SỐ 1551/6
LUẬN KINH A TỲ ĐÀM TÂM
Tác giả: Tôn giả Pháp Thắng. Tôn giả Ưu Ba Phiến Đa giải thích
Hán dịch: Đời Cao Tề, Sa môn Na Liên Đề Da Xá
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 1

Phẩm thứ 1: GIỚI

Trước đảnh lễ Tối Thắng

Lìa nóng nói lợi ích

Tương ưng ngôn thuyết kia

La-hán thấy rõ thật.

Trước: Là trước hết. Đảnh lễ: Là có tịnh tín, cung kính lễ bái.

Tối Thắng: Là Đức Thế Tôn, là bậc Ứng Cúng, tức đã nhận mọi sự cúng dường. Lại, ở trong tất cả pháp là hơn hết, nên gọi là Tối Thắng. Lại nữa, Đức Thế Tôn đối với tất cả pháp, đối với tất cả chủng loại đều được tự tại, nên gọi là Tối Thắng.

Lìa nóng: Là nghĩa lìa thiêu đốt. Nghĩa là phiền não nóng bức có thể thiêu đốt thân tâm. Đức Thế Tôn đã lìa bỏ sự việc ấy, nên gọi là lìa nóng. Đây là phần trí đoạn của chính Ngài đã thành tựu.

Sư kia (Tức chỉ cho Tôn giả Pháp Thắng) nói như thế là nhằm làm rõ phần tự lợi viên mãn nơi Đức Như Lai.

Tiếp theo nói lợi ích: Nghĩa là lời nói của Đức Thế Tôn có thể tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh.

Lợi ích: Là an ổn. An ổn và lợi ích là một nghĩa, chỉ khác tên gọi. Đây là làm rõ về hành lợi tha viên mãn của Đức Thế Tôn. Đấy là lược nói về công đức tự lợi, lợi tha đã viên mãn của bậc Thiên Nhân Sư. Vì Đức Thế Tôn đã thực hiện rốt ráo hai hành trên, nên là hơn hết trong Ứng Cúng.

Tương ưng ngôn thuyết kia: Tức là nghĩa đạo lý đã được hiển bày, tương ưng với công đức như vậy, tương ưng với lời nói của bậc Thiên Nhân Sư.

Lễ kính nói ở đây gọi là lễ Pháp bảo.

La-hán thấy rõ thật: Nghĩa là nên thọ nhận sự cúng dường của hàng trời, người, A-tu-la v.v… nên gọi là A-la-hán, đây nói là vô học. Thật: Nghĩa là bốn Thánh đế. Do tu học mà nhận thấy, nên A-la-hán kia được gọi là thấy rõ thật, đây chính là nói về học. Học, vô học v.v… này được gọi là Tăng đệ nhất nghĩa.

Lễ kính nói ở đây gọi là lễ Tăng bảo.

Hỏi: Vì sao phải lễ kính?

Đáp:

Phật mở mắt tuệ giác

Như biết các pháp chúng

Cũng vì người khác hiện

Ta nay nói phần ít.

Phật: Là người nhận biết tất cả pháp, nhận biết tất cả chủng loại, nên gọi là Phật. Mở mắt tuệ giác: Là nghĩa mắt của trí vô ngại.

Như: Nghĩa là như Đức Phật đã giảng nói, đã chỉ rõ, đã tuyên thuyết, đã giải thích pháp. Biết: Là hiểu. Pháp: Nghĩa là gìn giữ. Gìn giữ nơi tự tánh, vì cái khác tạo duyên nên gọi là pháp. Vì pháp có tích tụ nên gọi là pháp chúng. Pháp chúng, quần tụ là cùng một nghĩa chỉ khác tên.

Cũng vì người khác hiện: Nghĩa là tự mình nhận biết, giác ngộ rồi, thì đem lại lợi ích cho thế gian, vì người khác hiển bày chỉ rõ. Hoặc có người đã nhận biết, đã giác ngộ, nhưng lại không vì kẻ khác giảng nói, như kinh Thăng Nhiếp Ba Lâm đã nêu.

Ta nay nói phần ít: Nghĩa là trong pháp do Đức Phật đã giảng nói, nay ta chỉ nói một phần ít về pháp tướng, đâu có thể nói hết nghĩa như vậy.

Hỏi: Pháp nào là do Đức Phật đã giảng nói, nay sắp nói?

Đáp: Đó là pháp hữu lậu, vô lậu, có phiền não, không phiền não, thọ ấm, có tranh chấp, không tranh chấp, sắc, vô sắc v.v… Nay ta sẽ nói.

Tất cả hành hữu lậu

Lìa thường, lạc, ngã, tịnh

Nhận lãnh nơi ngã v.v… này

Không thấy được hữu lậu.

Tất cả hành hữu lậu, Lìa thường, lạc, ngã, tịnh: Nghĩa là các hành hữu lậu đều lìa thường, lìa lạc, lìa ngã, lìa tịnh, trong đó thế gian không thể quán xét, vì trí mờ tối do vô minh ngăn che tức nơi bốn môn này chỉ thấy biết điên đảo, nên gọi là điên đảo.

Hỏi: Do nhân nào nhận biết được các hành hữu lậu đều lìa ngã?

Đáp: Vì việc của ngã là không, vì thuộc về nhân duyên, nên hành gọi là thuộc về cái khác, không phải là tự tánh của ngã. Kẻ chấp ngã nói: Ngã không thuộc về cái khác, trừ bỏ ngã này lại là không. Thế nên tánh của ngã không thể đạt được. Vì không có được nhân của ngã, nên các hành đều lìa ngã.

Hỏi: Do nhân nào nhận biết được các hành hữu lậu đều lìa lạc?

Đáp: Vì tạo bức bách, nên các hành hữu lậu là tự tánh của khổ, cũng là duyên của khổ, nên mới bị bức bách. Bức bách gọi là khổ, tức là lìa lạc.

Hỏi: Do nhân nào nhận biết được các hành hữu lậu đều lìa thường?

Đáp: Vì sinh diệt, vì hiện thấy các hành sinh rồi liền diệt, không nhận thấy là thường, thế nên nói là lìa thường.

Hỏi: Do nhân nào nhận biết được các hành hữu lậu đều lìa tịnh?

Đáp: Vì sự việc cấu nhiễm. Các sự việc hữu lậu là cảnh giới của phiền não đều là bất tịnh, cấu nhiễm, nên là lìa tịnh.

Hỏi: Các hành như vậy đều lìa ngã v.v… vì sao thế gian lại nhận lấy ngã v.v…?

Đáp: Nhận lãnh nơi ngã này, Không thấy được hữu lậu: Các hành hữu lậu đều không được thấy biết như thật. Thế gian không thể quán xét, tạo hiểu biết đúng về ngã v.v… Cũng như kẻ oán đối che giấu điều dục ác, chỉ nói ra lời hay đẹp để được đi vào trong nhà. Thật sự kẻ ấy không phải là bạn thân, nhưng đã khiến chúng ta hiểu là bạn thân. Do ngã, ngã sở che lấp, nên không nhận thấy vô ngã. Vì thế hiện chỉ thấy hành v.v… tạo nghiệp là do mê lầm, tức trong sự việc vô ngã mà thấy có ngã. Đối trị với việc che lấp khổ, nên nơi các hành trụ v.v… đều khởi tưởng cho là vui, rồi ở trong ấm khổ thọ lại tạo ra hiểu biết cho là vui. Sự tương tợ nối tiếp cũng che lấp sự vô thường. Người kia hiện thấy sắc tương tợ nối tiếp rồi ghi nhận, nhớ nghĩ sự việc từ trước, như tụng đọc, hành trì kinh luận, nên ở trong hành vô thường đã tạo hiểu biết là thường. Vì màu sắc da bên ngoài che giấu những thứ bất tịnh, nên người kia đối nơi xứ tóc, lông, móng, răng v.v… của mình lắm khi thấy là tịnh. Tức là trong bất tịnh mà tạo hiểu biết là tịnh. Tuy trông thấy phân, nước tiểu vốn là bất tịnh vẫn còn sinh khởi mê lầm, cho đấy là bất tịnh, nhưng các thứ khác là tịnh. Giống như loài dã can xem hoa Khẩn-thúc-ca.

Hỏi: Vì sao Luận này trước tiên nói đến điên đảo?

Đáp: Vì để nhận biết pháp tướng không điên đảo, nên như trước tôi đã nói, vì muốn khiến cho đệ tử nhận hiểu chân thật. Do tâm không điên đảo, nên an ổn dễ lãnh hội. Thế nên Luận này trước hết nói về điên đảo.

Hỏi: Chỉ có các hành hữu lậu này là lìa ngã v.v… hay là còn có pháp nào nữa?

Đáp: Còn có.

Nếu xứ sinh phiền não

Thánh nói là hữu lậu

Do tên của lậu kia

Người tuệ nói phiền não.

Nếu xứ sinh phiền não, Thánh nói là hữu lậu: Nghĩa là nếu nương dựa, hoặc tụ tập, hoặc duyên hợp, hoặc là số chúng sinh hay chẳng phải số chúng sinh, sinh khởi các phiền não như thân kiến v.v…, thì pháp ấy nói là hữu lậu.

Hỏi: Vì sao?

Đáp: Do tên của lậu kia, Người tuệ nói phiền não: Tức quan sát phiền não rồi đặt ra tên gọi lậu, do pháp kia sinh khởi phiền não, tức dựa nơi lậu sinh khởi nên gọi là hữu lậu. Như có người sợ đạo có thức ăn độc v.v… nên nói như vậy. Nếu sự việc thuộc về lậu, vì lậu đã gồm thâu thì sự việc ấy gọi là hữu lậu. Ở đây nói vô lậu duyên nơi phiền não sinh, thì không phải là pháp vô lậu thuộc về phiền não hay bị phiền não thâu tóm, vì pháp vô lậu chỉ duyên nơi phiền não sinh.

Hỏi: Thế nào là nghĩa của lậu?

Đáp: Từ cõi Hữu đảnh xuống đến ngục Vô gián, trong khoảng trung gian đó là nẻo ung nhọt lậu của sáu nhập nên gọi là lậu, giống như một thứ ghẻ lậu. Lại, vì lưu trú nơi sinh tử nên gọi là lậu.

Hỏi: Hữu lậu này còn có tên gọi nào nữa?

Đáp: Có.

Cũng gọi có phiền não

Thủ ấm cùng có tranh

Phiền, thủ, tranh chấp sinh

Biết nói tự tánh kia.

Cũng gọi có phiền não, Thủ ấm cùng có tranh: Tức pháp hữu lậu này cũng gọi là có phiền não, cũng gọi là thủ ấm, cũng gọi là có tranh chấp.

Hỏi: Vì sao hữu lậu có nhiều tên gọi?

Đáp: Phiền, thủ, tranh chấp sinh, Biết nói tự tánh kia: Tức các phiền não, thủ, tranh chấp v.v… là tên gọi khác của lậu. Từ phiền não sinh, lậu kia cũng lại sinh phiền não, nên gọi là có phiền não. Như vậy từ thủ sinh, lậu kia cũng lại sinh thủ, nên gọi là hữu thủ. Từ tranh chấp sinh, lậu kia cũng lại sinh tranh chấp, nên gọi là có tranh chấp.

Hỏi: Ấm này Đức Thế Tôn đã nói là thủ ấm, tức ấm này là lìa thủ ấm thì riêng có ấm khác chăng?

Đáp: Nếu là thủ ấm thì ấm này tức là ấm. Hoặc có khi là ấm nhưng không phải là thủ ấm.

Hỏi: Vì sao như thế?

Đáp:

Nếu hành lìa phiền não

Đây là ấm vô lậu

Cùng trước có thủ ấm

Là ấm Thánh đã nói.

Nếu hành lìa phiền não, Đây là ấm vô lậu: Nghĩa là ấm này nêu bày chưa đầy đủ. Tức có hai thứ ấm: Vô lậu, hữu lậu. Nếu hành lìa phiền não như thân kiến v.v…, thì đó gọi là vô lậu, là ấm, không phải là thủ ấm.

Cùng trước có thủ ấm, Là ấm Thánh đã nói: Nghĩa là nếu ấm vô lậu này cùng với thủ ấm đã nói ở trước hợp nói là ấm thì đó là năm ấm như sắc v.v…

Hỏi: Thế nào là nghĩa của ấm?

Đáp: Nghĩa tụ tập là nghĩa của ấm.

Hỏi: Nếu như vậy thì ấm chỉ là giả danh thật sự là không có vì không phải chỉ một vật được gọi là tụ tập mà do hòa hợp nên gọi là tụ tập?

Đáp: Không phải chỉ có tướng mà cũng có sự thật. Có sự việc này nên có tướng kia, vì vậy ấm có tướng. Như Đức Phật đã nói tướng ngăn ngại là sắc ấm v.v… Thế nên có sự việc như giới v.v… thâu tóm cảnh giới của trí, thức, sử v.v…, như bốn Thánh đế, nên ấm có sự việc, không phải chỉ là giả danh.

Hỏi: Ấm, giới, nhập có gì sai biệt? Đáp:

Mười thứ là sắc nhập

Cũng gọi sắc vô giáo (Vô biểu)

Là phân biệt sắc ấm

Đức Thế Tôn đã nói.

Sắc có hai thứ: (1) Sắc do vi trần tích tụ. (2) Sắc không phải do vi trần tích tụ.

Sắc do vi trần tích tụ tức là mười sắc nhập: Tức từ nhãn cho đến xúc.

Sắc không phải do vi trần tích tụ: Được gọi là sắc vô giáo (Sắc vô biểu), thuộc về pháp nhập, nơi phẩm Nghiệp sẽ nói đến. Tất cả sắc này đều là số của sắc ấm, là cùng nhập của sắc ấm, Đức Phật đã nói là sắc ấm, do đây tiếp xúc với kia, do kia tiếp xúc với đây, nên gọi là sắc. Do đây xúc não kia, do kia xúc não đây, là nghĩa ấy. Như Đức Phật đã nói: Như sự tiếp xúc của tay v.v…, vì tiếp xúc nên gọi là sắc.

Hỏi: Nếu như vậy thì trừ sắc vô giáo ra, các sắc kia không phải là sắc. Vì sao? Vì không phải tay v.v… để có thể tiếp xúc, do không có đối.

Nếu ý của ông cho: Chỗ nương dựa là có thể tiếp xúc thì sắc kia cũng là có thể tiếp xúc, nên không có lỗi, nghĩa là thọ v.v… cũng nên là sắc chăng?

Nếu ý của ông cho: Vì sắc kia đã dựa vào bốn đại là có thể tiếp xúc, nên thọ kia cũng là có thể tiếp xúc, thì tôi sẽ nói: Hiện thấy những sự việc cần cho tạo tác, như tạo nên bức họa, tạo ra đất nhão để nặn tượng. Nếu như vậy thì các tâm số như thọ v.v… cũng nên là sắc, vậy ông có lỗi, vì thọ v.v… kia cũng dựa vào các căn như mắt v.v… và thọ kia cũng nên có thể tiếp xúc chăng?

Đáp: Chẳng phải chỉ sinh khởi nhân của tâm tâm số, chẳng phải tâm tâm số dựa vào các căn như mắt v.v… như ánh sáng dựa vào viên ngọc. Lúc tâm tâm số kia sinh thì mắt v.v… làm nhân, như vậy mắt v.v… là xúc, thọ kia không phải là xúc.

Lại nữa, sắc được tạo là dựa nơi đại, như ánh sáng dựa vào viên ngọc, thế nên đại là xúc, sắc được tạo kia cũng là xúc.

Hỏi: Tuy nói như vậy nhưng tướng của ông nêu cũng tự không thành. Vì sao? Vì trừ sắc của vi trần trong quá khứ, vị lai?

Đáp: Tướng không thể hoại, khi xúc của sắc quá khứ đã diệt, sắc vị lai cũng sinh ra tướng như vậy. Như thế, vi trần cũng là có thể tiếp xúc, do vi tế nên không thể được biết. Vì vậy hết thảy các sắc đều là có thể tiếp xúc.

Chỗ gọi là thức ấm

Tức nói là ý nhập

Ở trong mười tám giới

Cũng nói là bảy giới.

Thức ấm đó là sáu thức thân, là trong mười hai nhập nói là ý nhập. Nơi mười tám giới phân biệt là giới của bảy tâm: Nhãn thức giới, nhĩ thức giới, tỉ thức giới, thiệt thức giới, thân thức giới, ý thức giới, ý giới v.v…

Thức là khả năng nhận biết về duyên, nên gọi là thức. Thức là nghĩa có thể nhận lấy duyên.

Ngoài tức có ba ấm

Ba vô vi vô giáo

Nói đó là pháp nhập

Đấy cũng là pháp giới.

Như trước đã nói, các pháp như thọ v.v… gọi chung là một pháp nhập, là một pháp giới trong mười tám giới.

Nghĩa của nhập đó là nghĩa cửa, là nghĩa vào, như cửa sổ. Như Đức Phật đã nói: Mắt của Bà-la-môn là cửa ngõ cho đến thấy sắc. Nghĩa của chữ nhập là nghĩa chuyển tải, thu nạp, có thể làm tăng trưởng tâm tâm số pháp. Do nghĩa này nên gọi là nhập.

Nghĩa của giới: Nghĩa của tánh là nghĩa của giới, như giới chu sa, giới hùng hoàng v.v…

Nghĩa của chữ giới là có thể giữ lấy tự tướng, cùng với thứ khác tạo duyên nên gọi là giới. Sự việc của giới này có mười bảy, hoặc lại mười hai. Vì sao? Vì trừ sáu thức giới, lại không có ý giới, thế nên mười bảy tức là sáu thức thân lần lượt nối tiếp, gọi là ý giới. Như tên gọi cha con, người con lần lượt nối tiếp theo thứ lớp được gọi là cha. Như vậy, trừ ý giới, ngoài ra không có sáu thức giới riêng biệt, vì thế mười hai nương dựa cùng nương dựa, là duyên sai biệt nên có mười tám. Sự của giới nhập cùng gồm thâu tất cả pháp, nên ấm ấy hoàn toàn là hữu vi.

Hỏi: Trong ấm vì sao không gồm thâu vô vi?

Đáp: Vì vô vi không có tướng của ấm. Hai thứ tướng của ấm là cộng tướng và biệt tướng.

Cộng tướng là nghĩa tụ tập, là nghĩa của ấm và vô thường v.v… Biệt tướng là sự ngăn ngại của sắc v.v… Hai thứ tướng này trong vô vi không có, vì vậy ấm không gồm thâu vô vi. Ngoài ra còn có nghĩa gì nữa? Nghĩa là các sự việc không phải là điên đảo và phương tiện đoạn trừ. Vô vi không phải là sự việc điên đảo cùng phương tiện đoạn trừ điên đảo. Vì những sự việc điên đảo nên nói là thủ ấm. Vì là phương tiện đoạn trừ điên đảo nên nói là ấm vô lậu. Vậy nên trong ấm không gồm thâu vô vi.

Như thế là đã nói rất rộng về cảnh giới của ấm, giới, nhập, nên kiến lập giới là muốn nói về các thứ nghĩa, nên nói như vậy.

Trong giới, một có thấy

Mười giới nói có đối

Tám giới là vô ký

Ngoài ra thiện, bất thiện.

Trong giới, một có thấy: Nghĩa là trong mười tám giới nên biết một giới có thể thấy, đó là sắc giới. Vì sao? Vì là cảnh giới của nhãn thức nên có thể thấy. Lại nữa, có thể chỉ rõ cái này, chỉ rõ cái kia, nên có thể thấy. Mười bảy thứ còn lại nhất định là không thể thấy.

Mười giới nói có đối: Nghĩa là năm nội giới trong mười tám giới là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Năm ngoại giới là sắc, thanh, hương, vị, xúc. Đó là mười giới nói là có đối. Ba thứ có đối là chướng ngại có đối, cảnh giới có đối và duyên có đối.

Chướng ngại có đối là như tay trái và tay phải đối nhau. Cảnh giới có đối là căn cùng với cảnh giới cùng đối nhau. Duyên có đối là ý thức đối với tất cả pháp. Ở đây chỉ nhận lấy chướng ngại có đối. Lại vì cùng chướng ngại nên gọi là có đối.

Tất cả mười thứ giới kia còn hỗ tương đối nhau. Nếu không như vậy thì mười giới đó tức không tăng trưởng. Như Thượng tọa Cưuma-la-đa nói: Nếu tâm lúc muốn khởi mà bị các thứ khác gây chướng ngại, nên biết là có đối, trái lại là không đối. Ngoài ra, tám giới kia nhất định là không đối.

Tám giới là vô ký: Nghĩa là trong mười tám giới nên biết có tám giới là vô ký. Đó là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, hương, vị, xúc. Chúng không có ái, không có quả của ái có thể ghi nhận, nên là vô ký.

Ngoài ra thiện, bất thiện: Tức mười giới còn lại nói là thiện, bất thiện, vô ký. Nghĩa là giới của sắc thanh do thân miệng ý tạo ra, là thiện, bất thiện. Vì sao? Vì từ tâm thiện, bất thiện khởi lên, ngoài ra là vô ký.

Bảy tâm giới như nhãn thức v.v…: Là giới của pháp tương ưng với tâm thiện, bất thiện, vô ký. Là giới của tâm số pháp thiện, bất thiện, vô ký. Là tự tánh tương ưng với thiện, bất thiện, vô ký.

Tự tánh thiện của tâm kia: Là hổ thẹn cùng ba căn thiện như không tham v.v… Tương ưng với thiện: Nghĩa là cùng với tâm số như thọ v.v… kia tương ưng.

Tự tánh bất thiện của tâm kia: Là không hổ không thẹn cùng ba căn bất thiện như tham v.v… Tương ưng với bất thiện: Nghĩa là cùng với tâm số như thọ v.v… kia tương ưng. Cùng trái với hai thứ trên là vô ký.

Về pháp giới không tương ưng trong phẩm Tạp sẽ nói.

Trong vô vi: Một thiện, hai vô ký. Số duyên là thiện. Hư không, phi số diệt là vô ký. Ở đấy, thiện gồm thâu quả ái, do an ổn nên gọi là thiện.

Thiện gồm thâu là đạo đế và phần ít của khổ đế, tập đế. Quả ái nghĩa là phần ít của khổ đế, tập đế. An ổn là diệt đế. Trái với đấy gọi là bất thiện, là phần ít của khổ đế, tập đế kia. Trừ phần này ra gọi là vô ký. Không có thiện, bất thiện có thể ghi nhận nên gọi là vô ký.

Không có quả có thể ghi nhận cũng gọi là vô ký.

Mười lăm định hữu lậu

Còn hai, ba, ba hữu

Trong dục hữu có bốn

Mười một tại hai hữu.

Mười lăm định hữu lậu: Tức là năm nội giới, năm ngoại giới và năm thức giới. Mười lăm giới này hoàn toàn là hữu lậu.

Còn hai: Là còn lại có ba giới, là ý giới, pháp giới, ý thức giới.

Ba giới này có hai thứ là hữu lậu, vô lậu.

Hữu lậu là sinh khởi lậu cùng tương ưng với lậu. Vì là xứ có đủ dấu vết của lậu, nên gọi là hữu lậu. Cùng trái với hữu lậu này gọi là vô lậu.

Lược nói về vị tri dục tri căn v.v…: Các căn vô lậu đều sinh pháp và đắc pháp đó, được giải thoát xuất thế gian cùng vô vi là vô lậu, ngoài ra là hữu lậu.

Ba ba hữu: Tức ba giới này ở trong ba hữu có thể đạt được.

Trong dục hữu có bốn: Là giới của hương, vị, tỷ thức, thiệt thức, hoàn toàn thuộc về cõi dục. Vì dục hữu kia không phải là cõi sắc, vốn lìa đoạn thực và ái.

Mười một tại hai hữu: Nghĩa là năm nội giới và giới của sắc, thanh, xúc cùng duyên với ba thức giới kia.

Mười một giới ở cõi dục, cõi sắc này, không phải ở cõi vô sắc, vốn không có sắc.

Các giới kia bị sử cõi dục trói buộc là thuộc cõi dục. Bị sử cõi sắc trói buộc là thuộc cõi sắc. Bị sử cõi vô sắc trói buộc là thuộc cõi vô sắc.

Có giác có quán năm

Ba thứ ba khác không

Có duyên nên biết bảy

Cũng phần ít giới pháp.

Có giác, có quán năm: Là năm thức giới hoàn toàn là có giác có quán, vì nghĩa cùng tương ưng với giác, quán.

Ba thứ ba: Là ý giới, pháp giới, ý thức giới.

Ba giới kia có ba thứ: Là cõi dục và thiền thứ nhất là có giác có quán. Thiền trung gian không giác có quán. Từ thiền thứ hai cho đến cõi trời Hữu đảnh là không giác không quán.

Pháp giới có giác có quán, nghĩa là cõi dục và trời Phạm thế, trừ tâm số của giác, quán. Pháp giới không giác có quán, là nghĩa thiền trung gian, trừ tâm số của quán. Pháp giới không giác không quán, nghĩa là từ thiền thứ hai cho đến pháp giới tâm số của trời Hữu đảnh. Thiền trung gian quán tất cả pháp vô giáo v.v…

Pháp giới không tương ưng là cõi dục, trời Phạm thế, không gồm thâu trong ba giới này. Nếu muốn nói, nên nói là không quán có giác.

Ngoài ra là không: Nghĩa là ngoài mười giới không giác không quán, vì mười giới ấy không tương ưng với giác, quán.

Có duyên nên biết bảy, Cũng phần ít pháp giới: Nghĩa là bảy tâm giới và giới của tâm số pháp là có duyên. Do có duyên này, nên gọi là có duyên. Vì các giới kia có cảnh giới có thể nhận lấy nên nói là có duyên. Lại có duyên khác gọi là như tay duyên với cây gậy. Những thứ đấy là ngôn thuyết của thế tục. Nên biết nhất định là không có duyên khác.

Chín không thọ, khác hai

Hữu vi, vô vi một

Hoàn toàn là hữu vi

Nên biết mười bảy giới.

Chín không thọ: Nghĩa là chín giới quyết định không nhận lấy tên thọ. Nếu sắc ở tại số căn và không lìa căn, nếu cắt đứt, diệt bỏ, hủy hoại tâm tâm số pháp, thì ở đây thọ trụ nơi chính giữa, nếu khác thì không thọ nhận. Bảy tâm giới, thanh giới, pháp giới, chín giới này gọi là không thọ nhận, vì chúng không phải là nơi chốn dừng trụ của tâm tâm số pháp.

Khác hai: Nghĩa là chín giới khác có hai thứ: Tức năm nội giới, nếu ở trong hiện tại gọi là thọ, hoặc thức hiện tại này tuy là không, cũng gọi là có thọ, vì gồm thâu số chúng sinh thuộc chủng loại của thức đó nên nói là thọ. Như vậy, quá khứ, vị lai và phi số chúng sinh đều được gọi là không thọ nhận. Vì sắc, hương, vị, xúc cùng với căn không lìa nhau, nên ở hiện tại gọi là thọ nhận. Như tâm tâm số pháp trong căn, dừng trụ nơi căn đó cũng như vậy, ngoài ra gọi là không thọ nhận.

Lược nói nếu pháp sinh nhưng chưa diệt, thì số chúng sinh có đối, có thể dẫn dắt, có thể xô đẩy, pháp sinh đó gọi là thọ nhận.

Pháp kia sinh nhưng chưa diệt, nghĩa là trừ quá khứ. Số chúng sinh ở vị lai, nghĩa là trừ hiện tại. Phi số chúng sinh có đối, nghĩa là trừ pháp sinh chưa diệt. Tâm tâm số pháp có thể dẫn dắt, có thể xô đẩy, nghĩa là trừ thanh giới.

Hữu vi, vô vi một: Nghĩa là nhân duyên hòa hợp tạo tác nên gọi là vi. Sự hòa hợp tạo tác này có thể sinh khởi nghĩa. Tạo tác là nghĩa gì? Là nghĩa có nhân. Nghĩa có nhân là nghĩa hữu vi, vì hữu vi nên gọi là tạo tác. Một pháp giới dung hợp hữu vi, vô vi. Trong pháp giới này có ba thứ thường nên là vô vi, tức hư không, số diệt, phi số diệt. Ba ấm như thọ v.v… và sắc không tạo tác gọi là hữu vi.

Hoàn toàn là hữu vi, Nên biết mười bảy giới: Tức mười bảy giới còn lại vì có nhân nên hoàn toàn là hữu vi.

Hỏi: Như vậy là đã phân biệt về pháp tướng xong. Thế nào là gồm thâu pháp? Là tự tánh hay là tha tánh?

Các pháp lìa tha tánh

Đều tự trụ tánh mình

Thế nên tất cả pháp

Đều thuộc về tự tánh.

Các pháp lìa tha tánh: Nghĩa là mắt lìa tai. Như vậy, tất cả sự việc, nếu tánh lìa tánh, cùng gồm thâu là nói về không tương ưng. Thế nên không phải là thuộc về tánh khác. Sự việc ấy có lỗi gì? Nếu một sinh diệt thì tất cả còn lại cũng sinh diệt, điều này không hợp đạo lý, do vậy tánh khác không gồm thâu.

Đều tự trụ tánh mình: Nghĩa là mắt tự trụ vào tánh của mắt. Tất cả pháp đều như vậy, Thế nên tất cả pháp, Đều thuộc về tự tánh, do vậy tự tánh gồm thâu tất cả pháp. Ở đây, Sư kia đã nói tự tướng là nghĩa gồm thâu. Tự tướng này cũng có hai thứ là sinh và phần giới hạn sai biệt.

Sinh: Sắc ấm gồm thâu mười sắc nhập, cho đến sắc trong pháp nhập. Nhãn giới gồm thâu nhãn giới.

Phần giới hạn sai biệt: Nghĩa là một niệm này gồm thâu một niệm, không gồm thâu niệm khác. Nếu gồm thâu pháp khác mà được tên gọi, thì như đền đài, lầu gác gồm thâu nền, thềm bực, cột kèo v.v…, đó là ngôn thuyết của thế tục. Nhãn giới kia thuộc về một giới, một nhập, một ấm. Nên biết là tất cả pháp cũng như vậy.

 

Phẩm thứ 2: HÀNH

Đã nói tướng của các pháp. Sự khác nhau về sinh nay sẽ nói.

Hỏi: Nếu tất cả pháp đều thuộc về tự tánh thì cũng nên do tự lực có thể sinh khởi chăng?

Đáp:

Trước không một nào sinh

Vì lìa nơi trợ bạn

Tất cả sức đây kia

Các pháp mới được sinh.

Trước không một nào sinh, Vì lìa nơi trợ bạn: Nghĩa là tự tánh của các hành hữu vi là yếu kém, thế nên không pháp nào do tự lực có thể sinh khởi.

Hỏi: Thế nào là được sinh?

Đáp: Tất cả sức đây kia, Các pháp mới được sinh: Tức các pháp hữu vi đều do sức đây kia mới sinh khởi. Như hai người ốm yếu, phải nhờ vào sức của người này người kia mới đứng dậy được.

Hết thảy hành này lược nói có bốn thứ: Đó là sắc, tâm, tâm số pháp và tâm bất tương ưng hành. Sự sinh kia cũng có bốn thứ: Tạo nhận lấy, tạo nương dựa, tạo tăng thượng, tạo trợ bạn.

Tạo nhận lấy: Là dựa vào quả của quả báo và phần ít của quả trượng phu (Quả dị thục, quả sĩ dụng).

Tạo nương dựa: Là các giới, sáu nhập, sắc do bốn đại tạo.

Tạo tăng thượng: Là sự việc sinh khởi nơi tất cả các pháp xảy ra trong một sát-na.

Tạo trợ bạn: Là tâm tâm số pháp đây kia làm trợ bạn cùng với các tướng hữu vi.

Các pháp hữu vi như vậy, tôi nên nói trước là cùng với tâm cùng sinh làm trợ bạn.

Nếu có xứ tâm sinh

Tất với tâm cùng sinh

Và nhóm các tâm pháp v.v…

Cùng hành bất tương ưng.

Tâm: Tức tâm, ý, thức là cùng một nghĩa, nhưng tên gọi có khác. Tâm ấy phân biệt về thiện v.v…, phân biệt về giới, phân biệt về chủng loại, phân biệt về nương dựa, phân biệt về vô lậu v.v… có vô lượng thứ sai biệt. Tâm ấy hoặc nương dựa, hoặc duyên, hoặc trong một sát-na sinh khởi, quyết định cùng tâm tâm số pháp và tâm bất tương ưng hành phát sinh.

Hỏi: Thế nào là tâm, tâm số pháp?

Đáp:

Tưởng, dục cùng xúc, tuệ

Niệm, tư và giải thoát

Tác ý nơi cảnh giới

Tam-ma-đề và thọ.

Tưởng là đối với duyên có thể nhận lấy tướng mạo. Nghĩa là nhận lấy các tướng nam, nữ, thô, tế, dài, ngắn v.v…

Dục là yêu thích, như trông thấy sự việc rồi ưa thích v.v…

Xúc là dựa vào duyên cùng với tâm hòa hợp. Như ánh sáng mặt trời và viên ngọc báu cùng hòa hợp sinh ra lửa.

Tuệ là khả năng nhận biết về duyên. Như đây là sắc, không phải vị, là phải, là trái v.v…

Niệm là buộc giữ niệm nơi duyên.

là đối với thiện, bất thiện cùng trái nhau, tâm có chuyển biến. Giải thoát là tâm ở trong duyên chuyển biến không bị  chướng ngại.

Tác ý là nhận lấy duyên một cách mạnh mẽ. Có người nói là nghĩa của tâm chuyên chú.

Tam-ma-đề là lúc nhận lấy duyên tâm không tán loạn.

Thọ là ở trong duyên có vui thích không vui thích cùng trái nhau đều thọ nhận.

Tất cả tâm lúc sinh

Sinh này Thánh đã nói

Đồng nơi một duyên chuyển

Cũng lại thường tương ưng.

Tất cả tâm lúc sinh, Sinh này Thánh đã nói: Nghĩa là mười pháp như tưởng v.v… cùng với tất cả tâm đều cùng sinh nên gọi là đại địa, là địa của tâm đại nên gọi là đại địa.

Đồng nơi một duyên chuyển: Nghĩa là mười pháp này cùng với tất cả tâm đều cùng ở trong một duyên chuyển, không duyên khác. Có năm thứ đồng: Đó là tướng mạo, duyên, thời, nương dựa, sự việc. Tức là đồng một tướng mạo, một duyên, một thời, một nương dựa, một sự việc. Đồng là nghĩa cùng tương ưng.

Cũng lại thường tương ưng: Nghĩa là ở đây thường cùng với tâm tương ưng đây kia cùng sinh. Do tương ưng nhận lấy duyên nên gọi là tương ưng.

Đã nói pháp tương ưng trong tất cả tâm. Không phải là pháp tương ưng trong tất cả tâm nay sẽ nói.

Các căn có hổ thẹn

Tín ỷ, không phóng dật

Không hại, tinh tấn, xả

Hoặc nhiệt cùng giác, quán.

Các căn: Là hai căn thiện không tham, không giận. Thể của căn thiện không si tức là tuệ. Vì đại địa là chung nên trong đây không nói đến.

Không tham là đối với có hay không có không vướng chấp.

Không giận là đối với số chúng sinh không khởi giận dữ.

Hổ là tôn trọng thân mình, đối với việc ác sinh xấu hổ.

Thẹn là tôn trọng pháp của thế gian.

Tín là không điên đảo đối với nhân quả.

Tín ỷ (Khinh an) là tâm thiện lìa bỏ xấu ác khiến trong thân thư thái.

Không phóng dật là dùng phương tiện để điều phục, thuận hợp đối với việc nên làm không nên làm, tâm hoàn toàn tạo phương tiện để xả. Đây là nghĩa tu thiện.

Không hại là đối với số chúng sinh tâm không não hại.

Tinh tấn là lìa bỏ lỗi lầm xấu ác, tu tập công đức, tâm khuyên gắng giữ gìn khiến tăng trưởng.

Xả là tâm bình đẳng nơi tất cả tâm thiện đều cùng thuận đạo lý.

Mười pháp này trong tất cả tâm thiện đều có thể đạt được, nên gọi là đại địa thiện.

Hoặc nhiệt: Các phiền não như ngã kiến v.v… nơi phẩm Sử sẽ nói.

Tâm thô gọi là giác, là nghĩa nhạnh nhẹn, nhạy bén. Tâm tế gọi là quán, là nghĩa vi tế, ít hiện. Pháp này không phải trong tất cả tâm đều có thể có được, tức hoặc có thể được, hoặc không thể được.

Sau đây, hoặc là tụ cho đến tâm số sinh khởi nay sẽ nói.

Phân biệt về thiện v.v… của tâm tâm số pháp này có năm thứ tụ: Bất thiện, thiện, không chung, vô ký ẩn mất, vô ký không ẩn mất. Cõi dục thành tựu cả năm thứ. Cõi sắc, cõi vô sắc thành tựu bốn thứ, trừ bất thiện.

Tâm bất thiện trong tụ

Tâm số hai mươi mốt

Trong ba kiến bớt một

Dục hai kiến thiếu ba.

Tâm bất thiện trong tụ, Tâm số hai mươi mốt: Tâm bất thiện là nếu tâm cùng với không hổ không thẹn tương ưng.

Trong tụ của tâm này có hai mươi mốt tâm số: Nghĩa là mười đại địa cùng hai thứ giác, quán, các phiền não tham, giận, mạn, nghi và với trong kia là một vô minh nơi tham cho đến nghi v.v… Đây kia đều không tương ưng với vô minh. Nhưng cùng với kia tương ưng là cùng tương ưng với tất cả phiền não.

Bảy thứ khởi hiện phiền não là không hổ, không thẹn, ngủ nghỉ, trạo cử, bất tín, phóng dật và lười biếng.

Hỏi: Trong tất cả tâm bất thiện đều có hai mươi mốt tâm số pháp chăng?

Đáp: Không phải vậy. Trong ba kiến bớt một, Dục hai kiến thiếu ba: Nghĩa là trong tụ của tâm bất thiện, thì ba kiến là tà kiến, kiến thủ, giới thủ, tương ưng với tâm chỉ có hai mươi tâm số pháp, tức trong số này trừ tuệ.

Dục hai kiến thiếu ba: Nghĩa là hai kiến thân, biên của cõi dục tương ưng với tâm bất thiện chỉ có mười tám tâm số pháp tức trừ tuệ như trước đã nói, lại trừ không hổ, không thẹn. Vì kiến là tánh của tuệ, nên trong tụ tương ưng với kiến không có tuệ, không phải sự việc trong một tụ có hai tuệ. Hai kiến thân, biên là vô ký. Không hổ, không thẹn hoàn toàn là bất thiện, nên thiếu ba.

Tâm thiện hai mươi hai

Không chung có hai mươi

Vô ký có mười hai

Hối, miên cùng được tăng.

Tâm thiện hai mươi hai: Nghĩa là mười đại địa, mười đại địa thiện cùng giác, quán.

Không chung có hai mươi: Nghĩa là trong hai mươi mốt thứ của tụ tâm bất thiện trừ một phiền não. Không chung là chỉ có một vô minh, không phải sử khác.

Vô ký có mười hai: Nghĩa là trong tụ vô ký không ẩn mất có mười hai tâm số, tức mười đại địa cùng giác, quán. Ở đây: Có công đức như không tin v.v… và lỗi ác như không tham v.v… Vì sao? Vì là vô ký. Không ẩn mất là không phải nhiễm ô.

Hối, miên cùng được tăng: Nhớ lại, chuyển đổi, gọi là hối. Hối này có ba thứ: Thiện, bất thiện, vô ký, trong đó do hành thiện, bất thiện tạo tác, nên gọi là thiện, bất thiện. Thiện, bất thiện này có bốn thứ sai biệt: Hoặc có thiện lập nên bất thiện, như thực hiện bố thí v.v… rồi lại hối tiếc. Hoặc có bất thiện lập nên thiện, như làm điều ác rồi hối hận, xấu hổ. Hoặc có bất thiện lập nên bất thiện, như làm ác xong hối tiếc cho là ít. Hoặc có thiện lập nên thiện, như làm việc thiện như bố thí v.v… rồi hối cho là còn ít.

Nếu có hối khác như về oai nghi v.v… thì đó là vô ký. Thế nên hối đã tăng trong tụ tương ưng với hối. Các tâm số khác như trước đã nói. Trong đó, người hối hận không phải là sử như tham v.v… đã chuyển. Không phải là người không si sinh khởi hối, thế nên hối trong tụ tương ưng là bất thiện. Chỉ một vô minh là phiền não, không phải là thứ khác, do vậy nên có hai mươi mốt thứ.

Hối thiện tương ưng trong tụ chỉ tăng đối với hối. Như vậy là hai mươi ba thứ.

Vô ký không ẩn mất: Mười ba thứ này ở trong ba tụ chuyển đổi, đó là thiện, không chung, vô ký không ẩn mất.

Miên là ngủ say, thứ này ở trong tất cả năm tụ đều chuyển đổi. Vì sao? Vì ngủ nghỉ có tâm bất thiện, cấu nhiễm và vô ký, thế nên trong tụ ấy thêm một ngủ nghỉ. Những tâm số khác như trước đã nói.

Hai thứ hối, miên của ba tụ như vậy là cùng chuyển biến nên trong tụ kia thêm hai. Đó là thứ lớp của tâm pháp nơi cõi dục.

Hỏi: Cõi sắc, cõi vô sắc thì như thế nào?

Đáp:

Thiền nhất lìa bất thiện

Nên biết như cõi dục

Thiền trung gian trừ giác

Cõi trên quán cũng vậy.

Thiền nhất lìa bất thiện, Nên biết như cõi dục: Nghĩa là thiền thứ nhất lìa tụ bất thiện, vì đã lìa không hổ thẹn. Ngoài ra có bốn tụ, nói như ở cõi dục.

Thiền trung gian trừ giác: Nghĩa là thiền trung gian trừ giác, phần còn lại nói như trong thiền thứ nhất.

Cõi trên quán cũng vậy: Tức từ thiền thứ hai trở lên, cho đến trời Hữu đảnh đều trừ giác, quán. Ngoài ra nói như ở thiền thứ nhất.

Đã nói tâm, tâm số pháp do sức của trợ bạn nên sinh khởi. Về sắc pháp nay sẽ nói.

Vi trần tại bốn căn

Mười thứ cần nên biết

Thân căn chín, ngoài tám

Tức ở nơi địa hương.

Vi trần tại bốn căn, Mười thứ cần nên biết: Nghĩa là vi trần của nhãn căn có mười thứ. Nên biết mười thứ này nghĩa không lìa nhau. Đó là đất, nước, lửa, gió, sắc, hương, vị, xúc, nhãn căn và thân căn. Mười thứ ấy luôn không rời nhau. Tai, mũi, lưỡi cũng như vậy.

Thân căn chín: Tức trừ nhãn căn v.v… Các thứ khác đều đồng với trước.

Ngoài tám: Tức là tám thứ vi trần trong pháp không phải là căn. Đó là sắc của bốn đại cùng bốn vi trần.

Hỏi: Vi trần của cõi nào cũng đều nói như vậy chăng?

Đáp: Tức ở nơi địa hương. Đây là nghĩa trong cõi dục, vì cõi ấy có hương. Vi trần của cõi sắc lìa hương, vị, thế nên trong cõi ấy trừ hương, vị, số còn lại như trước đã nói.

Hỏi: Trước đã nói: Nếu lúc tâm sinh khởi, tâm số pháp và hành bất tương ưng kia cùng sinh. Đã nói tâm tâm số pháp, còn hành bất tương ưng thì thế nào?

Đáp:

Tất cả hành hữu vi

Sinh, trụ cùng dị, hoại

Là cũng có bốn tướng

Đây kia lại cùng tạo.

Tất cả hành hữu vi, Sinh, trụ cùng dị, hoại: Nghĩa là tất cả hành hữu vi đều có bốn thứ tướng là sinh, trụ, dị, hoại. Vì chưa sinh mà sinh nên gọi là sinh. Sinh rồi thì từ sự việc được lập nên gọi là trụ. Trụ rồi thì suy biến nên gọi là dị. Dị rồi thì thế mạnh diệt nên gọi là hoại. Nên nói là sinh trụ cùng dị hoại.

Nếu pháp hữu vi có được tướng như vậy gọi là tâm bất tương ưng hành. Nay sẽ nói về tướng hữu vi. Vì sự việc này có thể nhận biết, nên gọi là tướng, như sinh, trụ, lão, vô thường.

Sinh là sự việc hữu vi sinh. Trụ là an lập. Lão là suy yếu, đổi thay. Vô thường là hư hoại.

Sinh kia không phải cùng một lúc tạo nên sinh, do sinh là nghiệp. Ngoài ra sinh đều là tạo nghiệp. Thế nên sinh, trụ, dị, hoại của pháp hữu vi không phải là một tướng.

Hỏi: Nếu tất cả pháp hữu vi đều có bốn tướng, thì những tướng này cũng là hữu vi. Vậy ở đây lại có tướng khác chăng?

Đáp: Là cũng có bốn tướng: Tức là cũng có bốn thứ tướng cộng với tướng sinh kia, gọi là sinh sinh, trụ trụ, dị dị, hoại hoại.

Hỏi: Nếu như vậy tức nên là vô cùng chăng?

Đáp: Đây kia lại cùng tạo: Nghĩa là tướng này đối với tướng kia thì tướng này là sinh. Tức sinh sinh sinh thì đây kia cùng sinh. Như vậy, trụ trụ trụ thì đây kia cùng trụ. Dị dị dị thì đây kia cùng dị. Hoại hoại hoại thì đây kia cùng hoại. nên không phải là vô cùng.

Bốn pháp sau này là một pháp sinh sinh. Sự việc sinh sinh không phải là pháp khác. Như vậy trụ trụ, sự việc của trụ trụ không phải là pháp khác. Pháp còn lại cũng như thế.

Bốn thứ tướng trước, mỗi tướng đều là tám pháp sinh và sinh tám pháp. Nghĩa là ba tướng trước, bốn tướng sau sinh khởi tướng và pháp của tướng đã hiển bày kia. Nên biết pháp khác cũng như vậy.

Đã nói các hành cùng sinh khởi, tùy theo trợ bạn nên sinh.

Không trợ bạn không sinh khởi nay sẽ nói.

Sở tác, cộng, tương tợ

Phổ biến, tương ưng, báo

Từ sáu thứ nhân này

Chuyển sinh pháp hữu vi.

Sáu thứ nhân này chuyển sinh pháp hữu vi.

Nhân sở tác: Là nếu pháp ở trong pháp khác sinh không làm chướng ngại, do sức này nên pháp kia được sinh. Như lúc mắt sinh tất cả pháp, trừ tự tánh. Như vậy, tai v.v… trừ tự tánh, không phải tự tánh cùng với tự tánh làm nhân.

Nhân cộng sinh: Là các hành cùng với trợ bạn cùng sinh khởi. Như tướng hữu vi của tâm tâm số pháp và tâm bất tương ưng hành. Vi trần của bốn đại như vậy là tùy theo giới của tâm.

Nhân tương tợ: Là nếu nghĩa có thể sinh pháp tương tợ. Như hành tập thiện sinh thiện, hành tập bất thiện sinh bất thiện. Như hành tập công xảo có thể nhận biết công xảo. Như gieo trồng giống lúa mạch tức sinh lúa mạch. Tất cả đều như vậy.

Nhân nhất thiết biến: Là như các phiền não tất nối tiếp nhau sinh. Như người chấp trước ngã kiến, do sức của kiến chấp nên ở nơi ngã chấp trước về đoạn, thường, hủy báng ấm cùng khởi nghi, hoặc nhận lấy thanh tịnh và lỗi lầm do kiêu mạn quá mức sinh. Pháp khác cũng như thế, tức nhất thiết biến cần phải biết.

Nhân tương ưng: Là tâm tâm số pháp, do sức của đây kia nên cùng trong một thời, một duyên chuyển biến.

Hỏi: Nếu tâm tâm số pháp chuyển biến trong cùng một thời, thì nhân cộng sinh với nhân tương ưng kia khác nhau như thế nào?

Đáp: Nghĩa không lìa nhau là nhân tương ưng. Nghĩa đồng một quả là nhân cộng sinh. Ví như cầm gậy thì theo hành tác của gậy.

Như bơi qua sông thì tay phải vẫy đập bơi liên tục.

Nhân báo: Là thế gian thọ nhận sự sinh trong đời sống, quả của sự việc nối tiếp nhau, gọi là sự sinh. Như hành thiện được quả đáng yêu, hành bất thiện tức nhận quả không đáng yêu.

Đã nói pháp của các nhân. Nếu pháp từ nhân sinh nay sẽ nói.

Báo, sinh tâm, tâm pháp

Cùng phiền não tạp khác

Đều từ năm nhân sinh

Cùng sinh cần nên biết.

Nếu báo sinh tâm tâm số pháp cùng tâm tâm số pháp cấu uế v.v… đều từ năm nhân sinh, tức báo sinh tâm tâm số pháp. Năm nhân: Là nhân sở tác, nhân cộng sinh, nhân tương tợ, nhân tương ưng và nhân báo.

Nhân sở tác: Nghĩa là pháp kia lúc sinh, thì những sự việc tương tợ, không tương tợ đều không gây trở ngại.

Nhân cộng sinh: Nghĩa là đây kia trợ bạn sinh, tức pháp kia sinh, cùng tâm bất tương ưng hành do sức của trợ bạn sinh.

Nhân tương tợ: Nghĩa là trước sinh pháp vô ký, hoặc tạo ra hiểu biết này: Nhân của báo ấy sinh, không phải là oai nghi v.v… Vì sao? Vì nhân kia là hơn, nên không phải là hơn cùng với kém làm nhân.

Nhân tương ưng: Nghĩa là sức của đây kia trong một thời, một duyên cùng chuyển biến.

Nhân báo: Nghĩa là nhân kia, hoặc là nghiệp thiện, bất thiện. Đấy tức là nhân không có báo của tâm tâm số pháp cấu uế nơi quả kia. Vì sao? Vì ẩn mất không phải là tánh của quả báo vô ký.

Nhân nhất thiết biến thứ năm do sức kia nên đây được sinh. Bốn nhân còn lại như trước đã nói.

Là bất tương ưng kia

Cùng pháp tương ưng khác

Trừ vô lậu đầu tiên

Từ bốn nhân kia sinh.

Là bất tương ưng kia: Nghĩa là như báo sinh sắc và báo sinh tâm cùng hành bất tương ưng đều từ bốn nhân sinh là nhân sở tác, nhân cộng sinh, nhân tương tợ, nhân báo. Sắc cấu uế và tâm cấu uế cùng hành bất tương ưng cũng từ bốn nhân sinh là nhân sở tác, nhân cộng sinh, nhân tương tợ, nhân nhất thiết biến.

Cùng pháp tương ưng khác, Trừ vô lậu đầu tiên, Từ bốn nhân kia sinh: Nghĩa là tâm tâm số pháp khác, trừ vô lậu đầu tiên, cũng từ bốn nhân sinh, là nhân sở tác, nhân cộng sinh, nhân tương tợ, nhân tương ưng. Khác nghĩa là vô ký không ẩn mất, trừ báo.

Nếu bất tương ưng khác

Tương tợ nên biết ba

Cùng các tương ưng khác

Pháp vô lậu đầu tiên.

Nếu bất tương ưng khác, Tương tợ nên biết ba: Nghĩa là trước đã nói tâm bất tương ưng cùng khác, thì tâm bất tương ưng khác ấy gọi là khác. Bất tương ưng khác ấy là thiện, vô ký không ẩn mất, trừ báo. Nếu nhân tương tợ kia thành tựu, trừ vô lậu ban đầu, thì từ ba nhân sinh là nhân sở tác, nhân cộng sinh, nhân tương tợ.

Cùng các tương ưng khác, Pháp vô lậu đầu tiên: Nghĩa là pháp tương ưng với vô lậu mới sinh kia cũng từ ba nhân sinh, là nhân sở tác, nhân cộng sinh và nhân tương ưng. Không có pháp tương tợ kia, vì trước đã sinh vô lậu nên không có nhân tương tợ.

Trong bất tương ưng kia

Là từ hai nhân sinh

Nếu từ một nhân sinh

Nhất định không việc ấy.

Trong bất tương ưng kia, Là từ hai nhân sinh: Là sắc trong tụ vô lậu mới sinh kia cùng tâm bất tương ưng hành đều từ hai nhân sinh, là nhân sở tác và nhân cộng sinh.

Đã nói tất cả pháp hữu vi, Nếu từ một nhân sinh, Nhất định không việc ấy: Là hết thảy pháp nhất định từ nhân sở tác, nhân cộng sinh sinh, nhân khác thì không nhất định. Thế nên không pháp nào từ một nhân sinh.

Đã nói về sự khác nhau của nhân. Đức Thế Tôn đã dùng nhân như thế để hóa độ chúng sinh. Về duyên nay sẽ nói.

Thứ đệ cũng duyên duyên

Tăng thượng cùng với nhân

Pháp từ bốn duyên sinh

Đức Thế Tôn đã nói.

Bốn duyên như vậy sinh khởi tất cả pháp hữu vi.

Duyên thứ đệ: Nghĩa là mỗi mỗi tâm sinh đều theo thứ lớp nối tiếp nhau nhằm tạo phương tiện để dung nạp.

Duyên duyên: Nghĩa là cảnh giới của tâm tâm số pháp, vin dựa kéo giữ phương tiện, duyên với cảnh giới đó, nên có thể sinh khởi.

Duyên tăng thượng: Nghĩa là lúc pháp sinh không gây chướng ngại, như vị vua tự tại. Tức như trước đã nói về nhân sở tác.

Duyên nhân: Nghĩa là trừ nhân sở tác, năm nhân còn lại đó là duyên nhân.

Hỏi: Nhân và Duyên có gì khác nhau?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Không có khác nhau.

Tôi nói nhân như pháp chủng tử. Duyên là điều kiện gìn giữ phương tiện, như đất, phân v.v…

Đã phân biệt duyên. Như pháp theo duyên sinh nay sẽ nói.

Tâm cùng các tâm pháp

Là từ bốn duyên sinh

Hai chánh thọ từ ba

Pháp khác nói nơi hai.

Tâm cùng các tâm pháp, Là từ bốn duyên sinh: Nghĩa là tâm tâm số pháp từ bốn duyên sinh khởi. Trước tức thâu nhận pháp này là Duyên thứ đệ. Cảnh giới là Duyên duyên. Trừ tự tánh, ngoài ra tất cả pháp là Duyên tăng thượng. Nhân cộng sinh nơi nhân tự phân và nhân tương ưng là Duyên nhân. Hoặc có khi còn có nhân nhất thiết biến và nhân báo.

Hai chánh thọ từ ba: Nghĩa là chánh thọ (Định) vô tưởng, chánh thọ diệt tận từ ba duyên sinh. Tâm nhập định của hai chánh thọ đó là duyên thứ đệ. Duyên thứ đệ ấy trước là sinh khởi niệm chánh thọ và tâm chánh thọ. Giới, địa thiện nơi tự phần gọi là nhân tương tợ. Cùng sinh với sinh trụ dị hoại gọi là nhân cộng sinh. Hai nhân như vậy là duyên nhân kia. Duyên tăng thượng như trước đã nói.

Pháp khác nói nơi hai: Nghĩa là tâm bất tương ưng hành khác và sắc từ hai duyên sinh là duyên nhân và duyên tăng thượng.

Hỏi: Pháp này vì sao gọi là hành?

Đáp:

Nhiều pháp sinh một pháp

Cũng có thể sinh nhiều

Duyên nơi hành tạo tác

Gọi là hành nên biết.

Nhiều pháp sinh một pháp, Cũng có thể sinh nhiều: Nghĩa là một pháp do sức của nhiều pháp nên sinh, là cũng có thể sinh nhiều pháp.

Duyên nơi hành tạo tác: Như vậy tất cả sức của pháp kia đây đã duyên với hành đã tạo tác.

Gọi là hành nên biết: Nghĩa là hành này cũng là duyên, cũng là hành, nên gọi là duyên hành. Duyên nơi đối tượng tạo tác của hành nên gọi là duyên. Đối tượng tạo tác của hành này cũng có thể tạo hành của duyên, nên gọi là hành. Nói như vậy thì hành này là đối tượng tạo tác của cái khác, cũng là chủ thể tạo tác của cái khác, nên gọi là hành.

HẾT – QUYỂN 1

Trang: 1 2 3 4 5