TÂN BIÊN QUÁN ÂM LINH CẢM LỤC
Biên soạn: Lý Viên Tịnh
Việt dịch: Sa môn Thích Trí Minh
Các Chương trong Sách:
- 1. Lời tựa của Liên Tông Thập Tam Tổ Ấn Quang Pháp Sư
- 2. Kinh Phổ Môn
- 3. Thiên Thứ Nhất Bạt Trừ Bệnh Khổ
- 4. Thiên Thứ Hai Cứu Tế Ách Nạn
- 5. Thiên Thứ Ba Ban Cho Phước Huệ
- 6. Thiên Thứ Tư Độ Thoát Sanh Tử
- 7. Thiên Thứ Năm Rộng Khắp Khuyên Răn
THIÊN THỨ SÁU
PHỔ BIẾN THỊ HIỆN
1. Cách phía Nam ngôi đại già lam Ca Bố Đức, nước Ma Kiệt Đà, xứ Trung Thiên Trúc hai, ba dặm có một ngọn cổ sơn. Núi ấy cao chọc trời, rừng cây rậm rạp, tất cả kỳ hoa, dị thảo không thiếu thứ nào, bốn phía có suối nước trong veo, róc rách chảy suốt ngày đêm, trên đỉnh núi có một Tịnh xá, tất cả như một bức tranh đẹp do một hoạ sĩ tinh xảo vẽ nên. Ở chính giữa Tịnh xá ấy, có một Thánh tượng Quán Âm Bồ Tát nhỏ nhưng rất trang nghiêm, tay Ngài cầm hoa sen, đầu đội mão có hình cổ Phật. Nhiều người ở nơi đây từng phát nguyện tuyệt thực, nhất tâm xưng niệm Thánh hiệu Bồ tát để được thấy Ngài. Thời gian thực hành nguyện vọng ấy không cố định mà tùy theo người nguyện, có lúc bảy ngày, mười bốn ngày, hai mươi mốt ngày hoặc một tháng. Nhiều người do tâm chí thành nên đã được thấy Bồ Tát hiện tướng đoan nghiêm, hào quang rực rỡ và được nghe những lời an ủi từ nơi Thánh tượng. Tương truyền rằng xưa kia, vua Già La Nam Hải, vào một buổi sáng mai, khi Ông dùng kính soi mặt thì không thấy mặt mình trong gương mà lại thấy hiện lên một ngọn núi nhỏ trong rừng Ta La ở nước Ma Kiệt Đà thuộc Nam Thiệm Bộ Châu, trên núi có Thánh tượng Quán Âm Bồ Tát nên Ông vô cùng vui mừng cảm động, phát tâm tìm kiếm cho kỳ được. Khi đã đến núi này thì Ông thấy giống y cảnh tượng trong gương, do nhân duyên ấy, nhà vua đã kiến lập Tịnh Xá và tạo tượng Quán Âm Bồ Tát để cúng thờ, hàng ngày cúng dường lễ bái. Từ ấy về sau, các vị vua ở các triều đại kế tiếp, tưởng nhớ di phong của Tiên vương nên các Ngài kiến lập thêm một Tịnh xá mới, trên một khu đất rộng bên cạnh Tịnh xá, trước và bên trong cũng có thờ Thánh tượng Bồ tát, hàng ngày đều dùng hoa hương, kỷ nhạc cúng dường không dứt. (Trích Tây Vực Ký).
2. Thanh Biện Lục Sư ở nước Ấn độ từng đến trước Thánh tượng Quán Âm Bồ Tát, chí thành lễ bái cầu đảo, trì tụng Chú tùy tâm Đà La Ni và phát nguyện tuyệt thực, mỗi ngày chỉ dùng nước. Trải qua thời gian ba năm thì cảm đến Bồ Tát, Ngài hiện sắc thân vi diệu và hỏi chí hướng của Lục Sư mong cầu điều chi. Lục sư bạch: “Kính bạch Đại Sĩ! Chí nguyện của con là xin lưu nhục thân này, đợi đến ngày đức Từ Thị Bồ Tát thành Phật.” Bồ Tát dạy: “Lục sư, Ông nên đến chổ Vị chấp Kim cang Thần, nơi ngọn núi phía Nam của thành Đại An Đạt La, chí thành trì tụng thần chú Chấp Kim Cang Đà La Ni thì sẽ được toại nguyện.” Lục Sư vâng lời Bồ tát dạy, đến nơi đó trì tụng ba năm thì Ngài được Chấp Kim Cang thần truyền dạy một phương pháp và bảo Lục Sư rằng: “Ở trong núi đá này có cung điện A Tu La, Ngài hãy theo đúng như pháp thực hành, cầu thỉnh vách đá hé mở. Khi nào thấy vách đá hé mở thì phải vào trong ấy tức khắc và an trú trong ấy thì có thể lưu thân đợi đến ngày nhìn thấy Từ Thị Di Lặc Bồ tát hạ sanh thành Phật.” Lục Sư vâng lời chuyên tâm trì tụng, trải qua thời gian ba năm, không hề có một tạp niệm. Ngài trì chú vào những hạt cải rồi đem gắn chúng vào vách đá thì bỗng nhiên cửa Động tự mở. Dân chúng lúc bấy giờ đua nhau đến xem, số đến nghìn vạn ức người. Lục Sư đến nơi cửa, trịnh trọng tuyên bố với đại chúng rằng: “Thưa quý vị, Tôi trải qua thời gian rất lâu chí thành cầu khẩn, trông mong đợi đến ngày Di Lặc hạ sanh thành Phật để được thấy Ngài. Nhờ đức từ của Quán Âm Bồ Tát cùng Thánh linh gia hộ, đại nguyện ấy nay đã được thành tựu. Vậy xin mời quí vị nên vào trong đây để cùng tôi lưu thân thấy Phật xuất thế.” Mọi người nghe xong đều sanh tâm sợ hãi cho rằng đấy là hang rắn, họ sợ vào sẽ tán thân mất mạng, nhưng Lục Sư vẫn tha thiết hai ba lần khuyến tấn thì có sáu người theo Ngài vào trong ấy. Khi vừa vào thì vách đá tự nhiên đóng lại. (Trích Đường Tây Vực Ký).
3. Triều đại nhà Tống, có ni sư hiệu là Tăng Đoan, người ở Quảng Lăng. Ni sư sanh trưởng trong gia đình tin Phật, nhưng trong nhà chỉ có hai chị em có tín tâm thâm hậu, riêng Tăng Đoan có chí nguyện xuất gia nên quyết định không lấy chồng. Vì người Anh và mẫu thân đã hứa gả Tăng Đoan cho một nhà triệu phú nên trước khi làm lễ kết hôn vài ngày, Tăng Đoan quỳ trước Phật đài, ngày đêm chí thành lễ bái cầu nguyện cho chí hướng của mình được toại. Ngoài việc lễ Phật cầu đảo, Tăng Đoan lại xưng niệm Thánh hiệu Quán Âm Bồ Tát và tụng Kinh Phổ Môn. Ba ngày sau trong khi Tăng Đoan đang lễ bái tụng niệm, thì thấy tượng Phật cử động và bảo rằng: “Chồng của con đã hết số, con chỉ cần tinh tấn tu niệm, đừng quá lo lắng đau buồn.” Sáng ngày hôm sau, Tăng Đoan hay tin chàng rễ đó đã bị trâu chém chết. Nhờ vậy mà Tăng Đoan được mãn nguyện xuất gia. (Trích Tỳ Kheo Ni truyện).
4. Triều nhà Đường, Pháp Tịnh Pháp sư là người ở Bạch Thủy, huyện Nam Dương, mỗi ngày sáu thời hành đạo rất tinh tấn. Một hôm nọ, Ngài đi vào điện Phật thì nhìn thấy Quán Âm Bồ Tát từ ngoài cửa đi vào, đoạn ngự ở không trung, thân tướng vòi vọi, đoan nghiêm rực rỡ, nơi cổ có mang chuỗi anh lạc thật là hy hữu, tất cả thánh tượng ở thế gian không thể sánh bằng, trong giây lâu mới ẩn mất. (Trích Cao Tăng truyện – Tập 1).
5. Triều nhà Đường có Phổ Minh Thiền Sư, pháp danh trước kia của Ngài là Pháp Kính. Một độ nọ, Ngài theo Trí giả Đại Sư đến chùa thực hành Quán Âm Sám pháp. Tháng ấy nhằm tiết Đông, lạnh rét buốt xương thịt, nhưng Thiền Sư không mặc áo bông ấm, chuyên tâm hành đạo khổ hạnh. Một ngày nọ, có một vị Tăng đến dạy rằng: “Pháp danh của Ông là Pháp kính không tốt, nên đổi thành Phổ Minh mới hay, vì danh hiệu này biểu hiện tâm trí Ông sáng suốt, chiếu hiệu ba đời.” Sau khi lễ sám xong, Ngài đem việc ấy bạch lên Trí Giả Đại Sư thì Đại Sư thuận theo lời vị Tăng ấy dạy, đổi tên Ngài là Phổ Minh. (Trích Cao Tăng Truyện – Tập 2).
6. Triều nhà Đường có thầy Thích Đàm Tạng, là người họ Dương, ở Hoa Âm. Lúc mười lăm tuổi, Thầy gặp một vị Tướng số cho biết Thầy là người yểu số. Song thân Thầy nghe nói thì vô cùng buồn bã vì Thầy là con một. Tức thời, hai ông bà liền bàn tính chuyện hôn nhân, nhưng sự việc này không phải là bổn nguyện của Thầy bởi tâm Thầy đã quyết chí tìm nơi thâm sơn cùng cốc ẩn thân tu hành nên đành trái lệnh mẹ cha. Chí nguyện như vậy nhưng Thầy lại không biết đường đi nên Thầy chỉ một lòng thành kính chuyên niệm Thánh hiệu Quán Âm, đi một lúc, bổng nhiên gặp một người nói rằng: “Ông cứ nhằm hướng Tây mà đi, sẽ có một ngôi già lam gần nơi đây, không xa lắm.” Thầy Đàm Tạng vâng lời, đi lối một dặm thì nghe tiếng đại hồng chung và thấy một ngôi chùa Tăng phía trước. Thầy liền bước vào trong và cầu xin Hòa thượng làm lễ thế phát để được toại với bổn nguyện. Nhưng sau khi Hòa thượng làm lễ thế phát, thì lập tức đuổi Thầy ra khỏi chùa. Thầy không dám trái lệnh liền bỏ ra đi. Đi được độ một trăm bước, khi quay đầu nhìn lại thì Chùa ấy đã không còn. Một hồi lâu thì trời mới sáng, Thầy theo đường tiến bước thì cuối cùng gặp một ngôi cổ tự giữa chốn núi rừng thiên nhiên u tịch, Thầy bèn ẩn tu nơi đó. (Trích Cao Tăng Truyện – Tập 2).
7. Vương Tử nước Yết Nhã, Khúc Xà, miền Trung Ấn Độ tên là Hỷ Tăng. Lúc sắp kế vị, Ông đến trước Thánh tượng của Quán Âm Bồ Tát ở bờ sông Hằng, phát nguyện tuyệt thực, ngày đêm lễ bái cầu đảo, mong cầu Bồ tát từ bi gia hộ cho mình khi nhận tước vị, trị nước an dân được nhiều an ổn. Trải qua thời gian hai mươi mốt ngày, cảm ứng đến Bồ tát, Ngài hiện thân khuyến hóa Vương tử: “Khi nối ngôi Tiên vương, phải hết lòng hộ trì Tam bảo, làm cho Phật pháp được hưng long, đối với dân chúng phải lấy tâm từ bi làm bản hoài, không bao lâu Vương tử sẽ ngự trị toàn cõi Ấn độ.” Vương Tử vâng lời Bồ tát dạy sau khi kế vị, tự xưng hiệu là Giới Nhật, tận tâm ủng hộ Phật Pháp, rộng hoằng truyền Chánh pháp Như Lai. Riêng bản thân mình thì siêng năng tu tập, đối với dân chúng xem như con ruột. Đường Tam Tạng Huyền Trang Pháp sư trong thời gian thỉnh kinh qua Ấn độcũng đã từng đến nước này và thọ thỉnh Quốc vương Giới Nhật. (Trích Tây Bút Ký).
8. Triều nhà Đường có Thầy Thích Tăng Nhẩn, là người họ Sử ở Trần Lưu, chuyên đọc kinh Đại bi và sưu tầm nghiên cứu về bốn mươi hai cánh tay của Đại Sĩ. Khi nghiên cứu đến tay Vô Úy thì Thầy không thông đạt lý và sanh nghi nên nguyện thiết đàn lễ bái cầu thỉnh. Trải qua một tuần, tự nhiên trong không trung hiện ra cánh tay ấn ấy, hai cánh tay có thể trông thấy một cách rõ ràng. Thầy liền rước họa sĩ đến họa cánh tay ấy. Bấy giờ có người nghe thì sanh tâm dị nghị chê bai nhưng Thầy vẫn một lòng tín thành, làm theo chí nguyện. Khi thợ vẽ đem bút đồng để vẽ cánh tay ấy thì bổng nhiên cảm đến Bồ tát, Ngài hiện ra một đóa hoa bảo tấm, cành lá tươi đẹp rực rỡ, mọi người ai trông thấy cũng cho là chuyện kinh lạ và tán thán. (Trích Cao tăng Truyện – Tập 3).
9. Triều nhà Đường, vợ của Tần Huyền Phạm là Trương Thị, là một nữ Phật tử kính tín ngôi Tam bảo. Bà thờ Phật rất trang nghiêm thanh tịnh, thường phát nguyện dù thế nào cũng phải tạo được một Thánh tượng Quán Âm Bồ tát để suốt đời lễ bái cúng dường. Ý muốn như vậy nhưng năng lực không thể làm, Bà chuyên tâm niệm lâu ngày thì bỗng thấy Thánh tượng Quán Âm Bồ Tát bằng hoàng kim, quang minh rực rỡ, cao chừng năm thước hiện ra nơi tòa cao. Đương thời, dân chúng hết lòng tán thán do tâm chí thành của Bà mà cảm đến Bồ tát như vậy. (Trích Biện Chánh Học Luận).
10. Triều nhà Đường, Văn Tôn Hoàng Đế là người rất thích ăn các loại sò ốc. Nhà vua truyền lệnh cho dân chúng miền duyên hải Đông Nam, mỗi năm phải đem vào cung hiến dâng món ăn này, vì thế dân chúng miền biển cực khổ không tả xiết. Một ngày nọ, quan ngự trụ đi chợ thì thấy có một con sò rất lớn. Ông ta mua về dùng dao chẻ nhưng nó không hả miệng, nhưng lúc dùng dao gõ thì nó liền hả miệng. Nhìn vào bên trong thì Ông nhìn thấy một tượng Quán Âm Bồ tát rất oai nghiêm nên Quan ngự trụ kinh sợ không dám làm thịt, vội mang lên dâng cho vua xem. Văn Tôn Hoàng đế nhìn thấy vô cùng kinh ngạc, Ngài lập tức truyền lệnh cho Quan Đại thần rước thợ đến làm một chiếc hộp bằng gỗ chiên đàn hương, sơn son thếp vàng để đựng Thánh tượng và thờ ở nội cung. Hàng ngày, Văn Đế mai chiều đến trước Thánh tượng ấy lễ bái. Nhà vua lại cho người đến thỉnh Quốc sư sư vào nội cung để hỏi nguyên nhân Bồ tát hiện thân. Sau khi Quốc sư đến, Văn đế đảnh lễ và thỉnh vấn nguyên nhân. Quốc Sư đáp: “Bệ hạ nên biết, Bồ tát ứng hiện nơi vật không bao giờ hư dối. Trong thân sò ốc mà có Thánh tượng Quán Âm là muốn khởi tín tâm cho Bệ hạ, cần phải tiết kiệm sự thọ dụng và đối với nhân dân thì phải luôn có từ tâm. Y như trong Kinh dạy: nếu có người cần dùng thân Bồ tát để độ thoát thì hiện thân Bồ tát mà vì đó thuyết pháp.” Văn Đế lại thưa: “Nếu Quốc Sư dạy như vậy thì Trẫm chỉ mới thấy thân Bồ Tát nhưng chưa được nghe Ngài thuyết pháp”. Quốc Sư liền hỏi: “Bệ hạ có tin hay không?”Văn Đế đáp: “Trẫm đâu dám không tin.” Quốc Sư tiếp: “Như vậy là Bệ hạ đã nghe thuyết pháp rồi đó.” Văn Đế vui cùng vô mừng nhờ câu nói của Thiền Sư mà được tỏ ngộ, từ đấy tuyệt đối không ăn sò ốc nữa, mặt khác cũng ra lệnh cho dân chúng không được bắt bán và ăn sò ốc và lệnh cho các tự viện phải kiến tạo Thánh tượng Quán Âm Bồ tát để kính thờ, chiêm bái và cúng dường. (Trích Cao Tăng Truyện – Tập 3).
11. Triều nhà Đường, Quan ngự trù của Văn Tôn Hoàng Đế, một hôm nọ khi luộc trứng gà thì bỗng nghe các trứng trong chảo luộc xưng niệm Quán Âm Bồ tát, âm thinh nghe rất thảm thiết. Quan Trù giám lập tức đem việc ấy tâu lại thì Văn Đế truyền lệnh đem cho Ngài xem xét thì quả nhiên đúng như vậy. Nhà vua than rằng: “Trẫm không ngờ thần lực của Phật pháp có thể như vậy” đoạn Văn Đế bảo Quan trù giám từ nay không được dâng trứng gà cho Ngài dùng nữa vàban hành sắc lệnh cấm dân chúng không được ăn. (Trích Thiên Ất Chí và Cảm Ứng Thiên truyện).
12. Niên hiệu Trinh Minh năm thứ hai, triều nhà Lương, thời Ngũ Đại, có một vị Hòa thượng nước Nhật bản, hiệu là Huệ Ngạc đến non Ngũ Đài, thỉnh được Thánh tượng Quán Âm Bồ Tát. Hòa thượng vui mừng, đem về bổn quốc để cúng dường chiêm lễ. Khi thuyền vừa đến biển Liên Hoa thì đâm phải đá ngầm nên không đi tiếp được. Hòa thượng tự biết có sự linh ứng trở ngại gì đây nên Ngài chí thành lễ bái cầu đảo và nguyện rằng: “Nếu chúng sanh quốc độ của con, không nhân duyên được thấy Bồ tát, thì xin Ngài gia hộ, dùng thần lực khiến cho thuyền này đi về hướng nào thì con sẽ xin y theo sự chỉ giáo của Bồ tát, kiến lập Tịnh xá để thờ Ngài.” Sau khi cầu đảo, chiếc thuyền ấy tự nhiên lướt sóng tiến tới, đến Động Hải Triều Âm thì dừng lại. Lúc ấy có một cư dân họ Trương sống ở đấy mục kích sự kỳ lạ này, Ông rất hoan hỉ, nguyện bỏ ngôi nhà mình đang ở, kiến lập Tịnh xá, cúng dường Đại sĩ. Ngôi Tịnh xá ấy đề biển tên là Bất Khẳng Khứ Quán Âm Viện (Viện Quán Âm Bồ Tát không chịu đi). (Trích Phổ Đà Sơn Chí).
13. Triều nhà Tống, Phổ Minh Thiền Sư, vào niên hiệu Sùng Minh, ngày 15 tháng 8, kiết thất ở chùa Thiện Thương Trúc đã mãn, Ngài bỗng thấy một vị cao tăng đến bảo rằng: “Ông nên gắng sức xiển dương pháp Tam thừa và thực hành thì mới có thể độ khắp tất cả quần sanh. Nếu Ông làm được như thế thì mới mong đền đáp được thâm ân của Phật.” Thiền Sư lại hỏi: “Nói pháp Tam thừa thì có phần quá mênh mông, vậy cúi xin Hòa thượng cho biết nên đem Pháp chi để hóa độ người?” Cao Tăng đáp: “Ta xem dân chúng trong quốc độ này rất có nhân duyên với Quán Âm Bồ tát, vậy Ông nên đem hình tượng của Ngài, nói lược đầu đuôi để lưu hành trong thế gian, cho mọi người biết lễ bái, cúng dường trì niệm, thì phước đức ấy không luống uổng.” Dứt lời, Cao tăng ấy tuyên diễn tất cả hình tướng của Bồ tát, sau khi diễn giảng xong, liền biến mất. Thiền Sư nhờ đó mà biên tập thành một pho Kinh gọi là Quán Âm Bổn Hạnh. Sau khi pho Kinh thành tựu, đức Quán Thế Âm Bồ tát bỗng hiện thân tướng Tử kim, tay bưng Tịnh bình, tay cầm nhành liễu, ngự trong tường vân ngũ sắc, giây lâu thì ẩn mất. Dân chúng đương thời đều được thấy, ai cũng vui mừng cảm động, đảnh lễ tán thán. (Trích Quán Thế Âm Bổn Hạnh Kinh Tự).
14. Triều nhà Tống có Phật tử Du Tập là người ở xứ Lộc Thủy. Vào niên hiệu Trung Hòa, Ông đến Hưng Hóa nhận chức Thái úy. Khi đi thì mang theo cả gia đình và đi bằng đường thủy. Đến xứ Sông Hoài thì Ông thấy có rất nhiều con trai lớn và những người trên ghe hàng ngày mua về để nấu ăn. Du Tập mỗi khi thấy thì thường xuất tiền mua hết rồi thả lại xuống sông. Một hôm, Ông nhìn thấy mọi người đang mang một giỏ đựng đầy trai lớn rất nặng đem đi nấu ăn, Ông liền trả giá cao gấp bội nhưng họ không chịu bán và đem bỏ vào nồi nấu. Bỗng nhiên lúc ấy, từ trong nồi nấu có âm thanh niệm Phật rất lớn, lại thấy ánh quang minh phát ra bên ngoài. Tất cả mọi người trên ghe đều kinh sợ, giở nắp ra xem thì thấy có một con trai rất lớn đang mở nắp hả miệng, trong thân con trai đó có Thánh tượng Quán Âm Bồ tát tướng hảo đoan nghiêm, trên thân có đủ chuỗi, áo mão, anh lạc, bên cạnh lại có hai cây trúc, cành lá tươi tốt đều là do thứ ngọc rất nhuyễn hợp thành. Du Tập liền bảo những người trong ghe phải chí thành niệm Thánh hiệu Tây phương A Di Đà Phật, sám trừ tội ác, đoạn thỉnh vỏ trai ấy về tư dinh thờ, mai chiều lễ bái cúng dường Đại Sĩ. (Trích Cảm Ứng Thiên truyện).
15. Triều nhà Tống có vị sứ giả nước ngoài đem lễ vật vào cung cống hiến. Khi thuyền đi qua biển Phổ đà, nghe thấy những điều linh dị của đức Quán Âm Bồ tát thì sứ giả có ý muốn vào lấy đem về bổn quốc. Lúc sắp đi vào thì gió to sóng lớn nổi dậy, khắp mặt biển đều mọc hoa sen sắt, cuồng phong ba đào càng lúc càng dữ dội hơn trước. Thuyền không cách nào tiến bước nên sứ giả sợ hãi lui thuyền. Vì thế chổ này sau đó được gọi là Liên hoa dương (Biển Hoa Sen). Thời gian sau có một vị quan nhà Tống phụng mệnh chiếu chỉ triều đình, mang tràng phan bảo cái đến Phổ Đà Sơn cúng dường. Trong tâm vị này sanh nghi cho là làm gì trong biển cả mênh mông ấy lại có Bồ tát, sự việc ấy chắc là do mọi người mê tín bịa đặt ra mà thôi. Khi vừa mở dây thuyền rời bến thì khắp mặt biển đã mọc hoa sen sắt, sóng gió nổi lên đùng đùng dữ dội, không cách gì lướt sóng, mọi người vô cùng hoảng sợ nên một lòng thành kính hướng về Phổ Đà Bảo Sơn, chấp tay cúi đầu xin niệm Thánh hiệu Đại sĩ thì đương lúc sóng to gió lớn, sóng bỗng lặng gió yên, rồi một con trâu trắng từ núi Phổ Đà lội xuống biển ăn hết tất cả hoa sen sắt. Con trâu ấy sau đó lặn xuống nước và hóa thành đá trắng đến nay vẫn còn dấu tích. Do tích ấy mà địa phương này còn được gọi là Thạch Ngưu Cản. (Trích Quán Âm hướng truyện).
16. Triều nhà Nguyên, niện hiệu Thái Tổ, năm thứ 13, Thừa Tướng Bá Nhân cùng với Tướng soái Các Lạc Đài cùng nhau đến Phổ Đà Bảo Sơn và động Hải Triều để yết kiến Quán Thế Âm nhưng không nhìn thấy gì hết. Hai ông cho rằng không linh ứng nên giương cung bắn vào Động rồi bỏ đi. Khi bỏ lên thuyền thì thấy khắp mặt biển mọc hoa sen, cả hai thất sắc nhìn nhau và tự hối tội lỗi của mình, chuyên tâm mặc niệm Thánh hiệu Bồ tát, mong Ngài từ bi hỷ xả. Đoạn cùng nhau trở lên núi lễ bái chí thành cầu đảo, từ từ họ được thấy kim thân của Bạch Y Đại Sĩ, có đồng tử theo hầu. Hai Ông vô cùng mừng rỡ, chí thành lễ bái lại phát nguyện kiến tạo điện đường nơi Động và tạo Thánh tượng Quan Âm trang nghiêm đem đến thờ. (Trích Phổ Đà Sơn Chí).
17. Triều nhà Nguyên, niên hiệu Đại Đức, năm thứ 5 có một vị học sĩ là Trương Hồng Sơn, khi đến Động Triều Âm thì thấy thân tướng Quán Âm Bồ tát phảng phất trong vách động, kế đến lại thấy Thiện Tài, Đồng Tử hiện trong tường vân trên đỉnh núi. Sau đó, nhìn thấy Đại Sĩ thân tướng trang nghiêm, đầu đội mũ báu, đeo chuỗi anh lạc, tay cầm dương chi, có chư thần hộ pháp theo hầu. Họ Trương bèn đốc thúc mọi người chí thành lễ bái, Bồ Tát phóng tường quang khắp trong động, giây lâu mới ẩn mất. (Trích Quán Âm Cảm Ứng Tập).
18. Triều nhà Nguyên có tích truyện: Trên tấm gạch Diệu Nguyên Công chúa thường quỳ lễ bái, hiện lên hai bàn chân lờ mờ trên bề mặt, bảo vật thần kỳ này hiện nay vẫn còn lưu giữ tại chùa Đàm Đế. Tương truyền rằng Diệu Nguyên Công chúa là con gái vua Thế Tổ nhà Nguyễn, Bà cắt tóc chuyên tu Tịnh nghiệp. Hàng ngày, Công chúa đảnh lễ Quán Âm Đại Sĩ rất chí thành, đương thời sự linh dị rất rõ rệt. Vào triều nhà Minh, niên hiệu Vạn Lịch, năm Nhâm Thìn, Hiếu Đình Hoàng Thái Hậu khi nghe sự việc ấy, xa giá cùng với các cung nhân đến tận chùa chiêm lễ. Bà dùng chiếc hộp đàn hương đựng miếng gạch có hai bàn chân rồi rước về nội cung lễ bái, trong một thời gian ngắn thì Bà cho người trả lại chùa. (Trích Thần Viên Chí Dị).
19. Triều nhà Minh có một bà lão ở xã Cô Lý, huyện Thường Thục. Lúc bình nhật, Bà thường trì trai niệm Phật rất chí thành. Con của bà vì kế sanh nhai nên phải về làm cho quan Quán Sát Ấn Hoàng Thời Vũ để lấy tiền cấp dưỡng cho Bà và tự nuôi thân. Vào niên hiệu Vạn Lịch, mùa thu năm Giáp Dần, Bà lão được sáu mươi lăm tuổi thì bị bệnh nặng sắp chết. Bà nhờ người tìm cho một bộ áo quần mới để mặc nhưng không có nên bảo lấy bộ quần áo vải lam cũ thường mặc hàng ngày đang phơi ngoài sân mặc. Trong bộ quần áo đó có mười hai miếng vá thì trong chốc lát bỗng hiện ra tướng Thập Nhị Diện của Quán Âm Bồ Tát. Mổi miếng vải hiện tướng không giống nhau, lại có rừng trúc, chim anh vũ, hết sức trang nghiêm. Cảnh tượng lạ kỳ ấy trải qua một ngày đêm, sau khi bà lão vãng sanh mới ẩn mất. Tất cả dân chúng trong làng đều nhìn thấy nên ai cũng tán thán sự việc chưa từng có ấy. Cũng nhờ nhân duyên này nên mọi người theo gương bà lão trường chay, niệm Phật rất đông. (Trích Hải Nam Nhất Chước).
20. Phật tử Nam Thiệu là người ở Cô Quốc, thờ Phật rất trang nghiêm. Vào ngày 16 tháng 9 là ngày vía của Quán Âm Đại Sĩ, Ông nhìn thấy nơi điện thờ hiện ra một tôn tượng Bồ tát trang nghiêm rất rõ ràng. Mọi người vừa hay tin thì đua nhau đi xem, không chổ chen chân. Nhưng trong số người xem đó có những người phá rối nên Thánh tượng bỗng nhiên ẩn mất. Phật tử Nam Thiệu vô cùng hối tiếc, ngày đêm truy niệm đến Tôn dung, rồi đi tìm họa sĩ giỏi rước về, trai giới thanh tịnh để họa lại Thánh tượng Quán Âm Bồ Tát để ngày ngày lễ bái cúng dường, tỏ bày chút lòng thành đáp lại hồng ân của Bồ tát đã từ bi thị hiện. (Trích Tĩnh Am Thiền Sư Ký lục).
21. Cạnh sông Nghi Huỳnh, tỉnh Giang Tây có một con suối rất lớn, phía Bắc suối ấy nổi lên một cái cồn ở giữa dòng. Cồn ấy chu vi chưa đầy một dặm, chung Quanh đều có nước. Xưa kia có người dùng ghe chở Thánh tượng Quán Âm về quận, chiếc ghe đang đi nhẹ như chiếc lá nhưng khi vừa đến cồn này thì ghe bỗng nặng như đá, không thể nào đi tới trước được. Người đó đến trước Thánh tượng Bồ tát lễ bái cầu đảo và nguyện rằng: “Theo ngu ý của con tự xét, Bồ tát muốn lưu trú tại đây để kiến lập Tịnh xá phải không? Nếu đúng như vậy thì cho con xin một keo liền được.” Người ấy xin keo thì quả nhiên như lời nguyện. Tất cả dân chúng trong xóm nghe tin vô cùng mừng rỡ, đồng phát nguyện kiến lập Tịnh xá để cúng dường Tôn tượng Đại Sĩ. Có điều lạ là cồn này không thấp cũng không cao, nước suối chảy như thác và hay tràn ngập nhưng không bao giờ lên được đến nền Tịnh xá ấy. Do nhân duyên này mà dân chúng ngày càng thâm tín, sự tu hành lễ niệm ngày càng đông đảo, những người đi vãn cảnh nghe thấy ai cũng tán thán. (Trích Long Xuyên Truyện Chí).
22. Triều nhà Thanh, vào niên hiệu Thiệu Trụ, năm đầu, có tướng cướp biển là Nguyễn Tuấn cùng với vị Tăng Nhật bản lập mưu đoạt Đại tạng Kinh của Quốc vương nhà Minh cúng dường cho Phổ Đà Bảo Sơn. Niên hiệu Vạn Lịch, năm 49 thì đem chở về nước Nhật. Sau khi biết Đại Tạng Kinh bị đoạt mất thì Hòa thượng trong Chùa hiệu là đốc thúc chúng Tăng đến nơi thuyền của người đoạt Đại Tạng Kinh cầu xin trả lại. Van xin mấy ngày thì tướng cướp Nguyễn Tuấn nổi giận tuyên bố rằng: “Mấy Ông muốn được Đại Tạng Kinh thì đến Long cung Thủy phủ mà cầu thỉnh. Đại Tạng Kinh này chúng tôi sẽ đem về Đông Kinh.” Dứt lời, họ Nguyễn truyền lệnh cho thuyền nhổ neo rời bến. Vừa ra đến biển thì có một kình ngư tiến ra cản thuyền, trải qua vài ngày vẫn không nhúc nhích. Họ Nguyễn tự hối, cầu xin Bồ tát tha tội cho mình, rồi vội vàng lui thuyền trở lại để trả Đại Tạng Kinh. Chỉ trong chốc lát thì thuyền đến chân núi, chúng Tăng nghe được tin vô cùng vui mừng về sự linh dị của Pháp bảo và thần thông oai lực của Bồ tát. Họ cùng nhau xuống thuyền, cung kính thỉnh Đại Tạng Kinh trở lại chùa. (Trích Phổ Đà Sơn Chí).
23. Triều nhà Thanh, niên hiệu Khang Hy, năm thứ 30, Hòa Thượng Huệ Như ở Am Bảo Sương tại Trà Sơn thấy Thánh tượng Quán Âm Đại Sĩ vì lâu năm bị hư hoại nên Ngài định đến Vân nam mộ hóa để sơn thếp lại, nhưng trải qua hơn một tháng vẫn không có người bố thí cho một đồng. Ngày nọ, Hòa thượng nhờ người cùng với mình thỉnh Thánh tượng Bồ tát để nơi cửa của Thừa Tướng Vương Công. Đêm ấy, phu nhân của Thừa Tướng mộng thấy một người phụ nữ mặc áo vải trắng phai màu hư rách đến nói rằng mình từ Phổ Đà đến để khất hóa chiếc áo. Phu nhân tỉnh giấc đem việc ấy thưa với Thừa tướng thì Thừa Tướng bảo cũng mộng thấy như vậy. Đến sáng hôm sau, Thừa Tướng gọi người gác cửa đến thì người ấy cho biết có một vị Hòa thượng đem tượng Đại Sĩ để nơi cửa rồi bỏ đi. Thừa Tướng và Phu nhân nghe xong thì vô cùng mừng rỡ vì biết mình có duyên với Bồ tát nên tức tốc cho người tìm Hòa thượng Huệ Như vào tư dinh. Sau khi tìm được Hòa thượng và mời về, hai ông bà niềm nở đón tiếp, mời Ngài trà nước điểm tâm xong thì Thừa tướng thưa: “Hòa thượng cứ yên tâm! Chúng con sẽ lo liệu sao cho Thánh tượng mới và đẹp lại.” Sau khi sơn thếp xong, Thừa tướng làm lễ cúng dường và Hòa thượng cung nghinh Thánh tượng trở về Bảo Sơn. (Trích Phổ Đà Sơn Chí).
24. Triều nhà Thanh có Hòa thượng hiệu là Hành Nghĩa cùng với các vị vân thủy tăng, tất cả tám người từ chùa Tiến Phước ở Trường An đến Non Phổ Đà ở Định Hải. Đang lúc mưa to gió lớn, các thầy vẫn xông pha mưa gió đi đến Động Hải Triều để dâng hương lễ bái cầu đảo, khẩn xin làm sao thấy được từ dung của Đại Sĩ. Bổng nhiên từ trong Động, hiện ra quang minh ngũ sắc, trong quang minh ấy có Thánh tượng Đại Sĩ đang đứng, tướng mạo trang nghiêm, bên cạnh có bạch anh vũ, nhưng chỉ có một mình Hòa thượng Hạnh Nghĩa được nhìn thấy, còn bảy vị vân thủy tăng kia trông thấy mỗi người mỗi khác, không giống nhau, giây lâu sau thì Thánh tượng mới ẩn. Khi Hòa thượng Hành Nghĩa đi về, gặp người chài lưới họ Vương, trên đường đi hai người cùng đàm đạo dọc đường đi, Hoà thượng tuyên truyền với mọi người, mong mọi người phát tín tâm với Đại sĩ, đến Động lễ bái cúng dường để được nhiều lợi lạc. (Trích Cư Dị Lục).
25. Ngô Thiên Chương tự thuật lại một chuyện như sau: Trương Hán Nho từng bị một bệnh rất nguy hiểm, dây dưa nhiều năm, thuốc thang không hiệu quả. Một hôm nọ, Ông nằm mơ thấy có ba vị Phạm Tăng đến xoa bụng thì sau đó Ông khỏi bệnh, nên phát nguyện đến thăm tứ đại danh sơn. Trước tiên Ông đến Phổ Đà Sơn đảnh lễ Đại Sĩ thì gặp môt người cao niên đang dọn dẹp quét tước ngoài động Hải triều. Hán Nho cùng Ông già nói chuyện thì Ông già bảo rằng: “Ông từ đường xa đến đây, chắc có lẽ cũng muốn được thấy tôn nhan của Đại Sĩ lắm phải không? Hán Nho nói: “Tôi từ bốn năm ngàn dặm đến đây, nếu được thấy tôn dung của Đại Sĩ thì có chết cũng cam lòng.” Ông già bảo: “Điều ấy không khó, chỉ cần hết lòng thành kính cầu đảo sẽ được thấy Ngài.” Hán Nho cùng với bạn đồng hành hơn 10 người liền chí thành lễ bái cầu đảo, quỳ gối chấp tay một hồi lâu, bổng trước cửa Động hiện ra quang minh kim sắc. Ông già nói: “Thế là Đại Sĩ sắp ra đấy.” Mọi người nhìn kỹ thì quả nhiên nhìn thấy Đại Sĩ từ trong vách đá bước ra, nhưng chỉ nhìn thấy được một bên mặt của Ngài nên tất cả đều chí thành đảnh lễ nguyện rằng: “Chúng con vô phước duyên nhưng được Đại Sĩ từ bi hiện thân, chúng con mong mỏi được thấy chánh diện của Ngài để đảnh lễ và sau khi về chúng con sẽ họa Tôn dung Ngài.” Đại Sĩ tức thì quay lưng vào động, mặt hướng ra biển, cách những người cầu đảo chừng 1m, tóc của Ngài mướt xanh, ngọn tóc cong tròn như hơi uốn, đôi lưỡng quyền cao, mặc y phục màu lục, nửa thân còn lại của Ngài vận khí không thể nhìn thấy rõ. Mọi người vô cùng hoan hỉ, cảm động cúi đầu lễ bái. Chỉ trong chốc lát, khi mọi người ngẩng đầu lên thì Ngài đã ẩn vào vách đá. Ông già nói: “Khi tôi mới đến, cũng do có phước duyên được gặp Đại Sĩ hiện thân. Thế nên nguyện xả thân nơi đây để làm công việc tưới quét. Tôi ở nơi thanh tịnh này đã lâu ngày thường được thấy Thánh dung, thật là một sự kiện vô cùng an ủi.” Căn cứ theo những bài thơ có ghi lại tại đây thì Đại thần Tương Quan Bậc nhà Nguyên, khi đến Phổ Đà Sơn chiêm ngưỡng, cũng được Bồ Tát ứng hiện cùng với Thiện Tài Đồng Tử. Bài thơ do do Lam Anh Loại sáng tác cho thấy việc Bồ tát hiện thân đã diễn ta từ xưa chứ không phải mới. (Trích Cư Di Lục).
26. Triều nhà Lương có Ngài Bảo Chí Đại Sĩ, người thế tục thường gọi là Chí Công Hòa Thượng. Năm lên 7 tuổi, Ngài xuất gia, y chỉ vị Hòa thượng ở Trung Sơn, chuyên tu Thiền. Triều nhà Tống, niên hiệu Thái Thì năm đầu, ở Ngài Bảo Chí đã xuất hiện những sự kiện kỳ lạ, vua Lương Võ Đế thời ấy rất kính trọng Ngài nên bảo Trương Tăng Do họa hình tượng Ngài. Bảo Chí Đại Sĩ đã rạch mặt mình thành mười bốn hình đức Quán Âm, diện mạo thù đặc, hoặc từ bi hoặc oai vệ, vì thế Tăng Do chịu phép không thể nào họa được hình. Cả nhà của Lỗ rất kính thờ Ngài Bảo Chí và thường được Ngài hiện chân dung giống hệt Quán Âm Bồ Tát, ngoài ra còn nhiều vô số sự tích linh dị khác, không thể nào ghi chép hết. (Trích Cao Tăng Truyện – Tập 1).
27. Hóa Vị Phạm Tăng Trì Bát có phép truyền Quán Âm Đại Sĩ đã hiện bảy hình tướng như sau: Triều nhà Đường, niên hiệu Vĩnh Hy, Ngài hóa hiện thành Ông già râu bạc, đầu đội mão bạch liên hoa, thân mặc cà sa, vai mang bình bát, đến nhà một nông dân tên Tế La ở Mông San (huyện Mông Hóa ở phía Nam của Vân Nam ngày nay) để khất thực. Hóa Vị Phạm Tăng Trì Bát đến gặp một phụ nữ đang làm việc ngoài đường để khất thực, Ngài ngồi trên thạch bàn ở Cổ Sơn, phía trước có trâu xanh, bên trái có ngựa trắng mồm đỏ, bên phải có voi trắng, phía trên có tường vân ngũ sắc che phủ. Trong tường vân ấy có hai đồng tử, một người cầm thương sắt, một người cầm chiếc kính vuông. Khi cảnh tượng này diễn ra thì tất cả mọi người từ người nông phu làm ruộng đến trẻ chăn trâu đều nhìn thấy, giây lâu sau thì Ngài bay vào trong mây ẩn mất. Đời Nam Chiêu Vương, Mông La Thành, Ngài lại hóa thân thành một vị Tăng, vai mang bình bát, tay cầm tích trượng, đi khất thực, có dắt theo một con chó trắng. Dân chúng ở xã Khai Nam, chuyên môn làm nghề trộm cắp, nên chúng rất ghét chó dữ, xúm nhau bắt Ngài rồi cắt lóc da thịt trên thân Ngài ra từng mảnh, nhưng trong chốc lát thì Ngài sống lại, cười nói như thường. Bọn đạo tặc này rất nổi giận lại quyết tâm giết hại Ngài. Chúng lóc thịt da Ngài rồi đem bỏ đi, còn phần xương đem đốt thành tro, rồi bỏ vào ống tre thả chìm trôi theo làn sóng, nhưng sau đó thì Ngài lại từ ống tre đi ra, hình thể không hề bị tổn thương chút nào. Tất cả dân chúng trong làng thấy thế kinh sợ, đều phát nguyện quy y với Ngài và từ ấy phát tâm kính tin Tam bảo, nhà nhà ăn chay niệm Phật tụng Kinh, bỏ hẳn nghiệp xưa. Hóa Vị Phạm Tăng có lần hóa hiện thành vị Tăng, tay cầm nhành dương liễu, chân mang guốc cây hướng về Bảo Sơn mà đi, bọn Vương Lạc cưỡi ngựa đuổi theo không kịp nên tức giận giương cung bắn nhưng tất cả những mũi tên ấy đều hóa thành Liên hoa. Có một hôm, Ngài đi đến một địa phương, thì bay lên không trung hóa thành Quán Âm Bồ Tát, phóng quang rực rỡ chiếu khắp trần gian, dân chúng bị quang minh chói lòa mắt không dám ngước mặt nhìn xem. Bấy giờ, có một ông lão nói rằng: “Thánh tượng này tôi có thể đúc được.” Mọi người nghe nói sanh tâm vui mừng, xuất tiền ra cúng dường để Ông lão mua vàng đúc Thánh tượng Đại Sĩ. Pho Thánh tượng ấy đến nay vẫn còn để cúng thờ. Hóa Vị Phạm Tăng ở Tây Vực, hiện thân hiệu là Bồ Đề Đạt Ma. Vào niên hiệu Bảo Hòa, năm thứ hai, Ngài vào đến Trung quốc, nói với Quốc vương: “Ta là Tôn giả A Ta La Quán Âm của Liên Hoa Bộ, nước Tây Vực, đến quốc độ của nhà vua để giáo hóa, hiện nay nên để Tôi ở chổ nào?” Dứt lời thì Ngài nhập định. Triều nhà Đường, Ngài hiện thân thành một Đại sư ở Tây Vực. Vào niên hiệu Long Sóc năm đầu, đi đến phường Tín Nghĩa, tỉnh An Huy để mộ hóa một khu đất để sáng lập già lam. Khi xây nền thì Đại sư đào được một bia cổ của chùa Hương Tích và một tôn tượng bằng hoàng kim, trên chiếc bia ấy có bốn chữ Phổ Môn Chiếu Vương Phật. Đại Sư bèn kiến lập già lam nơi đây. Đến niên hiệu Cảnh Long năm thứ hai, Trung Tôn Hoàng Đế sai sứ giả bái thỉnh Đại Sư về nội cung, tôn làm Quốc Sư và thỉnh Ngài đến chùa Tiến Phước cư trú. Thường ngày Đại Sư ở một mình trong Tịnh Thất, trên đảnh của Ngài có một cái huyệt, ban ngày Ngài dùng bông gòn đậy lại, ban đêm thì lấy ra.Mùi hương từ trong đảnh bay ra thơm ngào ngạt, đến sáng thì mùi hương lại đi vào trong đảnh. Hàng ngày, khi Đại sư rửa chân thì mọi người đến xin nước ấy uống, tất cả cố tật đều lành. Một ngày nọ, Văn Đế cho người mời Ngài vào điện để đảnh lễ rồi bạch rằng: “Kính bạch Tôn Sư, nơi kinh kỳ trải qua vài tháng không có một hạt mưa, Trẫm vô cùng lo buồn, cúi xin Đại Sư giải trừ nổi lo buồn này của Trẫm.” Đại Sư liền đem nước từ Tịnh bình rưới khắp không trung, trời đang quang đãng, nắng như thiêu đốt thì đột nhiên mây đen bủa khắp và trời đổ xuống một trận mưa lớn. Văn Đế vô cùng vui mừng, đảnh lễ Đại Sư và phát nguyện phụng hiệu tên chùa mà Đại sư đang ở. Đại Sư bèn nói: “Hoàng Thượng muốn sắc tứ hiệu Chùa nên dùng Phổ Chiêu Vương”nhưng do Văn Tôn Hoàng đế muốn tránh tên húy của Thiên Hậunên đổi lại thành tên Phổ Quang Vương Tự. Vào niên hiệu Cảnh Long, năm thứ 4, ngày 2 tháng 3, Đại Sư ngồi viên tịch ở chùa Kiến Phước, Tường An. Hiện nay ngôi bảo tháp của Ngài vẫn còn ở huyện Long Hòa. Sau khi Đại Sư viên tịch, Trung Tôn Hoàng đế hỏi Vạn Hồi Hòa thượng rằng: “Tăng già Đại Sư là người chi?” Vạn Hồi Hòa Thượng đáp: “Chính là hóa thân của Quán Âm Bồ Tát. Như trong Phẩm Phổ Môn nói: đối với người nên dùng thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni để độ thoát, tức thì hiện thân ấy để thuyết pháp, nên chính Ngài hóa hiện làm thân của Đại Sư vậy.” Đại Sư lúc mới đến Trường An thì Vạn Hồi Hòa Thượng có đến yết kiến, chí thành đảnh lễ. Đại Sư vỗ đầu bảo rằng: “Tiểu Tử, tại sao làm gì ở đây lâu như vậy, nên đi đi.” Quả nhiên sau khi Đại Sư viên tịch thì Vạn Hồi Hòa thượng sau vài tháng cũng bổng nhiên tạ thế. Sự tích giáo hóa của Đại Sư rất nhiều. Trong bổn truyện về Ngài, có ghi chép đủ, ở đây chỉ lược ghi một sự tích mà thôi. (Trích Cao Tăng Truyện – Tập 3).
28. Triều nhà Đường ở tại xứ Thiểm Hữu, tập tục của dân chúng địa phương này chuyên cưỡi ngựa tập bắn, đối với Phật pháp, danh hiệu Tam Bảo họ còn chưa biết huống chi là quy y, thọ giới, ăn chay, niệm Phật và tụng Kinh. Vào niên hiệu Nguyên Hòa, năm thứ 12 nhà Đường, thì một hôm bổng xuất hiện một mỹ nữ xách giỏ cá rao bán. Tất cả nam tử trong vùng ấy, đua nhau muốn cưới mỹ nữ làm vợ. Mỹ nữ ấy phân trần: “Tôi đây thân gái chỉ có một, làm sao có thể làm vợ hết cho các Anh. Giờ Tôi quyết định một việc cho các Anh thực hiện, mỗi người sẽ được Tôi trao cho một quyển Kinh Phổ Môn, chỉ trong một hôm phải tụng cho thuộc lòng. Sáng ngày mai, nếu ai đọc Kinh thuộc lòng thời Tôi sẽ ưng thuận làm vợ người ấy.” Sáng ngày hôm sau, trong số các nam tử đến trước mỹ nữ tụng Kinh trả bài thì những người tụng thuộc có trên hai mươi người. Bấy giờ Mỹ nữ lại phân trần với họ: “Tôi là phận thân gái không thể làm vợ một lúc 20 người được nên giờ đây, Tôi trao cho các Anh quyển Kinh Kim Cang Bát Nhã, cũng trong một đêm nếu người nào tụng thuộc, không sót một chữ thời Tôi sẽ ưng thuận làm vợ người ấy.” Sáng hôm sau, những người này đến trả bài, số người thuộc Kinh được mười người. Mỹ nữ cũng nói lời từ chối như trước và lần này trao cho bộ Kinh Pháp Hoa và kỳ hạn cho trong ba ngày, nếu người nào đọc tụng thông suốt thì sẽ ưng thuận làm vợ người ấy. Sau ba ngày, chỉ có chàng họ Mã là tụng Kinh Pháp hoa thông suốt, thế là mỹ nữ không thể từ chối được nữa. Chàng thanh niên họ Mã, sắm sửa lễ vật hậu hĩnh để rước mỹ nữ về nhà, sau khi làm lễ Ông bà, đến tối trong giờ phút chuẩn bị động phòng thì mỹ nữ nói hiện giờ đang bị trọng bệnh nên cầu xin cho ở riêng một phòng khác. Chàng họ Mã và người trong gia đình đều ưng thuận. Khi bước vào phòng riêng, chưa kịp dùng thuốc thì chỉ trong chốc lát đã qua đời. Có điều lạ là sau khi chết, thông thường các tử thi thường để hai, ba ngày thì mới sình trương rục rã, còn mỹ nữ sau khi tắt thở thì tử thi sình trương ngay lập tức, thúi hôi không tả xiết, nên người nhà lập tức lo tẩn liệm, sáng ngày làm lễ an táng. Sau khi làm lễ tống táng cho vợ xong, chàng họ Mã mỗi ngày đến phần mộ khóc than kể lể. Đến ngày mở cửa mã thì đột nhiên có một vị Hòa thượng mặc y tử bào đến nơi phần mộ, thấy thanh niên họ Mã khóc than kể lể, Ngài hỏi lý do. Thanh niên họ Mã đem hết đầu đuôi câu chuyện thuật lại cho Hòa thượng nghe. Ngài nghe xong liền bảo rằng: “Đấy chẳng qua là do Ông thấy sai lầm, chứ làm gì mà thân người vừa chết lại sình trương hôi thúi, giờ Ông nghe lời Ta, cho người đào mã giở hòm ra xem.” Quả nhiên sau khi đào mã, giở hòm ra xem thì trông thấy trong ấy, phần xương của mỹ nữ đều là những thỏi hoàng kim sáng rực. Tất cả dân xứ Thiển Hữu nghe tin đua nhau đến xem. Ai nấy đều lấy làm lạ và tán thán là sự việc chưa từng có. Hòa Thượng đứng giữa mọi người rồi trịnh trọng dạy rằng: “Mỹ nữ này chính là hóa thân của Quán Âm Đại Sĩ, vì thương xót các Ông si mê, gây tạo vô biên tội ác rồi gánh chịu trầm luân thống khổ mà thân người quý báu muôn thuở mới có được một lần, nên Ngài phương tiện thị hiện để hóa độ các Ông thế thôi”. Dứt lời, vị Hòa thượng nọ bay lên không trung biến mất. Thanh niên họ Mã kia, vốn là con của một nhà triệu phú, bổng nhiên được một chiếc quan tài đầy vàng trong ấy thì đâu biết dùng vào việc gì nên chàng trai họ Mã vô cùng cảm động thâm ân của Bồ tát đã từ bi hiện thân hóa độ mình, bèn dùng hết số vàng ấy xây một đại điện và rước thợ đúc kim thân Bồ tát để thờ cúng. Từ đấy dân chúng địa phương Thiểm Hữu bỏ hẳn tập tục cưỡi ngựa bắn cung, ngoài giờ lo công việc làm ăn lương thiện thì ngày ngày mai chiều đến nơi bảo điện thờ Quán Âm Đại Sĩ, lễ sám, tụng Kinh niệm Phật rất tinh cần. Riêng chàng họ Mã thì không còn nghĩ đến chuyện vợ con thế tục nữa nên cắt tóc xuất gia, suốt đời an trú trong già lam này mà tự tu, đem Phật Pháp soi sáng cho mọi người. (Trích Quán Âm Cảm ứng truyện).
29. Triều nhà Đường có Thầy Thích Huệ Khoan, là người ở Thiên Trúc, xứ Ích Châu. Tương truyền Thầy là ứng thân mười đời của đức Quán Âm. Khi hạ sanh Thầy, có những tướng khác lạ thù thắng. Đối với tất cả kinh luật, khi Thầy đã nghe hay xem qua, thì nhớ lại không sót một chữ. Những kinh luật chưa nghe nhưng nếu có ai tham vấn thì Thầy giải đáp một cách thông suốt. Tập tục của dân chúng xứ Thiên Trúc từ trước cho đến bấy giờ là tin tưởng theo ngoại đạo, nhưng từ khi Thầy Thích Huệ Khoan đem giáo lý Phật Đà phổ biến trong nhân gian, dân chúng đều bỏ tà về chánh. Những thoại ứng tu hành cùng việc hoằng hóa của Thầy không thể nào tính kể. (Trích Cao Tăng Truyện – Tập 2).
30. Triều nhà Đường, vào niên hiệu Thiên Phước, năm thứ tư, Đạo Dục Thiền Sư tiến hành xây một thảo am tại phía Bắc núi Thiên trúc để ẩn thân chuyên tu, thức ăn hàng ngày là hoa quả trong núi rừng, còn y phục được bện từ cỏ, đạo hạnh tuyệt vời của Thiền Sư không ai có thể sánh nổi. Một đêm nọ, ngọn núi phía trước am bổng có quang minh chiếu sáng rực rỡ lên đến trời xanh, Thiền Sư đến nơi phát ra ánh sáng thì tìm thấy một khúc gỗ rất quý và đẹp, hiếm có trong đời nên mướn thợ khắc thành Thánh tượng Quán Âm Đại Sĩ. Một đêm, Ngài nằm mộng thấy một người mặc bạch y nói rằng: “Thánh Tượng điêu khắc đã xong, sáng mai sẽ có một vị Cao tăng từ Lạc Vương đến đây, vị tăng ấy có mang xá lợi đức Cổ Phật theo bên mình. Thầy nên chí thành cầu xin cho kỳ được.” Sáng ngày, quả nhiên có vị Tăng đến. Thiền Sư vâng lời dạy trong mộng, cầu xin được ba hạt xá lợi, đem để trên phần đảnh môn của Đại Sĩ. Từ ấy về sau, xá lợi thường phóng bạch quang rực rỡ nơi nhục kế, sự linh dị ấy rất rõ ràng. (Trích Bảo Lâm Cao Truyện Sự lược).
31. Triều nhà Tống có Phật tử Vương Viên, từ lúc ấu thơ đã bị lưu lạc và ngụ nơi xứ Giao Chỉ. Nơi ấy có một vị Pháp sư hiệu là Hiền, đạo cao đức trọng. Khi vừa nhìn thấy Vương Viên, Pháp sư biết là người có thiện duyên với Phật pháp nên cho Viên thọ Tam quy ngũ giới. Sau khi truyền trao quy giới xong, Pháp sư lại tặng Viên một Thánh tượng Quán Âm Bồ Tát bằng hoàng kim và căn dặn Viên khi về bổn quốc nên cung thỉnh Thánh tượng Bồ tát về nhà cúng dường. Viên vâng lời, cùng với hai người em thỉnh tượng về, hằng ngày chí thành lễ bái cúng dường rất tinh cần. Thời gian sau vì nhà Viên hư sập, phải sửa sang, tôn tượng không nơi thờ phụng nên Viên phải đem gởi trong chùa ở Kinh Sư. Bấy giờ nhằm lúc nhân dân trong nước đua nhau đúc tiền vàng, bọn trộm cướp do vậy nên thường tìm đến các chùa để trộm những tượng Phật bằng vàng, hủy phá để lấy vàng cho việc đúc tiền. Tôn tượng Quán Âm Viên gởi trong chùa được vài tháng thì một hôm trong lúc Viên đang nghỉ trưa, chợt thấy tôn tượng đến trước mặt mình. Khi thức giấc, Viên lấy làm lạ và sanh nghi, lại thấy nóng ruột nên vội đến chùa đang gởi tượng, dù mặt trời đã về chiều và gần lặn rồi vẫn cung nghinh Thánh tượng trở về nhà. Ngay đêm đó, hơn mười bức tượng bằng vàng tại chùa Nam Giản đều bị kẻ trộm mang đi hết. Không lâu sau, Thánh tượng bằng vàng ở nhà Viên trong đêm tối, phóng quang minh rực rỡ, chiếu sáng ra cả vùng phụ cận đến hơn ba dặm. Ban ngày thì thâu quang minh của Thái dương, ban đêm thì che khuất ánh sáng của mặt trăng, đèn, nến,… Sự việc này anh em của Viên cùng với hơn 10 người nô bộc trong nhà đều nhìn thấy rõ, những người đủ phước duyên thì được thấy thường xuyên, ngoài họ ra thì rất ít người được trông thấy sự kiện này. (Trích Minh Tường Ký).
32. Triều nhà Thanh có Phật tử Trương Minh Đạt là người ở Thuận Đức. Mẫu thân là Đặng Thị Thường, sanh con nhưng không nuôi được, do vậy Bà đến trước Thánh tượng Quán Âm Đại Sĩ lễ bái cầu đảo. Ngày sanh ra Minh Đạt, quang minh chiếu khắp trong nhà. Lúc chưa được năm tuổi thì mẫu thân qua đời, bà nội của Đạt là Dư Thị xem cháu nội như con muộn của mình, tận tâm săn sóc dạy dỗ. Khi nội của Đạt lâm chung để lại số bạch kim gần cả trăm lượng, lúc ấy Đạt cũng đã khôn lớn nên đem số bạh kimấy cất kỹ. Năm Mậu Tý bị mất mùa, dân chúng đói khát, đa số bị chết nên Đạt vội lấy số bạch kim của Nội để lại, chẩn thí cho mọi người. Nhờ việc làm từthiện này mà nhiều người được cứu sống an toàn trong năm cơ cẩn. Trong số quyến thuộc của Đạt, có vài người thấy việc làm thiện của Đạt thì không những không hoan hỉ tán thán mà còn sanh tâm tật đố và đem việc này sàm tấu với phụ thân Đạt, cho rằng Đạt tự do lén lấy tiền của để làm việc chẩn thí. Đạt bị hàm oan nhưng không thể biện minh. Sau đó có người từ xa nghe Đạt có lòng từ bi, bố thí khắp trong nhân gian nên đến cầu xin Đạt giúp cho họ qua cơn đói thiếu nhưng do Đạt giờ đây không còn một đồng nên làm cho người từ phương xa ấy khổ cực đến mà không được mãn nguyện. Trải qua vài ngày, người ấy vì đói khát bức ngặt mà chết. Đạt nghe xong lòng buồn vô hạn, tự nghĩ do mình kém phước nên thiếu phương tiện để giúp cho mọi ngườihết cơn nguy cấp. Vì nhân duyên này mà Đạt nảy sinh ý nghĩ nếu được thác sanh vào chốn vương giả thì có thể có tiền của dồi dào mà tự do cứu tế. Sau khi có ý nghĩ ấy thì lên ngọn núi cao thờ Quán Âm Đại Sĩ ở bổn xứ, đến trước Thánh tượng lễ bái và chí thành phát nguyện: “Nam mô Đại từ Đại bi tầm thinh cứu khổ Quán Thế Âm Bồ Tát, nguyện Ngài thùy từ chứng minh gia hộ để cho con được mãn nguyện.” Nguyện xong thì Đạt từ trên núi cao gieo mình xuống. Khi gieo mình xuống núi thì thân thể của Đạt rơi xuống một tảng đá dưới chân núi, nhưng kỳ lạ thay, Đạt vẫn ngồi an nhiên trên tảng đá như trên một cái nệm, hoàn toàn không bị thương tổn chút nào. Đạt tự nghĩ: “Đây chắc là do sức oai thần từ lực của Bồ tát gia hộkhông cho mình xả thân.” Từ đó, Đạt phát tâm ly trần, trì trai niệm Phật. Lúc mười bảy tuổi, Đạt thưa với Phụ thân, tỏ bày ý nguyện được xuất gia. Do Đạt là con một nên Phụ thân vừa nghe qua thì nổi giận lôi đình, quở trách thậm tệ. Đạt nghe xong không dám trái lệnh, cúi đầu lễ tạ rồi trở về nhưng ý hướng xuất gia thì không lúc nào xao lãng. Bấy giờ Đạt bèn tính đến hai phương sách: một là đến Ông nội cầu xin để nhờ Ông khuyên nhủ cha mình; hai là nhất tâm thầm niệm Thánh hiệu Quán Âm Đại Sĩ cầu Ngài minh gia cho mau toại nguyện, nhưng vẫn không được toại nguyện trong thời gian ngắn. Một hôm vào khoảng nửa đêm, Đạt nằm mộng thấy một người mặc bạch y đến bảo rằng: “Phật tử phải đi mau, đừng để thời gian tốt trôi qua.” Đạt giật mình thức dậy, vội vàng mở cửa bỏ nhà đi. Theo lệ thường, vào lúc ban đêm, tất cả cửa cổng trong làng đều đóng, nhưng đêm nay thì trái lại cửa cổng lại mở, đường xá vắng tanh, lại nhằm lúc trời mưa tầm tã, đêm tối như mực chẳng hề biết hướng Đông Tây, chỉ có mấy con đom đóm bên cạnh Đạt, khi bay thấp lúc lên cao, nhờ đó mà Đạt nương theo chúng để tiến bước. Đi hơn mười dặm dặm thì trời bắt đầu sáng, ngay trước mặt Đạt là một cảnh già lam đồ sộ ở non Đảnh Hồ. Đạt vào chùa lễ bái và được Hòa thượng làm lễ thế phát và cho pháp danh là Khai Quýnh. Danh hiệu Khai Quýnh với hàng Phật tử tại gia thì không biết nhưng các vị xuất trần thì không ai chẳng biết vì người xuất gia đều học Bộ Quy Sơn Cảnh Sách mà trong Bộ Kinh này, lời ký là do Ngài Khai Quýnh soạn. Nơi đây xin trích lục một đoạn: “Vị yểm trần lao, cầu thoát sanh tử. Hưu tâm tức niệm, đoạn tuyệt phan duyên. Cố danh xuất gia, khởi khả đẳng nhàn lợi dưỡng mai, một bình sanh. Trực tu hướng đầu toát khai trung gian phóng hạ, Ngộ thinh, ngộ sắc như thạch hương. Tài hoa kiến lợi kiến danh, Văn trung. Huống tùng vô thỉ nhĩ lai, bất thị bất tằng Kinh lịch, như Kim bất biến cảnh đãi hà thời.”Thầy Khai Quýnh ở đó không lâu thì mắc chứng bệnh trầm kha. Một ngày nọ, thân sắc của Thầy biến đổi, chỉ có hơi thở ra mà không có thở vào, mọi người trông thấy đều cho là trăm phần khó sống. Lúc bấy giờ, Thầy chỉ một lòng giữ gìn chánh niệm, mãi nhớ tưởng đến Thánh hiệu đức Quán Âm, giây lát bỗng nhiên sống lại và hoàn toàn bình phục như thường. Thầy tự biết nhờ đức từ bi cứu tử hồi sanh của Đại sĩ nên sống lại, nên rước thợ vẽ Thánh tượng Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát để trọn đời phụng thờ. Trong lúc vẽ tượng, Thầy kiết đàn trì tụng Chú Đại bi. Hàng ngày trước khi vào đạo tràng, Thầy đều tắm gội, thay đổi y phục. Riêng người vẽ tượng, Thầy bảo phải trai giới thanh tịnh và ngay lúc cầm bút vẽ phải dùng giấy bịt hơi trong miệng nữa, các loại màu sắc không được dùng ngưu dao (da trâu), các thứ giấy viết, mỗi mỗi đều được gia trì thần chú. Sau khi tượng vẽ xong, đêm ấy từ nơi tượng phóng đại quang minh khắp từ trong đạo tràng ra đến ngoài rừng cây, tất cả đều ánh màu vàng rực rỡ. Đương thời ai thấy cũng kinh ngạc và tán thán. Cũng do nhân duyên này mà những người đã có sẳn tín tâm với Đại Sĩ càng tăng trưởng tín tâm, những người chưa phát tín tâm thì nhân cơ hội này mà tín tâm sanh khởi. (Trích Quán Âm Từ Lâm Tập).
33. Triều nhà Thanh có vị Đại sư; lúc tám tuổi thì cha mẹ liên tiếp qua đời. Thầy đêm ngày buồn rầu đau khổ, ngày quên ăn, đêm bỏ ngủ. Mỗi khi thấy những người đồng niên cha mẹ còn, nước mắt Thầy tuôn trào không sao ngăn được. Sau đó Thầy có nghe nói đến việc trì trai niệm Phật có thể tương trợ cho vong nhân, nên lập tức dứt sạch các thứ huyết nhục không dùng. Về sau khi được xem Lục Tổ đầu kinh, Thầy cảm ngộ và biết rõ tất cả chúng sanh đều có Phật tánh và có thể thành Phật. Bấy giờ Thầy nguyện xuất gia, mong lập thân hành đạo để mang lại lợi ích cho cha mẹ đã qua đời. Hàng ngày mai chiều Thầy lễ Phật, tụng kinh niệm Phật rất tinh cần. Mỗi năm gặp lễ Vu Lan, Thầy đều cử hành lễ truy tiến rất trang trọng. Mùa Xuân năm Đinh Dậu, Thầy mua lụa bạch diệp Tây dương, rồi mướn thợ vẽ tượng Thiên thủ Thiên nhãn Đại bi Quán Thế Âm chiều cao bảy thước. Khi vẽ tượng, Thầy bảo thợ chỉ dùng nước thơm trộn với màu để vẽ, tuyệt nhiên không dùng các thứ mực nấu bằng da trâu, lại bảo thợ vẽ phải trì trai, tắm gội mỗi ngày. Sau khi đã hoàn thành Thánh tượng, Thầy đem tất cả đồ của đàn việt bố thí đem bán để kính thỉnh chư Tăng vân tập. Trước tiên Đại Sư giảng nói Đại bi, sau đó kiết đàn tu Sám pháp hai mươi mốt ngày. Do tâm chí thành cảm đến Quán Âm Bồ Tát nên nơi thân của Thánh tượng phóng quang minh tam sắc, hai đóa hoa sen xanh đỏ mà Bồ tát cầm trên tay thường phóng quang minh rất đẹp. Sự việc này tất cả Tăng tục đều trông thấy, muôn người như một, dị khẩu đồng âm, tán thán là việc chưa từng có. Từ đó về sau, đại phàm chúng tăng ở trước Thánh tượng lễ sám tụng kinh niệm Phật, hoa sen ấy thường phóng bạch quang, mọi người trông thấy không ai chẳng hoan hỉ và phát đại tín tâm. Do nhân duyên này, Đại sư nghiên cứu toàn cầu trong Tam tạng, cùng kiểm duyệt các truyện ký, căn cứ theo chổ thấy nghe của mình biên soạn thành bộ sách mang tên “Quán Âm Từ Lâm Tập”, tất cả có ba quyển. (Trích Quán Âm Từ Lâm Tập Ký).
34. Triều nhà Nguyên, Ưu Đàm Tôn chủ là người Đơn Dương. Lúc hai mươi tuổi, Ngài xuất gia tại chùa Đông Lâm nơi Ngô Sơn, về sau về ở tại chùa Diệu Quả, xứ Đơn Dương. Vào niên hiệu Chí Đại, năm đầu nhà Nguyên, vua Nhân Tôn hạ chiếu bãi bỏ Liên Tôn. Tôn Chủ nghe xong cả sợ nói rằng: “Mô Phật! Đâu có được. Tôi nương giáo pháp Liên Tôn gần ba mươi năm năm mà để cho giáo pháp diệt mất trong đời của Tôi hay sao?” Nói xong Ngài liền đến trước Phật đài, thành tâm đảnh lễ tác bạch và phát nguyện nhất định phải khôi phục Liên Tôn. Bấy giờ Ngài trước tác Bộ Liên Tôn Bảo Giá mười quyển. Nơi đây xin trích bốn đoạn rất thiết yếu có nội dung cảnh sách người tu Tịnh nghiệp. Bốn đoạn văn ấy như sau:
“Đại phàm người tu theo pháp môn Tịnh độ, rõ ràng là phải đối phó với sanh tử nên phải xem đó là một sự kiện rất thiết yếu, chính mình phải thực hành mới được, chẳng phải nói suông cho xong chuyện là thôi, nên nghĩ vô thường mau chóng, thời gian là vàng ngọc, không đợi người nào. Nếu trong tâm bán tín bán nghi, nửa tiến nửa thối, khi vô thường đến thì biết nương tựa vào đâu và làm sao thoát khỏi luân hồi? Nếu tín tâm đã vững, thì từ ngày hôm nay phải phát tâm đại dũng mãnh, đại tinh tấn, không luận ngộ lý hay chẳng ngộ lý, thấy tánh hay không thấy tánh, chỉ cần chấp trì một câu A Di Đà Phật như tựa vào một tòa núi Tu Di, không thể làm lay động được, giữ tâm cho chuyên, ý cho nhất. Về việc niệm Phật, có nhiều cách, hoặc tham cứu mà niệm, hoặc quán tưởng mà niệm, hoặc trong tâm chuyên nhớ nghĩ mà niệm, hoặc niệm thầm, niệm ra tiếng hoặc chuyên niệm, hoặc hệ niệm hoặc lễ bái mà niệm hoặc tu theo pháp thập niệm. Khi niệm Phật, cố gắng để tâm duyên theo tiếng niệm Phật, thường nhớ thường niệm đừng để tâm xao lãng, sớm niệm, chiều niệm, tối cũng niệm, đi cũng niệm, ngồi cũng niệm, đừng để tâm niệm luống qua. Phải giữ câu niệm Phật luôn trong tâm mình, từng ngày, từng giờ, từng phút, miên miên mật mật, giữ ý nghĩ, không cho xen tạp niệm như gà ấp trứng, thường phải làm cho hơi ấm tiếp nhau. Niệm Phật được như thế là tu hành đã đến mức Tịnh niệm nối nhau, niệm Phật không gián đoạn. Lại thêm dùng trí quán chiếu tức thời biết rõ Tịnh độ chính là tâm của mình, đây chính là công phu tu tiến của bậc thượng trí. Cố gắng thực hành được như vậy và giữ tâm cho vững, dù gặp phải những hoàn cảnh khổ vui, thuận nghịch, hiểm trở trước mắt cũng chỉ giữ một câu niệm Phật này, không có một niệm đổi khác, không có một niệm biếng lười và thối thất, cũng không có một niệm tạp tưởng cho đến suốt đời hẳn không có một niệm gì khác thì chắc chắn được vãng sanh Tây phương Cực lạc thế giới. Nếu có thể dụng công tu tập như vậy thì vô minh sanh tử trong nhiều kiếp tự nhiên dứt sạch, chính mắt được nhìn thấy Từ phụ A Di Đà không ngoài tự tâm, công hạnh viên mãn, nguyện lực giúp nhau, đến lúc lâm chung chắc chắn sẽ vãng sanh Thượng phẩm. Nếu người niệm Phật nội tâm trần cấu chưa sạch, khi ác niệm sanh khởi cần phải tự kiểm điểm lấy mình, những tâm niệm ác ấy có nhiều dạng, chỉ lược kể vài thứ như sau: tâm san than, tâm tật đố, tâm sân hận, tâm si mê, tâm luyến ái, tâm giả dối, tâm ngã nhân, tâm cống cao, tâm dua nịnh, tâm tà kiến, tâm khinh mạn và đối với những hoàn cảnh thuận nghịch, tùy theo đó mà sanh tâm bất thiện. Khi những tâm niệm nói trên sanh khởi, hãy cất cao tiếng niệm Phật, thâu nhiếp trở về chánh niệm, đừng để cho những ác niệm ấy tương tục, cần phải diệt trừ ngay cho sạch hết, đừng để cho nó phát sanh trở lại. Đối với bao nhiêu tâm niệm tốt như tâm thâm tín, tâm chí thành, tâm phát nguyện hồi hướng, tâm từ bi, tâm hỉ xả, tâm khiêm hạ, tâm bình đẳng, tâm phương tiện, tâm nhẩn nhục, tâm bố thí, tâm trì giới, tâm thiền định, tâm tinh tấn, tâm Bồ đề và tất cả thiện tâm khác thường phải giữ gìn cho luôn được tăng trưởng. Lại cần phải xa lìa luật sai phạm hạnh, đoạn ác lục nghi nghĩa là phải thận trọng đừng nuôi các thứ gia súc như gà, vịt, heo, dê, v.v… lại cũng không được săn bắn, chài lưới. Nên biết chư thượng thiện nhân trong cõi nước Cực lạc đều là do tránh xa các việc ác, tu tập tất cả pháp lành mà được vãng sanh Tây phương Cực lạc. Đối với quả Vô thượng Bồ đề không thối chuyển, người niệm Phật phải học theo Phật, phải lấy việc bỏ dữ làm lành làm mục đích chính của mình.
Đại phàm người tu theo pháp môn niệm Phật, muốn chắc chắn vãng sanh về Tây phương Tịnh Độ phải thường nghĩ tất cả mọi thứ trên thế gian đều là vô thường, có thành thì có hoại, có sanh sẽ có tử, nếu không được nghe Phật pháp thì bỏ thân rồi lại thọ thân, luân chuyển trong Tam giới lục đạo, không biết ngày nào mới ra khỏi. Ngày nay chúng ta có chút phước duyên được nghe Chánh Pháp của Phật, lại hân hạnh được tu theo pháp môn niệm Phật, là pháp môn thượng Thánh hạ Phàm đồng tu, không luận người trí kẻ tu đều thực hành được, bởi pháp môn này nương nhờ tha lực của Phật nên lợi ích của nó thù thắng vô biên, tất cả các pháp môn khác đều không sánh bằng, vì lý do ấy mà chỉ có việc niệm Phật là điều đáng nhớ nghĩ. Khi bỏ báo thân này sẽ vãng sanh Cực lạc, hóa sanh trong hoa sen, hưởng thụ các sự an vui, thoát khỏi sanh tử luân hồi, đối với quả vị Bồ đề hẳn không thối chuyển. Đây chính là việc cần làm trong lúc bình sanh của bậc Trượng phu vậy!
Khi bị bệnh tật, cần có tâm hướng về trước nghĩa là nghĩ đến việc vãng sanh Tây phương, đừng sanh tâm lo sợ đến việc bệnh hoạn. Phải ngồi ngay thẳng, mặt xoay về hướng Tây, chuyên nhất tưởng đến Từ phụ A Di Đà Phật, cùng Quán Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát và vô số các Phật đều hiện ở trước mặt mình rồi nhất tâm xưng niệm Nam Mô A Di Đà Phật, mỗi câu đều liên tiếp không gián đoạn. Đối với các sự việc trên thế gian, đừng để tâm nghĩ nhớ và đừng tham luyến, nếu những tâm niệm ấy sanh khởi thì chỉ cầnmau mau xưng niệm Thánh hiệu của Phật vì trong mỗi câu Phật hiệu đều có công năng diệt trừ tội nặng sanh tử trong 80 ức kiếp, chỉ một câu niệm Phật này thì quyết định vãng sanh Tây phương. Nếu thọ số chưa hết thì tự nhiên thân được mạnh khỏe, tâm được an vui, tuyệt đối chớ sanh vọng tâm lưu luyến chuyện thế gian, nếu thọ số đã hết thì muốn sống cũng không được mà nếu thọ số chưa hết thì muốn chết cũng chẳng đặng, vậy đừng nên lo việc sống chết, cốt yếu phải lo việc vãng sanh Tây phương, không cớ gì phải sanh tâm lo sợ. Nếu xả ly được thân này thì cũng giống như bỏ đi bộ y phục rách rưới dơ bẩn mà được khoác lên bộ y phục mới quý báu tốt đẹp, xả ly thân phàm phu sanh tử để về cõi Phật được thân đẹp đẽ trang nghiêm, như thế chẳng phải là việc lớn duy nhất cần làm hay sao? Người tu pháp môn niệm Phật phải có tín tâm chân thật, phải hiểu niệm Phật để làm gì, đích xác là để vãng sanh Cực lạc thế giới. Suy nghĩ như vậy rồi thì phải nhất ý trì niệm một câu A Di Đà Phật và lấy một niệm này làm Bổn sư của ta, một niệm này chính là đức hóa Phật, một niệm này là viên dũng Tướng phá ngục, một niệm này là thanh bảo kiếm chém tà ma, một niệm này là chiếc minh đăng trừ diệt hắc ám, một niệm này là chiếc thuyền Từ đưa Ta qua biển khổ, một niệm này là phương thuốc màu chữa lành bệnh sanh tử, là đường tắt ra khỏi Tam giới, một niệm này chính là bổn tánh Di Đà, một niệm này mà đạt lý duy tâm Tịnh độ. Chỉ cần ghi nhớ một câu A Di Đà Phật này rõ ràng trong tâm, đừng để lạc mất, niệm niệm thường hiện tiền, niệm niệm không rời tâm, vô sự cũng niệm như thế mà lúc hữu sự cũng niệm như thế, khi an vui cũng niệm như thế mà lúc khổ bệnh hoành hành cũng niệm như thế, sống cũng niệm như thế mà chết cũng niệm như thế. Nếu làm được như vậy thì một câu A Di Đà phân minh, không mê muội, thì cần chi phải hỏi người khác tìm đường về nhà.”
Sau khi trước tác bộ sách nói trên, Ưu Đàm Tôn Chủ đưa đến các Tòng lâm ở khắp nơi để cầu các chư Thượng đức chứng giám nhưng không ai sửa đổi một chữ. Sau đó, họ cùng đem bộ sách ấy dâng lên cho Nhân Tôn Hoàng đế, cầu xin khôi phục phái Liên Tôn. Hoàng đế đọc xong thì rất hoan hỉ nên phong cho Ưu Đàm làm Tôn chủ của Liên Tôn và ban cho bảo hiệu Hào Khê Tôn giả. Đến niên hiệu Chí Thuận, năm đầu nhà Nguyên, Tôn Chủ thân không bệnh khổ, an vui niệm Phật rồi viên tịch. (Trích Liên Tôn Bảo Giáo).
35. Triều nhà Minh, Thánh tịnh Ni sư là người ở Đông Cương, tỉnh Quảng Châu. Từ lúc nhỏ, Ni sư đã phát tâm thọ Tam quy, Ngũ giới và ăn chay trường. Về sau Ni sư xuất gia, y theo lời Phật dạy, thọ giới Sa Di Ni Thức Xoa Má Na, kế đến thì thọ giới cụ túc. Ni sư lấy việc niệm Phật làm trọng tâm duy nhất cho việc tu hành trong đời mình, không cần học kinh luật luận cho nhiều, vì thế nên Ni sư niệm Phật ngày đêm không hở. Ni sư từng đến nhà các Phật tử khuyến hóa tiền tài, phát tâm cúng dường để giúp Ni sư tạc pho tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát bằng gỗ chiên đàn. Sau khi tạc tượng xong thì qua năm sau Ni sư bị bệnh sơ sài, biết trước thời giờ vãng sanh nên bảo chúng đệ tử đến, rồi nói rằng: “Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Âm Bồ tát đã tự thân đến đây tiếp dẫn Thầy, Thầy nói để các con biết. Các con ở lại cố gắng tinh tấn niệm Phật. Thầy đi đây.” Ni sư nói mấy lời trên rồi nhắm mắt an tọa mà viên tịch. (Trích Kinh Lục Quán Âm Từ Lâm Tập).
36. Triều nhà Thanh, Trương Quốc Sĩ Diên là một học sĩ ở huyện Thường Thục. Trước kia, khi chưa phát tín tâm với Phật pháp thì Ông thường hay uống rượu, lấy hiệu của mình là Bất Mãn. Khi nghe ai nói đến Kinh Phật thì Sĩ Diên hiện sắc mặt bất bình rồi thốt lên những lời không tôn kính. Một ngày nọ, tình cờ xem qua lý Nhân Quả luân hồi, Ông bỗng nhiên tỏ ngộ đại sự sinh tử là vấn đề khổ nhất của nhân sinh. Sĩ Diên liền phát tâm nghiêm trì giới sát và bỏ hẳn việc uống rượu, lại tu hành rất tinh tấn. Hằng ngày Ông trì tụng kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, chú Đại bi, và niệm Phật, thành tâm nguyện đem công đức này hồi hướng vãng sanh Tây phương Cực lạc thế giới. Ông cũng sám hối những lầm lổi của mình trước đây và vô lượng kiếp xưa, rồi sau đó Ông tinh tấn phát nguyện trường trai. Về sau Ông mắc phải chứng bệnh phong rất khổ sở, toàn phân bên phải tê liệt khô gầy, những người quen biết nhìn thấy khuyên Ông nên ăn thịt để bồi bổ. Nghe những lời khuyên ấy Ông chỉ buồn bã, cười nhẹ, nước mắt tuôn rơi, chấp tay tạ lỗi mà từ khước. Vào niên hiệu Đạo quang nhà Thanh năm thứ 19, vào mùa Xuân chính tay Diên Sĩ chép bản Phổ Môn rồi mướn người in ấn phổ biến khắp nơi. Trong những bản kinh Phổ Môn ấn tống, Sĩ Diên viết những lời khuyên nhủ tha thiết: “Thưa quý vị, xin đừng xem thường Kinh này rồi bỏ qua là điều đáng tiếc. Kinh này chính là thuyền Từ cứu chúng sanh ra khỏi bể khổ vậy.” Mùa Thu năm ấy, cư sĩ mộng thấy mình nuốt đóa hoa sen. Từ đó sự tu hành của Cư sĩ càng tinh tấn bội phần. Cư sĩ bảo em mình là Sĩ Đăng rằng: “Anh cần tụng Phẩm Phổ Môn đủ một vạn hai ngàn biến thì mới mãn nguyện của Anh.” Sĩ Đăng nghe nói, gạn hỏi duyên cớ thì Cư sĩ yên lặng chốc lát rồi đáp: “Em nên biết trong thế gian có bốn thứ khổ lớn là Sanh – Lão – Bệnh – Tử. Bản thân Anh đã trải qua ba thứ, còn một thứ nữa dù chưa đến nhưng nó cũng sẽ đến trong nay mai, đó là cái chết, vì thế lẽ nào Anh lại không chuẩn bị tư lương từ trước.” Niên hiệu Đạo Quang năm thứ 20, vào khoảng đầu hôm, ngày 11 tháng Giêng, Sĩ Đăng nằm trăn trở suốt đêm không thể nào ngủ được vì nghe Anh mình tụng phẩm Phổ Môn, âm thanh vang lanh lảnh. Sĩ Đăng đến nơi thì thấy Anh mình vẫn đang ngon giấc, hoàn toàn không nghe tụng kinh ra tiếng, hóa ra âm thanh đó chỉ là trong mộng của Ông thôi. Sáng ngày thức dậy cũng như thường lệ, Ông tụng Kinh xong thì có chút việc phải đến nhà bà con, khi mới đến nơi thì bổng bị đàm kéo lên nghẹt cổ, người nhà bà con tức tốc đưa cư sĩ về. Lúc về đến nơi thì Cư sĩ mê man bất tỉnh. Đến chiều ngày 13 tháng Giêng, thân hữu của Cư sĩ là Tạ Mộc Ngô đến thăm Cư Sĩ, bảo người nhà lên đèn, thắp hương trên bàn Phật và đưa xâu chuổi Cư sĩ thường ngày dùng niệm Phật để trước ngực thì đôi mắt Cư sĩ tự mở ra, sáng lên long lanh, toàn thân đều cử động nhưng hơi thở thì đã hết. Các Phật tử khác đến thăm nhìn thấy đều nói rằng đây là trạng thái Kiết tường thượng thệ, chắc chắn vãng sanh Tây phương. Nhưng riêng vợ Cư sĩ thì không tin, Bà đến trước quan tài của Ông khấn rằng: “Nếu quả thật Ông được vãng sanh thì trong giấc mộng, xin báo cho Tôi được rõ.” Trải qua năm ngày, đêm ấy người vợ nằm mộng, thấy một người đến báo rằng: “Ngươi đừng khóc! Người nhà của ngươi đã đi qua mười vạn ức Phật độ rồi.” Khi thức giấc, Bà lấy lạ về điềm mộng ấy, do lúc bình sanh, Bà này chưa bao giờ tụng kinh Di Đà nên đối với câu kinh có năm chữ “mười vạn ức Phật độ” thì không hiểu là ý nghĩa gì. Ngày hôm sau, bà đến chùa thỉnh vấn một Hòa thượng thì sau khi được Hòa thượng giải thích, bà mới biết chồng mình chắc chắn đã được vãng sanh và điềm mộng đúng là sự hiệu nghiệm rõ ràng. Sĩ Đăng tự ghi lại câu chuyện trên và từ đó theo gương của Anh mình, tu theo pháp môn Tịnh độ rất tinh tấn. Ông lại in một bộ sách tựa đề là Vãng Sanh Đề Mục Lục để lưu hành trong thế gian. (Trích Vãng Sanh cận nghiệp lục).
37. Triều nhà Thanh, Như Bang Hiền là người ở Triệu Hưng, lúc trẻ tuổi chuyên nghề buôn bán để nuôi thân, đến khi 60 tuổi thì Ông bỏ hẳn việc bán buôn. Hai ông bà phát nguyện tu Tịnh Độ, ngoài việc niệm Phật, hai ông bà từng đảnh lễ kinh Hoa Nghiêm tám bộ, thông thường gọi là lạy Kinh. (Lạy Kinh là cách thức lạy từ đầu đến cuối bộ Kinh, mỗi chữ là một lạy. Khi lạy Kinh Pháp Hoa thì xướng rằng: “Nam Mô Đại thừa Diệu pháp Liên hoa Kinh” sau đó lạy một lạy rồi tiếp tục đọc: “Như thị ngã văn, v.v… cho đến hết bộ cũng như vậy). Như thế, mà hai Ông bà Phật tử Bang Hiền đã lạy tám bộ Kinh Hoa nghiêm, mỗi bộ là tám mươi quyển. Bao nhiêu cũng đủ thấy công phu tu hành của hai ông bà sâu dầy biết chừng nào. Niên hiệu Đạo Quang, triều nhà Thanh năm thứ 18, Phật tử Bang Hiền được tám mươi sáu tuổi. Bà vợ Ông bệnh sơ sài trước Ông, sau đó Ông cũng bệnh nhẹ. Đến một hôm, Bà gọi con dâu đến bảo rằng: “Con chạy ra ngoài thất của Cha (ông bà sống riêng) chuyển lời của Mẹ báo cho Cha con biết rằng Mẹ sắp về Tây phương, Cha con ở lại mạnh giỏi, cố gắng niệm Phật rồi về sau.” Con dâu vâng lời đến thưa với cha chồng, Phật tử Bang Hiền bảo: “Con vào nhà thưa với Mẹ con hãy chậm lại ba ngày nữa để đồng đi với Cha luôn một thể cho tiện.” Con dâu vào nhà thưa lại thì Bà ưng thuận. Quả nhiên đến ngày thứ ba, cả hai ông bà an nhiên vui vẻ, niệm Phật mà vãng sanh. Bấy giờ nhằm ngày 23 tháng 6. (Trích Ngô Dần Đường Thuật).
38. Triều nhà Thanh, Trần Trinh Nữ là con gái của Trần Tiết Thanh Cư sĩ. Trinh Nữ lúc ấu thơ đã từng nghe cha mẹ giảng về thuyết nhân quả. Tuy còn nhỏ nhưng đã phát tâm kiên trì giới sát và thực hành hạnh phóng sanh. Khi lên mười bốn, mười lăm tuổi, Trinh nữ nghe ai bàn chuyện hôn nhân thì đều khóc lóc và bỏ cả ăn uống. Cha mẹ thấy thế bèn gạn hỏi chí hướng là muốn làm gì? Trinh Nữ liền thưa: “Con có ý nguyện đợi đến khi nghĩa lý trong Kinh có thể thông hiểu thì xin cha mẹ cho con được xuất gia làm Ni.” Mẫu thân của Trinh Nữ thì im lặng nhưng phụ thân thì vô cùng tán thán và chấp nhận. Thoạt đầu, Trinh Nữ chỉ đọc văn tự các Kinh nên không lưu tâm nghiên cứu tìm tòi. Hàng ngày nàng chỉ chuyên tụng Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, kinh Di Đà, Thập Chú Đại bi, Bát Nhã tâm kinh. Dù đọc tụng nhiều nhưng nghĩa lý vẫn chưa hiểu. Vì vậy Trinh Nữ chỉ nhất tâm niệm Phật mà thôi. Đến lúc mẫu thân tạ thế thì Trinh Nữ phát nguyện trường trai. Năm lên hai mươi lăm tuổi, vào lúc tháng năm, Trinh nữ mắc chứng bệnh thời khí, nằm liệt giường hơn hai mươi ngày. Phụ thân của Trinh Nữ thấy con bệnh nên rất buồn thương, nhưng là người thông đạt Phật pháp nên Ông thường đến cạnh giường con để khuyên nhủ phải thường xuyên niệm Phật, quán Phật và nhất tâm cầu về Tây phương. Đến sáng ngày ba mươi, bệnh Trinh nữ càng nặng nên hôn mê bất tỉnh. Phụ thân thấy thế buồn đau rơi lệ, nhưng vẫn đến trước giường bệnh, kêu lớn tên con mà cảnh tỉnh, lại đem những cảnh an vui ở Cực lạc thế giới tuyên thuyết nhắc con phải gắng nhớ Phật, niệm Phật, đừng nghĩ đến việc khổ đau. Đến giờ Mùi (khoảng một – hai giờ trưa), Trinh nữ bảo người đở ngồi dậy, hướng về Tây phương, chấp tay niệm Phật. Trong chốc lát, Trinh nữ bổng mở mắt hỏi người xung Quanh: “Phụ thân Tôi ở đâu không thấy?” Mọi người đáp: “Ông có việc đã đi ra ngoài rồi”, do mẫu thân của Quan huyện bệnh nặng và phụ thân của Trinh nữ đang đi thăm nên không có ở nhà. Trinh Nữ nói: “Không hề gì! Không cần tìm kiếm và mời Người về. Khi Cha tôi về đến thì hãy hoan hỉ nói lại xin Người hãy yên tâm vì vừa rồi Tôi đã được hai đại Bồ tát dẫn đi đến Cực lạc Tây phương và được Từ phụ A Di Đà thọ ký cho Tôi vãng sanh hạ phẩm hạ sanh nhưng vì lòng chí hiếu với mẫu thân đã hai lần cắt thịt cánh tay trị bệnh cho Mẹ nên chuyển lên hạ phẩm trung sanh. Tôi may mắn được phụ thân luôn nhắc nhở niệm Phật nên xin Người hãy an tâm lo tu niệm, đừng để Tâm nhớ nghĩ đến Tôi.”Dạo trước, có người giúp việc trong nhà là họ Tôn, thấy Trinh Nữ trẻ tuổi mà tu hành tinh tấn nên Bà cũng phát nguyện trường chai, chuyên tâm niệm Phật. Giờ đây khi chứng kiến sự vãng sanh của Trinh nữ, Bà thốt lên rằng: “Tiểu Thư ơi, Tiểu thư là một đồng nữ trinh tiết mà cũng là bậc chân tu nên được sự lợi ích vĩ đại thù thắng này, còn chúng tôi đây là kẻ mới giữa đường phát tâm tu hành, sợ rằng sẽ không được như thế.” Trinh Nữ trả lời: “Xin Bà an tâm, không phải như thế đâu. Việc niệm Phật cần phải có tâm chân thiết, còn việc tu hành bất luận là nửa đường hay không nửa đường, tùy thuộc vào hoàn cảnh của mỗi người.” Nói mấy lời trên xong thì Trinh nữ quay sang quyến thuộc dặn dò: “Quí vị trong lúc bình nhật niệm Phật mà không có tâm chí thành tha thiết, Tôi sợ e khó đắc lực. Nếu dùng tâm chí thành, chân thật mà niệm Phật, thì đến giờ phút này mới tự biết mình sẽ được sự thọ dụng rất lớn lao. Vậy xin quí vị cố gắng, Tôi xin đi đây.” Dứt lời Trinh nữ nhắm mắt tạ thế. Phụ thân của Trinh Nữ đến giờ Dậu mới về, nghe người nhà thưa lại tình hình giờ phút cuối cùng của con, Ông đến sờ trên đầu thì trên đảnh đầu của Trinh nữ vẫn còn ấm. (Trích Du Huệ Ức Sao).
39. Có một hiệu thư(*) không rõ họ tên, vừa quá tuổi cập kê bỗng nhiên tỉnh ngộ bỏ hẳn việc làm cũ, tự giữ mình tinh khiết, lại quy y Tam bảo, thọ trì năm giới. Đối với Phật Pháp lòng rất thâm tín, bấy giờ hiệu thư bỏ hẳn phấn son, chuyên tâm niệm Phật. Cô còn một người Mẹ già nên đến Thượng Hải thuê một gian nhà, rước Mẹ cùng về ở để mình phụng dưỡng và khuyên Mẹ niệm Phật. Riêng cá nhân Cô thì sớm chiều thành tâm niệm Phật không gián đoạn. Cô sửa sang phòng thành một nơi Tịnh thất, vừa trang nghiêm vừa thanh tịnh, không khác gì chốn lan nhã và thỉnh Tôn dung của Từ phụ A Di Đà Phật về nhà để ngày đêm lễ bái cúng dường. Khi còn sống trong nghiệp phong trần, dù trong cảnh gió bụi nhưng Cô không buông lung phung phí như người khác nên dành dụm được số tiền kha khá. Số tiền ấy Cô đem gởi cho một Phật tử ở Việt Đông nhờ giữ dùm cho Cô. Đến năm Dân Quốc thứ 13, đầu tháng Hai, Cô nhờ bà giúp việc đến Việt Đông mời Lương Tiên sinh đến và thưa rằng: “Thưa Tiên Sinh, con tu hành chưa được bao lâu mà may mắn quá, con được giải thoát. Hôm nay làm phiền Tiên Sinh đến đây để con thưa Tiên sinh biết ngày ấy con sẽ về Tây phương. Về số tiền con gởi cho Tiên Sinh, sau khi con bỏ thân phàm này, xin Tiên Sinh dùng số tiền đó lo việc tống táng và trai Tăng làm phước, và để lại một phần cấp dưỡng cho mẹ già của con. Mong Tiên Sinh từ bi hoan hỉ mà chứng minh cho. Con thành tâm vạn tạ.” Lương Phật tử nghe nói thì đáp rằng: “Tuổi Cô chỉ vừa mới quá Xuân, tại sao vội nói đến việc ấy?” Hiệu thư yên lặng, đưa Lương Phật tử ra về. Đến ngày Cô đã hẹn như nói trên, bà giúp việc đến nhà Lương Phật tử báo tin Cô đã vãng sanh Tây phương Cực lạc thế giới. Phật tử họ Lương nghe xong thì hết lòng tán thán, vội vã đến nhà để lo việc tống táng, mọi việc đều làm y theo như lời Cô dặn và chừa lại một phần để cấp dưỡng cho mẫu thân Cô. (Trích Cận Đại Vãng Sanh truyện).
(*) Danh từ hiệu thư có hai nghĩa, nghĩa thứ nhất là vị quan vào thời đại xưa có trách nhiệm cất giữ sách vở và hiệu chính các sách, nghĩa thứ hai là cách gọi khác của kỷ nữ. Trong truyện này chính là nghĩa thứ hai.
Lời bình luận của Phật tử biên soạn bộ Tịnh Độ Thánh Linh Cảm Lục:
Sanh ra làm người đã không được mang thân nam tử, lại phải mang thân nữ nhân, nghiệp ấy đã nặng rồi, nhưng làm nữ nhân mà còn lao vào con đường bán thân nữa thì nghiệp đã nặng lại càng nặng. Tuy nhiên “Nghiệp hải mang mang, hồi đầu thị nhạn (Nghiệp sanh tử luân hồi mênh mông không bờ mé) nhưng một khi hồi đầu tỉnh ngộ ấy chính là Cực lạc Niết bàn.” Chúng ta nên biết tất cả chúng sanh đều sẳn có Phật tánh, như cô hiệu thư trong truyện. Chính trong lúc tuổi quá thanh xuân mà có thể phản tỉnh hồi đầu, mạnh mẽ bỏ hẳn việc dâm uế, theo lời Phật dạy, y theo pháp môn Tịnh độ, gắng sức tu hành, chưa được vài năm liền như bổn nguyện, lại biết trước ngày giờ về Lạc bang. Nói đến đây chúng ta có thể thấy pháp môn Tịnh độ là pháp vi diệu, thù thắng đệ nhất mà lại thích hợp với mọi căn cơ nên Ấn Tổ thường nói: “Pháp môn niệm Phật là pháp môn Thượng Thánh – Hạ Phàm đồng tu, chỉ cần tín sâu, nguyện thiết thì chắc chắn được thành tựu, thế nên Quốc học tiến sĩ Vương Nhật Hựu soạn bộ Long thư Tịnh Độ, trong ấy có một thiên khuyến hóa các ả phong trần. Cô hiệu thư này đã vâng theo lời khuyên dạy ấy, bỏ hẳn thứ dâm uế ở Ta bà để nhất tâm niệm Phật, cầu về Tịnh độ ở Lạc bang. Hiệu thư hãy còn được như thế thì Tôi kính khuyên các hàng Phật tử hay chưa vào hàng Phật tử, hãy nên dõng mãnh phát sanh chánh tín, nhất là đừng sanh niệm nghi ngờ hủy báng để khỏi phụ với kiếp làm người như trong Khoa văn cúng thí thực có câu: Kim xin bất khả Di Đà niệm – Uổng tại nhân gian tẩu nhất tao. (Sống chẳng niệm Di Đà Phật hiệu – Uổng một đời chơi nẻo nhân gian).
LỜI PHỤ
Sáu truyện vãng sanh trên, một truyện của đức Ưu Đàm Tôn chủ là nói về sự chứng đắc cấp bậc thượng thủ trong tứ chúng. Hai truyện sau cùng nói về nữ Phật tử được chứng đắc thấp nhất trong tứ chúng. Khi còn ở Ta bà thì theo giai cấp giới phẩm có thấp cao, nhưng một khi đã vãng sanh về Cực lạc rồi thì dù có chậm mau, sai khác bất đồng, đồng dự vào ngôi bất thối, đồng chứng quả vô sanh, đồng thành Chánh giác. Sự tích vãng sanh có lợi ích lớn lao thì các sự tích trì niệm danh hiệu đức Đại bi Quán Thế Âm cũng thế nên dịch giả thành kính cố công biên dịch từ Hán văn ra Việt văn, mong đem lại sự lợi lạc cho các vị có tín tâm với Đại Sĩ, bất luận là đã vào hàng Phật tử hay chưa vào hàng Phật tử, nương theo đây mà tín tâm được tăng trưởng, những vị nào chưa phát tín tâm cũng nương theo đây mà phát tín tâm.
Tuy nhiên có điều dịch giả xin thưa: quý vị trong lúc bình nhật, thân thể khỏe mạnh, tâm thần sáng suốt nên chí thành cung kính, tinh tấn xưng niệm danh hiệu của Đại sĩ và tụng kinh Phổ Môn, chú Đại bi cho thường, đừng nghĩ rằng Bồ tát thần lực vô biên lại từ bi thương xót chúng sanh như thế nên để khi nào có tai nạn gì thì mới nghĩ đến cầu đảo xưng niệm, lúc thường ngày thì không cần lắm, như vậy là sai lầm lớn. Tại sao vậy? Vì khi tai nạn xảy đến, tâm ý chúng ta hoảng sợ, hãi hùng, tinh thần không minh mẫn, lúc ấy chỉ duy nhất có tâm trạng sợ chết thì làm sao mà niệm, cho dù có xưng niệm được cũng khó mà nhất tâm. Điều này quý vị đã xem qua các sự tích từ sáu thiên trong bộ sách này đã dạy rõ.
Dịch giả xin nhắc lại hai tích chuyện trong thiên Cứu tế ách nạn để chứng minh: Chuyện thứ nhất là đời Nguyên Ngụy, có Thầy Thích Pháp Lực, muốn xây cất Tịnh xá ở tại Lô Sơn để tu hành nhưng tài chánh quá thiếu thốn, Phật tử lại không ủng hộ nên Thầy cùng với Sa Di Minh Thám thân hành đi đến Thượng Cốc. Cả hai Thầy trò ở lại đó một năm để xin chỉ gai đem về bán để xây Tịnh xá. Công việc xong, hai thầy trò trên đường về chùa thì đi ngang qua một đầm hoang có đầy cỏ lau. Nhằm lúc mùa nắng bổng gặp lửa dữ cháy khắp trong đầm, xe Thầy lúc đó ở ngay hướng gió nên vô phương tránh khỏi, Thầy Pháp lực lúc ấy vì quá mỏi mệt nên ngủ mê trên xe, khi nghe lửa nóng giật mình thức dậy thì lửa đã sát bên mình, ngay lúc ấy Thầy cất lên tiếng xưng niệm cầu Thánh hiệu Quán Âm, nhưng Thầy chỉ la lớn được tiếng Quán, chưa đến 2 chữ Thế Âm, ứng theo âm thanh xưng niệm thì gió tự nhiên chuyển hướng, đám lửa dữ đều tắt. Hai thầy trò về đến chùa an nhiên vô sự. Trong lúc tai nạn cấp bách mà được sự minh gia của Bồ tát như thế là do thường ngày Thầy đã tín sâu và thành kính xưng niệm, công huân thuần thục mới cảm ứng đến Đại Sĩ như âm vang ứng tiếng. (Trích Cao Tăng Truyện – Tập 2)
Chuyện thứ hai là tại huyện Đông hải có một bà lão Phật tử họ Vương tuổi đã thất tuần. Một hôm Bà bồng đứa cháu qua sông thì rủi ro trợt chân té xuống nước, lại nhằm lúc nước lớn, chảy mạnh như thác nhưng bà lão vẫn bồng cháu đứng trên mặt nước, tự nhiên như đứng trên bình địa. Dân chúng thấy vậy vô cùng kinh ngạc, lật đật kéo ghe tiếp cứu bà lên bờ. Sau khi bà lên bờ thì mọi người gạn hỏi. Bà nói: “Tôi không biết gì là hiểm nạn, lúc ấy chỉ bồng cháu và trì niệm Quán Thế Âm không dứt mà thôi.” Do bà lão này thường nhật trì niệm Thánh hiệu của Đại Sĩ chẳng những lâu năm mà còn thuần thục nên được Bồ tát gia hộ như thế. Sự tích nói trên là do Thích Minh Huệ Sơn Hòa thượng ở chùa Tây Thiên, xứ Kim Lăng thuật lại (Trích Quán Thế Âm Trì niệm Ký)
Đức Liên Tôn Bát Tổ có dạy: “Nhàn thời biện – Mạnh thời dụng.” Ý Tổ dạy: lúc rảnh rỗi, phải lo tu tập các công đức, tụng Kinh niệm Phật, trì chú lễ Sám, v.v… thì đến khi đại hạn đến hay gặp tai nạn mới có mà thọ dụng. Giống như truyện vãng sanh thứ 5 của Trinh Nữ ở trên. Trinh Nữ khuyên mọi người trong lúc bình nhật phải niệm Phật chí thành tha thiết thì đến giờ phút lâm chung mới biết sự thọ dụng của công phu tu niệm.
LỜI KHAI THỊ CỦA ẤN TỔ:
Đức Quán Âm Bồ Tát đã thành Phật trong kiếp xa xưa. Thánh hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai nhưng vì lòng từ bi đối với chúng sanh quá thiết, dù đã an trú Thường Tịch Quang Độ mà vẫn hiện thân nơi ba độ là thật báo, phương tiện, đồng cư. Dù thường hiện Phật thân nhưng vẫn lại hiện phổ thân trong cửu giới, dù luôn bên cạnh hầu hạ A Di Đà nhưng vẫn hiện sắc thân Pháp giới trong mười phương, đúng như lời tiên đức đã nói: chỉ cần có lợi ích cho chúng sanh thì không một việc gì chẳng thực hành và như trong Kinh dạy với những chúng sanh nên dùng thân chi để độ thoát thì hiện thân ấy mà vì đó nói Pháp. Vì lý do ấy nên biết Phổ Đà Bảo Sơn chính là nơi ứng tích của Bồ tát. Vì muốn cho chúng sanh có chổ chiêm hướng quy lễ mà thị hiện nơi Bảo Sơn này, đâu phải Bồ tát chỉ ở nơi Phổ Đà mà không ở nơi chổ khác.
Lấy ví dụ cho dễ hiểu, như một vầng trăng sáng rực trên không trung, bóng trăng ấy muôn sông đều hiện, dù cho là một gáo nước hay một giọt sương trên cành cây thì mỗi mỗi đều hiện cả mặt trăng trong ấy, tuy nhiên
nếu nước đục và chao động thì bóng trăng không rõ ràng. Tâm chúng sanh cũng như nước, nếu chí thành một lòng xưng niệm danh hiệu Bồ tát thì Bồ Tát chính trong lúc xưng niệm khiến được sự lợi ích minh hiển, trái lại nếu tâm không chí thành, không chuyên nhất thì khó mong được Ngài cứu hộ. Ý nghĩa này rất sâu xa, muốn biết rõ thì phải xem lời tựa Thạch Ấn Phổ Đà Sơn Chí trong bộ Ấn Quang Văn Sao.
Tại sao Bồ tát lại có danh xưng là Quán Thế Âm? Vì Bồ tát nhận biết được lòng cầu khẩn của chúng sanh do quán văn thanh mà chứng viên thông trên. Quả vị do quán âm thanh cứu độ cho nên mệnh danh là Quán Thế Âm. Vì sao sự thị hiện của Bồ Tát gọi là Phổ Môn? Vì Bồ tát quảng đại phổ biến thị hiện vô biên, tùy thuận theo căn tánh của chúng sanh trong khắp pháp giới, có thể độ chúng sanh đến cảnh giải thoát, không riêng lập một pháp môn nào, giống như bệnh trong đời có nghìn loại, lẽ đương nhiên thì thuốc cũng phải có muôn phương, không chấp định một pháp nào, tùy theo chổ mê cũng như chổ tỏ ngộ của chúng sanh mà khai hóa điểm thị như lục căn, lục thức, thất đại, mỗi mỗi đều có thể chứng được viên thông. Ý nghĩa này phải xem trong Kinh Lăng Nghiêm thì rõ. Vì thế, tất cả Pháp đều là cửa thoát sanh tử luân hồi thành Vô thượng giác cho nên được mệnh danh là Phổ Môn. Nếu Bồ tát chỉ ở nơi Nam Hải thì không thể gọi là Phổ.
Tôi kính mong quý Phật tử trong cả hai giới hàng ngày ngoài việc lo bổn phận của mình, phải một lòng chí thành xưng niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật, lại sớm chiều ở trước Phật đài hết lòng sám hối túc nghiệp từ vô thỉ, thực hành lâu ngày sẽ ở trong chổ “không biết không hay” mà được lợi ích không thể nghĩ bàn. Trong Kinh Pháp Hoa có dạy rằng: “Nếu chúng sanh nào tâm dâm dục quá mạnh, thường cung kính xưng niệm Thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát liền được ly dục; sân nộ, ngu si cũng thế. Nếu chúng ta một lòng thành kính chuyên niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát thì ba độc tham sân si tự nhiên có thể tiêu trừ. Chúng ta sống trong thời mạt pháp này, tai ách hoạn nạn quá nhiều, thế nên ngoài việc niệm Phật, cần phải kiêm xưng niệm Thánh hiệu Quán Âm Bồ Tát, trong minh minh tự nhiên có sự hồi chuyển không thể nghĩ bàn, thế mới mong không đến nổi túc nghiệp hiện tiền vô phương trốn tránh.
Kính thưa quý đọc giả, Bộ sách này trước tiên là do Ấn Tổ đề tựa, sau đó là Ngài mong chúng ta y theo các tích trong 6 thiên này mà thực hành nên Tổ đều có những lời khai thị phía sau trong các chuyện, thâm ý mong muốn chúng ta có kết quả mỹ mãn, đây chính là sự vô giá của bộ sách này.
Bộ Tân biên Quán Âm Linh Cảm Lục bao gồm 6 thiên đã đủ. Còn một phần mang tên Quán Âm Linh Cảm Cận Văn Lục nghĩa là ghi chép lại những sự linh cảm của đức Quán Âm cứu khổ độ sanh do tai nghe mắt thấy trong thời gian gần đây, phần này có khoảng 60 – 70 sự tích, dịch giả thấy rằng dịch tiếp cũng tốt hoặc không dịch cũng được vì 60 – 70 sự tích này cũng tương tự như các tích trong 6 thiên đã dịch, chuyên về sự bạt trừ bệnh khổ, v.v… không có nhiều khác biệt, chỉ khác biệt ở điểm thời gian xưa và nay.
Cuối cùng dịch giả thành kính xin quý vị khi được xem bộ sách này nên một lòng thâm tín đức từ bi cứu khổ ban vui của Quán Thế Âm Bồ Tát, cố gắng thực hành mới mong đem lại kết quả và giới thiệu cho người khác được xem để cũng được kết quả như mình thì công đức ấy vô lượng vô biên. Sự việc này nếu xem trong Thiên thứ 3 đức Quán Âm Bồ Tát dạy Phật tử Phượng Hiền thì rõ, dịch giả xin nhắc lại để đọc giả không nhọc công tìm kiếm lại: “Đức Quán Thế Âm khuyên Phật tử Phượng Hiền nếu có thể khuyến hóa nghìn người tránh xa cạm bẫy của nữ sắc thì được phước đức vô lượng vô biên. Phượng Hiền kính cẩn từ chối không đủ năng lực làm việc ấy. Bồ Tát liền trao cho quyển Giới Nịch Nữ Đồ Ca và khuyên nếu Ông khắc bản ấn tống quyển sách ấy thì cũng như đã khuyến hóa vô lượng vô số người, không chỉ có nghìn người mà thôi. Vậy dịch giả trông mong quý vị sẽ cố gắng vâng lời Bồ tát thực hành thì ý nguyện của dịch giả được hoàn toàn viên mãn. Xin cảm tạ thâm ân của quý vị.
Hòa Thượng
THÍCH TRÍ MINH