạt được giải thoát. Bồ-tát tư duy như vầy: Ta không tin lời nói ấy. Có người trí nào xả bỏ việc cứu giúp người khác mà an lạc giữ lấy giải thoát? Tự bản thân mình được an lạc lại có thể tạo sự an lạc cho người khác, thì sự an lạc trong ba cõi hơn hẳn an lạc giải thoát. Bồ-tát nhận chịu đau khổ cho chúng sinh, hơn hẳn người khác vì bản thân mình đạt được giải thoát an lạc.

 

Phẩm 18: TẠO LỢI ÍCH CHO NGƯỜI KHÁC

Chúng sinh nơi thế gian vì sự an lạc của chính mình nên ở trong sinh tử thân tâm mỏi mệt. Tâm Bồ-tát được nghỉ ngơi nên tâm bi luôn tạo nhiều lợi ích. Người khác ở trong sinh tử, ngoại trừ pháp đối trị ra, càng không có gì an lạc. Bồ-tát ngoài đem lại lợi ích cho người khác ra, càng không có gì an lạc hơn. Bồ-tát được hoan hỷ an lạc khi thực hành lợi tha. Người biết lợi tha tức là tự lợi, xả bỏ lợi ích của chính mình, quý trọng sự lợi ích an lạc của người khác, biết lợi ích an lạc của người khác tức là sự lợi ích an lạc của mình. Lúc biết lợi ích an lạc của người khác tức là vì sự an lạc của chính bản thân mình. Người có thượng, trung, hạ. Kẻ ngu thấy người khác có được an lạc thì sinh tâm khổ não. Hạng người trung bình, khi mình đau khổ thì biết được đau khổ của người khác. Hạng người trên hết lúc thấy người khác an lạc thì tâm sinh hoan hỷ, thấy người khác đau khổ thì như đau khổ của bản thân mình. Trong bốn nhiếp pháp, Bồ-tát cùng người khác tạo lợi ích cho nhau. Thế nào là cùng tạo lợi ích như nhau? Nghĩa là người khác đau khổ thì mình đau khổ, người khác an lạc thì mình an lạc. Đó gọi là cùng lợi ích như nhau (đồng lợi). Tâm bi bình đẳng không có ý tưởng về cái khác. Bồ-tát và chúng sinh cùng chung đau khổ, cùng chung an lạc. Tự bản thân mình, Bồ-tát đặc biệt sinh lòng khổ não. Vì sao? Vì không thể cứu giúp khổ đau cho chúng sinh, không quán sát quá khứ, không quán xét vị lai, tùy ý của chúng sinh, thực hiện pháp đối trị diệt khổ, tự ý của Bồ-tát cũng như ý của người khác. Chúng sinh ở thế gian ban cho người khác sự lợi lạc còn hy vọng đền đáp, Bồ-tát ban cho người khác sự lợi lạc không cầu được đền đáp. Tuy Bồ-tát với tâm bi bình đẳng yêu thương tất cả chúng sinh, nhưng đối với chúng sinh trong chỗ bị oán ghét lại ban cho sự lợi lạc gấp bội. Lúc ở bên cạnh chúng sinh bị oán ghét ban cho sự lợi lạc, trong tâm Bồ-tát vô cùng hoan hỷ, như lúc xả bỏ thân mạng có được sự hoan hỷ, gọi là bình đẳng, nếu không như thế gọi là bất bình đẳng. Ở trong oán ghét ban cho sự lợi lạc gấp bội thì gọi là thực hiện xứng hợp với tâm bi. Nhưng đối với chúng sinh hành ác sinh lòng xót thương gấp bội, giống như trưởng giả giàu lớn chỉ có một người con, nên tâm thương nhớ tận cùng trong xương tủy. Bồ-tát thương nhớ tất cả chúng sinh cũng lại như vậy. Như có người con xấu ác không muốn cha mình có được sự nghiệp hơn mình, đó gọi là bội ơn. Tất cả chúng sinh bị oán ghét, đối với Bồ-tát đồng một vị xấu ác. Bồ-tát đối với chúng sinh bị oán ghét đồng một vị tâm bi. Chúng sinh ở thế gian được báo ân thì sinh tâm vui mừng. Nếu Bồ-tát ban cho những người bị oán ghét sự lợi lạc, thì trong tâm sinh ra hoan hỷ bội phần, vượt quá các chúng sinh kia. Chúng sinh ở thế gian nếu lúc mắng chửi người khác mà họ không trở lại báo thù thì vui mừng vô cùng. Lúc Bồ-tát bị người khác mắng nhiếc thì tâm vô cùng hoan hỷ. Người có tâm ái ở trong ba cõi thảy đều hiện bày khắp. Tâm bi của Bồ-tát cũng hiện hữu khắp trong ba cõi. Bồ-tát thương xót chúng sinh trong địa ngục không như xót thương chúng sinh ngu si tham đắm nơi ba cõi. Chúng sinh ưa thích nơi sự dục lạc của chính mình, bị sự trói buộc của vô lượng khổ đau, Bồ-tát vì an lạc nơi lợi tha nên bị vô lượng khổ đau trói buộc. Tất cả chúng sinh đầu đồng một sự, đều muốn xa lìa đau khổ đạt được an vui. Ban cho người khác lợi lạc là pháp hữu vi thù thắng. Tạo lợi lạc hướng về bản thân, cũng là nhân của bi và hỷ. Tạo lợi lạc hướng về người khác là hiện bày chỗ sinh khởi bi, hỷ. Tự làm cho bản thân lợi lạc nên sinh khởi tâm bi. Thấy đạt được lợi lạc đó cho nên hoan hỷ. Bốn tâm vô lượng là duyên muốn tu tập của nội tâm. Bốn nhiếp pháp là làm lợi lạc cho chúng sinh, gọi là tối thắng. Người tu bốn tâm vô lượng luôn kết hợp với pháp thế gian và pháp xuất thế gian, vì pháp thế gian, pháp xuất thế gian và bốn tâm vô lượng chính là đồng một cảnh giới. Vì sao? Vì đồng một việc tạo lợi ích cho chúng sinh, đạt được đồng một quả Bồ-đề vô thượng. Người có tâm bi luôn luôn lợi tha, người trí luôn luôn xả bỏ, không sinh tâm cho là hiếm có, không sinh tâm cao thấp.

Phẩm 19: THÍ THÙ THẮNG ĐỐI VỚI KHỔ CỦA KẺ KHÁC

Bồ-tát thấy người khác khổ đau thì chính là Bồ-tát vô cùng đau khổ. Lúc thấy người khác an lạc thì chính là sự an lạc cùng cực của Bồ-tát. Vì thế nên Bồ-tát luôn tạo lợi ích cho người khác. Chúng sinh phàm ngu lúc thấy người khác đau khổ thì tự bản thân mình lấy làm vui thích, thấy người khác đau khổ không cho là đau khổ. Bậc hiền nhân tự lấy đau khổ của mình làm an lạc, đem an lạc cho người khác, không do sự đau khổ của chính mình. Chúng sinh phàm ngu vì chút ít an lạc của mình mà gây đau khổ cùng cực cho người khác. Bậc hiền nhân vì ban cho người khác chút an lạc mà tự mình nhận chịu nhiều khổ đau. Người thực hành điều ác tu tập chút nhân an lạc, đạt được sự an lạc to lớn tuy sinh tâm vui mừng, không sánh bằng Bồ-tát đem chút an lạc làm lợi ích cho người khác, thì tâm vô cùng hoan hỷ hơn người kia gấp bội. Bồ-tát thấy người khác nhận chịu đau khổ thì đem thân mình chịu thay, thân tuy thọ khổ nhưng không lấy làm khổ, trong tâm vui sướng, sinh niềm hoan hỷ tột bậc. Tâm bi của Bồ-tát được an lạc tự tại, không bị sầu não bức bách do các khổ trong ba cõi. Bồ-tát uống cam lồ đại bi nên không bị các khổ làm khổ sở, không bị khổ làm khổ sở nên có thể nhận chịu khổ đau của người khác. Chúng sinh phàm ngu lúc thấy người khác khổ đau thì trong tâm sinh ra vui thích, lúc thấy người khác an vui thì trong tâm sinh ra khổ sở. Bồ-tát lúc thấy người khác khổ đau thì mình khổ sở, lúc thấy người khác an vui thì mình an lạc. Người không có tâm bi lúc thấy người khác khổ đau thì giống mặt trăng thật lạnh lùng. Người có tâm bi lúc thấy người khác nhận chịu khổ đau thì giống như mặt trời sáng rực nơi mùa hạ, không hỏi ngu trí khi thấy người khác đau khổ, đều sinh lòng chán lìa sinh nhân ưu não. Người có tâm bi vô cùng thương xót, trong lòng liền quyết định, tất cả chúng sinh đau khổ chính là mình đau khổ. Bồ-tát nghĩ: Nếu không thể phát khởi đại tinh tiến, thì do đâu có thể phá tan sự khổ đau lớn lao nầy? Bồ-tát và tất cả chúng sinh cùng chung lợi ích, khổ đau an lạc đều đồng, nên cần phải siêng năng chịu khó để được thành tựu Bồ-đề. Bồ-tát suy nghĩ: Ta đạt được Bồ-đề rồi thì đem ban cho tất cả chúng sinh, trở lại trong chốn sinh tử, từ mới phát tâm trở lại đạt đến Bồ-đề, lại xả bỏ để ban cho chúng sinh, nhưng không hề thủ đắc. Bồ-tát vì lợi tha, nên thực hành bốn nhiếp pháp suốt đời không chán mệt, giống như mặt đất luôn giữ gìn hết thảy các vật mà mãi mãi không chán mệt. Người vì bản thân mình, tự thọ nhận sự vui sướng hãy còn sinh lòng chán ngán. Bồ-tát vì người khác tạo sự an lạc không hề sinh tâm chán mệt. Bồ-tát tạo sự an lạc cho người, thấy A tỳ đau khổ giống như Niết-bàn an lạc, ở bên cạnh các khổ đau khác đâu có gì chán mệt. Nếu vì tất cả chúng sinh thọ nhận sự an lạc, thì tự mình có thể đón nhận vô lượng khổ nơi địa ngục, nên thường thực hành dũng mãnh ban cho người khác sự an lạc, không hề sinh tâm chán mệt. Do nhân duyên gì vì người khác tạo an lạc không hề chán mệt? Vì Bồtát quán xét tất cả chúng sinh, đều không thấy ý tưởng nào khác, tất cả giống như chính bản thân mình. Chúng sinh vì bị kiết sử trói buộc, ở tất cả mọi nơi đều muốn làm hại người khác. Người được tâm bi giữ gìn, đối với tất cả các khổ, không khổ nào là không muốn nhận chịu. Bồ-tát vì người khác nhận chịu sự bức bách của khổ đau, giống như người khổ đau vui thích sự an lạc giải thoát. Bồ-tát lúc vui mừng thay thế người khác nhận chịu sự bức bách của khổ đau chính là tâm đại bi thanh tịnh. Trí tuệ quán xét người khác nhận chịu đau khổ thì tâm bi liền trụ trong đó, nơi tâm bi an trụ thì khổ đau không thể an trụ, cho dù tâm bi lại bị khổ đau của tất cả chúng sinh ràng buộc. Như vậy làm cho người khác lợi lạc thì tâm sinh hoan hỷ hơn hẳn sự giải thoát an lạc. Bồ-tát thấy người khác nhận chịu đau khổ giống như chính bản thân mình đau khổ. Bản thân mình được an lạc thì luôn muốn ban cho người khác, tự cảm thấy hơn hẳn ở nơi Niết-bàn. Người có tâm bi thường muốn tự mình thọ nhận đau khổ để ban cho người khác an lạc. Bi cùng với khổ không thể trong một sát na có thể cùng an trụ. Người làm điều ác thấy người khác khổ đau thì muốn được tránh xa, thấy người khác được an vui thì tâm không vui mừng. Bồ-tát thấy người khác khổ đau thì không muốn xa lìa. Người không ái nhiễm thì không có tất cả mọi nghiệp khổ. Vì sao? Vì trừ diệt khổ đau cho người khác nên sinh tâm đại hoan hỷ. Bồ-tát ban cho người khác niềm an lạc lớn lao tất phải hoan hỷ. Thấy người khác ban cho người khác chút an lạc thì tâm hoan hỷ vô cùng. Vì sao? Vì thể tánh là như vậy. Bồ-tát thấy người khác an lạc thì bản thân mình cũng an lạc, Bồ-tát thấy người ban cho người khác chút ít an lạc, thì sao lại không sinh tâm hoan hỷ.

Phẩm 20: ÁI BI

Nếu người không biết thân tâm thường bị đau khổ cùng cực vây buộc, thì không thể nào biết được khổ đau trong tâm người khác. Người không có tâm bi thì không việc ác nào không làm. Nếu thấy người khác suy vi họa hoạn mà tâm không dịu dàng an ủi, người nầy gọi là kẻ có hạnh ác tột bậc. Nếu người có ân nặng thì lúc nào cũng luôn luôn nghĩ đến. Người sắp mạng chung tuy có thuốc ngon cũng cho là cực khổ, vì đã hành các nghiệp xấu ác. Kẻ không phước đức thì tuy được cam lồ từ bi cũng khởi ý tưởng rất đắng cay. Nếu người giàu có vô cùng của cải châu báu đầy ắp, chỉ riêng mình ăn uống không ban cho người khác, nên bị người khác trách mắng, tuy có trí tuệ đa văn, nếu không có tâm bi, cũng bị người khác mỉa mai chê trách. Nếu thấy chúng sinh khổ não mà tâm bi khó có được thì chẳng phải là công đức khí, giống như đồ vật bể không thể tùy ý chứa nước. Người có tâm bi thấy chúng sinh khổ, tuy không thể cứu giúp, nhưng không thể không than thở: Khổ thay chúng sinh! Thấy chúng sinh bị tham dục sân giận ngu si làm tổn hại, nỗi khổ về sinh già bệnh chết luôn là sự bức bách của các khổ, thì than: Lạ thay! Chúng sinh rơi vào đại khổ nầy! Chúng sinh nơi thế gian khổ đau về thân, về tâm thường bị sự hủy hoại của nghiệp kiết. Hỡi ôi! Lạ thay! Khổ đau bức bách mọi chúng sinh ở thế gian, có Bồ-tát nào lại không sinh tâm thương xót? Thân trụ nơi dòng chảy cuồn cuộn chìm trong biển cả sinh tử vô cùng, khổ đau thật đáng sợ hãi! Chúng sinh thường bị nỗi khổ của khổ khổ, nỗi khổ của hành khổ, nỗi khổ của hoại khổ làm cho đau khổ, nếu thấy một nỗi khổ là đủ để sinh nhân bi, huống gì là thấy đủ ba khổ. Chúng sinh ngu si thường bị trăm ngàn nỗi khổ làm cho đau khổ. Nếu thấy một nỗi khổ cần phải phát sinh tâm bi, huống chi là trăm ngàn các nỗi khổ. Nên phải biết rõ, các nỗi khổ của thế gian, ở trong mỗi mỗi nỗi khổ, người chưa sinh khởi tâm bi cần phải sinh khởi tâm bi, đã sinh khởi tâm bi cần được làm cho tăng trưởng, huống hồ lại là vô lượng nỗi khổ. Nếu nghe nơi thế gian có vô lượng các loại khổ đau, đá hãy còn mềm, huống hồ là người có tâm mà lại không sinh thương xót? Nếu nghe âm thanh kêu gào đau thương của thế gian, cây khô hãy còn sinh khởi xót thương, huống hồ là người có tâm mà lại không sinh thương xót? Khổ đau của thế gian cùng một vị, người có tâm hòa dịu dễ dàng sinh khởi tâm bi, người có tâm bi thì quả Bồ-đề sẽ ở trong tay.

Phẩm 21: HÀNG TRƯỢNG PHU GIÁC NGỘ

Tâm bi rất phong phú
Lợi tha đã sinh vui
Người tâm bi nghèo cùng
Không thể tham vui nầy.
Ngu buộc, ái tự tại
Tâm bi liền rời xa
Tâm bi đã bỏ đi
Các khổ cùng đến tụ.

Ái tự tại là ở trong sinh tử muốn phân chia khổ đau cho người khác để cùng xoay trở lại sinh tử. Tâm bi là đối với chúng sinh nơi thế gian phân chia niềm an lạc tịch diệt để cùng nhau rời bỏ. Người có tâm ái thích ở nơi ba cõi. Người biết ái là sai lầm thì vui thích Niết-bàn. Người tạo lợi ích cho người khác thì vui thích tâm bi. Người ái tự tại thường vui thích thế gian, nên thọ thân là niềm vui của chính họ. Người bi tự tại thường vui thích thọ thân, làm cho người khác an vui. Người ái tự tại thường vui thích với niềm vui của bản thân để tự ràng buộc lấy mình. Người có tâm bi luôn luôn vì mong muốn ban niềm vui cho người khác nên tự ràng buộc lấy mình. Người ái tự tại thường vì niềm vui của bản thân nên không có sự chán mệt. Người có tâm bi vì ban niềm vui cho người khác nên không hề chán mệt. Người ít ngu ái, không yêu thích mình cũng không yêu thương người khác. Bồ-tát cũng yêu chính mình. Chúng sinh ngu si thường vì mình, thật ra là vì người khác.

Phẩm 22: ĐẠI TRƯỢNG PHU

Tâm bi của Bồ-tát chỉ có một việc làm cho bức bách, đó là việc người khác luôn bị khổ đau bức bách, ngoài ra không có việc gì khác. Đó gọi là thành tựu bi tụ. Rời bỏ Niết-bàn như từ bỏ khổ đau, nhận chịu có thân như giữ lấy giải thoát, ban lợi lạc cho thế gian gọi là bi. Biết công đức của Niết-bàn, tội lỗi nơi sinh tử nhưng không xả bỏ pháp hữu vi, như thế tất cả đều là công đức của đại bi. Tất cả xứ xa lìa dục, lấy Niết-bàn làm thể mà không giữ lấy Niết-bàn, ấy gọi là người dũng mãnh. Vì nhân duyên đại bi nên có thể vào ra sinh tử, xoay vòng tới lui, quán xét các cõi tận diệt, biết rõ chúng sinh là đau khổ nên cứu giúp, nên vì họ làm nơi nương tựa. Tâm giữ lấy đại bi, chán ghét thân mình, cầu thân mười lực, ở nơi đại bi đạt được công đức xứ phi xứ. Như Chuyển luân Thánh vương, tuy có ngàn người con, nhưng yêu quý người đầy đủ tướng tốt. Đức Phật cũng như vậy, đối với tất cả chúng sinh chỉ yêu thương người có tâm bi. Chỉ luôn làm phước mà không có trí, không có bi, gọi là trượng phu. Có phước có trí gọi là trượng phu thiện. Nếu tu phước, tu trí, tu bi thì gọi là Đại trượng phu. Người cần phải có tâm bi. Người có tâm bi thích ứng cùng với mọi thứ nói năng. Người kính lễ bi là hành đầy đủ tất cả công đức.

 

Phẩm 23: NÓI VỀ BI

Các hàng trời, người, A-tu-la… trong thế gian, thọ thân với muôn vàn đau khổ, chỉ có Bồ-tát thấu suốt tận cùng bi ấy, biết rõ tất cả pháp thiện đều lấy bi làm đầu. Người trí nên biết, giống như tất cả các chữ, Tất đàn làm đầu, tất cả pháp thiện đều đi vào trong bi. Tựa như một nhà, các sắc đều hội nhập. Nếu thấy hư không thanh tịnh thì thấy đại bi thanh tịnh, thấy hư không vô biên thì đại bi cũng vô biên. Đức Phật dạy: Nếu muốn hiện tiền thấy Ta, cần phải cung kính đại bi. Nếu muốn thấy Ta cần phải quán xét ba cõi đều nhận chịu khổ đau. Khổ đau vô biên nên đại bi cũng vô biên. Khổ đau an trụ nên đại bi cũng an trụ. Đại bi đang an trụ tại nơi nào? Ở trong muôn vàn khổ đau nơi tham dục, sân hận, ngu si, sinh lão bệnh tử của tất cả chúng sinh và các quyến thuộc mà an trụ. Có tâm đại bi nên có thể biết rõ sự khổ đau của người khác. Đây gọi là cùng Phật an trụ. Có tất cả công đức của ba loại thí nuôi dưỡng thân, giống như sữa mẹ, đó gọi là đại bi.

Phẩm 24: THÍ BI TỊNH

Giống như núi Tuyết sản sinh tất cả loại thuốc, núi Tuyết đại bi sản sinh ba loại thí, tất cả công đức, ngoại trừ bi ra càng không có pháp nào có thể tạo niềm vui cho thế gian. Thí làm thể của bi có thể tạo ra muôn vàn niềm vui cho thế gian. Quả báo vô thượng được thành tựu nhờ vào ba loại thí. Bi là nhân của ba loại thí. Tổ mẫu của chúng sinh có thể sinh ra Như Lai, tất cả chúng sinh đều quy y nơi bậc tối thắng vô thượng có ai là không cung kính, có thể sinh ra ba loại thí đó gọi là đại bi. Công đức đại bi của Bồ-tát vô cùng nhiều, an trụ ở trong tâm. Chỉ có một việc không thể xa rời, không có nhiễm chấp, đó là việc thường làm lợi ích cho mọi người không hề có tâm chán mệt, nên niềm vui thế gian, xuất thế gian và niềm vui lợi tha đều sinh ra từ tâm bi. Vì thế tôi nay cung kính đối với bi. Đại bi là luôn tạo lợi ích cho thế gian, nên tôi cũng cung kính muôn vàn công đức. Thật sự như đã nói, có hai loại công đức tối thắng, đó là luôn tạo lợi ích cho người khác và tự làm thanh tịnh tâm bi. Bi luôn làm thanh tịnh bố thí, vì thế tôi nay ái kính bố thí, luôn trang nghiêm nơi bi, tôi cũng ái kính bi, cùng những người có chung ý bi, lại cũng ái kính bi, luôn làm thanh tịnh của thể tâm. Thí luôn làm thanh tịnh nghiệp đạo. Có thể làm thanh tịnh thể tâm, có thể làm thanh tịnh nghiệp đạo, tức là có thể làm thanh tịnh đạo Niết-bàn, có thể làm thanh tịnh đạo Bồ-đề vô thượng. Bi luôn làm thanh tịnh sự xả bỏ. Không có bi là nhiễm cấu nơi xả bỏ. Thí luôn làm thanh tịnh bi, bi luôn làm thanh tịnh thí, đó gọi là làm đoan nghiêm thế gian. Đại bi lại cũng như thế. Chúng sinh ở thế gian bị mặt trời phiền não thiêu đốt bức bách. Người đạt được tâm bi đều sinh ra mát mẻ vui tươi, giống như lúc mùa hạ nóng bức có được làn gió mát lành thì mọi sự nóng bức đều dừng dứt.

 

Phẩm 25: ÁI BI THẮNG

Thí duyên thủ, thủ duyên ái, có ái thì có thủ, không có ái thì không có thủ. Có bi nhất định có xả, không có bi cũng không có xả. Vì ái nên thủ lớn mạnh, vì xả nên bi tăng trưởng. Do tham ái nên sinh thọ. Ghét oán lỗi lầm ấy nên sinh trưởng tâm bi. Ái tăng trưởng làm cho bản thân mình vui sướng thì hại đến người khác. Bi tăng trưởng có thể ban cho người khác vui sướng còn bản thân mình thì khổ. Ái tăng trưởng mà hại đến người khác, điều đó chẳng phải là hiếm có. Người có tâm bi, xả bỏ thân mạng của mình ban vui cho người khác, đó là điều hiếm có. Người tham ái gọi là hạng người ngu si, hèn kém, thường ở nơi bần cùng, nhận chịu mọi khổ não. Người có công đức của bi thường ở nơi giàu sang. Người tham ái không thể đoạn dứt, có lúc dừng chân đạt được trí tuệ thì có thể dừng bước để đoạn tuyệt. Người được tâm bi không có dừng chân, vì thường bố thí cho mọi người. Người có tâm ái có thể chiêu tập tất cả các khổ, trở thành nỗi khổ đau to lớn. Người có tâm bi có thể sinh ra tất cả công đức. Nếu bi không xả bỏ, không làm thanh tịnh nghiệp là điều mình không mong muốn. Giả sử bi không thể cứu giúp thì mình cũng không mong muốn. Nếu bi không vui mừng cầu quả Bồ-đề thì cũng chẳng phải sự mong muốn của mình. Người có tâm ái luôn luôn sinh ra tất cả khổ đau. Người có tâm bi luôn luôn sinh ra tất cả an lạc. Từ nơi tâm bi phát khởi nghiệp thân khẩu, gọi là nghiệp thù thắng. Người có tâm bi luôn có thể tạo sự an vui vô tận cho tất cả chúng sinh.

 

Phẩm 26: TRÍ BI GIẢI THOÁT

Hai việc trí – bi, việc nào là tốt hơn? Người trí chỉ có thể tự mình quy y, người bi luôn luôn khiến cho người khác quy y đạo vô thượng. Có bi không có trí, chẳng phải là sự mến mộ của người trí. Có trí không có bi cũng không phải là sự yêu thích của người trí. Có thể gây chướng ngại nơi đạo vô thượng, nếu trí không tương ưng với tâm bi. Cũng có thể gây chướng ngại cho trí nơi đạo vô thượng. Bồ-tát do vì có trí, nên một niệm không vui thích nơi sinh tử, do vì bi nên không ham muốn giải thoát, vì giải thoát như cam lồ, người bi cho là không ý vị. Như thức ăn ngon không có muối, cho là không ý vị. Giải thoát tuy ngọt ngào nếu không có tâm bi thì Bồ-tát cho là không ý vị. Nếu đại bi cùng với giải thoát, biệt giải thoát, đều nên kính lễ, vì đại bi là mẹ của chư Phật. Giải thoát gọi là mãi mãi diệt trừ tất cả sự việc không còn gì khác. Tâm bi như câu chú thiện, có thể chú nguyện cho người chết sống lại. Nếu thọ thân sinh tử liên tục không dứt, thì đó là lỗi về thường. Nếu chấp giữ lấy giải thoát đó là lỗi về đoạn. Lìa bỏ cả hai bên nên gọi là Phật cứu độ tất cả chúng sinh. Nếu không có Đức Phật thì không có giải thoát, nếu không có tâm bi thì cũng không có Phật. Bi có thể phát sinh giải thoát, do điều nầy nên Bồ-tát giữ lấy bi. Thể của bi là một nhưng có thể thực hiện hai việc: Một là có thể cứu giúp chúng sinh. Hai là có thể phát sinh chủng trí của Phật.

 

Phẩm 27: PHÁT NGUYỆN

Bồ-tát tư duy: Tất cả chúng sinh cùng có vô lượng loại khổ đau, ta nên phát khởi tâm bi, thành tựu Nhất thiết chủng trí, diệt trừ vô số thứ khổ đau mà tất cả chúng sinh cùng có. Bồ-tát thấy hết thảy các loài chìm đắm trong biển khổ sinh tử vô lượng vô biên, nên có được tâm bi bình đẳng. Người ngu si ràng buộc không biết nẻo giải thoát vui thích nên sinh tâm buông bỏ. Nỗi đau khổ to lớn của thế gian sinh ra tâm bi thù thắng của ta.

Bồ-tát lại suy nghĩ: Có tâm bi quán xét chúng sinh đau khổ chưa đạt được đạo quả Bồ-đề, ta làm sao khiến cho chúng sinh đạt được đạo giải thoát?

Bồ-tát tư duy: Phước của ta thật ít ỏi so với tất cả thế gian, nên nay ta không thể nào cứu giúp chúng sinh.

Bồ-tát tư duy: Ta nên làm đại thân hữu đối với chúng sinh trong ba cõi, chúng sinh luôn luôn bị bức bách do thân khổ tâm khổ, nên nay ta gọi là người sống không gây tạo ác.

Bồ-tát tư duy: Thân ta sống không thể phá tan đau khổ của thế gian, không thể đem lại lợi ích cho chúng sinh thì ta thọ dụng thân nầy làm gì?

Bồ-tát tư duy: Ta là thân hữu của tất cả chúng sinh, ta nên nuôi dạy, đối với hàng oan gia nên thực hành lợi ích lớn.

Bồ-tát tư duy: Tất cả chúng sinh có thể vì ta tạo nghiệp đúng đắn, thiện, không khiến cho một chúng sinh nào tác ý không đúng đắn.

Bồ-tát tư duy như vầy: Gọi là lợi tha, ấy là cầu tướng của người khác, đều không thể thủ đắc hoàn toàn như bản thân mình. Tại sao? Do vì người khác tức là lợi mình.

Bồ-tát tư duy: Nếu có thể có chốn nguyện khiến cho đau khổ nơi thân tâm của tất cả chúng sinh, trong một lúc cùng tụ tập đến nơi thân ta, ta luôn vì họ thọ nhận, khiến họ được an vui không lấy gì làm đau khổ.

Bồ-tát tư duy: Ta ở trong đạo Bồ-đề an trụ nơi tất cả các khổ hiện có, ta đều có thể nhẫn chịu. Vì sao? Vì chúng sinh đắm chìm trong biển khổ sinh tử nhưng ta không thể độ thoát.

Bồ-tát tư duy: Tuy có kiết sử nặng nề khiến đạo quả Bồ-đề khó có được, như vậy chỉ có hai việc Bi – Trí làm bạn với tâm suốt đời không hề chán mệt.

Bồ-tát tư duy: Đấng Thiện Thệ vốn hành đạo, nay ta nên thuận theo đó mà đi. Nay ta ở nơi thế gian đem tâm bi ban phát cho chúng sinh, nên suy nghĩ, ta như chúng sinh không khác.

Bồ-tát tư duy: Ta nay vì thế gian làm chỗ nương tựa, cứu giúp nên phát thệ nguyện rộng lớn: Nguyện tu đại trang nghiêm, trí tuệ làm bạn tốt, con nay mầm trí tuệ của Phật sắp phát sinh.

Bồ-tát tư duy: Ta muốn diệt trừ đau khổ của chúng sinh, khiến cho hết thảy đều được an vui, muốn làm tất cả các công việc, thường đem tâm bi chỉ dạy cho muôn loài.

Bồ-tát tư duy: Khổ đau của sinh tử nghe hãy còn chán ngán, người có tâm bi có thể nhẫn chịu được khổ đau của thế gian, vì tâm bi hướng về cửa không còn sinh tử.

Bồ-tát tư duy: Khổ đau của sinh tử thật đáng chán ghét, mong muốn đi vào Niết-bàn, những lời đại bi nói: Chúng sinh khổ não chưa độ, làm thế nào từ bỏ mà đi?

Bồ-tát tư duy: Hữu vi gồm đủ mọi thứ khổ đau, Niết-bàn là sự an lạc xuất thế gian. Nay ta biết rõ sinh tử là hữu vi đau khổ – Niết-bàn là vô vi an lạc, nhưng tâm bi thường vui thích với ba loại thí.

Bồ-tát tư duy: Ta rất sợ các cõi, vì tâm bi cứu giúp chúng sinh nên vui vẻ ở nơi các cõi. Tâm bi nói với Bồ-tát: Ta luôn khiến ông ở mãi nơi sinh tử không rời xa ông. Vì sao? Là vì báo ân.

Bồ-tát tư duy: An lạc của giải thoát là thức ăn để độ chúng sinh hãy còn không muốn, tâm bi ngăn ta khiến không được ăn, huống là niềm vui không bền chắc nơi sinh tử.

Bồ-tát tư duy: Bậc nhất trong tất cả mọi thứ an lạc được Đức Phật giảng nói là Niết-bàn. Niết-bàn nầy tuy an lạc nhưng trí ta không muốn đi đến. Sở dĩ trí không muốn đi đến là vì có bi hòa hợp.

Bồ-tát tư duy: Ta nay cung kính hướng đến Niết-bàn. Vì sao như vậy? Vì trong Niết-bàn không còn sinh lão bệnh tử. Niết-bàn tuy an lạc nhưng tâm bi luôn dẫn dắt, vì chúng sinh không thể đi đến. Tâm bi là mẹ của chư Phật, vì thế không thể xả bỏ mà hướng tới Niết-bàn. Nếu Niết-bàn ở ngay đây ta hãy còn không chứng, huống là xả bỏ chúng sinh để hướng về Niết-bàn.

Bồ-tát tư duy: Ta muốn hướng đến Niết-bàn, bi là mẹ của chư Phật ở cạnh ta, ban cho dòng sữa. Làm thế nào xa rời để đi đến Bồ-đề vô thượng? Giả như không ban lợi lạc cho chúng sinh thì ta cũng không mong cầu, huống lại là Niết-bàn.

Bồ-tát tư duy: Không nên hướng đến Niết-bàn mà xả bỏ chúng sinh không nơi nương dựa. Vì tâm bi nên khiến cho ta không chứng

Niết-bàn. Niết-bàn là tận cùng nơi biên vực sinh, nếu người không sinh sao có thể cứu vớt chúng sinh?

Bồ-tát tư duy: Người thọ sinh có hai thứ an vui: Một là an vui do cứu giúp chúng sinh. Hai là vui sướng được giải thoát. Ta làm sao xả bỏ hai thứ an vui để giữ lấy một điều an vui?

Bồ-tát tư duy: Tất cả phàm phu thảy đều có tánh Nhất thiết chủng trí, nên đối với Nhất thiết chủng trí thì phàm phu dễ dàng đạt được. Vì thế nên ta yêu quý phàm phu mà không quý trọng giải thoát.

Bồ-tát tư duy: Tùy theo nơi nào có chúng sinh đau khổ thì ở đó có tâm bi được sinh ra và lớn mạnh, vì thế nên ta vui thích ở trong đó. Bồtát nói với tâm bi: Ngươi khiến cho ta được thanh tịnh tăng trưởng, làm cho tất cả chúng sinh đều được thanh tịnh, đều được tăng trưởng. Bồ-tát nói với tâm bi: Chúng sinh còn đau khổ, vì sự bức bách của trăm ngàn điều khổ não. Hôm nay nên khiến cho chúng sinh nhất định đạt được an lạc, nên cùng với ta lo liệu xong việc nầy. Bồ-tát nói với tâm bi: Chúng sinh bị tham ái ràng buộc, bị cái chết thâu tóm, thấy chúng sinh ở thế gian không nơi quay về, không chốn nương cậy, vì cứu độ chúng sinh nên nhận chịu muôn vàn đau khổ.

Bồ-tát tư duy: Ta quý kính bậc đại trượng phu, thấy có chúng sinh rơi vào trong đau khổ, liền xả bỏ sự an lạc của Niết-bàn, vì nhằm đem lại an vui cho chúng sinh nên tự mình cố gắng thực hành việc nầy.

Bồ-tát tư duy: Dốc cứu độ chúng sinh đạt được nhẫn vô sinh, trí quyết định nên được thọ ký. Người được thọ ký đó ta nay phải cung kính cúng dường.

Bồ-tát tư duy: Đức Phật đạt đến mắt thanh tịnh, thấy khắp, khiến con hiện tiền chắp tay thỉnh cầu Đức Phật, nguyện xin thọ ký cho con!

 

Phẩm 28: ĐẲNG ĐỒNG PHÁT NGUYỆN

Hiện tại đối trước mười phương chư Phật, vì sự nghiệp cứu độ chúng sinh, con nay xin phát nguyện Bồ-đề: Tất cả việc làm của chúng sinh con đều có thể cố gắng thực hiện. Chư Phật đại bi đều khen ngợi chúng con: Lành thay!

Con hiện có, hoặc trí hoặc phước, khiến con làm cho tất cả những ai không nơi chốn quy y đều được giải thoát. Thế Tôn khiến cho con luôn không ưa thích tâm của hàng tiểu trí. Thế Tôn khiến cho con đạt đầy đủ mười lực như Thế Tôn. Nếu lửa dữ kiết sử thiêu đốt tâm của chúng sinh, xin khiến con dùng nước pháp dập tắt ngay lửa dữ ấy, phá trừ ma oán, đạt được trí tuệ của bậc Hiền Thánh, được chuyển pháp luân, dẹp tan phiền não cho tất cả muôn loài. Tùy thuận nơi hết thảy chúng sinh, con đều cùng một lúc vì họ chuyển pháp luân, tất cả phước đã tạo đều dùng làm việc nầy. Nhờ phước đức ấy, khiến con đạt được Pháp thân tối thắng, giống như hư không hiện bày khắp mọi nơi, đạt được hai loại thân để giáo hóa thế gian. Con nhờ phước nầy để hòa hợp với chư Phật, khiến cho các chúng sinh không người cứu giúp đều được giải thoát. Vô số các loại phiền não có tướng sai khác có thể làm nhân của khổ, do phước hiện có của con, dùng diệu lực của trí tuệ diệt trừ mọi khổ nạn cho chúng sinh, xin khiến con đem phước nầy tạo nên ý vị an lạc cho tất cả muôn loài khắp cõi hư không. Xin khiến cho con thường được viên mãn sở nguyện, là đối với đám giặc cướp ấm, cái (những thứ ngăn che trí tuệ), thường cướp đoạt công đức của thế gian, đều phải khiếp sợ. Xin khiến cho con nhờ vào phước ấy để cứu giúp thâu giữ tất cả chúng sinh. Tùy theo thế gian an trụ bao nhiêu thời gian thì pháp thiện của con cũng an trụ bấy nhiêu. Nhờ vào pháp thiện của con nên tất cả thế gian và xuất thế gian thảy đều xa lìa khổ đau đạt được yên vui, thường trong một lúc hòa hợp với tất cả chúng sinh.

Bồ-tát tư duy: Từ nay trở đi, con thường thuận theo lời thỉnh cầu của người xin – nhận lãnh sự sai khiến, chỉ dạy. Từ nay trở đi con thường đối với thân mình phát sinh tin hiểu sâu xa không sinh ý tưởng khác, bao nhiêu mong muốn theo đó ban cho khiến được đầy đủ.

Bồ-tát tư duy: Xin khiến cho con từ nay cho đến lúc đạt đạo quả Bồ-đề không có một lúc nào thân không gặp Phật.

Bồ-tát tư duy: Khiến cho con từ nay, mãi mãi rời xa sinh tử, giả như lúc con không gặp Phật, không có một sát na nào lìa bỏ tâm bi.

Bồ-tát tư duy: Xin khiến con mau chóng đạt đến đạo quả Phật đà thấy rõ những khổ đau cùng cực mà chúng sinh nhận chịu đã từng bức não thân con, con đều thay họ để thọ nhận. Xin khiến cho thân con đạt được tâm bi gắn bó tận cùng. Xin khiến cho thân con đạt được thân thọ nhận trí Phật giải thoát. Xin khiến cho tâm bi của con giống như hư không, tất cả núi sông, cây cỏ, chim chóc, thú vật, đều nương vào hư không an trụ. Tất cả chúng sinh nơi hết thảy mọi lúc, đều đi vào tâm bi của con, thiện căn của con nương vào tất cả chúng sinh mà được an lập. Dùng những phước thiện của con trở lại ban cho hết thảy chúng sinh, đạt được quả giải thoát. Tất cả đường sá, cầu cống, ghe thuyền, phương sở, đều là của chúng sinh cùng có. Xin khiến cho tất cả các phước thiện của con cũng là của tất cả chúng sinh cùng có.

Bồ-tát tư duy: Đất nước gió lửa mà tất cả chúng sinh cùng có, khiến cho các phước thiện vốn tu tập của con cũng là của tất cả chúng sinh cùng có. Thiện căn con đạt được, nhờ vào tất cả chúng sinh, hồi hướng ban cho tất cả chúng sinh đạt được trí vô ngại.

Bồ-tát tư duy: Các phước thiện con đã tạo xin khiến cho tất cả chúng sinh được xa rời cảnh giới của quân ma, đi vào cảnh giới của chư Phật. Xin khiến cho con đạt được trí tuệ hiện tiền luôn gồm đủ mười Ba-la-mật như trí Phật, khiến cho tất cả chúng sinh luôn được an lạc ổn định, đạt được tâm bất động, hết thảy khổ não hiện có của tất cả chúng sinh đều khiến cứu giúp lẫn nhau. Bồ-tát nói với phước đức: Tất cả chúng sinh bị vô minh che lấp, không biết mình đau khổ, người khác đau khổ., ông nên mở bày chỉ dẫn.

Lúc Bồ-tát hành bố thí tịnh thủy, luôn khiến cho tất cả chúng sinh trừ hết cơn khát ái của kiết sử, đạt được tâm bi nơi đạo vô thượng. Khi con ban cho nước, nguyện cho tất cả chúng sinh tránh khỏi nẻo tham ái vây buộc, luôn luôn được tự tại, được dồi dào pháp tài, khiến phước thiện của con như sông biển. Hoa tâm từ không cấu nhiễm, trì giới làm cội rễ, bố thí giống như dòng nước cuồn cuộn, trừ hết cơn khát khổ đau của chúng sinh, xin khiến cho tâm bi của con luôn như sông lớn.

Bồ-tát tư duy: Tâm bi của con như biển rộng. Giới tịnh như hải triều, nhẫn nhục như sóng dậy, trí tuệ như biển động, tâm từ như nước cùng một vị. Tất cả những người con đã bố thí khiến cho họ thành tựu tâm từ như biển, khiến cho phước bố thí được vị cam lồ của tâm bi, trừ hết sinh già bệnh chết của chúng sinh.

 

Phẩm 29: PHÁT NGUYỆN THÙ THẮNG

Nếu lúc con ở nơi tất cả chúng sinh, phát khởi tâm bi ban cho lợi lạc, nguyện làm cho đại bi thêm kiên cố, dùng tâm bi diệt trừ đau khổ của chúng sinh, đều khiến họ cùng đến vây quanh nơi con. Nay con đem phước của vô úy thí nầy, khiến cho tất cả chúng sinh đều đạt được đại bi. Nay con với những công đức nhẫn nhục hiện có, ở đời vị lai khi kiếp nạn đao binh dấy khởi, xin đem tâm bi của con diệt trừ tâm sân hận của tất cả chúng sinh. Do công đức bố thí thức ăn, khi kiếp nạn đói khát xảy ra, xin khiến cho tất cả chúng sinh được ăn uống đầy đủ. Nhờ công đức bố thí nước uống cho chúng sinh, xin khiến cho tâm bi thành tựu, an trụ trong tâm của tất cả chúng sinh. Do công đức bố thí y phục cho chúng sinh xin khiến mọi chúng sinh có được tâm hổ thẹn. Nhờ công đức của nhân duyên bố thí đèn sáng cho Phật, khiến cho con ở đời vị lai đạt được mặt trời của Phật trừ diệt tất cả tối tăm. Nhờ công đức bố thí mắt xin khiến cho con ở đời vị lai, mong cho tất cả chúng sinh mau chóng đạt được mắt Phật. Nhờ công đức của con từng xả bỏ đầu óc tay chân v.v… xin khiến cho tất cả chúng sinh đều hướng về tâm Bồ-đề. Do công đức của nhân duyên bố thí thuốc thang của con, xin khiến cho tất cả chúng sinh trừ sạch mọi thứ khổ của sinh già bệnh chết. Nhờ nhân duyên của công đức con chỉ dạy người khác cung cấp cho chúng sinh, xin khiến cho tất cả chúng sinh thành tựu được đạo Bồ-đề vô lậu vô thượng. Do công đức của nhân duyên con dùng cờ hoa, lọng báu cúng dường nơi tháp Phật, xin khiến cho hết thảy chúng sinh đạt được phước đức cao xa thù thắng. Nhờ công đức của nhân duyên con dùng cờ phướn cúng dường xá-lợi, xin khiến cho mọi chúng sinh diệt trừ tối tăm, có được ánh sáng. Do nhân duyên con cúng dường tiếng linh, xin khiến cho tất cả có được âm thanh của Phạm thiên. Nhờ công đức của nhân duyên cúng dường hương hoa, anh lạc, xin khiến cho tất cả chúng sinh trừ sạch các thứ kiết sử cấu nhiễm và mọi phiền não xú uế. Nhờ công đức của nhân duyên cúng dường Tam bảo, xin khiến cho tất cả chúng sinh thường xuyên gặp Tam bảo, không hề thiếu sót. Nhờ công đức của nhân duyên con ở trong đường hiểm trở, vì các thương nhân trừ hết nỗi sợ hãi, xin khiến cho hết thảy chúng sinh ra khỏi sự sợ hãi sinh tử. Nhờ nhân duyên là công đức con cứu chúng sinh thoát nạn nơi biển cả, xin khiến cho tất cả chúng sinh vượt qua biển cả sinh tử. Nhờ nhân duyên là công đức của thiện căn thanh tịnh nơi con hiện có, xin khiến cho tất cả chúng sinh dẹp tan bốn loại ma, thành tựu được chánh giác, con sẽ đạt được tam Bồ-đề. Con ở nơi chúng sinh tuy nói lời như vậy, là vì muốn an ủi họ nên nói lời như vầy: Nhờ công đức nầy xin khiến cho tất cả chúng sinh đạt được Bồ-đề vô thượng. Bồ-đề của tất cả chúng sinh tức là Bồ-đề của con. Tất cả chúng sinh bị ngu si che lấp đều khiến đạt được Bồ-đề vô thượng. Nhờ công đức của nhân duyên nầy xin khiến cho tất cả chúng sinh thành tựu quả Phật trước và con thành tựu quả Phật cuối cùng. Nhờ công đức của nhân duyên con luôn qua lại trong cõi sinh tử, xin khiến cho hết thảy chúng sinh đều được thành Phật. Nhờ công đức của nhân duyên con phát khởi tâm thiện, xin khiến cho tất cả chúng sinh đều đạt được trí Phật. Nếu có người nào thấy nghe, thọ trì, đọc tụng, đều là nhân của việc thực hiện đạt đến Bồ-đề vô thượng. Con mong muốn làm viên mãn tất cả ý nguyện của chúng sinh. Vì nguyện con chưa mãn, nếu con thấy chúng sinh đau khổ và nghe tiếng than khóc của họ, nhờ công đức nầy xin khiến cho tất cả chúng sinh đều được làm Phật, mọi người đều hoan hỷ khi nhìn ngắm. Giả như con tu các hạnh thiện không thể khiến cho tất cả chúng sinh làm Phật, con hãy còn không vui lắng nghe, huống hồ là lại thực hành. Bồ-tát nói với công đức: Ông nếu không thể ủng hộ chúng sinh làm nơi nương dựa cho họ, ta cũng không muốn nơi ông có được quả báo. Vì sao? Vì chúng sinh tu phước là không phải vì chính bản thân mình. Nếu chúng sinh không còn, thì tâm thiện của ta giống như hư không, ở trong ba thời ban phát an lạc cho chúng sinh, bố thí nhờ tâm Bồ-đề, được bậc trượng phu thù thắng xót thương phát nguyện, đây gọi là nói về tâm bi, cũng gọi là năm loại nêu giảng, cũng gọi là cứu độ chúng sinh, gọi chung là Đại trượng phu hành hiền. Có năm trăm kệ, cổ thư có tám trăm kệ. Đại Bồ-tát Đề Bà La là vị A-xà-lê nơi Độc Tử Bộ, sinh tại phương Nam, đã làm xong luận nầy.