KINH DI ĐÀ LƯỢC GIẢI
VIÊN TRUNG SAO
(Quyển trên)
– Triều nhà Minh, đất Vĩnh Lạc, quận Ngô, Sa môn Đại Hựu giải
– Triều nhà Minh, niên hiện Thiên Khải, núi Thiên Thai, Sa môn Truyền Đăng sao

 

Nêu đề.

Kinh Đức Phật giảng thuyết về Đức Di Đà.

Chia khoa.
Nêu chung

Sớ: Giải thích đề Kinh này, nêu ra 5 lớp huyền nghĩa. Theo pháp sư Cô Sơn thì lấy quả nhân của hai cõi làm tên. Phương Đẳng thật tướng làm thể. Tín, Nguyện, Tịnh Nghiệp làm tông ; bỏ khổ được vui làm dụng; sinh tô Đại Thừa làm giáo tướng.

Sao: Năm lớp là Danh, Thể, Tông, Lực Dụng, Giáo Tướng. “Huyền” là sâu thẳm khó thấy; “Nghĩa”, sâu nhưng có căn cứ từ đâu vậy? Đây là Đại sư Thiên Thai Trí Giả được tâm Phật sâu, hiểu rộng ý kinh, chưa giải thích văn kinh thì trước dùng ý chỉ trong kinh sâu thẳm khó thấy nhưng có lý do, để giải thích đề kinh, khiến cho người ta đọc một lượt đề kinh thì biết nghĩa kinh. Vì danh là tên kinh vậy. Còn về chữ “Thể” là tên kinh giải thích tâm thể của chúng sinh. “Tông” là theo (thực hành). Toàn tính thể để khởi quán hành, toàn quán hành để về tông chỉ cốt yếu của tâm thể. Còn chữ “Lực dụng”, tông thể của kinh là đại dụng sinh thiện diệt ác. “Giáo tướng” là nói rõ năm thời thuyết pháp của Đức Phật nhằm hướng về đâu vậy. Ý khiến cho người học nhân tên rồi tìm đến thể, nhân tâm thể lập ra tông yếu, để đoạn nghi mà sinh tín, sinh thiện diệt ác; khéo biết được ý kinh là Đại, Tiểu, Thiên, Viên không lẫn lộn.

Giải thích tên.

Sớ: “Phật thuyết” là đức giáo chủ Thích Ca theo Bốn phép biện tài mà giảng thuyết vậy.

Sao: Chữ Phật là danh từ chung chỉ tên hiệu của bậc Thánh tuyệt đối. Nói về biệt hiệu là Đức Thích Ca giáo chủ ở thế giới Sa Bà. Nói đủ là Thích Ca Mâu Ni, Trung Quốc dịch là Năng Nhân Tịch Mặc. Năng Nhân là dụng, Tịch Mặc là thể tính của Ngài. Bây giờ trí tuệ ở về phần giảng thuyết, đó là nói dụng về giáo pháp nên chỉ nêu dụng không nêu thể nên gọi là Năng Nhân. Ý nói hay làm điều nhân để lợi ích cho ba cõi vậy. “Tứ biện”: 1. Nghĩa vô ngại biện: Ý nói biết tất cả nghĩa lý của các pháp, thông suốt không vướng đọng; 2. Pháp vô ngại biện: Ý nói thông suốt danh tự tất cả các pháp, phân biệt rõ ràng không vướng đọng; 3. Từ (lời) vô ngại biện: Ý nói đối với nghĩa lý tên chữ các pháp, tùy thuận tất cả chúng sinh mà dùng lời địa phương ấy để diễn thuyết, khiến cho họ đều hiểu được cả; 4. Nhạo thuyết vô ngại biện: Ý nói tùy thuận tất cả chúng sinh* căn tính họ thích nghe pháp nào thì Ngài thuyết cho, dung hòa không trở ngại. Phàm Phật thuyết pháp đều dùng 4 biện tài vô ngại này để diễn thuyết, cho nên gọi là “Phật thuyết”.

Giải thích chữ Phật.

Sớ: Tiếng Phạm là Phật Đà, Trung Quốc dịch là Giác Giả, một hiệu trong mười hiệu. Hiểu rõ thật tướng các pháp một cách rốt ráo nên gọi là Viên Mãn Giác.

Sao: Đề nêu từ “Phật” là nói tắt tiếng Phạm, nói đủ là Phật Đà, Trung Quốc phiên dịch là Giác Giả, thế là thuộc người. Nếu chỉ nói chữ Phật, Trung Quốc phiên dịch là Giác.

Đây là thuộc về Pháp. Hiệu chung có muời: 1. Như Lai; 2. Ứng Cúng; 3. Chính Biến Tri; 4. Minh Hành Túc; 5. Thiện Thệ; 6. Thế Gian Giải; 7. Vô Thượng Sĩ; 8. Điều Ngự Trượng Phu; 9. Thiên Nhân Sư; 10. Phật. Đầy đủ 10 đức hiệu như trên, xứng làm bậc tôn kính ở thế gian. Câu “hiểu rõ trọn vẹn v.v…”, đây là chí vào lục tức của tổ Thiên Thai, lời bình phán trong Phật, đây là câu thứ sáu Cứu kính tức giác. Lục tức gồm: 1. Lý tức giác; 2. Danh tự tức giác; 3. Quán hành tức giác; 4. Tương tự tức giác; 5. Phận chân tức giác; 6. Cứu kính tức giác. Vì có “Lục” nên Phàm Thánh không lạm nhau; có ”Tức” nên chẳng thể sinh thói tăng thượng mạn.

1. Lý tức giác: Thật tướng các pháp nhất tâm viên mãn cụ túc, mê mờ không làm giảm được, điên đảo mê hoặc không làm thiếu được. Cho nên ông Vô Cơ Tử có bài tụng rằng:

Động tĩnh lý đủ cả
Hành tàng việc đều trái
Lờ vờ theo vật đi
U mê không biết về.

Đó gọi là Lý tức giác.

2. Danh tự tức giác: Nhờ thiện tri thức, hoặc nhờ vào kinh điển mà được nghe danh hiệu Tam Bảo, biết về Tứ Đế, toàn thể tức là, tơ tóc không sai. Cho nên ông Vô Cơ Tử có bài tụng rằng:

Mới nghe nhạc vô sinh
Vừa nghe ca bất tử
Nay biết toàn thể đây
Mới hối mình ta đà.

Đây gọi là Danh tự tức giác.

3. Quán hành tức giác: cả lý Tam Đế khởi tu 3 phép quán, dẹp trọn năm trụ, vào ngôi ngũ phẩm. Cho nên ông Vô Cơ Tử có bài tụng rằng:

Luôn luôn soi lý thường
Tám tâm dập tắt vọng
Quán khắp tính các pháp
Không giả cũng không thật.

Đây gọi là Quán hành tức giác.

4. Tương tự tức giác: Tuy chưa thành đồ dùng, nhưng ghét rỉ thô bong trước, thấy được lý tương tự, tịnh được sáu căn. Nên ông Vô Cơ Tử có bài tụng rằng:

Tứ trụ tuy thoát trước
Sáu trần chưa hết không
Trong mắt còn có rờm
Thấy hoa đỏ hư không.

Đây gọi là Tương tự tức giác.

5. Phận chân tức giác: Phận phá vô minh, phận thấy Phật Tính, làm Phật trăm cõi, tám tướng thành đạo. Ông Vô Cơ Tử có tụng rằng:

Bừng tỉnh tâm hiểu biết
Bất chợt thông tất cả
Cùng nguồn còn chưa hết
Thường thấy trăng lờ mờ.

Đây gọi là Phận chân tức giác.

6. Cứu kính tức giác: Vô minh phá hết, ba đức tròn đầy, cùng nguồn tới đáy, gọi là Vô Thượng Sĩ. Nên ông Vô Cơ Tử có tụng rằng:

Trước kia chân là vọng
Ngày nay vọng đều chân
Trở lại tính bản lai
Không pháp gì mới cả.

Đây gọi là Cứu kính tức giác.

Giải thích chữ thuyết.
Giải thích lược qua.

Sớ: “Thuyết” là duyệt vậy. Đúng cơ mà thuyết, vui sướng tâm Phật.

Sao: Ngài Tứ Minh nói: “Duyệt là hả hê, hoài là tâm hoài”. Nếu bàn về kinh này thì Như Lai đã tu đã chứng từ lâu pháp niệm Phật tam muội chứa để trong lòng. Nay cơ hội đến mới nói ra, mới hả lòng ôm ấp từ lâu.

Giải thích ngắn dễ.

Sớ: Lại nữa, kinh thông cho năm bậc khác cùng nói; loại trừ Bồ Tát, Trời, Tiên, Hóa nhân, cho nên nói là “Phật thuyết”.

Sao: Năm hạng người đều có khả năng thuyết kinh, nếu đã được Phật ấn chứng đều có thể lưu truyền. Đây chẳng phải là bốn hạng người nêu trên, cho nên nói là “Phật thuyết”.

Giải thích chữ A Di Đà.

Sớ: A Di Đà, Trung Quốc dịch là Vô Lượng Thọ.

Sao: Ba chữ A Di Đà là tiếng Phạm, Trung Quốc dịch là Vô Lượng Thọ.

Giải thích chữ Vô Lượng Thọ.

Sớ: Kinh viết: “Thọ mệnh của Đức Phật kia và nhân dân ở nước ấy là Vô lượng vô biên A Tăng Kỳ kiếp”.

Sao: Câu “bỉ Phật thọ mệnh” là nêu vị chủ giáo hóa; “Cập kỳ nhân dân’’ là nêu chúng sinh cõi ấy. Cõi Tịnh Độ kia tuy có dân chúng mà không có vua, bởi vì nhân dân ở đó, ai cũng giữ mình làm thiện, không cần văn vũ cai trị nên không có vua; chỉ có Phật làm chủ giáo hóa, làm Pháp vương mà thôi. Phàm tuổi thọ của hóa chủ tuỳ theo với người dân nước ấy số thọ ngắn dài. Nhân dân nước kia thọ mệnh còn thế huống chi thọ mệnh của Đức Phật lại có chừng mực ư? Thế là nêu người dân thì rõ được vua, tức Phật thọ vô lượng.

Giải thích vế thắng so sánh.

Sớ: Vì ứng Thân đã vô lượng đến nỗi thiên nhân không biết con số, huống chi Pháp Thân và Báo Thân ư?

Sao: Pháp Thân, Báo Thân, ứng Thân, ba thân đều có thọ lượng. Thọ y vào mệnh mà lập, mệnh phải nhờ ở thân gìn giữ. Kinh đã nói thọ lại có thân mệnh, cho nên Quán Kinh Sớ của Đại sư Thiên Thai giải thích đề Vô Lượng Thọ nói rõ ba thân, ba mệnh, ba thọ rằng: “Pháp Thân làm thầy khuôn mẫu cho Pháp Tính, lại lấy Pháp Tính làm thân. Thân này không phải sắc chất, cũng không phải tâm trí, không phải ấm giới nhiếp trì, gượng chỉ Pháp Tính là Pháp Thân”. “Pháp Tính thọ”’. Chẳng phải do quả báo được mệnh căn, cũng không do sự duy trì liên tục, gượng chỉ bất thiên bất biến, gọi đấy là thọ. Thọ này không phải trường thọ, cũng không phải đoản thọ; Không dài không ngắn, gượng chỉ Pháp giới, đồng với lượng hư không. Đây tức là thân không phải thân, thọ cũng không phải thọ, lượng cũng không phải lượng. Báo Thân là tu hành cảm ứng được. Kinh Pháp Hoa dạy: “Nghiệp tu lâu nên được”. Kinh Niết Bàn viết: “Đại Niết Bàn vì tu đạo mà được”. Trí như như soi cảnh như như; trí tuệ Bồ Đề, tương ứng tương hợp với Pháp Tính. Tương ứng là hòm nắp hợp nhau; tương hợp là như nước sữa hòa vào nhau.

Pháp Thân phi thân, phi bất thân; trí đã hòa nhau thì cũng phi thân, phi bất thân, gượng gọi trí này là Báo Thân. Pháp Tính thân thọ không phải là thọ, không phải là không thọ; trí đã hòa nhau thì cũng phi thọ, phi bất thọ, gượng gọi cái phi thọ là thọ. Pháp lượng phi lượng, phi vô lượng. Trí đã ứng hợp thì cũng phi lượng, phi vô lượng, gượng gọi cái vô lượng là lượng vậy.

Ứng Thân là hợp cùng muôn vật là thọ vậy; ứng cùng sự duy trì liên tục là thọ vậy; ứng cùng dài ngắn là thọ vậy. Trí với thể hòa hợp thì khởi được đại dụng. Như thủy ngân hòa với vàng thật bôi được các sắc tượng, công đức hòa với Pháp Thân, đi ứng hiện khắp nơi nơi. Làm được thân phi thân, làm thường thọ được, làm vô thường thọ được; làm vô lượng được, làm hữu lượng được. Hữu lượng có hai nghĩa: 1. Lượng của vô lượng; 2. Lượng của hữu lượng. Như 700 A Tăng Kỳ kiếp và 80…, đó là lượng có lượng. Như A Di Đà Phật thật có kỳ hạn, nhưng nhân thiên không thể đếm được, đó là hữu lượng của vô lượng. Thân ứng hóa của Phật đều là hai lượng, theo sự vật tùy duyên so le dài ngắn. Nhưng ba thân ba thọ này không thể đều sai khác. Là một, là khác liền trái với pháp thể, ngay một mà ba, ngay ba mà một, mới hiểu nghĩa huyền văn. Nay văn lấy thọ mạng của Ứng Thân mà so sánh đế rõ Pháp Thân, Báo Thân. Vì cớ ấy nên kinh đề là vô lượng thọ.

Giải thích Vô Lượng Quang.

Biệt dịch.

Sớ: Cũng gọi là Vô Lượng Quang.

Dẫn kinh.

Sớ: Kinh chép rằng: “Đức Phật kia quang minh vô lượng soi khắp mười phương nước, không gì chướng ngại “.

Sao: Đây cũng là ánh sáng của ứng Thân Phật Vô Lượng Thọ. Dùng ánh sáng này mà so sánh với tuổi thọ, nên ứng Thân cũng có thể bàn tam thân. Đó là Pháp Thân phi thân, phi bất thân, thì ánh sáng của Pháp Thân chẳng phải sáng chẳng phải không sáng. Nay là ánh sáng của Ứng Thân còn vô lượng soi mười phương cõi nước, không gì chướng ngại. Huống chi ánh sáng của Pháp Thân, Báo Thân ư?

Giải thích thông hiệu biệt hiệu.

Sớ: Chữ Phật là hiệu chung. A Di Đà là hiệu riêng.

Sao: Chư Phật đều có hai hiệu chung và riêng. Nay đề kinh này, đối với Phật Thích Ca chỉ nêu hiệu chung, Đức A Di Đà chỉ nêu hiệu riêng.

Giải thích chỗ nghi.

Sớ: Thích Ca là giáo chủ ở phương này, đâu cũng biết cả cho nên nêu hiệu chung. Đức Di Đà là là đạo sư thế giới Cực Lạc, đúng lý phải nêu rõ, vì vậy làm rõ hiệu riêng.

Sao: Có người ngờ rằng: “Chư Phật đã có hai hiệu chung và riêng, đề kinh sao không nêu hiệu chung và hiệu riêng của cả hai đức Giáo chủ hai cõi?”. Đáp: “Phật Thích Ca thuyết kinh Phật A Di Đà. Vì vậy trong lời giải trả lời người nghi rằng: Thích Ca là giáo chủ phương này, chúng sinh ai cũng nghe biết, cho nên nêu hiệu chung nhưng đã gồm cả hiệu riêng. Di Đà là đạo sư ở cõi Cực Lạc, nếu không nêu hiệu riêng của Ngài thì tên không rõ, vì vậy làm rõ hiệu riêng song đã bao gồm cả hiệu chung trong đó. Vì vậy người phiên dịch bớt đi phần trùng lặp, giữ lấy phần lược, cũng là hợp lý.

Giải thích Thông đề.

Ước về pháp thường giải thích.

Sớ: Kinh là pháp là thường vậy. Mười cõi cùng noi theo, ba đời không thay đổi.

Sao: Giải thích về pháp thường, dựa vào Quán Kinh Sớ mà chuyển thích. Lại nữa, dựa vào Diệu Tông Sao, ý nói kinh nhà Nho giảng giải có hai ý này. Phép tắc của muôn đời gọi là huấn pháp vậy. Trăm vua không thay đổi, cho nên là nghĩa thường vậy. Kinh Phật cũng thế, mười cõi đều theo, ba đời không đổi vậy.

Nhìn lý do mà giải thích nghĩa.

Sớ: Do miệng vàng của Thánh nhân nói ra nên gọi là kinh.

Sao: Diệu Tông Sao nói: “Bởi miệng vàng của Phật đại Thánh thốt ra pháp tự chứng, cho nên gọi là kinh”.

Chỉ hai tên chung riêng.

Sớ: “Kinh” là tên chung, “Phật thuyết v.v…” là tên riêng.

Sao: Trong Diệu Tông dạy: “Tên chung là thuyết đốn, thuyết tiệm, thí quyền khai quyền”. Ngoài luật, luận ra đều gọi là kinh, cho nên gọi là chung. Tên riêng là tướng riêng có nhiều, nay theo ba loại là Nhân, Pháp, Thi, ba đơn, ba kép và một gồm cả ba chia thành bẩy khác. Ba đơn là: Đơn nhân, như A Di Đà Kinh v.v…; đơn pháp, như Đại Bát Niết Bàn Kinh v.v…; đơn Thí, như kinh Phạm Võng v.v…. Ba Kép là: Nhân – Pháp, như Văn Thù Vấn Bát Nhã Kinh v.v…; Pháp – Thí, như Diệu Pháp Liên Hoa v.v…; Nhân – Thí, như kinh Như Lai Sư Tử Hống. Đầy đủ cả Nhân, Pháp, Thí là Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Đại Phương Tiện Phương Quảng kinh v.v…. Lấy bẩy cái riêng nhau này và một cái chung, hợp lại thành một đời thuyết pháp của Phật.

Nói rõ riêng, chung có năm.

Thông luận nhất hóa.

Sớ: Kinh có ba loại là Giáo, Hành, Lý. Y vào giáo tu hành, theo tu hành mà làm rõ lý.

Sao: Trong Diệu Tông Sao viết rằng: Bây giờ giải thích đề, ước về chung riêng mà bàn. Bởi hai tên ấy, mỗi thứ đều đủ Giáo, Lý, Hành vậy. Nếu không có ba ý này mà chỉ bàn suông thông biệt, thì không căn cứ vào đâu. Tại sao? Bởi vì y vào giáo lý mà sau tu hành, theo tu hành mà sau rõ lý”.

Chỉ riêng vào đề bây giờ.

Sớ: “Phật” nghĩa là giác, ước về tu hành mà nói nên thuộc vào “Hành”; “thuyết” tức là “Giáo”; “A Di Đà” là “Lý”.

Sao: Nay đề chữ “Phật”, phán thuộc về Hành là bởi Phật nghĩa là giác; có tự giác, giác tha, giác hành viên mãn. Nói về phía tu thành nên thuộc về hành. Chữ “thuyết” thuộc “Giáo” là rất rõ ràng. “A Di Đà” phán thuộc về “Lý”, bởi vì là bản tính Di Đà, chính đương hành giả xưng niệm tu hành nên được thấy, cho nên phán thuộc về Lý.

Phê phán về chung riêng.

Sớ: Các sách khác thì không giống nhau, ba kinh đều riêng, đối với chữ kinh thì ba kinh đều là chung,

Sao: Các sách không cùng nhau thì chẳng những năm chữ thành riêng tức là giáo hành lý ba kinh đều riêng. Đối với chữ kinh thì chẳng những một chữ thành thông thì Giáo, Hành, Lý ba kinh đều chung vậy.

Kết thành tạng bí mật.

Sớ: Lý tức là Pháp Thân, Hành là Bát Nhã, Giáo là Giải thoát. Ba viên dung làm một, không nghĩ bàn được, gọi là tạng bí mật.

Sao: Phàm là đề kinh đều ước về thông biệt mà giải thích, chính muốn làm rõ mỗi mỗi đều đủ cả ba kinh; đủ ba kinh là chính muốn làm sáng tỏ tạng bí mật vậy. Như một đề ba chữ A Di Đà là bản tính Pháp Thân của hành giả, là ta vậy. Một chữ Phật là trí tuệ Bát nhã toàn tính khởi tu vậy. Một chữ thuyết là đức Giải thoát, là trí tuệ với Pháp Thân chứng được. Lại nữa, lý là toàn khổ, đạo là Pháp Thân, là chính nhân Phật Tính vậy. Hành là toàn hoặc, đạo là Bát Nhã, là liễu nhân Phật Tính vậy. Giáo tức là nghiệp, đạo tức là giải thoát, là duyên nhân Phật Tính vậy. Ba đức như thế, như chữ y ba chấm của thế gian, cũng như ba mắt của ông Thiên Vương, không ngang không dọc, không chung cũng không riêng, đó là tạng bí mật bất khả tư nghì. Đề kinh nghĩa lý mầu nhiệm như thế, người giảng người nghe sao bỏ qua?

Kết thành công đức.

Sớ: Cho nên nghe tên chữ đầu đề được rất nhiêu công đức.

Sao: Như kinh Kim Quang Minh và các kinh Đại Thừa, phần nhiều giải thích chuyện này.

Nêu ra tên kinh nàỵ.

Sớ: Tên kinh này vốn là kinh ngợi khen công đức không thể nghĩ bàn, được tất cảchư Phật hộ niệm.

Bàn vế các bản dịch khác nhau.

Nêu chung.

Sớ: Truyền đến nước Trung Hoa có hai bản dịch.

Nêu riêng nói rõ.

Bản dịch đời Đường.

Sớ: Đời Đường dịch là kinh “Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thụ”.

Đời Tần dịch.

Cùng với đời Đường bàn ra ý khác nhau.

Sớ: Bản đời Tần lược đề của kinh, ở sau sáu phương Phật thì nói rằng: “Nhữ đẳng chúng sinh đương tín thị xưng tán…”.

Sao: Đời Đường dịch vẫn để đầu đề ấy, nhưng đến bản đời Tần không giữ bởi vì ẩn lược ở sau sáu phương Phật.

Khen bản đời Tần dịch hay và khéo.

Sớ: Bởi vì kinh này chính chỉ dạy về phương pháp trì danh; huống chi Thánh hiệu Di Đà, chúng sinh đều thích nghe. Dùng cái lối lập đề này, phần nhiều người tin và chấp nhận. Vì vậy được bốn bể cùng theo, lưu thông mãi mãi. Đó là cái hay khéo của người dịch vậy.

Sao: Phàm lập ra tên cốt sinh ra cái hay của sự vật. Cái hay ở đây có hai loại: 1. Kinh này chính chỉ dạy về phương pháp trì danh; 2. Thánh hiệu Di Đà, chúng sinh đều thích nghe. Cho nên dùng cách lập đề này, nhiều người tin nhận. Bởi thế bản dịch đời Đường cứ để giấu kín trong Đại tạng, không được thấy nghe. Bản dịch đời Tần bốn bể cùng theo, lưu thông mãi mãi. Người dịch đã khéo dụng công, nên tin theo là có căn cứ.

Bàn đến bản thể của kinh.

Nêu chung.

Sớ: Nói về thể của kinh.

Sao: Bàn về thể thì như trước ở phần trình bày chung nói rằng: “Phương Đẳng thật tướng làm thể”. Phương Đẳng thật tướng lại có hai nghĩa:

1. Kinh này nói vào thời Phương Đẳng thứ ba, Phương Đẳng thứ tư cũng đều bàn đến. Kinh này thuộc về Viên Giáo thật tướng. Kinh này không phải là thật tướng của ba thời nói kinh Hoa Nghiêm, Bát Nhã, Pháp Hoa, cho nên gọi là Phương Đẳng.

2. Thật tướng của Viên Giáo thì cửa nào cũng vào được ao thanh lương nên gọi là “Phương”; chúng sinh và Phật đều bình đẳng không hai nên gọi là “Đẳng”. Quán Kinh Sớ dạy: “Thể là chủ chất”. Diệu Tông Sao dạy rằng: “Danh là khách, thể là chủ”. Danh là giả danh, thể là thực chất, tất cả dưới chữ danh đều có chất cả. Ở dây bây giờ bàn về dưới cái tên giả có cái chất thật.

Giải thích.

Dẫn luận để làm rõ thể chất.

Sớ: Luận Trí Độ dạy: “Cức kinh Đại Thừa dùng chung một thể Thật tướng làm chính thể của kinh”.

Sao: Diệu Tông Sao dạy: “Cức pháp không sinh không diệt, chẳng có chẳng không, không năng không sở, lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự, lìa tướng tám duyên. Xa lìa những tướng ấy nên gọi là thật tướng”. Nếu đem những nghĩa kia hiểu về với kinh này thời đoạn trước “bẩy lớp lan thuẩn” trở đi đến câu “nghe giọng này đều sinh tâm niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng”, thế là nói rõ duy tâm Tịnh độ. Tựa nói rằng: “Rừng quỳnh ao ngọc, rõ thẳng ở nguồn tâm”, là thế. Đến đoạn giữa: “Bỉ Phật hà cố hiệu A Di Đà” đến câu “đãn khả dĩ vô lượng vô biên A Tăng Kỳ thuyết” là nói rõ bản tính Di Đà. Bài tựa nói rằng: “Thọ lượng quang minh, toàn chương ư tự tính”, là thế. Câu “rừng quỳnh ao ngọc” là nói rõ Y báo, gồm cả bốn loại Tịnh độ. Câu “thọ lượng quang minh…” là nói rõ Chính báo, trong đó gồm được cả những người từ Phật, Bồ Tát trong chín phẩm vãng sinh. Thế thì chính là như trong kinh Pháp Hoa có câu: “Duy Phật dữ Phật nãi năng tri pháp thật tướng”. Câu này tổ Thiên Thai đã giải thích tính cụ ba nghìn đều đủ thể thật tướng.

Kết thành lý do nói đến.

Sớ: Là lý được bàn ra vậy.

Nói về Tông.

Bắt đầu nêu ra.

Sớ: Ba là Minh Tông.

Dẫn kinh để làm chứng cho thành tựu.

Sớ: Kinh nói: “Nếu có ai tin thì phải phát nguyện sinh về cõi Tịnh độ “.

Sao: Trong phần tổng biệt trước nói rằng: “Tông là Tín, Nguyện, Tịnh nghiệp”, cho nên ở đây dẫn kinh để chứng minh được thành tông. “Nếu có ai tin” là tín môn; “ưng đương phát nguyện” là nguyện môn. Nếu muốn chứng thành được hành môn tịnh nghiệp thì phải dẫn đủ văn dưới: “bẩy ngày trì danh, nhất tâm bất loạn“, cầu sinh Tịnh độ, đó là ba cửa thiết yếu. Tín là tin có Tịnh độ duy tâm, bản tính Di Đà, nhờ nguyện lực của Phật thì đều được vãng sinh. Phần này ngang với phép quán thứ nhất: Quán bất tư nghì cảnh trong Thập thừa. Tuy có lòng tin nhưng nếu không có sức nguyện thì không được vãng sinh. Bởi vì Đức Di Đà đã lấy sức nguyện để thu nhiếp chúng sinh thì ta phải thệ nguyện mà cầu đi, mới được thiên tính quan hệ với nhau, tự nhiên cho vui cứu khổ, cũng như đá nam châm tự nhiên hút lấy. Phần này ngang với phần thứ hai: Chân chính phát Bồ Đề tâm trong thập thừa đã bình phán vãng sinh. Trong tứ hoằng thệ, tương đương với “Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”, bao gồm cả ba hoằng thệ trước. Tuy rằng có nguyện, nhưng nếu không có thực hành thì cái nguyện ấy là điên cuồng. Cho nên phải 7 ngày trì danh, đạt đến nhất tâm bất loạn. Thập thừa vãng thu thì ở đây ngang với điểm thứ ba: Thiện xảo an tâm chỉ quán vậy. Bẩy ngày trì danh là quán, nhất tâm bất loạn là chí; đương lúc trì danh mà nhất tâm, mới nhất tâm mà trì danh. Như vậy, chỉ và quán cả hai phần cùng chiếu soi, cũng lại cùng vắng lặng. An tâm khéo lắm mới được thành tựu. Lược nêu ba pháp của thượng căn, ngoài ra còn bản thừa nữa đều nêu ở trong này.

Kết thành tông yếu.

Sớ: Là tông chỉ thiết yếu của cả bộ kinh.

Bàn đến dụng.

Sớ: Bốn là Luận Dụng.

Nêu ra dẫn kinh chứng minh thành dụng.

Sớ: Kinh chép: “Liền dược vãng sinh cõi nước Cực Lạc. Đối với đạo Vô Thượng Bồ Đề đều bất thoái chuyển”.

Sao: Hai câu đầu là chỉ cho bẩy ngày trì danh, câu “nhất tâm bất loạn”, là văn sau câu ấy; rồi đến hai câu sau, tức là ở phần đầu kinh nói thế này: “Chúng sinh sinh giả, giai thị A Bệ Bạt Chí”. Trong phần tổng liệt trước có nói rằng: “Bỏ khổ được vui là dụng”, tức trong kinh dạy rằng: “liền được vãng sinh v.v…”. Nếu lấy những câu sau này bổ sung cho những câu trước, thì nói như thế này: “Chúng sinh mà được sinh về Tịnh độ đều là những người ở cõi Sa Bà niệm Phật, đối với đạo Bồ Đề được bất thoái”. Lấy hai câu văn này kết hợp mà chứng minh là lực dụng vậy.

Kết thành lực dụng.

Sớ: Bỏ được cái khổ sinh tử, được cái vui giải thoát là sức tác dụng của kinh này.

Sao: Các pháp môn khác đều khiến chúng sinh thoát ly ba cõi theo chiều dọc, bỏ được cái khổ sinh tử, được cái vui giải thoát. Như nhà gác chín tầng, từ thấp lên cao, có sức khỏe hơn thì tiến, mỏi cẳng thì rơi xuống, lên được rất khó. Chỉ có pháp môn Tịnh độ khiến chúng sinh tắt ngang ba cõi, xa rời khổ sống chết, được cái vui giải thoát. Gang tấc đến nhà, từ bên đông sang bên tây, ngước mắt là trông thấy được, gẩy móng tay là đến ngay, việc đi rất dễ. Tác dụng của kinh này như vậy, há không lớn ư?

Bình phán vế Giáo Tướng.

Nêu chung.

Sớ: Giáo là lời của Thánh nhân lợi ích cho kẻ dưới; tướng là để phân biệt sự khác nhau hay giống nhau. Năm thời thuyết giáo của Đức Phật, thích hợp thời cơ mà tiến; đại tiểu, tiệm đốn đều có chia cả. Tổ Thiên Thai ước năm thời mà phân biệt đều có lý do. Cho nên phàm giải thích kinh đều phải dùng phán giáo.

Giải thích vế tướng.

Sớ: Bộ thì thuộc Đại Thừa, giáo thì nhiếp thu về thời Phương Đẳng. Nói rõ về nghĩa Hai tạng thì thuộc về tạng Bồ Tát. Chia về tiệm đốn thì thuộc về Đốn giáo.

Sao: Phán về Giáo Tướng này có ba thuyết. Câu “Bộ thì thuộc Đại Thừa, giáo thì nhiếp thu về thời Phương Đẳng”. Thứ nhất, ước về thời gian mà phán, về phần tổng liệt trước đã nói rằng: “Giáo tướng thuộc về Đại Thừa sinh tố”. Sinh tô là thời Phương Đẳng vậy. Đại sư Thiên Thai dùng năm thời của Niết Bàn đặt ra lần lượt để phán giáo pháp một đời của Phật. Trước tiên là mới vắt sữa trâu, ví dụ Phật mới thành đạo 21 ngày nói kinh Hoa Nghiêm; rồi đến sữa chua (vị lạc), ví như mười hai bộ lại nêu ra chín bộ kinh là trong mười hai năm thuyết 4 bộ kinh A Hàm của Tiểu Thừa. Rồi từ vị lạc thành ra sinh tố, thế là ví với từ A Hàm chuyển ra Phương Đẳng, trong tám năm thuyết kinh Duy Ma, Đại Tập, Lăng Nghiêm, Lăng Già, Thập Lục Quán và kinh này…. Chê trách thiên không Tiểu Thừa mà khen đại giáo Viên Giáo. Những vị Thanh Văn thấy được sự thiếu sót đó rồi xấu hổ bó Tiểu Thừa mà mến mộ Đại Thừa, ra vào không khó. Như thiên không Tiểu Thừa ra ngoài ba cõi, không có thân mà cũng không có độ. Nay thì đặc biệt bảo Xá.

Lợi Phật rằng: Di Đà có cõi, Bồ Tát có thân. Chúng sinh sinh về đấy đều không thoái chuyển là việc thế đấy. Rồi từ sinh tô hóa ra thục tô, ví như từ Phương Đẳng mà xuất sinh Bát Nhã, hai mươi hai năm nói các kinh Đại Phẩm Bát Nhã. Lấy nước tuệ pháp không rửa sạch tình chấp của Nhị Thừa, khiến Tu Bồ Đề v.v… chuyển giáo Bát Nhã, cho pháp tài dung thông. Rồi từ thục tô ra đề hồ, từ Bát Nhã ra Pháp Hoa, Niết Bàn, ba thừa chín cõi, hợp cả quyền thừa trao ký, không kể Tiểu, Đại đều cho được thành Phật. Nay là thời sinh tô thứ ba nên nói là thuộc về bộ giáo Đại Thừa Phương Đẳng. “Nói rõ về nghĩa Hai tạng thì thuộc về tạng Bồ Tát”: Thứ hai, ước về tạng mà phán quyết vậy. Bởi vì Phật thuyết kinh có tạng Thanh Văn, tức là vì các vị Nhị Thừa mà thuyết giảng, rành về lý chỉ đến chân đế, rành về hoặc chỉ phá Kiến – Tư; về mặt trí chỉ tu được không quán, rõ được quả về không thân không độ. Kinh này đã nêu rõ ngoài cõi Sa Bà còn có cõi Tịnh độ, về mặt quả báo thì có thân, có cõi quốc độ. Há không phải là lấy lý mà cảm trí quả, đều thu về Bồ Tát tạng. “Chia về tiệm đốn thì thuộc về đốn giáo”’. Thứ ba, ước về giáo mà phán quyết vậy. Giáo về hóa nghi có tiệm có đốn. Tiệm thì trải nhiều kiếp tu hành mới tiến lên bất thoái; đốn thì ngay trong đời đó là thành công, ngôi thì đến bất thoái. Cho nên kết thành rằng: Để cho phàm phu đối với đạo Bồ Đề cũng bất thoái, nhưng khiến cho một đời vãng sinh ngay lên ngôi bất thoái, thì nhất định là pháp – môn Viên Đốn. Vậy thì cần phải trước tiên cho hiểu Viên Giáo rồi tu đến viên hạnh, phá được ba hoặc mới chứng được viên quả, bởi vì đã tiến lên ngôi bất thoái. Bây giờ chỉ nói Y – Chính hai báo của nước kia, lấy đó để khai cho biết, để khai niềm tin. Bảy ngày trì danh, nhất tâm bất loạn, lấy đó xây dựng môn tu hành, khi lâm chung được vãng sinh ngay, bởi vì đã tiến lên bất thoái. Nếu không phải tự Đức Thích Ca phương tiện thiện quyền, nguyện lực của Đức Di Đà và túc căn của hành giả, ba điều kiện này hiện tiền. Nhất tâm bất loạn, ba hoặc đã dẹp trọn vẹn, nghiệp căn nhanh chậm, mà đi chậm thì làm sao khắc phục được như thế. Vì vậy biết kinh này là vị đề hồ cao nhất trong đời ngũ trược ác thế. Kinh Niết Bàn dạy: “Để chất độc vào trong vị tô, ăn chết người ngay”, há không tin ư?

Về Người dịch.

Nêu tên khoa.

Đời Diêu Tần, ngài Tam tạng Pháp sư cưu Ma La Thập, vâng chiếu vua phiên dịch.

Giải nghĩa.

Nói rõ nơi Ngài sinh.

Sớ: “Cưu Ma La Thập”, Trung Quốc dịch là Đồng Thọ, người nước Khâu Từ vậy.

Nói rõ người phiên dịch.

Sớ: Họ Diêu nhà Hậu Tần ở đất Trường An tôn Ngài là Quốc sư, khoảng niên hiệu Hoằng Thủy dịch các kinh luận.

Sao: Diêu Tần mà không phải vong Tần, tiên Tần hay phục Tần, nay là nhà Hậu Tần, họ Diêu vậy. Vì niên hiệu Hoằng Thủy năm thứ ba mới vào Trường An. Vua nhà Tần sắc bọn ngài Tăng Lược cùng tám trăm sa môn nhận ý chỉ của ngài La Thập, ở chùa Thảo Đường dịch kinh luận, gồm 98 bộ, cộng là 421 quyển. Ngài Tăng Duệ, Tăng Triệu, Đạo Thường… chép lời dịch.

Chứng minh công đức của Ngài.

Sớ: Trong truyện cảm Thông của ngài Nam Sơn nói: “Thầy dịch kinh từ thời bảy Đức Phật đến nay”.

Sao: Đời quá khứ bảy Đức Phật đều giáng sinh ở Thiên Trúc, nước Ca Duy La Vệ. Sau khi các Ngài diệt độ, hoặc thời chính pháp hay thời tượng pháp, bao nhiêu kinh sách ở Tây Thiên đều truyền cả về Chấn Đán, được dịch từ chữ Phạm thành chữ Trung Quốc. Thầy dịch kinh thì đời nào cũng có. Chỉ có ngài La Thập từ thời thất Phật tới nay thường là bậc thầy dịch kinh ở cõi Chấn Đán ta. Đây là Luật sư Nam Sơn hỏi người trời là họ Phí nói thế. Lại có chỗ nói ngài La Thập đã chứng lên ngôi Tam Hiền, không phải là người xoàng vậy.

Văn dịch kinh chia làm hai.

Phần thứ nhất: Phán khoa chung riêng.

Phần thứ hai: Y vào khoa để giải thích.

Naỵ trước hết lại chia làm hai. Thứ nhất: Tổng khoa có ba phần; thứ hai: Kinh văn chia làm ba. Từ đầu cho đến câu “đại chúng câu là phần Tựa (trình bày quang cảnh). Từ câu “Nhĩ thời Phật cáo” đến câu”lục phương” là phần Chính Tông (giải thích phần kinh). Từ “nhữ đẳng giai đương tín thụ ngã ngữ cho đến hết là phần Lưu Thông.

Sao: Từ đời Hán Minh Đế đến nay, kinh đều truyền đến cõi Chấn Đán. Các vị hoằng pháp, theo văn giảng giải, không có phán khoa. Đến pháp sư Đạo An nhà Tấn mới phán kinh đại tiểu đều có ba phần gọi là Tự Phận, Chính Tông, Lưu Thông. Rồi về sau bộ luận của ngài Thân Quang ở Tây Thiên đến, với nghĩa ba phận này giống nhau. Lại, những người xuất gia ở Trung Quốc từ nhà Hán đến lúc đó đều theo họ của Thầy, như loại ngài Tam Tri. Sau đó đến pháp sư Đạo An đã bỏ họ thế tục để theo Thích Ca, nên hợp tất cả đều theo họ Thích. Sau kinh Tăng Nhất A Hàm đến, Thế Tôn quả quyết rằng muôn dòng về biển cùng một vị mặn, bốn họ xuất gia cùng một họ Thích. Cho nên đời sau khen ngài Pháp sư Đạo An rằng: “Chia kinh thì hợp với luận Thân Quang; họ Thích đã hợp Tăng Nhất A Hàm”.

Làm rõ hai phần tựa.

Sớ: Các kinh đều có hai phần tựa là thông và biệt. Kinh này chỉ có thông tựa: “Chứng tín” mà không có biệt tựa “Phát khởi”. Trong mười hai bộ kinh là trong bộ “Không hỏi mà nói”.

Sao: Hai chữ “thông”, “biệt”: “Thông” là cùng vậy; “Như thị..;” sáu việc, ở các kinh đều giống nhau. “Biệt” là khác; cái duyên phát khởi của các kinh đều không giống nhau, vì vậy kinh này chỉ có Thông tựa thôi chứ không có Biệt tựa, là không ai hỏi Phật tự nói. Bởi vì pháp môn Tịnh độ, nếu lợi ích cho cơ Bồ Tát thì đúng là phải có đối tượng; phải nhờ có người hỏi, Phật mới nói, như loại kinh Thập Lục Quán. Nhưng một kinh này là đối với cơ thượng thừa và cơ phàm phu. Để khiến cho biết thân độ là mầu nhiệm thì sinh về đấy mới có thể đạt được, vốn không phải là cảnh giới của Tiểu Thừa và phàm phu, há hỏi được ư? Cho nên không ai hỏi mà Phật tự nói, hợp với chân tính mà giảng giải thì cần gì phải hỏi.

Giải thích Thông tựa.

Năm câu chứng tín.

Sao:Chứng tín’’’-. Phật sắp diệt độ, ngài A Nan hỏi: “Tất cả đầu các kinh thì phải đặt lời gì?” Phật đáp: ”Nên để những chữ như thị ngã văn. Không phải chỉ có tôi như thế mà ba đời chư Phật, đầu kinh cũng đều thế”.

Giải thích kinh.

Nêu chính văn.

Như thị ngã văn, nhất thời Phật, tại Xá Vệ quỗc, Kỳ Thụ cấp Cô Độc viên.

Giải thích nghĩa.

Chỉ vào pháp thể.

Sớ: “Như thị” là chỉ vào pháp thể được nghe. Cái lý thật tướng từ cổ chí kim không khác gọi là “như”. Nói mà như lý gọi là “thị”.

Sao: “Như thị” là lời chỉ vào pháp. Từ “sở chí” là cái lý thật tướng được nghe của pháp thể. Cái lý như thế thì đời xưa đời nay không thay đổi, gọi là “như”, là thể Chân Như bất động, suốt muôn đời thường mới, trải nghìn kiếp nhưng không đổi thay. Đức Như Lai xứng hợp với lý này mà thuyết pháp nên không có pháp nào không phải là chân lý, nên gọi là “như thị”.

Giải thích để rõ người nghe.

Sớ:Ngã”: Là ngài A Nan, khi kết tập Pháp Tạng, Ngài tự nói pháp môn như vậy tôi nghe từ Phật.

Sao: Luận Phật Địa viết: “Đó là khi kết tập, mọi người đều cùng thỉnh rằng như chỗ ông nghe, nên đúng như thế mà thuyết. Bồ Tát truyền pháp liền hứa khả rằng tôi sẽ nói lại đúng như điều tôi đã nghe”.

Giải thích chỗ cơ cảm.

Sớ:Nhất thời” là cái lúc cơ cảm hòa hợp.

Không nói năm tháng ngày là do hai cõi chính sóc không giống nhau vậy.

Sao: Cơ là ngài A Nan với 1200 vị gồm những chúng Bồ Tát nữa. Chữ “ứng” là Đức Thích Ca Như Lai giáo chủ là vị năng thuyết. Cơ mà không có ứng thì bất thành; ứng không có cơ thì cũng không đạt. Đe với búa hợp nhau mới thành pháp khí; cơ và ứng hợp một thì mới nói kinh này. Hai quốc độ chính sóc không giống nhau là thế này: Như cõi này bốn mùa, bên kia có ba mùa, ở Đông Hạ hợp với ngày sóc là đầu tháng, Phương Tây tới ngày rằm mới là đầu tháng. Hai phương đã thế thì biết đến bốn góc. Đã khó chuẩn định nên gọi là “nhất thời”.

Giải thích tên gọi của chủ giáo hóa.

Sớ: Phật là “giác”, là hiểu biết. Tự giác thì khác với phàm phu bất giác, giác tha thì khác với Độc Giác của Nhị Thừa; Giác đầy đủ khác với Bồ Tát còn ở nhân. Cao nhất trong các Thánh nên gọi là Phật. Đó tức là đức giáo chủ Thích Ca.

Sao: Phạm ngữ “Phật Đà”, Trung Quốc dịch là “giác giả” là bậc hiểu rõ tính tướng thực hư, là bản giác rốt ráo, thủy giác cũng rốt ráo. “Tự giác khác với phàm phu bất giác”’. Phàm phu suốt ngày mù mịt theo với hư vọng mà trôi dạt, còn Như Lai dung hòa cả tịch và chiếu, hoàn nguyên phản bản. “Giác tha khác với Độc Giác của Nhị Thừa”: Nhị Thừa thì hiểu rõ sinh tử, như con hươu con nhảy một mình. Phật thì tự Ngài đã lên bờ giác, chở bè từ độ người. “Giác ngộ một cách viên mãn, khác với Bồ Tát còn ở nhân tu” là Bồ Tát tuy tu ba giác nhưng ba nhân chưa viên mãn; Như Lai thì ba giác rốt ráo, ba đức viên mãn rõ ràng, là bậc Thánh cao tột trong các bậc Thánh Nhị Thừa và Bồ Tát, cho nên gọi là Phật. Vì thông theo riêng, tức là Phật Thích Ca Mâu Ni giáo chủ thế giới Sa Bà vậy.

Giải thích trụ xứ.

Giải thích nước Xá Vệ.

Sớ:Xá Vệ”, gọi cho đúng là Thất La Phiệl Tất Để, Trung Quốc gọi là Văn Vật, ý nói người và của cải giàu thịnh, đồn xa các nước.

Sao: “Giàu người giàu của” là nước này đầy đủ của cải châu báu mà người đời ham muốn, là nơi sinh sống của hàng đa văn giải thoát.

Giải thích về Cấp Cô Độc, Kỳ Thụ Viên.

Nêu tên và đức của hai người.

Thái tử Kỳ Đà.

Sớ: Phạm ngữ “Kỳ Đà” Trung Quốc dịch là “Chiến Thắng”, là tên của Thái tử con vua Ba Tư Nặc.

Sao: Vua Ba Tư Nặc khi mới sinh Thái tử, nhân đánh nhau với nước ngoài thắng trận, nên mới lập cái tên tốt đẹp.

Thứ hai là Tu Đạt.

Sớ: “Tu Đạt”, Trung Quốc gọi là Thiện Thí, là tên của ông Trưởng giả hay huệ thí cho người bần cùng trong nước, gọi là Cấp Cô Độc.

Nói rõ tên cả hai người.

Sớ: Rải vàng vườn ông Kỳ Đà, dựng nghiêng nén vàng mua vườn ông Kỳ Đà, dựng tinh xá thỉnh Phật thuyết pháp. Ông Kỳ Đà góp cây nên xưng tên của cả hai.

Sao: Trưởng giả Tu Đạt đi hỏi vợ cho con, đến thành Vương Xá được yết kiến Phật, thỉnh Phật cúng dàng. Phật sai ngài Xá Lợi cùng đi thăm đất, chỉ có vườn ông Thái tử Kỳ Đà là sầm uất, có thể dựng được tinh xá. Ông Kỳ Đà mới nói đùa: “Cứ vàng đúc thành gạch lát nghiêng mặt đất và tiền vàng treo đầy nơi rừng cây thì tôi sẽ bán cho”. Thế là ông Tu Đạt vui vẻ sai lấy xe chở vàng đến, lát sắp đầy. Ông Kỳ Đà thấy ông Cấp Cô tinh thành lòng thực, liền nói rằng: “Đất thì thuộc về ông, rừng thì thuộc về tôi, chúng ta cùng cúng Phật có được không?” Từ đây trở đi, phàm ở chỗ đó thuyết kinh, khi nêu nơi chốn đều nêu quý đức của cả hai vị ấy.

Kể chúng cùng nghe.

Nêu chính văn.

Cùng với Đại Tỷ Khiêu Tăng 1250 vị, đểu là bậc Đại A La Hán, đại chúng đều hay biết.

Giải thích nói rõ về loại.

Sớ: “Tỷ Khiêu”, Trung Quốc dịch là “Khất sỹ”, xin ăn nuôi thân, xin pháp để luyện tâm. Lại dịch là “Phố ma, Phá ác”. Chữ “Tăng”, nói đủ là Tăng Già, Trung Quốc dịch là hòa hợp chúng.

Sao: “Tỷ Khiêu” là Phạm ngữ, chứa ba nghĩa. 1. Khất sỹ: Bề ngoài xin Đàn Việt cơm ăn để nuôi sắc thân, xa lìa bốn cách tà mệnh. Trong thì xin giáo pháp của Đức Phật để luyện tâm tính, thường theo Bát Chính, là nhân của quả “ứng cúng”; 2. Phá ác: Là có khả năng phá 98 loại phiền não ác nhân, phá được quả ác trong đường sinh tử 25 cõi, là nhân của quả “Sát tặc”; Phố ma: Phát tâm xuất gia, Ma vương sợ các người xuất cảnh, tinh tiến tu hành, Ba Tuần sợ các thầy ly dục, là nhân của quả “Vô sinh”. “Chúng hòa hợp”‘. Phàm là Tăng phải đủ sáu nghĩa hòa: 1. Giới hòa cùng tu; 2. Kiến hòa đồng giải; 3. Lợi hòa đồng quân; 4. Thân hòa cùng ở; 5. Miệng hòa không cãi nhau; 6. Ý hòa cùng vui. Đủ sáu hòa này mới được gọi là Tăng.

Giải thích về số.

Sớ: Ba ngài Ca Diếp có 1000 đệ tử, ngài Mục Liên cùng với ngài Xá Lợi cộng lại 250 vị. Những người này quy Phật trước nhất, là chúng thường theo vậy.

Sao: Tam Ca Diếp; 1. Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, 2. Già Da Ca Diếp, 3. Na Đề Ca Diếp. Nếu bắt đầu độ năm ông Kiều Trần Như, hợp lại 1255 vị. Ở kinh nêu ra đại số, thế nên bớt đi. Được ăn cam lộ không ai trước các vị này, cho nên là chúng thường theo vậy.

Giải thích rõ từng ngôi.

Sớ: A La Hán gồm có ba nghĩa: 1. ứng cúng, là quả vị của Khất sỹ, phúc điền cho cõi người cõi trời vậy; 2. Sát tặc, đây là quả vị của Phá ác, đoạn trừ hết phiền não vậy; 3. Vô sinh, là quả vị của Phố ma, không nhận thân sau nữa.

Sao: “Tỷ Khiêu” là tên gọi của nhân; “A La Hán” là tên gọi của quả. Hai cái tên nhân quả, tên nào cũng đối với chủ; như bóng theo hình không chút sai lệch nên gọi là Tỷ Khiêu. Có nhân Khất sỹ thì được quả La Hán phúc điền ứng cúng; có cái nhân Phá ác mới có cái quả Sát tặc – đoạn tuyệt hết phiền não; có nhân Phố ma mới được cái quả vô sinh, không nhận thân sau.

Giải thích ngợi khen về công đức.

Sớ: Nghe tên kính đức gọi là biết, thấy hình kính thờ gọi là thức.

Sao: Nếu chỉ nghe tên mà chưa thấy hình thì biết mà chưa quen; chỉ có thấy hình mà không nghe tên thì quen mà chưa biết. Nay đã nghe tên và thấy hình, hẳn kính đức mà kính thờ. Tôn giả A Nan với các Ngài đây cùng nghe, không phải chỉ thấy đức bằng cùng hàng, cũng đã rõ pháp được nghe là thật. Lấy đây làm chứng tín, thực tin được vậy.

Liệt danh giải thích tên kinh.

Nêu chính văn.

Trưởng lão xá Lợi Phất, ngài Đại Mục Kiền Liên, ngài Đại Ca Diếp, ngài Đại Ca Chiên Diên, ngài Đại Câu Hy La, ngài Ly Bà Đa, ngài Chu Lợi Bàn Đà Già, ngài Nan Đà, ngài A Nan Đà, ngài La Hầu La, ngài Kiều Phạm Ba Đề, ngài Tân Đầu Lư Phả La Đọa, ngài Ca Lưu Đà Di, ngài Ma Ha Kiếp Tân Na, ngài Bạc Câu La, ngài A Nâu Lâu Đà.

Giải thích về nghĩa.

Giải thích chữ trưởng lão.

Sớ: Nhiều tuổi, đức lớn gọi chung là trưởng lão.

Sao: Các vị Thánh Tăng này có tuổi cao hẳn có đức lớn; vị có đức lớn chưa nhất định là tuổi cao. Vì vậy chữ trưởng lão là tiếng gọi chung của những vị tuổi cao và đức lớn vậy.

Giải thích tên, có 16 vị.

  1. Ngài Xá Lợi Phất.

Sớ: Xá Lợi Phất, Trung Quốc gọi là Thân Tử. Thân mẹ Ngài hình dáng đoan chính, mắt như chim câu. Kiêm cả tên mẹ nên gọi là Thu Tử, trí tuệ đệ nhất.

  1. Ngài Mục Kiền Liên.

Sớ: Mục Kiền Liên, Trung Quốc gọi là Đại Thái Thúc, họ của Ngài đông, nên lấy chữ Đại để phân biệt, thần thông đệ nhất.

  1. Đại Ca Diếp.

Sớ: Ma Ha Ca Diếp, Trung Quốc gọi là Đại Quy Thị, cụ tổ của Ngài thấy một con rùa thiêng, cõng tranh tiên mà ra, lấy đó đặt thành tên tộc. Còn gọi là Ẩm Quang, tức thân sáng đó, soi ra che các ánh sáng khác. Thời Đức Phật Tỳ Bà Thi, Ngài làm thợ kim hoàn, có cô bần nữ lấy vàng ngọc, cùng sửa tượng tháp, từ bấy giờ đến nay thân sáng sắc vàng.

  1. Đại Ca Chiên Diên.

Sớ: Đại Ca Chiên Diên, Trung Quốc gọi là Văn Sức, luận nghị đệ nhất.

  1. Ma Ha Câu Hy La.

Sớ: Ma Ha Câu Hy La, Trung Quốc gọi là Đại Tất, theo hình dáng mà đặt tên, là cậu ngài Xá Lợi Phất.

  1. Ly Bà Đa.

Sớ: Ly Bà Đa, Trung Quốc gọi là Tinh Tú. Bố mẹ cầu đảo sao mà sinh ra Ngài, nhân đó đặt tên.

  1. Chu Lỵ Bàn Đà Già.

Sớ: Chu Lỵ Bàn Đà Già, Trung Quốc gọi là Kế Đạo. Mẹ Ngài về thăm gia đình, đẻ Ngài ớ bên đường, cho nên thiên tư tối dốt. Ngài chỉ tụng nửa bài kệ mà chứng được quả La Hán.

  1. Nan Đà.

Sớ: Nan Đà, Trung Quốc gọi là Thiện Hoan Hỷ, là em ruột của Phật.

  1. A Nan Đà.

Sớ: A Nan Đà, Trung Quốc gọi là Khánh Hỷ, con vua Bạch Phạn, là em họ Phật. Sinh ra vào ngày Phật thành đạo, cả nước vui mừng, nhân thế lập tên hay, là bậc đa văn đệ nhất.

  1. La Hầu La.

Sớ: La Hầu La, Trung Quốc gọi là Phú Chướng, vốn là tên của Tu La, có khả năng che được mặt trời mặt trăng. Phật cũng bị chướng vì điều này nên không xuất gia ngay được, bởi vậy lấy đó đặt làm tên.

  1. Kiều Phạm Ba Đề.

Sớ: Kiều Phạm Ba Đề, Trung Quốc gọi là Ngưu Tư, đời trước làm trâu, ăn rồi nhai lại, cho nên nhận cái tên này.

  1. Tân Đầu Lư Phả La Đọa.

Sớ: Tân Đầu Lư, Trung Quốc dịch là Bất Động, là tên; Phả La Đọa, Trung Quốc dịch là Lợi Căn, là họ vậy. Dịch riêng là Tân Độ La Bạt La Đọa Xà.

  1. Ca Lưu Đà Di.

Sớ: Ca Lưu Đà Di, Trung Quốc dịch là Hắc Quang, hình Ngài đen lắm, đen tóe ra ánh sáng.

  1. Kiếp Tân Na.

Sớ: Ma Ha Kiếp Tân Na, Trung Quốc dịch là Phòng Tú, cầu đảo sao Phòng mà sinh được Ngài.

  1. Bạc Câu La.

Sớ: Bạc Câu La, Trung Quốc gọi là Thiện Dung, hình dáng đoan chính. Ngày xưa cúng Tăng một quả Ha Lê Lặc, cảm năm báo bất tử.

  1. A Nâu Lâu Đà.

Sớ: A Nâu Lâu Đà, Trung Quốc gọi là Vô Bần. Ngày xưa vào thời đói đem cơm cúng Phật Bích Chi, 91 kiếp được quả báo đầy đủ, thiên nhãn đệ nhất.

Sao: Các kinh giải thích về các Ngài đều có tán thán đức độ, như kinh Pháp Hoa, Lăng Nghiêm. Chỉ có kinh này là không nhưng không phải là không giải thích. Bởi vì rằng người dịch khéo léo để cho người ta nghe tên mà nghĩ nghĩa. Như ngài Đại Trí Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên… thì đức gì mà không rõ. Nhưng các kinh khen về đức độ thì phải theo duyên khởi. Như ngài A Nan, vì duyên tà nhiễm cho nên phát khởi kinh Lăng Nghiêm, mà người biên tập kinh tán thán đức độ, đặc biệt nêu rằng Phật tử thụ trì khéo vượt các cõi…. Những chúng cùng được liệt danh đã có đức ấy, chính là rõ thiên cơ, tuy thác duyên tà nhiễm nhưng thực khôn có cái lỗi ấy. Còn các đệ tử khác ở kinh này cũng không cần phải bàn đến. Ngay như ngài Đại Trí Xá Lợi Phất, được nêu đầu tiên. Tiếp theo là Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Ca Chiên Diên, ba vị này há không có ý ấy ư? Bởi vì pháp môn Cực Lạc không có thật trí của Bồ Tát thì không thể tin nổi; không có đại thần thông của Bồ Tát thì không thể đi được; không phá được ba hoặc thì không thể thanh tịnh được; không có tứ vô ngại biện thì không thể bình luận được. Kinh này giảng ở thời Phương Đẳng, ý là khiến cho Thanh Vãn hồi tiểu trí thành đại trí, hồi tiểu thông thành đại thông, hồi tiểu đầu đà thành đại đầu đà, hồi tiểu nghị luận để thành đại nghị luận. Tịnh độ là quyền mà lại là thật, thật mà lại là quyền, thế là có thể soi rõ thật tướng, tín thụ phụng hành. Ngay gần mà xa, ngay xa mà gần, thế thì có thể lấy không chóng mà nhanh, gẩy móng tay là đến. Tâm tịnh độ tịnh thì uế mà tịnh, thế thì sinh tức là vô sinh,

sinh hóa cả hai đều hợp nhau. Diệu Hữu tức Chân Không, Chân Không tức Diệu Hữu, thế thì dùng diệu dụng biện tài phân tích không chướng ngại. Đến như các vị đại đệ tử khác, mỗi Ngài đều có một đức, đúng về chủng loại mà thán đức, ngay công việc đó mà hồi hướng, ở pháp môn này thành ích Phương Đẳng, hiểu rõ vô sinh mà sinh, cảm sinh ra thế giới ngoài; đạt lý không thân mà có thân, nhận thân biến dịch. Theo chiều dọc mà ra khỏi ba cõi, thực đã không thể nghĩ bàn; còn có tắt ngang ra ba cõi, lại càng không thể nghĩ bàn được.

Giải thích kinh.

Nêu chính văn.

Những bậc đại đệ tử như thế.

Giải nghĩa.

Sớ: Vì học sau thầy cho nên gọi là đệ, hiểu từ thầy mà phát sinh nên gọi là tử. Đây là tổng kết cả văn trước vậy.

Sao: Đệ là tỏ khiêm nhượng đối với thầy. Sư là tỏ nhờ đệ tử tôn kính. Vì vậy Phu Tử nói rằng: “Tôi xem Nhan Hồi như em, Nhan Hồi xem tôi như cha”.

Chúng Bồ Tát.

Giải thích nghĩa.

Sớ:Bồ Đề Tát Đỏa” là tiếng Phạm, Trung Quốc dịch là Giác Hữu Tình. Cũng chứng chỗ Phật chứng gọi là giác; chưa hết vô minh gọi là hữu tình. “Ma Ha Tát“, Trung Quốc dịch là chúng sinh có đạo tâm lớn.

Sao: Hai chữ “Bô Tát” là nói lược của tiếng Phạm. Nếu nói đủ phải là Ma Ha Bồ Đề Chất Đế Tát Đỏa. “Ma Ha” phiên là “Đại”, “Bồ Đề” phiên là “Đạo”. “Chất Đế” phiên là “Tâm”, “Tát Đỏa” phiên là “Chúng Sinh”, còn phiên là “Hữu Tình” nữa. Hợp lại là “Đại Đạo Tâm Chúng Sinh”. Đại đạo tâm thì dưới khác với tâm chúng sinh, hữu tình thì trên khác với chư Phật. Bởi vì đã xa rời bờ bên này nhưng còn ở giữa dòng. Các Bồ Tát này còn có chữ đại, vì vậy dùng chữ Ma Ha Tát cho khác.

Kể tên các Ngài.

Nêu chính văn.

Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, Bồ Tát A Dật Đa, Bồ Tát Càn Đà Ha Đề, Bồ Tát Thường Tinh Tiến, với các bậc Đại Bồ Tát như thế.

Giải thích ngài Văn Thù.

Sớ: Văn Thù Sư Lợi, Trung Quốc phiên là Diệu Đức. Có ba đức vi diệu vì chứng nhập như Phật. Còn gọi là Bồ Tát Diệu Cát Tường. Chính vào ngôi pháp nên gọi là Pháp Vương Tử.

Sao:Ba đức vi diệu chứng nhập như Phật”: ở Viên Giáo, bắt đầu từ ngôi Sơ Trụ, cuối cùng đến ngôi Đẳng Giác, phá được phần nào vô minh lại chứng lên ba diệu đức như Phật. Nếu ước về Bồ Tát Văn Thù thì sự tích của Ngài có khác. Nguyên nhân gốc của Ngài, như kinh Bi Hoa viết:

Đối trước Phật Bảo Tạng phát thệ nguyện lớn, nhờ Phật thụ ký, tự là Văn Thù. Lại khi đối với Phật Đăng Minh làm thầy cho 8 vị vương tử, là tổ. chín đời của Phật Thích Ca. Trước kia rất gần với chư Phật, bây giờ thì phụ tá Phật Thích Ca. Nếu bàn về quả vị gốc của Ngài thì đời hiện tại, Ngài đã thành Phật tại thế giới Hoan Hỷ ở phương bắc, hiệu là Hoan Hỷ Tạng Ma Ni Bảo Tích. Đời vị lai ở phương nam, thế giới Hư Cấu, thành Phật hiệu là Phả Hiện Như Lai. Bản tích như thế, cùng chứng nhập như Phật thì quả vị bằng nhau. Còn gọi là Diệu Cát Tường. Đối với ba món hoặc, nghiệp, khổ ba phần còn một chút đều chưa tốt. Phật ngôi cứu kính giác, ba đức viên mãn rõ ràng, vì vậy lại gọi là Diệu Cát Tường. Phật phá 25 cõi được vua tam muội, vào ngôi chính của đạo pháp, gọi là Pháp Vương Phá Hữu. Ngài Văn Thù gần với ngôi Đẳng Giác, là con trưởng của Phật nên gọi là Pháp Vương Tử.

Giải thích A Dật Đa

Sớ: A Dật Đa, Trung Quốc gọi là Vô Thắng vì siêu xuất khỏi thiên không Tiểu Thừa, là tên của ngài Từ Thị vậy (Bồ Tát Di Lặc).

Sao: Tiếng Phạm gọi là A Dật Đa, phiên dịch là Vô Năng Thắng, đó là tên; còn gọi là Di Lặc, phiên là Từ Thị, đó là họ. Kinh Tư Ích viết: “Nếu chúng sinh thấy Ngài thì lập tức được từ tâm tam muội”. Hợp lại mà nói thì vị Bồ Tát này, địa vị đã chứng vào rất gần ngôi tột bậc, từ tâm với vật loại, để nhận tên họ vậy.

Giải thích Càn Đà Ha Đề.

Sớ: Càn Đà Ha Đề, Trung Quốc dịch là Bất Hưu Tức, vì Ngài siêng tu không lười biếng.

Sao: Kinh Tư Ích viết: “Hằng hà sa kiếp là một ngày đêm, 30 ngày như thế này là một tháng, 12 tháng là một năm. Hơn trăm nghìn vạn ức kiếp mới được gặp một vị Phật. Được gặp Phật như số cát sông Hằng như thế, tu mọi Phạm hạnh, tu tập những việc công đức, sau rồi Phật mới thụ ký cho. Tâm không ngơi nghỉ nên gọi là Càn Đà Ha Đề.

Giải thích Thường Tinh Tiến.

Sớ: Thường Tinh Tiến là Pháp Tính thường trụ nên thành được vô tác chính cần.

Sao: Kinh Bảo Tích viết: “Bồ Tát này vì tất cả chúng sinh, qua vô lượng kiếp theo luôn không bỏ, những chúng sinh đó còn không nhận giáo hóa, nhưng Ngài vẫn không một niệm xa rời. Vì thân tâm đều tiến lên, gọi là Thường Tinh Tiến. Chỉ vì thấy Pháp Tính thường trụ, thành chính cần vô tác; tuy tinh tiến nhưng không có tướng tinh tiến vậy.

Giải thích tổng kết.

Sớ: Chữ “Đại Bồ Tát”, khác hẳn Thiên Tiểu.

Sao: Ngài Linh Chi dạy rằng: “Bồ Tát là tên chung cho cả trước sau. Bồ Tát như thế đều là ngôi sâu bổ xứ, hoặc bóng vang quyền hiện nên gọi là đại vậy”. Các kinh nêu chúng Bồ Tát cũng có tán thán đức tốt, thông lệ như kinh Pháp Hoa, chỉ có kinh này là không, nhưng cũng không phải là không. Cũng khiến cho ai đọc kinh này nghe danh rồi nghĩ nghĩa, ngưỡng đức mà theo làm vậy. Tại sao? Như ngài Văn Thù là Diệu Đức, Cát Tường; A Dật Đa thì lấy chữ Vô Năng Thắng, Từ Thị; Càn Đà Ha Đề thì lấy tự cường bất tức, siêng tu không lười; Thường Tinh Tiến thì vì giác ngộ các pháp thường trụ, thành vô tác chính cần thì đức nào mà chả đủ. Nhà dịch kinh chỉ liệt kê bốn vị này, ý muốn ai tu hành Tịnh độ, trước lấy ba đức nhiệm mầu là tam đế ở tâm làm ba phép gốc căn bản của năng quán; thế là trước quán cảnh bất tư nghì, là vậy. Tiếp đó lấy lòng từ bi vô duyên của Vô Năng Thắng mà chân chính phát Bồ Đề tâm để nêu tiêu biểu cho người đời nay cầu sinh Cực Lạc. Một là hóa độ sinh, học pháp môn đoạn phiền não thành Phật đạo để làm chí ban đầu. Sau đó thêm vào lấy toàn tính khởi tu, tự cường không nghỉ, siêng tu không lười biếng, hiểu rõ Pháp Tính thường trụ, thành chính cần vô tác. Ngõ hầu xả hết được uế, lấy hết nguồn thanh tịnh, đóng chặt cửa Sa Bà, mở thông đường Cực Lạc thì đạo phẩm tự nhiên điều hòa đối trị, giúp mở con đường đạo pháp. Chín phẩm được lên, không ở vào nghi thành, không sinh pháp ái, nên được đài vàng, được dự vào hàng các vị Đại Bồ Tát như thế. Cái ý trong kinh là ở đây vậy.

Chúng nhân thiên.

Nêu chính văn.

Cùng với Thích Đề Hoàn Nhân và cả rất nhiều đại chúng chư Thiên đều cùng dự hội.

Giải thích nghĩa.

Giải thích Thích Đế Hoàn Nhân.

Sớ: “Thích Đề Hoàn Nhân”, Trung Quốc dịch là Năng Thiên Đế, chúa cõi trời Đao Lợi.

Sao: Tiếng Phạm nói đủ là Thích Đề Hoàn Nhân Đà La, Trung Quốc dịch là Năng Tác Thiên Đế, là chúa cõi trời Đao Lợi. Đao Lợi, Trung Quốc phiên là Tam Thập Tam. Đỉnh núi Tu Di, bốn mặt tổng cộng có 8 thành, mỗi một thành có bốn ông trời. Thiên Đế ở trong thành Thiện Kiến, hợp lại thành 33, nhân quả trang nghiêm. Đủ như trong bài tụng luận Câu Xá.

Giải thích chữ vô lượng chư thiên.

Sớ: “Vô lượng chư thiên”: Là các vị Phạm Thiên Vương, Hộ Thế Tứ Vương trong các cõi Dục Giới và Sắc Giới.

Sao: Cõi dục có 6 tầng trời. Ở đất có 2 tầng, tức Tứ Thiên Vương ở dưới cùng và tầng trời thứ hai là trời Đao Lợi. Ở trên không có 4 tầng, tức Dạ Ma, Đâu Suất, Hoá Lạc, Tha Hoá. Bốn cõi thiền Sắc giới: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, mỗi một cõi thiền đó có 3 cõi trời; Tứ thiền có 9 cõi. Mỗi khi Phật thuyết kinh ở đâu thì đều đến tập hợp. Chỉ có cõi trời Vô sắc, đã không có sắc chất gì nên không nói là đến.

Giải thích về đại chúng.

Sớ: Gồm cả bốn chúng, tám bộ, nên gọi là “đại chúng câu”.

Sao: Tứ chúng là: Tỷ Khiêu, Tỷ Khiêu Ni, Ưu Bà Tắc,Ưu Bà Di. Tám bộ: Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩu Na La, Ma Hầu La Già. Những bộ kia là nhân và phi nhân.

Giải thích phần Chính Tông.

Nêu chính văn.

Bấy giờ Phật bảo trưởng lão Xá Lợi Phất: Từ đây hướng về phương tây, qua 10 vạn ức cõi Phật, có một thế giới tên là Cực Lạc.

Giải thích chữ “Nhĩ thời”.

Sớ: “Nhĩ thời” là thời điểm sắp thuyết kinh vậy.

Sao: “Nhĩ thời” tức như phần Thông tự trước đã nói, là thời điểm mà (cả) cơ và ứng hợp vào làm một. Chỉ vào thời điểm hợp làm một ấy nên sắp thuyết kinh.

Giải thích đương cơ.

Sớ: Vì ngài Thân Tử có căn linh lợi cho nên đặc biệt bảo đến, không đợi xin hỏi.

Sao: Ngài Tịnh Giác dạy rằng: “Không bảo Bồ Tát, Thiên Long mà bảo ngài Xá Lợi Phất, phải có tất cả bốn ý: 1. Là cánh tay phải của Phật, khi kết tập pháp Đại, Tiểu thừa, Ngài đều đứng đầu; 2. Bởi Ngài trí tuệ đệ nhất, 4 chúng, 8 bộ ai cũng kính trọng; 3. Khiến tứ chúng nghe Tịnh độ của Phật cho mình là không có dự phần; 4. Lại muốn cho những vị chưa chứng, hồi tâm hướng lên Đại Thừa. Phàm khi Phật thuyết pháp phải được lợi ích cả Tứ Tất Đàn. Nay trong 12 bộ kinh Phật thuyết, thì kinh này là kinh Vô vấn tự thuyết. Bởi vì pháp môn Tịnh độ không phải cảnh giới của Tiểu Thừa; lại muốn khiến họ hồi tiểu hướng đại vậy. Kinh này không có Kỳ Dạ, Già Đà, Nhân Duyên, Thí Dụ, Ưu Bà Đề Xá. Nhưng Trường Hàng, Phương Quảng, Thụ Ký, Vị Tằng Hữu đều hiện có cả. Còn về Bản Sinh, Bản Sự, lấy sự vắn tắt mà mong phát huy phần rộng; đối với kinh Đại Bản Di Đà cũng có đủ.

Số lượng cõi nước.

Sớ: Môt đại thiên thế giới là 1 cõi Phật. Luận Thập Nghi viết: “Phương tây cách đây 10 vạn ức cõi là đối với kẻ phàm phu mắt thịt, dùng tâm lượng sinh diệt của họ mà nói; chỉ cần khiến cho chúng sinh thành tựu được tịnh nghiệp, khi chết tâm được định, là cái tâm sinh về Tịnh độ, khởi niệm liền sinh về Tịnh độ thì Tịnh độ thực không xa vậy.

Sao: Trong lời giải, trước tiên dựa vào kinh mà nói rõ là xa, rồi ước về lý thì nói rõ là không xa. “Một đại thiên thế giới gọi là 1 cõi Phật”: Trăm ức mặt trời mặt trăng, trăm ức núi Tu Di, trăm ức tứ đại hải, trăm ức núi thiết vi gọi là một cõi Phật. Ở trong luận Câu Xá có bài tụng:

Nhật nguyệt bốn châu lớn,
Tu Di, Lục dục thiên,
Phạm thế đều một nghìn,
Gọi một tiểu thiên thế.

1000 tiểu thiên thế giới này gọi là một trung thiên thế giới; 1000 trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới. Đại thiên thế giới này đều cùng một kiếp thành và hoại. Cứ thế mà xét thì thế giới Cực Lạc cách cõi này rất xa. Tiếp theo dẫn đến luận Thập Nghi của tổ Thiên Thai nói rõ là không xa. Bởi vì đối với kẻ phàm phu, bởi đời trước do vô minh phiền não mê hoặc, tạo nghiệp báo lành dữ, nên cảm quả khổ ngũ ấm của đời nay. Kẻ phàm phu mắt thịt, xa thì không thấy được, chỉ vì không thấy nên thành xa. Bởi vì kẻ phàm phu có tâm lượng sinh tử nên không biết được xa, cũng vì không biết nên thành xa. Điều đó cũng không có gì là lạ cả. Nếu là người niệm Phật đạt đến nhất tâm bất loạn, thời dẹp được mê hoặc; thành tựu được tịnh nghiệp, thì nghiệp đạo thanh tịnh. Khi lâm chung, dấu ấn của Sa Bà hoại thì đường khổ thoát. Đương lúc bấy giờ, nhục nhãn hóa làm thiên nhãn, biến tâm phàm ra tâm Thánh, vì vậy định tâm lúc lâm chung là tâm thụ sinh về Tịnh độ. Ngay khi động niệm là sinh về Tịnh độ. Nói chữ “động niệm” là lúc sắp chết được thấy Tam Bảo và thấy được ánh sáng, thấy được hoa v.v…. Thấy được một trong các điều đó thì gọi là động niệm, cái niệm ấy không phải là vọng niệm. Tuy ở cõi này mà đã thấy sinh ở hoa báu trong ao sen, cho nên nói rằng thật không xa vậy. Lại nữa, kinh Ban Chu nói rõ chúng sinh có ba lực nên thấy được Đức Di Đà. Một là sức chính định: Ở trong luận đã nói. Hai là sức Phật: Kinh 48 nguyện viết: “Ví tôi thành Phật, chúng sinh mười phương dốc lòng tin ưa, muốn sinh về nước tôi, từ một đến 10 niệm, nếu không được sinh thì tôi không thành Chính Giác”. Ba là sức công đức gốc của mình: Điểm này có hai nghĩa: 1. Chúng sinh từ vô thủy đến nay, từng đã có chủng tử niệm Phật cầu sinh Tịnh độ, nhưng lúc đó chưa sinh, nay hạt giống ấy đã chín thì được vãng sinh; 2. Tâm tính của chúng sinh vốn đủ quốc độ như bụi. Tuy xa 10 vạn ức nhưng đều là tính đủ, tức là tính thể, tính lượng, như một hạt ngọc trong lưới đế võng chứa được bóng mọi hạt ngọc. Như một ngọn sóng của biển cả đủ cả toàn thể nước các con sóng, không những là lẫn đủ mà cũng là chính nó. Vì vậy ngài Tứ Minh nói: Nếu tâm tính không đủ cõi nước như trần sa, thì chúng sinh không có cái năng lực cảm thấy, Phật cũng không có cái lý ứng hiện vậy.

Giải thích nước Cực Lạc.

Sớ: Tiếng Phạm Tu Ma Đề, Trung Quốc gọi là An Dưỡng, hoặc gọi Thanh Thái, lại gọi là Cực Lạc, cũng nói là Tối Thắng.

Sao: “An Dưỡng” là đối với Sa Bà, tám khổ đốt cháy, không phải là an. “Thanh Thái” là đối với Sa Bà đời ngũ trượt ác thế, chứ không phải là Thái. “Cực Lạc”, đối với cõi Sa Bà phải chịu cực khổ nên không phải là lạc.

Nêu ra bốn cõi.

Nêu chung

Sớ: Tất cả cõi nước được cảm ứng theo căn cơ, có 4 loại.

Giải thích cõi Tịch Quang.

Sớ: Một là cõi Thường Tịch Quang, là nơi rốt ráo cực quả của chư Phật.

Sao: Quán Kinh dạy: “Thường Tịch Quang: Thường là Pháp Thân, Tịch là Giải Thoát, Quang là Bát Nhã. Là chữ y 3 chấm không dọc, không ngang, gọi là bí mật tạng”. Sách Diệu Tông Sao viết: Ba cõi kia (Phàm Thánh Đồng Cư, Phương Tiện…) thuộc sự, cho nên từ nơi người đoạn được nhân quả mà lập cái cõi nước vậy. Cõi này thuộc về lý cho nên theo bản thể 3 đức làm tên. Nói riêng trong “Sao”, đã có cái tên Thượng phẩm Tịch Quang, thì biết rằng cõi nước kia (Tịch Quang) cũng chia 9 bậc. Chỉ có phẩm Thượng thượng là chỗ ở cực quả, còn 8 phẩm đều là phận chứng của bậc viên Thánh ở, gọi là Phận Chứng Tịch Quang. Sớ viết rằng: “Phận chứng cứu kính Tịch Quang tịnh uể” là vậy.

Cõi Thật Báo.

Sớ: Hai là cõi Thật Báo, là nơi Pháp Thân của bậc Đại Sĩ ở.

Sao: Quán Kinh Sớ viết: “Cõi Thật Báo Vô Chướng Ngại thuần có Bồ Tát, không có Nhị Thừa”. Kinh Nhân Vương viết: “Cái nghĩa Tam Hiền, Thập Thánh trụ quả báo”, tức là nghĩa ấy. Thích Luận viết: “Ngũ dục thắng diệu của Bồ Tát khiến cho ngài Ca Diếp đứng dậy múa”. Kinh Hoa Nghiêm viết: “Vô lượng hương vân đài” tức nói tịnh diệu ngũ trần của cõi Tịnh độ kia”. Nên nói chư Phật cũng có báo độ chứ không hẳn định là nơi ở của Bồ Tát. Cũng có thể căn cứ vào đó chia ra 9 phẩm: Thượng thượng là nơi Phật ở; còn 8 phẩm, tùy các Bồ Tát phá được vô minh nhiều hay ít mà là hơn kém vậy. Phần Sớ viết rằng: “Đốn nhập lần lượt, thế là tịnh uế Thật Báo”, là thế.

Cõi Phương Tiện.

Sớ: Thứ ba là cõi Phương Tiện, là chỗ ở của người Tam Thừa.

Sao: Quán Kinh Sớ viết: “Cõi Phương Tiện Hữu Dư là tu phương tiện đạo, đoạn tứ trụ hoặc, cho nên gọi là Phương Tiện. Vô minh chưa hết cho nên gọi là Hữu Dư. Thích Luận viết: “Ra ngoài tam giới có Tịnh độ, ngôi Thanh Văn, Phật Bích Chi xuất sinh vào nơi đó, nhận thân Pháp Tính, không phải phận đoạn sinh”. Kinh Pháp Hoa viết: “Sau khi ta diệt độ, người thật được quả A La Hán, nếu chưa tin pháp này, nếu gặp Đức Phật khác thì sẽ giải quyết xong”. Trong này còn có lợi độn, chỉ lên là tịnh, chỉ xuống là uế. Đã nói rằng trong này đều có lợi độn, tịnh uế, như vậy chuẩn theo đó mà xét thì cũng chia 9 bậc. Viên Giáo phương tiện đạo ở 3 phẩm thượng; Biệt Giáo, Thông Giáo, phương tiện đạo ở 3 phẩm giữa, về Tạng Giáo, phương tiện đạo ở 3 phẩm dưới. Sớ nói rằng về thể, về tích, về khéo, về vụng, có tịnh uế nữa vậy.

Cõi Đồng Cư.

Nêu danh.

Sớ: Bốn cõi Đồng Cư là nơi ở của 6 phàm.

Sao: Quán Kinh Sớ viết: “Sa Bà tạp ác, chông gai gạch sỏi đầy dẫy bất tịnh, là cõi uế đồng cư. Nước ao 8 đức, hàng cây 7 thứ báu, thứ đến Niết Bàn đều là chính định tụ, thượng phẩm Tịnh độ Phàm Thánh cùng ở.

Giải thích nghĩa.

Sớ: Vì 5 trược nặng nhẹ mà phân tịnh uế. Sa Bà thì ngũ trược nặng cho nên gồm cả 4 ác thú, luân hồi không thôi. Cõi An Dưỡng thì 5 trược nhẹ nên chỉ có cõi người, cõi trời, đều được bất thoái nên gọi là Cực Lạc.

Sao: Từ “ngũ trược” trở xuống là nêu cõi Sa Bà. Ở dưới giải thích một chữ “vãng”. Chúng sinh ở Sa Bà vì nhân ngũ trược nặng nên gọi là cõi Đồng Cư uế, thế cho nên cảm báo gồm cả 4 ác thú. Đó là bởi trong phiền não trược, 5 Độn sử còn mạnh, mà lôi sinh vào 4 thú. Cõi nhân, cõi thiên đã do giới thiện, cho nên phiền não hơi nhẹ: “5 dục ở cõi An Dưỡng nhẹ”: Do ở cõi Sa Bà chuyên tu tịnh nghiệp, 5 trược được nhẹ cho nên được vãng sinh Cực Lac, nhận quả báo ở cõi người, cõi trời. Phương chi đến nước kia rồi, cảnh trần nhẹ mà trong nên không sinh phiền não. Cho nên tuy là cõi nhân, cõi thiên nhưng đều được bất thoái nên gọi là Cực Lạc. Lại nói về chữ “vãng”. Cõi nước Cực Lạc cũng chia tịnh uế, như Quán Kinh 9 phẩm, ba loại ở Đại Bản Di Đà. Phẩm vị đã chia cao thấp thì chỗ thấy cũng không giống nhau. Cho nên Diệu Tông Sao viết: “Vì ngũ trược nhẹ là Đồng Cư tịnh. Tịnh này rất thông, phải biết rằng có ý riêng. Như người tu giới thiện, ngôi phàm của tứ giáo đều khiến được ngũ trược mỏng nhẹ cả, cảm được Đồng Cư tịnh mà ở viên quán thì phần trược cũng nhẹ, mà cảm ứng về cõi Đồng Cư tịnh thì kể cả Y báo, Chính báo cũng rất tịnh. Như trong kinh nói: “Từ phép địa quán trở đi, mỗi 1 tướng trạng sánh với kinh khác tu hành chúng thiện, cảm về cõi An Dưỡng, tướng đó khác hẳn”.

Sớ: Nói về chỗ tận lý thì chỉ có cứu kính Tịch Quang mới là Cực Lạc chân thật.

Sao: “Nói về chỗ tận lý…”: Đây ước về tứ độ cũng dần dần chuyển khác. Thế thời phần chứng Tịnh Quang cũng như cõi khổ của uế độ, chỉ có người đã đắc quả rốt ráo thì cõi ở của họ mới được gọi là chân thật Cực Lạc. Cho nên bài tựa ở đoạn trước nói về chân nguyên bất nhị rằng: “Tịch quang chân tịnh, tuyệt không có khổ vui khác nhau” nghĩa là thế đó.

Nhắc lại Chính báo trang nghiêm.

Nêu chính văn.

Cõi ấy có Phật hiệu là A Di Đà, hiện nay đang thuyết Pháp.

Giải thích tam thân.

Nêu chung.

Sớ: Phật có 3 thân.

Giải thích riêng.

Giải thích Pháp Thân.

Sớ: 1. Thân Pháp Tính ở cõi Tịch Quang, thân độ không hai, gọi là tạng bí mật.

Sao: Quán Kinh Sớ viết: “Pháp thân là thầy khuôn mẫu cho Pháp Tính, lại lấy Pháp Tính làm thân. Thân này không phải là sắc chất cũng không phải tâm trí; cũng không phải là ấm, giới, nhập thu giữ được, gượng chỉ Pháp Tính là Pháp thân vậy. Diệu Tông Sao viết: “Sư quỹ giải thích về pháp thì xả thông tòng biệt. Thông thời chúng sinh và Phật đều lấy Pháp Tính làm khuôn mẫu. Song còn 9 cõi kia, tuy có khuôn mẫu nhưng trái. Như người dựa vào thầy nhưng không thuận theo lời thầy dạy. Duy chỉ có chư Phật, từ mới phát tâm, theo khuôn phép mà tu hành, đến nay được rốt ráo ngầm hợp với Pháp Tính. Cho nên trong Đại Kinh viết: “Thầy của chư Phật là pháp vậy”. Bởi vì pháp là thường hằng. Chư Phật cũng thường hằng. Vì thuận theo Pháp Tính nên gọi pháp là thầy chứ không phải thật là thầy, cùng với thể năng là khác cho nên pháp mới là thầy mà lấy làm thân. Tuy gọi là thân nhưng đã ra ngoài 5 ấm (giới), cho nên không phải là sắc chất, cũng không phải tâm trí. Sắc là ấm thứ nhất, tâm trí là 4 ấm còn lại. Đã không phải ấm, cũng không phải nhập, giới, cho nên không phải thuộc 3 khoa này tự do thu nhiếp. Thế thời đã bỏ phận đoạn, biến dịch mà thị hiện sinh tử. Vì ấm, nhập, giới nhiếp thu cũng được sắc chất cảm ứng, tâm trí cảm báo, ba khoa khác nhân. Đã không phải ba khoa này thì lấy gì mà đặt tên được. Vì cơ của sự vật nên gượng chỉ vào Pháp Tính gọi là Pháp Thân, đó là thân năng cư vậy. Còn cõi sở cư, chính như trước đã giải thích.

Giải thích Báo Thân.

Sớ: 2. Báo Thân, ở cõi Thật Báo.

Sao: Quán Kinh Sớ viết: “Báo Thân là chỗ tu hành cảm được”. Kinh Pháp Hoa viết: “Nghiệp tu lâu mà được”. Kinh Niết Bàn viết: “Đại Niết Bàn do tu đạo mà được”. Trí như như soi cảnh như như. Trí tuệ Bồ Đề với Pháp Tính ngầm hợp nhau. Chữ “tương ứng”, như hòm nắp hợp nhau. Chữ “tương minh”, như nước sữa hòa vào nhau. Pháp Thân không phải thân, không phải là không có thân, trí đã ngầm hợp thì cũng phi thân, phi bất thân, gượng gọi trí ấy là Báo Thân. Diệu Tông Sao viết: “Báo là đền trả”. Tu hành là nhân, cảm được diệu báo để đền trả nhân vậy. Kinh Pháp Hoa là chứng Trí Đức. Kinh viết: “Ánh tuệ quang soi vô lượng, nghiệp tu lâu mà được”. Đại Niết Bàn là chứng Đoạn Đức vậy. Hai đức của quả này đền đáp nhân tu nên gọi là báo. Lúc cảm báo thì tướng đó thế nào? Nên lấy một pháp 2 dụ để làm rõ. Như tên không khác, chỗ tu quán thì sai khác, đó không gọi là như. Ngoài trí có cảnh, không gọi là như trí. Hai đều như cả là cảnh như như trí, trí như như cảnh, thế là cảnh trí hợp nhau. Trí tuệ gọi là thông cho nên lấy quả giác Bồ Đề mà phân biệt ra, tức là trí tuệ Vô Thượng Bồ Đề cùng với cảnh Pháp Tính hợp nhau, hòa nhau. Trước nêu ra hòm nắp dụ cho hợp nhau, e rằng nói hòm nắp tuy là khớp nhau nhưng vẫn còn hai tướng, cho nên lại nêu nước sữa để dụ cho hòa hợp, khiến cho biết Thủy Giác và Bản Giác cùng là tính giác. Cái thể đó mất đi, chính cũng như nước sữa thì rõ được ngoài cảnh không có trí, ngoài trí không có cảnh, thì thấy được nước sữa thế nào. Còn nói về phi thân: Không phải Phật Ứng Hóa có thân phận tề; phi bất thân: Chẳng phải Báo Phật không có thân phận tề (thân rõ ràng). Lại, phi thân thì không phải có, phi bất thân thì không phải không. Pháp Thân Trung Đạo là thể của Bản Giác. Thủy giác đã hợp Bản Giác thì năng hợp ấy cũng mất, vì là thành hiện nên gọi là Báo Thân, Trí đức. Nghĩa độ thì như trước.

Giải thích ứng Hóa Thân.

Sớ: Thân Ứng Hóa ở cõi bất nhị. Tuỳ theo cơ 9 phẩm cho nên chỗ thấy không giống nhau.

Sao: Quán Kinh Sớ viết: “Ứng thân: Ứng cùng vạn vật làm thân. Trí với thể hợp nhau, khởi được đại dụng như thủy ngân hòa với vàng ròng, thiếp được các sắc tượng. Công đức hoà cùng Pháp Thân, nơi nơi đến ứng hiện thì thành được thân mà chẳng phải thân. Nhưng ba thân này không thể phân biệt một hay khác là trái với pháp thể; ngay một mà ba, ngay ba mà một mới hiểu được huyền văn. Diệu Tông Sao viết: “Như tiếng vang trong hang, lớn nhỏ thì theo với âm thanh; như gương hiện hình, đẹp xấu ở thể chất. Hợp với vạn vật mà cảm ứng, hiện ra thân hơn kém. Trí là Báo Thân, thể là pháp Thân. Hai thân này hợp ngầm với nhau, ứng dụng khắp nơi; trên mầu chân kim phải dùng thủy ngân hòa vào mới thếp được vào đồ vật. Thiếu một duyên này thì vàng cũng không dùng thếp vào đâu được. Công đức trí của Báo Thân, hợp hội với Pháp Thân, tùy nơi có cơ duyên ở đâu cũng tới. Trên nói về Báo chỉ bàn về phép hợp thì là Tự Thụ Dụng vậy. Nay nói rõ rủ lòng ứng hóa cho kẻ khác thụ dụng vậy. Ứng hiện thường trụ là đối với sinh thân, ứng hiện vô thường là chỉ bằng hai cách ứng hiện vậy, vì thế nói rõ cả hai thân vậy. Thân là sinh thân, có tướng hẳn hoi, cho nên gọi là thân tướng). Không có phận hạn của tướng cho nên gọi là phi thân. Trong kinh Tiểu Bát Nhã viết: Phật nói phi thân tức là đại thân, đại thân là thân Tha Thụ Dụng vậy. “Tha thân” là một khi tùy cơ biến hoá mà có, nghĩa thì đồng với Ứng Thân, nhưng thể dụng có chút sai khác, Ứng Thân thì theo với Pháp, Báo; ngầm hợp với thể để khởi ra ứng dụng. Tha thân thì theo với thể ứng thân, để khởi ra cách ứng dụng của biến hóa thân. Đó là từ dụng mà khởi dụng vậy. Lại nữa, hoặc theo biến hóa, mà hóa thì biến hóa vô cùng, Ứng Thân thời tám tướng trước sau, Hóa Thân thời chợt sinh chợt diệt. “Ở cõi bất nhị”: Báo Thân là trí năng chứng, Pháp Thân là lý sở chứng. Thế thời Tịch Quang, Thật Báo đều là cái thể năng ứng. Cõi Tha Thụ Dụng, Phương Tiện, Đồng Cư đều là nơi ở của ứng Thân. Cơ duyên sai khác nên có chín phẩm. Bởi vậy thấy có khác biệt. Phật ứng hiện không sai thì hai cõi Tịch Quang, Thật Báo ở ngay ba phẩm, nên gọi là bất nhị. Nên chuẩn theo Quán Kinh Sớ chia người vãng sinh thành chín phẩm thì nên tìm mà hiểu. Lại bốn cõi, cõi nào cũng phân ra chín phẩm, tuy từng cõi mà cảm thấy ba thân khác nhau, tùy cơ cảm mà thấy được bốn cõi bất đồng.

Giải thích về chỗ khác nhau.

Sớ: “Hiện tại thuyết pháp” là không phải quá khứ hay vị lai.

Sao: Trong kinh, đoạn sau viết: “Phật A Di Đà từ khi thành Phật đến nay đã mười kiếp”, thì biết Đức Di Đà hiện tại thành Phật vì chúng sinh thuyết pháp, không phải chư Phật về đời quá khứ hay vị lai vậy.

Nêu Y báo.

Nói rõ chung cõi Cực Lạc.

Nêu chính văn.

Này Xá Lợi Phất! Vì sao cõi ấy tên là Cực Lạc? Bởi vì chúng sinh ở cõi ấy không có những nỗi khổ, chỉ thuần hưởng những điều vui, cho nên gọi tên là Cực Lạc.

Sớ: Dưới chữ “bỉ độ” là bắt đầu duyên khởi, dưới chữ “kỳ quốc” là giải thích chung. “Vô hữu chúng khổ”, là không có những tam khổ, bát nạn. Đối với cõi Sa Bà cực khổ nên gọi là Cực Lạc.

Sao: Thế giới Sa Bà đủ cả 6 đạo: Người, Trời, Tu La gọi là 3 thiện đạo, bởi vì lấy giữ giới tu thiện làm nhân. Địa ngục, Ngã quỷ, Súc sinh gọi là 3 ác đạo, lấy ác nghịch làm nhân. Chữ đạo nghĩa nó là được thông suốt, ý nói tất cả chúng sinh gây ra nghiệp thiện thì thông được tới những cõi nhân thiên v.v…. Gây ra nghiệp ác thì thông suốt được đến cõi địa ngục vậy. Còn gọi là tam đồ nữa là nói theo về quả làm tên, là bởi ác nghiệp mà thông đến hỏa đồ, đao đồ, huyết đồ vậy.

1. Địa ngục đạo: Ý nói nơi này ở dưới đất và trong núi Thiết Vi, có những ngục bát hàn, bát nhiệt v.v…. Đọa vào đạo này tức là chúng sinh tạo nghiệp ác rất nặng nên gọi là Địa ngục đạo.

2. Ngã quỷ đạo: Có 3 loại: Kẻ nào tạo tội nghiệp rất nặng thì nhiều kiếp không nghe đến tên nước; chỉ rình tìm kiếm những thứ bẩn thỉu, ô uế (máu mủ) của nhân gian; hoặc có khi được no nhưng lại bị dao gậy đánh đập, xua đuổi ép buộc làm những việc ngăn sông lấp biển. Là vì những chúng sinh này tạo ác, keo kiệt tham lam thì vào đạo này.

3. Súc sinh đạo: Là những loại mang lông đội sừng, mai vẩy lông vũ, lông mao, bốn chân, nhiều chân, không chân, ở dưới nước, ở trên cạn, ở trong hư không…. Bởi vì ngu si gây ra ác nghiệp, nên sinh vào đạo này.

Bát nạn: Là 8 nơi đều chướng nạn vậy. 8 nơi này tuy cảm báo khổ vui có khác nhưng đều không được thấy Phật, không được nghe chính pháp nên gọi chung là nạn.

1. Nạn Địa Ngục: Như trên đã giải thích. Trong Địa ngục đêm dài mù mịt, luôn luôn chịu khổ, bị chướng không được thấy Phật nghe pháp nên gọi là nạn.

2. Nạn Súc sinh: Nghĩa đã giải thích như trước. Trong đạo súc sinh chịu khổ vô cùng, bị chướng ngăn che việc thấy Phật nghe pháp nên gọi là nạn.

3. Nạn Ngã quỷ: Nghĩa giải thích như trước. Trong đạo Ngã quỷ thì chịu khổ vô lượng, chướng ngại việc thấy Phật nghe pháp, cho nên gọi là nạn.

4. Nạn Trường thọ thiên: Ý nói tuổi thọ ở cõi trời này 500 kiếp, là cõi trời vô tưởng trong cõi Tứ thiền Sắc giới. Nói “vô tưởng”, tức là vì tâm thức không vận hành, như cá trong băng, trùng ẩn mình. Ngoại đạo tu hành, phần nhiều sinh vào đây, cũng bị chướng không được thấy Phật nghe pháp nên gọi là nạn.

5. Nạn Uất Đơn Việt ở phương bắc: Uất Đơn Việt là tiếng Phạm, Trung Quốc dịch là Thắng Xứ. Ý nói nơi này cảm báo hơn 3 châu đông, tây, nam. Con người thọ 1000 tuổi, không bị chết non, chỉ vì say đắm thú vui không lãnh thụ giáo hóa, nên Thánh nhân không sinh vào đây, không được thấy Phật nghe pháp cho nên gọi là nạn.

6. Nạn mù điếc câm ngọng: Ý nói những người này tuy sinh ở cõi nước, nhưng nghiệp chướng sâu nặng, mù điếc câm ngọng, các căn không đủ. Ngay gặp Phật ra đời mà không thấy Phật, tuy Phật thuyết đại pháp mà không nghe được nên gọi là nạn.

7. Nạn thế trí biện thông: Ý nói con người thế gian, kẻ tà trí thông lợi chỉ chăm tập mê kính sách vở ngoại đạo, không tin theo chính pháp xuất thế, cho nên gọi là nạn.

8. Nạn sinh trước Phật sau Phật: Ý nói Phật xuất hiện ở đời là bậc đại đạo sư, khiến cho chúng sinh lìa khổ sinh tử được vui Niết Bàn. Người nào có duyên thì mới gặp được. Kẻ sinh trước Phật, sau Phật là vì nghiệp nặng duyên mỏng, đã không thấy Phật cũng không nghe được pháp nên gọi là nạn sinh trước Phật, sau Phật.

Các khổ: Là tám khổ ở nhân gian.

1. Sinh khổ: Có 5 loại:

– Thụ thai: Thần thức khi vào thai mẹ, ở trong bụng mẹ chật hẹp bẩn thỉu.

– Chủng tử: Thần thức thác vào di thể của cha mẹ, cái hạt giống thức thần này theo hơi thở ra vào của mẹ, không được tự tại.

– Lớn lên: Ở trong bụng mẹ qua 10 tháng ngày, trong bị sức nóng nung nấu, dần thành nên thân hình, sống ở dưới ruột non, trên ruột già, ép lại như ngục.

– Khi ra thai: Ý nói mới sinh ra có gió lạnh gió nóng thổi vào thân, vào quần áo, chạm vào cơ thể da dẻ non mềm như bị vật nhọn đâm vào.

– Giống loài: Ý nói về nhân phẩm thì có giàu sang nghèo hèn; về tướng mạo thì có thừa thiếu đẹp xấu. Thế là sinh khổ.

2. Già khổ: Có hai loại:

– Lớn lên, ý nói từ bé đến lớn, từ lớn đến suy yếu, khí lực giảm sút, đi đứng không yên (nghỉ ngơi).

– Diệt hoại: Ý nói là thịnh đi suy đến, tinh thần hao tổn, tính mạng ngày một rút ngắn, dần đến hủ hoại, gọi là lão khổ.

3. Bệnh khổ: Có 2 loại:

– Bệnh về thân thể: Ý nói tứ đại không điều hòa, các bệnh tấn công. Nếu mà địa đại không điều hoà thì thân trầm trọng; thủy đại không điều hoà thì cả thân phù thũng; hỏa đại không điều hoà thì cả thân nóng bỏng; phong đại không điều hoà thì cả thân co cứng.

– Bệnh về tâm: Ý nói trong tâm khổ não, lo lắng buồn thương. Thế gọi là bệnh khổ.

4. Tử khổ: Có 2 loại:

– Bị bệnh mà chết: Ý nói nhân bệnh tật, hết số thọ mà chết.

– Ngoại duyên: Ý nói là hoặc gặp ác duyên, các nạn thủy hỏa mà chết. Thế là cái khổ về chết.

5. Cái khổ yêu thương mà phải xa rời: Ý nói con người được thân ái mà phải xa trái ly tán, không được ở chung, gọi là cái khổ ái biệt ly.

6. Cái khổ về oán ghét mà ở với nhau: Ý nói con người thường oán thù ghen ghét, vốn mong xa lìa mà lại tụ tập. Thế gọi là khổ oán tăng hội.

7. Cái khổ cầu gì cũng không được: Ý nói tất cả những sự vật ở thế gian tâm ta ưa thích mong cầu nhưng không được, gọi là khổ cầu mà không được.

8. Khổ về năm ấm xí thịnh: Năm ấm là sắc, thụ, tưởng, hành, thức. “Ấm” nghĩa là che đậy, ý nói che đậy chân tính, không cho hiển lộ rõ ràng. “Thịnh” nghĩa là thịnh đại, ý nói những khổ tích tụ như sinh, già, bệnh, chết v.v… đã nêu trên nên gọi là năm ấm xí thịnh. Đối với cõi Sa Bà rất khổ mà nói nên gọi là Cực Lạc. Bởi vì chúng sinh ở Cực Lạc không có những loại việc khổ ở cõi Sa Bà như đã nêu trên, cho nên gọi là Cực Lạc. Nếu đối địch rõ ra thì chúng sinh ở Cực Lạc, 6 căn đối với trần cảnh đều là những sắc thanh, hương vị xúc nhiệm mầu, đều là phát sinh cho con người những sự quan sát và hiểu rõ. Tin niệm Tam Bảo nên không có cái nhân ba độc, không tạo ra những nghiệp ác nghịch, cho nên không có cái quả khổ 3 đường, không có 3 đường chướng nạn vậy. Nghe pháp nhập chính định, không đọa vào cõi trời Vô Tưởng nên không có nạn Trường Thọ Thiên. Tuy hưởng những điều cực vui nhưng thường nhận giáo hóa, cho nên không có cái nạn Bắc Câu Lư Châu. 6 căn trong sạch, trí tuệ thông lợi nên không có nạn mù điếc câm ngọng. Chúng sinh sinh về Cực Lạc đều được chính định tụ nên không có nạn thế trí biện thông. Phật A Di Đà hiện nay đang thuyết pháp, trải qua rất nhiều kiếp, ngài Quán Âm Bồ Tát lại kế tiếp bổ nhiệm với hiệu là Phật Phả Quang Công Đức Sơn Vương, cho nên không có cái nạn trước Phật sau Phật. Nụ sen thác chất nên không có cái khổ về sinh; không có thay đổi nóng rét nên không có cái khổ về già; thân không phải thân phận đoạn thì không có bệnh khổ; thọ mệnh vô lượng nên không có tử khổ; không có cha mẹ vợ con nên không có cái khổ ái biệt ly; tập hội với các bậc thượng thiện nhân nên không có cái khổ oán tăng hội; ăn mùi hương của thiên hoa, tự nhiên thụ dụng thì không có cái khổ về cầu không được; quán chiếu ngũ ấm là “Không” nên không có uẩn khổ.

Nói về trang nghiêm.

Nêu chính văn.

Lại nửa ông Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc có 7 lớp lan can, 7 lớp lưới giăng, 7 lớp hàng cây, đều là 4 thứ báu vây quanh, bởi thế nên nước kia gọi là Cực Lạc.

Giải thích về lan can.

Sớ: Lan: Là lan can. Ngang là lan, dọc là thuẫn. Trang nghiêm cây báu, vây quanh rừng hoa.

Giải thích về la võng.

Sớ: La võng: Là lưới báu phủ trên, ánh sáng rực rỡ kín khắp rủ xuống, trang nghiêm đẹp đẽ.

Giải thích hành cây.

Sớ: “Hàng cây”: Quán Kinh viết: “Mỗi 1 cây cao 8 nghìn Do tuần. Hoa lá đầy đủ cả 7 thứ báu”.

Giải thích về 4 thứ báu.

Sớ: Bốn báu là vàng, bạc, lưu ly, pha lê.

Sao: Nói một cách đại lược, trên đất báu của Cực Lạc, thứ gì cũng là báu quý. Ngoài lầu gác ra đều bầy cây báu; ngoài cây báu ra, vây quanh là lan can; phía trên lan can và cây báu lại che bằng la võng. Mỗi loại đều nêu ra 7 lớp là để biểu thị 7 phận Bồ Đề. Nhưng cây hay lan can hay lưới đều dùng 4 báu, sở dĩ là để biểu thị Thất Giác không lìa Tứ Đế vậy. Ở thế giới Sa Bà, hàng vua quan đều lấy thứ này trang sức. Nhưng nói về cây thì bất quá là rừng rậm; nói về lan can thì bất quá là gỗ đá; nói về lưới thì bất quá là tơ gai; đất bất quá là đất đá; nhân bất quá là sức người; chư thiên tuy cũng vui sướng nhưng không bằng cõi tịnh diễn pháp âm. Tịnh độ, uế độ không giống nhau, việc tạo tác tự nhiên đều khác nhau, há không có lý do ư? Giải thích dẫn Quán Kinh: Cây nào cũng cao 8000 Do tuần, 7 báu hoa lá, đều là đủ cả. Nói rõ về chủng loại thì những của trang nghiêm không những là 4 thứ báu, lại nên biết vậy. Nay sẽ dẫn đủ ở trong Đại Bản và trong Quán Kinh, mỗi mỗi đều trình bày đủ, không phải nhiều thứ tốt thì cũng lấy đó giúp tăng trưởng tín nguyện của người cầu sinh về Tịnh độ. Quán Kinh viết: “Quán về cây báu, mỗi một phép quán khởi lên tâm tưởng hàng cây 7 báu, mỗi cây cao 8000 Do tuần, các cây báu kia hoa lá 7 báu đủ cả. Mỗi hoa mỗi lá là sắc ngọc khác nhau. Trong sắc ngọc lưu ly thì phát ra ánh sáng màu vàng; trong sắc pha lê phát ra ánh sáng sắc hồng; trong sắc mã não thì phát ra ánh sáng xà cừ; trong sắc xà cừ lại phát ra ánh sáng ngọc xanh mầu nhiệm. Tất cả các loại báu như san hô hổ phách, ánh sáng soi vào lưới trân châu mầu nhiệm trùm lên ngọn cây. Trên mỗi một cây có 7 tầng lưới, mỗi một khoảng lưới có 500 ức diệu hoa cung điện tốt đẹp như cung trời Phạm Vương, những chú thiên đồng tử tự nhiên ở trong đó. Mỗi một chú đồng tử có một chùm tròng hạt 500 Thích Ca Tỳ Già Ma Ny. Các ánh sáng của ma ny ấy soi ra trăm Do tuần giống như hòa hợp trăm ức mặt trời mặt trăng, không thể nêu hết. Các thứ báu đan xen, màu sắc vượt trội. Những cây báu này từng hàng từng hàng đối với nhau, lá thì cũng có lần lượt. Ở trong khoảng cách các lá nảy ra những hoa nhiệm mầu. Trên hoa ấy tự nhiên có quả 7 báu. Mỗi một lá cây dài rộng bằng 25 Do tuần. Lá ấy nghìn mầu, có trăm loại vạch (gân lá) như ngọc anh lạc cõi trời. Có những hoa mầu nhiệm sắc vàng Diêm Phù Đàn, như vòng bánh xe lửa, lăn quanh trong lá. Nảy ra các quả, như bình Đế Thích có ánh sáng lớn, hóa thành tràng phan, vô lượng lọng báu. Trong lọng báu ấy hiện ra ánh sáng soi tam thiên đại thiên thế giới, hết thảy những Phật sự, các cõi Phật ở mười phương cũng đều hiện ra trong ấy”. Lại, Đại Bản viết: “Còn có 7 loại cây báu nữa. Có cây bằng thuần một thứ báu thì gốc, thân, cành, lá, hoa, quả đều dùng 1 thứ báu. Có cây bằng 2 thứ báu thì gốc, thân, cành, lá, hoa, quả đều dùng 2 thứ báu đan xen tạo thành. Cây nào thuộc về 3 thứ báu tạo thành thì gốc, cành, lá, hoa, quả dùng 3 loại báu đan xen tạo thành; có cây dùng bốn thứ báu tạo thành thì gốc, cành, lá cây ấy đều dùng một thứ báu; hoa, quả của cây ấy thì cũng giống như gốc và thân. 5 thứ báu làm thành một cây thì gốc, thân, cành, lá, hoa của nó, mỗi thứ đều dùng 1 loại báu; quả thì giống như gốc của nó. Cây dùng 6 thứ báu thì gốc, thân, cành, hoa, lá, mỗi thứ đều dùng một loại báu. 7 báu làm 1 cây thì cũng lại như thế, chỉ thêm vào (chừng mực) chi tiết thôi, dùng thêm 1 thứ báu. Những cây như thế giống nào khác nhau, dóng hàng với nhau, dọc đối với nhau, cành nào cành nấy chuẩn theo nhau, lá nào lá nấy hướng vào nhau, hoa nào hoa nấy thuận theo nhau, quả nào quả nấy tương đương nhau. Bầy hàng như thế con số tới trăm nghìn lần. Trong những hàng cây báu có xen lẫn ao báu cũng lại như thế; cho đến khắp cả thế giới, mầu tươi rực rỡ không nhìn được xuể”.

Giải thích ao, hoa, lầu, quán.

Nêu chính văn.

Lại nữa, này ông Xá Lợi Phất! Nước Cực Lạc có ao thất bảo, nước tám công đức tràn đầy trong đó. Đáy ao thuần bằng cát bằng vàng rải làm đất. Bốn bên đường đi toàn bằng bốn thứ báu là vàng, bạc, lưu ly, pha lê hợp thành. Trên có lầu gác, cũng dùng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu, mã não để trang nghiêm. Hoa sen trong ao to như bánh xe. Hoa sen màu xanh phát ra ánh sáng màu xanh, hoa sen màu vàng phát ra ánh sáng màu vàng, hoa sen màu đỏ phát ra ánh sáng màu đỏ, hoa sen màu trắng phát ra ánh sáng màu trắng, màu nhiệm thơm ngát và tinh khiết.

Giải thích ao 7 báu.

Sớ: Về ao thất bảo thì Quán Kinh viết: “Mỗi một ao nước đều do bảy báu tạo thành. Báu đó mềm dẻo, nó được sinh ra từ ngọc vương như ý”.

Sao: Ao 7 báu theo nước ao mà đặt tên, cho nên dẫn nước ao được tạo thành từ bảy báu ở Quán Kinh để giải thích. Nhưng thế giới Sa Bà há không có nước ư? Nó theo thiên nhất mà sinh cho nên thể chất của nó không phải là 7 báu. Sa Bà há lại chẳng có báu ư? Báu ngọc sinh ra từ mậu kỷ (thuộc thổ) cho nên thể chất của nó không mềm dẻo. Nước ở Tịnh độ mềm mà không phải là âm, báu lại không cứng, lý do khác nhau là ở chỗ tịnh uế, không những chỉ có thế vậy. Quán Kinh lại viết: “Chất nước ma ny rót vào trong hoa, theo cây lên xuống, chính vì thể chất không phải là thiên nhất cho nên không những chảy xuống mà có thể chảy ngược lên, thế là phần thô phần diệu vì thế mà được chia ra. Không những như thế, kinh ấy còn viết: “Tiếng của nước mầu nhiệm, diễn ra tiếng vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh, mọi phép Ba La Mật. Lại còn ngợi khen tướng hảo của chư Phật. Châu vương như ý phóng ra quang minh sắc vàng rất là mầu nhiệm. Cái ánh sáng ấy hóa ra loài chim mầu sắc như trăm thứ báu, nó kêu hót rất là hòa nhã, thường khen niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Chính vì bản thể là duy tâm, nên vô tình mà thuyết pháp. Khổ vui vì thế mà khác vậy.

Giải thích nước 8 công đức.

Sớ: Tám đức: Đời đường phiên dịch rằng: 1. Lắng trong và sạch; 2. Mát mẻ; 3. Ngon ngọt; 4. Nhẹ mềm; 5. Nhuần thấm; 6. Yên hòa; 7. Trừ đói khát; 8. Nuôi lớn các căn.

Sao: Đây so với Quán Kinh có hơi khác, ở Quán Kinh viết: “Nhẹ, sạch, mát, mềm, ngon, không hôi, khi uống khí huyết lưu thông, uống rồi là không có bệnh gì cả. Ở Sớ lấy 8 đức đối với 5 nhập. Sạch là sắc nhập, không hôi là hương nhập, khinh lãnh nhuyễn là xúc nhập, mỹ là vị nhập, điều thích vô hoạn là pháp nhập. Diệu Tông Sao viết rằng: “Sớ giải thích 8 đức đối chiếu với ngũ nhập gồm trước nói pháp tức là thanh nhập. Tuy thành lục nhập đều là cảnh mầu nhiệm, cho nên khiến người tu chóng chứng vô sinh”. Lại nữa, Đại Bản viết: “Nước 8 công đức, trạm nhiên đầy tràn, trong sạch tinh khiết thơm vị như cam lộ. Các bậc Bồ Tát, Thanh Văn, những bậc Thượng thiện nếu tắm ở trong ao thất bảo này, đối với hình thể ý muốn nước ngập chân nước liền ngập chân; muốn đến đầu gối, thắt lưng, nách, cho đến cổ, nước đều lên đến đó. Muốn nước dội thân, cũng được vừa ý. Muốn cho nước như lúc bắt đầu cũng lại như lúc bắt đầu; điều hòa mát ấm đều thuận thích cả, mở tinh thần thoát thể chất, gột sạch tình lự, trong sáng sạch sẽ như không thấy hình vậy”.

Giải thích cát vàng.

Sớ: “Kim sa bố địa”: Quán Kinh viết:

“Hoàng Kim làm ao; ở dưới đáy ao đấy đều dùng tạp sắc Kim Cương làm cát”.

Sao: Quán Kinh viết: “Kim cương dùng làm cát dưới đáy”, văn hãy còn lược. Nếu nói đủ thì phải như ở Đại Bản viết: “Ao là hoàng kim, đáy ao là cát bạch ngân; ao là thủy tinh thì đáy là cát lưu ly; ao là san hô thì đáy là cát hổ phách. Nếu ao là hai thứ báu thì đáy cũng dùng hai báu; nếu ao là hoàng kim, bạch ngân thì cát dưới đáy là san hô, hổ phách; nếu ao là san hô, hổ phách thì đáy là xà cừ, mã não. Nếu 3, 4, 7 thứ báu làm một ao thì đáy cũng lại như thế. Những các ao báu đấy, có ao thì vuông 40 dặm, có ao thì vuông 50 dặm, có ao vuông 60 dặm, cứ dần dần lớn lên cho đến vuông 2 vạn 480 dặm bằng bể. Các ao ấy đều là nơi các bậc Thượng thiện nhân Bồ Tát, Thanh Văn sinh trưởng, có lúc thì tắm ở đấy. Ao của Đức Phật thì vuông gấp bội hơn thế, đều do 7 thứ báu đan xen mà thành. Đáy những ao đấy đều dùng bạch nguyệt châu, minh nguyệt châu, ma ni châu làm cát.

Giải thích 4 thứ báu.

Sớ: “Lưu ly”, Trung Quốc gọi là bất viễn. Cách thành Ba La Nại không xa có báu ấy nên đặt tên như vậy. “Pha lê”, Trung Quốc gọi là thủy ngọc.

Sao: Lưu ly, tiếng Phạm nói đủ là Phệ lưu ly, Trung Quốc dịch là bất viễn. Bởi thế nên người xưa về thể chữ (cách viết) viết Lưu ly (không có bộ ngọc) chỉ để phiên âm Phạm ngữ. Đời sau xét nó thuộc loại ngọc nên cải đổi cách viết thành Lưu ly (có bộ ngọc).

Pha Lê, cũng là tiếng Phạm, nếu nói đủ là Thốt Pha Trí Ca. Hình dáng giống như thủy tinh ở Trung Quốc, có 3 màu đỏ, trắng, xanh. Về hình của chữ thì cũng viết Pha ly (không có bộ ngọc), sau thấy giống ngọc nên cho bộ ngọc một bên. Xà cừ, nói đủ là Mâu Dục Yết Lạp Bà, Trung Quốc gọi là ngọc màu Xanh trắng. Thượng Thư Đại Truyện viết: “Ngọc Iớn như là Cừ của Đại Xa. Từ “Cừ”, ý nói vành xe làm bằng ngọc đỏ. Luận Phật Địa viết rằng: “Nó xuất sinh từ con trùng đỏ”. Luận Trí Độ viết: “Trân châu thì từ trong bụng cá, trong óc con rắn, ở trong ống trúc chứ không hẳn chỉ sinh ở ngọc trai”. Mã não, tiếng Phạm là Ma Bà La Già Lệ, Trung Quốc phiên là sắc ngọc mã não. Nó giống như óc ngựa cho nên đặt tên như vậy. Về thể chữ, trước viết là Mã não (không có bộ ngọc). Người sau đổi thành ngọc thạch.

Giải thích về lầu gác.

Sớ: Lầu gác, Quán Kinh dạy rằng: “Cõi nước có những ngọc quý, trên mỗi một cõi có năm trăm ức lầu ngọc quý”. Ở Đại Bản thì những tinh xá, nhà giảng, các lầu quán cung điện, đều trang nghiêm do bảy thứ báu hóa thành. Lại dùng những ngọc, trân châu, minh nguyệt, ma ny làm dây chằng, che rợp ở trên.

Sao: Đại Bản còn viết: “Tinh xá, giảng đường của Phật A Di Đà đều tạo thành bằng bảy thứ báu ngọc tự nhiên xen nhau. Lại có bảy thứ ngọc dùng làm lan can lầu quán; lại có bảy thứ báu làm ngọc anh lạc treo bên cạnh; lại dùng những thứ ngọc trắng, ngọc minh nguyệt, châu ma ny chằng ngang dọc che khắp bên trên. Sự tốt đẹp đặc biệt, trong sạch rực rỡ, nói không hết được. Còn những cung điện của Bồ Tát, Thanh Văn ở cũng thế. Cung điện lầu gác chỗ ở của chư thiên, người đời thì tuỳ theo hình sắc của họ mà cao thấp lớn nhỏ phù hợp. Hoặc dùng một thứ ngọc, hai thứ ngọc, đến rất nhiều thứ ngọc, hóa hiện mà thành tất cả.

Giải thích bốn thứ hoa.

Sớ: Ngài Linh Chi dạy: “Bánh xe lớn nhỏ khó định chuẩn được”. Luận Thập Trụ Bà Sa viết: “Bánh xe ngàn căm của Luân vương chu vi 15 dặm”. Dưới chữ “thanh sắc”, Quán Kinh viết: “Trong mỗi một ao có 60 ức hoa sen 7 báu”, như vậy thì không phải chỉ có 4 sắc. “Mỗi một hoa sen tròn bằng 12 Do tuần”, không phải chỉ như bánh xe. Trong Đại Bản viết: “Hoa sen trong ao, hoặc to một Do tuần, cho đến trăm nghìn Do tuần. Như vậy thì biết tùy cơ thấy được hơn kém không giống nhau vậy.

Sao: “Hoa sen trong ao báu”, một là để trang nghiêm trong cõi Tịnh độ, một là để cho người niệm Phật vãng sinh. Vì chúng sinh cõi Cực Lạc không có dâm dục nên không có nam nữ; không có nam nữ nên không có cha mẹ; không có cha mẹ nên không có thai sinh. Thai sinh còn không có thì chả lẽ lại có noãn sinh, thấp sinh; đều chỉ có hóa sinh. Vả chăng đây bàn về Cực Lạc ra chiều ngang ba cõi, chính với thế giới Sa Bà là như nhau. Bởi thế chúng sinh sinh về lấy hóa sinh làm chủ nhưng ba nghĩa kia hình như có kiêm cả (noãn, thai, thấp). Vì thác chất thai sen mà hóa ở trên nước vậy. Cho nên trong Đại Bản viết: Thế giới vô lượng số ở mười phương, chư thiên nhân dân, cho đến những loài quyên phi nhuyễn động, loài nào đã sinh về cõi Phật A Di Đà, đều sinh vào hoa sen bẩy báu ở trong ao, tự nhiên lớn lên, không có ai phải nuôi bằng sữa, đều ăn món ăn tự nhiên. Dáng dấp hình sắc, đẹp đẽ xinh tươi, người đời không thể sánh được, chẳng phải thiên nhân có thể sánh được, đều là thân tự nhiên thanh hư và thọ mạng vô cùng”. Nhưng đây chỉ nói về tám phẩm ở dưới thì được; còn như sinh về thượng thượng phẩm thì cưỡi đài kim cương, đến thấy Phật ngay, không phải sinh vào hoa sen nữa, mà khi đó cũng giác ngộ ngay đạo lý vô sinh, tin rằng có như vậy. Như bài giải nói: “Tùy cơ thấy được hơn kém không giống nhau”, cũng do đây chăng?

Kết thành.

Nêu chính văn.

Này ông Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc công đức trang nghiêm thành tựu như thế đấy.

Chính giải thích văn kinh.

Sớ: Cõi nước trang sức tinh nghiêm, đều là hành nguyện của Đức Phật Di Đà đã huân tu trong nhiều kiếp mà thành tựu.

Sao: Giải thích đã thành như trên. Mọi loại trang sức tinh nghiêm như trên đều là công Đức Phật Di Đà mà được trang nghiêm. Công thì nói về sức, đức thì nói về dụng; đó đều là đại dụng giải thoát từ nơi quả của Phật để nhiếp thụ chúng sinh. Nói xa về nguyên nhân, là bắt đầu tâm ngài phát 48 nguyện, thề lấy cõi Lạc Bang. Từ đó về sau trải vô lượng kiếp tu hành mà hoàn thành bản nguyện. Tu hành đã đầy đủ rồi sau thành tựu được nguyện; nguyện thành rồi sau có cõi nước tịnh vậy.

Chỉ nơi văn dẫn ra.

Sớ: Khi trích dẫn, nếu nói là Đại Bản thì tức là kinh Vô Lượng Thọ gồm hai quyển, bàn rộng cõi Tịnh độ. Nói là Quán Kinh thì tức là nói đến kinh Thập Lục Quán, giải rộng rõ về tướng tu hành. Kinh này nói lược, đời gọi là Tiểu Bản, tức là đối với Đại Bản mà nói như vậy.

Giải thích đất vàng hoa trời.

Nêu chính văn.

Lại nữa ông Xá Lợi Phất! Cõi nước Đức Phật kia thường có thiên nhạc tấu trình, vàng tốt làm đất. Đêm ngày sáu thời, trời trải xuống hoa Mạn Đà La. Chúng sinh nước ấy thường vào buổi sáng sớm đều lấy túi áo đựng những hoa đẹp, cúng dâng 10 vạn ức Phật ở phương khác, trong bữa ăn rồi về nước mình, thụ trai rồi đi hành thiền. Này ông Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu được công đức trang nghiêm như thế.

Giải thích về nhạc trời.

Sớ: “Nhạc trời”: Quán Kinh viết: “Rất nhiều các vị trời tấu kỹ nhạc của cõi trời. Lại có nhạc khí treo ở hư không như phướn báu cõi trời, không đánh tự kêu”. Đại Bản viết: “Lại có hàng vạn loại kỹ nhạc tự nhiên. Lại có những tiếng nhạc đều là pháp âm, véo von thanh thoát, mầu nhiệm hòa nhã, không có âm thanh nào sánh kịp”.

Sao: “Không có âm thanh nào sánh kịp”: Ở Đại Bản viết: “Như đế vương ở thế gian có hàng vạn loại âm nhạc không bằng một tiếng hay trong những thứ âm nhạc của Chuyển Luân Thánh Vương trăm ngàn vạn lần. Hàng vạn loại âm nhạc của Chuyển Luân Thánh Vương không hay bằng một tiếng hay trong những thứ âm nhạc của Đao Lợi Thiên Vương trăm ngàn vạn lần. Vạn loại âm nhạc của Đao Lợi Thiên Vương không hay bằng một tiếng hay trong những thứ âm nhạc của Đệ Lục Thiên Vương trăm ngàn vạn lần. Vạn loại âm nhạc của Đệ Lục Thiên Vương không hay bằng một tiếng hay được phát ra từ những hàng cây báu trong cõi nước của Đức Phật A Di Đà trăm ngàn vạn lần. Lại có rất nhiều loại âm nhạc hay tự nhiên mà những âm thanh ấy đều là diệu pháp, trầm bổng réo rắt, vi diệu hoà nhã. Trong những âm thanh của mười phương thì nó đứng đầu”.

Giải thích về đất vàng tốt.

Sớ: “Hoàng kim vi địa”: Quán Kinh viết: “Trên đất lưu ly dùng dây vàng ròng xen lẫn vào với bẩy thứ báu để làm giới hạn từng phần”. Ở đây nói vàng ròng là trang nghiêm trên mặt đất vậy.

Sao: Kinh này là Tiểu Bản nên nói tắt. Nói rộng thì như Đại Bản viết: “Trong cõi nước Phật Di Đà, bẩy báu tự nhiên như vàng, bạc, thuỷ tinh, lưu ly, san hô, hổ phách, xà cừ, thể tính của chúng đều là ôn hòa nhu nhuyễn, dùng bẩy thứ báu xen kẽ vào nhau tạo thành đất. Hoặc chỉ dùng một thứ báu làm đất, ánh sáng rực rỡ, trong sạch mầu nhiệm lạ lùng, hơn hẳn tất cả thế giới mười phương. Nước Cực Lạc thì rộng rãi mênh mông không cùng hết được. Đất đều bằng phẳng, không có núi non như núi Tu Di, Kim Cương, Thiết Vi; cũng không có biển lớn, biển nhỏ, hang hố hốc giếng, không có chỗ nào tối tăm”.

Giải thích hoa Mạn Đà La.

Sớ: “Hoa Mạn Đà La”. Trung Quốc gọi là Hoa Trắng, cũng gọi là Vừa Ý. Nhưng nước Cực Lạc ánh sáng thường soi không nhờ mặt trăng, mặt trời cho nên không có ngày đêm. Căn cứ vào kinh Đại Bản lấy hoa nở, chim kêu làm ban ngày; hoa cụp, chim yên nghỉ làm đêm; không có bốn mùa xuân hạ thu đông, thường hòa vừa phải.

Sao: “Bạch Hoa”, “Thích Ý” là nêu tắt một loài trong bốn loài hoa. Nếu nói đủ thì phải như trong Pháp Hoa, trời mưa bốn thứ hoa: Một là hoa Mạn Đà La, ở địa phương này là Tiểu Bạch Hoa; hai là hoa Ma Ha Mạn Đà La, Trung Hoa gọi là Đại Bạch Hoa; ba là hoa Mạn Thù Sa, Trung Hoa gọi là Hoa Đỏ Nhỏ; bốn là hoa Ma Ha Mạn Thù Sa, Trung Hoa gọi là Hoa Đỏ Thắm Lớn. Kinh Đại Bản viết: ” Có hoa Ưu Bát La và Hoa Bát Đầu Ma, hoa Câu Vật Đầu, hoa Phân Đà Lợi đều là thiên hoa vậy”. Cõi nước Phật A Di Đà chủ bạn y chính đều có ánh sáng cho nên không có nhật nguyệt âm dương, không có bốn mùa rét nóng; nhưng mà lấy hoa nở chim kêu làm ban ngày, sen cụp chim nghỉ làm ban đêm”. Nhưng e rằng đấy là Tịnh độ Phàm Thánh Đồng Cư, vì đối với uế độ sắp quên mà chưa quên, bởi vì chúng sinh sinh về đấy phần nhiều là đới nghiệp vãng sinh (mang nghiệp vãng sinh). Nếu về ba cõi trên thì không có tướng như thế.

Giải thích về vạt áo.

Sớ: Vạt áo tức “y khâm”.

Sao: Ngài Chân Đế nói rằng đó là đồ đựng hoa ở nước ngoài. Trong lời giải gồm hai cách giải thích, cách một làm chính. Bởi vì “cách” vốn là vạt áo. Đến khi trời mưa hoa, cần gì phải lấy thứ gì khác nữa mà lấy ngay vạt áo đựng gom, sẽ dùng vạt áo nhặt hoa mà rải, rải rồi buông vạt áo mà quên đi. Đó là việc rất vừa ý của Tịnh độ.

Giải thích cúng dàng.

Sớ: “Cúng dàng thập vạn ức Phật”: Đại Bản viết: “Nhờ oai lực của Phật, trong thời gian một bữa ăn đi tới mười phương vô lượng thế giới, cung kính cúng dàng chư Phật”.

Sao: Đây văn còn lược. Nếu dẫn cho đủ thì như kinh viết: “Cõi Phật A Di Đà, các Bồ Tát nhờ oai thần của Phật, trong khoảng bữa ăn đến được khắp cả 10 phương vô lượng thế giới, cúng dàng chư Phật. Tùy ý muốn gì như hoa hương, âm nhạc, áo lọng, tràng phan, vô số những thứ cúng dàng tự nhiên hóa hiện ra trước mắt. Những thứ đó quý báu đặc biệt, không phải ở thế gian có được, dùng cúng Phật luôn cả các chúng Bồ Tát, Thanh Văn. Hoặc ai muốn dâng hoa thì ở trong không gian hóa thành lọng hoa; loại nhỏ chu vi 40 dặm, hoặc 50 dặm, hoặc 60 dặm, cứ thế lớn dần; có loại lên đến hơn 600 vạn dặm. Mỗi cái đều tuỳ theo lớn nhỏ, đứng yên trong hư không, đều thành hình tròn, tư thế đều quay xuống trở thành cúng dàng. Ánh sáng chói lọi, hơi hương xông khắp mọi nơi không thể nói xiết. Đã dùng xong rồi cứ theo lần lượt biến mất. Các Bồ Tát ở trong hư không cùng tấu âm nhạc cõi trời, dùng những âm thanh mầu nhiệm ngợi khen đức của Phật và nghe nhận kinh pháp, sung sướng vô cùng. Cúng dàng xong rồi, hốt nhiên nhẹ nhàng quay về chỗ cũ, cũng như trước khi chưa ăn vậy.

Giải thích khi giờ ăn.

Sớ: “Thực thời’” là trước giờ Ngọ. Đại Bản viết: “Khi muốn ăn, cái bát thất bảo tự nhiên ở ngay trước mặt, trăm thứ ẩm thực tự nhiên đầy ắp. Người ăn thấy sắc ngửi hương tự nhiên no đủ, thân tâm mềm dịu, không có đắm về mùi vị. Ăn rồi lại biến đi, đến giờ ăn nó lại hiện ra.

Sao: Đại Bản viết đủ thế này: “Khi ăn cơm, có người muốn bát bạc, có người muốn bát vàng, có người muốn bát bằng lưu ly thủy tinh, có người muốn bát bằng san hô, hổ phách, xà cừ, mã não; hoặc có người muốn bát bằng châu minh nguyệt, bằng châu ma ni, bằng bạch ngọc, bằng tử kim… thì những bát đó đều tùy ý hiện ra trước mắt. Trong bát đầy những món ăn uống. Các vị chua, mặn, cay, nhạt, muốn sao được vậy. Nhiều không thừa, ít không thiếu; cũng không vì ngon mà ăn quá mức, chỉ để cho thêm khí lực. Ăn rồi tự nhiên tiêu tán không có cặn bã. Hoặc chỉ thấy sắc ngửi hương, song ý cũng cho là ăn thì tự nhiên no đủ, không say đắm mùi vị, thân tâm trong sạch ích lợi. Đã dùng xong rồi tự nhiên lại tiêu đi, khi nào muốn ăn lại hiện lên như trước. Trong cõi Cực Lạc kia, trong sạch yên ổn, vui sướng nhiệm mầu. Rồi chứng đạo vô vi Nê Hoàn.

Linh cầm thuyết pháp.

Nêu chính văn.

Lại nữa Xá Lợi Phất! Nước kia thường có các loài chim mầu sắc lạ lùng: Chim Bạch Hạc, chim Khổng Tước, chim Anh Vũ, chim Xá Lợi, chim Ca Lăng Tần Già, chim Cộng Mệnh. Những loại chim này ngày đêm sáu giờ hót ra giọng hòa nhã. Những giọng ấy diễn thuyết những pháp Năm Căn, Năm Lực, Thất Bồ Đề, Bát Thánh Đạo. Chúng sinh ở cõi ấy nghe giọng hót rồi đều niệm Phật niệm Pháp, niệm Tăng cả.

Giải thích nghĩa kỳ diệu.

Sớ: Chim quý ở Tịnh độ so với các loài ở Sa Bà này không giống nhau nên gọi là kỳ diệu. Như Lai thuận với lòng đời mà thuyết, người phiên dịch theo loại mà phiên dịch.

Sao: Loại lông vũ ở cõi Sa Bà dù là chim quý, đã không phải là quang minh hóa ra, nó là tội nghiệp sinh ra thì không được gọi là kỳ diệu. Có người ngờ rằng: “Đã không là tội nghiệp vì sao lại cùng tên?” Đáp: “Vì Phật nói thuận theo thế gian nên người dịch theo loại mà phiên dịch. Thực ra thì không thể lấy ở phương này để so sánh”.

Giải thích loài chim.

Sớ: Bạch Hạc,…, ba loại này có thể giải thích được. Còn như chim Xá Lợi, Trung Hoa gọi là Xuân Oanh hoặc gọi là Thu Lộ. Ca Lăng Tần Già, Trung Hoa dịch là chim Diệu Âm. Còn ở trong trứng, tiếng nó đã hơn các loài chim khác. Chim cộng mệnh là hai đầu một thân, quả báo thì giống nhau, về thức tính thì khác nhau. Pháp Hoa viết là Mệnh Mệnh vậy.

Sao: Ngoài ra như văn đã giải thích. Chim Diệu Âm, chữ xác viết đúng là phải chữ xác này (vỏ trứng). Có người viết chữ xác (âm là khấu) là sai. Đại Luận viết: “Chim Tần Già khi còn ở trong trứng, tiếng đã hơn loài chim khác”. Hai loại chim Tần Già, Cộng Mệnh, phương đông không có.

Giải thích hòa nhã.

Sớ: “Hòa nhã” là âm thanh làm vui lòng người. “Diễn xướng”: Thuyết pháp trôi chảy vậy.

Sao: Âm thanh tuy làm vui lòng người nhưng không làm cho tai sai lầm, không làm cho lòng vướng mắc. Thuyết pháp đã trôi chảy thì có khả năng sinh tư tuệ, tu tuệ. Chúng sinh đều bất thoái là ở chỗ này vậy.

Giải thích về đạo phẩm.

Năm căn.

Sớ: “Năm Căn”: 1. Tín; 2. Tinh tiến; 3. Niệm; 4. Định; 5. Tuệ. Có khả năng sinh đạo Thánh cho nên gọi là căn.

Sao: Pháp trợ đạo 37 phẩm ví như cây. Bắt đầu lấy mới nghe pháp làm hạt giống, lấy tư tu làm gieo trồng tưới dội. Tức Tứ Niệm Xứ, Tứ Chính Cần, Tứ Như Ý Túc, ba căn này không mất thời tiết, nhân duyên thành tựu thì có khả năng Năm Căn thành tựu. Căn đã được sức thì có thể trừ được năm chướng như đất dày, mà tỏa cành lá Thất Giác Chi, để sinh ra hoa quả tam muội Bát Chính Đạo. Ban đầu ở cõi Sa Bà mà tạo thành ra cây lớn ở cõi thanh lương vậy. Vì vậy “Pháp giới thứ đệ sơ môn” giải thích rằng: “Một là gốc Tin, ý nói tin về chính đạo và pháp trợ đạo, thời có khả năng xuất sinh tất cả thiền định giải thoát vô lậu, nên gọi là Tín Căn; hai là Tinh Tiến Căn, ý nói đã tin chính quán Tứ Niệm Xứ và các thiện pháp trợ đạo, thì càng tinh tiến, siêng cầu không nghỉ, gọi là Tinh Tiến Căn; ba là Niệm Căn, ý nói chỉ niệm chính đạo và các trợ đạo, nhất tâm quán tưởng, không cho tà vọng vào được, gọi là Niệm Căn; bốn là Định Căn, ý nói nhiếp tâm chính đạo và các trợ đạo, nhất tâm tịch định hợp nhau không tán loạn gọi là Định Căn; năm là tuệ căn, ý nói tuệ Tứ Niệm Xứ được thu vào phép định, tính tự chiếu bên trong, không theo ý biết khác, gọi là Tuệ Căn.

Giải thích về năm lực.

Sớ: Ngũ Lực cũng như tên căn ở trên, có khả năng bài trừ nghiệp chướng cho nên gọi là lực.

Sao: 1. Tín Lực: Ý nói tin chính đạo và pháp trợ đạo. Nếu tín căn tăng trưởng thì có khả năng ngăn mọi phiền não, không bị những ngờ “thiên tiểu” làm nhiễu động nên gọi là sức tin.

2. Tinh Tiến Lực: Ý nói khi theo chính đạo này và trợ đạo pháp. Nếu căn tinh tiến thêm lớn lên, thì có khả năng phá mọi lười biếng phóng dật, khiến cho tất cả đạo pháp chính trợ thành biện, thế gọi là sức tinh tiến.

3. Niệm Lực: Ý nói khi niệm đến chính đạo này và phép trợ đạo. Nếu niệm căn tăng trưởng thì có khả năng phá các tà tưởng, thành tựu được những công đức chính niệm xuất thế, thế gọi là niệm lực.

4. Định Lực: Ý nói thu tâm về chính đạo và các pháp trợ đạo. Nếu Định Căn tăng trưởng thì có khả năng phá các loạn tưởng, phát ra các thiền định về sự lý, thế gọi là Định Lực.

5. Tuệ Lực: Ý nói tuệ Tứ Niệm Xứ soi tỏ hết thảy các pháp. Nếu tuệ căn tăng trưởng thời có khả năng phá được hết những chấp tà vọng và tất cả những tuệ thiên không Tiểu Thừa nên gọi là tuệ lực.

Bảy Phận Bồ Đế.

Sớ: “Bồ Đề”, Trung Hoa gọi là Giác Phận, còn gọi là chi. 1. Niệm Giác; 2. Trạch Pháp Giác; 3. Tinh Tiến Giác; 4. Hỷ Giác; 5. Khinh An Giác; 6. Định Giác; 7. Xả Giác.

Sao: 1. Niệm Giác: Niệm là nhớ nghĩ, ý nói khi tu các đạo pháp, khéo hiểu rõ được, thường khiến định tuệ cân bình. Nếu khi tâm bị hôn trầm, nên nhớ dùng ba pháp: Trạch Pháp, Tinh Tiến và Hỷ, quán sát các pháp khiến cho không hôn mê chìm đắm. Nếu khi tâm bồng bột, phải dùng đến phần Trừ Giác, trừ cái lỗi về thân khẩu ý. Dùng phần Xả Giác để xả quán trí. Dùng phần Định Giác để nhập vào chính định, nhiếp thu tán tâm đó khiến cho không bồng bột, đó gọi là Giác phần.

2. Trạch Pháp Giác: Trạch là kén chọn, ý nói khi dùng trí tuệ quán sát các pháp, khéo phân biệt thực hư mà không lầm nhận lấy pháp hư ngụy, cho nên gọi là phận Trạch Pháp Giác.

3. Tinh Tiến Giác: Không hỗn tạp gọi là tinh; không xen hở gọi là tiến. Nghĩa là khi tu các đạo pháp khéo hiểu rõ được, chớ theo khổ hạnh vô ích mà đối với trong các chính pháp, thường dùng tâm chuyên nhất không có xen nghỉ, cho nên gọi là phần Tinh Tiến Giác.

4. Hỷ Giác: Hỷ là Hoan Hỷ. Ý nói khi tâm giác ngộ hợp với chân pháp được Hoan Hỷ, thì phải khéo hiểu rõ hỷ ấy không sinh ra từ phép điên đảo, ở vào pháp hỷ chân chính, cho nên gọi là Hỷ Giác Phận.

5. Khinh An: Một tên nữa là Trừ Giác Phần. Trừ tức là đoạn trừ. Ý nói khi đoạn trừ các kiến giải phiền não, khéo hiểu rõ được, trừ khử các pháp hư nguỵ, thêm lớn thiện căn chân chính, nên gọi là Trừ Giác Phần.

6. Định Giác: Định là thiền định. Ý nói khi phát thiền định, khéo hiểu rõ được các pháp thiền, không sinh vọng tưởng phiền não, gọi là Định Giác Phận.

7. Xả Giác: Ý nói lìa các cảnh tham đắm sở kiến, khéo hiểu rõ được hư ngụy không thật, mãi mãi không để ý theo dõi, nên gọi là Xả Giác Phận.

Bát Thánh Đạo.

Sớ: “Bát Thánh Đạo”, các kinh còn gọi là Bát Chính Đạo. Gồm: 1. Chính Kiến; 2. Chính Tư Duy; 3. Chính Ngữ; 4. Chính Nghiệp; 5. Chính Mệnh; 6. Chính Tinh Tiến; 7. Chính Niệm; 8. Chính Định.

Sao: Ý nói tám pháp này không dựa theo thiên tà nên gọi là chính. Lại thông đến Niết Bàn nên gọi là đạo.

1. Chính Kiến: Ý nói người tu đạo vô lậu, thấy rõ bốn đế, phá được tất cả tà kiến hữu vô của ngoại đạo, thế là Chính Kiến.

2. Chính Tư Duy: Ý nói người tu khi thấy được Tứ Đế thì nhớ nghĩ chân chính, quán sát cân nhắc, khiến cho phép quán ấy tăng trưởng, nên gọi là Chính Tư Duy.

3. Chính Ngữ: Ý nói người ta dùng trí tuệ vô lậu thường giữ nghiệp miệng, tránh xa tất cả những lời dối trá không thực, gọi là Chính Ngữ.

4. Chính Nghiệp: Ý nói người tu phải dùng trí tuệ vô lậu tu trị tâm mình, trụ vào Chính Nghiệp thanh tịnh, đoạn trừ tất cả những việc làm tà vọng, thế là Chính Nghiệp.

5. Chính Mệnh: Ý nói người xuất gia thường xa rời năm loại lợi dưỡng tà mệnh, thường dùng xin ăn nuôi sống tính mạng, nên gọi là Chính Mệnh.

6. Chính Tinh Tiến: Ý nói người tu cần phải tu đạo giới định tuệ, nhất tâm chuyên tinh không gián đoạn, nên gọi là Chính Tinh Tiến.

7. Chính Niệm: Ý nói người tu nhớ nghĩ chính đạo giới định tuệ và phép trợ đạo như Ngũ Đình Tâm, có khả năng tiến đến Niết Bàn, nên gọi là Chính Niệm.

8. Chính Định: Ý nói con người ta phải thu nhiếp mọi ý tán loạn, thân tâm vẳng lặng yên tĩnh, chính trụ vào lý Chân Không, quyết định không rời nên gọi là Chính Định.

Chỉ rõ điểm thiếu.

Sớ: 37 phẩm thiếu mất ba khoa: Tứ Niệm Xứ, Tứ Chính Cần, Tứ Như Ý Túc, nên gọi là “đẳng pháp”.

Sao: Kinh đã lược qua, phần giải tuy không thêm vào, bây giờ cũng nêu ra những nghĩa ấy cho đủ để giúp sức cho hậu học tư – tu.

Tứ Niệm Xứ: Niệm là phép quán năng quán, xứ là cảnh sở quán. Ý nói các chúng sinh khởi ra bốn niệm điên đảo về Năm ấm: Sắc, Thụ, Tưởng, Hành, Thức. Về Sắc, phần nhiều khởi ra điên đảo cho là sạch; về Thụ khởi ra điên đảo cho là vui; Tưởng, Hành phần nhiều khởi ra điên đảo về ngã chấp; về Tâm phần nhiều khởi ra điên đảo là thường. Để khiến cho chúng sinh tu được bốn phép quán này để trừ bốn điên đảo kia nên gọi là Tứ Niệm Xứ.

1. Quán thân bất tịnh: Thân có nội ngoại. Thân mình gọi là nội thân, thân người khác gọi là ngoại thân. Thân nội ngoại này đều là do sự hoà hợp di thể của cha mẹ mà thành. Từ đầu đến chân, quán ra suốt thân thể, thuần là vật uế. Chúng sinh điên đảo chấp cho là tịnh rồi sinh tham đắm, cho nên khiến quán thân là bất tịnh.

2. Quán thụ là khổ: Lãnh nạp gọi là thụ, có nội thụ ngoại thụ. Ý căn chấp nhận gọi là nội thụ, thụ về năm căn kia gọi là ngoại thụ. Mỗi một căn đều có thuận thụ, trái thụ, không thuận không trái thụ. Đối với cảnh thuận tình thời sinh lạc thụ; đối với cảnh trái tình thời sinh ra khổ thụ; với cảnh không trái không thuận thời sinh ra bất khổ bất lạc thụ. Lạc thụ là hoại khổ, khổ thụ là khổ khổ, bất khổ bất lạc thụ là hành khổ. Chúng sinh điên đảo lấy khổ làm vui, vì vậy khiến cho quán thụ là khổ vậy.

3. Quán tâm vô thường: Tâm là thức thứ sáu. Ý nói thể tính thức tâm này lưu động, dù thô hay tế, dù nội hay ngoại, niệm niệm sinh diệt, đều là vô thường.

4. Quán các pháp là vô ngã: Pháp thì có thiện pháp và ác pháp. Người ta đều ước vào pháp mà kế chấp ngã, ý nói tôi có khả năng làm thiện, làm ác. Trong pháp thiện ác vốn không có cái ngã. Nếu pháp thiện là ngã, thì pháp ác phải là vô ngã; ngược lại, nếu pháp ác là ngã thì pháp thiện phải là vô ngã. Chúng sinh điên đảo cứ chấp có ngã, cho nên khiến quán pháp vô ngã.

Tứ Chính Cần: 1. Đã sinh ác rồi phải khiến cho nó đoạn tuyệt hẳn. Ý nói những phiền não che tâm là Ngũ Cái, xa rời năm thiện căn, vì vậy nhất tâm cần tinh tiến, dùng phương tiện mà đoạn trừ, khiến không phát sinh nữa vậy.

2. Ác chưa sinh khiến cho nó không sinh được: Ý nói những ác pháp phiền não như Ngũ Cái… tuy bây giờ nó chưa sinh, về sau nếu phát sinh thì nó có khả năng ngăn năm loại thiện căn, vì vậy nhất tâm cần tinh tiến, dùng những phương tiện tu tập khiến cho nó mãi mãi không phát sinh được.

3. Thiện nó đã sinh rồi khiến cho nó lớn thêm lên: Ý nói năm loại thiện căn… tuy sinh thiện pháp rồi phải giữ gìn khiến cho nó lớn lên, vì vậy nhất tâm tinh tiến dùng những phương tiện tu tập khiến cho không thoái mất vậy.

4. Thiện chưa sinh khiến cho nó phát sinh: Y nói ngũ chủng thiện căn tuy chưa sinh khiến cho nó phát sinh, cũng nhất tâm cần tinh tiến dùng phương tiện tu tập khiến cho nó phát sinh.

Tứ như ý túc:

1. Dục Như Ý Túc: Dục là hy vọng, ưa mến, trang nghiêm pháp kia nên gọi là dục. Ý nói phàm tu tập các pháp gì, nếu không vui thích, thì hẳn không được toại nguyện. Nếu có khả năng ưa thích thì nguyện gì cũng đều được. Như thế gọi là Dục Như Ý Túc.

2. Niệm Như Ý Túc: Niệm là chú ý về cảnh kia, một lòng chính trụ nên gọi là niệm. Ý nói nếu không có nhất tâm quán pháp đoạn tuyệt, nếu mà nhất tâm được thì nguyện gì cũng đều được thành công. Như thế là Niệm Như Y Túc.

3. Tinh Tiến Như Ý Túc: Ý nói chỉ chuyên về quán lý khiến cho không gián đoạn tạp loạn nên gọi là tinh tiến. Phàm tu tập tất cả các pháp gì, nếu không tinh tiến thì hẳn việc không thành; nếu có khả năng tinh tiến thì nguyện gì cũng thành công. Như thế gọi là Tinh Tiến Như Ý Túc.

4. Tư Duy Như Ý Túc: Ý nói đối với cảnh kia thì phải tính lường xét rõ, nên gọi là tư duy. Phàm tu tập về tất cả các pháp gì nếu không đắn đo suy nghĩ kỹ thì không được gì, không thành tựu được gì cả. Nếu có khả năng tư duy thì nguyện gì cũng đều được. Như thế là Tư Duy Như Ý Túc.

Giải thích về chính niệm.

Sớ: Ngài Cô Sơn nói: “Niệm Phật như vua thầy thuốc, niệm Pháp như người thầy thuốc, niệm Tăng như người thăm bệnh. Ba phương pháp này đã đủ thì bệnh phiền não nào cũng khỏi. Lại nữa, quán tâm mình vẳng lặng mà thường soi, thì các pháp rõ ràng, nên gọi là niệm Phật. Soi mà thường vẳng lặng, không có pháp gì được cả, gọi là niệm Pháp. Vẳng lặng thường soi bất nhị thì ngay còn mà quên, gọi là niệm Tăng.

Đó là Tam Bảo nhất thể vậy.

Sao: Ngài Cô Sơn ước hai nghĩa mà giải thích Tam Bảo: Một là Biệt Tướng Tam Bảo, hai là Nhất Thể Tam Bảo. Ở trong biệt tướng lại chỉ nêu ra nên niệm mà không nói tướng Tam Bảo. Nói “Y Vương…”: Bởi vì bệnh sinh tử của chúng sinh, gốc nó là phiền não, muốn chữa cái bệnh ấy, nếu không phải Phật là bậc Đại Y Vương thì không thể biết bệnh mà chế thuốc; cho thuốc hợp với bệnh nên đầu tiên niệm Phật Bảo. Song thì tuy biết như vậy nhưng nếu không nghe pháp để tìm bài thuốc trị hợp bệnh mà uống thời bệnh không khỏi được, cho nên tiếp theo niệm Pháp Bảo. Tuy nhờ được Pháp Bảo nghĩ mà tu, nếu không có bạn lành là Bồ Tát đồng hành, là ngoại hộ, là ăn uống tiết độ, và bảo cho phép kiêng tránh thì bệnh cũng khó khỏi được, cho nên tiếp nữa là niệm Tăng Bảo. Nếu muốn biết được chỗ niệm thời lấy đầy đủ tam thân tứ trí làm Phật Bảo, 12 phận giáo đã thuyết ra làm Pháp Bảo, 41 ngôi vị Bồ Tát làm Tăng Bảo. Phật diệt độ rồi lại có Thế Gian Trụ Trì Tam Bảo, thì đúc vàng, khắc gỗ làm Phật Bảo; bối diệp từ phương tây tới là Pháp Bảo; cạo đầu nhuộm áo là Tăng Bảo. Nếu hay quy y hay niệm hai loại Tam Bảo này thì dứt được gốc bệnh phiền não. Cái quả của căn bệnh sinh tử có thể khỏi được vậy. Hai là Nhất Thể: Ở văn viết rằng: “Lại quán tâm mình tịch mà thường chiếu…” ấy vậy. Bởi vì Phật gọi là tỉnh thức, tỉnh thức là soi. Cho nên dùng tâm này vẳng lặng mà thường soi các pháp rõ ràng gọi là Tam Bảo. Pháp gọi là bất giác, thì bất giác là tịch cho nên soi mà thường vẳng lặng, không pháp có thể được, gọi là Pháp Bảo. Tăng gọi là hòa hợp. Vẳng lặng và soi không hai, tức là nghĩa hoà hợp. Cho nên dùng vẳng lặng và soi không hai, tức nhớ đấy quên đấy, gọi là Tăng Bảo.

Giải thích sinh tâm.

Sớ: Ngài Linh Chi dạy: “Cõi này tâm cấu uế, thường nghĩ đến năm dục. Cõi kia thì tâm tịnh, chuyên niệm Tam Bảo. Hai cõi hơn kém nhân thế mà thấy được”.

Sao: Ôi! Đối cảnh sinh tâm, tuy Phật Thánh hiền cũng không thể không có. Chỉ cầu cho đúng mà thôi. Thế giới Sa Bà, cảnh trần thô cứng, cho nên cái tâm đối cảnh sinh ra, trụ mà không đúng. Chỉ có Tịnh độ, trong tai đã nghe là tiếng nhiệm mầu, cho nên ai nghe âm thanh này đều sinh ra thâm tâm niệm Tam Bảo cả. Ý nói sinh tâm nhưng không trụ, vô trụ mà sinh tâm ấy vậy.

Giải thích điều ngờ.

Nêu chính văn.

Này ông Xá Lợi Phất! Ông chớ bảo loại chim này thật là do tội báo mà sinh ra.Tại sao vậy? Tại vì cõi nước Đức Phật Di Đà không có ba ác đạo. Này ông Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật A Di Đà, tên ác đạo còn không có, huống chi là có ác đạo thật. Những loài chim ấy đều do Đức Phật A Di Đà muốn cho pháp âm được lưu thông mà tạo tác biến hóa ra.

Giải thích ác đạo ở Tịnh độ có tên nhưng không có thật thể.

Sớ: Ở trược thế, các loại cầm súc từ tội nghiệp đem lại, Tịnh độ duyên gì lại có thế, vì vậy nên nói rằng: “Chớ bảo tội báo sinh ra”. Ở Đại Bản, ngài Pháp Tạng Tỷ Khiêu nguyện rằng: “Ví dù tôi được thành Phật, trong nước có Địa ngục, Ngã quỷ, Súc sinh thì tôi không thành Phật”.

Sao: Dưới câu trược thế cầm súc là nghi vấn, cho nên câu dưới thích nghi. Cho nên từ chữ Đại Bản trở xuống mới dẫn chứng.

Giải thích danh thể của Tịnh độ ác đạo đều không.

Sớ: Nhưng cõi kia thanh tịnh, tên chữ “ác đạo” còn không có, huống chi lại có súc sinh thực từ tội báo sinh ra ư? Đó đều là do Đức Phật Di Đà biến hóa tạo tác ra vậy. Thế nên Quán Kinh dạy: “Ngọc như ý châu tuôn ra sắc vàng ánh sáng mầu nhiệm. Ánh sáng đó hóa làm chim trăm màu rực rỡ, tiếng hót hòa nhã khen Phật Pháp Tăng”.

Ngài Linh Chi dạy: “Phải biết rằng các chim ấy là do thần lực của Như Lai muốn khiến cho tiếng pháp vang xa”. Biết rằng không phải do tội báo sinh ra vậy.

Sao: Dưới câu “nhiên bỉ” chính là làm rõ ở đấy không có ác đạo. Dưới chữ “giai thị” nói rõ lý do đây tại sao mà có. Cho nên dưới câu “Quán Kinh” dẫn để chứng minh. “Linh Chi” trở xuống cũng dẫn như thế.

Năm phong thụ nhạc âm.

Nêu chính văn.

Này ông Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật kia gió hiu hiu thổi động các hàng cây báu và lưới ngọc phát ra âm thanh mầu nhiệm, ví như trăm nghìn loại nhạc cùng tấu lên một lúc. Người nghe tiếng nhạc ấy tự nhiên đều sinh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Này ông Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc công đức trang nghiêm thành tựu như thế đấy.

Dẫn ra rõ từ kinh.

Sớ: Đại Bản viết: “Gió nhẹ hơi động, thổi vào cây báu, diễn ra rất nhiều âm thanh đạo pháp mầu nhiệm. Âm thanh ấy bay khắp nước chư Phật, ai nghe âm thanh ấy được pháp nhẫn sâu”. Quán Kinh viết: “Nước ma ny rót vào trong hoa diễn thuyết các pháp Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã và các Ba La Mật”.

Dẫn về văn nói rõ thanh tịnh.

Sớ: Ngài Cô Sơn dạy: “Tuy lầu ngọc ao vàng để cho người ta nhìn đẹp mắt, nhưng không phải mầu sắc để làm cho người ta mê hoặc phóng đãng, mà có khả năng đạt tới duy tâm không cảnh. Tuy cây gió tiếng chim có vui vào tai song không phải là những tiếng dìm đắm, mà có khả năng niệm Tam Bảo, có nơi chốn để về vậy .

Sao: Người đời ai chán phiền nhiều tất đóng lại cả thấy nghe để rơi vào cái lỗi thiên khô. Kẻ nào vui về phồn hoa thì hẳn mê mải chạy theo về thanh sắc để bị trói buộc vào cái khổ của sự bối rối. Tóm lại, đời ngũ trược ác thế, căn trần đều uế. Nếu không có phép quán thể không, lại không có môn phân tích mầu sắc, dù tiến dù thoái, sao tránh được khỏi lỗi? Chi bằng Tịnh độ không thiếu lầu ngọc ao vàng chơi bời, với niềm vui gió cây tiếng chim. Thấy sắc mà không mê hoặc phóng đãng, nghe âm thanh mà không chìm đắm vì cái lỗi nhọc phân biệt, nhưng lại có khả năng đạt tới cảnh duy tâm, sâu niệm Tam Bảo mà không có cái lỗi thiên khô vậy. Mầu nhiệm của Tịnh độ, thung dung trung đạo, ai nghe mà không cầu là sai lầm lắm vậy.

Pages: 1 2 3