TÂN BIÊN QUÁN ÂM LINH CẢM LỤC
Biên soạn: Lý Viên Tịnh
Việt dịch: Sa môn Thích Trí Minh

 

Các Chương trong Sách:

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
Hán Dịch: Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
Phẩm “Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn”

Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu, chấp tay hướng Phật mà bạch rằng: “Thế Tôn! Ngài Quán-Thế-Âm Bồ-Tát do nhân duyên gì mà tên là Quán-Thế-Âm?”

Phật bảo ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát: “Thiện-nam-tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não, nghe Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này một lòng xưng danh Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, tức thì xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát.

1. Nếu có người trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được, vì do sức oai thần của Bồ-Tát này được như vậy. Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ-Tát này liền được chỗ cạn. Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh, vì tìm vàng, bạc, lưu ly, xa- cừ, mã-não, san-hô, hổ-phách, trân châu các thứ báu, vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kẻ kia trôi tắp nơi nước quỉ La-sát, trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thì các người đó đều được thoát khỏi nạn quỉ La-sát. Do nhân duyên đó mà tên là Quán-Thế-Âm.

2. Nếu lại có người sắp sẽ bị hại, xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thì dao gậy của người cầm liền gãy từng khúc, người ấy liền được thoát khỏị. Nếu quỉ Dạ-xoa cùng La-sát đầy trong cõi tam-thiên đại-thiên muốn đến hại người, nghe người xưng hiệu Quán-Thế-Âm Bồ Tát, thì các quỉ dữ đó còn không thể dùng mắt dữ mà nhìn người, huống lại làm hại được. Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát thảy đều đứt rã, liền được thoát khỏi. Nếu kẻ oán tặc đầy trong cõi tam-thiên đại-thiên, có một vị thương chủ dắt các người buôn đem theo nhiều của báu, trải qua nơi đường hiểm trở, trong đó có một người xướng rằng: “Các Thiện-nam-tử! Chớ nên sợ sệt, các ông nên phải một lòng xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, vị Bồ-Tát đó hay đem pháp vô-úy thí cho chúng sanh, các ông nếu xưng danh hiệu thì sẽ được thoát khỏi oán tặc nầy”. Các người buôn nghe rồi, đều lên tiếng xưng rằng: “Nam-Mô Quán-Thế-Âm Bồ-Tát!” vì xưng danh hiệu Bồ-Tát nên liền được thoát khỏi. Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ- Tát sức oai thần to lớn như thế.

3. Nếu có chúng sanh nào nhiều lòng dâm dục, thường cung kính niệm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, liền được ly dục. Nếu người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, liền được lìa lòng giận. Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, liền được lìa ngu si. Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có những sức oai thần lớn, nhiều lợi ích như thế, cho nên chúng sanh thường phải một lòng tưởng nhớ.

Nếu có người nữ, giả sử muốn cầu con trai, lễ lạy cúng dường Quán-Thế- Âm Bồ-Tát, liền sanh con trai phúc đức trí huệ; giả sử muốn cầu con gái, bèn sanh con gái có tướng xinh đẹp, trước đã trồng gốc phước đức, mọi người đều kính mến. Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có sức oai thần như thế.

4. Nếu có chúng sanh nào cung kính lễ lạy Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thì phước đức chẳng luống mất. Cho nên chúng sanh đều phải thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.

Vô Tận Ý! Nếu có người thọ trì danh tự của sáu mươi hai ức hằng-hà- sa Bồ-Tát lại trọn đời cúng dường đồ ăn uống, y phục, giường nằm, thuốc thang. Ý ông nghĩ sao? Công đức của người thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn đó có nhiều chăng?

Vô-Tận-Ý thưa: “Bạch Thế-Tôn! Rất nhiều”.Phật nói: “Nếu lại có người thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, nhẫn đến một thời lễ lạy cúng dường, thì phước của hai người đó bằng nhau không khác, trong trăm nghìn ức kiếp không thể cùng tận.

Vô-Tận-Ý! Thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát được vô lượng vô biên phước đức lợi ích như thế.”

5. Ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát bạch Phật rằng: “Thế-Tôn! Quán-Thế-Âm Bồ- Tát dạo đi trong cõi Ta-bà như thế nào? Sức phương tiện đó như thế nào?”

Phật bảo Vô-Tận-Ý Bồ-Tát: “Thiện-nam-tử! Nếu có chúng sanh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật được độ thoát, thời Quán-Thế-Âm Bồ-Tát liền hiện thân Phật vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Duyên-giác được độ thoát, liền hiện thân Duyên-giác mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Thanh-văn được độ thoát, liền hiện thân Thanh-văn mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Phạm-vương được độ thoát, liền hiện thân Phạm-vương mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Đế-Thích được độ thoát, liền hiện thân Đế-Thích mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tự-tại-thiên được độ thoát, liền hiện thân Tự-tại-thiên mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Đại-tự-tại-thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại-tự-tại-thiên mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Thiên-đại-tướng-quân được độ thoát, liền hiện thân Thiên-đại-tướng-quân mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tỳ-sa-môn được độ thoát, liền hiện thân Tỳ-sa-môn mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tiểu-vương được độ thoát, liền hiện thân Tiểu-vương mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Trưởng-giả được độ thoát, liền hiện thân Trưởng-giả mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Cư-sĩ được độ thoát, liền hiện thân Cư-sĩ mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tể-Quan được độ thoát, liền hiện thân Tể-Quan mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Bà-la-môn được độ thoát, liền hiện thân Bà-la-môn mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di được độ thoát, liền hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân phụ nữ của Trưởng-giả, Cư-Sĩ, Tể-Quan, Bà-la-môn được độ thoát, liền hiện thân phụ nữ mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân đồng-nam,đồng-nữ được độ thoát, liền hiện thân đồng-nam, đồng-nữ mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhơn cùng phi nhơn được độ thoát, liền đều hiện ra mà vì đó nói pháp.

Người đáng dùng thân Chấp-Kim-Cang thần được độ thoát, liền hiện thân Chấp-Kim-Cang thần mà vì đó nói pháp.

Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát đó thành tựu công đức như thế, dùng các thân hình, dạo đi trong các cõi nước để độ thoát chúng sanh, cho nên các ông phải một lòng cúng dường Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.

Quán-Thế-Âm Bồ-Tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban cho sự vô-úy, nên cõi Ta-bà này đều gọi Ngài là vị”Thí-vô-úy”.

6. Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật: “Thế-Tôn! Con nay muốn cúng dường Quán-Thế-Âm Bồ-Tát”. Liền cởi chuỗi ngọc bằng châu báu nơi cổ giá trị trăm nghìn lạng vàng, đem trao cho ngài Quán-Thế-Âm mà nói rằng: “Xin Ngài nhận chuỗi trân bảo pháp thí này”.

Khi ấy Quán-Thế-Âm Bồ-tát chẳng chịu nhận chuỗi. Ngài Vô-Tận-Ý lại thưa cùng Quán-Thế-Âm Bồ-Tát rằng: “Xin Ngài hãy vì thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc này”.

Bấy giờ Phật bảo Quán-Thế-Âm Bồ-Tát: “Ông nên thương Vô-Tận-Ý Bồ- Tát và hàng tứ chúng cùng trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhơn và phi-nhơn v.v… mà nhận chuỗi ngọc đó.

Tức thời, Quán-Thế-Âm Bồ-Tát thương hàng tứ chúng và trời, rồng, nhơn, phi-nhơn,v.v… mà nhận chuỗi ngọc đó chia làm hai phần: Một phần dâng đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật, một phần dâng tháp của Phật Đa-Bảo. Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có sức thần tự tại như thế, dạo đi nơi cõi Ta Bà”.

Lúc đó, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát nói kệ hỏi Phật rằng:

7. Thế-Tôn đủ tướng tốt!
Con nay lại hỏi kia.
Phật tử nhân duyên gì?
Tên là Quán-Thế-Âm?

Đấng đầy đủ tướng tốt.
Kệ đáp Vô-Tận-Ý:
Ông nghe hạnh Quán-Âm.
Khéo ứng các nơi chỗ.

Thệ rộng sâu như biển.
Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn.
Hầu nhiều nghìn Đức Phật.
Phát nguyện thanh tịnh lớn.

Ta vì ông lược nói.
Nghe tên cùng thấy thân
Tâm niệm chẳng luống qua.
Hay diệt khổ các cõi.

Giả sử sanh lòng hại.
Xô rớt hầm lửa lớn.
Do sức niệm Quán-Âm.
Hầm lửa biến thành ao.

Hoặc trôi dạt biển lớn.
Các nạn quỉ, cá, rồng.
Do sức niệm Quán-Âm.
Sóng mòi chẳng chìm được.

Hoặc ở chót Tu-di.
Bị người xô rớt xuống.
Do sức niệm Quán-Âm.
Như mặt nhật treo không.

Hoặc bị người dữ rượt.
Rớt xuống núi Kim-Cang.
Do sức niệm Quán-Âm.
Chẳng tổn đến mảy lông.

Hoặc gặp oán tặc vây.
Đều cầm dao làm hại.
Do sức niệm Quán-Âm.
Đều liền sanh lòng lành.

Hoặc bị khổ nạn vua.
Khi hành hình sắp chết.
Do sức niệm Quán-Âm.
Dao liền gãy từng đoạn.

Hoặc tù cấm xiềng xích.
Tay chân bị gông cùm.
Do sức niệm Quán-Âm.
Tháo rã được giải thoát.

Nguyền rủa các thuốc độc.
Muốn hại đến thân đó.
Do sức niệm Quán-Âm.
Trở hại nơi bổn-nhân.

Hoặc gặp La-sát dữ.
Rồng độc các loài quỉ.
Do sức niệm Quán-Âm.
Liền đều không dám hại.

Hoặc thú dữ vây quanh.
Nanh vuốt nhọn đáng sợ.
Do sức niệm Quán-Âm.
Vội vàng bỏ chạy thẳng.

Rắn độc cùng bò cạp.
Hơi độc khói lửa đốt.
Do sức niệm Quán-Âm.
Theo tiếng tự bỏ đi.

Mây sấm nổ sét đánh.
Tuôn giá, xối mưa lớn.
Do sức niệm Quán-Âm.
Liền được tiêu tan cả.

Chúng sanh bị khổ ách.
Vô lượng khổ bức thân.
Quán-Âm sức trí diệu.
Hay cứu khổ thế gian.

Đầy đủ sức thần thông.
Rộng tu trí phương tiện.
Các cõi nước mười phương.
Không cõi nào chẳng hiện.

Các loài trong đường dữ:
Địa-ngục, quỉ, súc sanh.
Sanh, già, bịnh, chết khổ.
Lần đều khiến dứt hết.

Chơn-quán thanh tịnh quán.
Trí-huệ quán rộng lớn.
Bi-quán và từ-quán,
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng.

Sáng thanh tịnh không nhơ.
Tuệ nhật phá các tối
Hay phục tai khói lửa.
Khắp soi sáng thế gian.

Lòng bi răn như sấm.
Ý từ diệu dường mây
Xối mưa pháp cam lồ.
Dứt trừ lửa phiền não.

Cãi kiện qua chỗ quan.
Trong quân trận sợ sệt
Do sức niệm Quán-Âm.
Cừu oán đều lui tan.

Diệu-Âm, Quán-Thế-Âm.
Phạm-âm, Hải-triều-âm
Tiếng hơn thế gian kia,
Cho nên thường phải niệm.

Niệm niệm chớ sanh nghi
Quán Âm bậc Tịnh Thánh.
Nơi khổ não nạn chết.
Hay vì làm nương cậy.

Đủ tất cả công đức.
Mắt lành trông chúng sanh.
Biển phước lớn không lường.
Cho nên phải đảnh lễ.

8. Bấy giờ, ngài Trì-Địa Bồ-Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật bạch rằng: “Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm Quán-Thế-Âm Bồ- Tát Đạo-nghiệp Tự-Tại, Phổ-Môn Thị-Hiện sức thần thông nầy, thì phải biết công đức người đó chẳng ít”.

Lúc Phật nói phẩm Phổ-Môn này, trong chúng có tám muôn bốn nghìn chúng sanh đều phát tâm vô-đẳng-đẳng, vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác.

 

QUÁN ÂM KỆ
Trước Khi Xưng Niệm Thánh Hiệu Đức Đại Bi Quán Thế Âm
Trước Tiên Nên Đọc Bài Kệ Sau:

DỊCH ÂM:

Quán Âm Bồ Tát diệu nan thù
Thanh Tịnh trang nghiêm lũy kiếp tu
Hạo hạo hồng liên an túc hạ
Nguy nguy cổ Phật hiện Quan đầu
Bình trung cam lộ thường biến sái
Thủ nội dương chi bất kể thu
Thiên xứ kỳ cầu thiên xứ ứng
Khổ hải thường tác độ nhân chu.

DỊCH NGHĨA:

Sắc đẹp Quán Âm khó tỏ trần
Tu hành muôn kiếp tịnh nghiêm thân
Sen hồng rực rỡ chân an ngự
Cổ Phật uy nghiêm mão sáng ngần
Cam lộ miên trường ban khắp chúng
Liễu dương ngàn thuở cứu lê dân
Ngàn nơi khẩn nguyện, ngàn nơi ứng
Bể khổ đưa thuyền độ thiện nhân
(Phật tử Liên Hoa tạm dịch)

Nam Mô Phổ Đà Sơn Lưu Ly Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát! (1 lần)
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát! (Xưng niệm từ một trăm, một ngàn đến vạn câu)

* Lược giải bài kệ:

– Câu 1, câu 2: nguyên nhân có được hảo tướng của Đức Quan Âm. Thân tướng của Bồ tát đẹp đẽ, phi thường do Ngài trải qua vô lượng vô biên số kiếp, tu hành thanh tịnh trang nghiêm mà chiêu cảm được báo thân như vậy.

– Câu 3, câu 4: Mô tả các tướng đẹp của Bồ tát: dưới chân Ngài có hoa sen hồng lớn nâng đỡ, trên chiếc mão Ngài đội có hình đức cổ Phật đoan nghiêm hiện ra.

– Câu 5, câu 6: Lòng Đại từ bi của Bồ tát đối với tất cả chúng sanh, nước cam lồ trong bình Tịnh thủy của Ngài lúc nào cũng rưới mát tâm nhiệt não của thế gian và nhành dương liễu trên tay Ngài không ngừng dập tắt mọi nạn tai cho chúng sanh.

– Câu 7, câu 8: Sự linh ứng khắp nơi của Bồ tát, bất luận ở nơi nào, thời gian nào, nếu có chúng sanh nào chí thành cầu khẩn, Bồ tát đều ứng hiện để cứu khổ ban vui và Ngài luôn chèo thuyền từ để cứu vớt những chúng sanh đang bị chìm đắm trong biển trần khổ não.

BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (Prajnaparamitahridaya Sutra) là một trong các kinh căn bản và phổ thông của Phật Giáo Đại Thừa. Bài kinh nầy là một trong các bài kinh của bộ Bát Nhã kết tập tại Ấn Độ qua bảy thế kỷ, từ năm 100 T.C.N. đến 600 C.N. Khi được truyền sang Trung Hoa, Tâm Kinh đã được nhiều vị cao tăng chuyển dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Hán: Trong các bản dịch nầy, bản dịch của ngài Huyền Trang là phổ thông nhất.

Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị. Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức. Vô nhãn, nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới. Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận.Vô khổ, tập, diệt, đạo. Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố.

Bồ đề tát đõa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn. Tam thế chư Phật, y Bát nhã Ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề. Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư. Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết:

Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.

BẢN DỊCH 

Ngài Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực hành thâm sâu về trí tuệ Bát Nhã Ba la mật, thì soi thấy năm uẩn đều là không, do đó vượt qua mọi khổ đau ách nạn. Nầy Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc, sắc chính là không, không chính là sắc, thọ tưởng hành thức cũng đều như thế. Nầy Xá Lợi Tử, tướng không của các pháp ấy chẳng sinh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt. Cho nên trong cái không đó, nó không có sắc, không thọ tưởng hành thức. Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý. Không có sắc, thanh, hương vị, xúc pháp. Không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới. Không có vô minh, mà cũng không có hết vô minh. Không có già chết, mà cũng không có hết già chết. Không có khổ, tập, diệt, đạo. Không có trí cũng không có đắc, vì không có sở đắc.

Khi vị Bồ Tát nương tựa vào trí tuệ Bát Nhã nầy thì tâm không còn chướng ngại, vì tâm không chướng ngại nên không còn sợ hãi, xa lìa được cái điên đảo mộng tưởng, đạt cứu cánh Niết Bàn. Các vị Phật ba đời vì nương theo trí tuệ Bát Nhã nầy mà đắc quả vô thượng, chánh đẳng chánh giác. Cho nên phải biết rằng Bát nhã Ba la mật đa là đại thần chú, là đại minh chú, là chú vô thượng, là chú cao cấp nhất, luôn trừ các khổ não, chân thật không hư dối. Cho nên khi nói đến Bát nhã Ba la mật đa, tức là phải nói câu chú:

Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. (Qua rồi qua rồi, qua bên kia rồi, tất cả qua bên kia rồi, giác ngộ rồi đó!)

 

ĐẠI BI NGUYỆN

TRƯỚC KHI TỤNG CHÚ ĐẠI BI THÌ TRƯỚC TIÊN
CẦN PHẢI KIỀN THÀNH CUNG KÍNH PHÁT
NHỮNG ĐẠI NGUYỆN SAU ĐÂY:

DỊCH ÂM

Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nguyện ngã tốc tri nhứt thiết pháp
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nguyện ngã tảo đắc trí huệ nhãn
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nguyện ngã tốc độ nhất thiết chúng
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nguyện ngã tảo đắc thiện phương tiện
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nguyện ngã tốc thừa bát nhã thuyền
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nguyện ngã tảo đắc việt khổ hải
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nguyện ngã tốc đắc giới định đạo
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nguyện ngã tảo đăng niết bàn sơn
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nguyện ngã tốc hội vô vi xá
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nguyện ngã tảo đồng pháp tánh thân.

Ngã nhược hướng đao sơn, đao sơn tự tồi chiếc
Ngã nhược hướng địa ngục, địa ngục tự tiêu diệt
Ngã nhược hướng hỏa thang, hỏa thang tự khô kiệt
Ngã nhược hướng ngạ quỷ, ngạ quỷ tự bảo mãn
Ngã nhược hướng Tu la, ác tâm tự điều phục
Ngã nhược hướng súc sanh, tức đắc đại trí huệ.

DỊCH NGHĨA

Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nguyện con mau biết tất cả Pháp
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nguyện con sớm được mắt trí huệ
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nguyện con mau độ cả chúng sanh
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nguyện con sớm được phương tiện khéo
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nguyện con mau lên thuyền Bát nhã
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nguyện con sớm được qua biển khổ
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nguyện con mau được đạo giới định
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nguyện con sớm lên non Niết bàn
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nguyện con mau về nhà vô vi
Nam Mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nguyện con sớm đồng thân pháp tánh.

Nếu con hướng về nơi non đao, non đao tức thời liền sụp đổ.
Nếu con hướng về địa ngục, địa ngục liền tự mau tiêu tan.
Nếu con hướng về lửa nước sôi, nước sôi lửa cháy tự khô tắt.
Nếu con hướng về ngạ quỷ, ngạ quỷ liền được tự no đủ.
Nếu con hướng về chúng Tu la, Tu la tâm ác tự điều phục.
Nếu con hướng về các súc sanh, súc sanh tự được trí huệ lớn.

 

CHÚ ĐẠI BI
THIÊN THỦ THIÊN NHÃN VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ĐÀ LA NI

Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ Đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da. Bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị, ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đa (Na ma bà tát đa). Na ma bà dà. Ma phạt đạt đậu đát điệt tha. Án. A bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Cu lô cu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê. Thất na thất na. A Ra sâm Phật ra xá lợi. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ Đề dạ Bồ Đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na. Ta bà ha. Tất đà dạ. Ta bà ha. Ma ha tất đà dạ. Ta bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ. Ta bà ha. Na ra cẩn trì. Ta bà ha. Ma ra na ra. Ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da. Ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ. Ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ. Ta bà ha. Ba đà ma kiết tất đà dạ. Ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ. Ta bà ha. Ma bà rị thắng yết ra dạ. Ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô kiết đế. Thước bàn ra dạ. Ta bà ha. Án. Tất điện đô. Mạn đà ra. Bạt đà gia. Ta bà ha.

PHẠN ÂM (SANSKRIT)

Namah Ratnatrayaya. Namo Arya-VaLokitesvaraya. Bodhisattvaya. Mahasattvaya. Mahakaruniakaya. Om. Sarva Rabhaye. Sudhanadasya. Namo Skrtva i Mom Arya-Valokitesvara Ramdhava. Namo Narakindi. Her-imaha Vadhasame. Sarva Atha. Dusubhum. Ajeyam. Sarva Sadha. (Nama vasatva). Namo Vaga. Mavadudhu. Tadyatha. Om. Avaloki. Lokate. Karate. Ehre. Mahabodhisattva. Sarva Sarva. Mala Mala. Mahe Mahredhayam. Kuru Kuru Karmam. Dhuru Dhuru Vajayate. Maha Vajayate. Dhara Dhara. Dhirini. Svaraya. Cala Cala. Mamavamara. Muktele. Ehe Ehe. Cinda Cinda. Arsam Pracali. Vasa Vasam. Prasaya. Huru Huru Mara. Huru Huru Hri. Sara Sara. Siri Siri. Suru Suru. Bodhiya Bodhiya. Bodhaya Bodhaya. Maitriya. Narakindi. Dharsinina. Payamana. Sva-ha. Siddhaya. Svaha. Maha Siddhaya. Svaha. Siddhayoge. Svaraya. Svaha. Narakindi. Svaha. Maranara. Svaha. Sirasam Amukhaya. Svaha. Sarva Maha Asiddhaya. Svaha. Cakra Asiddhaya. Svaha. Padmakastaya. Svaha. Narakindi Vagaraya. Svaha. Mavari Samkraya. Svaha. Namah Ratnatrayaya. Namo Arya Valokites-Varaya. Svaha. Om. Siddhyantu. Mantra. Padaya. Svaha.

BẠCH Y THẦN CHÚ

Nam mô Đại từ Đại bi Cứu khổ cứu nạn Quảng Đại Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần, 3 lạy)

Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng. Nam mô Cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát. Đát chỉ đá, án dà la phạt đá, dà la phạt đá, dà ha phạt đá, la dà phạt đá, la dà phạt đá, soa ha, thiên la thần, địa la thần, nhân ly nạn, nạn ly thân, nhất thiết tai ương hóa vi trần. (3 lần)

Nam mô ma ha bát nhã ba la mật đa.

QUÁN ÂM THẬP CỬU KINH

Quán Thế Âm,
Nam Mô Phật,
Dữ Phật hữu nhơn,
Dữ Phật hữu duyên,
Phật pháp tăng diên
Thường lạc ngã tịnh
Triêu niệm Quán Âm
Mộ niệm Quán Âm
Niệm niệm tùng tâm khởi
Niệm niệm bất ly tâm.