KINH DI ĐÀ LƯỢC GIẢI
VIÊN TRUNG SAO

Núi Thiên Thai, Sa môn U Khê, pháp danh Truyền Đăng soạn
Dịch giả: Sa môn Thích Phổ Tuệ

 

Thực vì sinh tử
Phát lòng Bồ Đề
Lấy Tín – Nguyên sâu
Trì danh hiệu Phật.

Thay lời tựa

Những kinh bàn về pháp môn Tịnh độ thì rất nhiều, không thể kể xiết. Nhưng căn bản thì có ba kinh:

Một là kinh Vô Lượng Thọ, còn gọi là Đại Bản Di Đà thì chuyên về bản nguyện, nguyện nào cũng cầu thành Chính Giác;

Hai là kinh Quán Vô Lượng Thọ (hay Thập Lục Quán): Mười sáu pháp quán tưởng này, pháp nào cũng cầu chứng nhập Chân tâm;

Ba là kinh Phật Thuyết A Di Đà, thì chuyên về trì niệm hồng danh Phật A Di Đà, khi nào tâm không còn tán loạn thì nhận thấy được Y báo, Chính báo cõi Cực Lạc. Thế là Tịnh độ cũng ở nơi tâm mình chứ không phải ở ngoài tâm, nên gọi là “tự tính Di Đà, duy tâm Tịnh độ”.

Kinh này có rất nhiều bản chú giải, nhưng đặc sắc thì có ba:

Một là “Di Đà Sớ Sao” được tổ Vân Thê giải thích tinh vi;

Hai là “Di Đà Yêu Giải” do ngài Ngẫu ích biên soạn;

Ba là “Di Đà Viên Trung Sao” do ngài Cự Am lược giải, ngài U Khê viết phần chú giải, trong đó nêu rộng nghĩa lý nhờ vào giả quán Tín-Nguyện-Hành để có kết quả công phu tu Tịnh độ được viên mãn trung đạo.

Nói về bộ “Di Đà Viên Trung Sao” này, mãi đến năm Khải Định thứ 8 triều Nguyễn (Quý Hợi 1923), ngài Phổ Tụ ở chốn tổ Bảo Khám – Tế Xuyên – Hà Nam chép lại từ trong Đại Tạng Thích Giáo của Nhật Bản ở viện Bác Cổ và cho khắc ván lưu thông. Từ đó đến nay, bộ sách này chưa được dịch ra tiếng Việt.

Khoá Hạ năm Mậu Tý – Phật lịch 2552, các trường Hạ thuộc tính Hà Tây cũ có giảng bộ Di Đà Sờ Sao” nên Tăng ni Hạ trường tổ đình Viên Minh đề nghị học thêm bộ sách này. Tôi đã đem ra giảng giải cho đại chúng và được các học chúng ghi chép lại. Thấy vậy, Đại đức Thích Tiến Đạt chùa Cự Đà có xin phép được ấn tống lưu thông làm tài liệu học tập cho các Hạ trường ở thủ đô Hà Nội nhân khoá an cư Phật lịch 2553, tôi hoan hỷ trao bản thảo cho Đại đức để biên tập chỉnh lý và ấn tống lưu thông. Tuy đã cố gắng nhiều nhưng chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, dám mong các bậc cao minh đính chính để lần tái bản sau được hoàn chỉnh hơn.

Xin hồi hướng phúc báo và trí tuệ đến chư Tôn đức Tăng ni và quý vị Phật tử đã phát tâm công đức ghi chép, biên tập chỉnh lý và cúng dường tịnh tài đổ ấn tống bộ sách này. Nguyện cho hết thảy chúng sinh đều sinh về Tịnh độ.

Dịch giả: Sa môn Thích Phổ Tuệ


Lời dẫn lần đầu khắc ván.

Xét về Đức Thế Tôn ra đời thuyết pháp độ sinh, đều dùng ba tạng Thánh giáo làm chỉ nam. Nhưng trong ba Tạng Giáo, lại đặc biệt mở ra môt cửa Tinh độ, lấy đó làm đường tắt tu hành, làm phương tiện tối thắng bậc nhất. Xét những kinh chuyên bàn về Tịnh độ, tóm lại có ba:

  1. Kinh Đại Bản Di Đà, chuyên về nguyện.
  2. Kinh A Di Đà, chuyên về niệm.
  3. Kinh Quán Phật Vô Lượng Thọ, chuyên về quán tưởng.

Còn những kinh kiêm bàn Tịnh độ thì nhiều không kể xiết. Thế nên, cả ba kinh Tịnh độ đều lưu hành, nhưng người xưa chỉ lấy kinh Di Đà làm khóa tụng hàng ngày. Đó há chẳng phải một phép trì danh lợi khắp ba căn, tóm thâu sự lý không sót, thống nhiếp cả Tông lẫn Giáo hay sao? Như thế lại càng không thể nghĩ bàn vậy.

Kinh Di Đà này, người đời chú sớ rất nhiều, nhưng nay còn lại không được bao nhiêu. “Sớ Sao” của tổ Vân Thê rộng lớn tinh vi; “Viên Trung Sao” của ngài U Khê cao sâu rộng lớn; cho đến sách “Yếu Giải” của tổ Ngẫu Ích thì từ nghĩa giản dị và nghiêm tịnh bao quát dung thông cả sự lý, thực là thiết yếu.

Nhưng xét nghĩ, nước ta từ trước đến nay chỉ lưu thông hai bản “Sớ Sao” và “Yếu Giải”, còn “Viên Trung Sao” thì chưa được thấy. Mãi đến triều vua Khải Định năm thứ 8, may mắn gặp được Thích Giáo Đại Tạng từ Nhật Bản đem về. Xem trong đó, vị chủ khắc là Ngài pháp danh Phổ Tụ tìm được bản “Sao” này, vui mừng khôn xiết, cho là ngọc quý nơi Bảo Sở để lại. Chẳng ngờ đến già mới được thấy của lạ này, liền giục môn nhân xin phép chép lấy, đem về viết ra, khắc ván để lưu thông.

Phần thì mở rộng đường lối tu hành của ngài Thiện Đạo, từ đây được đổi mới; phần thì mở pháp môn Bất Tư Nghì của ngài Linh Phong, nhân đây thêm mở rộng. Thực là hiếm có! Rất đáng trân trọng! Vị chủ san ủy thác cho tôi dẫn lời thay Ngài, tôi bèn cầm bút viết bài này. Còn nói là bài tựa thì không dám.

Triều vua Khải Định năm thứ 10, tháng 7, ngày tốt. Sa môn pháp danh Thanh Hanh – kế đăng chùa Vĩnh Nghiêm viết lời dẫn này.

Ván kinh này để ở chùa Bảo Khám, làng Tế Xuyên.

***

Kinh Di Đà Lược Giải Viên Trung Sao – Tựa
Núi Thiên Thai, Sa môn U Khê, pháp danh Truyền Đăng soạn.

Đức Như Lai khẩu nghiệp bí mật, lời nói hàm ý chứa nhiều. Như vua ra lệnh bằng cách gọi “tiên đà bà”, tuy một câu nhưng bao hàm cả 4 nghĩa. Chỉ có người bầy tôi trí tuệ mới khéo hiểu được ý của vua. Đợi vua khi ra đi, hay khi ăn, khi uống, khi chiến đấu, gọi một câu “tiên đà bà” này thì hoặc đem ngựa, hoặc đem muối, hoặc đem nước, hoặc đem binh khí dâng lên, đều hiểu tâm vua và làm vừa ý vua.

Bồ Tát – bầy tôi trí tuệ cũng thế, khéo hiểu lời thuyết pháp của Phật, ở trong pháp nông làm ra lời nói sâu; ở trong pháp sâu làm ra lời nói nông; ở trong pháp vừa nông vừa sâu, thì làm ra pháp không nông cũng không sâu; trong pháp không nông không sâu làm ra pháp vừa nông vừa sâu. Tạo luận hay hoằng hóa kinh pháp, nhiều ít vừa phải, đã không khiến cho trí tuệ cầm chừng cũng không để cho nghĩa thiếu khuyết, rồi sau mới có thể nói lên nhà cao, vào nhà sâu vậy.

Bộ “Phật Thuyết A Di Đà Kinh” này là Đức Thích Ca ở trong phép sâu làm ra phép nông mà thuyết giảng, trong phép rộng làm ra phép lược mà thuyết giảng. Giảng thuyết đã lược, song ai có trí tuệ làm giải thích thì cũng phải giản lược. Nghĩa đã sâu như vậy, thì bậc có trí tuệ làm chú giải cũng phải giải thích sâu. Giải vắn tắt không để cho trí tuệ cầm chừng; lý sâu chẳng khiến cho nghĩa thiếu khuyết. Dùng lược để dò rộng, thung dung trung đạo.

Tôi khi ở Ngô Môn đã xem lược giải của Đại sư Cự Am. Trong bài tựa của Ngài có viết: “Rừng báu, ao ngọc chỉ rõ từ nguồn tâm; tuổi thọ ánh sáng tưng bừng nơi tự tính”.

Lại nói: “Hiểu rõ duy tâm vốn đủ thì muôn ức cõi không xa; biết được về nhờ đại nguyện thì ba kiếp Tăng Kỳ vắn tắt”. Ôi! Bao quát hết toàn kinh, lời sao gọn thế! Bản tính duy tâm, nghĩa sao sâu thế! Nếu chẳng phải bậc Bồ Tát trí tuệ thì sao có thể đạt được như vậy?

Nay làm bài Sao mà đặc biệt đề là Viên Trung, là có ý lấy Y báo, Chính báo của cõi Cực Lạc làm Diệu Hữu, lấy nhất tâm trì danh làm Chân Không. Chẳng phải là Chân Không thì cũng chẳng thể chứng được Diệu Hữu ở Cực Lạc; chẳng phải Diệu Hữu thì chẳng thể rõ được Chân Không ấy. Thế nên cái giả không thể nghĩ bàn thì chẳng phải là cái giả thiên lệch. Chân Không vẫn “có”, không phải không ngơ. Hợp hai ý ấy mà tu hành thì “Viên Trung” viên mãn mà thành nghĩa trung đạo, vì thế mà đặt tên là “Sao” vậy.

Ý muốn người đọc kinh này mà tu hành thì phải thấy rõ danh rồi nhớ rõ nghĩa. Thưc đạt nhất tâm bất loạn thì muôn ý nghĩ đều quên, thời rõ lý Chân Không.

Bảy ngày trì danh, từng giây từng phút nối nhau, thời tỏ rõ được lý Diệu Hữu. Tu hành thành tựu nên thấy Phật, tâm thanh tịnh thì hoa nở; “ấn hoại” ở cõi Sa Bà, để “văn thành” ở Cực Lạc (ấn là thể, văn “nét” là tâm). Ấn hoại là sở dĩ không còn tình cảm (vọng), thế gọi là Chân Không; văn thành sở dĩ lập được pháp, gọi là Diệu Hữu. Hai ý ấy đều quên mà đều còn.

Kinh A Di Đà về lời thì lược, về nghĩa thì sâu. Nhân lúc viết lời Sao mà nêu ra nghĩa đề, rồi mượn đấy làm lời tựa.

Triều nhà Minh niên hiệu Thiên Khải, đầu năm lên ngôi, cuối mùa đông, ngày mùng 3 hạ bút viết bài này.


Phật Thuyết A Di Đà Kinh
Lược Giải – Tựa

– Triều nhà Minh, Quận Ngô, ngài Sa môn Đại Hựu thuật.
– Triều nhà Minh, núi Thiên Thai, quận U Khê, ngài Truyền Đăng  làm bài sao.

–  Người trứ thuật.

Ngài tên chữ là Cự Am, Đại Hựu là tên húy, trụ trì ở chùa Thiên Thai Giảng, Bắc Thiền, Tô Châu. Ngài rất tinh giáo lý, nhất là đối với môn Tịnh độ, Ngài càng hiểu được nghĩa mầu nhiệm. Ngài có viết tập sách “Tịnh độ Chỉ Quy”, được lưu hành rộng ở đời. Họ tục và quê hương của Ngài còn phải đợi tìm hiểu thêm.

–  Bài tựa được chép ra, gồm hai phần:

  1. Trình bày lý do thuyết kinh;
  2. Trình bày lý do lược chú.

Bởi vì nói chân nguyên, trong nhất tính đó không có khổ vui khác nhau, thì không cần Phật phải ra đời nói kinh. Chỉ vì vọng phái thành khác nên Phật ta thị hiện ở đời diễn giảng giáo lý.

Trình bày lý do thuyết kinh.
Nói rõ duyên khởi.
Xét tìm nguồn gốc.
Nguồn chân không hai.

Sớ: Cảnh Tịch Quang chân tịnh, tuyệt không có cái gì là khổ vui.

Sao: Tịch Quang là một trong bốn cõi Tịnh độ. Bốn cõi Tịnh độ:

  1. Tịnh độ Phàm Thánh Đồng Cư;
  2. Tịnh độ Phương Tiện Hữu Dư;
  3. Tịnh độ Thật Báo Vô Chướng Ngại;
  4. Tịnh độ Thường Tịch Quang.

Bốn độ này đều có tịnh uế, chỉ có Tịch Quang thượng phẩm là Tịnh độ chân thật, còn các Tịnh độ khác đều dính hư cấu (hư thiết). Nên biết thế này nữa, nói đến “chân tịnh” thì không phải lìa ba cõi kia mà riêng có cõi Tịch Quang; chỉ vào thể của ba cõi dưới, về lý vốn là cứu kính, cùng với Tịch Quang không hề sai khác.

Cho nên Tôn giả Tứ Minh dạy trong Diệu Tông Sao rằng: “Phải biết bốn cõi có ngang có dọc”, vẫn biết có ngang có dọc song chỉ tại “nhất xứ”; nếu đạt được “nhất xứ”, tức là cõi Thật Báo. Nếu phá vô minh chuyển thân vào đấy, thế là Pháp Thân, thể dụng đồng với Phật, gọi là Báo thật nhiệm mầu, thì bậc tịnh lục căn cũng không dự được, huống chi hàng Nhị Thừa. Thế thì một nơi bàn về Thật Báo chiều dọc. Những người chưa phá được vô minh, còn thân kiến, nếu ai có khả năng thấy được, thì chư Phật và các Đại Bồ Tát gia bị khiến cho họ thấy cõi Thật Báo. Bởi vì có cơ duyên, nên tuy chưa phá được hoặc nhưng đã tu Trung Quán.

Như trong hội Hoa Nghiêm và các pháp hội giảng kinh khác, các cơ tạp loại, hoặc thấy thân độ khó nghĩ bàn là những người này. Cõi Thật Báo đã thế, cõi Phương Tiện, cõi Tịch Quang, đồng xứ luận theo chiều ngang, cũng lại như thế.

Ở cõi Đồng Cư thì bàn về ngang dọc của ba cõi kia; ở cõi Phương Tiện bàn về dọc ngang hai cõi (Thật Báo, Tịch Quang); ở nơi Thật Báo thì bàn ngang dọc một cõi. Đến cõi Tịch Quang thì không có ngang dọc, ngay đương xứ cũng không. Nay nói “Tịch Quang chân cảnh”, đó là nói thẳng ngay cái thể chân thật vậy; còn câu “tuyệt không có cái khác nhau về khổ vui”, tức là nói xa rời cái lỗi trái. Bởi vì nói về tịnh uế của bốn cõi, ở Sa Bà Đồng Cư thì chỉ có khổ, không có vui; ở cõi Thanh Thái chỉ có vui mà không có khổ. Đem cõi Phương Tiện đối với Đồng Cư mà nói, thì Đồng Cư chỉ có khổ mà không có vui; còn ờ cõi Phương Tiện chỉ có vui chứ không có khổ.

Lấy cõi Phương Tiện ở ngay cõi đó mà nói, thì cõi Phương Tiện uế bang chỉ có khổ chứ không có vui; còn cõi Phương Tiện tịnh độ, chỉ có vui chứ không có khổ. Lại đem cõi Thật Báo đối với Phương Tiện mà nói thì Phương Tiện chỉ có khổ mà không có vui; Thật Báo chỉ có vui mà không có khổ. Mà ngay về cõi Thật Báo thì Thật Báo uế bang chỉ có khổ không có vui; Thật Báo tịnh độ chỉ có vui, không có khổ. Nếu đem cõi Thật Báo đối với Tịch Quang mà nói thì Thật Báo chỉ có khổ, không có vui; Tịch Quang lại chỉ có vui, không có khổ. Cứ ngay cõi Tịch Quang ấy mà nói, Tịch Quang uế bang chỉ có khổ, không có vui; Tịch Quang tịnh độ chỉ có vui, không có khổ. Ở trên đều ước do tu thành, không hai mà chia làm hai để nói, cho nên có khổ có vui khác nhau.

Bài tựa ở đây nói rằng: “Ban đầu không chia khổ vui” là trong bản tính đủ cả 10 cõi 10 giới. Nói về ngũ ấm quốc độ thì chỉ có tính viên dung khổ vui ở mười cõi mà không có tướng sai biệt khổ vui ở mười cõi. Tức là chúng sinh và Phật đều có bản thể Chân Như bất biến, vốn không có tịnh uế phân biệt thì làm gì có khổ vui sai khác nữa? Thế nên, một câu này chỉ về nguồn chân không hai, lấy đó lưu lại để giải thích cho câu “vọng phái thành thù” ở dưới.

Kinh Lăng Nghiêm có nói: “Tính giác diệu minh, bản giác minh diệu”. Lại nói: “Thanh tịnh bản nhiên khắp cả pháp giới” là vậy. Còn bốn loại Tịnh độ sẽ giải thích dưới đây.

Vọng thành phân biệt.

Sớ: Vọng thức phân vân liền có Thánh phàm sai khác.

Sao: Vọng thức là tên chung của ba hoặc (vô minh, kiến tư, trần sa hoặc). Bởi vì chúng sinh từ vô thủy đến nay, từ trong tính giác diệu minh bản giác minh diệu, một niệm chợt nhiên mê muội, mà hóa ra minh giác, nương vào minh mà lập “sở”. Đã lập ra “sở” náo thì mới lập ra cái “năng” náo của chúng sinh. Trong cái không “giống – khác” đó mới bừng bừng thành khác. Nhân đây mà thành Tam tế: Vô minh, trần sa hoặc; nhân đây mà thành Lục thô: Kiến hoặc, Tư hoặc. Đầu tiên biến thành Tịch Quang uế độ; thứ hai biến thành Thật Báo uế độ; thứ ba biến ra Phương Tiện uế độ; thứ tư biến ra Đồng Cư uế độ. Cứ như thế hóa ra Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác và lục đạo chúng sinh. Cho nên nói rằng “vọng thức phân vân liền có Thánh phàm sai khác”.

Kinh Lăng Nghiêm có nói: “Tùy chúng sinh tâm, ứng sở chi lượng”. Hoa Nghiêm thì dạy: “Nó theo duyên nhiễm tịnh mà chia ra mười cõi”. Cho nên ở chính khoa là câu “vọng phái thành thù”. Lại nữa nên biết: Câu thứ nhất tuy nói rằng “Tịch Quang chân tịnh tuyệt không có khổ vui sai khác”, song cũng chẳng ngại gì “không khác” mà “khác”, tức là ở trong tính gồm đủ mười cõi. Câu thứ hai tuy nói rằng “vọng thức phân vân liền có Thánh phàm sai khác”, thì cũng không trở ngại gì “khác” mà “không khác”, tức ở tính không khác vậy.

Bởi vì Chân Như tuy bất biến nhưng chẳng ngại gì bất biến mà tùy duyên; vọng thức tuy tùy duyên nhưng cũng chẳng ngại gì tùy duyên mà bất biến. Bởi tùy duyên nên không khác mà thành khác; bởi bất biến nên khác nhưng lại không khác. Biết được như thế thì mới có thể rõ cái tâm niệm Phật đây là “toàn tính” để khởi “tịnh tu”, “toàn tu” nhưng chỉ tại “nhất tính” vậy.

Chính trình bày về duyên khởi.

Sớ: Bởi thế mới trôi dạt vào ngũ trược ác thế, không thể trở về được chân nguyên. Vì vậy Đức Thích Tôn của chúng ta thị hiện sinh xuống cõi Kham Nhẫn.

Sao: Đây là chính trình bày duyên khởi Đức Phật thuyết kinh. Bởi vì Đức Thích Ca Như Lai đã từ lâu chứng nhập được bản thể chân thường thì làm gì có chuyện thụ sinh vào cung vua. Chỉ vì tất cả chúng sinh đọa lạc từ vô thủy cho nên có cái việc xuất thế ở cõi Sa Bà. “Trôi dạt ở dời ngũ trược”: Ý nói chúng sinh từ vô thủy đến nay, từ trong biển tính Niết Bàn khua sóng thức, gây động phong ba, dậy “trừng viên” nên mất trong lặng; làm đục ngàu tính Minh Diệu, vùi dập tính Chân Như. Bởi vì trước thất tính do vọng động, cho nên gọi là “phiêu lưu”. Kinh Lăng Nghiêm nói rằng: “Giác minh không muội, đối đãi nhau sinh ra lay động”, là vậy. “Thứ đến, thất tính do hôn mê mờ mịt, cho nên gọi là ngũ trược”. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Mờ tối là hư không”, là vậy. Nhưng hôn mê thì ắt đủ cả vọng động, vọng động nhất định cũng đủ cả hôn mê; cho nên “phiêu lưu” tức là “ngũ trược”, mà “ngũ trược” ấy cũng là “phiêu lưu”. Cái mê hoặc tối tăm và dao động nó đã hình thành, thì cái bản thể chân thật sáng suốt bị mất. Riêng ngũ trược này có thô tế bất đồng. Như câu trong kinh Lăng Nghiêm nói về Kiếp trược rằng: “Ông thấy hư không biến khắp mười phương, cái không và cái thấy nó không phân biệt, có cái không mà vô thể, có cái thấy mà không biết, đan dệt vào nhau thành vô giác, là tầng thứ nhất, gọi là Kiếp trược”. Đây gồm cả ba hoặc mà nói. Nếu như tầm thường mà nói thì khi con người ta thọ 2 vạn tuổi mới bắt đầu vào Kiếp trược. Thế là chỉ riêng vào hai cái hoặc là Kiến hoặc và Tư hoặc thôi, lúc ấy là lúc Kiến – Tư hoặc này rất thịnh. Nhưng mà có thể tế không gồm thô, chứ chưa từng thô không gồm tế. Đây chính chỉ vào lúc Đức Thích Ca sinh vào cõi Kham Nhẫn, mà sáu thô đương hợp tình cảnh. Nếu nói không trở lại một chân thể cũng là nói gồm cả tế ở trong đó vậy. Thị hiện sinh vào cõi Kham Nhẫn chính là Ngài đương ứng cơ vào cõi uế độ Phàm Thánh Đồng Cư. Hẵng nói về thân Liệt ứng với hình tướng vị Tỷ Khiêu cao một trượng sáu mà thôi. Nếu cũng gom cả tế hoặc mà nói thì nghĩa còn bao hàm cả hai cõi Ngài ứng hiện ở trên.

Trình bày thuyết kinh.

Cơ nghi trụ xứ.

Sớ: Ở hội tốt vườn Kỳ Đà, bảo cho người lợi căn là ông Thân Tử (Xá Lợi Phất).

Sao: “Kỳ viên gia hội” là nơi trú xứ thuyết kinh. “Thân Tử lợi căn” là người đương cơ được lợi ích. Bàn về người đương cơ được lợi ích, có ba phẩm: Một là Bồ Tát, hai là Nhị Thừa, ba là phàm phu.

Bởi pháp môn Tịnh độ, các kinh Tiểu Thừa tuyệt nhiên không bàn đến. Vì “tử quả” (phiền não Kiến – Tư hoặc, khổ báo) đã hết, thời thân nguội trí diệt, không nói đến có sinh thân sau nữa. Nay nói nhiều về nó, là pháp môn của Bồ Tát vậy. Nếu xét đến kinh này thuyết về thời Phương Đẳng, chính là đàn xích (bác bó) thiên không Tiểu Thừa, là thời khen Đại Thừa Viên Đốn. Bác bó Tiểu Thừa, cho rằng không có việc sinh thế giới khác nên gọi là hữu sinh. Đặc biệt kinh này chỉ về nước kia có vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử. Lại hết sức khen ngợi Y báo, Chính báo của nước kia mầu nhiệm trang nghiêm, thì là sự tán thán ca ngợi Đại Thừa viên đốn ngụ ý ở trong đó. Huống chi ngài Xá Lợi Phất lại là bậc thượng thủ trong chúng đệ tử, cho nên bảo Ngài khiến cho hồi tiểu hướng đai. Nếu chính cơ được lợi ích là kẻ bác địa phàm phu, thì bảy ngày trì danh, nhất tâm bất loạn, tức được vãng sinh. Một lần dự được hội tốt này thì chứng được bất thoái chuyển. Bởi xét thế nên tuy ở phàm phu nhưng nghĩa thuộc Viên Đốn, lại nên biết vậy.

Trình bày pháp yếu: Gồm 4 phần: Trình bày tên kinh; trình bày thể của kinh; trình bày tông yếu của kinh; trình bày lực dụng của kinh.

Dù năng thuyên, sở thuyên song không ra ngoài bốn loại này. Vì vậy bao quát mà trình bày ra để hết ý thú của một kinh. Có thể được gọi là người khéo thông Đại Thừa vậy.

Trình bày tên kinh.

Sớ: Mở nguyện môn của ngài Pháp Tạng, chi’ cõi mầu nhiệm là Lạc Bang.

Sao: Kinh này thuyết cả Y báo, Chính báo đến đồ chúng gọi là năng thuyên. Nhưng đề kinh chỉ nói: “Phật thuyết A Di Đà”. Quán Kinh Sớ của Đại sư nói rằng: “Nêu Chính báo để thu Y báo, thuật hóa chủ để bao gồm đồ chúng”, là vậy. Như vậy thì đề kinh chỉ nói về Chính báo thì đó là nêu Chính báo để thu cả Y báo. Bài tựa chỉ nói Y báo, thì nêu ra Y báo để thu Chính báo. Nêu lẫn hai bên, văn pháp khéo vậy. Văn bàn về kinh này không có khai nguyện môn, bởi Đại Bản Di Đà đã nói rõ, vì thế lược đi không nói.

Trình bày thể của kinh.

Sớ: Rừng quỳnh, ao ngọc rõ thẳng ởnguồn tâm; tuổi thọ, ánh sáng toàn hiện ở tự tính.

Sao: Rừng quỳnh ao ngọc, là lược nêu về Y báo được nói trong kinh, từ câu “thất trùng lan thuẫn” trở đi đến “cây báu lưới báu phát ra âm thanh mầu nhiệm” – một đoạn kinh văn. Còn tuổi thọ và ánh sáng, là nhắc qua về Chính báo được nói trong kinh, từ câu “Bỉ Phật hà cố hiệu A Di Đà” trở đi cho đến “đãn khả dĩ vô lượng vô biên A Tăng Kỳ thuyết” – một đoạn kinh văn. Hai câu: “Rõ thẳng ở nguồn tâm, toàn hiện ở tự tính” chính là hiển bày thể của kinh. Bởi vì kinh này lấy thật tướng ấn (vô tướng) làm chính thể; không tướng nào không phải là tướng, tưởng đấy nhưng không phải tướng, gọi là thật tướng. Rừng quỳnh ao ngọc, thọ lượng quang minh, vẫn là tướng của hết thảy các pháp. Thế thời rõ thẳng ở nguồn tâm, toàn hiện nơi tự tính, còn tướng nào có thể được nữa vậy thay. Đây chính là “vô tướng bất tướng”, là chính thể của “tướng nhi vô tướng”. Phép mầu nhiệm duy tâm Tịnh độ bản tính Di Đà nói thì dễ, lý lại khó rành; hiểu được nghĩa sâu thẳm tinh vi (huyền vi) mới là thích đáng. Muốn thử làm rõ được thì nếu không phải tông Pháp Tính của Thiên Thai thì không được. Tại sao? Vì cõi nước Cực Lạc xa đến ngoài mười vạn ức cõi; Phật A Di Đà là bậc “quả nhân” trí đức, đoạn đức viên mãn, thanh tịnh đầy đủ; chứ hàng bác địa phàm phu bị tam hoặc làm nhiễm ô, trầm luân nơi Biến dịch sinh tử và Phận đoạn sinh tử, tạo nghiệp trói buộc vô cùng, gây nhân sinh tử bất tận thì làm sao cảm được Đức Di Đà mà sinh ngay về Tịnh độ, tắt ngang năm ngả đường mà lên ngôi bất thoái? Chính do lời bàn của một nhà, Pháp Tính của chúng sinh, nghĩa đó có ba:

–  Tính lượng: Thời khắp cả mười phương, nhưng cùng suốt không ngoài; nước Cực Lạc ngoài mười vạn ức cõi ở trong tính lượng của ta, mới hơi gần được một góc.

–  Tính thể: Thì rắn chắc thường còn, trong sạch sáng sủa. Trí đức, Đoạn đức của Đức Di Đà là giác thể viên mãn, với thể tính của chúng ta, chính rốt ráo mà không hai.

– Tính cụ: Nhưng nếu chỉ nói “vô ngoại, vô sai”, mà không biết có pháp môn tính cụ thì tuy nói là “vô ngoại” mà cuối cùng thành ra “hữu ngoại”; tuy nói là “vô sai” song cuối cùng thành “hữu sai”. Như vậy thì không biết được cái đức của tính lượng, tính thể theo đâu mà chu biến, dựa vào pháp nào mà thanh tịnh? Nên biết rằng có tính cụ, thì hướng vào đấy mà nói thể đức, thể lượng đều gốc từ tính cụ của ta. Ý chỉ của ba tính được phát minh đủ ở trong luận “Sinh Vô Sinh”, ở đây không kể nhiều.

Trình bày tông yếu của kinh.

Sớ: Chúng Thánh cùng một nơi, không phải người ít thiện căn được sinh tới; bẩy ngày trì danh phải ở nhất tâm bất loạn.

Sao: Dưới đây giải thích đề trong năm chương, lấy Tín, Nguyện, Tịnh Nghiệp làm tông chỉ thiết yếu của một kinh. Nay thu gọn kinh văn để trình bày, chỉ nói về tịnh nghiệp. Bởi vì trong tam yếu (tín, nguyện, hành) thì tịnh nghiệp (hành) đứng vào phần chính. Câu đầu, tức như trong kinh nói: “Bỉ Phật hữu vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử, giai A La Hán, phi thị toán số chỉ sở năng tri. Chư Bồ Tát chúng, diệc phục như thị” (Đức Phật kia có vô lượng vô biên những đệ tử Thanh Văn đều là bậc A La Hán, không thể tính đếm mà biết được. Chúng Bồ Tát cũng nhiều như thế). Lại nói rằng: “Cõi nước Cực Lạc, chúng sinh sinh về đấy đêu là bậc bất thoái chuyển. Trong đó có rất nhiều vị Nhất Sinh Bổ Xứ, số đó rất đông không thể tính đém mà biết được, chỉ có thể nói là vô lượng vô biên A Tăng Kỳ“. Lại nói: “Chúng sinh ai nghe phải nên phát nguyện, nguyện sinh về nước ấy. Tại sao vậy? Vì được cùng với các bậc thượng thiện như thế đều ở một nơi” Câu tiếp theo, tức như trong kinh nói: “Chẳng thể lấy nhân duyên thiện căn phúc đức ít mà được sinh về nước kia”. Bởi vậy nói rằng chúng Thánh cùng ở, không phải ít thiện mà được sinh. Câu thứ ba, câu thứ tư, tức như trong kinh nói: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe đến Đức Phật A Di Đà rồi chấp trì danh hiệu của Ngài từ 1 ngày cho đến 7 ngày đạt đến nhất tâm bất loạn”. Đó chính là rừng quỳnh ao ngọc hiện ngay ở nguồn tâm, thọ lượng và quang minh rõ cả ở tự tính. Chúng sinh từ vô thủy cho đến nay do nhân duyên hôn mê vọng động, trôi dạt trong ngũ trược, không trở về được nơi nhất chân. Nay sắp trở về cội gốc, trước không soi tối tĩnh động. 7 ngày chấp trì danh hiệu là để soi vào cái bóng tối ấy vậy; nhất tâm bất loạn là để làm yên lặng cái vọng động ấy vậy. Nếu hôn mê vọng động tạm quên đi thì đợi gì Chân Không ở đâu nữa? Ví như bụi sạch kính sáng, gió yên sóng lặng. Nhưng 7 ngày chấp trì danh hiệu mà được lên ngôi bất thoái, chính làm rõ giáo pháp thuộc về Viên Đốn, không đợi một đời sức nguyện rộng sâu, cho vui cứu khổ. Sức công đức ấy bất khả tư nghì, thực là bến thiết yếu để ra khỏi sinh tử, là con đường hanh thông hành đạo Bồ Tát vậy.

Trình bày lực dụng của kinh.

Làm rõ lực dụng.

Sớ: Thể của sự lý là một, chúng sinh với Phật vốn cùng; lòng từ vô duyên, không phải  mưu kế mà hợp.

Sao: Phần tác dụng của kinh này là lìa khổ được vui, tức trong kinh dạy: “Người đó tới khi mệnh chung, Phật Di Đà cùng các Thánh chúng hiện ở trước họ. Người đó khi chết, tâm không điên đảo, liền được vãng sinh về cõi nước Phật A Di Đà”. Thế thời lực dụng này quan hệ với cho vui bạt khổ, cái công “dữ bạt” ở chỗ cảm ứng. Chúng sinh phải lấy nhất tâm trì danh làm “cảm”; Đức Di Đà lấy bạt khổ cho vui làm “ứng”. Đạo bạt khổ gốc ở tâm bi, đạo ban vui gốc ở tâm từ. Quan hệ cả về tính thiên sẵn có, không hề miễn cưỡng. Người tu hành thời lấy sự lý làm một, cái đạo chúng sinh với Phật vốn cùng là cảm. Phật Di Đà thì lấy lòng từ vô duyên đạo không mưu tính là ứng. Há không phải Đức Di Đà không đến mà đến, đến cõi Sa Bà này tiếp dẫn người tu hành; người tu hành không đi mà đi, đi đến nước Cực Lạc kia yết kiến lễ bái Đức Di Đà. Đây là nghĩa lý cơ bản làm căn cứ Lực dụng của kinh này.

Công huân phát sinh.

Sớ: Hiểu rõ vốn đủ là duy tâm thì ức cõi không xa; biết nhờ được đại nguyện thì tắt ngang ba kỳ.

Sao: Văn trên đã nói rõ cái gốc lý của lực dụng, nhờ đó mà niệm Phật cầu sinh. Hiểu được sự lý một thể, chúng sinh và chư Phật vốn cùng, thì phương xa 10 vạn ức cõi đều vốn đủ ở tại tâm ta, tuy xa mà không xa. Biết được lòng từ vô duyên, không mưu kế mà hợp, thì 48 nguyện lớn vô duyên mà nhờ được, dòng thức cắt ngang. Lực dụng như thế há không siêu việt ư? “Tắt ngang ba kỳ”: Thế là nói rõ siêu xuất ba cõi, có hai nghĩa dọc và ngang. Như ở luận Bà Sa nói rõ Bồ Tát Tam Tạng tu Lục độ vạn hạnh ba A Tăng Kỳ kiếp, trăm kiếp trồng nhân tướng tốt, về sau mới tiến lên bất thoái chuyển, được năm phần Pháp Thân. Đấy là theo chiều dọc mà ra, từ thấp lên cao, như con thỏ con ngựa qua sông, quanh co lâu rộng. Nếu ai y vào kinh này mà cầu sinh Cực Lạc, “nếu sinh rồi hay bây giờ mới sinh, hoặc sẽ sinh, đối với đạo vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác đều được bất thoái chuyển”.

Lại nói: “Chúng sinh nào sinh về đây đều là bất thoái chuyển”. Như vậy, tắt ngang mà ra, là từ đây mà tới được cõi kia như con voi cản dòng chảy, một thoáng có thể được. Vì vậy lực dụng này rất là đặc biệt hơn cả.

Lý do trình bày lược chú.

Chính trình bày.
Lý do giải rộng.

Sớ: Văn kinh thì giản ước (ít gọn), ý Phật thì sâu thẳm; trì tụng tuy nhiều, nghiên cứu rõ thì ít.

Sao: Kinh này không ngoài nghìn lời, đủ giải thích cái ý duy tâm Tịnh độ và bản tính Di Đà nên gọi là văn kinh ngắn gọn, ý Phật huyền vi. Huống nữa Phật Di Đà có nhân duyên đặc biệt với chúng sinh ở cõi Sa Bà. Vì vậy nghe pháp môn này ai cũng vui vẻ đón nhận, và kinh này ít lời dễ trì, hợp cơ dễ tin. Bởi thế dù Tăng hay tục, ai cũng đọc tụng thọ trì được. Văn thì rõ dễ xem nhưng lý sâu khó xét nên ít người nghiên cứu, đến nỗi ý Phật bị tối không rõ, thế nên các bậc tiền hiền giải thích thì phải rộng vậy.

Trình bày lý do lược giải.

Sớ: Các bậc tiền hiền trứ thuật, buồn kẻ mạt tục ít nghe.

Sao: Tiền hiền trứ thuật, như trình bày riêng sau bài tựa như các ngài Từ Ân, Cô Sơn… đều có trứ thuật. Hoặc lời văn nhiều rộng, hoặc nghĩa lý thâm sâu, không dễ cho kẻ sơ cơ, cho nên thời mạt tục ít nghe, thời phần “lược” đời nay lại phải dẫn ra.

Chính trình bày lược giải.

Bắt đầu bài tựa của ngài Khiêm Quang.

Sớ: Bắt chước lưu thông, lược kể viện dẫn.

Sao: Chữ “lưu thông”, lời sớ ở kinh Kim Quang Minh nói rằng: “Lưu gọi là rót xuống dưới; thông gọi là không ùn tắc. Muốn cho nước chính pháp từ nay được chảy, đương lúc Thánh giáo ban truyền, không bị lấp cho đời sau”. Ngài Đại sư Khiêm Quang nói: “Ý riêng bắt chước cách lưu thông đại pháp của người xưa, vì thế lược bầy viện dẫn các lời thành ngữ để làm lược giải. Nhưng ở trong đó dùng nghĩa mà không dùng từ, lược nghĩa mà không lược ý để thành lời nói một nhà, như đưa ra ngòi bút của một người, có thể gọi là người khéo về mặt trứ thuật.

Trình bày chí nguyện của mình.

Sớ: Nguyện với các đồng chí, rộng kết tịnh duyên, đều hợp với lý vô sinh, cùng lên ngôi bất thoái.

Sao: Hai câu đầu lấy lời giải riêng mà chung cho mọi người. “Dữ đồng chí‘: Là rộng kết cái duyên nước Phật thanh tịnh. Hai câu thứ thì lấy cái ý muốn của mình mà thi hành với chúng, cùng với những ai nghe hợp ý lên ngôi vô sinh bất thoái, chính là các chí nguyện của Bồ Tát lợi mình kiêm cho cả người khác, mở ra tấm lòng đại bi của Đại sĩ tế độ rộng vậy.

Bên lề bài tựa.

Sớ: Pháp sư Từ Ân đời Đường trước tác một quyến Di Đà Thông Tán. Đời Tống, các ngài Cô Sơn, Tịnh Giác, Linh Chi đều có sớ ký; ngài Tam Cù Luân Sư, cổ Nhai Tân Sư đều có tập chú. Nay muốn theo lược qua để tiện cho sơ cơ. Vì vậy nêu ra riêng ở đây là theo với chí của các Ngài.

Sao: Từ câu “Đường Từ Ân” trở xuống, trình bày chú giải của các bậc thời xưa. Từ chữ “kim dục tòng” trở xuống, trình bày chỗ chú của mình. Kinh này trì tụng đã rộng, chú sớ hẳn nhiều. Bây giờ viện dẫn ra thì thấy nghe được, tính đầu ngón tay có sáu vị mà thôi. Vì tôi gần đây thấy được có khoa chú của Pháp sư Nguyệt Khê; khoảng niên hiệu Hồng Vũ, có khoa thích của Pháp sư Phả Trí; gần đây có Sớ Sao của Pháp sư Liên Trì. Nếu mà theo ý ngắn gọn thì bản giải thích này là hơn cả. Mong rằng những vị xem rộng cũng cứ theo chí của mình.

Trang: 1 2 3