LUẬN XÁ LỢI PHẤT A TỲ ĐÀM
Hán dịch: Đời Diêu Tần, Đại sư Đàm Ma Da Xá, Đàm Ma Quật Đa
Việt dịch: Phật tử Nguyên Huệ

 

QUYỂN 6

Phẩm thứ 6: PHẦN HỎI VỀ BẢY GIÁC

Hỏi: Có bao nhiêu giác?

Đáp: Có bảy.

Hỏi: Những gì là bảy?

Đáp: Niệm giác, Trạch pháp giác, Hỷ giác, Tinh tấn giác, Trừ giác (Khinh an), Định giác và Xả giác.

Hỏi: Thế nào là Niệm giác?

Đáp: Người học lìa kiết sử, tâm Thánh nhập đạo Thánh. Nếu là kiên tín, kiên pháp cùng người của nẻo khác thấy lỗi lầm của hành, quán Niết-bàn tĩnh lặng, quán như thật về khổ tập diệt đạo, chưa được muốn được, chưa hiểu muốn hiểu, chưa chứng muốn chứng, tu đạo, lìa phiền não. Người kiến học như Tu-đà-hoàn, Tưđà-hàm, A-na-hàm, trí quán đầy đủ, hoặc trí địa, hoặc quán tâm giải thoát, tức đắc quả Sa-môn, hoặc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm. Người vô học muốn đắc quả A-la-hán, chưa được pháp Thánh, muốn được tu đạo, trí quán đầy đủ, hoặc trí địa, hoặc quán tâm giải thoát, tức đắc quả A-la-hán. Nếu là người thật, hoặc là nẻo, nếu suy niệm, ức niệm (nhớ nghĩ), niệm vi tế, thuận niệm trụ không quên, niệm nối tiếp không mất, không bị chiếm đoạt, không chậm, căn không trì độn, niệm về niệm căn, niệm lực, chánh niệm. Đó gọi là Niệm giác.

Hỏi: Thế nào là Trạch pháp giác?

Đáp: Người học lìa kiết sử, cho đến tức đắc quả A-la-hán. Nếu là người thật, hoặc là nẻo, hoặc là quyết trạch trong pháp, quyết trạch lần nữa, quyết trạch cứu cánh, trạch pháp, tư duy, nhận biết, thấu đạt về tự tướng, tha tướng, cộng tướng, suy nghĩ, gìn giữ, biện giải, quán tấn, biện tuệ, tri kiến, giải soi, phương tiện thuật, ánh sáng rực rỡ tỏa chiếu, tuệ nhãn, tuệ căn, tuệ lực, chánh kiến, không si. Đó gọi là Trạch pháp giác.

Hỏi: Thế nào là Tấn giác?

Đáp: Người học lìa kiết sử, cho đến tức đắc quả A-la-hán. Nếu là người thật, hoặc là nẻo, nếu thân tâm xuất phát, vượt qua, có thể nhẫn, không thoái chuyển, sức siêng năng, tinh tấn không lìa bỏ, không trễ nải, biếng nhác, chậm chạp, luôn tiến theo tấn căn, tấn lực, chánh tinh tấn. Đó gọi là Tấn giác.

Hỏi: Thế nào là Hỷ giác?

Đáp: Người học lìa kiết sử, cho đến tức đắc quả A-la-hán. Nếu là người thật, hoặc là nẻo, nếu hoan hỷ, phấn khích, phấn khích lần nữa, phấn khích cứu cánh, đối trị tịnh, đầy đủ, tâm hoan hỷ. Đó gọi là Hỷ giác.

Hỏi: Thế nào là Trừ giác?

Đáp: Người học lìa kiết sử, cho đến tức đắc quả A-la-hán. Nếu là người thật, hoặc là nẻo, nếu là thân vui, tâm vui, thân nhu hòa, tâm nhu hòa, thân nhẹ nhàng, tâm nhẹ nhàng, thân mềm dịu, tâm dịu dàng, thân trừ (khinh an), tâm trừ. Đó gọi là Trừ giác.

Hỏi: Thế nào là Định giác?

Đáp: Người học lìa kiết sử, cho đến tức đắc quả A-la-hán. Nếu là người thật, hoặc là nẻo, nếu tâm trụ, chánh trụ, tâm chuyên trụ, tâm hoàn toàn, tâm vui thích, duy nhất, không tán loạn, dựa vào ý, tâm riêng định nơi định căn, định lực, chánh định. Đó gọi là Định giác.

Hỏi: Thế nào là Xả giác?

Đáp: Người học lìa kiết sử, cho đến tức đắc quả A-la-hán. Nếu là người thật, hoặc là nẻo, nếu là xả bỏ, tâm không vướng mắc, tâm bình đẳng, tâm ngay thẳng, không dua nịnh, không tham muốn, không phải là thọ nhận. Đó gọi là Xả giác.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ là sắc, bao nhiêu thứ không phải là sắc?

Đáp: Năm giác không phải là sắc. Hai giác gồm hai phần, hoặc là sắc, hoặc không phải là sắc.

Hỏi: Thế nào là năm giác không phải là sắc?

Đáp: Niệm giác, trạch pháp giác, hỷ giác, định giác, xả giác, đó gọi là năm giác không phải là sắc.

Hỏi: Thế nào là hai giác gồm hai phần, hoặc là sắc, hoặc không phải là sắc?

Đáp: Tấn giác, trừ giác, đó gọi là hai giác gồm hai phần, hoặc là sắc, hoặc không phải là sắc.

Hỏi: Thế nào là tấn giác là sắc?

Đáp: Thân xuất phát, vượt qua, đó gọi là tấn giác là sắc.

Hỏi: Thế nào là tấn giác không phải là sắc?

Đáp: Tâm xuất phát, vượt qua, đó gọi là tấn giác không phải là sắc.

Hỏi: Thế nào là trừ giác là sắc?

Đáp: Thân vui, thân nhu hòa, thân nhẹ nhàng, thân mềm dịu, thân trừ (khinh an). Đó gọi là trừ giác là sắc.

Hỏi: Thế nào là trừ giác không phải là sắc?

Đáp: Tâm vui, tâm nhu hòa, tâm nhẹ nhàng, tâm dịu dàng, tâm trừ. Đó gọi là trừ giác không phải là sắc.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ là có thể thấy, bao nhiêu thứ là không thể thấy?

Đáp: Tất cả đều không thể thấy.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ là có đối, bao nhiêu thứ là không có đối?

Đáp: Tất cả đều là không có đối.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ là Thánh, bao nhiêu thứ không phải là Thánh?

Đáp: Tất cả đều là Thánh.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ là hữu lậu, bao nhiêu thứ là vô lậu?

Đáp: Tất cả là vô lậu. Tất cả là không thọ. Tất cả là không cầu. Tất cả đều không nên chấp giữ. Tất cả đều không nhận lấy. Tất cả đều không vượt hơn.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ là thọ, bao nhiêu thứ không phải là thọ?

Đáp: Tất cả đều không phải là thọ. Hết thảy đều là ngoài.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ là có báo, bao nhiêu thứ là không có báo?

Đáp: Tất cả đều gồm hai phần, hoặc là có báo, hoặc là không có báo.

Hỏi: Thế nào là niệm giác là có báo?

Đáp: Nếu niệm giác là pháp báo, đó gọi là niệm giác là có báo.

Hỏi: Thế nào là niệm giác là có báo?

Đáp: Người học lìa kiết sử, tâm Thánh nhập đạo Thánh. Nếu là kiên tín, kiên pháp cùng người của nẻo khác thấy lỗi lầm của hành, quán Niết-bàn tĩnh lặng, quán như thật về khổ tập diệt đạo, chưa được muốn được, chưa hiểu muốn hiểu, chưa chứng muốn chứng, tu đạo, lìa phiền não. Người vô học muốn đắc quả A-la-hán, chưa được pháp Thánh, muốn được tu đạo. Nếu là người thật, hoặc là nẻo, nếu suy niệm, ức niệm, niệm vi tế, thuận niệm trụ không quên, niệm nối tiếp không mất, không bị chiếm đoạt, không chậm, căn không trì độn, niệm về niệm căn, niệm lực, chánh niệm. Đó gọi là niệm giác là có báo.

Hỏi: Thế nào là niệm giác là không có báo?

Đáp: Báo của niệm giác, đó gọi là niệm giác là không có báo.

Hỏi: Thế nào là niệm giác là không có báo?

Đáp: Người kiến học như Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, trí quán đầy đủ, hoặc trí địa, hoặc quán tâm giải thoát, tức đắc quả Samôn, hoặc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm. Người vô học muốn đắc quả A-la-hán, trí quán đầy đủ, hoặc trí địa, hoặc quán tâm giải thoát, tức đắc quả A-la-hán. Nếu là người thật, hoặc là nẻo, nếu suy niệm, ức niệm, niệm vi tế, niệm thuận với trụ, niệm trụ không quên, niệm nối tiếp không mất, không bị chiếm đoạt, không chậm, căn không trì độn, niệm về niệm căn, niệm lực, chánh niệm. Đó gọi là niệm giác là không có báo.

Trạch pháp, tấn, hỷ, trừ, định, xả giác cũng như vậy.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ là tâm, bao nhiêu thứ không phải là tâm?

Đáp: Tất cả đều là không phải tâm.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ là tâm tương ưng, bao nhiêu thứ không phải là tâm tương ưng?

Đáp: Năm giác là tâm tương ưng. Hai giác gồm hai phần, hoặc là tâm tương ưng, hoặc không phải là tâm tương ưng.

Hỏi: Thế nào là năm giác là tâm tương ưng?

Đáp: Niệm giác, trạch pháp giác, hỷ giác, định giác, xả giác, đó gọi là năm giác là tâm tương ưng.

Hỏi: Thế nào là hai giác gồm hai phần, hoặc là tâm tương ưng, hoặc không phải là tâm tương ưng?

Đáp: Tấn giác, trừ giác, đó gọi là hai giác gồm hai phần, hoặc là tâm tương ưng, hoặc không phải là tâm tương ưng.

Hỏi: Thế nào là tấn giác là tâm tương ưng?

Đáp: Nếu tấn giác là tâm số, là tâm xuất phát vượt qua. Đó gọi là tấn giác là tâm tương ưng.

Hỏi: Thế nào là tấn giác không phải là tâm tương ưng?

Đáp: Nếu tấn giác không phải là tâm số, là thân xuất phát vượt qua. Đó gọi là tấn giác không phải là tương ưng với tâm.

Hỏi: Thế nào là trừ giác là tâm tương ưng

Đáp: Nếu trừ giác là tâm số, là tâm lạc, tâm nhu hòa, tâm nhẹ nhàng, tâm mềm dịu, tâm trừ (khinh an). Đó gọi là trừ giác là tâm tương ưng.

Hỏi: Thế nào là trừ giác không phải là tâm tương ưng?

Đáp: Nếu trừ giác không phải là tâm số, là thân lạc, thân nhu hòa, thân nhẹ nhàng, thân mềm dịu, thân trừ. Đó gọi là trừ giác không phải là tâm tương ưng.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ là tâm số, bao nhiêu thứ không phải là tâm số?

Đáp: Năm giác là tâm số. Hai giác gồm hai phần, hoặc là tâm số, hoặc không phải là tâm số.

Hỏi: Thế nào là năm giác là tâm số?

Đáp: Niệm giác, trạch pháp giác, hỷ giác, định giác, xả giác, đó gọi là năm giác là tâm số.

Hỏi: Thế nào là hai giác gồm hai phần, hoặc là tâm số, hoặc không phải là tâm số?

Đáp: Tấn giác, trừ giác, đó gọi là hai giác gồm hai phần, hoặc là tâm số, hoặc không phải là tâm số.

Hỏi: Thế nào là tấn giác là tâm số?

Đáp: Nếu tấn giác duyên nơi tâm xuất phát, vượt qua. Đó gọi là tấn giác là tâm số.

Hỏi: Thế nào là tấn giác không phải là tâm số?

Đáp: Nếu tấn giác không phải duyên nơi tâm mà duyên nơi thân xuất phát, vượt qua. Đó gọi là tấn giác không phải là tâm số.

Hỏi: Thế nào là trừ giác là tâm số?

Đáp: Nếu trừ giác duyên nơi tâm, là tâm lạc, tâm nhu hòa, tâm nhẹ nhàng, tâm mềm dịu, tâm trừ. Đó gọi là trừ giác là tâm số.

Hỏi: Thế nào là trừ giác không phải là tâm số?

Đáp: Nếu trừ giác không phải duyên nơi tâm mà duyên nơi thân, là thân lạc, thân nhu hòa, thân nhẹ nhàng, thân mềm dịu, thân trừ. Đó gọi là trừ giác không phải là tâm số.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ là duyên, bao nhiêu thứ không phải là duyên?

Đáp: Năm giác là duyên. Hai giác gồm hai phần, hoặc là duyên, hoặc không phải là duyên.

Hỏi: Thế nào là năm giác là duyên?

Đáp: Niệm giác, trạch pháp giác, hỷ giác, định giác, xả giác, đó gọi là năm giác là duyên.

Hỏi: Thế nào là hai giác gồm hai phần, hoặc là duyên, hoặc không phải là duyên?

Đáp: Tấn giác, trừ giác, đó gọi là hai giác gồm hai phần, hoặc là duyên, hoặc không phải là duyên.

Hỏi: Thế nào là tấn giác là duyên?

Đáp: Nếu tấn giác là tâm số, là tâm xuất phát vượt qua. Đó gọi là tấn giác là duyên.

Hỏi: Thế nào là tấn giác không phải là duyên?

Đáp: Nếu tấn giác không phải là tâm số, là thân xuất phát vượt qua. Đó gọi là tấn giác không phải là duyên.

Hỏi: Thế nào là trừ giác là duyên?

Đáp: Nếu trừ giác là tâm số, là tâm lạc, tâm nhu hòa, tâm nhẹ nhàng, tâm mềm dịu, tâm trừ. Đó gọi là trừ giác là duyên.

Hỏi: Thế nào là trừ giác không phải là duyên?

Đáp: Nếu trừ giác không phải là tâm số, là thân lạc, thân nhu hòa, thân nhẹ nhàng, thân mềm dịu, thân trừ. Đó gọi là trừ giác không phải là duyên.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ là tâm chung, bao nhiêu thứ không phải là tâm chung?

Đáp: Năm giác là tâm chung. Hai giác gồm hai phần, hoặc là tâm chung, hoặc không phải là tâm chung.

Hỏi: Thế nào là năm giác là tâm chung?

Đáp: Niệm giác, trạch pháp giác, hỷ giác, định giác, xả giác, đó gọi là năm giác là tâm chung.

Hỏi: Thế nào là hai giác gồm hai phần, hoặc là tâm chung, hoặc không phải là tâm chung?

Đáp: Tấn giác, trừ giác, đó gọi là hai giác gồm hai phần, hoặc là tâm chung, hoặc không phải là tâm chung.

Hỏi: Thế nào là tấn giác là tâm chung?

Đáp: Nếu tấn giác tùy tâm chuyển, cùng với tâm chung sinh, cùng trụ, cùng diệt, là tâm xuất phát vượt qua. Đó gọi là tấn giác là tâm chung.

Hỏi: Thế nào là tấn giác không phải là tâm chung?

Đáp: Nếu tấn giác không tùy tâm chuyển, không cùng với tâm chung sinh, không cùng trụ, không cùng diệt, là thân xuất phát vượt qua. Đó gọi là tấn giác không phải là tâm chung.

Hỏi: Thế nào là trừ giác là tâm chung?

Đáp: Nếu trừ giác tùy tâm chuyển, cùng với tâm chung sinh, cùng trụ, cùng diệt, là thân lạc, tâm lạc, thân nhu hòa, tâm nhu hòa, thân nhẹ nhàng, tâm nhẹ nhàng, thân mềm dịu, tâm mềm dịu, thân trừ, tâm trừ. Đó gọi là trừ giác là tâm chung.

Hỏi: Thế nào là trừ giác không phải là tâm chung?

Đáp: Nếu trừ giác không tùy tâm chuyển, không cùng với tâm chung sinh, không cùng trụ, không cùng diệt, là thân lạc, thân nhu hòa, thân nhẹ nhàng, thân mềm dịu, thân trừ. Đó gọi là trừ giác không phải là tâm chung.

Tùy tâm chuyển, không tùy tâm chuyển cũng như thế.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ là nghiệp, bao nhiêu thứ không phải là nghiệp?

Đáp: Tất cả đều không phải là nghiệp.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ là nghiệp tương ưng, bao nhiêu thứ không phải là nghiệp tương ưng?

Đáp: Năm giác là nghiệp tương ưng. Hai giác gồm hai phần, hoặc là nghiệp tương ưng, hoặc không phải là nghiệp tương ưng.

Hỏi: Thế nào là năm giác là nghiệp tương ưng?

Đáp: Niệm giác, trạch pháp giác, hỷ giác, định giác, xả giác, đó gọi là năm giác là nghiệp tương ưng.

Hỏi: Thế nào là hai giác gồm hai phần, hoặc là nghiệp tương ưng, hoặc không phải là nghiệp tương ưng?

Đáp: Tấn giác, trừ giác, đó gọi là hai giác gồm hai phần, hoặc là nghiệp tương ưng, hoặc không phải là nghiệp tương ưng.

Hỏi: Thế nào là tấn giác là nghiệp tương ưng?

Đáp: Nếu tấn giác là tư, tương ưng với tâm xuất phát vượt qua. Đó gọi là tấn giác là nghiệp tương ưng.

Hỏi: Thế nào là tấn giác không phải là nghiệp tương ưng?

Đáp: Nếu tấn giác không phải là tư, tương ưng với thân xuất phát vượt qua. Đó gọi là tấn giác không phải là nghiệp tương ưng.

Hỏi: Thế nào là trừ giác là nghiệp tương ưng?

Đáp: Nếu trừ giác là tư, tương ưng với tâm lạc, tâm nhu hòa, tâm nhẹ nhàng, tâm mềm dịu, tâm trừ. Đó gọi là trừ giác là nghiệp tương ưng.

Hỏi: Thế nào là trừ giác không phải là nghiệp tương ưng?

Đáp: Nếu trừ giác không phải là tư, tương ưng với thân lạc, thân nhu hòa, thân nhẹ nhàng, thân mềm dịu, thân trừ. Đó gọi là trừ giác không phải là nghiệp tương ưng.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ là cộng nghiệp, bao nhiêu thứ không phải là cộng nghiệp?

Đáp: Tất cả đều là cộng nghiệp. Tất cả đều tùy nghiệp chuyển.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ là nhân, bao nhiêu thứ không phải là nhân?

Đáp: Tất cả đều là nhân.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ là có nhân, bao nhiêu thứ là không có nhân?

Đáp: Tất cả đều là có nhân. Tất cả đều có đầu mối. Tất cả đều có duyên. Tất cả là hữu vi.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ là nhận biết, bao nhiêu thứ không phải là nhận biết?

Đáp: Tất cả đều là nhận biết, như sự thấy biết.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ là thức, bao nhiêu thứ không phải là thức?

Đáp: Tất cả đều là ý thức, như sự nhận thức.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ là giải, bao nhiêu thứ không phải là giải?

Đáp: Tất cả đều là giải, như sự thấy biết.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ là liễu biệt, bao nhiêu thứ không phải là liễu biệt?

Đáp: Tất cả đều là liễu biệt, như sự thấy biết.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ do đoạn trí nhận biết, bao nhiêu thứ không phải do đoạn trí nhận biết?

Đáp: Tất cả đều không phải do đoạn trí nhận biết.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ là tu, bao nhiêu thứ không phải là tu?

Đáp: Tất cả đều là tu.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ là chứng, bao nhiêu thứ không phải là chứng?

Đáp: Tất cả đều là chứng, như sự thấy biết.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ là thiện, bao nhiêu thứ là bất thiện, bao nhiêu thứ là vô ký?

Đáp: Tất cả đều là thiện.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ là học, bao nhiêu thứ là vô học, bao nhiêu thứ là phi học phi vô học?

Đáp: Tất cả đều gồm hai phần, hoặc là học, hoặc là vô học.

Hỏi: Thế nào là niệm giác là học?

Đáp: Người học lìa kiết sử, tâm Thánh nhập đạo Thánh. Nếu là kiên tín, kiên pháp cùng người của nẻo khác thấy lỗi lầm của hành, quán Niết-bàn tĩnh lặng, quán như thật về khổ tập diệt đạo, chưa được muốn được, chưa hiểu muốn hiểu, chưa chứng muốn chứng, tu đạo, lìa phiền não. Người kiến học như Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, trí quán đầy đủ, hoặc trí địa, hoặc quán tâm giải thoát, tức đắc quả Sa-môn, hoặc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm. Nếu là người thật, hoặc là nẻo, nếu suy niệm, ức niệm, niệm vi tế, thuận niệm trụ không quên, niệm nối tiếp không mất, không bị chiếm đoạt, không chậm, căn không trì độn, niệm về niệm căn, niệm lực, chánh niệm. Đó gọi là niệm giác là học.

Hỏi: Thế nào là niệm giác là vô học?

Đáp: Người vô học muốn đắc quả A-la-hán, chưa được pháp Thánh, muốn được tu đạo, trí quán đầy đủ, hoặc địa trí, hoặc quán tâm giải thoát, tức đắc quả A-la-hán. Nếu là người thật, hoặc là nẻo, nếu suy niệm, ức niệm, niệm vi tế, thuận niệm trụ không quên, niệm nối tiếp không mất, không bị chiếm đoạt, không chậm, căn không trì độn, niệm về niệm căn, niệm lực, chánh niệm. Đó gọi là niệm giác là vô học.

Trạch pháp giác, tấn giác, hỷ giác, trừ giác, định giác, xả giác cũng như thế.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ là báo, bao nhiêu thứ là pháp báo, bao nhiêu thứ không phải là báo, không phải là pháp báo?

Đáp: Tất cả đều gồm hai phần, hoặc là báo, hoặc là pháp báo.

Hỏi: Thế nào là niệm giác là báo?

Đáp: Niệm giác không có báo, đó gọi là niệm giác là báo.

Hỏi: Thế nào là niệm giác là báo?

Đáp: Người kiến học như Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, trí quán đầy đủ, hoặc trí địa, hoặc quán tâm giải thoát, tức đắc quả Samôn, hoặc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm. Người vô học muốn đắc quả A-la-hán. Nếu là người thật, hoặc là nẻo, nếu suy niệm, ức niệm, niệm vi tế, thuận niệm trụ không quên, niệm nối tiếp không mất, không bị chiếm đoạt, không chậm, căn không trì độn, niệm về niệm căn, niệm lực, chánh niệm. Đó gọi là niệm giác là báo.

Hỏi: Thế nào là niệm giác là pháp báo?

Đáp: Nếu niệm giác là có báo, đó gọi là niệm giác là pháp báo.

Hỏi: Thế nào là niệm giác là pháp báo?

Đáp: Người học lìa kiết sử, tâm Thánh nhập đạo Thánh. Nếu là kiên tín, kiên pháp cùng người của nẻo khác thấy rõ lỗi lầm của hành, quán Niết-bàn tĩnh lặng, quán như thật về khổ tập diệt đạo, chưa được muốn được, chưa hiểu muốn hiểu, chưa chứng muốn chứng, tu đạo, lìa phiền não. Người vô học muốn đắc quả A-la-hán, chưa được pháp Thánh, muốn được tu đạo. Nếu là người thật, hoặc là nẻo, nếu suy niệm, ức niệm, niệm vi tế, thuận niệm trụ không quên, niệm nối tiếp không mất, không bị chiếm đoạt, không chậm chạp, căn không trì độn, niệm về niệm căn, niệm lực, chánh niệm. Đó gọi là niệm giác là pháp báo.

Trạch pháp giác, tấn giác, hỷ giác, trừ giác, định giác, xả giác cũng như vậy.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ do kiến đoạn, bao nhiêu thứ do tư duy đoạn, bao nhiêu thứ không phải do kiến đoạn, không phải do tư duy đoạn?

Đáp: Tất cả đều không phải do kiến đoạn, không phải do tư duy đoạn.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ là nhân của kiến đoạn, bao nhiêu thứ là nhân của tư duy đoạn, bao nhiêu thứ không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn?

Đáp: Tất cả đều không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ hệ thuộc cõi dục, bao nhiêu thứ hệ thuộc cõi sắc, bao nhiêu thứ hệ thuộc cõi vô sắc, bao nhiêu thứ không hệ thuộc?

Đáp: Tất cả đều không hệ thuộc.

Hỏi: Trong bảy giác có bao nhiêu thứ là quá khứ, bao nhiêu thứ là vị lai, bao nhiêu thứ là hiện tại, bao nhiêu thứ không phải là quá khứ, không phải là vị lai, không phải là hiện tại?

Đáp: Tất cả đều gồm ba phần, hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại.

Hỏi: Thế nào là niệm giác là quá khứ?

Đáp: Nếu niệm giác đã sinh rồi diệt, đó gọi là niệm giác là quá khứ.

Hỏi: Thế nào là niệm giác là vị lai?

Đáp: Nếu niệm giác chưa sinh, chưa xuất, đó gọi là niệm giác là vị lai.

Hỏi: Thế nào là niệm giác là hiện tại?

Đáp: Nếu niệm giác đã sinh chưa diệt, đó gọi là niệm giác là hiện tại.

Trạch pháp giác cho đến xả giác cũng như vậy.

 

Phẩm thứ 7: PHẦN HỎI VỀ CĂN BẤT THIỆN

Hỏi: Có bao nhiêu căn bất thiện?

Đáp: Có ba.

Hỏi: Những gì là ba?

Đáp: Căn bất thiện tham, căn bất thiện sân, căn bất thiện si.

Hỏi: Thế nào là căn bất thiện tham?

Đáp: Trông mong, đó gọi là căn bất thiện tham.

Hỏi: Thế nào là căn bất thiện tham?

Đáp: Ái hỷ trong năm dục, ái sắc vừa ý, dục nhiễm nối tiếp. Ái hỷ sắc của nhãn thức, ái sắc vừa ý, dục nhiễm nối tiếp. Ái hỷ đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân thức xúc, ái sắc vừa ý, dục nhiễm nối tiếp. Dục của người khác, sắc của người khác, của cải của người khác, vợ con của người khác, đồng nữ của người khác, cùng những thứ cần thiết của người khác đều trông mong có được. Nếu tham, tâm tham đắm tương ưng với tham, mong cầu, tham ái, tâm dục nhiễm lại dục nhiễm, dục nhiễm tột cùng và những pháp có thể tham khác. Nếu tham lại tham, tham đến tận cùng, tham trông mong ái, tâm dục nhiễm lại dục nhiễm, dục nhiễm đến tột cùng. Đó gọi là căn bất thiện tham.

Hỏi: Thế nào là căn bất thiện sân?

Đáp: Phẫn nộ, đó gọi là căn bất thiện sân.

Hỏi: Thế nào là căn bất thiện sân?

Đáp: Nếu đối với ít chúng sinh, hoặc nhiều chúng sinh đã gây tổn hại, trói buộc, tạo đủ thứ loại khốn khổ. Nếu giận dữ, lại giận dữ, giận dữ đến tột cùng, tương ưng với giận dữ, tức giận, ngang bướng, tâm ghét bỏ, não hại, cùng ghét bỏ không thương yêu, không thương xót, không tạo lợi ích cho chúng sinh và các pháp giận dữ khác. Nếu giận dữ, càng giận dữ, giận dữ đến tột cùng, tương ưng với giận dữ, tức giận, ngang bướng, tâm ghét bỏ não hại, cùng ghét bỏ, không thương yêu, không thương xót, không có pháp lợi ích. Đó gọi là căn bất thiện sân.

Hỏi: Thế nào là căn bất thiện si?

Đáp: Vô minh, đó gọi là căn bất thiện si.

Hỏi: Thế nào là căn bất thiện si?

Đáp: Không nhận biết về khổ, tập, diệt, đạo. Không nhận biết quá khứ, không nhận biết vị lai, không nhận biết quá khứ, vị lai. Không nhận biết trong, không nhận biết ngoài. Không nhận biết những lỗi lầm tai hại của vị tập, diệt, của sáu xúc nhập trong ngoài, không nhận biết về xuất ly như thật, không nhận biết về như vậy. Không nhận biết về nghiệp báo, không nhận biết về duyên thiện, bất thiện, vô ký, đen, trắng, có duyên, không duyên, có ánh sáng, không ánh sáng, tạo tác, không tạo tác, thân, không thân. Trong pháp kia nếu si đoạt tâm, tức nên tâm bị xâm đoạt, bị chướng ngại che lấp, tối tăm, cấu uế trói buộc tâm, si, đục, vô minh, dòng chảy vô minh, vực thẳm vô minh, sử vô minh, không biết, không thấy, không giải, không thoát, không có phương tiện. Cùng trong các pháp khác là si, hoặc si đoạt tâm, tức nên tâm bị xâm đoạt, bị chướng ngại, che lấp, tối tăm, cho đến không biết, không thấy, không giải, không thoát, không có phương tiện. Đó gọi là căn bất thiện si.

Hỏi: Ba căn bất thiện có bao nhiêu thứ là sắc, bao nhiêu thứ không phải là sắc?

Đáp: Tất cả đều không phải là sắc.

Hỏi: Ba căn bất thiện có bao nhiêu thứ là có thể thấy, bao nhiêu thứ là không thể thấy?

Đáp: Tất cả đều là không thể thấy.

Hỏi: Ba căn bất thiện có bao nhiêu thứ là có đối, bao nhiêu thứ là không có đối?

Đáp: Tất cả đều là không có đối.

Hỏi: Ba căn bất thiện có bao nhiêu thứ là Thánh, bao nhiêu thứ không phải là Thánh?

Đáp: Tất cả đều không phải là Thánh.

Hỏi: Ba căn bất thiện có bao nhiêu thứ là hữu lậu, bao nhiêu thứ là vô lậu?

Đáp: Tất cả đều là hữu lậu. Tất cả đều là có ái. Tất cả đều là có cầu. Tất cả đều sẽ mong cầu. Tất cả đều có nhận lấy. Tất cả đều có vượt hơn.

Hỏi: Ba căn bất thiện có bao nhiêu thứ là thọ, bao nhiêu thứ không phải là thọ?

Đáp: Tất cả đều không phải là thọ. Tất cả đều là ngoài.

Hỏi: Ba căn bất thiện có bao nhiêu thứ là có báo, bao nhiêu thứ là không có báo?

Đáp: Tất cả đều là có báo.

Hỏi: Ba căn bất thiện có bao nhiêu thứ là tâm, bao nhiêu thứ không phải là tâm?

Đáp: Tất cả đều không phải là tâm.

Hỏi: Ba căn bất thiện có bao nhiêu thứ là tâm tương ưng, bao nhiêu thứ không phải là tâm tương ưng?

Đáp: Tất cả đều là tâm tương ưng.

Hỏi: Ba căn bất thiện có bao nhiêu thứ là tâm số, bao nhiêu thứ không phải là tâm số?

Đáp: Tất cả đều là tâm số.

Hỏi: Ba căn bất thiện có bao nhiêu thứ là duyên, bao nhiêu thứ không phải là duyên?

Đáp: Tất cả đều là duyên.

Hỏi: Ba căn bất thiện có bao nhiêu thứ là tâm chung, bao nhiêu thứ không phải là tâm chung?

Đáp: Tất cả đều là tâm chung. Tất cả đều là tùy tâm chuyển.

Hỏi: Ba căn bất thiện có bao nhiêu thứ là nghiệp, bao nhiêu thứ không phải là nghiệp?

Đáp: Tất cả đều không phải là nghiệp.

Hỏi: Ba căn bất thiện có bao nhiêu thứ là nghiệp tương ưng, bao nhiêu thứ không phải là nghiệp tương ưng?

Đáp: Tất cả đều là nghiệp tương ưng.

Hỏi: Ba căn bất thiện có bao nhiêu thứ là cộng nghiệp, bao nhiêu thứ không phải là cộng nghiệp?

Đáp: Tất cả đều là cộng nghiệp. Tất cả đều là tùy nghiệp chuyển.

Hỏi: Ba căn bất thiện có bao nhiêu thứ là có nhân, bao nhiêu thứ là không có nhân?

Tất cả đều là có nhân. Tất cả đều có đầu mối. Tất cả đều

là có duyên. Tất cả đều là hữu vi.

Hỏi: Ba căn bất thiện có bao nhiêu thứ là nhận biết, bao nhiêu thứ không phải là nhận biết?

Đáp: Tất cả đều là nhận biết, thấy biết như sự. Tất cả đều là thức, ý thức như sự. Tất cả đều là giải. Tất cả đều là liễu biệt.

Hỏi: Ba căn bất thiện có bao nhiêu thứ do đoạn trí nhận biết, bao nhiêu thứ không phải do đoạn trí nhận biết?

Đáp: Tất cả đều do đoạn trí nhận biết. Tất cả đều là đoạn.

Hỏi: Ba căn bất thiện có bao nhiêu thứ là tu, bao nhiêu thứ không phải là tu?

Đáp: Tất cả đều không phải là tu.

Hỏi: Ba căn bất thiện có bao nhiêu thứ là chứng, bao nhiêu thứ không phải là chứng?

Đáp: Tất cả đều là chứng, thấy biết như sự.

Hỏi: Ba căn bất thiện có bao nhiêu thứ là thiện, bao nhiêu thứ là bất thiện, bao nhiêu thứ là vô ký?

Đáp: Tất cả đều là bất thiện.

Hỏi: Ba căn bất thiện có bao nhiêu thứ là học, bao nhiêu thứ là vô học, bao nhiêu thứ là phi học phi vô học?

Đáp: Tất cả đều là phi học phi vô học.

Hỏi: Ba căn bất thiện có bao nhiêu thứ là báo, bao nhiêu thứ là pháp báo, bao nhiêu thứ không phải là báo, không phải là pháp báo?

Đáp: Tất cả đều là pháp báo.

Hỏi: Ba căn bất thiện có bao nhiêu thứ do kiến đoạn, bao nhiêu thứ do tư duy đoạn, bao nhiêu thứ không phải do kiến đoạn, không phải do tư duy đoạn?

Đáp: Tất cả đều gồm hai phần, hoặc do kiến đoạn, hoặc do tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là căn bất thiện tham do kiến đoạn?

Đáp: Nếu căn bất thiện tham là nhân của kiến đoạn. Đó gọi là căn bất thiện tham do kiến đoạn.

Hỏi: Thế nào là căn bất thiện tham do tư duy đoạn?

Đáp: Nếu căn bất thiện tham là nhân của tư duy đoạn. Đó gọi là căn bất thiện tham do tư duy đoạn.

Căn bất thiện sân, si cũng như vậy.

Hỏi: Ba căn bất thiện có bao nhiêu thứ hệ thuộc cõi dục, bao nhiêu thứ hệ thuộc cõi sắc, bao nhiêu thứ hệ thuộc cõi vô sắc, bao nhiêu thứ không hệ thuộc?

Đáp: Hai căn hệ thuộc cõi dục. Một căn gồm ba phần, hoặc là hệ thuộc cõi dục, hoặc là hệ thuộc cõi sắc, hoặc là hệ thuộc cõi vô sắc.

Hỏi: Thế nào là hai căn hệ thuộc cõi dục?

Đáp: Căn bất thiện tham, căn bất thiện sân, đó gọi là hai căn hệ thuộc cõi dục.

Hỏi: Thế nào là một căn gồm ba phần, hoặc hệ thuộc cõi dục, hoặc hệ thuộc cõi sắc, hoặc hệ thuộc cõi vô sắc?

Đáp: Căn bất thiện si đó gọi là một căn gồm ba phần, hoặc hệ thuộc cõi dục, hoặc hệ thuộc cõi sắc, hoặc hệ thuộc cõi vô sắc.

Hỏi: Thế nào là căn bất thiện si hệ thuộc cõi dục?

Đáp: Căn bất thiện si là dục lậu, hữu lậu. Đó gọi là căn bất thiện si hệ thuộc cõi dục.

Hỏi: Thế nào là căn bất thiện si hệ thuộc cõi sắc?

Căn bất thiện si sắc lậu, hữu lậu. Đó gọi là căn bất thiện

si hệ thuộc cõi sắc.

Hỏi: Thế nào là căn bất thiện si hệ thuộc cõi vô sắc?

Đáp: Căn bất thiện si vô sắc lậu, hữu lậu. Đó gọi là căn bất thiện si hệ thuộc cõi vô sắc.

Hỏi: Ba căn bất thiện có bao nhiêu thứ là quá khứ, bao nhiêu thứ là vị lai, bao nhiêu thứ là hiện tại, bao nhiêu thứ không phải là quá khứ, không phải là vị lai, không phải là hiện tại?

Đáp: Tất cả đều gồm ba phần, hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại.

Hỏi: Thế nào là căn bất thiện tham là quá khứ?

Đáp: Căn bất thiện tham đã sinh rồi diệt. Đó gọi là căn bất thiện tham là quá khứ.

Hỏi: Thế nào là căn bất thiện tham là vị lai?

Đáp: Căn bất thiện tham chưa sinh, chưa xuất. Đó gọi là căn bất thiện tham là vị lai.

Hỏi: Thế nào là căn bất thiện tham là hiện tại?

Đáp: Căn bất thiện tham đã sinh chưa diệt. Đó gọi là căn bất thiện tham là hiện tại.

Căn bất thiện sân, si cũng như vậy.

 

Phẩm thứ 8: PHẦN HỎI VỀ CĂN THIỆN

Hỏi: Có bao nhiêu căn thiện?

Đáp: Có ba.

Những gì là ba?

Đáp: Căn thiện không tham, căn thiện không sân, căn thiện không si.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không tham?

Đáp: Không trông mong, đó gọi là căn thiện không tham.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không tham?

Đáp: Tâm có thể nhẫn chịu để lìa tham, đó gọi là căn thiện không tham.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không tham?

Đáp: Ái hỷ trong năm dục, ái sắc vừa ý, dục nhiễm nối tiếp. Ái hỷ sắc của nhãn thức, ái sắc vừa ý, dục nhiễm nối tiếp. Ái hỷ đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân thức xúc, ái sắc vừa ý, dục nhiễm nối tiếp. Dục của người khác, sắc của người khác, của cải của người khác, vợ con gái, đồng nữ của người khác cùng những vật cần dùng của họ đều không trông mong có được. Không tham, tâm không vướng mắc, không tham để mong cầu, không yêu, không dục nhiễm, tâm không dục nhiễm nữa, hoàn toàn không dục nhiễm cùng các pháp không tham khác. Không còn tham nữa, hoàn toàn không tham, không trông mong, không ái, không dục nhiễm, không dục nhiễm lần nữa, hoàn toàn không có dục nhiễm. Đó gọi là căn thiện không tham.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không sân?

Đáp: Không phẫn nộ, đó gọi là căn thiện không sân.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không sân?

Đáp: Tâm có thể nhẫn chịu để lìa giận, đó gọi là căn thiện không sân.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không sân?

Hoặc ít, hoặc nhiều chúng sinh, đối với các chúng sinh

này không gây tổn hại, không tạo sự hệ thuộc, không buộc trói giam nhốt, không gây ra vô số thứ khổ, không giận, không giận nữa, tâm hoàn toàn không giận, không nên giận, không phẫn nộ, không giận dữ ngang bướng, không oán ghét, tâm không não loạn, không cùng oán ghét, xót thương, đem lại lợi ích cho chúng sinh, và các pháp không giận dữ khác, hoàn toàn không có giận dữ. Đó gọi là căn thiện không sân.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không si?

Đáp: Lìa vô minh, đó gọi là căn thiện không si.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không si?

Đáp: Tâm có thể nhẫn chịu để lìa si, đó gọi là căn thiện không si.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không si?

Đáp: Nhận biết về khổ tập diệt đạo. Nhận biết quá khứ, nhận biết vị lai, nhận biết quá khứ, vị lai. Nhận biết trong, nhận biết ngoài, nhận biết trong ngoài. Nhận biết lỗi lầm tai hại nơi vị tập diệt của sáu xúc nhập. Nhận biết như thật về xuất ly. Nhận biết như thế, nhận biết nghiệp báo, nhận biết duyên, nhận biết thiện, bất thiện, vô ký. Nhận biết đen trắng, có duyên, không duyên, có ánh sáng, không ánh sáng, tạo tác, không tạo tác, thân, không thân. Trong pháp quá khứ, không có si, không bị xâm đoạt đoạt, không xâm đoạt tâm, tương ưng với không bị chướng ngại, không bị che lấp, không tối tăm, không bị rối loạn, không bị trói buộc, tâm không si, không đục, ánh sáng tỏa chiếu soi rọi tri kiến, giải thoát phương tiện, là tuệ nhãn, tuệ căn, tuệ lực, trạch pháp chánh giác, chánh kiến. Đó gọi là căn thiện không si.

Hỏi: Ba căn thiện có bao nhiêu thứ là sắc, bao nhiêu thứ không phải là sắc?

Đáp: Tất cả đều không phải là sắc.

Ba căn thiện có bao nhiêu thứ là có thể thấy, bao nhiêu thứ là không thể thấy?

Đáp: Tất cả đều là không thể thấy.

Hỏi: Ba căn thiện có bao nhiêu thứ là có đối, bao nhiêu thứ là không có đối?

Đáp: Tất cả đều là không có đối.

Hỏi: Ba căn thiện có bao nhiêu thứ là Thánh, bao nhiêu thứ không phải là Thánh?

Đáp: Hai căn không phải là Thánh. Một căn gồm hai phần, hoặc là Thánh, hoặc không phải là Thánh.

Hỏi: Thế nào là hai căn không phải là Thánh?

Đáp: Căn thiện không tham, căn thiện không sân, đó gọi là hai căn không phải là Thánh.

Hỏi: Thế nào là một căn gồm hai phần, hoặc là Thánh, hoặc không phải là Thánh?

Đáp: Căn thiện không si đó gọi là một căn gồm hai phần, hoặc là Thánh, hoặc không phải là Thánh.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không si không phải là Thánh?

Đáp: Nếu căn thiện không si là hữu lậu, đó gọi là căn thiện không si không phải là Thánh.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không si không phải là Thánh?

Đáp: Nếu căn thiện không si là phi học phi vô học, đó gọi là căn thiện không si không phải là Thánh.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không si là Thánh?

Đáp: Nếu căn thiện không si là vô lậu, đó gọi là căn thiện không si là Thánh.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không si là Thánh?

Đáp: Nếu căn thiện không si tương ưng với tín căn, đó gọi là căn thiện không si là Thánh.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không si là Thánh?

Đáp: Người học đã lìa kiết sử, tâm Thánh nhập đạo Thánh. Nếu là kiên tín, kiên pháp cùng người của nẻo khác thấy rõ lỗi lầm của hành, quán Niết-bàn tĩnh lặng, quán như thật về khổ tập diệt đạo, chưa được muốn được, chưa hiểu muốn hiểu, chưa chứng muốn chứng, tu đạo, xa lìa phiền não. Người kiến học như Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, trí quán đầy đủ, hoặc trí địa, hoặc quán tâm giải thoát, tức đắc quả Sa-môn, hoặc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-nahàm. Người vô học muốn đắc quả A-la-hán, chưa được pháp Thánh, muốn được pháp Thánh, muốn được tu đạo, trí quán đầy đủ, hoặc trí địa, hoặc quán tâm giải thoát, tức đắc quả A-la-hán. Nếu là người thật, hoặc là nẻo, không có si. Đó gọi là căn thiện không si là Thánh.

Hữu lậu, vô lậu, có ái, không ái, có mong cầu, không mong cầu, nên nhận lấy, không nên nhận lấy, có nhận giữ, không nhận giữ, có vượt hơn, không vượt hơn cũng như vậy.

Hỏi: Ba căn thiện có bao nhiêu thứ là thọ, bao nhiêu thứ không phải là thọ?

Đáp: Tất cả đều không phải là thọ. Tất cả đều là ngoài.

Hỏi: Ba căn thiện có bao nhiêu thứ là có báo, bao nhiêu thứ là không có báo?

Đáp: Hai căn có báo. Một căn gồm hai phần, hoặc là có báo, hoặc là không có báo.

Hỏi: Thế nào là hai căn là có báo?

Đáp: Căn thiện không tham, căn thiện không sân, đó gọi là hai căn là có báo.

Thế nào là một căn hai gồm phần, hoặc là có báo, hoặc là không có báo?

Đáp: Căn thiện không si đó gọi là một căn gồm hai phần, hoặc là có báo, hoặc là không có báo.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không si là có báo?

Đáp: Nếu căn thiện không si là pháp báo, đó gọi là căn thiện không si là có báo.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không si là có báo?

Đáp: Người học đã lìa kiết sử, tâm Thánh nhập đạo Thánh. Nếu là kiên tín, kiên pháp cùng người của nẻo khác thấy rõ lỗi lầm của hành, quán Niết-bàn tĩnh lặng, quán như thật về khổ tập diệt đạo, chưa được muốn được, chưa hiểu muốn hiểu, chưa chứng muốn chứng, tu đạo, lìa phiền não. Người vô học muốn đắc quả A-la-hán, chưa được pháp Thánh, muốn được tu đạo. Nếu là người thật, hoặc là nẻo, nếu không có si. Đó gọi là căn thiện không si là có báo.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không si là không có báo?

Đáp: Báo của căn thiện không si, đó gọi là căn thiện không si là không có báo.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không si là không có báo?

Đáp: Người kiến học như Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, trí quán đầy đủ, hoặc trí địa, hoặc quán tâm giải thoát, tức đắc quả Samôn, hoặc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm. Người vô học muốn đắc quả A-la-hán, trí quán đầy đủ, hoặc trí địa, hoặc quán tâm giải thoát, tức đắc quả A-la-hán. Nếu là người thật, hoặc là nẻo, không có si. Đó gọi là căn thiện không si là không có báo.

Hỏi: Ba căn thiện có bao nhiêu thứ là tâm, bao nhiêu thứ không phải là tâm?

Đáp: Tất cả đều không phải là tâm.

Hỏi: Ba căn thiện có bao nhiêu thứ là tâm tương ưng, bao nhiêu thứ không phải là tâm tương ưng?

Đáp: Tất cả đều là tâm tương ưng.

Hỏi: Ba căn thiện có bao nhiêu thứ là tâm số, bao nhiêu thứ không phải là tâm số?

Đáp: Tất cả đều là tâm số.

Hỏi: Ba căn thiện có bao nhiêu thứ là duyên, bao nhiêu thứ không phải là duyên?

Đáp: Tất cả đều là duyên.

Hỏi: Ba căn thiện có bao nhiêu thứ là tâm chung, bao nhiêu thứ không phải là tâm chung?

Đáp: Tất cả đều là tâm chung. Tất cả đều là tùy tâm chuyển.

Hỏi: Ba căn thiện có bao nhiêu thứ là nghiệp, bao nhiêu thứ không phải là nghiệp?

Đáp: Tất cả đều không phải là nghiệp.

Hỏi: Ba căn thiện có bao nhiêu thứ là nghiệp tương ưng, bao nhiêu thứ không phải là nghiệp tương ưng?

Đáp: Tất cả đều là nghiệp tương ưng.

Hỏi: Ba căn thiện có bao nhiêu thứ là cộng nghiệp, bao nhiêu thứ không phải là cộng nghiệp?

Đáp: Tất cả đều là cộng nghiệp. Tất cả đều tùy nghiệp chuyển.

Hỏi: Ba căn thiện có bao nhiêu thứ là nhân, bao nhiêu thứ không phải là nhân?

Đáp: Tất cả đều là nhân.

Ba căn thiện bao nhiêu thứ là có nhân, bao nhiêu thứ là không có nhân?

Đáp: Tất cả đều là có nhân. Tất cả đều có đầu mối. Tất cả đều có duyên. Tất cả đều là hữu vi.

Hỏi: Ba căn thiện có bao nhiêu thứ là nhận biết, bao nhiêu thứ là không nhận biết?

Đáp: Tất cả đều là nhận biết, như sự thấy biết.

Hỏi: Ba căn thiện có bao nhiêu thứ là thức, bao nhiêu thứ không phải là thức?

Đáp: Tất cả đều là thức, ý thức, như sự nhận thức. Tất cả đều là giải. Tất cả đều là liễu biệt.

Hỏi: Ba căn thiện có bao nhiêu thứ do đoạn trí nhận biết, bao nhiêu thứ không phải do đoạn trí nhận biết?

Đáp: Tất cả đều không phải do đoạn trí nhận biết. Tất cả đều không phải là đoạn.

Hỏi: Ba căn thiện có bao nhiêu thứ là tu, bao nhiêu thứ không phải là tu?

Đáp: Tất cả đều là tu.

Hỏi: Ba căn thiện có bao nhiêu thứ là chứng, bao nhiêu thứ không phải là chứng?

Đáp: Tất cả đều là chứng, như sự thấy biết.

Hỏi: Ba căn thiện có bao nhiêu thứ là thiện, bao nhiêu thứ là bất thiện, bao nhiêu thứ là vô ký?

Đáp: Tất cả đều là thiện.

Hỏi: Ba căn thiện có bao nhiêu thứ là học, bao nhiêu thứ là vô học, bao nhiêu thứ là phi học phi vô học?

Đáp: Hai căn là phi học phi vô học. Một căn gồm ba phần, hoặc là học, hoặc là vô học, hoặc là phi học phi vô học.

Hỏi: Thế nào là hai căn là phi học phi vô học?

Đáp: Căn thiện không tham, căn thiện không sân, đó gọi là hai căn là phi học phi vô học.

Hỏi: Thế nào là một căn gồm ba phần, hoặc là học, hoặc là vô học, hoặc là phi học phi vô học?

Đáp: Căn thiện không si đó gọi là một căn gồm ba phần, hoặc là học, hoặc là vô học, hoặc là phi học phi vô học.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không si là học?

Đáp: Nếu căn thiện không si không phải là Thánh vô học, đó gọi là căn thiện không si là học.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không si là học?

Đáp: Nếu căn thiện không si tương ưng với tín căn hữu học. Đó gọi là căn thiện không si là học.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không si là học?

Đáp: Người học đã lìa kiết sử, tâm Thánh nhập đạo Thánh. Nếu là kiên tín, kiên pháp cùng người của nẻo khác thấy rõ lỗi lầm của hành, quán Niết-bàn vắng lặng, quán như thật về khổ tập diệt đạo, chưa được muốn được, chưa hiểu muốn hiểu, chưa chứng muốn chứng, tu đạo, lìa phiền não. Người kiến học như Tu-đà-hoàn, Tưđà-hàm, A-na-hàm, trí quán đầy đủ, hoặc trí địa, hoặc quán tâm giải thoát, tức đắc quả Sa-môn, hoặc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm. Nếu là người thật, hoặc là nẻo, nếu là căn thiện không si. Đó gọi là căn thiện không si là học.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không si là vô học?

Đáp: Nếu căn thiện không si là Thánh không phải là học. Đó gọi là căn thiện không si là vô học.

Thế nào là căn thiện không si là vô học?

Đáp: Nếu căn thiện không si tương ưng với tín căn vô học. Đó gọi là căn thiện không si là vô học.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không si là vô học?

Đáp: Người vô học muốn đắc quả A-la-hán, chưa được pháp Thánh, muốn được pháp Thánh, tu đạo, trí quán đầy đủ, hoặc trí địa, hoặc quán tâm giải thoát, tức đắc quả A-la-hán. Nếu là người thật, hoặc là nẻo không có si. Đó gọi là căn thiện không si là vô học.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không si là phi học phi vô học?

Đáp: Nếu căn thiện không si không phải là Thánh không có si. Đó gọi là căn thiện không si là phi học phi vô học.

Hỏi: Ba căn thiện có bao nhiêu thứ là báo, bao nhiêu thứ là pháp báo, bao nhiêu thứ không phải là báo, không phải là pháp báo?

Đáp: Hai căn là pháp báo. Một căn gồm hai phần, hoặc là báo, hoặc là pháp báo.

Hỏi: Thế nào là hai căn là pháp báo?

Đáp: Căn thiện không tham, căn thiện không sân, đó gọi là hai căn là pháp báo.

Hỏi: Thế nào là một căn gồm hai phần, hoặc là báo, hoặc là pháp báo?

Đáp: Căn thiện không si đó gọi là một căn gồm hai phần, hoặc là báo, hoặc là pháp báo.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không si là báo?

Đáp: Căn thiện không si không có báo, đó gọi là căn thiện không si là báo.

Thế nào là căn thiện không si là báo?

Đáp: Người kiến học như Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, trí quán đầy đủ, hoặc trí địa, hoặc quán tâm giải thoát, tức đắc quả Samôn, hoặc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm. Người vô học muốn đắc quả A-la-hán, trí quán đầy đủ, hoặc trí địa, hoặc quán tâm giải thoát, tức đắc quả A-la-hán. Nếu là người thật, hoặc là nẻo không có si. Đó gọi là căn thiện không si là báo.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không si là pháp báo?

Đáp: Nếu căn thiện không si là có báo, đó gọi là căn thiện không si là pháp báo.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không si là pháp báo?

Đáp: Người học đã lìa kiết sử, tâm Thánh nhập đạo Thánh, Nếu là kiên tín, kiên pháp cùng người của nẻo khác thấy rõ lỗi lầm của hành, quán Niết-bàn vắng lặng, quán như thật về khổ tập diệt đạo, chưa được muốn được, chưa hiểu muốn hiểu, chưa chứng muốn chứng, tu đạo, lìa phiền não. Người vô học muốn đắc quả A-la-hán, chưa được pháp Thánh, muốn được tu đạo. Nếu là người thật, hoặc là nẻo không có si. Đó gọi là căn thiện không si là pháp báo.

Hỏi: Ba căn thiện có bao nhiêu thứ do kiến đoạn, bao nhiêu thứ do tư duy đoạn, bao nhiêu thứ không phải do kiến đoạn, không phải do tư duy đoạn?

Đáp: Tất cả đều không phải do kiến đoạn, không phải do tư duy đoạn.

Hỏi: Ba căn thiện có bao nhiêu thứ là nhân của kiến đoạn, bao nhiêu thứ là nhân của tư duy đoạn, bao nhiêu thứ không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn?

Đáp: Tất cả đều không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn.

Ba căn thiện có bao nhiêu thứ hệ thuộc cõi dục, bao nhiêu

thứ hệ thuộc cõi sắc, bao nhiêu thứ hệ thuộc cõi vô sắc, bao nhiêu thứ không hệ thuộc?

Đáp: Hai căn hệ thuộc cõi dục. Một căn gồm bốn phần, hoặc hệ thuộc cõi dục, hoặc hệ thuộc cõi sắc, hoặc hệ thuộc cõi vô sắc, hoặc không hệ thuộc.

Hỏi: Thế nào là hai căn hệ thuộc cõi dục?

Đáp: Căn thiện không tham, căn thiện không sân, đó gọi là hai căn hệ thuộc cõi dục.

Hỏi: Thế nào là một căn gồm bốn phần, hoặc hệ thuộc cõi dục, hoặc hệ thuộc cõi sắc, hoặc hệ thuộc cõi vô sắc, hoặc không hệ thuộc?

Đáp: Căn thiện không si đó gọi là một căn gồm bốn phần, hoặc hệ thuộc cõi dục, hoặc hệ thuộc cõi sắc, hoặc hệ thuộc cõi vô sắc, hoặc không hệ thuộc.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không si hệ thuộc cõi dục?

Đáp: Nếu căn thiện không si là dục lậu, hữu lậu, đó gọi là căn thiện không si hệ thuộc cõi dục.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không si hệ thuộc cõi sắc?

Đáp: Nếu căn thiện không si là sắc lậu, hữu lậu, đó gọi là căn thiện không si hệ thuộc cõi sắc.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không si hệ thuộc cõi vô sắc?

Đáp: Nếu căn thiện không si là vô sắc lậu, hữu lậu, đó gọi là căn thiện không si hệ thuộc cõi vô sắc.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không si không hệ thuộc?

Đáp: Nếu căn thiện không si là vô lậu Thánh, đó gọi là căn thiện không si không hệ thuộc.

Ba căn thiện có bao nhiêu thứ là quá khứ, bao nhiêu thứ là

vị lai, bao nhiêu thứ là hiện tại, bao nhiêu thứ không phải là quá khứ, không phải là vị lai, không phải là hiện tại?

Đáp: Tất cả đều gồm ba phần, hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tai.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không tham là quá khứ?

Đáp: Căn thiện không tham đã sinh rồi diệt, đó gọi là căn thiện không tham là quá khứ.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không tham là vị lai?

Đáp: Căn thiện không tham chưa sinh, chưa xuất, đó gọi là căn thiện không tham là vị lai.

Hỏi: Thế nào là căn thiện không tham là hiện tại?

Đáp: Căn thiện không tham đã sinh chưa diệt, đó gọi là căn thiện không tham là hiện tại.

Căn thiện không sân, căn thiện không si cũng như vậy.

 

Phẩm thứ 9: PHẦN HỎI VỀ ĐẠI

Hỏi: Có bao nhiêu đại?

Đáp: Có bốn.

Hỏi: Những gì là bốn?

Đáp: Đó là địa, thủy, hỏa, phong đại.

Hỏi: Thế nào là địa đại?

Đáp: Là hai thứ địa đại: Địa đại trong, địa đại ngoài.

Thế nào là địa đại trong?

Đáp: Nếu trong thân nêu riêng về phần cứng, thọ nhận phần cứng như xương, răng, móng, tóc, lông, da bên ngoài, da thịt, gân, lá lách, thận, gan, phổi, tim, ruột, dạ dày, ruột già, ruột non, bụng lớn, bụng nhỏ, phân nhơ. Thân này và những phần bên trong khác của thân thọ nhận phần cứng. Đó gọi là địa đại trong.

Hỏi: Thế nào là địa đại ngoài?

Đáp: Là phần cứng bên ngoài, không phải thọ nhận như đồng, sắt, chì, thiếc, bạch lạp, vàng, bạc, chân châu, lưu ly, kha bối, bích ngọc, san hô, đồng tiền, bảo bối, châu sa, đá đất, ruộng muối, phân rác, tro, đất đai, cỏ cây, nhánh lá, cộng, đốt và những vật chất cứng bên ngoài khác không thọ nhận. Đó gọi là địa đại ngoài.

Địa đại trong, địa đại ngoài như thế, gọi là địa đại.

Hỏi: Thế nào là thủy đại?

Đáp: Là hai thứ thủy đại: Thủy đại trong, thủy đại ngoài.

Hỏi: Thế nào là thủy đại trong?

Đáp: Là phần nước được thọ nhận bên trong thân như mồ hôi, nước miếng, đàm dãi, mật, gan, tủy, não, mỡ lá, nước mắt, nước mũi, mủ, máu, tiểu tiện cùng những phần khác trong thân có thọ nhận sự thấm ướt v.v… Đó gọi là thủy đại trong.

Hỏi: Thế nào là thủy đại ngoài?

Đáp: Là những chất nước bên ngoài không phải thọ nhận như dầu, tô, sinh tô, dầu hắc, mật, thạch mật, sữa, lạc, nước cất, rượu mía, rượu mật, cùng những thứ nước, chất béo bên ngoài khác không phải trong thân thọ nhận. Đó gọi là thủy đại ngoài.

Thủy đại trong, thủy đại ngoài như thế, gọi là thủy đại.

Thế nào là hỏa đại?

Đáp: Là hai thứ hỏa đại: Hỏa đại trong, hỏa đại ngoài.

Hỏi: Thế nào là hỏa đại trong?

Đáp: Là phần thọ nhận nóng của chất lửa ở trong thân. Như chất nóng có thể khiến thân luôn có thân nhiệt. Chất nóng trong thân khiến các thứ ăn, uống được tiêu hóa và những phần khác trong thân riêng nhận tánh nóng này. Đó gọi là hỏa đại trong.

Hỏi: Thế nào là hỏa đại ngoài?

Đáp: Là những thứ lửa nóng bên ngoài, không thọ nhận như sức nóng của của lửa, nhiệt lượng của mặt trời, sức nóng của ngọc báu, sức nóng của nhà, của tường vách, của núi, hơi nóng của lúa, của cỏ, của cây gỗ, của phân bò và sức nóng của những thứ bên ngoài khác không phải thọ nhận. Đó gọi là hỏa đại ngoài.

Hỏa đại trong, hỏa đại ngoài như thế, gọi là hỏa đại.

Hỏi: Thế nào là phong đại?

Đáp: Là hai thứ phong đại: Phong đại trong, phong đại ngoài.

Hỏi: Thế nào là phong đại trong?

Đáp: Là phần gió được thọ nhận thọ nhận thân: Gió trên, gió dưới, gió dựa nơi đốt xương, gió xoắn theo hai chân, gió trong gân cốt, gió theo hơi thở ra thở vào, và những phần khác trong thân riêng thọ nhận gió. Đó gọi là phong đại trong.

Hỏi: Thế nào là phong đại ngoài?

Đáp: Là phần gió bên ngoài không phải thọ nhận: Gió đông, gió nam, gió tây, gió bắc, gió bụi xen tạp, gió bụi không xen tạp, gió lạnh, gió nóng, gió đen, gió xoáy, gió của hơi núi bốc lên, gió của đất chuyển động và các thứ gió bên ngoài khác không phải thọ nhận. Đó gọi là phong đại ngoài.

Phong đại trong, phong đại ngoài như thế, gọi là phong đại.

Hỏi: Bốn đại có bao nhiêu thứ là sắc, bao nhiêu thứ không phải là sắc?

Đáp: Tất cả đều là sắc.

Hỏi: Bốn đại có bao nhiêu thứ là có thể thấy, bao nhiêu thứ là không thể thấy?

Đáp: Tất cả đều là không thể thấy.

Hỏi: Bốn đại có bao nhiêu thứ là có đối, bao nhiêu thứ là không có đối?

Đáp: Tất cả đều là có đối.

Hỏi: Bốn đại có bao nhiêu thứ là Thánh, bao nhiêu thứ không phải là Thánh?

Đáp: Tất cả đều không phải là Thánh.

Hỏi: Bốn đại có bao nhiêu thứ là hữu lậu, bao nhiêu thứ là vô lậu?

Đáp: Tất cả đều là hữu lậu. Tất cả đều là có ái. Tất cả đều có mong cầu. Tất cả đều nên nhận lấy. Tất cả đều có nhận giữ. Tất cả đều vượt hơn.

Hỏi: Bốn đại có bao nhiêu thứ là thọ, bao nhiêu thứ không phải là thọ?

Đáp: Tất cả đều gồm hai phần, hoặc là thọ, hoặc không phải là thọ.

Hỏi: Thế nào là địa đại là thọ?

Đáp: Địa đại nếu là bên trong, đó gọi là địa đại là thọ.

Hỏi: Thế nào là địa đại là thọ?

Đáp: Nếu pháp nơi nghiệp của địa đại là báo do phiền não sinh ra, thuộc về phần của ngã thâu tóm. Đó gọi là địa đại là thọ.

Thế nào là địa đại không phải là thọ?

Đáp: Địa đại nếu là bên ngoài, đó gọi là địa đại không phải thọ.

Thủy, hỏa, phong đại cũng như thế.

Hỏi: Bốn đại có bao nhiêu thứ là có báo, bao nhiêu thứ là không có báo?

Đáp: Tất cả đều là không có báo.

Hỏi: Bốn đại có bao nhiêu thứ là tâm, bao nhiêu thứ không phải là tâm?

Đáp: Tất cả đều không phải là tâm.

Hỏi: Bốn đại có bao nhiêu thứ là tâm tương ưng, bao nhiêu thứ không phải là tâm tương ưng?

Đáp: Tất cả đều không phải là tâm tương ưng.

Hỏi: Bốn đại có bao nhiêu thứ là tâm số, bao nhiêu thứ không phải là tâm số?

Đáp: Tất cả đều không phải là tâm số.

Hỏi: Bốn đại có bao nhiêu thứ là duyên, bao nhiêu thứ không phải là duyên?

Đáp: Tất cả đều không phải là duyên.

Hỏi: Bốn đại có bao nhiêu thứ là tâm chung, bao nhiêu thứ không phải là tâm chung?

Đáp: Tất cả đều không phải là tâm chung. Tất cả đều không tùy tâm chuyển.

Hỏi: Bốn đại có bao nhiêu thứ là nghiệp, bao nhiêu thứ không phải là nghiệp?

Đáp: Tất cả đều không phải là nghiệp.

Hỏi: Bốn đại có bao nhiêu thứ là nghiệp tương ưng, bao nhiêu thứ không phải là nghiệp tương ưng?

Đáp: Tất cả đều không phải là nghiệp tương ưng.

Hỏi: Bốn đại có bao nhiêu thứ là cộng nghiệp, bao nhiêu thứ không phải là cộng nghiệp?

Đáp: Tất cả đều không phải là cộng nghiệp. Tất cả đều không tùy nghiệp chuyển.

Hỏi: Bốn đại có bao nhiêu thứ là nhân, bao nhiêu thứ không phải là nhân?

Đáp: Tất cả đều là nhân.

Hỏi: Bốn đại có bao nhiêu thứ là có nhân, bao nhiêu thứ là không có nhân?

Đáp: Tất cả đều là có nhân. Tất cả đều có đầu mối. Tất cả đều có duyên. Tất cả đều là hữu vi.

Hỏi: Bốn đại có bao nhiêu thứ là nhận biết, bao nhiêu thứ không phải là nhận biết?

Đáp: Tất cả đều là nhận biết, như sự thấy biết.

Hỏi: Bốn đại có bao nhiêu thứ là thức, bao nhiêu thứ không phải là thức?

Đáp: Tất cả đều là thức, như sự nhận thức. Tất cả đều là liễu biệt, như sự thấy biết.

Hỏi: Bốn đại có bao nhiêu thứ do đoạn trí nhận biết, bao nhiêu thứ không phải do đoạn trí nhận biết?

Đáp: Tất cả đều không phải do đoạn trí nhận biết.

Hỏi: Bốn đại có bao nhiêu thứ là tu, bao nhiêu thứ không phải là tu?

Đáp: Tất cả đều không phải là tu.

Bốn đại có bao nhiêu thứ là chứng, bao nhiêu thứ không phải là chứng?

Đáp: Tất cả đều là chứng, như sự thấy biết.

Hỏi: Bốn đại có bao nhiêu thứ là thiện, bao nhiêu thứ là bất thiện, bao nhiêu thứ là vô ký?

Đáp: Tất cả đều là vô ký.

Hỏi: Bốn đại có bao nhiêu thứ là học, bao nhiêu thứ là vô học, bao nhiêu thứ là phi học phi vô học?

Đáp: Tất cả đều là phi học phi vô học.

Hỏi: Bốn đại có bao nhiêu thứ là báo, bao nhiêu thứ là pháp báo, bao nhiêu thứ không phải là báo, không phải là pháp báo?

Đáp: Tất cả đều gồm hai phần, hoặc là báo, hoặc không phải là báo, không phải là pháp báo.

Hỏi: Thế nào là địa đại là báo?

Đáp: Nếu địa đại là thọ, đó gọi là địa đại là báo.

Hỏi: Thế nào là địa đại là báo?

Đáp: Nếu pháp nơi nghiệp của địa đại là báo do phiền não sinh ra, thuộc về phần của ngã thâu tóm. Đó gọi là địa đại là báo.

Hỏi: Thế nào là địa đại không phải là báo, không phải là pháp báo?

Đáp: Nếu địa đại là ngoài, đó gọi địa đại không phải là báo, không phải là pháp báo.

Thủy, hỏa, phong đại cũng như thế.

Hỏi: Bốn đại có bao nhiêu thứ do kiến đoạn, bao nhiêu thứ do tư duy đoạn, bao nhiêu thứ không phải do kiến đoạn, không phải do tư duy đoạn?

Đáp: Tất cả đều không phải do kiến đoạn, không phải do tư duy đoạn.

Hỏi: Bốn đại có bao nhiêu thứ là nhân của kiến đoạn, bao nhiêu thứ là nhân của tư duy đoạn, bao nhiêu thứ không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn?

Đáp: Tất cả đều gồm ba phần, hoặc là nhân của kiến đoạn, hoặc là nhân của tư duy đoạn, hoặc không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là địa đại là nhân của kiến đoạn?

Đáp: Nếu địa đại là pháp báo của kiến đoạn, đó gọi là địa đại là nhân của kiến đoạn.

Hỏi: Thế nào là địa đại là nhân của tư duy đoạn?

Đáp: Nếu địa đại là pháp báo của tư duy đoạn, đó gọi là địa đại là nhân của tư duy đoạn.

Hỏi: Thế nào là địa đại không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn?

Đáp: Nếu địa đại là pháp báo thiện, hoặc không phải là báo, không phải là pháp báo. Đó gọi là địa đại không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn.

Thủy, hỏa, phong đại cũng như thế.

Hỏi: Bốn đại có bao nhiêu thứ hệ thuộc cõi dục, bao nhiêu thứ hệ thuộc cõi sắc, bao nhiêu thứ hệ thuộc cõi vô sắc, bao nhiêu thứ không hệ thuộc?

Đáp: Tất cả đều gồm hai phần, hoặc hệ thuộc cõi dục, hoặc hệ thuộc cõi sắc.

Hỏi: Thế nào là địa đại hệ thuộc cõi dục?

Đáp: Nếu địa đại là dục lậu, hữu lậu, đó gọi là địa đại hệ thuộc cõi dục.

Hỏi: Thế nào là địa đại hệ thuộc cõi sắc?

Đáp: Nếu địa đại là sắc lậu, hữu lậu, đó gọi là địa đại hệ thuộc cõi sắc.

Thủy, hỏa, phong đại cũng như vậy.

Hỏi: Bốn đại có bao nhiêu thứ là quá khứ, bao nhiêu thứ là vị lai, bao nhiêu thứ là hiện tại, bao nhiêu thứ không phải là quá khứ, không phải là vị lai, không phải là hiện tại?

Đáp: Tất cả đều gồm ba phần, hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại.

Hỏi: Thế nào là địa đại là quá khứ?

Đáp: Là địa đại đã sinh rồi diệt, đó gọi là địa đại là quá khứ.

Hỏi: Thế nào là địa đại là vị lai?

Đáp: Là địa đại chưa sinh, chưa phát ra, đó gọi là địa đại là vị lai.

Hỏi: Thế nào là địa đại là hiện tại?

Đáp: Là địa đại đã sinh chưa diệt, đó gọi là địa đại là hiện tại.

Thủy đại, hỏa đại, phong đại cũng như vậy.

 

Phẩm thứ 10: PHẦN HỎI VỀ ƯU BÀ TẮC

Hỏi: Là Ưu-bà-tắc chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Ai là Ưu-bà-tắc?

Đáp: Là Ưu-bà-tắc của Phật.

Hỏi: Là những Phật nào?

Đáp: Phật Thích Ca Mâu Ni.

Hỏi: Thứ gì đã huân tập Ưu-bà-tắc này?

Đáp: Là pháp.

Hỏi: Là những pháp nào?

Đáp: Lìa dục.

Hỏi: Những gì là lìa dục?

Đáp: Diện tận.

Hỏi: Thế nào là diệt tận?

Đáp: Là Niết-bàn.

Hỏi: Gồm những thứ gì được gọi là Ưu-bà-tắc?

Đáp: Nếu là người nam có các căn đầy đủ, tâm không lầm loạn, không bị các khổ bức bách, muốn làm Ưu-bà-tắc, tâm tôn thượng luôn hướng về, hướng về bậc ấy là chủ, dựa vào đấy để xả bỏ các thứ hỷ lạc kia. Vì pháp luân kia chưa chuyển vận, chưa có chúng Tăng, người ấy miệng thọ nhận hai giáo: Quy y Phật, quy y Pháp. Thọ nhận hai ngữ này xong, tức gọi Ưu-bà-tắc. Như kệ nói:

Lìa phiền não sử cấu

Chứng thường tịch thứ nhất

Hàng phục xứng vô lượng

Vì Đề Vi kia nói:

Quy Phật và quy Pháp

Báu vô thượng lìa cấu

Chưa có báu thứ ba

Dạy khiến nương hai báu.

Không bị dục tổn hại

Đại Tiên lìa keo kiệt

Pháp nghĩa này nên thế

Đại Tiên không hủy Tăng.

Pháp luân đã chuyển, nên có Thánh chúng, tức nói ba ngữ, miệng thọ nhận ba giáo: Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Thọ nhận ba ngữ này xong, tức gọi Ưu-bà-tắc. Như Đức Phật đã nói:

Xứ quy y rất nhiều:

Núi non và cây cối

Vườn rừng cùng các thần

Đều do khổ bức bách.

Quy đấy không an ổn

Quy đấy không là trên

Không quy y xứ này

Có thể lìa hết khổ.

Nếu quy Phật, Pháp, Tăng

Chánh quán bốn chân đế:

Khổ do nơi tập sinh

Có thể diệt khổ, tập.

Tám chánh đạo an ổn

Tất đến xứ cam lộ

Quy đây rất là an

Quy đây là trên hết.

Quy y nơi xứ này

Có thể lìa hết khổ.

Hỏi: Ưa-bà-tắc có bao nhiêu giới?

Đáp: Có năm giới.

Hỏi: Những gì là năm giới?

Đáp: Đó là:

  1. Trọn đời không sát sinh, là giới Ưu-bà-tắc.
  2. Trọn đời không trộm cắp, là giới Ưu-bà-tắc.
  3. Trọn đời không tà dâm, là giới Ưu-bà-tắc.
  4. Trọn đời không nói dối, là giới Ưu-bà-tắc.
  5. Trọn đời không uống rượu, là giới Ưu-bà-tắc.

Năm giới Ưu-bà-tắc như thế, trọn đời thọ trì, không được vi phạm.

Hỏi: Theo những giới hạn nào gọi là Ưu-bà-tắc giữ giới?

Đáp: Nếu Ưu-bà-tắc đối với năm giới này, thường trì giới hộ hành, hành gần, hành không thiếu, hành không loạn, hành không vẩn đục, hành không xen tạp, tùy thuận giới hành. Theo giới hạn như thế, gọi là Ưu-bà-tắc giữ giới. Như kệ nói:

Người trí hay giữ giới

Trông mong nơi ba vui

Tôn trọng được lợi ích

Trọn nhận vui cõi trời.

Thấy những xứ như thế

Người trí nên lìa ác

Lợi căn, giữ giới tịnh

Thường đạt vui bậc nhất.

Hỏi: Thế nào là sát sinh?

Đáp: Nếu sinh khởi tưởng về chúng sinh, cố đoạn dứt mạng chúng sinh, hoặc chúng sinh kia chưa chết. Đến lúc biết chúng sinh kia chưa chết lại bảo giết hại, đoạn mạng, chớ để cho sống. Lời nói ấy, người kia nghe xong, sau đó đã giết, sinh mạng kia đã ngã lăn xuống đất. Thân nghiệp, khẩu nghiệp như đấy, là chúng sinh cố ý đoạn mạng chúng sinh, sẽ đoạn dứt, nhất định không đoạn dứt. Hành động kia là nghiệp sát sinh. Nếu người làm nghiệp ấy, đó gọi là người sát sinh.

Hỏi: Thế nào là không sát sinh, là giới Ưu-bà-tắc?

Đáp: Nếu đối với nghiệp sát sinh kia không ưa thích, luôn xa lìa không làm, giữ giới không vi phạm, dứt bỏ tận gốc, lìa bỏ pháp bất thiện, có thể nhẫn chịu để hành điều thiện. Đó gọi là không sát sinh, là giới Ưu-bà-tắc. Như Đức Phật đã nói:

Không giết cũng không bảo

Cũng không khuyên người giết

Các định và sợ hãi

Cùng với danh tiếng lớn

Nơi tất cả chúng sinh

Bỏ hết các đao, gậy.

Hỏi: Thế nào là không cho mà lấy?

Đáp: Nếu có người không cho mà lấy, hoặc ở trong thôn xóm, hoặc nơi chốn núi đầm, không cho nhưng khởi tâm trộm cắp, lấy vật của người khác. Hoặc cùng với người khác làm, hoặc cùng giao kết nhưng cướp lấy vật dụng của người khác, khởi tưởng tâm trộm cắp, hy vọng được yêu thích, gìn giữ làm vật mình có. Thân nghiệp, khẩu nghiệp như thế, đi lấy, đến lấy, lìa nhà cũ của mình, di chuyển chỗ ở, hủy hoại cờ hiệu che chắn, vượt ra biên giới. Nghiệp kia là không cho mà lấy. Nếu người làm nghiệp đó, gọi là người không cho mà lấy.

Hỏi: Thế nào là không trộm cắp, là giới Ưu-bà-tắc?

Đáp: Đối với nghiệp trộm cắp kia không ưa thích, luôn xa lìa không làm, giữ giới không vi phạm, dứt bỏ tận gốc, từ bỏ căn bất thiện, có thể nhẫn chịu để hành điều thiện. Đó gọi là không trộm cắp, là giới Ưu-bà-tắc. Như Đức Phật đã nói:

Không trộm, cũng không bảo

Không lấy, không mang đi

Không khuyên người khác lấy

Lìa không cho mà lấy.

Hỏi: Thế nào là tà dâm?

Đáp: Nếu có người theo tà hạnh: Hoặc người nữ kia được cha, mẹ bảo hộ, anh em, chị em gái bảo hộ, tự bảo hộ, hoặc pháp luật bảo hộ, dòng họ bảo hộ, bà con trong xom làng bảo hộ, người thân tín bảo hộ, cho đến dùng tràng hoa để bảo hộ. Nếu cùng với người nữ ấy gần gũi qua đêm, hoặc cùng hành pháp dục. Nếu là vợ mình, hành dục không phải đạo, thì nghiệp đó là tà hạnh. Nếu người tạo nghiệp ấy gọi là người tà hạnh.

Hỏi: Thế nào là không tà dâm, là giới Ưu-bà-tắc?

Đáp: Đối với nghiệp tà dâm kia không ưa thích, luôn xa lìa không làm, giữ giới không vi phạm, trừ bỏ tận gốc, dứt bỏ pháp bất thiện, có thể nhẫn chịu để hành điều thiện. Đó gọi là không tà dâm, là giới Ưu-bà-tắc. Như Đức Phật đã nói:

Lìa dâm hành bất tịnh

Quán dục như hầm lửa

Tuy chưa thể lìa dục

Trọn không phạm vợ người.

Hỏi: Thế nào là nói dối?

Đáp: Như có người nói dối: Hoặc trong bè bạn, trong chúng, trong bà con nơi xóm làng, nơi những người tôn quý, trước mặt vua chúa, thay họ làm chứng, nêu bày như đã nhận biết. Người kia không biết nói là biết, biết nói là không biết, thấy nói là không thấy, không thấy nói là thấy. Nếu tự làm vì người khác, hoặc vì của cải nên ở trong chúng cố tình nói dối, che giấu chỗ nhẫn chịu, che giấu điều mong muốn, che giấu những gì mình đã biết, đã tưởng, che giấu những sự việc tâm đã nhận biết, không thấy nói thấy, thấy nói không thấy, không nghe nói nghe, nghe nói không nghe, không hiểu nói hiểu, hiểu nói không hiểu, không biết rõ nói biết rõ, biết rõ nói không biết rõ. Trước, muốn nói dối, khi nói, biết mình nói dối, nói xong, biết là nói dối. Ý lừa dối như thế là vì của cải, tiền bạc. Nếu tập hợp tất cả những âm thanh, câu lời, ngôn ngữ được miệng biểu hiện như thế là nghiệp nói dối. Nếu người hành tác nghiệp ấy gọi là người nói dối.

Hỏi: Thế nào là không nói dối, là giới Ưu-bà-tắc?

Đáp: Đối với nghiệp nói dối kia không ưa thích, luôn xa lìa không làm, giữ giới không vi phạm, dứt bỏ tận gốc, từ bỏ pháp bất thiện, có thể nhẫn chịu để hành điều thiện. Đó gọi là không nói dối, là giới Ưu-bà-tắc. Như Đức Phật đã nói:

Hoặc bạn, hoặc trong chúng

Mỗi mỗi không nói dối

Không nói, không khuyên bảo

Lìa hết thảy hư vọng.

Hỏi: Thế nào là uống rượu, ở chốn phóng dật?

Đáp: Nếu có uống rượu ở chốn phóng dật: Hoặc rượu là rượu đục (nồng), rượu mía, rượu bồ đào, rượu mật và các thứ rượu làm từ những vật khác. Nếu uống rượu, hoặc yêu thích rượu, dùng rượu rưới vào thân, cho đến cỏ, lá, một giọt, nghiệp kia là uống rượu ở chốn phóng dật. Nếu người hành tác nghiệp ấy, gọi là người uống rượu phóng dật.

Hỏi: Thế nào là không uống rượu, không phóng dật, là giới Ưu-bà-tắc?

Đáp: Nếu đối với nghiệp ấy không ưa thích, luôn xa lìa không làm, giữ giới không phạm, dứt bỏ tận gốc, từ bỏ pháp bất thiện, có thể nhẫn chịu để hành điều thiện. Đó gọi là không uống rượu, không ở chốn phóng dật, là giới Ưu-bà-tắc. Như Đức Phật đã nói.

Thánh dạy nên lìa rượu

Cũng đừng cho rượu người

Không uống, không khuyên ưa

Biết chốn phóng dật ấy.

Biết nẻo bất thiện này

Người ngu si, kiêu ngạo

Biết chốn này bất thiện

Giới đức, tự ngăn giữ.

Không giết, cũng không trộm

Lời thật, không uống rượu

Không dâm, pháp đoạn dục

Không ăn đêm phi thời.

Khiêm cung, không giường cao

Dứt nghe, vui chỉ quán

Không tràng hoa, xoa hương

Như thế tám trai giới.

Tùy thời luôn thọ trì

Người trí tùy thực thí

Cúng dường Tăng uống, ăn

Không phóng dật, tham đắm.

Cúng dường cho cha, mẹ

Như pháp, cầu của cải

Để tự tu nghiệp nhà

Được sinh trời Nhựt Quang.

Hỏi: Năm giới có bao nhiêu thứ là sắc, bao nhiêu thứ không phải là sắc?

Đáp: Tất cả đều là sắc.

Hỏi: Năm giới có bao nhiêu thứ là có thể thấy, bao nhiêu thứ là không thể thấy?

Đáp: Tất cả đều là không thể thấy.

Hỏi: Năm giới có bao nhiêu thứ là có đối, bao nhiêu thứ là không có đối?

Đáp: Tất cả đều là không có đối.

Hỏi: Năm giới có bao nhiêu thứ là Thánh, bao nhiêu thứ không phải là Thánh?

Đáp: Tất cả đều không phải là Thánh.

Hỏi: Năm giới có bao nhiêu thứ là hữu lậu, bao nhiêu thứ là vô lậu?

Đáp: Tất cả đều là hữu lậu. Tất cả đều là có ái. Tất cả là có mong cầu. Tất cả là nên nhận lấy. Tất cả là có nhận giữ. Tất cả là vượt hơn.

Hỏi: Năm giới có bao nhiêu thứ là thọ, bao nhiêu thứ không phải là thọ?

Đáp: Tất cả đều không phải là thọ. Tất cả đều là bên ngoài.

Hỏi: Năm giới có bao nhiêu thứ là có báo, bao nhiêu thứ là không có báo?

Đáp: Tất cả đều là có báo.

Hỏi: Năm giới có bao nhiêu thứ là tâm, bao nhiêu thứ không phải là tâm?

Đáp: Tất cả đều không phải là tâm.

Hỏi: Năm giới có bao nhiêu thứ là tâm tương ưng, bao nhiêu thứ không phải là tâm tương ưng?

Đáp: Tất cả đều không phải là tâm tương ưng.

Hỏi: Năm giới có bao nhiêu thứ là tâm số, bao nhiêu thứ không phải là tâm số?

Đáp: Tất cả đều không phải là tâm số.

Hỏi: Năm giới có bao nhiêu thứ là duyên, bao nhiêu thu71 không phải là duyên?

Đáp: Tất cả đều không phải là duyên.

Hỏi: Năm giới có bao nhiêu thứ là tâm chung, bao nhiêu thứ không phải là tâm chung?

Đáp: Tất cả đều không phải là tâm chung. Tất cả đều không tùy tâm chuyển.

Hỏi: Năm giới có bao nhiêu thứ là nghiệp, bao nhiêu thứ không phải là nghiệp?

Đáp: Tất cả đều là nghiệp.

Hỏi: Năm giới có bao nhiêu thứ là nghiệp tương ưng, bao nhiêu thứ không phải là nghiệp tương ưng?

Đáp: Tất cả đều không phải là nghiệp tương ưng.

Hỏi: Năm giới có bao nhiêu thứ là cộng nghiệp, bao nhiêu thứ không phải là cộng nghiệp?

Đáp: Tất cả đều không phải là cộng nghiệp. Tất cả đều không tùy nghiệp chuyển.

Hỏi: Năm giới có bao nhiêu thứ là nhân, bao nhiêu thứ không phải là nhân?

Đáp: Tất cả đều là nhân.

Hỏi: Năm giới có bao nhiêu thứ là có nhân, bao nhiêu thứ là không có nhân?

Đáp: Tất cả đều là có nhân. Tất cả đều có đầu mối. Tất cả đều có duyên. Tất cả đều là hữu vi.

Hỏi: Năm giới có bao nhiêu thứ là nhận biết, bao nhiêu thứ không phải là nhận biết?

Đáp: Tất cả đều là nhận biết, như sự thấy biết.

Hỏi: Năm giới có bao nhiêu thứ là thức, bao nhiêu thứ không phải là thức?

Đáp: Tất cả đều là thức, ý thức, như sự nhận thức. Tất cả đều là giải. Tất cả đều là liễu biệt.

Hỏi: Năm giới có bao nhiêu thứ do đoạn trí nhận biết, bao nhiêu thứ không phải do đoạn trí nhận biết?

Đáp: Tất cả đều không phải do đoạn trí nhận biết.

Hỏi: Năm giới có bao nhiêu thứ là tu, bao nhiêu thứ không phải là tu?

Đáp: Tất cả đều là tu.

Hỏi: Năm giới có bao nhiêu thứ là chứng, bao nhiêu thứ không phải là chứng?

Đáp: Tất cả đều là chứng, thấy biết như sự.

Hỏi: Năm giới có bao nhiêu thứ là thiện, bao nhiêu thứ là bất thiện, bao nhiêu thứ là vô ký?

Đáp: Tất cả đều là thiện.

Hỏi: Năm giới có bao nhiêu thứ là học, bao nhiêu thứ là vô học, bao nhiêu thứ là phi học phi vô học?

Đáp: Tất cả đều là phi học phi vô học.

Hỏi: Năm giới có bao nhiêu thứ là báo, bao nhiêu thứ là pháp báo, bao nhiêu thứ không phải là báo, không phải là pháp báo?

Đáp: Tất cả đều là pháp báo.

Hỏi: Năm giới có bao nhiêu thứ do kiến đoạn, bao nhiêu thứ do tư duy đoạn, bao nhiêu thứ không phải do kiến đoạn, không phải do tư duy đoạn?

Đáp: Tất cả đều không phải do kiến đoạn, không phải do tư duy đoạn.

Hỏi: Năm giới có bao nhiêu thứ là nhân của kiến đoạn, bao nhiêu thứ là nhân của tư duy đoạn, bao nhiêu thứ không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn?

Đáp: Tất cả đều không phải là nhân của kiến đoạn, không phải là nhân của tư duy đoạn.

Hỏi: Năm giới có bao nhiêu thứ hệ thuộc cõi dục, bao nhiêu thứ hệ thuộc cõi sắc, bao nhiêu thứ hệ thuộc cõi vô sắc, bao nhiêu thứ không hệt thuộc?

Đáp: Tất cả đều hệ thuộc cõi dục.

Hỏi: Năm giới có bao nhiêu thứ là quá khứ, bao nhiêu thứ là vị lai, bao nhiêu thứ là hiện tại, bao nhiêu thứ không phải là quá khứ, không phải là vị lai, không phải là hiện tại?

Đáp: Tất cả đều gồm ba phần, hoặc là quá khứ, hoặc là vị lai, hoặc là hiện tại.

Hỏi: Thế nào là giới không sát sinh là quá khứ?

Đáp: Giới không sát sinh đã sinh rồi diệt, đó gọi là giới không sát sinh là quá khứ.

Hỏi: Thế nào là giới không sát sinh là vị lai?

Đáp: Giới không sát sinh chưa sinh, chưa phát ra, đó gọi là giới không sát sinh là vị lai.

Hỏi: Thế nào là giới không sát sinh là hiện tại?

Đáp: Giới không sát sinh đã sinh chưa diệt, đó gọi là giới không sát sinh là hiện tại.

Cho đến giới không uống rượu, không phóng dật cũng như vậy.

(Phần Hỏi có 10 phẩm xong)

HẾT – QUYỂN 6