KINH KIM QUANG MINH VĂN CÚ KÝ

QUYỂN 1

Sa-môn Thích Tri Lễ, ở núi Tứ Minh Đời Tống soạn.

Phần đầu

1. Tự trình bày:

Xưa kia, Tiên sư tôi có lúc trụ chùa Bảo Vân, giảng kinh này, các đệ tử Ngài rất đông, thay nhau ghi chép lại những gì mình đã nghe thành pho quyển, sự ghi chép ấy rất sâu rộng. Còn từ ngữ trích dẫn từ kinh luận phần nhiều sai lầm. Mỗi khi đọc tôi chẳng thể không buồn bã. Gần đây do lần giảng tiếp theo, tôi nhớ lại các nội dung chính được nghe từ thầy rồi soạn thành văn luận theo thể ký. Tôi đã chọn lọc những tư liệu trong “Cô Sơn sách ẩn” để giúp đỡ, để người đọc không bị dính mắc sự tướng mà chỉ suy nghĩ về lý quán làm lợi ích. Ghi vào ngày mùng ba tháng mười hai. Thiện thánh ngũ tự.

2. Giải thích tựa đề:

Giải thích tựa đề có hai.

Một chính là nêu đề mục. Bốn chữ như chữ Kim v.v… là chữ được giải thích. Hai chữ văn cú là chủ thể giải thích. Đề kinh được giải thích theo huyền nghĩa. Văn cú năng thích tức là văn kinh. Cú là chương cú, cũng gọi là câu đậu. Tức là dùng chương cú để chia văn kinh khiến cho ngôn từ và ý nghĩa đều có giới hạn. Vì thế, Đại sư Kinh Khê nói: “do giải thích tựa đề mà ý nghĩa chính dược rõ ràng. Vì vậy, đến phần văn kinh chỉ chia cương đoạn một cách đơn giản”. Tựa đề nói rằng “Văn Cú” là do đó. Nhưng sở dĩ lập hai chữ đó là vì chúng ta khiêm tốn. Nếu chúng ta đọc sự giải thích về kinh thì ý nghĩa chính không phải ít. Lại, việc giải thích các kinh đều gọi là văn cú, đó là cách gọi chung. Vì vậy, tôi dùng đề kinh phân biệt đơn giản. Tên của vị sư là thuộc chủ thể giảng nói, do nơi ở mà có tên, đó là cách mọi người thường dùng.

Kế là nhập văn, có hai:

Một là định, có ba chia ra làm hai. Một là chỉ đích xác bản được truyền khác với loại bảy quyển, hai mươi hai phẩm do Pháp sư Chân-đế dịch. Vì vậy mà tôi chỉ cho bản bốn quyến, mười tám phẩm. Có người cho rằng Chúc Lụy là phẩm thứ mười chín là sai vì các bản dịch đều không có phẩm này.

Kế chính là chia làm ba, có hai:

Một là dẫn sự phân chia của các sư có hai:

3. Nêu chung về sự khác nhau:

Một là nêu chung về sự khác nhau. Đầy lên là tiến, co lại là thoái. Ý nói rằng sự phân chia thành ba của các sư có sự tiến lùi khác nhau.

Hai là “Giang Bắc v.v…” trở xuống chính là giải thích, chia làm ba.

Một là sư ở Giang bắc cho rằng “bốn vị vua, mỗi vị đều ở trước Phật mà phát nguyện ủng hộ người nói và người nghe” nên nói là Đại thệ hộ kinh. “Trưởng giả Lưu Thủy trừ bệnh cứu bầy cá”, Thái tử Tátđỏa xả thân nuôi hổ v.v… là đại bi tiếp vật. Ý của các sư Giang bắc cùng với Chân-đế ở đoạn dưới tuy mới cũ có khác nhau nhưng đại ý lại giống nhau.

Hai là các sư ở Giang nam hầu như giống với sự chia tiết thành ba phần của hôm nay. Nhưng các Sư Giang Nam xếp nhầm nửa phẩm Thọ Lượng vào phần Tựa.

Ba là Sư Chân-đế, có hai:

4. Phán định về văn:

Một là phán định về văn tam tạng, Chân-đế dịch lại kinh này vào đời Lương tên là kinh Kim Quang Minh Đế Vương, ngài thêm vào bốn phẩm. Đó là phẩm Tam Thân Phân Biệt, phẩm Diệt Nghiệp Chướng, phẩm Đà-la-ni Tịnh Địa và phẩm Y Không Mãn Nguyện. Qua đó, chúng ta biết bản gốc là mười tám phẩm thành hai mươi hai phẩm xuất sớ giải thích. Cho nên nói: văn mới, v.v… Hai là “Chân-đế v.v…” trở xuống là nói về nghĩa, vẫn bác bỏ các sư Giang Nam xếp các phẩm Thọ Ký, Trừ bệnh vào phần lưu thông. Vì vậy Tiên sư nói: “Nhân quả, v.v… của thầy trò ở sau v.v…” Hợp lại mà nói “Thầy nhân, trò quả. Văn hiện nay dường tựa như đảo lộn. Các sư nay v.v… trở xuống là chỉ rõ ý của các sư ngày nay. Có hai phần. Một là y theo lý để phá các Sư, có hai:

Một là phủ nhận chung về nhân tình: chính là bác bỏ sư Chân-đế và gồm cả các Sư Giang bắc. Vì sự phản định của hai sư này về nhân quả thầy trò là đều ở tại phần Chánh tông. Ý cho rằng phần Tựa hoàn toàn chưa nói về đạo tu chứng. Đến phần lưu thông đạo vị đã cạn đến chỗ cuối cùng. Vì thế, Tiên sư bác bỏ rằng “nghĩa ấy không đúng. Hai, “Ba v.v…” trở xuống là Tiên sư nói riêng về ý nghĩa của kinh. Đầu tiên là nói về sự thông suốt của cách chia phần. “Lấp” là tắc nghẽn, chia ra ba để cùng nhau tựu thành sự cảm Ứng của kinh. Như vậy, lẽ nào lại không có sự giúp nhau của sự và lý hay sao? Như phần Tựa đầu tiên là nói về sự phát khởi. nếu không thiếu hai phần ở dưới thì làm sao có thể gọi là Tựa của chánh và thông. Chính là đều được phát khởi, đều được nói trong phần tựa và lại được giảng nói, truyền bá lưu thông. Nếu chẳng phải như vậy thì làm sao có thể gọi là chánh thuyết của một bộ kinh? Nếu xả tự và chính thì lưu thông pháp gì? Cho nên ba phần mỗi phần đều có đủ ba nghĩa. Lời “thượng, trung và hạ tức là thời tiết tốt trong bảy thứ thiện. Diệu kinh chép: “đầu, giữa và cuối đều thiện”. Nếu bít lấp tất cả thì làm sao gọi là Thiện?

5. Nhiều căn cơ khác được lợi ích:

Hai là “Lại nữa, chúng v.v…” trở xuống là nhiều căn cơ khắp được lợi ích. Ích lợi do căn cơ do kinh che chở có chậm, có nhanh, không hẳn đều là sự ngộ nhập của chính tông. Cho nên nói: “Căn tánh bất định, làm sao chấp nhận rằng phần Tựa hoàn không có pháp vị?” Trong phần lưu thông, pháp vị đã diệt hết, không quan trọng nữa ư? Nếu chẳng phải như vậy thì có gì trở ngại. Nếu nói nhân của Lưu thủy và quả của Tín Tướng trong lưu thông? Thì cũng đâu có ngại gì, càng được lợi ích. Đốc xuất tức là khuyến khích. Hai, lại nữa, pháp v.v…” trở xuống là Tiên sư trích dẫn. Thầy tức là Đức Thích-ca. Trong phẩm Đạt-đa, kinh nói trong nhiều kiếp xưa Phật dùng thân Quốc Vương để hầu hạ vị tiên A-tư-đà để cầu pháp Đại thừa. Vì thế gọi là nhân của thầy. Phẩm Trì, thọ ký cho các vị như Ba-xà, Da thâu v.v… thành Phật, thời gian và cõi nước tức là quả của đệ tử. Các pháp sư xưa xếp kinh Pháp Hoa, từ phẩm Pháp sư về sau thuộc lưu thông được mọi người chấp nhận. Y ở đây và phần lưu thông hiện nay của các Sư ở Giang Nam là giống nhau. Cho nên Tiên sư nói: “Đối với nghĩa thì không ngại gì”. Tuy nói thế nhưng vẫn không cố chấp. Vì vậy, Tiên sư nói: “Cho và đoạt đều do con người”. Hai, “nay v.v…” trở xuống là y theo nghĩa để chia bộ ngày nay có hai:

6. Phân chia kinh: Một là phân chia kinh, có hai:

Một là nhất định chia làm ba, việc chia làm ba của ngày nay đại để giống với các sư ở Giang Nam nhưng phần tự chiếm nửa phẩm. Vì thế, Tiên sư trích dẫn việc ba vị sư chỉ phá Chân-đế. Hai, “tự là…” trở xuống là nói chia nghĩa thành ba phần, có hai:

Một chính là trình bày. Sắp là sẽ chính tông, lưu thông ở sau phần Tự. Tự nay, nên có sự ích lợi của chia ra hai. Tiên sư nói: “sắp có lợi ích” người đương cơ chính. Đương là nghĩa đối. Tức chính là đối cơ duyên mà giải thích về con đường của thường quả sám và khen ngợi. Nơm là dụng cụ để bắt cá, là lưới bẫy thỏ. Nơm dụ cho ngôn giáo, Cá và thỏ dụ cho nghĩa lý. Vì muốn cho ngôn giáo truyền bá, đến tương lai giúp chúng sinh ở giai đoạn Chánh, Tượng và Mạt pháp thường nắm giữ được nghĩa lý nên kinh nói: “Không bị tắc nghẽn đối với đời sau”.

Hai là “Kinh nói v.v…” trở xuống là Tiên sư dẫn kinh. “Hai điều nghi là v.v…” trở xuống là giải thích câu hỏi, có hai:

Một là đặt câu hỏi. Đã gọi là phần Tự hợp với phẩm Tự thì làm sao sáp nhập hơn một nửa của phẩm Thọ lượng thuộc Chính tông?

Hai là “Các kinh v.v…” trở xuống là giải thích chung, có ba:

7. Dẫn lệ chung của bộ khác:

Một là dẫn lệ chung của bộ khác. Kinh Tịnh Danh lấy nhân quả của cõi Phật làm Chính tông. vì đã không có phẩm Tự nên các sư bèn lấy nửa phẩm của cõi Phật làm phần Tự. Như trong phẩm Tự của kinh Đại phẩm Bát-nhã chép: “Phật biết chúng hội đã nhóm họp nên bảo Xá-lợi-phất rằng: Bồ-tát muốn dùng Nhất-thiết-chủng-trí để nhận biết tất cả các pháp thì nên tu tập thực hành Bát-nhã ba-la-mật v.v…” Nói như vậy là thuộc về Chính tông, nhưng văn lại nằm tại phần Tự. kinh Niết-bàn thì Thường thọ là chính. Vì không có phẩm Tự nên bèn lấy phần Tập trung chúng trong phẩm Tuổi thọ mà làm Tự. Đó là theo quy ước của bản ở Giang Bắc, Tạ công Trị Định bèn lấy văn của nhóm chúng thuộc phẩm Tuổi thọ mà đề là Phẩm Tự. Đối với việc hoặc Tự nhập vào Chính hay Chính nhập vào Tự của ba kinh này, lúc phân giải, các sư không nghi ngờ. Vậy, tại sao các sư chỉ nghi đối với việc nhập phần Tự vào trong phẩm Thọ lượng?

Hai, “Nay là v.v…” trở xuống là Tiên sư nói rõ về ý của kinh này.

8. Tiên sư nói về ý kinh này:

“Nay là” là xuất xứ từ ý của phẩm Tiết trong Tập kinh. Bởi vì, nếu tựa đề của phẩm Thọ lượng mà đặt ở sau trời rồng nhóm họp, tất Tín Tướng thì sẽ khiến cho văn thuộc Tứ phật dứt nghi sinh khởi một cách đơn độc. Vì thế, Tiên sư nói là “Chót vót”. Chót vót là dáng núi cao. Nếu văn xuất hiện một mình thì như sự hiểm trở của vách núi, không có sự liên đới nhau. Vì lẽ đó, Tiên sư đặt tựa đề Thọ lượng ở trong phần Tự.

9. Tiên sư hết theo quy ước của ý ngày nay:

Ba là “Nay theo v.v…” trở xuống là Tiên sư kết theo quy ước của ý ngày nay. Tuy phẩm thuộc Chính, nhưng nghĩa lại thuộc phần Tự. Lẽ nào thuận với tựa đề nêu lên mà lại làm cho nghĩa bị mất? “Hai là Tựa có v.v…” trở xuống chính là giải thích Kinh. Chia làm ba, Một là giải thích phần tự, có hai:

Một là giải thích phẩm đề, có hai:

Kế là giải thích Tự, có hai:

Kế tiếp là nêu hai nghĩa. Nghĩa phần Tự của kinh hợp lại có ba. Cho nên trong các bộ chỉ có một hoặc hai là thiếu sót, sơ lược. Kinh này và các kinh trong bộ lớn như Pháp hoa v.v… đều có đủ ba (phần).

10. Giải thích ba nghĩa:

Kế là “kế là, Tự v.v…” trở xuống là giải thích về ba nghĩa. Tự là đầu mối của của cái kén. Thông thường, muốn kéo tơ của cái kén thì đầu tiên người ta phải lôi đầu mối của kén; hết đầu mối mới thấy tơ của cái kén. Nay, lấy năm sự đầu tiên như đầu mối của sợi tơ. Quản là khứ thanh. Hộ là nói về nơi chốn sắp nói về lợi ích hiện tại. Vì nói trình bày, nói đương thời được lợi ích thuộc về Chánh tông, Lưu thông. Vì vậy, Tự này thuật trở xuống là mười bảy phẩm Phát nghĩa, để khai phát niềm tin cho căn cơ chúng sinh. Khởi nghĩa là hưng khởi giáo lý của bậc Thánh. Tựa này tức là lấy việc hiện ra điềm lành để giật tỉnh thần thức của chúng sinh, giúp cho Tín tâm của họ nẩy nở, nhờ đó mà được lợi ích của giáo lý rất nhiều. “Ba phẩm là v.v…” trở xuống là giải thích về phẩm, có hai:

a. Nêu lên sự phiên dịch danh từ tiếng Phạm. “Ba phẩm là v.v…” trở xuống là y theo danh mà giải thích nghĩa, có hai:

Một chính là giải thích. Văn cú trong đây đều ở tại kinh. Vì giáo lý năng thuyết đều sử dụng bốn pháp, đó là Thanh, Danh, Cú và Văn. Nếu theo quy ước sau khi Đức Phật diệt độ thì vấn đề này có hai thứ. Nếu xét về Bát âm, Tứ biện, Phạm âm thanh theo quy ước lúc Phật còn tại thế thì vấn đề này là một, là thật. Danh, Cú, Văn, Thân chỉ là sự chuyển động có tính cách lặp lại mà lập ra. Ba thứ Cú, Văn, Thân chỉ là giả thanh, thuộc về Sắc pháp. Danh, Cú và thân thuộc về nhóm bất tương ưng hành thứ ba; Tỳ-đàm mười bốn, luận Thành thật có mười bảy và Du-già hai mươi bốn thứ. Ở đây, sự lập ra hai Tông Đại và Tiểu có khác nhau. Duy thức nói về danh, Cú và Văn rằng: “Danh chuyển tải về tự tánh, cú chuyển tải về sự khác nhau. Văn tức là chỗ y nương của Danh và Cú. Nếu theo quy ước của sự kiết tập của các bậc Thánh, sau khi Đức Phật nhập diệt thì Danh, Cú và Văn được chuyển tải trong bối diệp của Ấn Độ và quyển vàng của Trung Quốc đều y theo sắc pháp thuộc Hình và Hiển để lập ra. Nay, Tiên sư nêu giản lược hai pháp ấy, nhưng nếu đầy đủ thì phải có cả bốn. “Khí loại cùng theo nhau”: Như lấy nghĩa của bốn pháp đồng nói về, Phát khởi v.v… Vì vậy, Tiên sư chia thành Phẩm Tự. Cho đến nghĩa của đồng nói về nghĩa, Tán Phật, vì vậy, Tiên sư chia thành Phẩm Tán. Nay tuy giải thích về Tự nhưng nghĩa của Phẩm lại xuyên suốt cả phần dưới.

11. Dẫn ví dụ:

b. Dẫn thông lệ: Khí loại văn cú của hai Tạng Luật và Luận đều có tiết đoạn của Thiên tụ, Kiền-độ. Cũng như phẩm loại của kinh. Thiên tụ tức là năm thiên và sáu Tụ. Năm thiên:

Một là Ba-la-di.

Hai là Tăng-tàn.

Ba là Ba-dật-đề. Bốn là Đệ-xá-ni. Năm là Đột-cát-la. Dưới Tăngtàn thêm Thâu-lan-già nên gọi là sáu Tụ. Nếu thêm ác thuyết ở Cát-la thì lại là bảy Tụ. Tỳ-đàm nói đủ là A-tỳ-đàm. Hán dịch là Vô tỷ pháp, tức là Luận tạng. Kiền-độ: Hán dịch là Pháp tụ. Đây cũng là pháp lấy khí loại để theo nhau. Tự là một đoạn. Như luận Bát-kiền-độ nói:

“Một là Nghiệp kiền-độ, nói về ba nghiệp.

12. Nói về một trăm lẻ tám phiền não:

Hai là Sử kiền-độ nói về một trăm lẻ tám phiền não. Ba là Trí. Bốn là Định. Năm là Căn. Sáu là Đại. Bảy là Kiến. Tám là Tạp”. Nếu suy niệm thì người học có thể nhận biết được”. Hai là“Từ như v.v…” trở xuống là giải thích văn kinh, có hai:

Một là chia ba lời Tựa. Ở đây tuy chia làm ba, nhưng đến phần Tiêu văn ở dưới thì chỉ rút lại còn hai lời Tựa là Chung và Riêng.

Hai là Giải thích về ba lời Tựa, có ba: Một, giải thích lời tựa kế tiếp, có hai:

13. Nói rộng về danh số:

Kế là nói rộng về danh số, có hai:

Một là nói về sự khác nhau của số, có hai: Một chính thức nói về sự khai, hợp của số.

Địa nhân là luận sư truyền bá địa luận. Sáu sự:

Một là Pháp thể được nghe.

Hai là Người thuộc chủ thể trí.

Ba là Sự hòa hợp của nghe và nắm giữ.

Bốn là Người chủ thuyết giáo.

Năm là Nơi y chỉ.

Sáu là Những người cùng nghe và nắm giữ. Hoặc bảy là triển khai và phối hợp vấn đề “Tôi nghe”. hoặc năm là Phối hợp ở chỗ của Phật. Hai thứ này mở bày cả vấn đề đúng sai của đại chúng. Kinh này chính là nói về Tông chỉ của Thường thọ tại thất của Tín Tướng. Vì vậy, các vị trời, rồng và các vị Bồ-tát đều nhóm họp ở đó để nghe. Lúc nói xong, cả bốn vị Phật đều biến mất. Xét về Lý, thì hợp với sự thối lui, rải rác của đại chúng. Giảng nói lời tựa ở Linh Sơn, trống vàng ở trong mộng; vì Thời và Xứ khác nhau nên đều không nghe. Nếu theo quy ước của sự nghe về Thường thọ thì được gọi là cùng nghe. Nhưng, vì không dự giấc mộng v.v… nên không cùng nghe. Vì Thời và Xứ của sự nói về kinh này không cố định nên sự đặt để về Chúng cùng nghe của kinh này không giống như các kinh khác. Còn việc xếp chúng cùng nghe của bản dịch mới của kinh Tối Thắng Vương do ngài Nghĩa Tịnh dịch thì giống như các kinh khác. Vì Đại sư biết trước bản chữ Phạn sắp đến nên ghi chú là Hai “Đây v.v…” trở xuống là nhiều loại lập danh, có hai:

14. Nêu lên sự giải thích các danh từ khác nhau:

Tất cả gồm có sáu danh từ, đều là câu trên thì nêu danh, câu dưới thì giải thích nghĩa. “Nghĩa ấn định”: vì câu văn “Như vầy v.v…” như phù ấn của thế gian; thấy sự đầu ấy thì biết đó là kinh của Phật. Vì vậy, Đại luận nói: “Chẳng những pháp của ta như vậy mà ngay cả kinh của chư Phật ở ba đời, lúc mở đầu cũng như vậy”. “Vì lấy tên gọi chung làm gốc”: Những gì do miệng vàng nói đều đặt “Như thị” nên gọi chung là kinh. “Lời tựa sau kinh này: vì lúc kiết tập là sau lúc nói kinh. “Lời tựa trước kinh này”: Vì Đức Phật dạy là đặt ở đầu kinh này. Đại luận nói: “Lúc Đức Phật sắp nhập Niết-bàn, Tôn giả A-nan hỏi Phật rằng nên đặt câu gì ở đầu tất cả các kinh. Đức Phật đáp Tôn giả A-nan rằng nên nói: “Tôi nghe như vầy, một thuở nọ, đức Phật ở phương nào đó, nước nào đó cùng đại chúng nào đó”. “Lời tựa phá tà”: Vì tất cả bản kinh của ngoại đạo đều có đặt hai chữ A, Âu ở đầu, A là Vô, Âu là hữu. Vì ngoại đạo thừa nhận hai chữ ấy là gốc với mục đích nói rõ rằng trong bộ không ngoài Hữu và Vô nên Đức Phật lập “Như vầy” để đối phá “Không Như, Không Thị” của tà chấp. “Lời tựa chứng tín”: Đại luận chép: “Vì sao Đức Phật không nói ngay về Bát-nhã mà lại nói về thành Vương-xá”?

Đáp: Đức Phật nói về thời gian, nơi chốn và người là làm cho người nghe kính tin”.

15. “Thiên thai v.v…” trở xuống là kết quy về bốn thứ Tất-đàn:

“Sư Thiên thai”: Vì Đại sư Chương An đối lại với bản giải cũ kia nên gọi Đại sư Trí Giả là Sư Thiên Thai.

“Bốn thứ Tất-đàn”: Tất là âm Hán, nghĩa là Cùng khắp. Đàn là tiếng Phạm. Hán dịch là Ban phát. Chư Phật, bậc Thánh thường dùng bốn thứ lợi ích của Hoan hỷ, Sinh thiện, Phá ác và Nhập lý để ban phát cho tất cả chúng sinh. đây là tướng chung của đạo Cảm và Ứng. Lời tựa nói về việc miệng vàng dạy đặt để tiếp theo này tức là Ứng. Tất cả cơ duyên được che chở sau khi Đức Phật diệt độ là Cảm. Nhưng ý của mỗi lời tựa đều có sáu danh nghĩa là thế nào? Nay, Tiên sư dùng bốn thứ Tất-đàn để thâu tóm. Như thế thì mỗi danh nghĩa đều có chỗ quy về so sánh. Vì vậy, hai danh từ một và hai là đem lợi ích thuộc về Thế giới để ban cho chúng sinh; hai danh từ ba và bốn là thuộc về Người; Thứ năm, Phá tà là pháp đối trị. Thứ sáu; Nhập lý là thuộc Đệ-nhất-nghĩa. Bốn danh số này chưa phán định sự sâu cạn của chúng. Như thế tức là cả bốn thứ giáo lẽ ra đều có đủ cả bốn. Hai, “sự giải thích cũ v.v…” trở xuống là Tiên sư chính thức giải thích văn kinh, có hai:

Một là y theo kinh để giải thích về năm nghĩa.

Hai là nói về ý nghĩa của sự thiếu sót về “cùng nghe”.

16. Giải thích năm nghĩa:

Vì ở đây, Tiên sư y theo sáu việc của Địa luân sư để phân chia câu văn. Nếu y cứ và năm việc thì văn hiện nay chỉ có bốn “y theo một” gồm có năm nghĩa.

Kế là giải thích về pháp thể, có hai:

Tiếp là sự giải thích của người xưa gồm có hai:

Tiếp đến là trích dẫn về sự giải thích của các sư, có bốn.

Một là cựu giải.

Hai là đại sư Tăng Triệu.

Ba là Đại sư Chân-đế.

Bốn là Bồ-tát Long Thọ, văn nghĩa của bốn vị ấy đều rất dễ thấy.

Đến lúc phán định về bốn thứ Tất-đàn mới quyết định sự sâu cạn.

17. Sử dụng bốn thứ Tất đàn:

“Đây v.v…” trở xuống là Tiên sư dùng bốn thứ Tất-đàn sắp xếp:

Nay, nói về pháp của bậc Thánh dù nhiều hay ít dẫu chung hay riêng gì cũng đều là cảm và Ứng, cảm và Ứng không ngoài phạm vi của bốn thứ Tất-đàn. Sự phán định trước về sáu thứ danh nghĩa của lời tựa tiếp theo là chung, là nhiều. Nay phán định về cảm và Ứng của mỗi việc trong sáu việc là riêng, là nhỏ. Vì lẽ ấy các sư giải thích về hai chữ “như vầy” đều khác nhau. Nay, sư Thiên Thai dùng bốn thứ Tất-đàn để hội nghĩa mà giải thích, mỗi Tất-đàn đều đạt được một loại ý thuộc cảm và Ứng của Như Lai. Lẽ nào sự giải thích của sư Thiên Thai lại giống với sự tranh luận của thế gian rằng một là đúng mà nhiều là sai ư? Bốn chữ “sự giải thích xưa” tuy là đối với văn và lý nhưng không chia ra lớn nhỏ. Lời lẽ của nó có tính cách chung. Lại nữa, không có tướng của ba thứ ích lợi sinh ra thiện thì chỉ được trao cho sự ích lợi của việc không sai lầm. Vì thế, chúng thuộc về thế giới. Đại sư Tăng Triệu tuy có ngôn ngữ của sự thể nhập lý tánh, nhưng Ngài cũng không lược bỏ chân và tục, vì chỉ sinh thiện thuộc tín thuận, tư bẩm nên thuộc về vì người. Văn và lý của Đại sư Chân-đế cũng chưa phân biệt. Nhưng vì luận quyết định lìa điều ác thuộc thêm và bớt nên thành ra đối trị. Tuy quan điểm Tín thuận của Bồ-tát Long Thọ giống như Đại sư Tăng Triệu, nhưng Ngài nói “Tín là nói rằng việc ấy như vậy v.v…” ở đây thì luôn làm sáng tỏ nghĩa của ba đế, “việc ấy” tức là tục đế, “Như” tức là Chân-đế. “Thị” tức là trung đế. Ở đây, trong một câu mà khéo léo mở bày ba đế chính là Đệ-nhấtnghĩa. Chú thích v.v… khiến cho Như hướng đến cùng khắp.

18. Giải thích của ngày nay:

“Nay làm v.v…” trở xuống là giải thích ngày nay, có hai:

Một là theo quy ước của giáo.

Hai là quán tâm. Hai sự giải thích này tức là ý của giáo và điều quán cùng luận bàn một cách hoàn mỹ, công của việc làm cho sự giải thích này vượt các tông khác là do đây. Đầu tiên là văn chia làm hai.

Một là chung: theo quy ước của sự truyền bá để nói về Như. Theo quy ước của giải thích của thọ để nói về thị. Ở đây đã giải thích chung. Nếu xuyên suốt cả giải thích riêng thì phải bao gồm cả bốn thứ giáo. Vì thế, chúng ta biết rằng Pháp tướng là cái được dùng để giải thích bốn thứ giáo. Đức Phật là chủ giảng nói về bốn thứ giáo. A nan là người nghe và nắm giữ bốn thứ giáo. Đúng ra nên chia để nói rằng cả bốn đều là dung lượng của biển.

19. Giải thích riêng:

Hai là giải thích riêng, như sau:

Một là lần lượt nói về sự phá và lập, có bốn. Tức là mỗi loại trong bốn thứ giáo đều phá hủy vấn đề “không như, không thị” ở trước mới lập ra nghĩa của như, của thị thuộc về giáo lý của mình. Một là phá tà lập chánh, là phá hủy sự sai lệch của ngoại để làm sáng tỏ chính chân của ba tạng, có hai:

Một là phá tà: A, Âu gọi là tốt lành: Bách luận nói về sự kiện của ngoại đạo hỏi đệ tử Phật rằng:”Đức Phật giảng nói về pháp gì? Đáp: “Đức Phật nói lược về hai thứ là dứt bỏ điều ác và thực hành điều lành” Ngoại đạo nói kinh điển của ông có sai lầm, vì mới vào mà đã nói điều ác. Cho nên, kinh điển của ông không tốt. Như kinh Quảng chủ v.v… đầu tiên đều nói về điều tốt lành. Vì đầu tiên tốt lành nên đoạn giữa và đoạn cuối đều tốt lành”. Cho nên ngoại đạo gọi A, Âu là tốt lành. “Văn sai v.v…” là lấy chánh để phá không như không thị của tà. Đầu tiên kinh nêu lên điều tốt lành nhưng vấn đề được nói trong kinh này chỉ là tà kiến. Đó là không phải là như thuộc vấn đề văn sai với lý. Tà kiến thì không tốt lành nên không thể gọi là A, Âu được đó là chẳng phải thị thuộc vấn đề lý khác với văn. Vì vậy, Bách luận phá thể này: “tốt lành hay không tốt lành điều là không khí của tà kiến” Hai là văn như trở xuống là lập ra chánh kiến. Văn lý trong ba tạng có sự tương xứng. Lấy lời luận bàn của vô thường, sinh diệt tương xứng với lý vô thường, sinh diệt mà gọi là Như, lý ấy tương xứng với văn nên gọi là Thị.

Hai là “nay nói rằng.. “ trở xuống là phá dị, lập đồng, có hai:

Một là phá dị: muốn làm rõ về lý của diễn thì trước phải bác bỏ sự sai của tạng. Tục thuộc về thật hữu mà làm chủ thể giải thích, vì không chính là Chân-đế nên chẳng phải như. Chân thuộc đối tượng được giải thích không bao gồm trung, vì lý cạn thấp nên chẳng phải thị.

Hai là “ma v.v…” trở xuống là giải thích về đồng, là nói chung về đương thể của huyễn hữu tức là không, vì không phải khác nên gọi là như. Chân thuộc chính là không, thường bao gồm Trung đạo, vì không giống như chiết không của ba tạng vốn nhất định cạn nông nên lý gọi là Thị. Vì thông giáo chắc chắn có cả cả hai giáo biệt và viên nên văn nêu lên rằng: “Ma-ha-diễn”. Ba,” này nói là ba v.v…” trở xuống là phá cạn, nói về sâu, có hai:

Một là phá cạn: muốn nói về lý của biết thì trước phải bác bỏ sự sai lầm của thông. Theo thông giáo thì vấn đề “cùng nghe” của ba thừa chính là không, nhưng, Bồ-tát độn căn lại hiểu giống như Nhị thừa, Bồtát lợi căn nghe về không thì không những có cái chẳng mà còn không luôn cả cái không. Cả hai đều dã đạt đến sự hiểu biết như vậy nên so với biệt là chẳng phải như. Hai sự chứng đắc trong không, vì chứng đắc về không yếu kém nên so với trung chẳng phải là thị.

Hai là nói về sâu: biệt giáo không cùng chung với sự tu học của Nhị thừa. Tuy có thâu nhiếp chúng nhiều như cát bụi, nhưng chỉ những vị thuộc căn tánh là đều nghe về Phật tánh, từng bước tu và đi vào, vì không có kiến giải khác nhau nên được gọi là như, vì ai cũng chứng được Trung đạo nên gọi là Thị. Bốn, “nay nói là nơi” trở xuống là phá sự lìa lập Trung đạo, có hai:

20. Nói về cạn sâu:

Một là phá lìa bỏ: muốn nói về lý của Viên giáo thì trước phải bác bỏ sự sai lầm của biệt giáo. Tuy rằng biệt giáo có luận bàn về trung, nhưng trung là cảnh giới của Phật, vì Phật khác với chín cõi nên gọi là như. Pháp quán đầu tiên là ra khỏi tục, phép quán kế là ra khỏi chân, đến phép quán thứ ba thì ra ngoài cả Nhị đế mới chứng được Trung đạo; vì trung chẳng phải là Biên nên chẳng phải nghĩa của Thị.

Hai là “văn tự v.v…” trở xuống là nói về Trung. Thể tánh của văn tự thuộc chủ thể truyền đạt vốn lìa, là quên vì văn tự không khác với lý, nên gọi là Như. Duy không, duy hữu, duy sắc, duy tâm, vì mỗi pháp đều là Trung, đều là pháp của Phật nên gọi là Thị, vì văn giống với lý nên nghĩa của thị hoàn toàn thành tựu.

Kế là “đầu tiên là phá v.v…” trở xuống là kết thành bốn thứ giáo.

Hỏi: trước đây, lúc giải thích về bốn thứ giáo chung với chân, gồm chứa Trung nên gọi là lý sâu. Nay kết biệt giáo thuộc về bốn thứ giáo, lại nói rằng phá cạn để hiển bày sâu, chẳng lẽ trong chân của Thông giáo đều cạn?

Đáp: Lý của thông giáo tuy sâu nhưng gồm nhiếp cả Nhị thừa và Bồ-tát độn căn nên gồm cả lý cạn. Nay kết về biệt giáo vì chỉ có pháp của Bồ-tát là chuyên bàn về lý sâu nên mới dùng sự chỉ có sâu mới phá sự gồm luôn cạn. Kết như vậy không sai trái với sự giải thích về nghĩa đã được nêu ở trước.

Tiếp là “kinh này v.v…” nói rõ, bộ có đủ bốn.

Tiếp đến là quán tâm: dùng ba quán của viên để quán ấm v.v…

tâm tu ác tức là tánh ác. Gọi pháp giới ác là tất cả điều ác. Thể là ba đức nên gọi là ba đế, vì chiếu soi tương xứng với đế, sự quán và cảnh được quán chẳng khác nhau nên gọi là Như. “Cảnh tức là chánh quán” cảnh là bản giác, khởi là thỉ giác. Tuy chia ra mới và cũ nhưng thể của giác chẳng khác nhau. Vì vậy được gọi là “cảnh tức là chánh quán thì nghĩa ấy mới thành tựu” nếu không như vậy thì làm sao bốn câu “cảnh, chiếu cảnh v.v… lập được?” “Kinh nói v.v…” là nếu cảnh được quán là hư không thì hàng Tiểu thừa nghiêng lệch bị mất tâm, giả lập chân như v.v… đều gọi là quán nghiêng lệch. Nay, tuy chánh quán theo quy ước của hạnh, nhưng nếu hành giả muốn nhiếp sự để thành lý, tu tập ngay nơi sự nghe thì phải phân biệt với mười cảnh đối với các tâm được quán sát, cảnh của ấm thường có, còn chín cảnh khác thì đợi phát, đối với sự quán thuộc về chủ thể quán thì phải biết về mười thừa, bậc thượng căn thì tu một, hàng trung căn thì tu bảy, người hạ căn thì tu cả mười. Nếu tự thân chưa thấu hiểu về Ma-ha chỉ quán thì phải dựa vào thầy, bạn để hỏi rõ từng vấn đề một: hiểu biết về thuốc và bệnh mới được tu tập chứ không thể nói gọn một câu rằng “tu hành” là đủ. Y theo tiêu chuẩn này để nhận biết sự giải thích về quán ở dưới.

Kế là “tôi nghe v.v…” trở xuống là chú thích về nghe giữ, có hai:

Một là sự giải thích của người xưa, có ba:

Một là sư ngày xưa: vì người ngoài là ngã kiến nên phần nhiều tôn tâm làm thầy. A-nan tôn Phật làm thầy nên nói là“tôi nghe”.

Hai là Chân-đế: vì ngã có khả năng thọ trì pháp do Đức Phật nói nên nó có nghĩa của đồ dùng. Phân biệt với ba loại chẳng phải là đồ dùng để nói lên sự thành tựu ba thứ tuệ. Tuy chưa phân tuệ riêng đối với bốn thứ giáo, nhưng sự chú thích về tôi nghe của Đại sư Chân-đế hơn hẳn bản giải thích xưa.

Ba là thích luận: bản xưa nói về vấn đề Nhĩ thức sinh ra từ bốn duyên:

  • Một là không.
  • Hai là căn.
  • Ba là cảnh.
  • Bốn là tác ý.

Nay nói rằng “không hư hoại là căn, cái để nghe là cảnh, lắng nghe là tác ý”. Chỉ thiếu duyên không, ở dưới nói rằng: “nhân duyên là hợp”, xét về nghĩa có thể bao gồm. Tức là bốn duyên hòa hợp mới phát ra nhĩ thức. Cho nên không nói tai nghe mà nói tôi nghe, là vì ngã là chủ của lỗ tai. Quan điểm mới nói rằng: “nhĩ thức sinh ra từ chín duyên. Vấn đề này có nói đầy đủ trong Duy thức”. “Hai sư giải thích” trở xuống là sự giải thích của ngày nay, có hai:

  1. Giải thích theo quy ước của giáo như sau:
  2. Các sư giải thích về “tôi nghe”, có hai:

Một là nói về bốn thứ ngã, ngã v.v… ở đây được lập ra theo mô thức của bốn câu là sinh sinh v.v… trong đại kinh. Nhưng, ngã là giả danh, do các ấm mà có. Pháp ấm đã có bốn thứ như sinh sinh v.v… mà ngã lại tùy theo thật pháp, thì lẽ nào không như vậy? Như sự chú thích về sinh sinh nói rằng: “sinh thuộc về phạm vi lớn, sinh sinh thuộc phạm vi nhỏ”, đó là sinh diệt sinh ra từ sinh diệt. Nhờ pháp sinh diệt mà thành ra cái ngã sinh diệt nên theo mô thức của sinh sinh mà thành ra ngã. Tuy không quán nhưng chẳng phải là thể không. Vì thế, ba tạng đặt ở câu thứ nhất. Lại nữa, chúng ta nên biết những phạm trù giả, thật, sinh, diệt là cái vốn như vậy của chúng sinh, nhưng chúng sinh lại không nhận biết được. Nay vâng theo giáo lý này, tương xứng với gốc để quán thì lẽ nào chỉ có lý này thôi ư? Ba loại ở dưới cũng giống như vậy. Thật pháp theo quan điểm của thông giáo thì sinh tức là bất sinh. Cho nên ngã ở trong ấm tức là vô ngã. Vì vậy, nó thuộc câu thứ hai. Hành giả của biệt giáo biết ấm bất sinh mà sinh. Vì vậy, hành giả quán vô ngã mà (thành) ngã, vì nhờ giáo lý này vẫn biết về chân ngã. Vì kiến, mạn mạnh mẽ nên đầu tiên hành giả quán vô ngã, kế đến là phá vô ngã, lập ra ngã rồi sau đó đi vào chân ngã. Vì vậy, giáo lý này Ứng ở câu thứ ba. Hành nhân thuộc Viên giáo thì đạt được giả thật bất sinh, bất sinh ngay ở hiện tại. Nắm lấy do ấm thường trụ mà hình thành chân ngã. Ngã đã là Trung thì cả Nhị đế đều hướng về. Vì vậy, Tiên sư nói: “ngã, vô ngã mà không hai chân ngã”. Vì vậy, giáo lý này Ứng với câu thứ tư. Vì giáo vốn che chở cho cơ nên nghĩa của bốn thứ giáo phối trị với bốn căn tánh. “Khiến cho người sau nói”: vì phân biệt Như tên trên Tiên sư chú rằng.

Hai là nói về bốn sự nghe: ngã là chủ của sự nghe, nghe là tác dụng của ngã, chủ là giả nhân, dụng là thật pháp: nhưng nếu giải về nghĩa của sinh thì nghĩa của nghe liền tự sáng tỏ, nhưng sinh là nói về duyên khởi chung, nghe là riêng về nói nghe, hoàn toàn khác nhau. Theo nhân duyên của nghe mà có sự nghe khác. Vì vậy, Tiên sư nói: “nghe, nghe”. Đã theo duyên sinh thì cuối cùng cũng trở về sự hoại diệt. Đó là sinh diệt của sự nghe. Vì nghe không có bốn tánh, đương xứ không nghe nên nói là “nghe không nghe”, đó là vô sinh của sự nghe. Tuy thật không có nghe nhưng vì trong tục có nghe nên gọi là không nghe. Đó là vô lượng của nghe. Nhị đế tức là trung nên nói là không nghe. Trung cũng khó đạt được nên nói là “không nghe”. Suốt bốn mươi chín năm không nói một chữ thì làm gì có trung và biên để nghe? Đó là vô tác của nghe. Vì chú thích giống như trước.

Kế là có bốn v.v… trở xuống là cùng giải thích về “tôi nghe” như sau:

Một là bốn khả năng của người nghe: theo giáo lý ba thì vì một thân A-nan có bốn đức tính nên được bốn tên gọi. Điển tạng lưu xuất từ A-hàm, ba tên gọi khác xuất xứ từ kinh Chánh Pháp Niệm. Nay giảng nói tên nhỏ đối với bốn thứ giáo thì danh và nghĩa phù hợp. A-nan là tiếng Phạm, Hoan hỷ là tiếng Hán. Vì tôn giả sinh ra vào lúc Đức Phật thành đạo, cả nước đều vui mừng nên lấy sự kiện ấy mà đặt tên. Từ duyên mà lập danh, hợp với pháp sinh diệt truyền bá và giữ gìn ba tạng nên dùng tên này. Thể sự do Thông giáo nói tức là lý, khác với cái thấy của phàm tục nên dùng tên gọi Hiền. Biệt giáo năm lần bàn luận về Phật pháp nhiều như bụi cát, chủ lãnh hội nhiều điều nên gọi tên là Điển tạng. Viên giáo từ khởi đầu đến chấm dứt đều giải thích về lý của pháp giới, đã sâu mà lại rộng nên dùng tên gọi là hải.

Hai là “hoan hỷ v.v…” trở xuống là khả năng thờ kính bốn Đức Phật, có bốn. Một là Tam tạng: chiết pháp của giáo này không bao hàm Trung, vì vậy, hành giả chỉ nhìn thấy Đức Phật cao một tượng sáu.

Kế là “hiền A-nan v.v…” trở xuống là Thông giáo: quán đã là thể của pháp, làm sáng tỏ hai thứ không là Đãn và bất Đãn. Các Bồ-tát độn căn giống với Nhị thừa là chỉ thấy Đãn không. Vì chẳng phải Trung, thật nên chẳng phải là gốc của sắc và tâm. Vì vậy, Đức Phật vốn là do thệ nguyện chứ chẳng phải tập khí dư thừa. huyễn xuất thân trí, cuối cùng cũng quy về sự tận diệt như tro, vì sắc tâm có giới hạn nên gọi là trượng sáu. Nếu là Bồ-tát lợi căn thọ nhận biệt viên thì hiểu được bất đãn không. Không là thể thật có trong bản giác, đó là sắc tâm nhiệm mầu chứng đắc lúc ở địa vị Phật. Vì thân và trí có được tương xứng với sự vô biên của thể tánh nên gọi là tôn đặc, nghĩa là tôn sùng, kỳ lạ và đặc biệt. Đồng thời, thân ấy cũng được gọi là báo thân. Vì chỉ là một thân nhưng do căn cơ có lợi và độn nên thấy có hai hình tướng. Vì vậy, Tiên sư nói là: “hợp thân”. Thân Phật của Thông giáo phải trình bày như vậy. Chúng ta phải biết rằng Bồ-tát độn căn dẫu có thấy thân Phật cao mười dặm cho đến trăm ức dặm đi nữa, nhưng vì chỉ y theo Đản không nên thân ấy cũng chẳng phải tôn đặc. Vì nó có phần hạn. Nếu hàng Bồ-tát lợi căn thấy thân một trượng sáu đi nữa, nhưng do đã y theo Trung đạo nên thân ấy cũng chẳng có giới hạn. Vì vậy mà văn dưới có đoạn kệ của Kim Long Tôn vương khen ngợi ba mươi hai tướng. Văn cú giải rằng: “Chính thức khen ngợi về tôn đặc”.

Kế là “Điển v.v…” trở xuống là Biệt giáo. Hàng sơ tâm của giáo lý này liền nghe về Đãn trung. Tuy rằng Trung chẳng có đủ y báo chánh báo của chín cõi nhưng chẳng phải không có Sắc tâm mầu nhiệm của cõi Phật. vì thế, hành giả của giáo này chỉ thấy thân Phật thuộc phạm vi, thân tôn đặc không có phần hạn. Bởi, đầu cuối của giáo này không chung với sự tu tập của Nhị thừa và Bồ-tát trụ ở Không. “Bốn biển v.v…” trở xuống là Viên giáo. Tướng thế gian mà giáo lý này nói là thường. Vì thế, tất cả các pháp đều là Trung đạo. Tuy rằng hành giả của giáo này thấy tướng tôn đặc giống như hành nhân của Biệt giáo. Nhưng vì hành nhân Biệt giáo gồm luôn cả sự tu riêng, còn hành giả Viên giáo đều là Tánh cụ nên Long nữ nói: “Pháp thân mầu nhiệm thanh tịnh, có đủ ba mươi hai tướng”. Vì muốn nói lên toàn bộ thể tánh nên kinh y theo tôn đặc mà gọi là Pháp thân. Vì vậy, hành giả Viên giáo quán tính chất khổ và vui của tánh đức để hưng khởi sự cho và nhổ, lấy sự độc hại của tức lý mà làm cái được tiêu trừ, chế ngự. Ba nhân tu đức gọi là hạnh của tánh đức, hai thân là Báo và Ứng được gọi là Pháp thân. Bởi Tiên sư muốn dùng tánh để tiêu dung vào đức. Khổ thì lập tức nhổ mà không nhổ. Độc thì lập tức tiêu mà không tiêu. Hạnh tức là tu mà không tu. Phật tức là chứng mà không chứng. A-nan truyền bá Tứ đế vô tác này tức là nói mà không nói. Vì thế, Tôn giả đích thân kính thờ Phật Pháp thân.

Kế là “Ở đây v.v…” trở xuống là trong bộ có bốn căn cơ.

Hỏi: Trên kia, ngài nói về bốn thứ giáo, tại sao hiện nay chỉ nói về sự Nói và Nghe của ba thừa?”.

Đáp: Vì Thanh văn, Duyên giác trong ba thừa phải nói về Tạng và Thông. Nếu nói về Bồ-tát thì phải gồm cả bốn thứ giáo. Ba thừa là nói chung, bốn thứ giáo là nói riêng. Nghe đã là ba thừa thì tất nhiên, nói phải là bốn thứ Phật. Đã là một âm thanh mà mỗi loại giáo đều giải thích thì một thân cũng có chỗ thấy khác nhau. Ý hướng nói về thân hợp nhất ở trước nằm ở đây.

Kế là “Quán v.v…” trở xuống là theo quy ước của quán tâm để giải thích. Vì hai chữ “Tôi nghe” ở trên, mỗi chữ đều có nghĩa của bốn câu nên y theo tâm quán sát của hành giả mà phân biệt. “Vin níu trên v.v…” tức là sau hạnh quán thuộc loại thiền hữu lậu. “Vin vào tính chất Tịnh diệu ở trên, chán lìa trạng thái thô chướng của khổ ở dưới. Theo quy ước của Cửu địa để lần lượt nói về Thượng và Hạ. Ngã Ngã, Nghe Nghe là cảnh thế tục thuộc phạm vi sinh diệt trong ba tạng. Trước đây là y theo sự hiểu biết về sinh diệt của ba thừa để quán sát cảnh mà đi vào Lý. Nay, y theo sự không biết của phàm phu mà tu nên chỉ thành tựu loại thiền thế gian. Đã là cảnh tục thì biết và không biết gốc của pháp là sinh diệt, cho nên dừng ở câu Sinh Sinh. Sư giải thích của chủ trương hôm nay hoặc y theo căn cơ được giáo hóa. Dị nhưng xét về chân thì

Đồng. Vì thế, lấy Chiết và Thể cùng đối nhau làm câu thứ hai. Hai thứ quán cuối cùng chẳng khác với sự đối đãi ở trước. Lại nữa, ở trước theo quy ước của Giáo thì bốn câu “Tôi nghe” có thể đối với bốn hạng người. Nay vì nói về sự tu quán nên phải y theo tiêu chuẩn của một người, một niệm mà chiếu soi. Vì thế, Tiên sư giải thích sâu suốt một tâm ba quán trong một niệm tâm mà thấy bốn thứ Tứ đế. Còn có đủ bốn nẻo thì lẽ nào lại nói về thiền thuộc thế gian? Vì sao? vì nói thì phải căn cứ vào người để biện minh về Tướng, vì tu không có trước sau mà chỉ thành sự quán sát của Viên giáo.

Kế là “Một thời v.v…” trở xuống là nói về sự hòa hợp như sau:

Tiếp là sự giải thích của người xưa, có hai:

Một là giải thích của Đại sư Tăng Triệu. Khải tức là khai (mở). Vận tức là thời vận tốt lành. Hội tức hợp lại. Nghĩa là lúc Cơ và Ứng khéo phù hợp.

Hai là “Tam tạng v.v…” trở xuống là Chân-đế, có hai:

Một là trình bày sự lập nghĩa của Đại sư Chân-đế. Sự giải thích ở đây đồng với việc lấy sự hợp nhất để chú thích về một. Nhưng, Đại sư chỉ y theo Cơ mà nói về tâm hợp với Ứng, chẳng có cao thấp. Nếu lúc tâm của các chúng sinh không có cao, thấp, trung bình tức là lúc hợp nhất với “Một thuở nọ” của Đức Phật. Vì vậy, Tiên sư nói thời gian bình thường tức là “Một thuở nọ”.

Hai là “Ý riêng v.v…”trở xuống là xong về sự giải thích của sư Chương An. Nói rằng “Ý của tôi là “là sau khi Đại sư đã mất, sư Quán Đảnh ghi chép. Cú thời của đoạn văn đó tự thêm lời giải thích này. Vì đối với sự không sáng tỏ nên nói là riêng. Bởi Đại sư nghĩ rằng người đời sau chẳng giải thích được nghĩa không cao thấp của Đại sư Chânđế nên mới chú thích ra. Cao tức là tâm ngạo mạn, tự thị, lăng nhục kẻ khác, không vâng hành đạo pháp của Đức Phật. Vì vậy, Tiên sư nói “Tâm ngạo mạn không vận hành”. Thấp tức là đắm say, luyến tiếc năm dục, hoang mê, không xả bỏ được thì làm sao tu tập được đạo pháp. Hai thứ tâm này làm chướng ngại đối với đạo rất lớn. Tiên sư muốn người đời này không đắm say, không kiêu mạn, tu tập lúc bình thường thì liền cảm được ân đức của bậc Thánh.

Tiếp là “Thầy v.v…” trở xuống là cách giải thích ngày nay như sau:

– Theo quy ước của giáo, có hai:

Một là theo quy ước của nhân duyên để chú thích chung, tức là thời thuộc về sự hợp nhất của nhân duyên cảm Ứng. Nếu không nói về Cảm Ứng thì sẽ nói Một với ai? Vì chia ra sự khác nhau giữa cạn và sâu của ba đế nên phải chú thích chung.

Hai là “Cũng v.v…”trở xuống là theo quy ước của Đế và Trí mà chú thích riêng, có hai:

Một là Giải thích về Thời.

Hỏi: Đế và Trí chỉ tại cơ cảm, còn Cảm Ứng lại gồm cả chúng sinh và Phật; hai và một đã khác nhau thì làm sao có thể nói về chung và riêng được?

Đáp: Trí tức là Cơ. Đế tức là Ứng. Lúc Trí và Đế hợp được gọi là Một của Cảm và Ứng. Vì sao? Vì Đức Phật lấy ba Đế làm thể. Nếu Đức Phật không lấy Thể này để Ứng với chúng sinh thì chúng sinh chẳng có con đường nào để cho Trí hợp với Đế. Như trường hợp Tu-bồ-đề Quán Không ở động đá mà Đức Phật Thích-ca khen ngợi là: “Được thấy thân ta”. Vấn đề này lẽ nào chỉ đối với Đế lý? Thật ra đối với các pháp lành cũng giống như vậy. Như (luật) nói:”Nếu giữ năm giới thì Như Lai Thích-ca ở trong nhà ông”. Vì vậy, chúng ta biết rằng Đức Phật lấy ba Đế, các pháp lành mà làm thể tướng. Lúc chúng sinh tu điều lành, thấu Đế lý tức là “Một thuở nọ” của sự hợp nhất giữa Cảm và Ứng. Nay, nói về ba Đế tức là thâu nhiếp cả bốn thứ giáo như sự giải thích của mọi người.

Hai là “Mà nói v.v…”trở xuống là chú thích về Một là tức là tướng Một của sự hợp nhất giữa Đế và Trí ở trước. “Trước lược bỏ không hợp”: Ý Tiên sư nói rằng suy niệm trước, sau đó mới biết thì đó là tâm luống dối của giáo quán. Nếu trí phát thì cả suy tư và tri giác đều vắng lặng, bỗng nhiên được khai ngộ. Đó mới là cái một của đế lý. Vì vậy, kinh nói là: “Một thuở nọ”. Tướng một của Đế và Trí thuộc về bốn thứ giáo cũng giống như vậy.

Kế là chú giải về Quán: Sự giải thích theo quy ước của giáo ở trước là sự khai ngộ ở Phật hội. Nay theo quy ước của quán tâm tức là sự tu Tạo sau khi Đức Phật diệt độ. Trước thì chia thành bốn thứ giáo. Nay thì tại một tâm. Văn tuy có khác nhưng ý vốn là một. Bốn là nói về giáo chủ như sau:

– Cách giải thích của người xưa, có hai:

Một là Chân-đế: Chưa phá vô minh gọi là Tiểu Bồ-tát. Nếu chứng pháp thân thì hiển bày từng phần về ba nghĩa. Vì vậy không che chở cho hạng người khác. Vì ba thừa khác với Ngoại đạo nên chỉ có một nghĩa. Bồ-tát khác với cả hai hạng là ngoại đạo và Nhị thừa. Vì vậy, Bồ-tát có được cả hai nghĩa nhưng vẫn chưa bình đẳng. Vì Đức Phật hoàn toàn khác nên có đầy đủ cả ba nghĩa.

Hai là thích luận: Vì tên gọi Thế Tôn đảm đương tên gọi của cả mười tên gọi nên Phật là thứ chín. Có đủ mười danh hiệu gọi là bậc tôn quý ở thế gian. Đó là chủ thể giác ngộ. “Đối tượng được giác ngộ của chủ thể giác ngộ”: Tức là pháp thuộc Ba cặp (Tam song) của thế gian v.v… Cặp đầu tiên là theo quy ước của Thánh và Phàm: Thế tức là Pháp của sáu phàm, xuất thế là Pháp của bốn bậc Thánh. Cặp tiếp theo là quy ước giữa Tiểu và Đại. Vô thường là Pháp của Tiểu thừa, Thường là Pháp của Đại thừa. Cặp cuối cùng là theo quy ước của nghĩ bàn và không thể suy nghĩ bàn luận: sáu Phàm, ba loại giáo lý là số, đều là Pháp có thể nghĩ bàn. Chỉ có Viên giáo là phi số, là Pháp không thể suy nghĩ bàn luận. Vì giác biết tức khắc thấu triệt, rõ ràng các pháp môn này ở trong một tâm nên gọi là Phật.

Kế là giải thích của ngày nay, có hai:

Một là theo quy ước của Giáo: Phật đã chuyển giác mà có ba thân. Đây chính là cái được thành tựu do ba loại giác trí. Như Nhất thiết trí tạo thành thân trượng sáu ở ba tạng “y theo Đạo chủng trí thì có hai thứ Phật” :Vì loại trí này nói ở phạm vi trong và ngoài cõi. Đạo chủng trí ở phạm vi trong cõi thì thành ra thân trượng sáu của Đãn không thuộc về Thông giáo. Vì Bồ-tát độn căn là từ không mà ra khỏi Giả. Đạo chủng trí ở phạm vi ngoài cõi thì thành thân tôn đặc của Đãn trung thuộc Thông và Biệt. Vì Bồ-tát từ trung mà ra khỏi Giả. Nhất-thiết-chủng-trí thành tựu pháp thân Phật của Viên giáo và trong cõi của các pháp thuộc Thông và Biệt giáo. Tuy che chở cho cả bốn thứ căn Cơ, nhưng Phật thì chỉ có ba loại. Ba loại Phật này không thể quyết định là Nhất, vì không sai biệt chính là sai biệt, không thể khẳng định là Dị, vì khác nhau tức là không khác nhau. Chúng ta phải quên hẳn hai phạm trù là một và khác. Bởi vì, chúng ta là kho bí mật. Thế nhưng, chúng ta vẫn nói về hai phạm trù Nhất và Dị là bởi đối với tiết đoạn thì phải chia như vậy.

Hai là theo quy ước của Quán: “Đối tượng được giác biết của ba quán đều gọi là pháp”. Mỗi pháp đều giác biết đối với ba đế. Vì vậy, ba đế của Không giác quên đi quan điểm về sự khác nhau gọi là Đệ-nhấtnghĩa không. Do đó gọi là Một tướng. Ba đế của Giả giác đều có khả năng lập pháp gọi là Như Lai tạng. Vì vậy gọi là Đủ loại tướng. Ba đế của trung giác ngăn che và chiếu soi cùng một lúc gọi là Đệ-nhất-nghĩa Lý. Vì vậy gọi là không có tướng Nhất Dị và cũng là tướng của Nhất và Dị. Vì trước kia theo quy ước của Giáo để chú thích nên Tiên sư dùng ba đế để hiển bày riêng về ba thứ thân được xếp vào bốn thứ giáo. Nay, đã theo quy ước của quán, lẽ tất nhiên là chỉ ở tại Viên giáo. Nếu pháp quán của Viên giáo thành tựu thì dẫu không mong cầu mà hành giả vẫn gặt hái được bốn thứ giáo và ba thứ thân. Bụi hết thì gương sạch, bóng hiện tùy theo hình. Vì làm cho vấn đề này được phân biệt nên Tiên sư chú rằng v.v… năm trụ là v.v…”trở xuống là nói về Trú xứ, có hai:

Một là nêu lên cả hai. Phật là chủ thể trụ. Thành và Núi là chỗ trụ xứ. Người phải có Pháp, vì là chủ thể trụ. Như kẻ ác ở thế gian chắc chắn phải dùng pháp ác, trụ trong phòng nhà; Người lành, pháp lành và trụ trong phòng nhà cũng giống như vậy. Nay kinh nói rằng Đức Phật trụ ở thành Vương xá, núi Kỳ-xà-quật, lẽ nào chúng ta chẳng lấy đinh Thủ-lăng-nghiêm để làm pháp của chủ thể trụ ư? Vì thế, Phổ Hiền quán nói: “Đức Phật Thích-ca Mâu-ni gọi là Tỳ-lô-giá-na, chỗ ở của Đức Phật này gọi là Thường Tịch Quang”. Mâu-ni là Người, Tịch quang là Pháp. Tự thân của Người và Pháp này có thể chia ra chủ thể trụ và nơi chốn trụ. Nếu so với Núi và Thành thì đều là chủ thể trụ. Núi so với Tịch quang là chỗ trụ xứ. Xứ tùy theo pháp mà chuyển. Trường hợp này là hoàn toàn chỉ sắt thành vàng. Vì vậy, ở Ma-kiệt-đà, A-lan-nhã gọi là Đạo tràng Tịch diệt. Lẽ nào thành và núi ở đây lại không như vậy? Chúng ta nên biết rằng vấn đề chính là không nói về Tâm và Pháp của chủ thể trụ mà chỉ nói về vấn đề sắc thân trụ ở đất, đá. Như vậy, lời luận bàn về Đại, Tiểu, Sắc, Tâm liền trở thành vô dụng. Vì lẽ đó, sự nêu lên cả hai là chủ thể trụ và nơi trụ lẽ tất nhiên phải có ý hướng! Hai là “Chân-đế v.v…” trở xuống là giải thích cả hai.

Một là nói về pháp thuộc Chủ thể trụ như sau:

– Cựu giải, có hai:

Một là Chân-đế: Sự giải thích của Đại sư này về Trụ chẳng những chỉ nói về vấn đề sắc chất trụ ở thành và núi. Vì vậy, Đại sư nói về tám thứ pháp thuộc Chủ thể trụ. Một là Trụ ở Đại thiên: nói lên sự Ứng hóa rộng lớn của chủ thể trụ.

Hai là trụ ở y chỉ: nói lên chủ thể trụ hiện nay.

Tiếp là Trụ ở năm phần: nói lên năm ấm vô lậu của chủ thể trụ. Năm phần là giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến. Tức là đạo công giới vô học, định diệt tận, tuệ vô sinh, giải thoát hữu dư, giải thoát chiếu. Trí nhân gọi là Tri kiến. Nghĩa là tự tri đó là Sơ quả, cho đến Tứ quả. Như thế thì ba phần trước đều phải ở tại quả mới gọi là Pháp thân. Nói tuổi thọ hiện tại là vì vào Vô dư thì năm phần bị diệt; thân tro thì giới, định và giải thoát Hữu Dư diệt mất; Diệt trí thì tuệ và tri kiến diệt. Vì thế, năm phần của tuổi thọ hiện tại được trụ. Vì đi, đứng, nằm, ngồi thuộc bốn trụ uy nghi đều có phép tắc nên có khả năng làm lợi ích

cho chúng sinh. “Năm thiên trụ trụ thiền định”: Thiền tức là bốn Thiền, Định tức là bốn không. Vì chúng là pháp của Trời thuộc hai cõi Sắc và Vô sắc. “Sáu, phạm trụ trụ ở bốn v.v…”. Vì chúng sinh vô lượng, tâm ta là thường v.v… nên Tứ thiền tu thân về Từ, Bi, Hỷ và Xả thì sinh lên Phạm Thiên Vương. Cho nên Đại sư nói là Phạm trụ. Văn không nói về Hỷ và Xả là bởi Tiên sư lược bỏ. “Bảy là Thánh trụ, trụ ở ba thứ Tammuội”. Đó là Không, Vô tướng và Vô nguyện. Ba loại này là pháp được tu tập bởi bậc Thánh. Vì thế, Đại sư nói là Thánh trụ. “Tám là Đại Xứ trụ”: Tức là trụ ở Thường tịch quang. Vì ngôn ngữ và sự suy niệm đã dứt bặt nên Đại sư nói là Đệ-nhất-nghĩa. Tám nghĩa này là pháp của Như Lai-Chủ thể trụ.

Kế là trích luận: Đại phẩm nói:”Đức Phật trụ ở thành Vương xá”. Ngài Long Thọ theo quy ước của bốn thứ nghĩa để chú thích về pháp thuộc chủ thể trụ. Đó là Trời, Phạm, Thánh và Phật. Sáu pháp của Đại sư Chân-đế không nằm ngoài bốn thứ nghĩa này. Vì vậy, Đại sư dùng bốn thứ để thâu nhiếp chúng. Trời và Phạm ở trong luận hoàn toàn giống như danh nghĩa của hai thứ trụ ở Đại sư Chân-đế, nhưng Đại sư Chân-đế nói định tức là nói về định của bốn thứ v.v… Ở đây thì dùng hai thứ để nhiếp hai thứ. Thánh trụ hoàn toàn giống như danh nghĩa Thánh trụ của Đại sư Chân-đế. Nhưng, Đại sư Chân-đế lại thu nhiếp được năm phần tuổi thọ. Ở đây thì lại dùng một để nhiếp hai. Phật trụ hoàn toàn khác với danh nghĩa Đại xứ trụ của Chân-đế, dùng một để nhiếp một. Ở đây thì nói về bốn rồi nhiếp năm thứ kia. Luận lại nói: “Trụ ở Thánh trụ, Phật trụ và Pháp trụ, ba trong số bốn thứ trụ là vì thương xót chúng sinh”. Trụ thuộc thành Vương xá nay nói là trụ theo quan điểm của Tích. Nghĩa này lại thâu nhiếp ba thứ trụ của Đại sư Chân-đế. Vì Vương thành là nơi y chỉ, Vương thành ở trong cõi Đại thiên, bốn uy nghi không rời Vương thành.

Hỏi: Pháp năng trụ của Đức Phật là Thủ-lăng-nghiêm. Vậy luận cần gì phải nói về ba thứ trụ là Thánh, Phạm và Trời?

Đáp: Sự tự tu của Như Lai quả thật là ở Lăng-nghiêm. Nhưng, vì mục đích làm lợi ích cho người nên Như Lai trụ ở ba thứ trụ khác. Nếu tâm không trụ vào pháp thuộc Phạm, Trời v.v… thì làm sao nói về Tứ Thiên, Tứ Đẳng v.v… Vì vậy, Diệu lạc nói về Tứ Trụ rằng: “Từ rộng đến hẹp. Vì dùng sự thù thắng để thâu nhiếp sự hèn kém. Trời nhiếp cơ rộng, Phật nhiếp cơ rất hẹp, trung và hai bên không nói. Cho nên nói là hẹp từ rộng”. Phật trụ đã thù thắng nên thâu nhiếp tất cả pháp lành. Vì vậy, ba trụ là Thánh v.v… pháp lành thuộc phàm phu, Tiểu thừa. Đó là nói về điều được nhiếp.

Kế là sự giải thích ngày nay, có hai:

Một là Giáo: Sự giải thích về bốn thứ Trụ của luận vẫn thuộc về chung. Vì vậy, nhà chú thích ngày nay nói về vấn đề Phật trụ của bốn thứ giáo đối với ba đế, lại nói rõ về sự chỉ trụ trong pháp. Pháp quán do ba Tạng giải thích là vụng. Cho nên lúc thành Phật, thân chỉ một trượng sáu, chỉ trụ ở Chân-đế. Thể của pháp quán do Thông giáo nói là xảo, có thể chứng được Nhị Không. Vì vậy, Đức Phật được thành tùy theo căn cơ lợi hoặc độn, một thân nhưng có hai cái thấy; thân trượng sáu trụ ở Chân, thân tôn đặc trụ ở Trung. Trong sự giải thích của Biệt giáo là tu thứ đệ quán. Vì vậy, Đức Phật được thành tựu chỉ một thân tôn đặc. Vì phải tu riêng về tất cả các duyên trang nghiêm nên làm cho Đức Phật này trụ trong Tục. Trong Trung mà Viên giáo giải thích có các pháp. Muôn hạnh ở trong nhân không tu mà tu, muôn đức trong quả thành mà không thành. Vì vậy, ngay nơi Báo và Ứng gọi là Pháp thân, chỉ trụ ở Trung đạo, lẽ nào Phật của ba thứ giáo lý trước lại rời Pháp thân? Nay y theo sự phân chia hiện thời để nói về bốn thứ khác nhau. Vì vậy bốn Đức Phật, mỗi vị đều lấy Trụ Pháp để trụ ở thành, núi. “Hai thứ quán”: Trong một tâm mà tu đủ cả ba phép quán, trụ trong ba đế. Dùng Pháp trụ này trụ trong chỗ ở. Nếu niệm niệm không dừng nghỉ thì tức là đi, đứng, ngồi, nằm của Phật thuộc quán hạnh. Kinh chép: “Nên xây tháp ở những nơi này” là chỉ cho ý ấy.

Kế là “Vua v.v…”trở xuống là nói về chỗ ở như sau:

– Là Thành, có hai:

Một là giải thích về nhân duyên. Văn ở đây tuy dón gọn nhưng có thể hiểu được ý. Nếu người học muốn biết tỉ mỉ thì xin tìm đọc ở luận kia.

Hai là giải thích về quán hạnh: Sự giải thích về các thứ quán ở trên đều là phụ trợ. Bởi vì, “Như vậy v.v…”không mượn nghĩa của sự để nói lên pháp quán. Thành và Núi ở đây là mượn sự mà quán. Như Vương xá ở đây là mượn sự che đậy để biểu thị cho năm ấm, mượn nghĩa Tự tại để biểu trưng cho vua thiện ác. Vì vậy, Diệu lạc nói: “Dùng Vua thiện ác so sánh với ngôi nhà Vô Ký”. Chúng ta nên biết rằng Vô Ký bao gồm khắp cả tám thức. Nhưng, Vua thiện ác thì chỉ là thức thứ sáu. Vì thức thứ sáu này chung cả ba tánh là Thiện, ác và Vô Ký. Tánh vô ký này giống như bốn ấm khác, là cảnh được quán, lấy tánh thiện ác làm sự quán sát thuộc chủ thể quán. Các vị sơ tâm tu tập phép quán là đều do tâm thứ sáu này. Vì, tâm này có khả năng khởi động sự kính mến và nhàm chán, phân biệt danh nghĩa, làm nhân cho thiện ác. “Nói thiện là”: Đối với ác mà có tên chứ chẳng phải thiện rốt ráo. Vì, số của Vua vốn là do sự huân tập của Kiến và ái mà thành; Hành giả thuộc Viên giáo hoàn toàn chưa chế phục. Vì niệm thiên thuộc duyên khởi không rời Kiến ái nên tâm của mười cảnh đều được gọi là Ma Chướng. Loại quán không thể suy nghĩ bàn luận mới được gọi là thiện thanh tịnh. Nếu hành giả dùng ngay tâm ấy mà quán lý Thật tướng thì giống như dùng tơ ngó sen để cột núi Tu-di. Lẽ cố nhiên là chỉ tăng thêm sự phân biệt chứ chẳng cách nào chấm dứt được niệm! “Nếu cho tâm này là tánh ác”: thì Tánh ác dung thông, hướng về tất cả các pháp, nên tự nhiên nó gồm nhiếp được thức bảy, tám và chín đồng làm Diệu quán. Nên được gọi là “Cảnh tức là quán”. Chủ thể và đối tượng đã diệt thì sự nghĩ bàn liền mất, phép quán Viên diệu này hàng sơ tâm có thể tu. Vì vậy, Diệu lạc nói: “Bỗng nhiên, ai cũng đều chưa nghe về tên gọi tánh ác. Vậy, làm sao tin là có hành vi của tánh ác”? “Phải nghe về tánh ác”. Vì nếu hành giả biết tánh ác thì tu ác vốn là luống dối. Trong ba quán, mười thừa, không có hoặc để phá, không có lý để hiển bày tu công đức vắng lặng là hạnh Vô tác. Vì dùng tánh đức để gọi mời hạnh này. Nếu hành giả mê mờ đối với Lý ấy mà chỉ nói Tâm Vương là sự quán sát thuộc chủ thể quán thì rốt ráo chẳng phải là phép quán của Viên giáo. Vậy lẽ nào ba thứ trước chẳng phải Vua thiện ác là chủ thể quán? Lại nữa, chúng ta phải biết rõ rằng chẳng những riêng Thành và núi, lấy ấm làm cảnh, các Sự pháp quán đều phải quán ấm. Vì vậy, Diệu lạc nói: Lại nữa, các cảnh được quán đều không ngoài năm ấm. Nay dùng Núi v.v… này quy ước ấm thì tiện lợi. Vì trong các đoạn văn đều nói trực tiếp là “Cảnh của trí”. Ký văn đã nói là “Cảnh của các phép quán đều không ngoài năm ấm”. Như vậy, chúng ta biết rằng pháp giúp đỡ của ký sự đều phải quán về ấm. “Nói Núi v.v… theo quy ước của ấm thì tiện lợi”: Bởi vì núi, thành này biểu trưng cho nghĩa của ấm thì tiện lợi. Vì vậy, Tiên sư nói rõ về ấm. Vì các đoạn văn không tiện nói ra nên nói thẳng là “Cảnh của Trí”. Tuy không tiện, không nói về năm ấm, nhưng cảnh được quán đều ấm. Vì vậy, câu trên nói là “chẳng ngoài ấm”. Nói thẳng là “Cảnh của Trí” tức là các đoạn văn nói rằng “Quán một niệm tâm chính là Không, Giả và Trung”. Tuy không nói là ấm nhưng nếu “Một niệm tâm” ấy chẳng phải là ấm thì là vật gì? “Có người y theo đó mà chấp rằng quán Cảnh chứ chẳng quán ấm”. Lỗi của trái nghịch đối với văn nghĩa không gì hơn sự cố chấp này. Lại nữa, Tích chấp nói “Chỉ có trong Chỉ quán, từ hạnh để quán pháp mới dứt trừ được cảnh của ấm”. Pháp quán thuộc các sự thì chẳng dứt trừ được ấm”. Đó là sự tự thiết lập khuôn phép từ đầu não. Quán pháp của các bản văn đã không ngoài năm ấm thì việc dứt trừ nào có trở ngại gì? Huống chi Quán ấm trong Diệu lạc? Chúng ta phải biết rõ phương tiện chính tu thì phải dứt trừ cảnh và tâm. Vậy, lẽ nào việc dứt trừ cảnh lại chẳng phải là bỏ thước để quy về tấc, dứt trừ tâm chẳng phải là bỏ nghĩ bàn để nắm lấy không thể suy nghĩ bàn luận? Tại sao lại cố chấp điều sai nghịch để không dứt trừ ấm. Kẻ ấy lại chấp quán tâm thuộc nương gá vào sự pháp không thể tu tập, chỉ có quán pháp theo quy ước về hạnh của chỉ quán mới tu tập được. Vị ấy liền dẫn văn của Nghĩa Lệ nói về tà sư làm bằng cứ. Văn ấy nói: “Mười hai bộ quán nhờ vào Sự để đặt tên. Tuy có danh của ba quán nhưng không nêu mười cảnh và mười thừa. Dưới tên của một bộ chỉ viết một câu”, lẽ nào một câu ấy lại trình bày tỉ mĩ về Quán môn? Người đời nay nói rằng Quán tâm thuộc sự pháp là có thể tu. Nhưng, nếu kẻ không mượn chỉ quán thì lẽ nào lại không hoàn toàn giống như Tà sư đời trước? Nay, khi bình phán về Nghĩa Lệ, tôi suy nghiệm về lời nói của người này thì thấy hoàn toàn khác với ý hướng phá và lập của Đại sư Kinh Khê. Vì sao? Vì Nghĩa Lệ nói rõ căn bản của nghi là do sự sai lầm của Tà sư. Là nói rằng mười cảnh, mười thừa của chỉ quán là Tiệm Viên quán. Văn ở mười hai bộ kinh quán tâm của Pháp sư Duy Đảnh nói là “Đốn đốn quán. Nếu tu tập là được ngay”. Vì vậy, sự nói rõ như trên của Đại sư Kinh Khê là chỉ vì mục đích phá bỏ tà sư kia. Đại sư triển khai đầy đủ một câu “Quán tâm” dưới mười hai bộ của Pháp sư Duy Đảnh ở quán môn Đốn đốn. Tà sư đã đem mười cảnh, mười thừa của chỉ quán mà tự cho là Tiệm Viên thì cuối cùng chắc chắn không chịu đi vào Sự quán của mười hai bộ để tu tập. Như vậy, lẽ nào lại giống với vị sư của Chánh giải. Lúc giảng về phép quán Thành, núi v.v… vì người học muốn tu nên Tiên sư liền trình bày về văn chỉ quán phương tiện chính tu giản cảnh v.v… trở thành quán hành. Nếu vậy, lẽ nào Tiên sư lại dứt khoát không trình bày về mười cảnh, mười thừa này? Lẽ nào Tiên sư lại dùng một câu để mở ra quán môn? Lại nữa, vì sao Tiên sư thường nói “Quán tâm thuộc Sự pháp không nhờ Chỉ quán mà tu tập được” lại không nói rằng “Các loại quán của Thành, Núi v.v… là Đốn đốn”? Lẽ nào lời bác bỏ của Tiên sư lại hoàn toàn giống với Tà sư đời trước? Lại nữa, Pháp Hoa Huyền Nghĩa mở bày các văn nói về quán tâm giúp cho người tu tu ngay nơi cái nghe. Thích thiên nói: “Hễ nghe một câu thì nhiếp sự thành lý chứ chẳng đợi đến quán cảnh mới được gọi là Tu quán”. Tổ tiên đã để lại khuôn phép, chúng ta hãy soi vào. Vậy, tại sao người học lại chấp rằng Quán môn thuộc Sự pháp là không thể tu tập? Người này lại không thừa nhận vị thầy đắc pháp trình bày ở Tư Ký để dạy người tu quán mà tự mình phải hiểu rõ thật sâu về Pháp môn Chỉ quán mới tu tập được đối với các văn nói về quán tâm. Nếu nói như vị ấy thì hành giả tu quán hoàn toàn không nhờ vào tri thức giáo thọ. Thế thì, trong năm thứ duyên, duyên thuộc Thiện tri thức là hoàn toàn vô dụng! Thật ra, có thể thiếu bốn thứ duyên, nhưng duyên thuộc thiện tri thức thì không bao giờ được xả bỏ. Vì vậy, Đại sư nói: “Người tự mình quyết trạch được hoàn toàn thì có thể tu hành một mình. Còn nếu kẻ chưa hiểu tỉ mỉ về chướng nạn thì dứt khoát không nên xả bỏ”. Kinh nói: “Thuận theo người thầy giỏi để học thì được thấy chư Phật nhiều như cát sông Hằng”. Lại am hiểu tỉ mỉ về pháp của mười cõi, mười Thừa của Chỉ quán thì kẻ đó là Đại Pháp sư, là Đại thiền sư. Lẽ nào Quán tâm thuộc Sự pháp ở trong các bản văn phải là hạng người này mới tu được ư? Quan niệm sai lầm này làm trở ngại người truyền pháp, mở rộng về Quán môn. Sự tổn hại vì làm trở ngại đối với kẻ sơ tâm mới vào đạo lại càng lớn hơn. Người học phải biết điều ấy.

Kế là “Kỳ v.v…” trở xuống là nói về núi, có hai:

Một là chú thích nhân duyên: Thế của đỉnh núi tựa như đầu con chim kên kên. Có kinh gọi là Lính Thứu vì loài chim này biết trước được lúc người chết, lại là nơi có nhiều vị tiên linh thiêng ẩn tu. Thuyết văn nói: “Chim kên kên màu đen thì có nhiều con.

Hai là chú thích về Quán hạnh: Nếu là Diệu kinh sớ thì trước tiên, sớ dùng ba chữ để đối với năm ấm.

Tiếp theo là quán ba chữ để làm ba thứ đức, đạt được ấm chính là Lý. Nay, văn ở đây lược bỏ, lấy ngay ba chữ để biểu thị cho ba thứ đức. Tuy Tiên sư không nói về nghĩa của ấm nhưng vẫn thể hội ấm mà làm ba thứ đức. Chúng ta phải biết rằng ấm là pháp của quả báo thuộc về kiến tư. Ở đây thì tu ác chính là tánh ác mà làm ba thứ đức. Vua thiện ác nếu chẳng phải là tánh cụ thì làm sao thường xuyên an trụ trong Bí tạng được? Tâm sở trần lao, nếu chẳng phải là tánh ác thì do đâu để càng đi vào Bí tạng? Hai là “Kinh này v.v…” trở xuống là nói về ý của “Cùng nghe” như sau:

– Là chú thích. “Thời có năm, Xứ có bốn”:

Một là thời nói về tựa ở Kỳ Sơn.

Hai là thời nói về thọ lượng ở trong thất.

Ba là thời trong mộng thấy trống vàng.

Bốn là thời lúc tỉnh, đến kỳ sơn nói. Năm, Thời của Liệt chúng đến nước của Đức Phật kim Bảo Cái Sơn Vương khen ngợi Đức Phật Thích-ca. Vì vậy, Thời thì có năm. Vì nói lời tựa, nói mộng đều ở tại kỳ sơn nên Xứ chỉ có bốn.

Kế là “Nếu vậy v.v…” trở xuống là giải thích ý nghi ngờ. Bốn vị Phật nói về thọ tại thất của Tín Tướng, tại sao ở Linh Thứu, A-nan lại xưng là “Tôi nghe”? “Nhưng, tuy v.v…” trở xuống là đáp. “Trong kinh Báo ân, Đại chúng sai A nan làm thị giả”: A-nan theo hầu Phật với bốn điều kiện.

Một là không nhận y cũ.

Hai là không nhận mời riêng.

Ba là khác với các Tỳ-kheo, hễ muốn gặp Phật thì liền được gặp.

Bốn là những kinh chưa được nghe, xin Đức Phật nói lại cho con nghe”. Đức Phật đều thừa nhận. “Lại nữa, A-nan đạt được loại Tammuội gọi là Phật giác. Nếu là người tự thông đạt thì không đợi nói lại. Nhưng vì A-nan sinh vào đêm Đức Phật thành đạo, năm hai mươi lăm tuổi mới làm thị giả. Kinh được nói từ trước đã y theo hai nghĩa trước kia mà vẫn được xưng là “Tôi nghe”, huống chi ở tại thất của Tín Tướng, là thời gian gần nhất ư?

 

 

Phần cuối

Tiếp là “Từ đó v.v…”trở xuống là nói về lời Tựa, cũng gọi là Tựa riêng, có hai:

Một là nêu hai tên gọi: Tuy tên gọi khác nhau nhưng vẫn có dài ngắn. Thuật ngang với Phẩm Tựa riêng hết phần đầu. Vì có lời tựa riêng với các kinh nên đặt tên khác là Kim Quang Minh. Vì vậy, chúng ta biết lời tựa này là căn bản của tên khác.

Hai là “Nghĩa khác v.v…”trở xuống là giải thích về hai lời tựa, có hai:

Một là chỉ chung văn tướng của hai lời tựa như sau:

  • Tướng riêng, có hai:
  • Là nói về bảy hình thái khác, có hai:

Một là khai thị về bảy văn kinh.

Hai là “Sinh khởi v.v…”trở xuống là nói về bảy thứ lớp. “Một là Nhập định”: Đại giác đốn viên chiếu nhưng thường vắng lặng. Nay, sở dĩ Như Lai nhập định là vì muốn chỉ bày phương cách khiến cho người tu ưa thích đối với Định. “kế là trình bày”. Đã nhập vào định cao siêu, thấy pháp tôn quý thì lập tức ở trong định này mà trình bày về vua kinh. Ý nói nêu ra sự trình bày”: Thật sự chưa chỉ bày về tướng trạng của việc xuất định. Bởi vắng lặng không ngăn ngại đối với sự chiếu soi nên nói là “Ra”. Đức Phật không xuất định mà nói kinh này. Ý ngài muốn trình bày rằng trong vắng lặng có chiếu soi. “Tiếp theo hoài nghi” “Đã nói về Pháp Đức Phật đã chứng, Tín Tướng liền nghi rằng vì sao Người và Thọ sao không gọi là Pháp. Còn văn nói về thụy Ứng v.v… thì người học sẽ biết.

Kế là có khi v.v… trở xuống là nói về ba thứ khác. Đại sư có lúc tạo ra sự phân biệt này. Đại sư Chương An chép thường cùng bảy loại khác ở trước, vì có sự khác nhau giữa triển khai và quy nạp.

Tiếp là “trình bày v.v…” trở xuống là nói về tướng, có hai:

Một chính là trình bày. “Trình bày về sự hoài nghi”. Suy nghĩ về nghĩa sâu xa thì sẽ hợp với điều nghi để đối với pháp sở chứng thường chứng thọ ngắn. “Nói về sự dứt nghi”: Mục đích Đức Phật che chở là vì khiến cho người nghe dứt nghi sinh Tín. “Nói về phẩm sám hối”. Vì mục đích chính là phá ác, phụ dứt phá ác. “Nói về phẩm không”: Phẩm này dẫn dắt cho sự thành tựu về sinh thiện, dứt ác. Vì văn này chỉ nói về sự diệt trừ ba thứ chướng. Trời Đại phạm và Đế Thích là Tán-chi chủ. Khẩn-na-la v.v… là bộ đi theo của trời Tán-chi. Kinh nêu chủ đề nói về phẩm này. “Nói về việc chính là nói về sự nhóm họp điều lành? Chính thức nói về trị quốc, tu tập điều lành và nghe kinh. Tất cả những việc ấy đều lưu xuất từ Bí tạng. Vì vậy, Tiên sư dùng Bí mật để nói về hai phẩm. “Nói về Thọ Ký” “Vì những người kia nhờ nghe kinh mà tâm được trong sạch vắng lặng như hư không nên được thọ ký riêng. Nay nói “Vì thân và ý không dơ bẩn” là “nói về phẩm Xả Thân”: Nhờ ân Thái tử mà được giải thoát. Vì nói rõ rằng chẳng phải dùng món ăn tà vạy để nuôi mạng. Nay, Tiên sư nói về một câu chánh mạng. “Nói về phẩm Tán Phật”: Tuy Bồ-tát ba lần dùng kệ để khen ngợi Phật, nhưng phần nhiều các vị Bồ-tát này là Phật xưa. Như vậy, dẫu các Bồ-tát ấy có thực hành đi nữa cũng là Phật tương lai. Vì vậy, Đức Phật hiện đời khen ngợi người tu hành cũng là Đức Phật tương lai, do đó mà Tiên sư nói về phẩm này. Phảng phất tức là dáng vẻ không rõ ràng. Vi, âm là Vỹ, tức là Xa. Như nói rằng không được rõ ràng khi đọc.

Hai là “Hỏi v.v…” trở xuống là chỉ bày luôn về người trình bày, có hai:

Một là hỏi về khởi.

Hai là đáp về chỉ bày, có hai:

Một là trình bày người xưa bác bỏ vì sai lầm: Bản xưa có hai Sư. Vị thứ nhất nói về A-nan, bác bỏ rằng: v.v… Là luận chứ chẳng phải kinh”: Vì lời Phật nói gọi là kinh. Những gì do đệ tử Phật ở cả ba thừa soạn ra đều gọi là Luận. Kinh nói: “Nay, ta nên nói về Pháp sám hối v.v…” Như vậy, lẽ nào Pháp sám hối lại do A-nan nói? Lẽ nào chẳng phải là văn sai? Trống vàng trong mộng là Pháp thân Phật. vì lấy trí mà gõ vào nên nó liền tùy căn cơ mà giảng nói về pháp sám hối. Chúng ta nên biết rằng trống vàng là chân ngã của Phật. Vì vậy, trống nói là “Ta nói”. Vị thứ hai nói: Tín Tướng bác bỏ rằng: Nếu là nguồn tự của Tín Tướng thì khởi đầu và cuối cùng không nên nghi. “Huyền tự”: Huyền đồng với Huyền có bộ tâm ở dưới.

Hai là “Lại nữa v.v…” trở xuống là chỉ bày về câu hỏi, có hai:

Một là ý của thầy chỉ bày.

Hai là “câu hỏi v.v…” trở xuống là nạn vấn khởi, trả lời chung, có hai:

Một là so sánh nhân với quả: Không chỉ chủ thể dạy bảo là Phật làm ra Tựa mà còn nói rõ Định của Như Lai chẳng ngại với việc giảng nói. Lấy văn của Pháp Hoa để suy nghiệm vấn đề Đức Phật trình bày ở trong định. Lẽ nào lại dùng ngàn, muôn ức bị hạn cục ở trong Chánh Tông để so sánh với miệng của Đức Phật thuộc về quả bí mật Ứng phó với cơ ư? Lẽ nào chỉ nói về Chính chứ không tạo ra cái chung của Tựa hay sao? Vì vậy, Tiên sư kết rằng “Chỗ nào mà không làm?

Hai là“Văn v.v…” trở xuống là dẫn văn để chứng kết, có hai:

Một là dẫn văn để làm chứng.

Hai là “Đại v.v…” trở xuống là dẫn Đại phẩm làm thông lệ. Trong phần Tự của kinh ấy nói về việc Đức Phật đưa tướng lưỡi rộng dài ra để phát ánh sáng; mỗi tia sáng này hóa thành những cánh hoa quý, trên mỗi cánh hoa đều có Hóa Phật nói về sáu Ba-la-mật. Kinh Đại Phẩm đã gọi là Tựa thì lẽ nào ở đây lại gọi là Chính kinh? Hai là “Chú thích đi vào v.v…” trở xuống là chính thật theo Tự riêng để nêu giải văn như sau:

Riêng thuộc nhập định, có hai:

Một là nêu khoa: Muốn nói về nghĩa của người thuộc chủ thể đi và pháp thuộc đối tượng được đi đều rõ ràng. Vì vậy, Tiên sư xếp chữ “Đi” vào khoa đầu tiên. Chúng ta nên nhớ rằng giải thích nghĩa không cùng loại với việc đọc văn.

Hai là “Là v.v…” trở xuống là giải thích tùy theo như sau:

  • Người thuộc chủ thể đi. Gồm ba.
  • Giải thích về “Lúc ấy”, có hai:

Một là xưa giải thích.

Hai là “Nay v.v…” trở xuống là người thời nay giải thích, không dùng năm loại ba thời của người xưa mà chỉ nói về thời thuộc sự kiện Đức Phật quán sát cơ đắc đạo. Lại nữa, đắc đạo vẫn còn thuộc về chung. Phát theo quy ước của lúc ba loại trí âm thầm hợp với ba đế mới nói biết tướng của Như Lai quán sát căn cơ. “Phật muốn v.v…” là Hóa nghi chứ chẳng phải nói rằng do sự quán chiếu ngày nay mới biết.

Kế là chú thích về Như Lai, có hai:

Một là nói khái lược.

Hai là “ba tạng v.v…” trở xuống là giải thích, có hai:

Một là chỉ cho sự giải thích rộng của vị khác.

Hai là “Nay nói v.v…” trở xuống là nay giải thích theo điều quan trọng như sau:

– Theo quy ước của Bi và Trí để chú thích, có hai:

Một là theo quy ước của nghĩa để giải thích: Mỗi thân trong số ba thân của văn cú pháp khoa đều có nghĩa của Như, nghĩa của Lai. Nay dùng tướng của Pháp thân và Báo thân để giải thích Như, lấy sự ra đời của Ứng thân để giải thích Lai; mục đích là giúp cho nghĩa được thành, chung và riêng không còn. Nếu Phật là Thuận thế gian thì Ứng và Như là Bí tạng; chỉ vì thuận với Bi mà ngài đến ba cõi.

Hai là “Thành v.v…” trở xuống là Tiên sư dẫn luận để chứng minh. Chủ thể nương là Trí. Đạo Như thật là Lý. Đến thành tức là sự thùy Ứng của Từ bi.

Kế là “Đại v.v…” trở xuống là theo quy ước của Trí để giải thích Hạnh. Tuy chỉ nói về nhưng đã có đủ cả nghĩa của Như, vì y theo Phước trí để trang nghiêm Pháp thân. Đối tượng được trang nghiêm là Như. Đó là sự giải thích về danh từ Như Lai trong phẩm Phạm Hạnh của Đại Kinh.

Tiếp là “Giải thích về Luận v.v…” trở xuống là theo nói để làm chứng cho sự giải thích, có hai:

Một là Dẫn luận.

Hai là “Nay nói rõ v.v…” trở xuống là sự giải thích hoàn thành. Pháp vốn có là tướng chung trong Chân, Tục. Trí xứng với giải tức là Pháp và Báo vô cùng cao sâu, cho nên nói là Như. Xứng với Như này mà nói là Ứng thân che chở cho cơ. Vì vậy gọi là Đến (Lai). Trước y theo của Bi và Trí nên nghĩa của nó vẫn là chung. Nay nói về giải thích và nói pháp tướng của ba đế để giải thích Như Lai, nên nghĩa hoàn toàn trọn vẹn. Pháp tướng của ba đế tức là ba thứ Pháp thân. Đó là sự tròn đầy của Pháp thân. Xứng với đó mà giải thích tức là ba thứ Bát-nhã. Ý đó là sự tròn đầy của báo thân. Xứng với đó mà giải thích và nói tức là giải thoát. Đó là sự tròn đầy của Ứng thân. So nay với trước thì có sự khác nhau.

Kế là “Đi là v.v…” trở xuống là giải thích chữ Đi, tức là Như Lai dùng trí rốt ráo để đi vào Pháp tánh. Pháp tánh là cái được chứng. Quả trí thuộc về chủ thể chứng. Đứng về nghĩa thì lập chủ thể chứng và Đối tướng chứng nhưng thể thì không cùng đến. Vì rốt ráo của thỉ giác giống như Bản giác, chỉ có Chân như là một mình. Vì thế, nếu như vậy thì ai là người năng nhập, lại là sở nhập? Trụ và Xuất cũng đều như vậy. Dẫn ý của Tiểu Bát-nhã cũng như thế. “Nay nói về đi”: Vì dẫn chúng sinh

học Phật đi vào Lý nên chỉ bày về tướng nhập. Vì khiến cho chúng sinh xứng với Lý mà trụ nên chỉ bày về tướng Trụ. Cam lộ là thuốc bất tử, dụ cho Lý thường. Vì chúng sinh mà nói về loại Cam lộ ấy nên lẽ ra cũng nên nói là Xuất. Không xuất mà xuất, xuất ra sự trình bày về Vua Kinh. Pháp Hoa từ đất vọt lên các vị Đại Bồ-tát đối với trăm ngàn Tam-muội trong Pháp tánh sâu xa không vào mà vào nên gọi là khéo vào. Trụ và Xuất cũng giống như vậy. Bồ-tát còn như vậy, tất nhiên chúng ta sẽ biết về Phật.

Kế là “Vô lượng v.v…” trở xuống là nói về pháp đi như sau:

  • Nói rõ về pháp tánh sâu rộng, có hai:
  • Y cứ trực tiếp vào văn để giải thích, có hai:

Một là giải thích vô lượng xâu xa. Để nói về chỗ đi vào trước phải giản lược, làm sáng tỏ tính chất cao rộng của thể nên liền dùng pháp giới để nói lên sự rộng lớn của thể. Pháp Trung đạo không cõi là cõi. Vì cõi ấy không ngoài nên gọi là Vô lượng. Lại dùng ba đế để làm sáng tỏ tính cao siêu. Tuy hai đế Chân và Tục đều rốt ráo nhưng có cả Nhị thừa và Bồ-tát nghiêng lệch chứng được ít phần. Nếu là Trung đế mà không có thật trí của Viên thì không thể nào chứng nhập. Nay nói rõ về thể của ba đế không có hơn kém thì đó là kho tàng của ba đức bí mật. Tức là cội gốc của pháp tánh. Vì vậy, Tiên sư nói là “đến thấu suốt mới xứng với lời khen ngợi là văn kinh sâu xa”. Sâu là nghĩa của Cao. Chúng ta nên biết rằng Pháp giới và ba đế của viên là hoàn toàn giống nhau. Nay dùng hai tên làm sáng tỏ về vô lượng sâu xa khiến cho người học dể nhận thấy. Làm sáng tỏ rồi, kế là giản lược. Nếu y theo Nhị thừa thì dùng Viên để dứt trừ Thiên. Nếu y theo Bồ-tát thì dùng sâu để dứt trừ cạn. Bởi vì, từ Phật trở xuống đều là hạ địa. Thánh thuộc viên mà còn dứt trừ huống chi là ở ba thứ giáo ư? Hai là “Pháp v.v…” trở xuống là giải thích hai chữ Pháp tánh. Trên kia nói về sự cao rộng là đức của Thể. Nay nói về Pháp tánh tức là Thể của đức. Giải thích ý nghĩa hai chữ làm sáng tỏ thể của cao và rộng. Nói là pháp: nghĩa là khuôn phép. Chư Phật đi theo Pháp nên thành tựu muôn đức. Vì vậy kinh Niết-bàn nói: “Cái mà chư Phật tôn làm thầy là Pháp”. Nhưng, đối với Pháp tánh này thì có ai trong cả ba thừa, sáu đường không nương theo để thành lập? Vì Pháp tánh có dụng thuộc về Vô sự. Tuy nương theo nhưng trái nên trở thành ba thứ chướng. Tất cả bảy chúng đều thờ Đức Phật nhưng vì có thuận, nghịch nên chia ra trói buộc và giải thoát. Nay dùng sự rất thuận theo để làm sáng tỏ cái được làm thầy. Vì vậy, Tiên sư nói “Cái mà chư Phật nói theo gọi là Pháp”. “Cái gọi là tánh” là không thay đổi.

Ý nói rằng vì thể của bốn đức không thay đổi. Chúng ta nên biết rằng bốn đức ấy có mặt khắp tất cả các pháp, dưới đến nhân quả, y chánh của địa ngục, cũng đều là Thường, Lạc, Ngã Tịnh. Đó là “Tướng thế gian thường như vậy”.

Hai là chẳng phải vậy v.v…” trở xuống là lại dùng nghĩa để giải thích, có hai:

Một là dùng cái được chiếu soi bởi thật trí để giải thích: “Tận trí” là đã dứt trừ hết hoặc. “Vô sinh trí”. Là hoặc không sinh lại nữa. Vì vậy, Câu-xá chú thích về hai thứ trí ấy rằng: “Nói rằng vị Vô học là: Nếu chính mình tự biết khổ, đoạn Tập, chứng Diệt và Tu đạo thì gọi là Tận trí. Nếu chính mình tự biết rằng ta biết khổ không sinh lai. Ba loại sau nói theo thông lệ gọi là Vô sinh trí”. Luận Du-già cho sự hết hoặc là Tận Trí, quả báo đời sau bất sinh gọi là Vô sinh trí. Nhưng, cả hai thứ trí đó đều chiếu soi Thiên không. Phân biệt với Nhị thừa tức là ý bao gồm cả Bồ-tát cho đến Đẳng giác. Vì pháp tánh của Nhị thừa chẳng phải Trung đạo cho nên cạn, vì không có các sắc và tâm nên có giới hạn. “Như thật trí”: Thích luận nói về mười thứ trí. Mười thứ đầu đều giống với Nhị thừa. Chỉ có loại Như thật trí là không chung cùng. Đó là “Như thực chứng biết tướng chung, tướng riêng của tất cả các pháp không gì ngăn ngại”. Cái được chiếu soi, Ngang thì bao trùm, Dọc thì thấu suốt. Đó là Pháp tánh đây nói.

Hai là “Lại nữa, Vô v.v…” trở xuống là căn cứ vào “Ngay nơi Sự là lý” để giải thích. Pháp tánh sâu rộng là chỗ Đức Phật đi, lại hơn hẳn sự thanh tịnh do Bồ-tát thực hành. Vì sợ người không thông đạt cho rằng nay, ngoài nhân quả, sắc, tâm của y chánh phàm phu thì có Pháp tánh riêng. Đó là chỗ mà Đức Phật đi nên Tiên sư đặc biệt ngăn đón rằng không có một Pháp nào riêng gọi là Vô lượng và sâu xa. Nhưng, nói tất cả nơi chốn là phải thâu nhiếp cả ba vùng đất. Các pháp xứng hợp với nhân quả của chín cõi. Nếu pháp của Phật Giá-na chỉ là tịnh, chỉ là thiện thì nhiễm ác của ba cõi, chín giới phải dứt một. Vậy làm sao để gọi “Đều là Phật Pháp”? Cho nên chúng ta phải biết rõ rằng tất cả nhiễm ác đều là tánh cụ, Phật tánh Duyên Liễu chẳng phải chỉ có Tịnh Thiện, tánh nhiễm tánh ác đều là Duyên Liễu. Nếu các pháp ấy đều là Phật tánh thì thể của tu nhiễm thuộc ba cõi, chín giới là thể không, tánh đức mười cõi. Thể Viên giác ấy có mặt khắp mọi nơi, gọi là “Giá-na hiện hữu khắp mọi nơi, tất cả các pháp đều là Phật pháp “. Vậy, có một niệm nào, một hạt bụi nào, một người nào chẳng phải pháp tánh là nơi mà Đức Phật đi? Vì vậy, Tiên sư nói là “Vô lượng”.

Lại nữa, chúng ta phải biết rằng Đương thể của tất cả pháp nhiễm ác tất sâu xa, kín đáo, cho nên nói là “sâu xa” chứ thật sự chẳng có một pháp riêng gọi là sâu xa. Vì vậy, nói là ngay nơi sự là Trung đạo sắc hương chân thật, bởi lẽ, đối với người mê thì sắc hương họ cho là phần nhỏ của sắc. Nhưng, đối với kẻ giải thoát thì đều là toàn phần của pháp giới. Vì là duy sắc, duy hương, duy vị, duy xúc.

Nếu thừa nhận rằng ngoài sắc còn có pháp vi trần thì không thể gọi là duy, là Trung đạo. Vì Trung đạo kín đáo nhiệm mầu, không thể nào suy nghĩ được nên gọi là sâu xa.

Kế là chẳng hạn như v.v… trở xuống là dẫn tâm loại của luận… như sau:

  • Một là Dẫn loại.
  • Hai là y theo đó v.v… trở xuống là giải thích theo tiêu chuẩn, có ba:

+ Một là giải thích về Vô lượng của Trung đế: nói rõ về Tứ đẳng rằng “Theo tâm thì Từ, Bi, Hỷ, Xả được gọi là Đẳng. Theo cảnh thì được gọi là Vô lượng”. Đó là chúng sinh duyên. Y theo cương giới rộng hẹp nên có ba lớp tên gọi, đó là rộng lớn Vô lượng. Nay, tùy theo thuyết kia mà y theo Chân, Tục và Trung để lập ra ba danh từ.

Kinh nêu “Đi trong vô lượng pháp tánh” là nói rõ về Lý Viên dung của Trung đạo chứ chẳng phải Chân của Đãn Không và Tục của Thiên giả.

+ Hai là “Nếu duyên v.v…” trở xuống là nói về vấn đề Trung thì chắc chắn dung nhiếp. Có thể vì đối cơ nên Đức Phật dùng Quyền Trí nghiêng chiếu Nhị đế. Vì đã không nhiếp Trung nên chẳng đi trên Vô lượng pháp tánh. Nay Đức Phật dùng Thật trí chiếu soi Lý Trung đế nên dung nhiếp tất cả. Vì vậy, Tiên sư nói “Nếu duyên vào Trung đạo thì tức ba trí, một tâm v.v…” Do đó, Trung đế gọi là Vô lượng”.

+ Ba là “Đây v.v…” trở xuống là kết thúc sự tương xứng của Cảnh và Trí. Như kinh Pháp Hoa nói: “Chỉ có Đức Phật chứng nhập trọn vẹn thật tướng các pháp”. Lý của Quyền thật làm sao thâm nhập đến cùng cực? Bởi nhờ Đức Phật đạt được trí vô tận nên mới nhập được cùng tận. Nay cũng như vậy. “Nhị thừa v.v…” trở xuống; Địa trí có hạn lượng. Vì thế, không đo lường được bờ của không bờ, bến của không bến.

Kế là “Các v.v…” trở xuống là giải thích về hành xứ của Phật, có hai:

Một là Pháp: người học nên biết rằng Bản giác là Xứ, Thỉ giác là Phật, Toàn bản là Thỉ thì Thỉ mới hợp với Bản. Nếu không như vậy thì

làm sao mỗi pháp đều được gọi là “Vô lượng sâu xa”. Nhưng lúc mới ngồi đạo tràng thì đã khế hợp một cách sâu xa. Nay, vì dắt dẫn chúng sinh nên chỉ bày về sự hợp nhất. Do đó, Tiên sư liền nói: “Đi trên chỗ đi của chư Phật”.

Hai là Nêu dụ: Nêu lên hành xứ thường chứa đựng làm sáng tỏ.

Kế là “Sai lầm v.v…” trở xuống là kết.

Tiếp là y theo văn để giải thích, có hai:

Một là y theo nghĩa để giải thích khái lược.

Hai là Dẫn văn để giải thích rộng, có hai:

Một là Địa trì: “Chín thứ thiền”:

  1. Tự tánh.
  2. Tất cả.
  3. Câu hỏi.
  4. Tất cả cửa.
  5. Người lành.
  6. Tất cả hành.
  7. Dứt trừ phiền não.
  8. Đời này đời khác.
  9. Thanh tịnh tịnh.

Trong văn nói lược về hai thứ thiền trước và sau. Thiền thứ chín là từ Thập địa chuyển nhập Diệu giác.

Vì vậy, Tiên sư nói: “hoặc là Chính, hoặc là Tập của tất cả hoặc lụy thuộc về Thông và Biệt đã dứt sạch”. Từ Thập địa trở xuống đều có cả Chính và Tập. Cho nên luận giải Hoa Nghiêm không khai Đẳng giác, vì Thập địa tức là Đẳng giác.

Cho nên nói Chánh Tập hoặc lụy của Thông và Biệt là vì Thông là Tứ trụ, Biệt là Vô minh. Chính sử của hoặc thuộc Thông và Biệt của bậc Thất Tín thuộc Viên đã dứt hết, Tập khí thì đến Phật là bằng tập đã dứt của Biệt. Vì những nhà giải thích ngày nay đối với tập khí của Tiểu thừa phân biệt thành mười sáu cửa.

Nếu hoặc của Biệt là bốn mươi hai phẩm, giai đoạn dứt bỏ như bình thường. Tập khí có đủ được nói trong Tịnh Danh sớ. Viên giáo khởi đầu từ Sơ trụ, kết thúc ở Pháp vân. Viên tuy dứt các kiến nhưng vẫn còn Tập. Đẳng giác nhập Trùng huyền môn; ngàn, muôn ức kiếp lại tu về việc phàm.

Thấy Lý rõ ràng, Tập khí còn mỏng, Sự v.v… như sương khói vì những vị kia trích dẫn “thanh tịnh tịnh thiền lìa tất cả kiến chấp” của Địa trì nên chỉ thấy rõ Tập. Nếu các vị ấy trích dẫn “Thập địa dứt ái Tập, Thập địa tức Đẳng giác” của kinh Ưu-bà-tắc thì lẽ nào lại không nhập Trùng huyền để dứt trừ đối với Tập khí? Văn rất rõ ràng.

Hai là Tịnh danh: Vì Đức Phật đối với tâm thanh tịnh thuộc tự tánh mà vượt hơn đối với tất cả những vị đạt được thiền định nên kinh nói: “Tâm tịnh đã vượt qua các thiền định”. Và cũng là đến nơi bờ kia của tất cả thiền định nên Đại sư nói: “Đã vượt qua”.

Kế là “Cũng là v.v…” trở xuống là lại dùng ý ấy để giải thích: Tự thân Phật không cao nhưng do y theo pháp mà Cao. Nay nói về vị trí cao là ý muốn phân biệt để làm sáng tỏ tính chất cao sâu của pháp tánh.

Tiếp là “Là vàng v.v…” trở xuống là trình bày về Biệt, có hai:

Một là Nói về nghĩa khác với trước. Nhưng, lẽ nào sự sắp xếp các phẩm trước là sinh ra năm nghĩa? Vì mười bảy phẩm chỉ bàn luận về ba pháp, nói rõ chung về tướng riêng và giáo lý che chở cho hữu tình. Nhưng, vì đã theo phẩm kinh nên nói về danh không sáng tỏ, nay nói văn kinh của Phẩm Tựa trình bày về năm nghĩa khiến cho người học biết về đầu và cuối của kinh này là chỉ giải thích Danh, Thể, Tông, Dụng và Giáo tướng. Có như vậy mới biết sự giải thích tựa đề đã nêu ra ý chỉ của kinh.

Hai là “Đầu tiên là mười v.v…” trở xuống là y theo văn để nói nghĩa như sau:

  • Trình bày bốn nghĩa, có bốn:
  • Câu trình bày về danh, có hai:

Một là Sự giải thích khác thuộc về Thể. Về “Khoáng thạch”, Thuyết Văn nói: “Khoáng là nguyên chất của đồng, sắt”. “Dụng bên trong và bên ngoài”. Quang là dụng bên trong, vì làm sáng tỏ tự thể, minh là dụng bên ngoài vì quán sát vật khác. Vị sư này cũng biết hai chữ Quang Minh thuộc Tông Dụng, kim là chính thể. Vì Thể của chúng không rời nhau nên tuy nêu lên ba chữ nhưng ý là ở tại Thể.

Hai là “Nay nói rõ v.v…” trở xuống là sự xác định trình bày danh của ngày nay. Nêu lên ba để làm sáng tỏ về một chẳng hoàn toàn trái với Lý, nên nói là “Đương nhiên”. Như sự chia văn, tự có câu kế. Đích thực lấy Trung đạo làm vua kinh, chính là thể của sự trình bày, vậy cần gì phải dùng câu đầu tiên gồm cả Tông và Dụng để nói về Thể? Người học nên biết rằng câu thuộc về sự trình bày về danh là y theo văn phụ kèm ở trên. Thích danh của ba chữ không theo dụ để lập mà là gọi trực tiếp là pháp tánh sâu rộng. Vì Đức Phật thật sự đi trên Pháp tánh này nên tuyên bố rằng: “Kim Quang Minh này đứng đầu các kinh”. Vậy, nếu không gọi là Pháp tánh thì chữ “Này” là chỉ cho điều gì. Vì Đại sư Trí Giả thấy được ý chỉ mầu nhiệm của kinh này nên mới lập văn giúp đỡ và giải thích về Đương thể. Để chứng minh cho văn giúp đỡ, trước tiên Đại sư dẫn câu này: “Sự nêu danh đầu tiên càng làm cho đáng tin. Đã phụ văn trước nên đặc biệt nêu ra ý này”. Nay giải thích danh của Tựa không hiển bày lại.

Kế là “Vua kinh v.v…” trở xuống là một câu tự thể, có hai:

Một là chỉ trên nêu ngày nay. Trên là huyền văn nói lại về Đế vương. Y theo pháp môn nhiếp mà nhiếp giáo nhiếp vị, nói về vua kinh” đã xong. Nay, ở đây lại y theo Trung đạo để nói về vua.

Hai là “ba tạng v.v…” là đối với cái khác mà giải thích về chính như sau:

– Nói về sự giải thích khác, có hai:

Một là Tự: Ý của ba tạng là “Ba chữ tựa đề của kinh này dụ cho ba thứ đức. Đó là dùng ba thứ đức chia ra để đối với ba kinh. Niết-bàn nói Phật có khả năng giải thoát, chính vì muốn dứt trừ cái thấy hư vô của Nhị thừa. Bát-nhã bàn luận về không, chính là muốn cho phàm phu xả bỏ sự chấp đắm về Hữu. Hoa Nghiêm đốn thuyết về Lý Pháp thân, che chở cho Thập tín, Tam hiền. Vì vậy, nói là mới đi”. Ba kinh trên, mỗi kinh đều nói về một đức, mỗi kinh đều che chở cho một loại căn cơ giải thoát, che chở cho hai vị trì Nhị thừa, Bát-nhã che chở cho phàm phu, chỉ cho cả Người trời là một vị trí. Pháp thân che chở cho năm vị trí là Tín, Trụ, Hạnh, Hướng và Địa của Bồ-tát. Đã che chở cho tất cả căn cơ thì chính là vua kinh, nghĩa là thống nhiếp.

Hai là “Ở đây v.v…” trở xuống là bác bỏ, có hai:

Một là Nói về việc trái với ý chỉ của giáo. Niết-bàn nói về ba thứ đức sâu mầu, hợp với sự che chở cho cơ thuộc Viên, lẽ nào chỉ có Nhị thừa thôi ư? Bát-nhã chỉ bày về ba thứ Bát-nhã, lẽ nào lại khác với ba thứ đức, huống chi là nói: “Thính chúng là người không sống chết” thì lẽ nào chỉ có người phàm? Ba thứ thân của Hoa Nghiêm cũng chính là ba thứ đức. Đã nói đầy đủ về Thập địa thì lẽ nào lại chỉ che chở cho Bồ-tát mới thực hành. Cách giải thích đó chẳng những chỉ bị nhiếp cơ có hạn mà còn nói rõ là pháp tánh không viên dung.

Hai là “Làm như thế v.v…” trở xuống là nói về sự tổn hại đối với hành giả. Cách giải thích như thế của Chân-đế, người có hiểu biết thì biết là không đúng. Nhưng, người không hiểu biết sẽ cho rằng ba kinh kia kém hơn kinh này. Sự giải thích ấy làm sinh ra sự chê bai để mắc tội nên đâu thể y theo.

Kế là “Nay nói v.v…” trở xuống là nói rõ về giải thích của ngày nay như sau:

Một là Chỉ bày chung về sự đúng sai của vấn đề vua kinh của các bộ như sau:

– Y theo ba đế để quyết định sự đúng sai như sau:

Một là chỉ bày về ba đế: “Giáo bộ một đời”, có kinh lấy văn tự thuộc chủ thể giải thích làm kinh, có kinh lấy nghĩa lý được giải thích làm kinh, có kinh lấy sự hợp nhất giữa văn và lý làm kinh. Vì vậy “Kinh một đời” không nằm ngoài sự hợp và không hợp của văn và lý. Nếu không hợp thì Văn thuộc chủ thể giải thích chỉ là Tục đế. Lẽ tất nhiên, nó không ngoài ba thứ là Tục thật có của ba Tạng, tục huyễn có của Thông giáo Huyễn hữu huyễn có của biệt giáo tức là không cộng tục. Nếu Lý được giải thích chỉ là Chân-đế thì cũng chỉ có ba thứ thuộc thật hữu diệt không của ba Tạng, Chân thuộc phạm trù Huyễn hữu tức không của Thông giáo và Chân thuộc Bất hữu bất không của Biệt giáo. Trong sáu phạm trù này, Thể của ba thứ Chân-đế không có Tục mà chỉ nhờ ba thứ Tục để được nhập chân. Nhưng, vì cuối cùng phải dứt trừ Tục nên nghĩa của Hợp không thành. Nếu Văn và Lý hợp thì không ngoài ba loại. Đó là Viên tiếp Thông, Viên tiếp Biệt và Chính Viên giáo.

Thể của ba loại Chân Tục này là Trung. Vì sao? Vì tự thân của Viên giáo vốn có sự hướng về nhau của Chân và Tục. Nếu tiếp Thông và Biệt thì Chân lý được giải thích đã hướng về các pháp, dù hạn cuộc ở văn chiếu soi Tục đi nữa cũng hướng về các pháp. Vì vậy, ba thứ Chân tục này không hai. Do đó nói rằng: “Nghĩa của Văn và Lý hợp với Trung đạo được thành tựu “. Vì Chân tức là Tục nên Chân chẳng phải Chân. Vì Tục tức là Chân nên Tục tức chẳng phải Tục. Chẳng Chân chẳng Tục, ngôn ngữ và suy nghĩ tự biến mất, gắng gượng gọi là Trung.

Hỏi: Xét về Tục thuộc sự lặp lại của Biệt giáo thì Huyễn hữu có thể là văn thuộc chủ thể giải thích, nhưng, tại sao Tức không lại cũng là Văn?

Đáp: Văn là nói về nghĩa của chủ thể giải thích, chủ thể hiển xuất thuộc tướng của văn, nếu nghĩa ở tại Thông giáo thì Không lấy tướng mất để làm lý giải thích. Nay đối với Biệt giáo, hai bên đều là Ứng thì đó là chủ thể hiển xuất đối với hai Phi. Vì vậy, Không và Hữu đều là Văn.

Hỏi: Bảy loại như Tạng, v.v… đều gọi là Chân tục, tại sao ba loại sau được gọi là Trung đạo.

Đáp: Lẽ nào nghe về Chân Tục thì liền không có Trung? Như Viên đúng với Giáo và tiếp Thông, Biệt. Ba thứ Chân tục này đã được gọi là không thể suy nghĩ bàn luận thì lẽ nào lại chẳng phải Trung đạo. Như Niết-bàn sớ chú thích về bảy thứ Nhị đế. Trong đó có ba thứ lấy Trung đạo làm tên gọi thì tại sao chỉ trách cứ ở đây? Hỏi lấy nghĩa của chúng thì tại sao Bất không Bất hữu thuộc Chân-đế của Biệt giáo lại không gọi là Trung?

Trung của lìa hai bên không hợp với Văn và Lý.

Người Sơ tâm không thể mất ngay sự nghĩ bàn. Nếu so với Viên thì chỉ là Chân được giải thích bởi Tục lặp lại. Vì vậy, sự giải thích về “Như thị” của kinh thuộc Văn cú ở trước đối với Viên và Biệt rằng: “Phá bỏ lìa để làm sáng tỏ Trung. Vì nếu đối tượng được giải thích chẳng phải chủ thể giải thích thì không gọi là Trung đạo. Tánh của văn tự vốn “lìa” nên tất cả văn tự đều là Phật pháp. Như thế mới gọi là “Như thị” thuộc Trung đạo của Viên giáo.

Hỏi: Vì sao chỉ loại bỏ Biệt tiếp Thông?

Đáp: Nay lấy Chân Tục đối với Văn Lý, Biệt tiếp Thông đã ở trong sáu phạm trù. Vì sao? Vì nếu chưa nhận “Tiếp” thì phải dùng

Huyễn hữu giải thích tức không. Nếu đã nhận “Tiếp” thì tự thuộc về

Đãn trung, chiếu soi hạn cục đối với Tục thuộc lặp lại. Vì vậy, y theo Thể của Pháp đã ở tại sáu phạm trù trước thì có xả bỏ cái gì đâu? Huống chi Văn ngày nay không nêu rõ là “Hai thứ Nhị đế” mà chỉ nói về việc giữ văn lấy Lý của một đời. Lấy sự hợp nhất giữa Văn và Lý có ba thứ kinh thuộc về Tục, ba thứ kinh thuộc về Chân và ba loại kinh thuộc về Trung. Sự nói về kinh như thế đã được thâu nhiếp hoàn toàn vào một việc giáo hóa. Có người chỉ y theo danh từ Kim Quang Minh mà lập ra chín thứ kinh. Họ chỉ y theo chữ “Lấy” để làm căn bản của nghĩa.

Nghĩa là, nếu chấp đắm Văn thuộc thủ thể giải thích của ba chữ thì gọi là ba thứ Chân-đế. Nếu chấp đắm Lý thể thuộc đối tượng được giải thích thì gọi là ba thứ Trung đạo. Giải thích theo cách này thì lẽ nào chỉ y theo Tâm để giải nghĩa? Nếu không thì sẽ trái với ý của văn, dùng hai chữ trước để giải thích về chấp đắm, dùng một chữ chấp sau để giải thích về chấp đắm nghiêng về một bên là nói về điều gì? Vì giải thích về “Vua các kinh” nên Đại sư lập ra chín loại để thâu nhiếp tất cả kinh trong một đời. Vì kinh này đã nói về vua của Trung đạo nên đối với chín loại được tự tại, gọi là vua các kinh. Tại sao lại nhờ chín loại chỉ ở ba chữ? Vì đó là do Kim Quang Minh tự làm Vua của Kim Quang Minh. Đã nói các kinh nên hoàn toàn chẳng phải là Vua có tính cách thống nhiếp, sai trái rất nhiều chỉ nói về hai vấn đề ấy.

Kế là “Nếu nói v.v…” trở xuống là quyết định đúng sai. Nhưng trong các bộ, có bộ nói ba thứ trước là Tục đế thuộc chủ thể giải thích, có bộ nói ba thứ giải thích trước là Chân-đế thuộc. Vì thể không hợp nên đều gọi là Đế khác, chỉ được là kinh, chứ không gọi là Vua kinh. Vì nó không làm sáng tỏ ý nghĩa của Vua có tính chất thống nhiếp nên chẳng phải Vua. Như trong các bộ có nói về ba thứ Chân có Tục, Tục của toàn bộ Chân, Nhị đế không hai gọi là Trung đạo, ngoài Trung đạo ấy ra không có một mảy pháp nào nữa. Như kinh này nói: “Pháp tánh vô lượng sâu xa”.

Lại nói: “Trí cảnh không thể suy nghĩ bàn luận”. Lại nói: “An trụ trong tánh Như của tất cả pháp”. Đối với tất cả pháp ngầm chứa và thọ nhận tất cả pháp. Như thế thì ngoài những điều được giải thích không có chủ thể giải thích. Vậy, lẽ nào ngoài chủ thể giải thích lại có cái được giải thích ư? Văn và Lý đã hợp nhất thì Trung đạo viên dung. Vì thế, vẫn được gọi kinh này là Vua. Đó là đối với chín loại kinh của ba loại tục, ba loại Chân và ba loại Trung mà được tự tại.

Hỏi: Thể của kinh đối với ba loại đã là vua, tại sao lại nói “Tự tại đối với chín loại”?

Đáp: Sự giải thích về chín loại ở trên là Thông giáo y theo ba loại Tục, ba loại Chân và ba loại Trung để chỉ bày vấn đề kinh của một đời có Thiên, có Viên. Nay xếp đặt các bộ tùy theo bộ, có nơi nói về Trung đạo của Viên tức là vua kinh. Đối với Thông mà chỉ bày chín thứ tự tại, đối với ba loại Trung, kinh là tên gọi khác; vì thế đã giống nhau nên được tự tại. Nếu sáu loại kinh khác thì tức là phương tiện được sử dụng ở trong Viên. Như vua đối với các quan, lẽ nào không được tự tại?

Kế là “Nhưng kinh v.v…” trở xuống là y theo Trung đạo để làm sáng tỏ sự tôn quý cùng cực, có ba:

Một là nói về thể Viên của các bộ là vua. Trung đạo là vua kinh, thể của Trung đạo là một. Tùy theo chúng sinh mà nên đặt ra tên gọi khác. Vì vậy, văn ở trước nói: “Nếu nói Trung đạo là vua kinh, vì sao kinh nói vậy? Tức là trong bốn vị của Hoa Nghiêm v.v… làm Pháp thân v.v… nói thể của kinh. Nhưng phải phân biệt trong bốn vị là vua chẳng phải vua, như bộ Hoa Nghiêm có ba thứ kinh. Trung chính Viên và Trung tiếp Biệt là kinh, là vua. Trung chính Biệt giáo là kinh nhưng chẳng phải vua.

Cho nên pháp thân phải phân biệt Trung của Biệt. Đãn không của ba tạng thật có Nhị đế là kinh nhưng chẳng phải vua. Trong bộ Phương đẳng có đủ chín loại kinh. Ba loại là Trung thuộc chính Viên giáo, Trung thuộc Viên tiếp Biệt và Trung thuộc Viên tiếp Thông, là vua kinh. Vì vậy, danh từ thật tướng có cả ba loại này, sáu loại khác là kinh chứ không được là vua. Trong bộ Bát-nhã không có bảy thứ kinh của hai thứ Hữu thuộc ba tạng, cũng đồng với ba loại là vua của kinh thuộc Phương đẳng được gọi là mẹ của Phật. Bốn thứ còn lại chẳng phải vua. Một loại Viên của Pháp Hoa là kinh, là vua. Vì khai quyền nên mở búi tóc cho hạt châu. Chín loại Niết-bàn đều biết Trung của Viên đều là vua kinh. “Tất cả chúng sinh đều được thành Phật”. Nên có ai là chẳng lấy chánh nhân làm thầy? Vì thế, vấn đề Trung đạo vua kinh trong các bộ lớn có sự triển khai và quy nạp; chỉ có một pháp tánh mà lập nhiều tên khác này để làm thể của các kinh.

Hai là “Thí như v.v…” trở xuống là y theo vua loài người trong các đời làm thí dụ. “Các họ” tức là nói về họ của ba Hoàng, năm Đế. Thái Hạo Phục Hy họ Phòng. Viêm đế Thần Nông họ Khương. Hoàng đế Hữu Bi họ Công Tôn. Đó là ba Hoàng. Thiếu Hạo họ Kim Thiên, Chuyên Húc họ Cao Dương, Đế Khốc họ Cao Tân, tất cả đều họ Cơ. Đế Nghiêu Đào Đường họ Y Kỳ, Đế Thuấn Hữu Ngu họ Đào. Đó là năm Đế.

Vì vậy, Tiên sư nói là “Các họ” “Ứng vận lần lượt hưng khởi”. Ứng với vận năm hành sinh nhau của trời. Phục Hy Ứng vận Mộc, Thần Nông Ứng vận Hỏa, Hoàng Đế vận Thổ. Theo thứ lớp mà suy luận để biết vận của năm đế “Bắt chước rồng”. Lúc Phục Hy mới lập nước có điềm lành của rồng nên lấy Rồng làm kỷ quan. Nên Tả Truyện chép: “Thái Hạo lấy Long kỷ. Vì bắt chước Rồng nên có tên là Rồng. “Điểu quan”: Lúc Thiếu Hạo mới lập nước vì có điềm lành của con phượng nên lấy chim làm kỷ quan. Cho nên Tả Truyện nói: “Thiếu Hạo ứng theo đó mà lập, cũng gặp chim Phượng đến. Do bắt chước theo chim mà có tên loài chim. “Tùy thời bá lập”: Là nói Ứng vận mà làm Vua thiên hạ. “Trăm đời tuy khác” nghĩa là hiệu của Kỷ khác nhau, nhưng vua thống nhiếp là một, đều đứng đầu thiên hạ.

Ba là “Pháp tánh v.v…” trở xuống là trình bày sự tùy bộ đặt tên hợp với thí dụ. Danh tuy có hưng phế nhưng thể chẳng thêm bớt. Vì vậy từ “Pháp thân” cho đến “Bắt chước Phật”, mỗi loại đều đối với chín loại kinh mà được Tự tại. Tức là điều mà ở trước ví dụ rằng: “Trăm đời tuy khác nhưng vua thống nhiếp là một”.

Kế là “Pháp tánh là v.v…” trở xuống chính là nói về Thể tánh của kinh này. Lấy Văn và Lý hợp với Trung đạo làm thể. Ở đây là giải thích về Thông như xếp các bộ kinh có biệt danh thể. Kinh này lấy vua pháp tánh làm thể của kinh. Vì Đức Phật đi trong pháp tánh sâu xa nên liền tuyên bố rằng: “Kinh Kim Quang Minh này là vua các kinh”. Lẽ nào chẳng phải chỉ cho Pháp tánh, chỗ được đi là thể của tên Kim Quang Minh trở xuống ư? Thể này tự tại, đứng đầu các kinh.

Hỏi: Ba thứ vua kinh đều gọi là Thể của kinh Đại thừa, vậy, Thể của kinh này là thuộc vua nào?

Đáp: Tuy văn giải thích Pháp tánh là ở tại Viên, nhưng vì thừa nhận rằng cả ba thừa đều y theo đó mà sám hối nên Đại sư y theo Viên để giải thích về Thể. Phán giáo thuộc Thông nhưng nghĩa thì xứng với Viên giáo nhập Trung đạo của Thông để làm Vua kinh.

Hỏi: Tịnh Danh Huyền nói: “Nếu ba thứ Tục đế ở trong lý chẳng phải là thể của kinh này thì ba thứ Chân-đế là Pháp tánh thật tướng được làm thể của kinh”. Nay nói “Nếu lấy Văn và Lý hợp nhất làm kinh thì đó là ba thứ Trung đạo”. Vả lại, Văn và Lý đã hợp thì Chân và Tục đều có trung. Như thế thì Tục đế được làm Thể của kinh lại chẳng trái với nghĩa của Tinh Danh Huyền ư?

Đáp: Tịnh Danh Huyền và ở đây xoay vần tùy thuận, không trái ngược nhau. Vì thể của kinh chưa bắt đầu lìa văn mà văn không đến. Chính sự mà là Chân mới là Thể của kinh. Dùng Nhị đế phân chia Thể thì thuộc Chân. Thể của ba đế xứng hợp với Trung đạo. Ở đây là khai thị ở nơi chấm dứt của đường tâm mới là thể của kinh. Nếu Tạng, Thông, Biệt xứng với Giáo thì cũng nói rằng “Thể dứt bặt ngôn ngữ, tưởng niệm” Nhưng đều là đối tượng được giải thích, không có đủ Chủ thể giải thích thì làm sao chủ thể giải thích hợp với đối tượng được giải thích? Vì vậy, Văn và Lý của sáu thứ kinh không hợp nhất. So với Viên giáo thì thật sự không dứt bặt lý. Vì Đại sư muốn làm sáng tỏ thể của kinh để chỉ bày về cánh cửa bặt dứt tưởng nên nói rằng: “Văn Lý hợp ba thứ Trung đạo là thể của Viên thuộc đối tượng được giải thích bởi giáo lý của bốn vị. Bàn luận về Lý mà có đủ văn thì Văn mới chính là Lý. Lý cũng là Văn, Văn đã chính là Lý thì chủ thể giải thích tự biến mất. Lý đã tức là Văn thì đối tượng được giải thích không thể đạt được. Chủ thể và đối tượng đã dứt bặt thì thể của Trung tự sáng tỏ. Văn kia đã nói có ba thứ Chân-đế trong Lý đều là Trung của Viên. Vì vậy sự giải thích về thể của văn kia và văn này không khác nhau. Như trong Diệu Huyền dẫn Kim cương Tạng của Địa Luận nói “Không và Hữu chẳng hai, chẳng khác, chẳng cùng tận”. Bốn câu làm sáng tỏ về Thể, từ khác nhau nhưng ý giống nhau”. Thích Tiêm hỏi rằng:

“Vì sao Không và Giả lại được làm thể của kinh?”

Đáp: Đã là Không và Giả của không nghĩ bàn, lại chỉ Không Giả tức là Trung, Trung là Thể của kinh. Trung tức là Không Giả lại chỉ ở Trung. Bốn câu của văn kia không ngoài ba đế. Vì Viên dung nên mỗi Đế trong ba đế đều có ba Đế. Như vậy thì mỗi câu của bốn câu đều là ba đế. Vì lẽ đó chúng mới được gọi là “Từ khác nhưng ý thì giống nhau”. Vì mỗi câu đều có Trung nên mỗi câu đều là Thể cả. “Luận bàn cùng cực, Không Giả được làm thể”. Do có đủ ở Trung nên quay lại chỉ rằng Không và Giả tức Trung, Trung là Thể của kinh. Vì vậy, tuy Trung đế có Không và Giả nhưng Không và Giả chẳng phải là Thể. Vì thế, Đại sư nói: “Trung tức là Không và Giả, cũng chỉ cho Trung”.

Hỏi: Tại sao không chỉ nói rằng Trung là Thể của kinh, Không và Giả chẳng phải là thể? Nói như vậy đối với nghĩa là đã đủ mà trước lại giải thích về vấn đề mỗi Đế trong ba đế đều có ba đế, lại phân biệt Không và Giả trong mỗi Đế của ba đế và chỉ lấy Trung ở Trung để làm Thể của kinh?

Đáp: Nếu chỉ nói riêng thì nghĩa của Viên không thành, mà phải nói một cách viên dung thì mới làm sáng tỏ được Bản thể sâu mầu. Vì sao? Vì Không và Giả là sự tu tập của Trung, cả hai chính là Tông và Dụng của kinh. Trung là Nhất tánh, tức là Thể của kinh. Nếu chỉ nói rằng “Trung là thể của kinh thì ngoài Tông và Dụng ra còn có tự thể riêng. Như thế thì thể hẹp, chẳng cùng khắp.

Vì vậy, phải nói rằng cả ba đế đều là thể của kinh. Nếu chẳng phân biệt Không và Giả đối với mỗi Đế trong ba Đế và chỉ lấy Thể của Trung thì chẳng thể làm sáng tỏ vấn đề Thể chẳng phải do trí dứt. Giải thích về Thể như vậy là chẳng phải là Tông và Dụng, cũng chẳng lìa Tông và Dụng. Nghĩ bàn mất sạch, diệu thể thiên nhiên. Trung là thể của kinh, Viên diệu đã như vậy. Vì y theo Không và Giả nên Tông, Dụng cũng là mầu nhiệm. Vì Không trùm khắp ba đế nên Tông này không hẹp, Giả trùm khắp ba đế nên Dụng càng lớn. Vẫn mỗi Đế trong ba đế phân biệt Giả Trung, hiển bày tông là Trí. Cũng phải mỗi Đế trong ba đế phân biệt Không Trung, hiển Dụng là đoạn. Mỗi Đế đối với hai để nói lên chẳng tức chẳng lìa. Vì thế, tất cả đều được gọi là không thể suy nghĩ bàn luận. Nếu như vậy thì lẽ nào chỉ có thể là vua kinh? Tông và Dụng cũng là Vua. Tên gọi thì gồm cả ba thứ Vua, Giáo thì giải thích về bốn thứ Vua. Vì một danh một thể, một tông, một dụng, một Giáo đều là Trung đạo, cho nên Huyền Nghĩa nói: “Văn gọi là Vua kinh, Giáo thâu nhiếp các điển. Giáo vẫn được gọi là Vua thì danh v.v… có thể biết là dường nào. Các pháp đã là Trung, là Thể của kinh, lại phải phân biệt để làm sáng tỏ Danh là chủ thể giải thích, Tông là Tự chứng, Dụng là sự giáo hóa người và Giáo là chủ thể phân biệt. Chỉ có thể của kinh là đối tượng bị chấp lấy. Gồm nhiếp trọn vẹn, phân biệt không sót, cùng với bốn câu của Kim cương Tạng đều là Thể. Thích Tiêm đối với bốn thứ chỉ lấy Trung, Lý của chúng đều phù hợp.

Kế là “Nếu cho rằng v.v…” trở xuống là Tiên sư đặc biệt trình bày sự khế lý, có lợi cho căn cơ của cách giải thích ngày nay để làm sáng tỏ Trung đạo của Viên, bặt dứt nói năng và suy nghĩ mà làm Vua kinh. Trên thì thuận với ý chỉ trình bày về thể của Như Lai. Dưới là Ứng với căn cơ nghe kinh của chúng sinh. Đã nói về bốn vị thì sự hợp nhất của Văn và Lý của các kinh Đại thừa đều là vua của kinh. Như vậy, lẽ nào lại có việc chỉ tôn trọng kinh của ta mà khinh thường kinh của người khác. Đó là so với sự cách biệt nhau đến cùng cực của Chân-đế.

Kế là “Mầu nhiệm v.v…” trở xuống là nói về Tông, có hai:

Một là Giải thích về Mầu nhiệm: Như Lai đã trình bày về danh từ Kim Quang Minh là thể của kinh và vua. Đây là bí tạng được giải thích bởi một bộ kinh. Nếu có người nghe thì phải suy nghĩ về ý nghĩa ấy.

Vì thế, Tiên sư nói là “Mầu nhiệm”. Đối với hai chữ này, nếu Nhân quả cùng thiếu sót thì không có ba thứ Pháp khởi đầu, chung cuộc và thường trụ. Vì vậy, đối với xưa chẳng phải làm sáng tỏ chính nghĩa của ngày nay. Nhân bao gồm Bát Địa, Quả cùng cực Diệu giác. Vì vị trí chia làm sáu nên sâu mà khó thấy. Cả sáu đều là “Chính là” nên chẳng phải Dọc, chẳng phải Ngang. Vì nhân chính là quả nên chẳng phải Dọc, vì Sự chính là Lý nên chẳng phải Ngang. Văn giải về Lý tánh lấy quả làm thể rằng “Lại cũng như vậy”. Nếu biết rõ sáu thứ “Chính là” thì nghĩa đều đầy đủ.

Hai là “Bốn phương v.v…” trở xuống là giải thích về sự hộ trì của bốn Đức Phật như sau:

  • Giải thích theo Giáo gồm có:
  • Chính là giải thích, có hai:

Một là giải thích về bốn phương, bốn vị Phật: Phật tuyên bố lời đó là ý có điều muốn nói lên, chính thức trình bày về Tông của kinh. Tông là Trí thuộc quả, hợp với thể của Pháp tánh. Tuy thể là một nhưng lại mở ra thành bốn môn. Đó là Diệu không, Diệu hữu, Song diệc và Song phi. Như Địa luận nói về bốn câu làm sáng tỏ Thể để làm bốn phương. quả trí khế hợp để làm bốn vị Phật, ý của sự trình bày về Tông rõ ràng, hãy xem xét.

Hai là “Giải thích v.v…” trở xuống là giải thích về hộ trì, có hai:

Một là theo Thể dụng của năm vị Phật để giải thích về Trì: Tông chỉ của kinh theo ngày nay là ở sự giải thích về quả trí tôn quý. Vì muốn làm sáng tỏ loại trí này, thầm khế hợp với Lý của bốn môn nên Tiên sư đặc biệt y theo bốn vị Phật để giải thích. Do trí Phật không phân ra kia đây mà cùng thầm khế hợp với tính bất động của pháp thân. Thuận với Tánh gọi là Trì. Pháp tánh là thể của Pháp, chư Phật là trì của Báo. Tuổi thọ là Dụng của Ứng. Vì ba thứ này đều thường hằng nên gọi là Vô lượng.

Hai là “Tín v.v…” trở xuống là y theo sự dứt nghi của Tín Tướng để giải thích về Bảo vệ. Đức Phật bảo vệ pháp tánh là vì muốn giúp cho chúng sinh không khởi hoặc điên đảo. Tín Tướng chỉ nghĩ về tám mươi đoản Tích. hoặc đối với Pháp Báo là gốc của thường trụ. Bốn Đức Phật khai thị về gốc khiến cho người nghe ngộ được Tám mươi tức là dụng thường hằng. Vì vậy gọi là Hộ.

Kế là “Một đó v.v…” trở xuống là phân biệt chỉ bày: Chỉ cho văn của Tông gọi là một câu, nghĩa tuy có nhiều loại nhưng không ngoài ba thứ là Thể, Tông và Dụng, chính tuy trình bày về Tông nhưng Tông phải hợp với Thể và Thể chắc chắn khởi Dụng. Vì vậy câu này không thể giải thích một mình. Bốn đức như ở cuối.

Tiếp là “Quán v.v…” trở xuống là theo Quán để giải thích: Nghĩa của sự trình bày về Tông của kinh ở trên quy về quả Phật. Người đương cơ nghe thấy thì hoặc bị phá, Lý được sáng tỏ. Nếu hành giả ngày nay không hiểu về Phương, về Phật ở trong tâm mà chỉ nghe về loại giáo này thì nào có lợi ích gì? Vì vậy, Tiên sư muốn giúp cho hành giả quán tâm để biết nhận đối với bốn đế cho đến bốn đức. Đã chính là tâm của ta thì thoát khỏi nạn đếm châu báu cho người khác. Văn này chia làm hai.

Một là y theo Đế và đức để lập pháp quán của Viên như sau:

– Y theo bốn đế, gồm có:

Một là nói chung về cảnh trí: bốn môn, bốn đế đều có cả cả Nhân quả. Môn theo lý mà khai mở, quy về quả là tiện lợi. Đế có khổ và Tập nên đối với Hành giả Sơ tâm nên biết! Mượn Phật ở bốn phương để biểu thị cho trí của bốn đế. Đây là gá sự gồm phụ pháp tướng vào tâm mà thành quán. Vì vậy, bốn đế chính là một niệm tâm, ấm tâm là khổ, hiện hoặc là tập, ngay nơi trí là Đạo, vốn Tịch là Diệt. Biết như thật về chúng gọi là Trí của bốn đế.

Hai là “Đông v.v…” trở xuống là nêu riêng về cảnh trí, có hai:

Một là Quán cảnh: Pháp tướng của bốn đế là quả trước, nhân sau.

Nay y theo Tu quán nên khởi đầu là nhân, sau cùng là quả. Vì vậy, đối với thế gian và xuất thế gian thì Tập và Đạo ở trước, khổ và diệt ở sau. Người Sơ tâm quán cảnh muốn dễ nghiên cứu thì nên bắt đầu từ việc gần. Vì vậy, thuận theo danh từ Giáp Ất, năm hành, bốn quý v.v… của thế tục, khiến cho nghĩa bốn phương thành tựu, giúp cho nhận biết về bốn đế. Vấn đề quan trọng là lập ra phép quán chứ không nên câu nệ vào danh từ, giáo tướng.

Hai là “Quán sát đó v.v…” trở xuống là phát trí: Đã đối với Nhất tâm tức là quán bốn đế, quán sát không ngừng thì mắt trí phát sinh, nhậm vận hộ trì. Lý mầu không mất thì hoặc điên đảo không khởi. Nhưng, hành giả phải quán sát thật sâu Tứ đế thuộc phép quán của viên, đều gọi là Vô tác. Thể của khổ tập nghịch tu là tánh ác, ngay nơi nghịch là thuận, Đạo và Diệt không có công. Vì vậy, Tiên sư nói “ấm, Nhập đều là Như nên chẳng có Khổ đế mà xả. Trần lao vốn thanh tịnh nên chẳng có Tập để dứt bỏ. Biên và Tà đều là Trung chính nên không có Đạo để tu. Sinh tử tức Niết-bàn nên không có Diệt để để Chứng. Thấy bốn đế ấy rõ ràng gọi là phát trí của Đế.

Kế là “Lại nữa v.v…” trở xuống là y theo bốn đức: Phép quán bốn đế ở trên tuy quán nhất tâm, nhưng hành giả của bốn thứ giáo đều có thể tu chứng. Nay, y theo bốn đức nên mỗi thứ giáo đều nói rõ về ba thứ quán. Sơ tâm đốn tu thật sự thuộc về phép quán của Viên. Phương đông so sánh với Thường; Thường bác bỏ vô thường nên Trần sa diệt hết. Vô thường bác bỏ thường nên kiến tư mất. Song phi bác bỏ hai bên nên Tập của Vô minh diệt. Nói thì có trước sau, nhưng tu thì ở tại một tâm. Ba phương còn lại theo lệ chung của cõi này.

Tiếp là “Quán Đông v.v…” trở xuống là y theo Đế, và Đức để chỉ bày danh hiệu của Phật. Sự nói rõ về trí của giác trước kia chỉ là sự giải thích chung. Nếu đối với quán tâm thì chẳng nói về biệt hiệu. Như thế thì quán đối với kinh chưa hoàn toàn thuận. Nay đối với Tập đế mà đạt được “chính là Chân thường” gọi là A-súc, Hán dịch là Bất động. Kế là đối với khổ đế đạt được “Chính là Chân lạc”. Chân lạc tôn trọng gọi là Thật tướng. Kế là đối với Đạo đế mà đạt được sự thanh tịnh rốt ráo, tuệ mạng thường trụ gọi là Vô Lượng Thọ. Kế đến là đối với Diệt đế mà đạt được hai thứ ngã không. Chân như được làm sáng tỏ là kho bí mật. Một âm ở cùng khắp gọi là âm thanh mầu nhiệm. Bốn phương có bốn vị Phật vốn là tâm tánh. Chính Tánh là quán, quán phù hợp với Tánh thành tên của bốn vị Phật.

Kế là “nay tôi v.v…” trở xuống là nói về Dụng, có hai:

Một là chia văn.

Hai là Tùy theo giải thích. Gồm có:

  • Năng phá thắng pháp, có hai:
  • Y theo văn hiện tại để chỉ bày, có hai:

Một là nói về ba thứ pháp thể: Pháp vượt hơn có công năng bác bỏ ở tại thuộc về cảnh trí. Như sắp phá giặc thì năng lực của thân thể phải mạnh, kế đến là quyền mưu sâu và kế đến nữa là binh khí phải bén.

Hai là y theo thân nên dụ cho cảnh. Thân phải có mưu nên dụ cho Trí. Mưu cần có sự giúp đỡ của binh khí nên dụ cho hạnh. Nếu đầy đủ ba điều kiện ấy thì chướng chắc chắn tan mất.

Kế là “Nếu tướng v.v…” trở xuống là giải thích ba pháp tướng, như sau:

  • Chỉ bày riêng, có hai:

Một là Biệt giáo: ba thứ lớp Hạnh, Trí và Lý giúp phát lúc tu là theo chiều Dọc. Pháp, Báo và Ứng đều làm sáng tỏ lúc chứng ở trong quả là theo chiều Ngang. Bởi giáo này vốn có Pháp thân, bị che đậy bởi hoặc. Vì thế phải tạo tác riêng về công đức của Duyên liễu để làm tư lương cho nhau mà hiển phát. Lại do giáo này mà ba pháp của tánh cụ không thâu nhiếp nhau khiến cho công thành, ba thứ thân hiển bày theo chiều Ngang.

Hai là “Nếu Viên v.v…” trở xuống là Viên giáo: Viên giải thích các pháp đều là pháp giới. Dùng trí của pháp giới để dẫn dắt hạnh của Pháp giới. Vì hạnh của pháp giới khế hợp với Cảnh của pháp giới, pháp giới không hai, ngoài một không có ba; vì vậy, lìa lỗi của Dọc. Pháp giới chẳng phải một, Tu và Tánh xoay vần; vì thế, lìa lỗi Ngang. Ba pháp tu ở trong nhân đã rõ ràng, lúc hiển bày ra ba thứ thân về mặt quả cũng vậy.

Kế là “Tuy v.v…” trở xuống là tổng kết. Tuy rằng Tu có Tiệm, Đốn nhưng đều thuộc về chủ thể phá chướng ở trong và ngoài cõi. Vì vậy, đều được gọi là pháp siêu, thuộc chủ thể phá.

Tiếp là “Quán.. “trở xuống là dùng bản nay để hiển bày, văn xưa chỉ có ở thượng căn kia, là pháp của vòng thứ nhất. Bản dịch mới đã rộng mà lại có hai vòng. “Vương tử Ly-xa thuộc vòng thứ hai của bản dịch mới là Bà-la-môn. Nói pháp thân thường không có hiện tượng Xálợi là trung căn. Vòng thứ hai tự có một phẩm phân biệt ba thứ thân là hạ căn. Ba vòng này đều là pháp vượt hơn, tất nhiên là phá vỡ được ba thứ Chướng. Nay trình bày chủ thể phá nên nói là pháp v.v… Lý hợp với pháp này v.v… trở xuống là thuộc sự bao trùm ba vòng.

Kế là “kế đến, từ v.v…” là tội ác được phá, Gồm có:

– Phân chia lần hai về phân định chung, có hai:

Một là Khoa đầu tiên: Văn ở đây chính thức chỉ bày về tội ác được bác bỏ. “Mà nói trình bày về phẩm không v.v…” là nay nêu tội được bác bỏ để làm sáng tỏ dụng của chủ thể phá. Trong các pháp thuộc chủ thể phá thì Dụng của không rất quan trọng. Cho nên sẽ nói ở đây lại nói về phương cách thuộc chủ thể phá?

Đáp: Hạnh thuộc cảnh trí ở trước là thuộc thuộc chủ thể trị. Nay giải thích về việc chuyên văn, tư, tu của ba nghiệp là pháp thuộc về uống thuốc. Nếu không uống thuốc siêu việt, hoặc giả uống nhưng chẳng y theo phương pháp thì làm sao bệnh bớt được? Hai tướng này thành ba chướng để phá.

Hai là “Còn lại v.v…” trở xuống là phán định, có hai:

Một là Nói về sự chuyển đổi quả báo khác với các kinh. Quả báo đã thành thì khó có thể chuyển. Cũng có kinh nói rằng “Túc nghiệp không chuyển” huống chi là quả báo đã thọ ư? Nhưng, đó là lý thuyết khác về sự che chở căn cơ của Tất-đàn. Nay nói về ba thứ chướng, nếu y theo kinh để tu thì tất cả chướng đều vắng lặng; vì pháp vượt hơn.

Hai là “Lượt thứ nhất v.v…” trở xuống là giải thích về ba thứ chướng do phá giới. Lẽ nào lý do của ba thứ chướng mà lý thuyết khác của giáo môn lại trình bày đầy đủ? Nay y theo một môn do phá năm giới. Nghĩa của năm giới bao trùm rất sâu và thâu nhiếp rất rộng, cùng tận tất cả pháp. Nhưng, vì chúng không bị ngăn ngại các đường khác nên Tiên sư nói: “Lượt thứ nhất”.

Hỏi: Chỉ do phiền não mà khởi nghiệp phá giới chứ lẽ nào lại do phá giới mà thành loại chướng thuộc phiền não?

Đáp: Do nghiệp của phá giới mà hiện ra nhiều việc tham, sân. Như do chê bai kinh mà lún sâu vào tà kiến nên dâm dục nổi lên dữ dội. Những tham v.v… đều do nghiệp mà khởi phiền não. Vì vậy, chúng ta biết rằng ba thứ chướng vốn có sự nghịch thuận, cùng làm nguyên nhân cho nhau.

Kế là “Nay v.v…” trở xuống là y theo khoa để giải thích rộng, gồm có:

  • Giải thích về chướng của quả báo, có hai:
  • Y theo sự trực tiếp của loài người, có hai:

Một là nêu bày nhân quả.

Hai là “Các v.v…” trở xuống là suy nghiệm về quả để tìm nhân, gồm có:

  • Nói về quả báo của sát sinh, có như sau:

Một là nhắc lại kinh để chỉ bày: “Yểu bên trong”, Thuyết Văn nói: “Yểu là gẫy”.

Hai là “Xưa v.v…” trở xuống là tìm nhân để suy nghiệm.

Ba là “Kinh v.v…” trở xuống là trích dẫn kinh làm bằng chứng: Kinh Hoa Nghiêm bản dịch xưa. Nói đủ là: “Tội sát sinh thường làm cho chúng sinh đọa vào ba đường ác. Sau khi sinh vào loài người thì bị hai quả báo:

Một là thường bị bệnh.

Hai là chết yểu”.

Luận Thập Địa nói: “Giết hại thì bị ba thứ quả báo: Một là quả Dị thục: Đó là ba đường ác.

Kế là quả Đẳng lưu: Đó là Sinh lên cõi người thường bị bệnh, chết yểu.

Kế là quả Tăng thượng: Cảm ngoại vật phần nhiều thiếu tươi sáng; vì không dừng trụ lâu”.

Tiếp là “Nếu Tham v.v…” trở xuống là nói về quả báo của trộm cắp, gồm có:

Một là nhắc lại kinh để chỉ bày.

Hai là “Kinh v.v…” trở xuống là trích dẫn kinh để chứng minh “Trời Đồng sinh và Đồng danh”. Kinh Hoa Nghiêm ba mươi bảy quyển Đời Tấn dịch nói: “Như người từ lúc mới sinh ra đã có hai thứ trời thường theo hầu.

Một là Đồng sinh.

Hai là Đồng danh.

Trời thường thấy người nhưng người không thấy trời”.

Ba là “Lại nữa v.v…”trở xuống là dùng sự để khảo nghiệm: Do phá giới Cấm nên gây ra các điều bất thiện. Hai vị trời rồng ấy chắc chắn bỏ đi. Danh dự, lợi dưỡng do đó mà mất mát.

Kế là “Nếu quán v.v…” trở xuống là nói về quả báo của tâm dục, gồm có:

– Nhắc lại kinh để chỉ bày: “Thân thiết, nồng hậu”: Tức sáu người gồm cha, mẹ, anh, em, vợ và con. Địa luận nói: “Dâm bị ba quả báo.

Một là quả Dị thúc: Tức là đọa vào ba đường ác.

Hai là quả Đẳng lưu: Bị sự tranh giành nhau của hai người vợ trong cõi người và vợ khác không trinh tiết, lương thiện.

Ba là quả Tăng thượng: thường dơ bẩn”. Nay nói Đấu tranh, kiện tụng là hợp với luận.

Kế là Dẫn kinh chứng minh: “Người che chở”: Nữ nhân ý chí yếu kém nên dựa vào ba sự che chở. Lúc nhỏ dại thì cha mẹ che chở. Làm dâu người thì mẹ chồng che chở, chồng chết thì con che chở. Sự che chở của pháp là nói về việc thọ năm giới, tám giới, v.v…

Kế là “Xưa v.v…” trở xuống là y theo lý để suy: “Thuở xưa, phá hủy pháp của người nghe”: Vì khiến cho người phạm giới.

Kế là “Mỗi một v.v…” là quả báo của nói dối, có hai:

Một là Nói về sự đơn giản của kinh: Theo thể lệ của ba thứ quả báo ở trên mà hợp lại có hai câu.

Hai là “Bên trong v.v…” trở xuống là y theo nghĩa để giải thích đầy đủ, có hai:

Một là trình bày văn đầy đủ: Vì đủ sự lạ thành đôi nên nói là “Một cặp”. Phẩn tức là nộ.

Hai là “Xưa v.v…” trở xuống là y theo Lý để suy luận. “Ngoài năm v.v…” trở xuống là nói về quả báo của rượu, có hai:

Một là y theo thông lệ thêm văn để trình bày.

Hai là “Xưa v.v…” trở xuống là suy nghiệm để chỉ rõ nhân quả, có hai:

Một chính là chỉ rõ. theo như lễ là lễ độ. Do say nên mê muội. Ngãi là ngu dốt.

Hai là Dẫn chứng: Cũng dùng kinh Hoa Nghiêm, do uống rượu nên sự chê bai càng thêm. Vì thế, được lấy ra để dẫn chứng.

Kế là “Hỏi v.v…” trở xuống là y cứ rộng lớn về cả năm thừa để giải thích, có hai:

Một là y theo năm giới trái với kinh để hỏi: Vì danh từ năm giới xuất xứ từ Luật Tiểu thừa. Vì sao lại dùng làm pháp tướng để giải thích vấn đề “Vua kinh” này?

Hai là “Đáp v.v…” trở xuống là y theo sự giữ giới của năm thừa để đáp tất cả hành pháp đều có cả cả Đại và Tiểu. Tùy theo trì giải của người mà Dụng có sâu cạn. Nay giải thích năm giới là pháp của năm thừa. Chia ra làm hai:

Một là đáp chung: Vì tên gọi năm giới nhập vào tất cả pháp. hoặc có khác ít hay nhiều thì cũng chỉ là sự mở ra và phối hợp. Hay “Đưa lên v.v…” trở xuống là chỉ riêng, có hai:

  • Y theo nghĩa để giải thích, gồm có:

Một là dùng năm giới phối hợp với Pháp thể, thật sự có cạn sâu, gồm có:

  • Nói về trời, người, có hai:

Một là Dẫn kinh: “Sự đại kỵ của trời đất”: Kỵ cũng là cấm, là giới. Năm ngôi sao là: Đông là Mộc tinh Tuế tinh; Nam là Hỏa tinh, Huỳnh hoặc, Tây Kim tinh Thái Bạch, Bắc là Thủy tinh Thần tinh. Trung ương là Thổ tinh Trấn tinh.

“Ngũ nhạc” là Đông nhạc-Thái sơn thuộc Duyên châu, Nam nhạc- Hành sơn thuộc Kinh châu; Tây nhạc-Hoa sơn thuộc Ung châu, bắc nhạc-Thường sơn thuộc Tịnh châu, Trung nhạc-Tung sơn thuộc Dự châu.

Ngũ tạng là Gan, Tim, Tỳ, Phổi và Thận. Lấy vì sao nhạc (núi) và Tạng cùng phối hợp trì với Ngũ hành. Chỉ lấy Ngũ hành đối với giới thì ba nghĩa tự sáng tỏ. Không sát sinh đối với Mộc, Mộc đứng đầu về sinh trưởng, nếu sát thì bất sinh, bất dâm đối với Hỏa. Hỏa đứng đầu về chiếu sáng, tà dâm thì tư riêng kín đáo. Không uống rượu đối với Thổ, Thổ thì trấn tĩnh còn say thì nghiêng lụy. Không ăn trộm đối với Kim. Kim là hình phạt, giết và trộm cắp thì bị hình phạt. Không nói dối đối với thủy. Tùy theo vật đựng tròn hay vuông để làm sáng tỏ sự không luống dối thì trái lại, phối với năm hành tức là đã phối với năm vì sao. Nhạc và tạng đứng đầu năm hành. Cho nên kinh nói năm nhạc là bởi người dịch y theo phương này để nhuận sắc. “Trái với trời v.v…”: Trên là đối với năm vì sao, nếu phạm thì trái với trời, dưới phối với năm nhạc, nếu phạm thì chạm đất. Giữa thành năm tạng, nếu phạm thì chặt thân.

Hai là “Lại đối v.v…” trở xuống là phối với Pháp, gồm có:

  • Phối riêng, như sau:
  • Giáo lý của Chu, Khổng, có hai:

Một là năm thường “Triệu sinh trường đoản kinh nói: “Lòng nhân là yêu thương. Bỏ hình phạt, dứt điều hại, gồm ái, không riêng tư gọi là lòng nhân. Nghĩa là nên Hiểu rõ đúng sai, lập được hay không gọi là nghĩa. Lễ là bước lên. Tiến lùi vừa chừng, tôn ti có phần, gọi là Lễ. Trí là điều được biết bởi người. Hình thức để biết về đúng sai, được mất gọi là Trí. Tín là cái được tiếp nhân của con người. Phát hiện, ban bố lệnh để làm lòng người quy về một mối gọi là Tín. Nay, lấy không giết đối với lòng nhân, giết hại là không có lòng kiêm ái. Không trộm cắp đối với Nghĩa, vì trộm cắp là làm điều không hợp lẽ. Không dâm đối với Lễ, vì tà dâm thì không phân biệt được cao thấp, trái với Lễ độ. Không uống rượu đối với trí, vì hôn mê, say sưa thì không thể định được đúng sai, được mất. Không nói dối đối lại với Tín, vì nói dối thì người khác không tin nhận. “Nếu dùng năm thường đối với năm hành”: Đặng Khang thành chú lễ ký trong thiền Trung Dung có nói: “Mộc thần thì nhân, Kim thần thì Nghĩa, Hỏa thần thì Lễ, Thủy thần thì Tín, Thổ thần thì trí”. Trước đây lấy năm hành đối lại năm giới là vì nghĩa ấy. Vì vậy, lấy không uống rượu đối với Thổ, không nói dối đối Thủy.

Hai là đối với năm kinh: “Không sát là đối với thượng thư”: Thượng thư bị cắt đứt từ Đường ngu v.v… trở xuống là quý trọng từ nhượng mà khinh sự sát phạt. Vì phu tử cho rằng nhà Chu suy yếu, hiệu lệnh không được thi hành nên y theo sử nước Lỗ để sửa Xuân thu thay sự thưởng phạt. Khiến loạn thần, tặc tử sợ hãi. Vì vậy, Thượng thư đối với giới không trộm cắp. Lễ có năm, Chu lễ là Chức của Đại tông bá, nói rằng: “Dùng cát thờ phụng quỷ thần, Thần đất của đất nước (Sự là cúng Tế). Dùng hung lo cho mối lo của đất nước (thường tức là Cứu hoạn nạn và tai ương). Dùng lễ khách thân với đất nước (Thân là khiến cho dân gần gũi). Dùng lễ của quân đội để đồng với đất nước (Đồng là nói sự hoàn thành với người không hiệp lực và lấn lướt). Dùng lễ vui gần gũi với muôn dân (Vui tức là thiện). Do điều lành của lòng người làm quy chế). Tà dâm là không dùng lễ để giao tiếp. Cho nên dùng lễ tốt đẹp để răn cấm tà dâm. “Thi”: Thiện thì ca tụng, ác thì dứt bỏ. Đó là không nói dối. “Dịch” là sách của cùng lý tận tánh, là lời dạy thanh sạch tinh vi. Kẻ uống rượu hôn mê, loạn động thì lẽ nào cùng lý tận tánh của mình được.

Kế là “Lại đối với mười v.v….” trở xuống là pháp của Luân vương, có ba:

Một là khai thành văn đối với mười tướng.

Hai là “Tục v.v…” trở xuống là nói rõ hợp bảy thành hai ý: “Tục không thể giữ gìn miệng”. Vì năm giới là chế cho người tại gia. Miệng chia ra làm bốn lỗi nên sự người tục giữ gìn thành khó. Vì vậy chỉ chế thành một. “Uống rượu là tà mạng tự nuôi sống”. Lấy rượu nuôi thân thể không vâng theo chánh giới gọi là tà mạng.

Ba là “Là làm v.v…” trở xuống là kết pháp. Từ người để đặt tên. Tuy năm giới là giới do Như Lai chế nhưng đã đối với mười điều lành thì lại từ hữu lậu mà xếp vào pháp xưa. Vì thế, năm giới thuộc Luân vương. “Cũng gọi là Tánh tội tánh thiện”. Vì tự thân của pháp tánh thuộc về mười điều ác là tội, tự thân pháp tánh mười điều lành là thiện. Vì vậy, Luân vương thuận theo tánh thế tục mà nói về Thiện ác này để giáo hóa chúng sinh.

Kế là “Đầu v.v…” trở xuống là kết sự chỉ bày: điều lành thế gian không thoát khỏi luân hồi. Dẫu sinh vào cõi người, cõi trời đi nữa rồi cũng lại khởi nghiệp ác. Thiện còn như vậy, huống chi là bất thiện ư?.

Vì vậy, Tiên sư nói: “Đều là tất cả gốc tội”.

Kế là “Lại nữa, năm v.v…” trở xuống là nói về Nhị thừa, có hai:

Một là Đối với năm ấm là cảnh của niệm xứ: Nếu không sát sinh thì sắc thân đầy đủ, không trộm cắp thì không sinh ra khổ thọ, không dâm dục thì niệm tưởng tà vọng không khởi, không nói dối thì sự thay đổi thuần là thật, không uống rượu thì hoàn toàn sáng suốt. Thiện ấm này lẽ nào chỉ là cảnh? Thật ra nó còn ba nguồn cả niệm tuệ nữa. Cho nên có thể mở ra bốn Niệm xứ từ ấm. Nghĩa là, sắc ấm là thân niệm xứ, thọ ấm là thọ niệm xứ, tưởng và hành ấm là pháp niệm xứ, thức ấm là Tâm niệm xứ.

Hai là “Niệm v.v…” trở xuống là từ niệm xứ mà có đủ hai thứ giải thoát thuộc Đạo phẩm. Trong bốn Niệm xứ của Đại luận thì bốn thứ tinh tấn gọi là Chánh cần, bốn thứ định tâm gọi là bốn Như ý túc, năm thiện căn sinh gọi là Căn, căn thêm lớn gọi là Lực, Phân biệt bốn thứ xứ, đạo, dụng gọi là Giác, bốn Niệm xứ an ổn ở trong Đạo mà thực hành gọi là Chánh đạo.

Tiếp là mười bảy phẩm như con đường bằng phẳng, không, vô tướng, vô tác như ba cửa của ngôi Thành. Niết-bàn như ngôi thành.

Tiếp là “Vì vậy nói rằng v.v…” trở xuống là trình bày về việc chuyển năm ấm thành năm phần pháp thân: Vì giới cấm ngừa lỗi thân và miệng nên nói rằng: “Sắc có khả năng phát giới? Vì thiền là chánh thọ nên nói rằng: “Thọ thọ thiền định”. Vì giả tưởng Liễu ngộ thân là không nên nói “Tuệ thuộc về tưởng ngộ luống dối”. Trong văn thừa chữ chung. Các đoạn văn trích dẫn đều không có chữ chung. Tiến lùi không biếng nhác thì đến quả thánh. Vì vậy, Tiên sư nói “Hạnh phát sự giải thoát”. Tự biết sự chứng đắc của mình gọi là tri kiến giải thoát. Đó tức là chuyển năm ấm thành năm phần pháp thân. Bốn “Đương v.v…” trở xuống là kết năm giới làm pháp của Nhị thừa.

Kế là “Lại nữa, năm v.v…” trở xuống là nói về Đại thừa, gồm có:

Một là Nêu bày chung.

Hai là “Nêu lên, rằng v.v…” trở xuống chính là phối trí pháp môn, gồm có:

Một là y theo kinh để phối hợp với bốn Đức: Vì hành giả Đại thừa biết rõ rằng thể của năm giới là tâm tánh, dầu là thọ hay trì cũng đều thuận với tánh. Vì tánh có đủ bốn đức nên năm giới đều là Thường, Lạc,

Ngã và Tịnh. Đó là đối chung. Cũng có thể lấy năm biệt đối với bốn đức. Tâm và tánh của chúng sinh chẳng sinh diệt. Vì vậy, thuận với tánh mà giữ giới Bất sát. Là mang cái ấn sống lâu không chết. Đó là đức của thường. Tâm và tánh của chúng sinh không dâm loạn. Vì vậy, thuận với bản tánh mà giữ giới bất dâm gọi là ra vào không loạn. Tâm và chúng sinh niệm niệm chân thật, không có khoảnh khắc luống dối. Vì vậy, thuận theo tánh mà giữ giới không luống dối gọi là qua lại không ngừng. Hai giới này đối với đức thuộc về Tịnh. Tánh của tâm và chúng sinh không lẫn lộn. Vì vậy, thuận với Tánh của trì giới không uống rượu gọi là làm chủ một thân. Đây là đức của Ngã. Tâm và tánh của chúng sinh tức là Bồ-đề lìa khổ tham cầu. Vì vậy, thuận với bản tánh mà giữ giới trộm cắp gọi là lập ra gốc của đạo. Tức là đức của lạc.

Kế là “thúc lại v.v…” trở xuống là y theo sự để đối với ba nghiệp. “Không sát, đạo, dâm là thân nghiệp. Không nói dối là khẩu nghiệp, không uống rượu là ý nghiệp. Vì trì giới thuận với tánh nên lập giới là nhân thành ba nghiệp của Phật. Thân, miệng và ý của Phật tùy trí tuệ mà vận hành nên không có sự sai lầm, được gọi là ba thứ không sai lầm. Vì không sai nên không cần phải giữ gìn; gọi là ba việc không hộ phòng. Sự hiện hóa của thân nghiệp gọi là thần thông luân. Sự nói pháp của khẩu nghiệp gọi là Chánh giáo luân. Sự quán sát căn cơ của ý nghiệp gọi là Ký tâm luân. Cả ba luân ấy đều xô dẹp, nghiền nát hoặc nghiệp của chúng sinh. Vì người ở địa dưới không so lường được nên gọi là ba mật.

Kế là ba quy tắc v.v…” trở xuống là y theo Lý để đối với ba pháp: năm giới tức là Lý, một chỉ, một tác đều khế hợp với ba pháp tướng Viên Dung. Nếu muốn đối riêng thì Lý cũng thành tựu. Không giết chúng sinh thuận với Lý thường trụ, tức là quy tắc của Chân tánh. Không dâm dục thì tâm thanh tịnh, không uống rượu thì tuệ sáng; cả hai là quy tắc của quán chiếu. Không nói dối thì làm sinh khởi sự tin thuận của người khác, không trộm cắp thì toàn vẹn tài sản của người; cả hai tức là quy tắc của thành tựu tài sản. Đã chính là ba quy tắc thì năm giới khế hợp với tất cả ba pháp tướng. Vì vậy, chúng ta biết rằng năm giới nhiếp pháp không sót.

Kế là “Ngang Dọc v.v…” trở xuống là nêu rộng để kết thúc làm sáng tỏ.

 

Trang: 1 2 3 4 5 6