LUẬN TAM VÔ TÍNH
(Xuất từ Vô Tướng Luận)
Tam tạng Chân Đế dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt
QUYỂN THƯỢNG
Luận nói:
Trong Phẩm lập không, nhân không đã xong, chưa lập pháp không. Để làm rõ pháp không, nên nói Phẩm các pháp vô tự tính.
Giải thích:
Trước nói Phẩm không, sau nói Phẩm vô tính là để làm gì? Đáp: Trước nói Phẩm không, để hiển thị nhân không, chỉ trừ phiền não chướng, đó là biệt đạo. Sau nói Phẩm vô tính để hiển thị pháp không, thông trừ tất cả trí chướng và phiền não chướng, đó là thông đạo. Lại còn có công dụng khác, là trừ 3 cái luận hư vọng của thế gian: 1. Đấu tránh là thắng luận. Như các luận của Lộ-già-da-đề-ca và Tăng-khư v.v… 2. Đa văn là thắng luận. Như các luận của 4 Vĩ-đà và I-đề-ha-bà v.v… 3. Chính hành là thắng luận. Như Nhị thừa giáo v.v…
Nay nói 2 không trừ 3 luận này. Trước nói nhân không để trừ 2 luận của ngoại đạo trước. Tiếp đến nói pháp không để trừ cái chấp thiên lệch của Tiểu thừa cho đến các luận tà chấp của ngoại đạo, hiển thị chân thật chính hạnh, nhân hạnh này được rốt ráo không gì so sánh. Lại nữa nói nhân không là phá tà pháp, nói pháp không là lập chính pháp. Nếu nói rõ rộng rãi luận dụng như 18 bộ, là hiển thị cái dụng này, cho nên nói luận này. Đây tức thứ nhất nói rõ dụng phần.
Luận nói:
Ngoại đạo hỏi trong pháp gì lập vô tính này, trước phải an lập pháp đó. Nếu nói như vậy thì có chỗ tương ưng với lý vô tướng, thật hư 2 cảnh tức có thể thấy ngay.
Đáp: Tất cả các pháp không ra ngoài 3 tính: 1. Tính phân biệt. 2. Tính y tha. 3. Tính chân thật.
Tính phân biệt, là danh ngôn hiển thị tự tính các pháp. Tức tương tự trần thức phần.
Tính y tha, là dựa vào nhân dựa vào duyên hiển thị tự tính của pháp. Tức loạn thức phần, vì y nhân nội căn duyên ngoại trần khởi.
Tính chân thật, là pháp như như. Pháp là phân biệt y tha 2 tính. Như như tức là 2 tính vô sở hữu. Tính phân biệt do không có thể tướng nên vô sở hữu. Tính y tha do vô sinh nên vô sở hữu. Hai cái vô sở hữu này đều không biến đổi nên nói như như. Vì vậy gọi cái như như này là tính chân thật. Đây tức là đệ nhị tương ưng phần, tức lập danh. Tiếp đến theo 3 tính này, nói 3 vô tính. Do 3 vô tính nên phải biết là lý một vô tính. Theo tính phân biệt thì do tướng vô tính nên nói là vô tính. Bởi vì sao? Như chỗ hiển hiện thì tướng là thật vô, cho nên tính phân biệt lấy vô tướng làm tính. Theo tính y tha thì do sinh vô tính nên nói là vô tính. Bởi vì sao? Sinh này do sức duyên mà thành, không do tự thành. Sức duyên tức là tính phân biệt. Tính phân biệt, thể đã không vì không có sức duyên, nên sinh cũng không được lập. Cho nên tính y tha lấy vô sinh làm tính. Theo tính chân thật thì do chân thật vô tính nên nói là vô tính. Bởi vì sao? Vì lý này là chân thật, tất cả các pháp do lý này nên đồng một vô tính. Cho nên tính chân thật lấy vô tính làm tính.
Giải thích:
Theo tính chân thật, do chân thật vô tính nên nói là vô tính. Nghĩa là tính chân thật này không có pháp nào khác, tức trở lại cái vô của 2 tính trước là tính chân thật. Vì chân thật là vô tướng vô sinh. Tất cả pháp hữu vi không ra ngoài 2 tính phân biệt và y tha này. Hai tính này đã chân thật vô tướng vô sinh, do lý này nên tất cả các pháp đồng một vô tính. Cái một vô tính này chân thật là vô, chân thật là hữu. Chân thật, không có 2 cái hữu của phân biệt và y tha này. Chân thật, có 2 cái vô của phân biệt y tha này. Cho nên không thể nói hữu cũng không thể nói vô. Không thể nói hữu, như 5 trần. Không thể nói vô như sừng thỏ. Tức là phi hữu tính, phi vô tính, nên gọi là tính vô tính. Cũng lấy vô tính làm tính, nên nói là tính vô tính, tức là phi an lập đế. Nếu vậy 3 tính đều an lập. Hai tính trước là an lập thế đế. Thể thật là vô, an lập là hữu, cho nên tính chân thật tức là an lập chân đế. Đối khiển trừ 2 hữu, an lập 2 vô, gọi là chân đế. Trở lại tìm kiếm tính này, lìa hữu lìa vô nên phi an lập thì 3 vô tính đều phi an lập. Đây tức đệ tam tướng phần, nói rõ 3 thứ thể tướng.
Luận nói:
Ba thứ tính như vậy đã nói tướng của chúng là vô tính . Nay phải nói đạo lý thành lập. Tính phân biệt là không có thể tướng. Bởi vì sao? Vì tính này không ở trong 5 tạng. Nếu pháp là hữu thì không ra ngoài 5 tạng. Năm tạng là: 1. Tướng. 2. Danh. 3. Phân biệt. 4. Như như. 5. Vô phân biệt trí.
Tướng, là phẩm loại các pháp, chỗ y chỉ của danh, cú, vị. Danh, tức là danh cú vị của phẩm loại các pháp. Phân biệt, là tam giới tâm tâm pháp. Như như, là pháp không, hiển thị cảnh giới của thánh trí. Vô phân biệt trí, là do trí này nên tất cả thánh nhân có thể thông đạt như như.
Trong 5 pháp này, trước 3 là thế đế, sau 2 là chân đế. Tất cả các pháp không ra ngoài 5 pháp này. Nếu tính phân biệt, thể của nó là hữu pháp, thì phải ở trong 5 pháp này. Bởi không ở trong đây nên biết là vô thể.
Ngoại đạo nói: Pháp này nếu không thể tướng làm sao phân biệt?
Đáp: Chỉ có tên gọi, không có nghĩa. Bởi vì sao? Như thế gian từ trong nghĩa lập ra tên gọi. Phàm phu chấp lấy tên gọi phân biệt nghĩa tính, gọi cái tên gọi tức nghĩa tính, đó là điên đảo. Cho nên chỉ có phân biệt không có thật thể.
Ngoại đạo nói: Làm sao biết cái phân biệt này là hư vọng chấp?
Đáp: Vì tên gọi và nghĩa này đều là khách. Sở dĩ như vậy là vì ở trong nghĩa, tên gọi là khách chẳng phải nghĩa loại. Ở trong tên gọi, nghĩa cũng là khách chẳng phải loại tên gọi.
Ngoại đạo nói: Làm sao biết được cả hai là khách lẫn nhau?
Đáp: Do 3 nghĩa nên có thể biết lý này. Một là trước cái tên gọi, trí không sinh. Như người đời lập ra tên gọi. Nếu cái tên gọi này tức là thể tính của nghĩa thì khi chưa nghe tên gọi không nên được nghĩa đã thấy, khi chưa được tên gọi trước đã được nghĩa. Lại nếu tên gọi tức là nghĩa, khi được nghĩa tức phải được tên gọi. Vì không có nghĩa này nên biết là khách. Hai là một nghĩa có nhiều tên cho nên nếu tên tức là nghĩa tính. Hoặc có một vật có nhiều thứ tên. Tùy theo nhiều tên nên phải có nhiều thể. Nếu tùy theo nhiều tên tức có nhiều thể thì pháp trái nhau được lập một chỗ. Nghĩa này trái với chứng lượng. Vì không có nghĩa này nên biết là khách. Ba là tên không nhất định. Nếu tên tức là nghĩa tính thì tên đã không nhất định, nghĩa tính cũng phải không nhất định. Bởi vì sao? Hoặc danh mục của vật này ở nơi vật kia cho nên biết tên là vật không nhất định. Không như vậy cho nên biết chỉ là khách. Lại nữa ông nói cái tên này ở trong nghĩa, vậy trong nghĩa như thế nào, trong hữu nghĩa hay trong vô nghĩa? Nếu trong hữu nghĩa thì trở lại thành 3 câu hỏi trước. Nếu trong vô nghĩa thì tên và nghĩa đều là khách. Đây chắc chắn thành lập.
Ngoại đạo nói: Nghĩa và tên chẳng phải phân biệt tạo ra. Bởi vì sao? Vì thật tên có thể hiển thị thật nghĩa. Như thật có cái đèn chiếu sáng thật có cái bình v.v… Cho nên tên và nghĩa đều chẳng phải phân biệt.
Đáp: Nghĩa đó không đúng. Bởi vì sao? Vì sự chiếu không bình đẳng. Nếu như ông nói có thật nghĩa thì dùng tên rõ nghĩa, như đèn chiếu sắc. Nghĩa đó bất thành. Bởi vì sao? Vì trước phải được nghĩa sau mới lập ra tên, khi chưa được nghĩa không được lập tên. Đã do trước thủ nghĩa sau mới lập tên, thủ còn không thể rõ nghĩa huống chi tên mà rõ nghĩa được sao? Bởi đèn chiếu vật, nghĩa thì không vậy. Phải do nơi cái đèn nên có thể biết vật, không có chuyện trước biết vật rồi sau mới cần đèn. Cho nên nghĩa của chiếu là không bình đẳng.
Giải thích:
Nói thủ còn không thể rõ nghĩa, tức là như cái thức được nghĩa trước, tiếp đến thủ lấy nó là xanh hay vàng hoặc đúng hoặc sai v.v…, từ sau khi thủ rồi mới lập tên. Nếu thủ có thể rõ nghĩa thì không được khi chưa thủ đã được nghĩa. Cho nên không do nơi thủ có thể được rõ nghĩa. Tên ở sau thủ lẽ nào có thể rõ được. Lại nữa nếu tên có thể rõ nghĩa thì bao nhiêu người khác khi chưa biết tên thì không nên nghe tên không được nghĩa đó. Ví như do đèn chiếu sắc, người ấy do đèn có thể biết rõ sắc, nhưng những người khác do đó không thể thấy sắc là không có nghĩa như vậy. Chắc chắn do đèn chiếu có thể hiển sắc. Do tên rõ nghĩa thì không như vậy. Cho nên nghĩa của chiếu là không bình đẳng.
Luận nói:
Ngoại đạo nói: Nếu ông bảo do tên phân biệt nghĩa, thật không có chỗ phân biệt nghĩa. Cho nên trong tên không nghĩa, trong nghĩa không tên. Cả 2 đều là khách, thì nghĩa ấy không đúng. Bởi vì sao? Nếu người chấp tên khác với nghĩa, nghĩa khác với tên, người này đã không điên đảo thì trong nghĩa phải không chấp sai. Không nên nghe nói tốt xấu mà sinh tâm vui buồn, vì tên và nghĩa không tương quan. Nghe tốt xấu liền sinh tâm vui buồn cho nên biết tên và nghĩa tương ưng không được coi là khách. Phải biết nghĩa khách đó là điên đảo của ông.
Đáp: Nghĩa đó không đúng. Bởi vì sao? Do tập điên đảo đã lâu nên có chấp sai này, không liên quan đến tương ưng tên và nghĩa. Nếu người đã chấp tên khác nghĩa khác do tên đối với nghĩa cũng chưa khỏi chấp sai. Bởi vì sao? Do thời gian dài lâu thường tập, danh ngôn huân tập tâm nên phải do pháp môn này sinh tâm phân biệt khởi hư vọng tà chấp. Như phàm phu người chính kiến cũng biết thân này chỉ có sắc v.v… hành tụ. Do thường tập ngã chấp kiên cố cho nên đối với tự tha tương tục không khỏi có tà chấp nhân ngã. Như phân biệt danh và nghĩa này là pháp tà chấp, tức là điên đảo tăng ích vô vật. Như nhân ngã tà chấp nên biết tên và nghĩa tà chấp là pháp điên đảo. Đã là điên đảo thì làm sao sinh điên đảo này mà chẳng phải trói buộc? Cho nên do tà chấp huân tập bản thức mà thành chủng tử có thể sinh khởi tính y tha là quả vị lai. Tà chấp này tức là tính phân biệt có thể làm nhân cho tính y tha vị lai. Lại nhân đó quả của tính y tha vị lai lại sinh pháp chấp điên đảo vị lai. Tức là do tính y tha làm nhân có thể sinh tính phân biệt vị lai làm quả. Như thế lại làm nhân cho nhau nên sinh tử hằng khởi liên tục không dứt.
Đây tức thứ 4 nói về phần thành lập 3 tính. Nghĩa về thành lập tính phân biệt xong.
Lại riêng có 6 thứ sai biệt. Tiếp theo nói về phẩm loại sai biệt của tính này. Nhưng tính phân biệt này có 6 thứ sai biệt:
1. Tự tính phân biệt. Nghĩa là phân biệt thể tướng các ấm như sắc v.v… nhưng chỉ lấy chứng lượng, 5 thức chỉ có thể trực tiếp thủ 5 trần, cho đến ý thức có thể trực tiếp thủ pháp, không phân biệt các thứ ở trong một cái cho nên gọi là tự tính phân biệt.
2. Sai biệt phân biệt. Nghĩa là có sắc có thể thấy không thể thấy. Sắc thì có thể thấy. Hương, vị 5 trần không phải thứ mắt thấy được. Như vậy tùy trong một tự tính lại phân biệt có nhiều thứ không giống nhau, nên gọi là sai biệt phân biệt.
3. Giác tri phân biệt. Nghĩa là trông thấy pháp liền biết tên gọi và có thể nói cho người khác biết. Đã tự mình biết tên gọi lại có thể khiến người khác biết, nên gọi là giác tri phân biệt.
4. Tùy miên phân biệt. Nghĩa là trông thấy vật không biết tên gọi, vì không thể nói rõ vật gì, nên gọi là tùy miên phân biệt.
5. Gia hành phân biệt. Gia hành phân biệt lại có 5 thứ: 1. Tùy ái phân biệt. 2. Tắng ức phân biệt. 3. Hòa hợp phân biệt. 4. Viễn ly phân biệt. 5. Tùy xả phân biệt. Do 5 phân biệt này sinh 3 độc phiền não nên gọi gia hành. Hợp 5 cái này với 4 cái trước là xác định nghĩa phân biệt.
6. Danh tự phân biệt. Danh tự phân biệt lại có 2 thứ: 1. Hữu danh tự. 2. Vô danh tự. Hữu danh tự, nghĩa là vật này thật như vậy, hoặc sắc cho đến thức, hoặc hữu vi vô vi, hữu thường vô thường, thiện, ác, vô ký, các chấp như vậy đều có tên gọi phân biệt. Vô danh tự, nghĩa là đây là vật gì, đây là thế nào, đây là vì sao, tại sao như thế? Bốn câu phân biệt này, câu đầu tiên tìm thể tính, câu tiếp tìm nguyên nhân, câu ba tìm thể sai biệt, câu bốn tìm sai biệt của nhân. Bốn câu này đều là vô danh tự phân biệt. Đây là 5 thứ dựa vào tên phân biệt tự tính của nghĩa. Lại có 5 thứ sở phân biệt tự tính: 1. Dựa vào tên phân biệt tự tính của nghĩa. 2. Dựa vào nghĩa phân biệt tự tính của tên. 3. Dựa vào tên phân biệt tự tính của tên. 4. Dựa vào nghĩa phân biệt tự tính của nghĩa. 5. Dựa vào tên và nghĩa phân biệt tự tính của tên và nghĩa.
7. Dựa vào tên phân biệt tự tính của nghĩa, nghĩa là loại này là sắc, do thể tính của sắc mà thành, cho đến loại này là thụ, tưởng, hành, thức v.v… do thể tính của thức mà thành .
Giải thích:
Nghĩa là người này trước chưa biết được nghĩa, chỉ được nghe nói tên và sắc tướng của sắc ấy, như sắc này có hình tướng có thể nắm cầm, có thể hư hoại. Những tướng mạo và tên như vậy cho là sắc. Người này sau trông thấy tướng mạo phẩm loại của một sắc thể như cái sắc xưa đã từng nghe biết, liền do tên gọi có thể phân biệt thể tính của sắc. Cho đến thức ấm cũng vậy, trước được nghe tên chưa thấy cái thể, sau được cái thể như xưa đã nghe tức biết là vậy, cho đến thức cũng thế.
Luận nói:
1. Dựa vào nghĩa phân biệt tự tính của tên, nghĩa là loại này có thể gọi là sắc, loại kia không thể gọi tên là sắc, cho đến loại này có thể gọi tên là thức, loại kia không thể gọi tên là thức, do trước được nghĩa rồi sau phân biệt lập ra tên.
2. Dựa vào tên phân biệt tự tính của tên, nghĩa là tên của sắc này, như người tuy được tên chưa biết phẩm loại của tên ấy nên lại tư duy suy lường học các giải thích nghĩa của nó. Đó gọi là dựa vào tên phân biệt tên, cho đến tên thức mà tìm kiếm chỗ giải thích phẩm loại cũng vậy.
3. Dựa vào nghĩa phân biệt tự tính của nghĩa, nghĩa là chưa được tên của sắc do không định tên phân biệt loại sắc. Như người chưa biết tên của vật, chỉ thấy cái thể của vật mà phân biệt cái thể này khác với các vật khác, không biết định là vật gì. Vì không biết định danh của nó chỉ nói là dựa vào nghĩa phân biệt nghĩa. Cũng như đứa con nít chưa biết tên gọi và không phân biệt thức vị. Các cảnh giới sở đắc như 5 thức v.v… đều duyên vào nghĩa không duyên tên gọi.
4. Dựa vào tên và nghĩa phân biệt tự tính của tên và nghĩa, nghĩa là loại này lấy sắc làm thể. Sắc này tức là tên. Như người trước đã biết tên biết nghĩa, sau phân biệt trở lại tên và nghĩa trước đã biết. Nghĩa là đây là thể của sắc, đây tức là tên của sắc. Cho đến loại này lấy thức làm thể, thức này tức là tên. Như vậy đều gọi là dựa vào tên và nghĩa phân biệt tên và nghĩa.
Năm phân biệt này tức nói rộng cái tự tính phân biệt đầu tiên trong 6 thứ sai biệt ở trước. Trước là lược nói cho nên chỉ nói tự tính phan biệt. Sau nói rộng nên phân biệt 5 thứ tự tính. Như vậy trước 6 sau 5 đều là sai biệt về phẩm loại của tính phân biệt.
Đã nói xong về sai biệt phẩm loại của tính phân biệt, tiếp nói công dụng của tính phân biệt. Tính phân biệt này phân biệt trước 6 sau 5. Nay để làm rõ công dụng sai biệt của 6 và 5 tính phân biệt này nên có 8 thứ phân biệt có thể làm thành 3 thứ sự loại. Ba sự loại là: 1. Hý luận loại. 2. Ngã kiến ngã mạn loại. 3. Dục v.v… hoặc loại. Tám thứ phân biệt là:
5. Tự tính phân biệt. Nghĩa là các loại sắc v.v… sắc tức sắc, ấm v.v… tức ấm loại của 4 ấm. Tức là trước dựa vào tên phân biệt nghĩa v.v… 5 thứ phân biệt tự tính, và tự tính trước tiên trong 6 thứ ở trước. Như vậy tất cả những thứ đó đều gọi là tự tính phân biệt.
6. Sai biệt phân biệt. Nghĩa là đối với các loại sắc có thể thấy không thể thấy, ngại không ngại v.v… phân biệt có vô lượng sai biệt đều y chỉ vào tự tính phân biệt. Đó gọi là sai biệt phân biệt.
7. Trong nhóm chấp một phân biệt. Nghĩa là trong sắc ấm chấp ngã, chúng sinh, mạng giả, thụ giả, những thứ như vậy gọi là lập cộng kỳ, chấp đó mà khởi phân biệt. Lại trong nhiều pháp tụ chấp tụ làm nhân, nghĩa là nhà, quân, xe, áo, ăn, uống v.v… các tên như vậy đều là lập cộng kỳ, chấp đó mà khởi phân biệt. Đó gọi là trong nhóm phân biệt chấp một. Nếu đây là 2 tức phân biệt nội ngoại. Trước là chấp có nhân, sau là chấp có pháp.
Giải thích:
Cộng kỳ, nghĩa là những tên gọi được lập ra và lưu hành phổ biến ở đời đều là cộng kỳ hợp tác muốn khiến cùng làm một hiểu biết chung.
Luận nói:
8. Ngã phân biệt. Nghĩa là loại này là hữu lưu hữu thủ, thời gian dài lâu ngã chấp thường dựa vào sự quen tập, từ đó tà chấp quen tập duyên thân kiến sở y chỉ khởi hư vọng phân biệt. Đó gọi là ngã phân biệt.
Giải thích:
Loại này là hữu lưu hữu thủ, nghĩa là loại tức là thức A-lê-da là gốc của các hoặc. Hữu lưu tức là vô minh. Hữu thủ tức là tham ái. Quá khứ phiền não 10 sử bởi diệt không thể phân biệt tên các hoặc, nên chỉ gọi chung là vô minh có thể chướng trí minh. Vô minh này có thể làm nhân các hoặc, có thể lưu chuyển sinh tử nên gọi là hữu lưu. Như một số người nói vì lưu chú sinh tử, vì tâm lậu liên tục rót vào, vì chẳng phải con người nắm giữ, cho nên nói là hữu lưu. Thủ, tức là quả của hữu lưu. Nhân tạ diệt quá khứ nên gọi là quả hữu lưu. Vị lai tương tục trong hiện tại nên gọi là thủ. Tức chủng tử tham dục tùy miên trong hiện tại tương tục. Nếu các phiền não đều ở trong hiện tại tương tục nói lưu, nói thủ, tức lưu là 4 lưu, thủ là 4 thủ. Như vậy nói riêng lưu và thủ này đều không lìa bản thức, nên nói loại này là hữu lưu thủ.
Thời gian dài ngã chấp thường y tập quán, nghĩa là nói chung từ vô thủy đến nay vì có các hoặc lưu thủ này, nên nói là thời gian dài lâu. Có 3 thứ ngã chấp: 1. Tùy miên. 2. Thượng tâm. 3. Tập khí. Nói thường, tức nói tùy miên. Ngã chấp thường thường chấp thượng bản thức. Nói thường xuyên, tức thượng tâm, ngã chấp thường xuyên khởi. Nói tập, tức nói tập khí, ngã chấp thường thường khởi tùy miên. Thượng tâm là nội phiền não, được kiến đế thì hoặc này liền dứt. Tập khí là huân tập lâu mà thành, chẳng phải là chính phiền não, cho nên khi được La-hán cái này còn chưa diệt, được pháp như như mới có thể khiển trừ một ít. Ba ngã chấp này đều y bản thức. Loại duyên thân kiến sở y chỉ khởi hư vong phân biệt, là nói bản thức có 2 nghĩa, là chỗ y chỉ của 3 thứ thân kiến: 1. Có thể làm chủng tử sinh thân kiến. 2. Làm thân kiến duyên cảnh giới khiến khởi hư vọng ngã chấp. chính duyên bản thức này làm cảnh giới khởi, nên gọi là ngã phân biệt.
Luận nói:
1. Ngã sở phân biệt. Nghĩa là loại này là hữu lưu thủ. Thời gian dài ngã chấp thường y tập quán, từ tập quán tà chấp này duyên ngã sở kiến sở y chỉ loại khởi hư vọng phân biệt, gọi là ngã sở phân biệt. Nghĩa của cảnh giới sở chấp không khác với thứ 4, chỉ khác là có thể phân biệt có ngã chấp với ngã sở chấp.
2. Ái phân biệt. Nghĩa là duyên khả ái tịnh loại hư vọng phân biệt, gọi là ái phân biệt.
3. Tắng ức phân biệt. Nghĩa là duyên khả tắng bất tịnh loại hư vọng phân biệt, gọi là tắng ức phân biệt.
4. Phi ái phi tắng phân biệt. Nghĩa là duyên phi khả ái tắng loại, trở ngược lại 2 phân biệt trước, gọi là pi ái phi tắng phân biệt.
Nếu lược nói phân biệt chỉ có 2 thứ, một là phân biệt y chỉ, hai là phân biệt cảnh giới. Trong 8 thứ phân biệt, tự tính và sai biệt, cùng với trong nhóm chấp một, 3 phân biệt này có thể làm hý luận phân biệt y chỉ và làm hý luận phân biệt cảnh giới. Bởi vì sao? Y chỉ loại này gọi là tưởng ngôn sở khởi phân biệt, gọi là tưởng ngôn sở huân tập phân biệt, gọi là hý luận phân biệt. Trong 3 loại này do duyên 3 tên nên thường khởi các thứ tướng mạo. Phân biệt như vậy gọi là hý luận. Lấy 3 loại làm y chỉ, 3 tên làm cảnh. Hý luận là thể phân biệt. Cảnh giới y chỉ tức là tính phân biệt. Hý luận phân biệt tức là tính y tha.
Giải thích:
Trong 8 phân biệt, 3 phân biệt trước gọi là hý luận. Phân biệt 3 cái này mỗi mỗi tức là thể của y chỉ, tức là thể của cảnh giới, tức là thể của hý luận. Bởi vì sao? Vì trong 3 phân biệt đều có năng sở. Năng tức là thể của hý luận. Trong sở thì có 2, là loại và danh. Loại tức là 3 thứ nghĩa loại. Danh tức là các thứ tên của 3 loại. Vì vậy cho nên lấy nghĩa làm y chỉ, lấy danh làm cảnh giới, duyên tên gọi đây làm pháp môn lấy nơi nghĩa loại nên chính lấy sở thủ làm y chỉ, sở duyên làm cảnh giới nên nói y chỉ loại này duyên danh tưởng ngôn sở khởi phân biệt. Nói tưởng ngôn, nghĩa là tâm tưởng cái tên gọi này nói tên này, cho nên nói là tưởng ngôn. Đây tức là phân biệt làm chỗ y chỉ cho tưởng ngôn. Nay trong đây lập tưởng ngôn đều là danh tự. Muốn làm rõ danh tự có thô tế thì danh là thô, tưởng là tế. Thô nói là rất thô, cho nên dùng 3 danh mục 3 phân biệt này trước tiên là tự tính phân biệt, trực tiếp nói rõ thể của sức v.v… các pháp. Nghĩa này là tế cho nên lập tên là danh.
Tiếp đến là sai biệt phân biệt nói rõ thể sai biệt thì nhỏ, là thô cho nên lập tên tưởng. Trong nhóm kia chấp một phân biệt, nghĩa là cái bình, cái nhà v.v… đáy là rất thô cho nên theo đó nói là danh. Danh tưởng ngôn huân tập phân biệt gọi là hý luận phân biệt, nghĩa là do duyên 3 cái danh này là cảnh giới khởi ra phân biệt. Sở phân biệt tức có huân tập nghĩa của năng phân biệt. Năng phân biệt tức là hý luận phân biệt. Trong 3 loại duyên 3 cái danh thường thường khởi ra các thứ tướng mạo, nghĩa là nói y chỉ 3 loại duyên 3 danh làm pháp môn mà thường sinh khởi các thứ tướng mạo. Phân biệt y chỉ cảnh giới hý luận, thể chỉ là một mà dụng có 3 nghĩa.
Luận nói:
Tiếp đến ngã và ngã sở. hai phân biệt này có thể tạo ra thân kiến và nguồn gốc các kiến, có thể tạo ra ngã mạn và nguồn gốc các kiêu mạn.
Giải thích:
Hai phân biệt này thí dụ trước cũng đã rõ, tức cảnh giới y chỉ và thể của phân biệt trước đã làm rõ thí dụ tự có thể hiểu không phải nói thêm nữa. Chỉ nói rõ năng sinh, sau là ngã kiến và làm gốc của các kiến do chấp có ngã nên sinh các kiến, ngã sở chấp có thể làm gốc của ngã mạn và các mạn.
Luận nói:
Sau ái tắng đối 2, 3 phân biệt này có thể sinh dục sân và vô minh v.v…
Giải thích:
Ba phân biệt này tức 3 độc. Cho nên có thể sinh tất cả 3 độc.
Luận nói:
Như vậy 8 thứ phân biệt có thể tạo ra 3 thứ phẩm loại sự dụng. Ba cái trước tức tạo ra loại hý luận. Tiếp 2 cái tạo ra loại ngã kiến ngã mạn. Ba cái sau tức tạo ra các loại hoặc như dục v.v… Sáu thứ phân biệt đầu tiên hiển thị thâu nhiếp nghĩa của pháp. Tất cả phân biệt không ra ngoài 6 cái này. Tất cả thâu nhiếp 3 nghĩa. Tự tính và sai biệt 2 cái này là y chỉ của phân biệt. Giác tri, tùy miên, gia hành 3 cái này là thể của phân biệt. Sau một, danh tự là cảnh giới của phân biệt. Cho nên 6 thứ gồm thâu hết các pháp. Giác tri, tùy miên thông 3 tính. Gia hành chỉ bất thiện, là thượng tâm hoặc lìa hữu 5 thứ. Tùy ái sinh tham, tùy tắng khởi sân, tùy xả sinh vô minh, 3 đây là thể của phiền não. Hòa hợp, viễn ly, là dụng của phiền não. Do tham nên hòa hợp. Do sân nên viễn ly. Do vô minh nên thông thành 2 đây không lập biệt năng. Tham là dẫn đến cảnh nên hòa hợp. Sân là bỏ cảnh nên viễn ly. Do có vô minh nên có dẫn đến bỏ đi, cho nên thông thành 2 dụng.
Tiếp dựa vào tên phân biệt nghĩa v.v… 5 thứ phân biệt là hiển thị phân biệt, y chỉ và cảnh giới. Sai biệt y chỉ và cảnh giới chỉ gồm trong tính phân biệt. Tám thứ phân biệt sau là hiển thị 3 thứ chướng sự. Nghĩa là trong nhóm tự tính phân biệt chấp một. Ba phân biệt này có thể sinh tâm phiền não làm chướng nhất thiết trí. Ngã và ngã sở 2 phân biệt này có thể sinh nhục phiền não làm chướng giải thoát. Khả ái, khả khả tắng và ngược với 2 cái đây, 3 phân biệt này có thể sinh bì phiền não làm chướng ngại thiền định. Ba phiền não này tức 3 sự loại. Tâm phiền não tức hý luận sự loại. Nhục phiền não tức ngã mạn sự loại. Bì phiền não tức dục v.v… các hoặc sự loại. Ba sự loại này là tính y tha. Nếu nói sơ lược thì phân biệt không ra ngoài 3 thứ: 1. Phân biệt y chỉ. 2. Phân biệt thể. 3. Phân biệt cảnh giới. Nếu nói phân biệt thể, nghĩa là 3 cõi tâm và tâm pháp. Y chỉ và cảnh giới lại không có thể riêng biệt, lấy tương tự nghĩa loại của trần làm y chỉ, lấy tên của tương tự nghĩa loại của trần làm cảnh giới.
Tiếp nói đến tướng hoặc, thô trọng hoặc. Nếu tính phân biệt khởi có thể tạo 2 hoặc trói buộc chúng sinh, một là tướng hoặc, hai là thô trọng hoặc. Tướng hoặc tức tính phân biệt. Thô trọng hoặc tức tính y tha. Sở dĩ 2 hoặc này được lập là vì trong trong tính y tha chấp làm tính phân biệt.
Giải thích:
Gọi tính phân biệt là tướng hoặc, là tướng nghĩa là tướng mạo. Nói tướng mạo là hoặc vì có thể làm hoặc duyên nên gọi là hoặc. Chỉ có tính y tha đúng là chính hoặc, mà nói nhẹ nặng vì tính phân biệt chỉ là hoặc duyên nói hoặc nên nói là nhẹ. Tính y tha chính là thể của hoặc nên nói thô trọng. Do tướng hoặc nên có thể chướng trí vô phân biệt không hợp với cảnh vô phân biệt vì phân biệt tướng mạo. Do thô trọng hoặc chính hoặc sau sinh các khổ v.v… Hai thứ do tương quan nhau mà có cho nên nói 2 hoặc trói buộc chúng sinh.
Luận nói:
Nếu người không được, không thấy 2 tính này thì liền được giải thoát khỏi 2 hoặc đây. Nói không được, nghĩa là không được tính phân biệt. Tính này vĩnh viễn là thể vô hữu nên không sở đắc. Nói không thấy, nghĩa là không thấy tính y tha. Tính y tha tuy là hữu thể, bởi tâm không duyên tướng nên tính này cũng không có nên nói không thấy. Tính này sở dĩ không được, không thấy là do 2 thứ đạo: một là kiến đạo, hai là trừ đạo. Do kiến đạo nên phân biệt tức không, cho nên nói không được. Do trừ đạo nên tính y tha tức diệt, cho nên nói không thấy.
Giải thích:
Xưa do chưa thấy lý nên khởi tà phân biệt. Phi hữu bảo là hữu gọi là tà kiến. Do tà kiến này có thể chướng trị đạo. Nay đã thấy lý tức thấu đạt sở kiến xưa phi hữu. Nói tính phân biệt, tức không do chính đạo này có thể trừ tà kiến xưa. Nói tính y tha, tức diệt phân biệt y tha xưa lại không có 2 thể. Nay kiến trừ 2 đạo cũng là một mà không có hai.
Luận nói:
Đó gọi là thành lập công dụng của tính phân biệt. Tính phân biệt có 4 nghĩa. Lần này nói thành lập tính y tha. Thể tướng của tính này như trước đã nói. Nay để thành tựu tính này nên nói đạo lý thành lập. Tính này không chỉ lấy ngôn thuyết làm thể. Bởi vì sao? Vì ngôn thuyết ắt phải có chỗ sở y, nếu không y loạn thức phẩm loại danh ngôn được lập là không có chuyện đó. Nếu không vậy, phẩm loại của sở y đã không có thì sở thuyết danh ngôn không được lập. Nếu vậy, là không có 2 tính. Không 2 tính thì không có hoặc phẩm. không có hoặc phẩm thì có 2 lỗi: một là không do công dụng tự nhiên giải thoát, hai là sinh tử Niết-bàn không thể hiển hiện. Do không có 2 lỗi này nên biết chắc chắn có tính y tha.
Giải thích:
Trong này nói danh ngôn chắc chắn có chỗ y chỉ. Lấy tính y tha làm sở y. Do có tính y tha nên được lập danh. Nói nếu không có tính này thì không thể lập. Cho nên trong đây nói phẩm loại sở y khác trước. Trước thì lấy phẩm loại của tính phân biệt làm sở y của danh ngôn.
Luận nói:
Thể tướng của tính này như thế nào? Đáp: Chỉ là tướng loại và thô trọng hoặc loại.
Hỏi: Sao loại này nói là y tha?
Đáp: Vì làm nhân duyên cho nhau mà thành. Sở dĩ như vậy là do duyên tướng mà thô trọng được thành, do duyên thô trọng mà tướng loại được thành. Cho nên nói 2 loại này là tính y tha. Bởi vì sao? Vì không có cái thể khác, đều gọi là tính y tha, ước theo nghĩa thì hoàn toàn không đồng.
Hỏi: Nếu vậy sao tính này do vô sinh nên gọi là tính vô sinh?
Đáp: Sở dĩ được gọi là tính vô sinh, là vì do tha lực nên sinh. Tha đã vô thể thì tự không thể sinh, vì vô nhân, vô thể cho nên vô sinh.
Hỏi: Sao không biết tính này là hữu hay là vô?
Đáp: Tính này như chỗ phân biệt không phải hữu như vậy cho nên không thể nói là hữu. Không hoàn toàn là vô nên cũng không thể nói vô. Không phải hữu như vậy nên phi hữu. Không hoàn toàn vô nên phi vô. Nếu hiểu ý thì tất cả các thứ tên đều có thể nói, cũng có thể nói hữu, cũng có thể nói vô, cũng có thể nói cũng hữu cũng vô, cũng có thể nói phi hữu phi vô đều không mâu thuẫn nhau.
Hỏi: Đây nói có là vật hữu hay giả danh hữu?
Đáp: Đủ có 2 nghĩa nên có thể nói hữu. Không phải hữu như vậy nên gọi là giả danh hữu. Chẳng phải hoàn toàn vô, nên nói vật hữu. Nghĩa là có vật.
Hỏi: Đã nói là hữu, vậy là tục hữu hay chân hữu?
Đáp: Đều là tục hữu. Bởi vì sao? Vì chẳng phải cảnh giới vô phân biệt.
Hỏi: Tướng tục đế như thế nào?
Đáp: Tục đế có 3 tướng là ngã thuyết, pháp thuyết và sự thuyết. Ngã thuyết, là ngã, chúng sinh, thọ giả, hành giả, nhân, thiên, nam, nữ v.v… Pháp thuyết, là sắc, thụ, tưởng, hành, thức v.v… Sự thuyết, là thấy, nghe, sinh, diệt v.v… những thứ này gọi là tục. Tục thành lập loại tính y tha này. Tính phân biệt ở trước cũng có 4 thứ: 1. Thành lập hữu. 2. Thành lập thể tướng. 3. Thành lập sự dụng. 4. Thành lập sai biệt. Nói rộng thể tướng xong như trước nói đủ sự dụng sau lại nói riêng. Nay trong đây trước nói có tính y tha là muốn hiển thị có tính này nên nêu sự dụng các phẩm hoặc bởi sự dụng ở trong thể tướng nên lược nêu trước.
Luận nói:
Thể của tính này như thế nào? Dưới đây lược nói thể tướng.
Hỏi: Tướng tục đế như thế nào? Dưới đây nói sai biệt của tính này. Bảy thứ như như sinh rất nhiều nghĩa. Trong như như nói nghĩa của phân biệt, y tha, dụng, nhân quả, sinh diệt, vô tiền hậu.
Chân đế, nghĩa là 7 thứ như như: 1. Sinh. 2. Tướng. 3. Thức. 4. Y chỉ. 5. Tà hạnh. 6. Thanh tịnh. 7. Chính hạnh.
1. Sinh như như, nghĩa là pháp hữu vi không trước không sau. Pháp hữu vi chỉ gồm 2 tính là phân biệt và y tha. Pháp này không trước không sau, có tất cả 3 thứ: 1. Ước theo 2 tính mà nói không trước sau. Nếu nói tính y tha có trước mà không có tính phân biệt thì y tha không thành. Nếu nói tính phân biệt có trước mà không có tính y tha thì tính phân biệt không thành. Cho nên 2 tính phải cùng nhau không có trước sau để sinh ra nhau. Tính phân biệt đã không, tính y tha cũng không, đều không nên tức là như như. 2. Ước theo nhân quả mà nói không trước sau. Nếu nhân nhất định có trước mà lại không có nhân cái gì thì không thành nhân. Nếu không do duyên gì mà tự nhiên có nhân thì nhân sẽ nhiều vô số. Nếu quả nhất định có trước thì đã không có nhân thì không thành quả. Nếu không do duyên gì mà tự nhiên có quả thì quả sẽ vô cùng. Cho nên nhân quả là vô định. Trước sau chuyển chuyển hướng vào nhau, hướng về trước thì là quả, hướng về sau thì là nhân. Sinh tử không có cái bắt đầu. Như vậy thể của nhân quả tức phân biệt y tha. Phân biệt đã không thì y tha chẳng có. Đó tức là như như. 3. Ước theo sinh diệt mà nói không trước sau. Nếu sinh trước diệt sau thì có 2 lỗi: 1. Chưa có lão tử đã có được sinh. 2. Chưa bỏ cái sinh này đã được cái sinh kia. Nếu vậy lại có 2 lỗi: 1. Cái sinh sẽ vô dụng, vì đây đã sinh rồi cần gì cái sinh kia vì chưa xả báo. 2. Cái sinh sẽ vô cùng, đã sinh rồi lại sinh chuyển chuyển mà chấp thì bao giờ mới cùng. Nếu vậy lại có 2 lỗi: 1. Chỉ sinh mà không diệt thì phải là thường. 2. Nếu có sinh nhiều thì có nhiều chúng sinh. Nếu vậy thì nhân quả không có nghĩa phát sinh nhau. Lại nếu hằng sinh thì không có Niết-bàn. Nếu diệt trước sinh sau thì đã chưa có sinh lấy gì mà diệt. Lại phải trước Niết-bàn sau thụ sinh tử. Trước có diệt vậy thì giải thoát rồi trở lại chịu trói buộc. Cho nên sinh diệt không có trước sau, cũng không tách rời phân biệt y tha, cho nên nói là như như.
2. Tướng như như, nghĩa là nhân pháp 2 không. Sở dĩ 2 tướng không này gọi là như như vì có 3 nghĩa: 1. Lìa hý luận. Hý luận nghĩa là chấp chân và tục hoặc một hoặc khác v.v… 4 báng thông xưng hý luận. Nếu chấp chân với tục nhất định là một thì không cần phải nhọc sức tu đạo đều được giải thoát, đều kiến chân nên đều là thánh nhân. Lại nếu chân tục nhất định là một thì chân không thể khiển trừ tục. Nghĩa đã không thể khiển trừ tục, tục hoặc không trừ thì không có nghĩa giải thoát, và chỉ có phàm phu không có thánh nhân. Nếu chấp chân nhất định khác tục thì y vào tục không thể thông chân. Chân không thể hiều, không phương tiện cho nên 2 không lìa hý luận này nên gọi là như như. 2. Là cảnh giới của trí vô phân biệt. Trí này không điên đảo, không có tục đế có thể làm cảnh, cho nên chỗ trí này hiểu tức là như như. 3. Là tính chân thật. Nếu trái tính này thì thành sinh tử. Nếu thuận tính này thì được Niết-bàn. Tính này là chân tính của tất cả pháp cho nên gọi là như như. Cho nên 2 là tướng như như, chẳng phải nói tướng không, bởi tướng không, là tướng.
3. Thức như như, nghĩa là tất cả các hành chỉ duy là thức. Thức này 2 nghĩa nên gọi như như: 1. Nhiếp vô đảo. 2. Vô biến dị. Nhiếp vô đảo, nghĩa là 12 nhập v.v… tất cá các pháp chỉ duy là thức, vì lìa loạn thức ngoài ra không có pháp nào khác, nên tất cả pháp đều gồm trong thức. Đây là nghĩa quyết định nên gọi là vô đảo, vô đảo nên như như. Vô đảo như như chưa phải là vô tướng như như. Vô biến dị, nghĩa là nói rõ loạn thức này tức là phân biệt y tha tựa như trần thức hiển thị. Do tính phân biệt vĩnh viễn là không, nên tính y tha cũng chẳng có. Hai cái vô sở hữu này tức là thức A-ma-na. Chỉ riêng có thức này không biến đổi nên gọi như như. Trước gọi như như chỉ khiển trừ 12 nhập. Tiểu thừa nói tất cả các pháp chỉ 12 nhập là chẳng phải điên đảo. Nay nghĩa của Đại thừa phá các nhập đều là không, vì chỉ do loạn thức tạo tác mà thôi, nên 12 nhập là điên đảo. Chỉ một loạn thức thì phi điên đảo nên gọi như như. Thể của thức này hãy còn biến đổi.
Tiếp đến lấy phân biệt y tha khiển trừ loạn thức này. Chỉ có thức A-ma-la là không điên đảo, là không biến đổi, là chân như như. Trước trong nghĩa duy thức cũng nên nói cái thức này. Trước lấy chỉ một loạn thức khiển trừ ngoại cảnh. Tiếp thức A-ma-la khiển trừ loạn thức, nên cứu cánh duy nhất một tịnh thức.
4. Y chỉ như như, nghĩa là như nói khổ đế. Khổ đế có 3: 1. Khổ loại. 2. Khổ đế. 3. Khổ thánh đế. Khổ loại, là 5 thủ ấm. Y chỉ vào 5 cái này gọi là chúng sinh. Cái khổ y chỉ không ra ngoài 5 cái này nên gọi khổ loại. Khổ đế, là không điên đảo biết rõ khổ loại này chắc chắn trái nghịch thánh ý. Nghĩa này là thật nên gọi khổ đế. Thánh nhân duyên đây, quyết sinh xả ly, không khởi nhiễm trước. Khổ thánh đế, là một mùi vị khổ, biết rõ khổ đế này vì tính vô thể nên là không, không cho nên vô tướng, vô tướng nên vô nguyện. Không một pháp nào có thể nguyện cầu, là ước theo thông tướng nói thể của 3 giải thoát chỉ là một. Tất cả các pháp không tách rời đây nên gọi là một mùi vị. Thánh, là chính nghĩa. Một mùi vị này không điên đảo không biến đổi nên gọi thánh đế. Trước tiên khổ loại tức tục đế. Tiếp đến khổ đế tức chân đế. Bởi không điên đảo nên an lập chân đế. Còn một sau tức đệ nhất nghĩa đế. Không điên đảo, không biến đổi là phi an lập đế. Sau bỏ 3 đế cũng vậy.
5. Tà hạnh như như, nghĩa là như tập đế. Giống như khổ, cũng có 3: 1. Tập loại. Nghĩa là 6 thứ tham ái, y 6 trần khởi, có thể khiến sinh tử liên tục không ra ngoài loại này. 2. Tập đế. Nghĩa là biết không điên đảo. Sáu tham ái này quyết định có thể khiến các hữu liên tục. Chân thật vô đảo gọi là tập đế. 3. Tập thánh đế. Nghĩa là tập họp một mùi vị. Không khác 4 đế ở trước, đều lấy 3 môn giải thoát làm một mùi vị.
6. Thanh tịnh như như, nghĩa là diệt đế, cũng có 3 thứ: 1. Diệt loại. Nghĩa là 4 quả Sa-môn, tức kiến tư 2 hoặc diệt hết không sinh, là loại đó. 2. Diệt đế. Nghĩa là không điên đảo. Diệt loại này chắc chắn tịch tĩnh. Đó là nghĩa của đế. 3. Diệt thánh đế. Nghĩa là diệt, một mùi vị cũng không khác trước.
7. Chính hành như như, nghĩa là như nói đạo đế, cũng có 3: 1. Đạo loại. Nghĩa là 8 thánh đạo phần là loại đó. 2. Đạo đế. Nghĩa là không điên đảo. Tám đây quyết định có thể xuất ly khỏi tập. Đó là nghĩa của đế. 3. Đạo thánh đế. Nghĩa là đạo một mùi vị cũng không khác trước. Lại nữa, y chỉ như như, tức như nói khổ đế. Khổ đế, là hành khổ vì vô thường. Vô thường có 3 nghĩa: 1. Không có vô thường. Nghĩa là tính phân biệt của khổ vĩnh viễn là vô sở hữu. cái vô sở hữu này là nghĩa của vô thường. Chân thật có cái vô sở hữu này, gọi là chân như như. Nếu lấy trước không sau không, làm vô thường, thì đây là tục đế. Không điên đảo gọi là như như, chẳng phải chân như như. 2. Sinh diệt vô thường. Nghĩa là tính y tha của khổ. Tính y tha này đã chẳng phải thật có, cũng chẳng phải thật không, khác với tính chân thật nên chẳng phải thật có, khác với tính phân biệt nên chẳng phải thật không. Chẳng phải thật có cho nên là diệt. Chẳng phải thật không cho nên là sinh. Sinh diệt như thế là nghĩa của vô thường, mà sinh chẳng phải thật sinh, diệt chẳng phải thật diệt, là chân như như. 3. Ly bất ly vô thường. Nghĩa là tính chân thật của khổ. Tính này trước đạo chưa lìa cấu, sau đạo thì lìa cấu. Ước theo vị trí bất định nên nói vô thường. Thể không biến đổi gọi là như như. Lại nữa, tà hạnh như như, là như nói tập đế. Tập đế nghĩa là chân và tự 2 tập. Chân tập, là các phiền não có thể khiến 5 ấm liên tục là có. Tự tập, là các nghiệp có thể được các đạo sai biệt. Tập có 3 thứ: 1. Huân tập tập. Nghĩa là loại hoặc của tính phân biệt có thể huân khởi tập., Bởi vì sao? Do loại hoặc của phân biệt có thể tạo tác tập nhân. 2. Phát khởi tập. Nghĩa là phiền não và nghiệp. Bởi vì sao? Vì do đây thành sinh khởi. Giải thích:
Phát khởi tập đây tức là tính y tha. Thể của tính y tha tức là phiền não và nghiệp. Do tính này có thể sinh khởi tự thể 5 ấm của vị lai. Lại được tính phân biệt sinh tức tự sinh sinh tha, nên gọi là phát khởi tập.
Luận nói:
3. Bất tương ly tập. Nghĩa là tập như như. Như như này, thể chưa lìa chướng, gọi là tập. Bởi vì sao? Như như này là tính của tập nên tập chướng gọi là tập như như. Ba đây là 3 vô tính nên gọi như như. Lại nữa, thanh tịnh như như là, như nói diệt đế cũng có 3 nghĩa:
1. Thể tướng không sinh diệt, nghĩa là loại hoặc của phân biệt vốn không có thể tướng nên gọi là diệt. 2. Năng chấp vô sinh diệt, nghĩa là chỉ loại hoặc của loạn thức do nhân do duyên vốn không có sinh nên gọi là diệt. 3. Cấu tịnh 2 diệt.Nghĩa là bản lai thanh tịnh, vô cấu thannh tịnh. Ước theo tính phân biệt mà nói bản lai vô cấu. Ước theo tính y tha mà nói vô cấu thanh tịnh. Bởi vì sao? Tính này hữu thể thì có thể nhiễm ô. Do đạo trừ cấu nên được thanh tịnh. Bản lai thanh tịnh, tức là trước đạo, trong đạo. Vô cấu thanh tịnh tức là sau đạo. Hai thanh tịnh này cũng gọi 2 thứ Niết-bàn. Trước, tức phi trạch diệt, tự tính bản hữu, chẳng phải do trí tuệ được. Sau, tức trạch diệt, do tu đạo được. Ước theo trước nên nói bản hữu. Ước theo sau nên nói thủy hữu. Thủy hiển gọi là thủy hữu, nên gọi là thanh tịnh như như. Lại nữa, chính hạnh như như, là như nói đạo đế cũng có 3 nghĩa: 1. Tri đạo. Nghĩa là ước theo tính phân biệt. Tính này là vô thể. Chỉ cần biết, không có gì để diệt, cho nên nói tri đạo. 2. Trừ đạo. Nghĩa là ước theo tính y tha. Tính này là hữu thể. Cho nên phải biết là loại phiền não cần phải diệt cho nên gọi là trừ đạo. 3. Chứng đắc đạo. Nghĩa là ước theo tính chân thật. Tính này là 2 không, nên phải biết, phải trừ diệt mới được, cho nên gọi là chính hạnh như như. Bảy thứ thể của chân đế này, tức 3 vô tính nên gọi chung là như như. Trong 7 thứ đây, 3 thứ trước là phi an lập đế. Bởi vì sao? Vì 3 thứ đây chỉ có tên khác nhau mà không có thể khác nhau. Sinh như như sở dĩ ở trước là vì có thể trừ diệt. Tướng như như sở dĩ ở kế tiếp là vì cùng diệt với sinh. Thức như như sở dĩ ở sau vì là phương tiện của diệt. Bốn như như sau là an lập đế. Bởi vì sao? Vì 4 thứ này là ước theo dụng lập tên mà dụng thì có 4. Không ước theo thể lập tên, vì thể chỉ có một mùi vị. Y chỉ sở dĩ trước nhất là vì tri kiến. Hai nghĩa phải biết là một là cảnh sở tri nhiều, hai là chỉ cần phải biết chứ không có nghĩa nào khác. Cảnh sở tri nhiều, là vì trong khổ đế có 4 nghĩa vô thường, khổ, không, và vô ngã. Các đế khác như tập v.v… 3 đế chỉ có 4 tên không có 4 nghĩa khác. Bởi vì sao? Tập đế chỉ nhân nghĩa làm thật, diệt đế chỉ lấy tịch tĩnh làm thật, đạo đế chỉ lấy xuất ly làm thật. Ngoài ra hữu duyên v.v…9 nghĩa đều là giả danh. Hai là chỉ cần phải biết chứ không có nghĩa nào khác, là khổ là quả báo của nghiệp, chẳng phải phiền não nên không thể trừ, chẳng phải thắng đức nên không phải chứng. Vì phi chính hạnh nên không phải tu, chỉ vì chán lìa nên phải biết. Cho nên không có các nghĩa đoạn, chứng, tu v.v… Nếu biết đây tức có thể diệt trừ các hoặc. Cho nên tà hạnh ở vào thứ 2. Do hoặc diệt nên chứng đắc thanh tịnh, cho nên thanh tịnh đứng hàng thứ 3. Do chứng đắc thanh tịnh đầy đủ nên chính hạnh viên mãn. Bởi vì sao? Đạo có 3 dụng: 1. Thấy nghĩa chân thật. 2. Trừ ác pháp. 3. Có thể đến tịch tĩnh. Nếu đầy đủ 3 đây thì đạo dụng viên mãn. Cho nên nói chính hạnh vào hàng thứ 4. Bảy như như này là tính chân thật.
QUYỂN THƯỢNG HẾT