KINH HOA NGHIÊM ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

QUYỂN SÁU MƯƠI TÁM

PHẨM VÀO PHÁP GIỚI THỨ BA MƯƠI CHÍN PHẦN CHÍN

 

25. NGƯỜI NỮ BÀ TU MẬT ĐA PHÓ THÁC THỨ NĂM HỒI HƯỚNG VÔ TẬN CÔNG ĐỨC TẠNG

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử được đại trí quang minh chiếu soi khai mở tâm, suy gẫm quán sát thấy tánh các pháp. Đắc được môn Đà la ni Biết rõ tất cả lời nói âm thanh. Đắc được môn Đà la ni Thọ trì tất cả pháp luân. Đắc được sức đại bi làm chỗ quy y của tất cả chúng sinh. Đắc được môn quang minh quán sát nghĩa lý tất cả các pháp. Đắc được nguyện thanh tịnh đầy khắp pháp giới. Đắc được trí huệ quang minh chiếu khắp tất cả pháp mười phương. Đắc được sức tự tại khắp trang nghiêm tất cả thế giới. Đắc được nguyện viên mãn khắp phát khởi tất cả Bồ Tát nghiệp.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử được đại trí huệ quang minh của Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân chiếu soi đến mà khai mở tâm, Ngài suy gẫm quán sát thấy được thật tánh của tất cả các pháp. Đắc được môn Đà la ni Biết rõ tất cả lời nói âm thanh. Đắc được môn Đà la ni Thọ trì tất cả pháp luân. Đắc được sức đại bi làm chỗ quy y của tất cả chúng sinh. Đắc được môn quang minh quán sát nghĩa lý tất cả các pháp. Đắc được nguyện thanh tịnh đầy khắp pháp giới. Đắc được trí huệ quang minh chiếu khắp tất cả pháp mười phương. Đắc được sức tự tại khắp trang nghiêm tất cả thế giới. Đắc được nguyện viên mãn khắp phát khởi tất cả Bồ Tát nghiệp.

Thiện Tài từ từ đi du hành, đến thành Bảo Trang Nghiêm, nước Hiểm Nạn, bèn đi khắp nơi tìm cầu người nữ Bà Tu Mật Đa.

Thiện Tài đồng tử từ từ đi du hành về hướng nam, đến thành Bảo Trang Nghiêm, nước Hiểm Nạn rồi, bèn đi khắp nơi tìm cầu người nữ Bà Tu Mật Đa.

Đây là phó thác thứ năm hồi hướng vô tận công đức tạng. Thiện tri thức tên là Bà Tu Mật Đa, dịch là “Thế hữu”, hoặc là “Thiên hữu”. Biểu thị Ngài tuỳ thuận thế sự trời người, mà phương tiện giáo hoá. Nước tên là Hiểm Nạn, biểu thị nghịch hạnh phi đạo, bậc dưới không thể làm được. Thành tên là Bảo Trang Nghiêm, biểu thị nghịch tuỳ thế hành, sinh ra vô tận công đức tạng.

Có người trong thành đó, không biết công đức trí huệ của người nữ đó, bèn nghĩ như vầy: Nay đồng tử nầy các căn tịch tĩnh, trí huệ sáng suốt, không mê, không loạn, nhìn rõ một tầm, không lười mỏi, không chấp trước, mắt nhìn không nháy, tâm không giao động, thâm sâu rộng lớn như biển cả. Không nên có tâm tham ái, tâm điên đảo, sinh tưởng tịnh, sinh tưởng dục, đối với người nữ Bà Tu Mật Đa nầy, không nên bị sắc người nữ nầy nhiếp thọ. Đồng tử nầy, chẳng tu hạnh ma, chẳng vào cảnh giới ma, chẳng bị chìm bùn ái dục, chẳng bị ma trói buộc, chỗ không nên làm đã có thể không làm, sao có ý gì mà tìm người nữ nầy?

Có người ở trong thành đó, không biết công đức trí huệ của người nữ Bà Tu Mật Đa đó, cho nên họ nghĩ như vầy: “Nay vị đồng tử nầy, xem ra rất là chân thật, các căn đều tịch tĩnh, trí huệ rất thông minh sáng suốt, không mê hoặc, không cuồng loạn, mắt có thể quán sát nhìn rõ một tầm, cũng không lười mỏi giải đãi, không có sự chấp trước, mắt nhìn không nháy, tâm không bị vật bên ngoài làm giao động, trí huệ rất là thâm sâu rộng lớn như biển cả. Không nên có tâm tham ái người nữ Bà Tu Mật Đa nầy, hoặc có tư tưởng điên đảo, nên sinh tư tưởng thanh tịnh, đừng sinh vọng tưởng dục niệm, đối với người nữ Bà Tu Mật Đa nầy, không nên bị sắc người nữ nầy nhiếp trì. Vị đồng tử nầy, nhất định chẳng tu hành hạnh của ma tu, cho nên không có ý niệm dâm dục, chẳng vào cảnh giới ma, chẳng bị chìm trong bùn lầy ái dục, chẳng bị quyến thuộc của ma trói buộc, không nên đến đây tìm người nữ nầy, đã có thể không làm việc dâm dục, vậy đến đây tìm người nữ Bà Tu Mật Đa nầy, có ý nghĩa gì”? Những người nầy đều hoài nghi, nên nói như thế. Đây là biểu thị kiến thức nông cạn mà hoài nghi, nên nghịch hạnh khó biết được.

Trong thành đó, có người trước đã biết người nữ nầy có trí huệ, bảo Thiện Tài rằng: Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Nay ngươi có thể đi tìm cầu người nữ Bà Tu Mật Đa nầy, là ngươi đã đắc được lợi lành rộng lớn.

Thiện nam tử! Ngươi nên quyết định cầu quả vị Phật, quyết định muốn làm chỗ nương tựa của tất cả chúng sinh, quyết định muốn nhổ mũi tên độc tham ái của tất cả chúng sinh, quyết định muốn phá tan hết thảy tịnh tưởng trong nữ sắc của tất cả chúng sinh.

Nhưng ở trong thành đó, có người trước đã biết người nữ nầy có đại trí huệ, là một vị Thánh nhân. Những người đó bảo Thiện Tài đồng tử rằng: “Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Nay ngươi có thể đi tìm cầu người nữ Bà Tu Mật Đa nầy, là ngươi đã đắc được lợi lành rộng lớn.

Thiện nam tử! Ngươi nên quyết định cầu quả vị Phật, quyết định muốn làm chỗ nương tựa của tất cả chúng sinh, quyết định muốn nhổ mũi tên độc tham ái của tất cả chúng sinh, quyết định muốn phá tan hết thảy tư tưởng tịnh về sắc đẹp nữ giới của tất cả chúng sinh. Chúng sinh điên đảo vô minh, cho rằng sắc đẹp là một vật thanh tịnh thù thắng, đây cũng như đem đồng nát luyện muốn thành vàng, họ nhiễm khổ làm vui, mà chẳng biết tham cầu sắc đẹp sẽ dẫn đến đoạ lạc vào vực sâu thống khổ. Ngươi nên trợ giúp họ nhìn thấu buông bỏ, xa lìa ái dục, trở về nguồn cội”.

Thiện nam tử! Người nữ Bà Tu Mật Đa đang ở trong nhà của cô ta, phía bắc chợ trong thành nầy. 

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử nghe lời đó rồi, hoan hỉ vui mừng, bèn đi đến nhà của cô ta.

“Thiện nam tử! Người nữ Bà Tu Mật Đa đang ở trong  nhà của cô ta, phía bắc chợ trong thành nầy”.

Chợ là biểu thị sự ồn ào phức tạp, phía bắc là chủ đối với diệt, nhà tức là rốt ráo không tịch. Biểu thị dục hạnh của người nữ Bà Tu Mật Đa nầy, nơi ồn ào thường vắng lặng, nên ở phía bắc của chợ. Đây là Bồ Tát đại quyền thị hiện, dùng trí huệ và từ bi thâm sâu rộng lớn, dùng pháp môn phương tiện khéo léo để giáo hoá chúng sinh, khiến cho họ bỏ trần hợp giác.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nghe lời đó rồi, rất hoan hỉ vui mừng, lập tức đi đến nhà của người nữ Bà Tu Mật Đa.

Thiện Tài thấy nhà của người nữ Bà Tu Mật Đa, rộng lớn nghiêm đẹp. Tường báu, cây báu, hào báu, mỗi thứ đều bao quanh mười lớp. Trong hào báu đó, có nước thơm tràn đầy, cát vàng rải mặt đất. Có các hoa báu của chư Thiên, hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen vàng, hoa sen trắng, đều phủ khắp trên mặt nước. Cung điện và lầu các, rải rát các nơi, cửa lớn cửa sổ đều nối nhau thẳng hàng, đều treo lưới báu và treo lạc báu, nơi nơi đều treo tràng phan, vô lượng thứ trân kỳ, dùng để nghiêm sức. Lưu ly làm đất, xen lẫn các báu. Đốt hương trầm thuỷ, thoa hương chiên đàn, treo các linh báu, gió động thành tiếng. Lại rải các hoa trời đầy khắp mặt đất, có đủ thứ nghiêm đẹp, không thể tả được. Các trân bảo tạng, số lượng trăm ngàn. Mười vườn rừng lớn dùng để trang nghiêm.

Thiện Tài đồng tử thấy nhà của người nữ Bà Tu Mật Đa, rất rộng lớn trang nghiêm đẹp đẽ. Mỗi thứ tường báu, cây báu, hào báu, bốn phía đều bao quanh mười lớp. Trong hào báu đó, nước thơm tràn đầy, cát vàng rải dưới đáy ao. Có các hoa báu của chư Thiên, hoa sen xanh (ưu bát la), hoa sen hồng (ba đầu ma), hoa sen vàng (câu vật đầu), hoa sen trắng (phân đà lợi), đều phủ khắp trên mặt nước. Cung điện lầu cát, rải rát các nơi, cửa lớn cửa sổ nối nhau thẳng hàng rất đẹp, đều treo lưới báu và treo lạc báu, nơi nơi đều treo tràng phan, có vô lượng thứ trân kỳ, dùng để nghiêm sức. Lưu ly làm đất, xen lẫn các báu. Lại đốt hương trầm thuỷ, thoa hương chiên đàn, treo các linh báu, gió động thành tiếng, vang lên âm nhạc. Lại rải các hoa trời đầy khắp mặt đất, đủ thứ nghiêm đẹp, không thể tả hết được. Các trân bảo tạng, số lượng nhiều hàng trăm ngàn. Có mười vườn rừng lớn dùng để trang nghiêm. Đây là biểu thị công đức đầy đủ của người nữ Bà Tu Mật Đa, nên hiển bày sự trang nghiêm tốt đẹp.

Bấy giờ, Thiện Tài thấy người nữ đó, dung mạo đoan nghiêm, sắc tướng viên mãn, da màu vàng ròng. Mắt và tóc xanh biếc, không dài, không ngắn, không thô, không tế. Trời người cõi dục, không ai sánh bằng. Âm thanh hay đẹp, hơn các Phạm Thiên. Tất cả chúng sinh, tiếng nói khác nhau, thảy đều hiểu rõ đầy đủ, thông đạt chữ nghĩa thâm sâu, luận nói khéo léo. Đắc được trí như huyễn, vào môn phương tiện. Các chuỗi báu và các đồ nghiêm sức, dùng trang nghiêm thân. Như ý ma ni, dùng làm mão báu, để đội trên đầu. Lại có vô lượng quyến thuộc vây quanh, đều cùng căn lành, đồng một hạnh nguyện. Phước đức đại tạng, đầy đủ vô tận.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử thấy người nữ Bà Tu Mật Đa, dung mạo rất đoan nghiêm đẹp đẽ, sắc tướng viên mãn, da màu vàng ròng. Mắt và tóc xanh biếc, không dài, không ngắn, không thô, không tế. Trời và người trong cõi dục, không ai sánh bằng. Âm thanh của cô ta hay đẹp, một khi chúng sinh nghe được âm thanh của cô ta, thì liền phát bồ đề tâm. Âm thanh của cô ta thậm chí còn hơn âm thanh của tất cả Phạm Thiên. Tất cả chúng sinh, đủ thứ tiếng nói khác nhau, cô ta thảy đều hoàn toàn đầy đủ, thảy đều thông đạt hiểu rõ. Cô ta minh bạch thấu đạt chữ nghĩa thâm sâu, học vấn uyên bác viên mãn. Cô ta khéo luận đàm, nghệ thuật diễn nói rất khéo léo. Cô ta đắc được trí huệ như huyễn, vào pháp môn phương tiện. Có các chuỗi báu và các đồ nghiêm sức, để trang nghiêm thân cô ta. Như ý ma ni, dùng làm mão báu, để đội trên đầu của cô ta. Lại có vô lượng quyến thuộc vây quanh cô ta, họ đều cùng trồng căn lành, đồng phát một hạnh nguyện. Họ đều đầy đủ phước đức đại bảo tạng vô tận.

Bấy giờ, từ trong thân của người nữ Bà Tu Mật Đa, phóng ra quang minh rộng lớn, chiếu khắp tất cả cung điện trong nhà. Ai gặp được quang minh đó, thì thân được mát mẻ. 

Bấy giờ, Thiện Tài đi đến trước mặt người nữ Bà Tu Mật Đa đảnh lễ, đứng chắp tay mà bạch rằng: Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo ? Con nghe đức Thánh khéo chỉ dạy, xin hãy vì con mà nói.

Lúc đó, từ trong thân của người nữ Bà Tu Mật Đa phóng ra quang minh rộng lớn, chiếu khắp tất cả cung điện trong nhà. Phàm là ai gặp được quang minh đó, thì thân được mát mẻ thư thái.

Lúc đó, Thiện Tài đi đồng tử đi đến trước mặt người nữ Bà Tu Mật Đa đảnh lễ, sau đó đứng chắp tay bạch rằng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Con nghe Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân giới thiệu Ngài cho con, nói đức Thánh Ngài khéo chỉ dạy tất cả chúng sinh, xin hãy vì con mà diễn nói”.

Người nữ Bà Tu Mật Đa bảo rằng: Thiện nam tử! Ta đắc được giải thoát Bồ Tát, tên là Lìa bờ mé tham dục. Tuỳ sự ưa muốn của họ, mà ta vì họ hiện thân. Nếu người trời thấy ta, thì ta làm Thiên nữ, hình tướng quang minh, thù thắng không ai sánh bằng. Như vậy cho đến người, chẳng phải người, mà thấy ta, thì ta lập tức vì họ hiện thân người, chẳng phải người, tuỳ sự ưa muốn của họ, đều khiến cho họ được thấy.

Người nữ Bà Tu Mật Đa liền bảo Thiện Tài đồng tử rằng: “Thiện nam tử! Ta đắc được giải thoát Bồ Tát, tên là Lìa bờ mé tham dục”. Lìa bờ mé tham dục, phàm phu nhiễm dục. Nhị thừa thấy dục có thể lìa. Bồ Tát chẳng đoạn tham dục, mà được giải thoát. Trí rõ tánh không, giác ngộ rõ dục tức là đạo. Giống như nhiễm mà chẳng nhiễm, mới là rốt ráo lìa bờ mé tham dục.

Người nữ Bà Tu Mật Đa lại nói: “Ta tuỳ thuận sự ưa muốn của chúng sinh, mà ta vì họ hiện thân. Nếu người trời thấy ta, thì ta thị hiện làm Thiên nữ, hình tướng dung mạo rất quang minh, thù thắng không ai sánh bằng. Như vậy cho đến người, chẳng phải người, mà thấy ta, thì ta lập tức vì họ hiện thân người, chẳng phải người, tuỳ thuận sự ưa muốn của họ, đều khiến cho họ được thấy”.

Nếu có chúng sinh, ý dục ràng buộc, đi đến chỗ ta, thì ta vì họ nói pháp. Họ nghe pháp rồi, liền lìa tham dục, đắc được tam muội cảnh giới Bồ Tát không chấp trước. Nếu có chúng sinh, tạm thấy được ta, thì liền lìa tham dục, đắc được tam muội Bồ Tát hoan hỉ. Nếu có chúng sinh, tạm nói chuyện với ta, thì liền lìa tham dục, đắc được tam muội âm thanh Bồ Tát vô ngại. Nếu có chúng sinh, tạm cầm tay ta, thì liền lìa tham dục, đắc được tam muội Bồ Tát đến khắp tất cả cõi Phật. Nếu có chúng sinh, tạm lên toà ngồi của ta, thì liền lìa tham dục, đắc được tam muội Bồ Tát giải thoát quang minh. Nếu có chúng sinh, tạm nhìn ta, thì liền lìa tham dục, đắc được tam muội Bồ Tát tịch tĩnh trang nghiêm. Nếu có chúng sinh, thấy thân ta, thì liền lìa tham dục, đắc được tam muội Bồ Tát hàng phục ngoại đạo. Nếu có chúng sinh, thấy mắt ta nháy, thì liền lìa tham dục, đắc được tam muội Bồ Tát Phật cảnh giới quang minh. Nếu có chúng sinh, ôm giữ ta, thì liền lìa tham dục, đắc được tam muội Bồ Tát nhiếp thọ tất cả chúng sinh luôn không xả lìa. Nếu có chúng sinh, hôn môi ta, thì liền lìa tham dục, đắc được tam muội Bồ Tát tăng trưởng tất cả chúng sinh phước đức tạng. Phàm có chúng sinh nào, gần gũi ta, thì tất cả đều trụ được lìa bờ mé tham dục, nhập vào bậc Bồ Tát nhất thiết trí, hiện tiền giải thoát vô ngại.

Nếu có chúng sinh, vì ý niệm dâm dục ràng buộc, đi đến chỗ đạo tràng của ta, thì ta vì họ nói pháp. Họ nghe pháp rồi, thì liền lìa khỏi tâm tham và dục niệm, đắc được tam muội cảnh giới Bồ Tát không chấp trước. Nếu có chúng sinh, tạm thời thấy được ta, thì liền lìa khỏi tâm tham và dục niệm, đắc được tam muội Bồ Tát hoan hỉ. Nếu có chúng sinh, tạm thời nói chuyện với ta, thì liền lìa khỏi tâm tham và dục niệm, đắc được tam muội âm thanh Bồ Tát vô ngại. Nếu có chúng sinh, tạm thời cầm tay ta, thì liền lìa khỏi tâm tham và dục niệm, đắc được tam muội Bồ Tát đến khắp tất cả cõi Phật. Nếu có chúng sinh, tạm thời lên toà ngồi của ta, thì liền lìa khỏi tâm tham và dục niệm, đắc được tam muội Bồ Tát giải thoát quang minh. Nếu có chúng sinh, tạm thời nhìn ta, thì liền lìa khỏi tâm tham và dục niệm, đắc được tam muội Bồ Tát tịch tĩnh trang nghiêm. Nếu có chúng sinh, thấy thân ta, thì liền lìa khỏi tâm tham và dục niệm, đắc được tam muội Bồ Tát hàng phục ngoại đạo. Nếu có chúng sinh, thấy mắt ta nháy, thì liền lìa khỏi tâm tham dục niệm, đắc được tam muội Bồ Tát Phật cảnh giới quang minh. Nếu có chúng sinh, ôm giữ ta, thì liền lìa khỏi tâm tham và dục niệm, đắc được tam muội Bồ Tát nhiếp thọ tất cả chúng sinh luôn không xả lìa”.

Cho nên cùng một sự việc, mà bậc Thánh nhân làm thì lìa khỏi tham dục, còn phàm phu đối với tình hình như vậy thì sinh ra tham dục. Cùng một người mà bậc Thánh nhân và phàm phu khác nhau. Cho nên người nữ Bà Tu Mật Đa tuy là người nữ, nhưng bất cứ là người nam, hoặc là người nữ nào, ôm giữ cô ta, thì chẳng những không còn tham dục, mà ngược lại đoạn dục.

Cô ta nói tiếp: “Nếu có chúng sinh, hôn môi ta, thì liền lìa khỏi tham dục, đắc được tam muội Bồ Tát tăng trưởng tất cả chúng sinh phước đức tạng. Phàm có chúng sinh nào, gần gũi ta, thì tất cả đều trụ được lìa khỏi bờ mé tham dục, nhập vào bậc Bồ Tát nhất thiết trí, hiện tiền giải thoát vô ngại”.

Thiện Tài bạch rằng: Đức Thánh! Ngài trồng căn lành gì, tu phước nghiệp gì, mà được thành tựu tự tại như vậy? 

Đáp rằng: Thiện nam tử! Ta nhớ quá khứ có đức Phật ra đời, hiệu là Cao Hạnh. Thành vương đô đó tên là Diệu Môn. 

Thiện nam tử! Đức Như Lai Cao Hạnh đó, thương xót chúng sinh, đi vào thành vua, đạp lên cổng thành, thì tất cả trong thành đó thảy đều chấn động, hốt nhiên rộng lớn, các báu trang nghiêm, vô lượng quang minh, chiếu thấu triệt lẫn nhau. Đủ thứ hoa báu, rải khắp mặt đất. Âm nhạc của chư Thiên đồng thời đều tấu lên, tất cả chư Thiên đầy khắp hư không. 

Thiện nam tử! Lúc đó ta là vợ của ông trưởng giả, tên là Thiện Huệ. Ta thấy thần lực của đức Phật, bèn sinh tâm giác ngộ, liền cùng với chồng đi đến chỗ đức Phật, đem một đồng tiền báu dâng lên cúng dường đức Phật. Lúc đó, Văn Thù Sư Lợi đồng tử làm thị giả cho đức Phật đó, vì ta nói pháp, khiến cho ta phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Thiện Tài đồng tử hỏi: “Bạch đức Thánh! Ngài trồng căn lành gì, tu phước nghiệp gì, mà được thành tựu tự tại như vậy”?

Người nữ Bà Tu Mật Đa đáp rằng: “Thiện nam tử! Ta nhớ quá khứ có đức Phật ra đời, hiệu là Phật Cao Hạnh. Thành vương đô đó tên là Diệu Môn.

Thiện nam tử! Đức Như Lai Cao Hạnh đó, vì thương xót tất cả chúng sinh, mà đi vào thành vua, khi chân đức Phật đạp lên cổng thành Diệu Môn, thì tất cả trong thành đó thảy đều chấn động, hốt nhiên biến thành rộng lớn vô cùng. Có các thứ báu trang nghiêm thành Diệu Môn đó, vô lượng quang minh, chiếu thấu triệt lẫn nhau. Đủ thứ hoa báu, rải khắp mặt đất. Âm nhạc của chư Thiên đồng thời đều tấu lên, tất cả chư Thiên đầy khắp hư không.

Thiện nam tử! Lúc đó ta là vợ của ông trưởng giả giàu có, tên là Thiện Huệ. Ta thấy thần lực của đức Phật không thể nghĩ bàn như thế, bèn sinh tâm giác ngộ, mà xa lìa tham dục. Ta liền cùng với chồng của ta đi đến đạo tràng của đức Phật, đem một đồng tiền báu dâng lên cúng dường đức Phật. Lúc đó, Văn Thù Sư Lợi đồng tử làm thị giả cho đức Phật đó, vì ta nói pháp, khiến cho ta phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề”.

Chỗ nầy bố thí tiền báu có 2 ý nghĩa:

1. Một báu mà xả được, nên được lìa tham.
2. Một tiền tuy ít, nhưng dùng tâm bồ đề, nên thành tựu tự tại như vậy.

Trong Kinh Duy Ma Cật, phẩm Phật Đạo thứ tám có nói rằng: “Bồ Tát thị hiện hành tham dục, lìa các nhiễm trước .v.v… Thị hiện có thê thiếp thể nữ, mà thường xa lìa năm dục bùn lầy”. Lại nói: “Thị hiện thọ nơi năm dục, cũng lại hiện hành thiền, khiến ma tâm rối loạn, không thể được tuỳ tiện. Trong lửa sinh hoa sen, có thể là hi hữu. Tại dục mà hành thiền, hi hữu cũng như vậy. Hoặc hiện làm dâm nữ, dụ các người háo sắc, trước hết dùng câu dục móc, sau khiến vào Phật trí”. Người nữ Bà Tu Mật Đa đối với lửa dâm dục, mà chẳng động tâm, như hoa sen sinh trong bùn mà chẳng nhiễm bùn. Đây là Bồ Tát đại quyền thị hiện, dùng pháp môn phương tiện khéo léo “Lấy độc trị độc”, để dẫn dắt chúng sinh hướng về đạo giác ngộ.

Thiện nam tử! Ta chỉ biết giải thoát Bồ Tát lìa bờ mé tham nầy. Như các đại Bồ Tát thành tựu vô biên trí thiện xảo phương tiện, tạng rộng lớn, cảnh giới không gì sánh bằng, mà ta làm sao biết được, nói được, hạnh công đức đó ?

Thiện nam tử! Ta chỉ biết môn giải thoát Bồ Tát lìa bờ mé tham nầy. Như các đại Bồ Tát thành tựu vô biên trí huệ thiện xảo phương tiện, bảo tạng rộng lớn của các Ngài, cảnh giới các Ngài biết được không gì sánh bằng, mà ta làm sao biết được, nói được hạnh công đức đó? Ngươi hãy đi về hướng nam tìm cầu vị thiện tri thức khác.

Thiện nam tử! Ở hướng nam nầy, có thành tên là Thiện Độ. Trong đó có cư sĩ tên là Tỳ Sắc Chi La, vị đó thường cúng dường chiên đàn toà tháp Phật. Ngươi đi đến đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo? 

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ người nữ Bà Tu Mật Đa, rồi đi nhiễu quanh vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng, rồi từ tạ mà đi.

Thiện nam tử! Ở hướng nam nầy, có thành thị tên là Thiện Độ. Trong thành đó có vị cư sĩ tên là Tỳ Sắc Chi La, vị đó thường cúng dường chiên đàn toà tháp Phật. Ngươi hãy đi đến đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Ngài sẽ vì ngươi mà nói”.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ người nữ Bà Tu Mật Đa, rồi đi nhiễu quanh vô lượng vòng, sau đó ân cần chiêm ngưỡng vị thiện tri thức, rồi từ tạ mà đi về hướng nam tìm cầu vị thiện tri thức khác.

 

26. CƯ SĨ TỲ SẮC CHI LA PHÓ THÁC THỨ SÁU HỒI HƯỚNG VÀO TẤT CẢ CĂN LÀNH BÌNH ĐẲNG

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử từ từ đi du hành, đến thành Thiện Độ, bèn đi đến nhà cư sĩ Tỳ Sắc Chi La, đảnh lễ vị đó rồi, đứng chắp tay mà bạch rằng: Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Con nghe đức Thánh khéo dạy dỗ, xin hãy vì con mà nói.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử từ từ đi du hành về hướng nam, đến thành Thiện Độ, bèn đi đến nhà cư sĩ Tỳ Sắc Chi La, đảnh lễ vị cư sĩ đó rồi, đứng chắp tay mà bạch rằng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đắng Chánh Giác, mà con chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Con nghe người nữ Bà Tu Mật Đa giới thiệu nói đức Thánh Ngài khéo dạy dỗ tất cả chúng sinh, xin hãy vì con mà nói.

Đây là hồi hướng vào tất cả căn lành bình đẳng thứ sáu. Thiện tri thức tên là Tỳ Sắc Chi La, dịch ra là “mặc khoả”, nghĩa là biểu thị bao nhiếp, tức là chỉ những gì Ngài cúng dường trong tháp, bao nhiếp tất cả Phật. Hoặc là nhiếp vào, nhiếp các căn lành, vào bình đẳng. Thành thị Thiện Độ, biểu thị không có một căn lành mà không độ đến rốt ráo bờ bên kia. Thường cúng dường tháp Phật, là căn lành tối thắng.

Cư sĩ bảo rằng: Thiện nam tử! Ta đắc được Bồ Tát giải thoát tên là Chẳng vào bờ mé Niết Bàn. 

Thiện nam tử! Ta chẳng sinh tâm nói, Như Lai đã vào Niết Bàn như vậy. Như Lai hiện vào Niết Bàn như vậy. Như Lai sẽ vào Niết Bàn như vậy. Ta biết chư Phật Như Lai mười phương tất cả thế giới, rốt ráo không có vào Niết Bàn, chỉ trừ vì muốn điều phục chúng sinh mà thị hiện.

Cư sĩ Tỳ Sắc Chi La bảo Thiện Tài đồng tử rằng: “Thiện nam tử! Ta được Bồ Tát giải thoát tên là Chẳng vào bờ mé Niết Bàn”. Tức là rốt ráo các Như Lai chẳng vào bờ mé Niết Bàn. Cho nên trong Phẩm Xuất Hiện có nói rằng: “Như thật tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy”.

Cư sĩ Tỳ Sắc Chi La lại nói tiếp: “Thiện nam tử! Ta chẳng sinh tâm niệm nói: Như Lai đã vào Niết Bàn như vậy. Như Lai hiện tại vào Niết Bàn như vậy. Như Lai tương lai sẽ vào Niết Bàn như vậy. Vì ta biết chư Phật Như Lai mười phương tất cả thế giới, rốt ráo không có vào Niết Bàn, Phật luôn luôn tại thế gian, chỉ trừ vì muốn điều phục chúng sinh mà thị hiện vào Niết Bàn”. Tâm của vị cư sĩ nầy, là trên khế với thật tế, biết Phật thường trụ. Chư Phật muốn giáo hoá chúng sinh, nên thị hiện vào Niết Bàn. Trong Kinh Pháp Hoa Phẩm Như Lai Thọ Lượng có nói rằng: “Nếu Phật ở lâu nơi đời, thì người phước mỏng, chẳng trồng căn lành, bần cùng hạ tiện, tham trước năm dục, nhập vào trong lưới ức tưởng vọng kiến. Nếu thấy Như Lai thường trụ không diệt, thì sẽ khởi kiêu mạn phóng túng, mà lười biếng giải đãi, không thể sinh tâm cung kính, tư tưởng khó gặp”. Cho nên Phật dùng phương tiện nói chư Phật ra đời khó được gặp, khiến cho chúng sinh nghe được, mà sinh tâm khó gặp, tâm nhớ mong hâm mộ, khát ngưỡng đối với Phật, bèn trồng xuống căn lành, cho nên Phật tuy chẳng thật diệt độ, mà nói diệt độ.

Trong Kinh Lăng Già có nói rằng: “Tất cả không Niết Bàn, không có Niết Bàn Phật, không có Phật Niết Bàn, xa lìa giác sở giác. Hoặc có, hoặc không có, cả hai thảy đều lìa. Mâu ni tịch tĩnh quán, đó là xa lìa sinh, đó gọi là chẳng chấp lấy, đời nầy đời sau tịnh”. Trong Kinh Hoa Nghiêm phẩm Kệ Tán trên cung trời Đâu Suất có nói rằng:

“Như Lai chẳng ra đời
Cũng chẳng vào Niết Bàn
Dùng đại nguyện lực xưa
Thị hiện pháp tự tại”.

Thiện nam tử! Khi ta mở cửa tháp chiên đàn toà Như Lai, thì đắc được tam muội tên là Phật chủng vô tận. 

Thiện nam tử! Ta ở trong niệm niệm, vào tam muội nầy, niệm niệm biết được tất cả vô lượng việc thù thắng.

Thiện nam tử! Khi ta mở cửa tháp chiên đàn toà Như Lai, thì đắc được tam muội tên là Phật chủng vô tận. Thiện nam tử! Ta ở trong niệm niệm, nhập vào tam muội Phật chủng vô tận nầy. Trong mỗi một niệm biết được tất cả vô lượng việc thù thắng.

Phật chủng vô tận, đó là Phật chủng từ duyên khởi, Phật duyên lý sinh, thấy lý rõ ràng, nên thấy Phật không diệt, dùng hoá thân Phật tức là thân pháp tánh hằng thường. Trong Kinh Pháp Hoa Phẩm Như Lai Thọ Lượng có nói rằng: “Vì chúng sinh nên phương tiện hiện Niết Bàn, mà thật chẳng diệt độ, thường ở đây nói pháp. Ta thường ở nơi đây, dùng các sức thần thông, khiến cho chúng sinh điên đảo, tuy gần mà chẳng thấy .v.v…. Ta thấy các chúng sinh, chìm nơi khổ não, nên chẳng vì hiện thân, khiến cho họ sinh khát ngưỡng, nhờ sự khát ngưỡng, mới xuất hiện thuyết pháp”.

Thiện Tài bạch rằng: Cảnh giới tam muội nầy như thế nào? 

Cư sĩ đáp rằng: Thiện nam tử! Khi ta vào tam muội nầy, thì tuỳ theo thứ tự, thấy tất cả chư Phật thế giới nầy. Đó là: Phật Ca Diếp, Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, Phật Câu Lưu Tôn, Phật Thi Khí, Phật Tỳ Bà Thi, Phật Đề Xá, Phật Phất Sa, Phật Vô Thượng Thắng, Phật Vô Thượng Liên Hoa, tất cả như vậy mà làm thượng thủ. 

Trong khoảng một niệm, thấy được trăm vị Phật, thấy được ngàn vị Phật, thấy được trăm ngàn vị Phật, thấy được ức vị Phật, thấy được ngàn ức vị Phật, thấy được trăm ngàn ức vị Phật, A giu đa ức vị Phật, Na do tha ức vị Phật, cho đến thấy được các vị Phật, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới. Đều thấy thứ tự tất cả như vậy.

Thiện Tài đồng tử lại hỏi: “Cảnh giới tam muội nầy như thế nào”?

Cư sĩ Tỳ Sắc Chi La đáp rằng: “Thiện nam tử! Khi ta nhập vào tam muội nầy, thì tuỳ theo thứ tự, thấy được tất cả chư Phật thế giới nầy. Đó là: Phật Ca Diếp (ẩm quang), Phật Câu Na Hàm Mâu Ni (kim tịch), Phật Câu Lưu Tôn (đoạn tất cả phiền não), Phật Thi Khí (biến xứ), Phật Tỳ Bà Thi (thắng quán), Phật Đề Xá (hoả), Phật Phất Sa (viên mãn), Phật Vô Thượng Thắng, Phật Vô Thượng Liên Hoa .v.v… tất cả như vậy mà làm thượng thủ. Ta lại ở trong khoảng một niệm, thấy được trăm vị Phật, thấy được ngàn vị Phật, thấy được trăm ngàn vị Phật, thấy được ức vị Phật, thấy được ngàn ức vị Phật, thấy được trăm ngàn ức vị Phật, A giu đa ức vị Phật, Na do tha ức vị Phật, cho đến thấy được các vị Phật nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới. Ta đều thấy được tất cả có thứ tự như vậy”.

Ta cũng thấy các đức Phật đó, lúc ban đầu phát tâm, trồng các căn lành, đắc được thần thông thù thắng, thành tựu đại nguyện, tu hành diệu hạnh, đủ Ba La Mật. Vào Bồ Tát địa, được thanh tịnh nhẫn, hàng phục ma quân, thành Chánh Đẳng Giác. Cõi nước thanh tịnh, chúng hội vây quanh, phóng đại quang minh, chuyển bánh xe pháp, thần thông biến hiện, đủ thứ sự khác biệt. Ta đều thọ trì được, ta đều nhớ được, ta đều quán sát phân biệt hiển bày được. Vị lai đức Phật Di Lặc và tất cả chư Phật, hiện tại đức Phật Tỳ Lô Giá Na và tất cả chư Phật, cũng đều như vậy. Như thế giới nầy, mười phương thế giới hết thảy ba đời tất cả chư Phật, Thanh Văn Duyên Giác, các chúng Bồ Tát, cũng đều như vậy.

Ta cũng thấy được các đức Phật đó, lúc ban đầu phát tâm, gieo trồng các căn lành, đắc được thần thông thù thắng, thành tựu đại nguyện thuở xưa phát ra, tu hành diệu hạnh của Phật tu, đầy đủ Ba La Mật. Vào Bồ Tát địa, đắc được thanh tịnh nhẫn, hàng phục thiên ma ngoại đạo, mà thành tựu Chánh Đẳng Chánh Giác. Cõi nước của các Ngài thanh tịnh, có chúng hội vây quanh, các Ngài phóng đại quang minh, chuyển bánh xe pháp vi diệu, thần thông biến hoá thị hiện, đủ thứ sự khác biệt. Ta đều thọ trì được, ta đều nghĩ nhớ được, ta đều quán sát phân biệt hiển bày được. Vị lai đức Phật Di Lặc và tất cả chư Phật, hiện tại đức Phật Tỳ Lô Giá Na và tất cả chư Phật, cũng đều như vậy. Chẳng những ở thế giới nầy như vậy, mà cho đến mười phương thế giới hết thảy ba đời tất cả chư Phật, Thanh Văn Duyên Giác, các chúng Bồ Tát, cũng đều như vậy.

Thiện nam tử! Ta chỉ đắc được giải thoát Bồ Tát chẳng vào bờ mé Niết Bàn nầy. Như các đại Bồ Tát dùng một niệm trí huệ, biết khắp ba đời. Một niệm vào khắp tất cả tam muội. Mặt trời trí huệ Như Lai luôn chiếu tâm các Ngài. Nơi tất cả pháp không có phân biệt, thấu rõ tất cả chư Phật, thảy đều bình đẳng. Như Lai và ta, tất cả chúng sinh, bình đẳng không hai. Biết tất cả pháp, tự tánh thanh tịnh, không có tư lự, không có động chuyển, mà vào khắp tất cả thế gian. Lìa các phân biệt, trụ Phật pháp ấn, đều có thể khai ngộ, pháp giới chúng sinh. Mà ta làm sao biết được, nói được, những hạnh công đức đó?

Thiện nam tử! Ta chỉ đắc được môn giải thoát Bồ Tát chẳng vào bờ mé Niết Bàn nầy. Như các đại Bồ Tát dùng một niệm trí huệ, biết khắp ba đời, quá khứ, hiện tại, vị lai. Một niệm vào khắp tất cả tam muội. Mặt trời trí huệ của Như Lai luôn chiếu sáng tâm các Ngài. Các Ngài đối với tất cả pháp không có phân biệt, thấu rõ tất cả chư Phật, thảy đều bình đẳng. Như Lai và ta, cùng với tất cả chúng sinh, bình đẳng không hai. Biết tất cả pháp, tự tánh thanh tịnh, không có tư lự, không có động chuyển, mà vào khắp tất cả thế gian. Xa lìa tất cả sự phân biệt, trụ nơi Phật pháp ấn, đều có thể khai ngộ, pháp giới hết thảy chúng sinh. Mà ta làm sao biết được, nói được, những hạnh công đức đó? Ngươi nên đi tìm cầu một vị thiện tri thức khác.

Thiện nam tử! Ở hướng nam nầy, có ngọn núi tên là Bổ Đát Lạc Ca, ở núi đó có vị Bồ Tát hiệu là Quán Tự Tại. Ngươi đi đến đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Tu Bồ Tát đạo? Bèn nói kệ rằng:

Trên biển có núi nhiều Thánh Hiền
Các báu thành tựu rất thanh tịnh
Hoa quả rừng cây đều đầy khắp
Suối chảy ao cong đều đầy đủ.
Trượng phu dũng mãnh Quán Tự Tại
Vì lợi chúng sinh ở núi đó
Ngươi nên đến hỏi các công đức
Vị kia chỉ ngươi đại phương tiện.

Thiện nam tử! Ở hướng nam nầy, có ngọn núi tên là Bổ Đát Lạc Ca, ở núi đó có vị Bồ Tát hiệu là Quán Tự Tại. Ngươi hãy đi đến đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Tu Bồ Tát đạo”? Cư sĩ Bổ Đát Lạc Ca bèn nói kệ rằng:

“Trên biển có ngọn núi Bổ Đát Lạc Ca, ở đó có rất nhiều Thánh Hiền. Ngọn núi đó do các thứ báu thành tựu rất thanh tịnh. Hoa quả rừng cây đều đầy khắp. Suối nước chảy ao cong đều đầy đủ. Trượng phu dũng mãnh Quán Tự Tại, vì lợi ích tất cả chúng sinh mà ở núi đó. Ngươi nên đến hỏi các công đức, vị kia nhất định sẽ chỉ bảo cho ngươi pháp môn đại phương tiện”.

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ vị cư sĩ Tỳ Sắc Chi La, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng, rồi từ tạ mà đi.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ vị cư sĩ Tỳ Sắc Chi La, rồi đi nhiễu quanh vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng vị thiện tri thức, sau đó từ tạ mà đi về hướng nam tìm cầu một vị thiện tri thức khác.

Chúng ta nên biết, người tu đạo và cư sĩ tại gia đều có Thánh nhân. Trong số đó, Thiện Tài đồng tử gặp những vị thiện tri thức, có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, ưu bà tắc, ưu bà di, ngoại đạo, trưởng giả .v.v… biến hoá ra đủ thứ hình tướng, những vị đó đều là pháp thân Đại Sĩ, thị hiện giáo hoá chúng sinh. Cho nên các vị đừng cho rằng vị thiện tri thức nầy là thân cư sĩ, mà khinh thường họ. Giống như cư sĩ Duy Ma Cật, tuy là vị cư sĩ, nhưng trên thật tế, đã chứng được Thánh vị, vị cư sĩ Tỳ Sắc Chi La nầy cũng là cư sĩ, nhưng Ngài là pháp thân Đại Sĩ, Bồ Tát thị hiện, cho nên Ngài mới có thể giới thiệu cho Thiện Tài đồng tử đi gặp một vị đại Bồ Tát khác.

 

27. BỒ TÁT QUÁN TỰ TẠI PHÓ THÁC THỨ BẢY HỒI HƯỚNG TUỲ THUẬN TẤT CẢ CHÚNG SINH

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử một lòng suy gẫm lời dạy của vị cư sĩ đó. Nhập vào tạng Bồ Tát giải thoát đó. Đắc được sức Bồ Tát có thể tuỳ niệm đó. Nhớ chư Phật đó xuất hiện thứ tự. Niệm chư Phật đó liên tục thứ tự. Thọ trì thứ tự danh hiệu chư Phật đó. Quán diệu pháp của chư Phật đó nói. Biết chư Phật đó đầy đủ trang nghiêm. Thấy chư Phật đó thành Chánh Đẳng Giác. Thấu rõ nghiệp của chư Phật đó không thể nghĩ bàn. Từ từ đi du hành, đi đến núi đó, bèn đi khắp nơi tìm cầu vị đại Bồ Tát Quán Tự Tại.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử một lòng suy gẫm lời dạy của vị cư sĩ Tỳ Sắc Chi La đó. Nhập vào tạng Bồ Tát giải thoát đó. Đắc được sức Bồ Tát có thể tuỳ niệm đó. Nghĩ nhớ chư Phật đó xuất hiện thứ tự, vị Phật nào đầu tiên, vị Phật nào cuối cùng. Lại niệm chư Phật đó liên tục thứ tự không dứt. Thọ trì thứ tự danh hiệu chư Phật đó. Mỗi vị Phật đều có danh hiệu khác nhau. Quán sát diệu pháp của chư Phật đó nói. Lại biết chư Phật đó đầy đủ trang nghiêm. Lại thấy chư Phật đó thành Chánh Đẳng Giác. Thấu rõ nghiệp thanh tịnh của chư Phật đó không thể nghĩ bàn, do đó có câu: “Khéo nơi trần lao làm Phật sự”. Sau đó từ từ đi du hành về hướng nam, đi đến núi Bổ Đát Lạc Ca, bèn đi khắp nơi tìm cầu vị đại Bồ Tát Quán Tự Tại.

Đây là hồi hướng tuỳ thuận tất cả chúng sinh thứ bảy, biểu thị dùng tâm bình đẳng căn lành, tuỳ thuận lợi ích tất cả chúng sinh. Thiện tri thức tên là Quán Tự Tại, đây là ba nghiệp quy hướng, tất sáu thông phó duyên, nhiếp lợi khó nghĩ bàn, tên Quán Tự Tại, nhờ đó có thể khắp tuỳ thuận chúng sinh. Quán Tự Tại, hoặc là Quán Âm, tiếng phạm là Bà Lô Chỉ Đế. Vị đại Bồ Tát nầy quán cái gì mà được tự tại? Tức trong Tâm Kinh có nói rằng: “Bồ Tát Quán Tự Tại thực hành sâu vào Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu thấy năm uẩn đều không, qua khỏi tất cả khổ ách”. Ngài dùng trí huệ Bát Nhã thâm sâu, chiếu thấu tất cả thật tướng các pháp, mà đắc được tự tại. Bồ Tát Quán Thế Âm tu pháp môn phản văn văn tự tánh, chứng được nhĩ căn viên thông, mà tầm thanh cứu khổ. Trong Kinh Pháp Hoa có nói rằng: “Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sinh, thọ các khổ não, nghe đến Bồ Tát Quán Thế Âm đó, một lòng niệm danh hiệu của Ngài, thì Bồ Tát Quán Thế Âm đó lập tức quán âm thanh đó, đều được giải thoát”.

Bổ Đát Lạc Ca, dịch là “Cây hoa trắng nhỏ”, trên núi nhiều cây hương thơm nầy toả xa, ngửi được tất vui mừng.

Thiện Tài thấy trong hang núi cao phía tây, suối chảy lóng lánh, rừng cây rậm rạp, cỏ thơm mềm mại, vòng bên phải chung quanh nơi mặt đất. Bồ Tát Quán Tự Tại ngồi kiết già trên đá báu kim cang, có vô lượng Bồ Tát đều ngồi trên đá báu, cung kính vây quanh. Bồ Tát Quán Tự Tại vì họ nói pháp đại từ bi, khiến cho họ nhiếp thọ tất cả chúng sinh.

Thiện Tài nhìn thấy trong hang núi cao, hiển bi cứu khổ ở phía tây, suối chảy trong suốt lóng lánh với nhau, giống như lưu ly, rừng cây rậm rạp, cỏ thơm mềm mại, vòng bên phải chung quanh nơi mặt đất, vật vô tình cũng đến nghe pháp! Bồ Tát Quán Tự Tại ngồi kiết già trên đá báu kim cang, có vô lượng Bồ Tát đều ngồi trên đá báu, cung kính vây quanh. Bồ Tát Quán Tự Tại vì họ nói pháp môn đại từ bi, khiến cho họ nhiếp thọ tất cả chúng sinh. Do đó có câu: “Từ hay ban vui, bi hay cứu khổ”, tức là ban cho chúng sinh tất cả sự an vui, nhổ trừ hết thảy khổ não của chúng sinh. Chúng ta người tu đạo nhất định phải luôn luôn có tâm từ bi, học tâm đại bi của Bồ Tát Quán Thế Âm, đối với bất cứ người nào cũng đều phải có tâm từ bi, không thể dùng tâm lượng nhỏ bé hẹp hòi, vì chúng ta đang tu đạo. Nếu tu đạo mà tâm lượng không lớn, thì vĩnh viễn tu không thành đạo, cho nên phải phóng tâm lượng cho rộng lớn.

Thiện Tài thấy rồi, hoan hỉ vui mừng, chắp tay nhìn kỹ, mắt chẳng tạm nháy, bèn nghĩ như vầy: Bậc thiện tri thức là Như Lai. Bậc thiện tri thức là mây tất cả pháp. Bậc thiện tri thức là các tạng công đức. Bậc thiện tri thức khó gặp được. Bậc thiện tri thức là nhân đắc được mười lực báu. Bậc thiện tri thức là đuốc trí huệ vô tận. Bậc thiện tri thức là rễ mầm phước đức. Bậc thiện tri thức là pháp môn nhất thiết trí. Bậc thiện tri thức là đạo sư biển trí huệ. Bậc thiện tri thức là đồ trợ đạo đến nhất thiết trí. Nghĩ như vậy rồi, bèn đi đến chỗ đại Bồ Tát.  

Thiện Tài đồng tử thấy cảnh tượng trang nghiêm đó rồi, tâm rất hoan hỉ vui mừng, chắp tay nhìn kỹ đại Bồ Tát, mắt chẳng tạm nháy, sau đó bèn nghĩ như vầy: “Bậc thiện tri thức là Như Lai. Bậc thiện tri thức là mây báu lớn tất cả pháp. Bậc thiện tri thức là tất cả tạng báu công đức. Bậc thiện tri thức trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được. Bậc thiện tri thức là nhân đắc được mười lực báu. Bậc thiện tri thức là đuốc trí huệ vô tận. Bậc thiện tri thức là rễ mầm sinh trưởng phước đức. Bậc thiện tri thức là pháp môn nhất thiết trí. Bậc thiện tri thức là đạo sư biển trí huệ. Bậc thiện tri thức là đồ trợ đạo đến nhất thiết trí. Thiện Tài đồng tử nghĩ như vậy rồi, bèn lập tức đi đến chỗ đại Bồ Tát Quán Tự Tại.

Bấy giờ, Bồ Tát Quán Tự Tại nhìn thấy Thiện Tài, bảo rằng: Lành thay, thiện nam tử! Ngươi đã phát tâm đại thừa, khắp nhiếp thọ chúng sinh. Khởi tâm chánh trực, chuyên cầu Phật pháp. Đại bi sâu nặng, cứu hộ tất cả. Diệu hạnh Phổ Hiền, hiện tiền liên tục. Tâm đại nguyện thâm sâu, viên mãn thanh tịnh. Siêng cầu Phật pháp, đều lãnh thọ được. Tích tụ căn lành, luôn không nhàm đủ. Thuận thiện tri thức, không trái lời dạy. Từ Văn Thù Sư Lợi sinh ra biển công đức trí huệ, tâm ý thành thục, đắc được thế lực của Phật. Đã đắc được tam muội quang minh rộng lớn, chuyên tâm cầu diệu pháp thâm sâu. Thường thấy chư Phật, sinh đại hoan hỉ. Trí huệ thanh tịnh như hư không, tự mình thấu rõ, lại vì chúng sinh khác nói an trụ Như Lai trí huệ quang minh.

Lúc đó, Bồ Tát Quán Tự Tại nhìn thấy Thiện Tài, bèn bảo rằng: “Lành thay thiện nam tử! Ngươi đã phát tâm đại thừa và chí nguyện, muốn nhiếp thọ khắp tất cả chúng sinh. Ngươi sinh khởi tâm chánh trực, do đó có câu: “Tâm thẳng là đạo tràng”, chuyên cầu Phật pháp. Tâm đại bi của ngươi sâu nặng, có thể cứu hộ tất cả chúng sinh. Ngươi tu diệu hạnh Phổ Hiền, hiện tiền liên tục ở trước mặt ngươi. Tâm đại nguyện và bồ đề thâm sâu của ngươi, đều viên mãn thanh tịnh. Ngươi siêng cầu Phật pháp, hoàn toàn đều lãnh thọ được. Ngươi tích tụ căn lành, luôn luôn không sinh tâm nhàm đủ. Ngươi thuận theo thiện tri thức, không trái lời dạy của thiện tri thức. Ngươi từ Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi sinh ra biển công đức trí huệ, ngươi tâm ý thành thục, đắc được thế lực của Phật. Ngươi đã đắc được tam muội quang minh rộng lớn, chuyên tâm cầu diệu pháp thâm sâu. Ngươi thường thấy được chư Phật, mà sinh tâm đại hoan hỉ. Trí huệ thanh tịnh của ngươi như hư không, tự mình đã minh bạch thấu rõ, lại vì chúng sinh khác nói an trụ trí huệ quang minh của Phật. Đây là hạnh Bồ Tát tự lợi lợi tha, tự giác giác tha.

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ Bồ Tát Quán Tự Tại, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, đứng chắp tay mà bạch rằng: Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Con nghe đức Thánh khéo chỉ dạy, xin hãy vì con mà nói.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ Bồ Tát Quán Tự Tại, rồi đi nhiễu quanh bên phải vô lượng vòng, sau đó đứng chắp tay mà bạch rằng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Con nghe cư sĩ Tỳ Sắc Chi La giới thiệu Ngài cho con, nói đức Thánh Ngài khéo chỉ dạy tất cả chúng sinh, xin hãy vì con mà diễn nói”!

Bồ Tát bảo rằng: Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Ngươi đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. 

Thiện nam tử! Ta đã thành tựu môn giải thoát Bồ Tát đại bi hạnh. 

Thiện nam tử! Ta dùng môn Bồ Tát đại bi hạnh nầy, bình đẳng giáo hoá tất cả chúng sinh liên tục không ngừng.

Bồ Tát Quán Tự Tại bảo Thiện Tài đồng tử rằng: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Ngươi đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Thiện nam tử! Ta đã thành tựu môn giải thoát Bồ Tát đại bi hạnh. Thiện nam tử! Ta dùng môn Bồ Tát đại bi hạnh nầy, bình đẳng giáo hoá tất cả chúng sinh liên tục không ngừng”.

Bình đẳng giáo hoá, tức là đại bi. Dùng đồng thể đại bi, cho nên nói là bình đẳng. Liên tục không ngừng, tức là hạnh môn. Môn tức là phổ môn, biểu thị phổ môn thị hiện. Thiên Thai Trí Giả Đại Sư nói có mười phổ (khắp):

1. Từ bi phổ.
2. Hoằng thệ phổ.
3. Tu hành phổ.
4. Ly hoặc phổ.
5. Nhập pháp môn phổ.
6. Thần thông phổ.
7. Phương tiện phổ.
8. Thuyết pháp phổ.
9. Thành tựu chúng sinh phổ.
10. Cúng dường chư Phật phổ.

Thiện nam tử! Ta trụ môn hạnh đại bi nầy, thường ở chỗ tất cả các Như Lai, hiện khắp ở trước tất cả chúng sinh. Hoặc dùng bố thí nhiếp lấy chúng sinh. Hoặc dùng ái ngữ. Hoặc dùng lợi hành. Hoặc dùng đồng sự nhiếp lấy chúng sinh. Hoặc hiện sắc thân nhiếp lấy chúng sinh. Hoặc hiện đủ thứ lưới quang minh sắc tịnh không thể nghĩ bàn, nhiếp lấy chúng sinh. Hoặc dùng âm thanh. Hoặc dùng oai nghi. Hoặc vì họ thuyết pháp. Hoặc hiện thần thông, khiến cho tâm họ ngộ được thành thục. Hoặc vì họ hoá hiện thân đồng loại, cùng ở với họ mà khiến cho họ thành thục.

Bồ Tát Quán Tự Tại nói: “Thiện nam tử! Ta trụ môn hạnh đại bi nầy, thường ở chỗ đạo tràng của tất cả chư Phật, thị hiện khắp ở trước tất cả chúng sinh”.

Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói về sự diệu dụng nhĩ căn viên thông của Bồ Tát Quán Tự Tại rằng: “Một là, trên hợp với bổn diệu giác  tâm của mười phương chư Phật, với Phật Như Lai đồng một sức từ. Hai là, dưới hợp với tất cả sáu nẻo chúng sinh mười phương, với các chúng sinh đồng một bi ngưỡng”. Làm thế nào để vận dụng? Bồ Tát Quán Âm lại nói tiếp: “Hoặc ta bố thí vàng bạc châu báu để nhiếp lấy chúng sinh. Hoặc ta dùng lời ái ngữ để nhiếp lấy chúng sinh. Hoặc ta dùng lợi hành để nhiếp lấy chúng sinh. Hoặc ta dùng đồng sự để nhiếp lấy chúng sinh. Hoặc ta thị hiện sắc thân viên mãn để nhiếp lấy chúng sinh. Hoặc ta thị hiện đủ thứ lưới quang minh sắc tịnh không thể nghĩ bàn, để nhiếp lấy chúng sinh. Hoặc dùng âm thanh, hoặc dùng oai nghi để nhiếp lấy chúng sinh.

Cho nên người xuất gia chúng ta, lúc nào cũng đều phải có oai nghi, đắp y phải ngay ngắn chỉnh tề, đừng hiện ra vẻ lười biếng uể oải. Đắp y thì bày vai phải, chứ chẳng phải là bày vai trái. Cho nên chúng ta người xuất gia tu đạo mà oai nghi không tốt, thì làm cho người tại gia cũng không sinh tín tâm. Khi chúng ta niệm Phật, thì hai tay để ở trước bụng, chứ chẳng phải để thòng xuống đầu gối, đó là kiểu giải đãi, hai tay cũng không thể để hai tay vào túi áo, đó đều là chẳng có oai nghi. Oai nghi giáo tướng, “lễ nghi ba trăm, oai nghi ba ngàn”, nên nhất cử nhất động, lời nói việc làm đều phải có oai nghi. Nếu bạn chẳng có oai nghi, thì chẳng có oai đức, mà chẳng có oai đức, thì người ta không phục bạn. Nếu những chi tiết nhỏ mà làm không tốt, thì những chỗ lớn càng không thể viên mãn được. Cho nên mỗi vị xuất gia, phải hiểu rằng: “Oai nghi giáo tướng”. Bạn thấy Bồ Tát đều phải dùng đủ thứ oai nghi để giáo hoá chúng sinh, hà huống là chúng ta? một chút oai nghi của người bình thường đều chẳng có, thì làm sao làm người xuất gia? Do đó, các vị phải chú ý, đừng đắp y bên dài, bên ngắn, bên cao, bên thấp, không ngay ngắn.

Bồ Tát Quán Thế Âm lại nói: “Hoặc ta vì chúng sinh thuyết pháp. Hoặc ta thị hiện thần thông biến hoá, khiến cho tâm họ khai ngộ mà được thành thục, thành thục rồi thì sẽ được giải thoát. Hoặc ta vì họ hoá hiện thân hình đồng loại, cùng ở chung với họ, sau đó giáo hoá họ từng chút từng chút, khiến cho họ thành thục.

Trong Kinh Pháp Hoa có tường thuật rõ ràng Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện đủ thứ hình tướng để giáo hoá chúng sinh rằng: “Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ý ! Nếu có chúng sinh đáng dùng thân Phật độ được, thì Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện thân Phật để vì họ nói pháp, cho đến thị hiện thân Bích Chi Phật, thân Thanh Văn, thân Phạm Vương, Tự Tại Thiên Vương, Đại Tự Tại Thiên Vương, đồng nam, đồng nữ, Thiên Long bát bộ, cư sĩ phụ nữ .v.v…” Tổng cộng có 32 thứ tướng ứng thân, nhưng đại Bồ Tát Quán Âm, đều có thể thị hiện hoá thân vạn loại, nhiều vô cùng vô tận.

Thiện nam tử! Ta tu hành môn hạnh đại bi nầy, nguyện thường cứu hộ tất cả chúng sinh. Nguyện tất cả chúng sinh lìa sợ đường hiểm, lìa sợ nhiệt não, lìa sợ mê hoặc, lìa sợ trói buộc, lìa sợ giết hại, lìa sợ bần cùng, lìa sợ chẳng sống, lìa sợ tên ác, lìa sợ sự chết, lìa sợ đại chúng, lìa sợ cõi ác, lìa sợ đen tối, lìa sợ dời đổi, lìa sợ thương mà xa lìa, lìa sợ ghét mà gặp nhau, lìa sợ thân bức bách, lìa sợ tâm bức bách, lìa sợ bi ai. 

Lại nguyện như vầy: Nguyện các chúng sinh, nếu nhớ tới ta, nếu gọi tên ta, nếu thấy thân ta, thì đều được lìa khỏi tất cả sự sợ hãi. 

Thiện nam tử! Ta dùng phương tiện nầy, khiến cho các chúng sinh lìa sợ hãi rồi, ta lại dạy họ khiến cho họ phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, vĩnh viễn không thối chuyển.

Thiện nam tử! Ta tu hành môn hạnh đại bi nầy, nguyện thường cứu hộ tất cả chúng sinh. Nguyện tất cả chúng sinh xa lìa sợ đường hiểm, xa lìa sợ nhiệt não, lìa sợ mê hoặc cuồng loạn, xa lìa sợ bị trói buộc, do đó : “Nếu lại có người, hoặc có tội, hoặc không có tội, bị gông cùm xiềng xích trói buộc thân họ, xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì đều đứt gãy, liền được giải thoát”. Tôi lại nguyện tất cả chúng sinh xa lìa sự sợ giết hại, xa lìa sợ bần cùng.

Do đó: “Cứu bảy nạn, quy ba độc, ứng hai cầu. Mười bốn không sợ hãi, mười chín thuyết pháp, ba mươi hai ứng thân”. Nếu chúng sinh hay dùng lời xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì liền được trừ diệt bảy nạn :

1. Lửa không cháy.
2. Nước không ngập chết.
3. Gió ác không thổi được.
4. Đao chặt không đứt.
5. Ác quỷ không nhìn.
6. Gông cùm lìa thân.
7. Oán tặc giải thoát.

Trong Kinh Pháp Hoa có nói rằng: “Nếu có người trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, nhảy vào trong lửa lớn, lửa không thể thiêu đặng, vì do sức oai thần của Bồ Tát. Nếu có nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì liền được vào chỗ cạn. Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sinh, vì tìm cầu vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, chân châu .v.v… vào trong biển lớn. Giả xử gió đen thổi thuyền của họ trôi vào nước quỷ La Sát. Trong đó, nếu có một người, xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì các người đó, đều được giải thoát khỏi nạn quỷ La Sát, do nhân duyên đó, mà được tên là Quán Thế Âm”.

Nếu có chúng sinh dùng thân lễ bái Bồ Tát Quán Thế Âm, thì sẽ viên mãn hai nguyện (tức là nếu muốn cầu con trai, thì sẽ sinh được con trai có phước đức trí huệ. Nếu muốn cầu con gái, thì sẽ sinh được con gái, có tướng mạo xinh đẹp).

Nếu có chúng sinh dùng ý xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì sẽ thanh tịnh ba độc, tức là trong Kinh Pháp Hoa có nói: “Nếu có chúng sinh nhiều dâm dục, thường niệm cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm, thì sẽ lìa dục”. Nhiều sân hận, nhiều ngu si, cũng như thế, đó là ba nghiệp quy hướng.

Bồ Tát Quán Tự Tại lại tiếp tục nói: “Ta nguyện tất cả chúng sinh xa lìa sự sợ hãi chẳng sống, xa lìa sợ tên ác, xa lìa sợ sự chết, xa lìa sợ oai đức đại chúng, xa lìa sợ ba đường ác, xa lìa sợ địa ngục đen tối, xa lìa sợ dời đổi cõi ác, xa lìa sợ thương mà xa lìa, xa lìa sợ ghét mà gặp nhau, xa lìa sợ bệnh tật hành hạ thân, xa lìa sợ tâm căng thẳng, mà đến được nơi an ổn, xa lìa sợ khổ não bi ai.

Ta lại nguyện như vầy: Nguyện tất cả chúng sinh, nếu nhớ tới ta, nếu gọi tên ta, nếu thấy được thân ta, thì đều được lìa khỏi tất cả sự sợ hãi.

Thiện nam tử! Ta dùng phương tiện nầy, khiến cho các chúng sinh lìa sợ hãi rồi, sau đó ta lại dạy họ, khiến cho họ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vĩnh viễn đắc được quả vị không thối chuyển.

Thiện nam tử! Ta chỉ được môn hạnh đại bi nầy. Như các đại Bồ Tát đã tịnh tất cả nguyện Phổ Hiền, đã trụ tất cả hạnh Phổ Hiền, thường hành tất cả các pháp lành. Thường nhập vào tất cả các tam muội. Thường trụ tất cả vô biên kiếp. Thường biết tất cả pháp ba đời. Thường đến tất cả vô biên cõi. Thường ngừng tất cả chúng sinh ác. Thường tăng trưởng tất cả chúng sinh thiện. Thường dứt bặc dòng sinh tử của chúng sinh. Mà ta làm sao biết được, nói được, những hạnh công đức đó?

Thiện nam tử! Ta chỉ được môn giải thoát hạnh đại bi của Bồ Tát nầy. Như các đại Bồ Tát đã thanh tịnh tất cả đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, đã trụ tất cả hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền, thường thường tu hành tất cả các pháp lành. Thường thường nhập vào tất cả các tam muội. Thường thường an trụ tất cả vô biên kiếp. Thường thường biết tất cả pháp ba đời. Thường thường đi đến tất cả vô biên cõi. Thường thường ngừng tất cả chúng sinh ác. Thường thường tăng trưởng tất cả chúng sinh thiện. Thường thường dứt bặc dòng sinh tử của chúng sinh. Mà ta Quán Tự Tại làm sao biết được nói được những hạnh công đức đó?

Bấy giờ, ở phương đông có một vị Bồ Tát, hiệu là Chánh Thú, từ không trung đi đến, đến đỉnh núi Luân Vi thế giới Ta Bà. Dùng chân ấn xuống đất, thì thế giới Ta Bà sáu thứ chấn động. Tất cả đều dùng các báu trang nghiêm. Bồ Tát Chánh Thú phóng ra quang minh từ thân, chiếu thấu triệt tất cả, mặt trời, mặt trăng, đèn điện, Thiên Long bát bộ, Thích Phạm Hộ Thế, hết thảy quang minh, đều như đống mực đen. Quang minh đó, chiếu đến khắp tất cả địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, chỗ Diêm La Vương, khiến cho khổ các đường ác đều tiêu diệt, phiền não chẳng khởi, sầu lo đều lìa. 
 Lại ở trong tất cả cõi nước chư Phật, khắp mưa xuống tất cả hương hoa anh lạc y phục tràng lọng. Hết thảy các đồ trang nghiêm như vậy, đều dâng lên cúng dường đức Phật. Lại tuỳ tâm ưa thích của chúng sinh, mà hiện thân khắp trong tất cả các cung điện, khiến cho họ thấy được đều hoan hỉ, sau đó đi đến chỗ Bồ Tát Quán Tự Tại. 

Bấy giờ, Bồ Tát Quán Tự Tại bảo Thiện Tài rằng: Thiện nam tử! Ngươi có thấy Bồ Tát Chánh Thú đến hội nầy chăng? 

Thiện Tài bạch rằng: Dạ con đã thấy! 

Bồ Tát Quán Tự Tại nói rằng: Thiện nam tử! Ngươi hãy đi đến đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Tu Bồ Tát đạo?

Lúc đó, ở phương đông có một vị Bồ Tát, hiệu là Chánh Thú, từ hư không đến, đến đỉnh núi Luân Vi thế giới Ta Bà. Dùng chân của Ngài ấn xuống mặt đất thế giới Ta Bà, thì thế giới Ta Bà nầy bèn phát sinh sáu thứ chấn động (Động, dũng, khởi, chấn, hống, kích). Khi mặt đất động, thì ta như đứa trẻ trong cái nôi, chẳng biết cái nôi động, cảm giác rất thoải mái, nên mặt đất động là biểu thị điềm lành, mà đây là sáu thứ chấn động, chỉ có người có thiên nhãn thông mới thấy biết được, còn phàm phu thì chẳng biết được. Tất cả đều dùng đủ thứ báu để trang nghiêm. Bồ Tát Chánh Thú phóng ra quang minh từ trên thân Ngài, chiếu thấu triệt tất cả. Mặt trời, mặt trăng, tinh tú, đèn điện, Thiên Long bát bộ, Trời Đế Thích, Phạm Thiên, Trời Hộ Thế, hết thảy quang minh của họ, đều như đống mực đen, không thể nào sánh với quang minh của Bồ Tát. Quang minh của Bồ Tát Chánh Thú đó, chiếu đến khắp tất cả địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, chỗ Diêm La Vương, khiến cho đủ thứ thống khổ trong các đường ác đều tiêu diệt hết, phiền não chẳng sinh khởi, sầu lo đều xa lìa hết.

Vị Bồ Tát đó, lại ở trong tất cả cõi nước chư Phật, khắp mưa xuống tất cả hương hoa anh lạc y phục tràng lọng. Hết thảy tất cả các đồ trang nghiêm như vậy, đều dâng lên cúng dường đức Phật. Ngài lại tuỳ tâm ưa thích của chúng sinh, mà hiện sắc thân của Ngài khắp trong tất cả các cung điện, khiến cho họ thấy được Ngài, đều sinh tâm hoan hỉ. Sau đó Bồ Tát Chánh Thú đi đến chỗ đạo tràng Bồ Tát Quán Tự Tại.

Lúc đó, Bồ Tát Quán Tự Tại bảo Thiện Tài rằng: “Thiện nam tử! Ngươi có thấy Bồ Tát Chánh Thú đến hội nầy chăng”?

Thiện Tài bạch rằng: “Dạ con đã nhìn thấy”!

Bồ Tát Quán Tự Tại nói rằng: “Thiện nam tử! Ngươi hãy đi đến đó thưa hỏi: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Tu Bồ Tát đạo? Ngài sẽ vì ngươi mà diễn nói”?

 

28. BỒ TÁT CHÁNH THÚ PHÓ THÁC THỨ TÁM HỒI HƯỚNG TƯỚNG CHÂN NHƯ

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử cung kính tuân lời Bồ Tát Quán Tự Tại, bèn đi đến chỗ Bồ Tát Chánh Thú, đảnh lễ Ngài rồi, chắp tay đứng bạch rằng: Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào tu Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Con nghe đức Thánh khéo chỉ dạy, xin hãy vì con mà nói.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử cung kính tuân theo lời dạy của Bồ Tát Quán Tự Tại, bèn lập tức đi đến chỗ Bồ Tát Chánh Thú, đảnh lễ Bồ Tát Chánh Thú, rồi chắp tay đứng bạch rằng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào tu Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Con được Bồ Tát Quán Tự Tại giới thiệu đức Thánh Ngài cho con, nói đức Thánh Ngài khéo chỉ dạy tất cả chúng sinh, xin Ngài hãy vì con mà diễn nói”.

Đây là hồi hướng tướng chân như thứ tám. Thiện tri thức là Bồ Tát Chánh Thú, chánh thú là biểu thị chánh pháp biến thú, giáo hoá chúng sinh, dùng trí huệ chánh thú tướng chân như. Ở trước miêu tả Ngài từ hư không đến, biểu thị thể trí huệ của Ngài không chỗ nương tựa, nên khế hợp với chân như. Đế, trên đỉnh Luân Vi, biểu thị chân như nương tựa vọng tưởng và mê hoặc mà hiển bày. Cõi túc động, biểu thị dùng định lực túc, trừ khử tạp ác. Chỗ nầy Bồ Tát Chánh Thú và Bồ Tát Quán Tự Tại ở trước, thị hiện đồng một đạo tràng, cho nên Thiện Tài đồng tử không cần giống như ở trước, hướng về một vị thiện tri thức cúi đầu đảnh lễ, đi nhiễu bên phải vô số vòng, sau đó từ biệt mà đi tìm một vị thiện tri thức khác. Đây là biểu thị không lìa khỏi tuỳ thuận chúng sinh, mà đắc được tướng chân như. Hơn nữa, trí huệ của Bồ Tát Chánh Thú sẽ hợp với đại bi của Bồ Tát Quán Tự Tại, mà thành tựu cảnh giới vô trụ thù thắng.

Bồ Tát Chánh Thú nói: Thiện nam tử! Ta đắc được giải thoát Bồ Tát, tên là Hạnh phổ môn mau chóng. 

Thiện Tài nói: Đức Thánh ở chỗ đức Phật nào đắc được pháp môn nầy? Ngài từ cõi nào đến? Cõi đó cách đây bao xa? Ngài từ đó đến đây bao lâu? 

Bồ Tát Chánh Thú nói: Việc nầy khó biết được, tất cả thế gian, trời, người, A tu la, Sa Môn, Bà La Môn .v.v… không thể biết được. Chỉ có các chúng Bồ Tát dũng mãnh tinh tấn, không thối lùi, không sợ hãi, đã được tất cả bạn lành nhiếp trì, chư Phật hộ niệm, căn lành đầy đủ, ý chí ưa thích thanh tịnh, đắc được căn Bồ Tát, có con mắt trí huệ, mới nghe được, thọ trì được, hiểu được, nói được.

Thiện Tài nói: Đức Thánh! Con nương thần lực của Phật, sức lực của thiện tri thức, tin được, thọ được, xin hãy vì con mà nói.

Bồ Tát Chánh Thú nói: “Thiện nam tử! Ta đắc được giải thoát Bồ Tát, tên là Hạnh phổ môn mau chóng”. Mười phương không bờ mé, nên gọi là phổ môn. Một niệm vượt qua nhiều, nên gọi là mau chóng.

Thiện Tài đồng tử lại hỏi: “Đức Thánh! Ngài từ chỗ đức Phật nào đắc được pháp môn nầy? Ngài từ cõi Phật nào đến đây? Cõi Phật đó cách đây bao xa? Ngài từ đó đến đây thời gian khoảng bao lâu?

Bồ Tát Chánh Thú đáp: “Thiện nam tử! Việc nầy không dễ gì biết được, tất cả thế gian, trời, người, A tu la, Sa Môn, tinh tấn tu giới định huệ, diệt trừ tham sân si, Bà La Môn tu hạnh thanh tịnh .v.v… họ đều không thể biết được cảnh giới áo diệu nầy. Chỉ có tất cả các chúng Bồ Tát dũng mãnh tinh tấn, không thối lùi, không sợ hãi, các Ngài đã được tất cả bạn lành nhiếp trì, được chư Phật hộ niệm, căn lành đầy đủ, ý chí ưa thích thanh tịnh, đắc được căn Bồ Tát, có con mắt trí huệ, mới nghe được, thọ trì được, hiểu được, diễn nói được”.

Thiện Tài đồng tử nói: “Đức Thánh! Con nương thần lực của Phật, sức lực của thiện tri thức, con có thể tin được, tiếp thọ được, xin Ngài hãy vì con mà diễn nói”.

Bồ Tát Chánh Thú nói: Thiện nam tử! Ta từ phương đông thế giới Diệu Tạng, chỗ đức Phật Phổ Thắng Sanh đến cõi nầy. Ở chỗ đức Phật đó, đắc được pháp môn nầy. Từ đó đến nay, đã trải qua số kiếp nhiều như số hạt bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. 

Ở trong mỗi niệm, ta đi qua số bước, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi mỗi bước, qua các cõi Phật, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới. Mỗi mỗi cõi Phật, ta đều vào khắp, đến chỗ đức Phật, dâng lên đồ cúng dường tốt nhất. Các đồ cúng dường đó, đều do tâm vô thượng làm thành, ấn chứng không pháp làm, được các Như Lai hứa khả, các Bồ Tát khen ngợi.

Thiện nam tử! Ta lại thấy khắp chúng sinh trong tất cả thế giới đó, đều biết tâm họ, đều biết căn tánh họ, tuỳ theo ưa muốn hiểu biết của họ, mà hiện thân thuyết pháp. Hoặc phóng quang minh, hoặc bố thí tài bảo, đủ thứ phương tiện, giáo hoá điều phục, không có ngừng nghỉ. Như từ phương đông, phương nam tây bắc, bốn hướng trên dưới, cũng lại như thế.

Bồ Tát Chánh Thú nói: “Thiện nam tử! Ta từ phương đông thế giới Diệu Tạng, chỗ đạo tràng đức Phật Phổ Thắng Sanh đến thế giới Ta Bà nầy. Ở chỗ đức Phật Phổ Thắng Sanh, ta đắc được pháp môn Hạnh phổ môn mau chóng nầy. Ta từ đó đến nay, đã trải qua số kiếp nhiều như số hạt bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Ở trong mỗi niệm, ta đi qua số bước nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi mỗi bước, chẳng phải ta bước đi những bước nhỏ, mà là ta bước đi qua nhiều cõi Phật nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới. Mỗi mỗi cõi Phật, ta đều vào khắp, đến chỗ đức Phật, dâng lên đồ cúng dường tốt nhất. Các đồ cúng dường đó, đều do tâm báu vô thượng làm thành, ấn chứng công đức pháp tài không pháp làm nên, được tất cả chư Phật hứa khả, tất cả các Bồ Tát khen ngợi.

Thiện nam tử! Ta lại thấy khắp tất cả chúng sinh trong thế giới đó, ta đều hoàn toàn biết hết tâm họ nghĩ, đều hoàn toàn biết hết căn tánh họ sâu hay cạn, tuỳ theo ưa muốn hiểu biết trong tâm của họ, mà ta hiện thân vì họ thuyết pháp. Hoặc ta phóng đại quang minh chiếu soi họ, khiến cho họ tội nghiệp tiêu trừ, căn lành tăng trưởng, hoặc ta bố thí tài bảo. Ta dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, giáo hoá điều phục chúng sinh can cường, ngày đêm không ngừng nghỉ. Chẳng những ở phương đông là như thế, mà ở phương nam tây bắc, bốn hướng trên dưới, ta cũng giáo hoá chúng sinh như thế”.

Chỗ nầy Bồ Tát Chánh Thú tuy là trả lời Thiện Tài đồng tử, nói Ngài từ chỗ đức Phật Phổ Thắng Sanh đắc được môn giải thoát Hạnh phổ môn mau chóng nầy. Kỳ thật, Ngài là từ trí huệ vốn có của mình, cõi Như Lai tạng, phổ sinh vạn thiện, bổn giác mà đắc được. Cho nên đi được mau chóng khắp, biết tất cả pháp, chẳng lìa tâm tánh, vạn hạnh mau thành.

Thiện nam tử! Ta chỉ đắc được Bồ Tát giải thoát Hạnh phổ môn mau chóng nầy, mau chóng đến khắp tất cả mọi nơi. Như các đại Bồ Tát trong khắp mười phương, chẳng chỗ nào mà chẳng đến. Cảnh giới trí huệ bình đẳng không khác biệt, khéo phân thân khắp cùng pháp giới, đến tất cả các nẻo, vào tất cả cõi, biết tất cả pháp, đến tất cả thế giới, bình đẳng diễn nói tất cả pháp môn, đồng thời chiếu soi tất cả chúng sinh. Ở chỗ chư Phật, chẳng sinh tâm phân biệt. Ở tất cả mọi nơi, không có chướng ngại. Mà ta làm sao biết được, nói được, những hạnh công đức đó?

Thiện nam tử! Ta chỉ đắc được môn giải thoát Bồ Tát hạnh phổ môn mau chóng nầy, mau chóng đến khắp tất cả mọi nơi. Như các đại Bồ Tát trong khắp mười phương, chẳng chỗ nào mà chẳng đến. Cảnh giới trí huệ của các Ngài bình đẳng không khác biệt, khéo phân thân các Ngài khắp cùng pháp giới, các Ngài đến tất cả các nẻo, vào tất cả các cõi Phật, biết tất cả các pháp, đến tất cả thế giới, bình đẳng diễn nói tất cả pháp môn, đồng thời chiếu soi tất cả chúng sinh. Ở chỗ đạo tràng của chư Phật, chẳng sinh tâm phân biệt. Các Ngài ở tất cả mọi nơi, đều không có chướng ngại. Mà ta làm sao biết được nói được những hạnh công đức đó?

Thiện nam tử! Ở hướng nam nầy, có thành tên là Đoạ La Bát Để. Trong đó có vị thần tên là Đại Thiên, ngươi hãy đi đến đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Tu Bồ Tát đạo? 

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ Bồ Tát Chánh Thú, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng, rồi từ tạ mà đi.

Thiện nam tử! Ở hướng nam nầy, có một thành thị tên là Đoạ La Bát Để. Ở trong đó có vị Thần tên là Đại Thiên, ngươi hãy đi đến đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo”? Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ Bồ Tát Chánh Thú, rồi đi nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi tìm cầu vị thiện tri thức khác.

 

29. THẦN ĐẠI THIÊN PHÓ THÁC THỨ CHÍN HỒI HƯỚNG KHÔNG BUỘC KHÔNG CHẤP GIẢI THOÁT

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử nhập vào hạnh rộng lớn của Bồ Tát, cầu cảnh giới trí huệ của Bồ Tát, thấy việc thần thông của Bồ Tát, nghĩ nhớ công đức thù thắng của Bồ Tát, sinh đại hoan hỉ của Bồ Tát, khởi tinh tấn kiên cố của Bồ Tát, nhập vào tự tại giải thoát không thể nghĩ bàn của Bồ Tát, tu hành bậc công đức của Bồ Tát, quán sát bậc tam muội của Bồ Tát, trụ bậc tổng trì của Bồ Tát, nhập vào bậc đại nguyện của Bồ Tát, đắc được bậc biện tài của Bồ Tát, thành tựu bậc các lực của Bồ Tát. 

Thiện Tài từ từ đi du hành, đến thành Đoạ La Bát Để, bèn đi các nơi hỏi vị Thần Đại Thiên ở chỗ nào? 

Họ đáp rằng: Ngài Đại Thiên đang ở trong thành đó, hiện thân rộng lớn, vì đại chúng nói pháp.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nhập vào hạnh rộng lớn của Bồ Tát, cầu cảnh giới trí huệ của Bồ Tát, thấy việc thần thông của Bồ Tát, nghĩ nhớ công đức thù thắng của Bồ Tát, sinh tâm đại hoan hỉ của Bồ Tát, khởi tinh tấn kiên cố của Bồ Tát, nhập vào tự tại giải thoát không thể nghĩ bàn của Bồ Tát, tu hành bậc công đức của Bồ Tát, quán sát bậc tam muội của Bồ Tát, an trụ bậc tổng trì của Bồ Tát, nhập vào bậc đại nguyện của Bồ Tát, đắc được bậc biện tài của Bồ Tát, thành tựu bậc các lực của Bồ Tát.

Sau đó, Thiện Tài từ từ đi du hành về hướng nam, đến thành Đoạ La Bát Để, bèn đi các nơi hỏi Thần Đại Thiên hiện đang ở chỗ nào?

Người trong thành đều đáp rằng: “Ngài Đại Thiên đang ở trong thành đó, hiện thân rộng lớn, vì đại chúng nói pháp”.

Bấy giờ, Thiện Tài đi đến chỗ vị Thần Đại Thiên, đảnh lễ rồi ở trước Ngài chắp tay mà bạch rằng: Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Con nghe đức Thánh khéo chỉ dạy, xin hãy vì con mà nói.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đi đến chỗ đạo tràng của vị thần Đại Thiên, đảnh lễ Ngài rồi, ở trước mặt Ngài chắp tay mà bạch rằng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Con nghe Bồ Tát Chánh Thú giới thiệu Ngài cho con, nói đức Thánh Ngài khéo chỉ dạy tất cả chúng sinh, xin hãy vì con mà diễn nói”.

Đây là hồi hướng không ràng buộc, không chấp giải thoát thứ chín, biểu thị chẳng bị tướng ràng buộc, chẳng chấp trước tướng, tác dụng tự tại. Thiện tri thức tên gọi là Thần Đại Thiên, vì Ngài thị hiện đại thân, nên không ràng buộc không chấp, trí huệ thanh tịnh nên tự tại, do đó tên là Thiên. Xưng lý phổ ứng, nên tên là Đại. Diệu dụng khó dò, nên tên là Thần. Đoạ La Bát Để, dịch là “hữu môn”, biểu thị có pháp môn vi diệu không ràng buộc nầy.

Bấy giờ, Thần Đại Thiên dơ ra bốn tay dài, lấy nước bốn biển, tự rửa mặt mình, cầm các hoa bằng vàng, rải lên Thiện Tài, mà bảo rằng: Thiện nam tử! Tất cả Bồ Tát khó có thể thấy được, khó có thể nghe được, rất ít hiện ra đời. Ở trong chúng sinh, Ngài là bậc nhất, là hoa sen trắng trong loài người. Là chỗ trở về của chúng sinh. Là người cứu hộ chúng sinh. Là nơi an ổn của các thế gian. Là đại quang minh của các thế gian. Chỉ bày kẻ mê hoặc, an ổn nơi con đường chánh. Là đại Đạo Sư dẫn dắt các chúng sinh vào cửa Phật pháp. Là tướng đại pháp khéo giữ gìn thành nhất thiết trí. Bồ Tát khó có thể gặp được như vậy, chỉ có người thân miệng ý không lỗi lầm, mới thấy được hình tướng Bồ Tát, nghe được biện tài Bồ Tát. Bồ Tát thường hiện ra ở trước họ, bất cứ lúc nào. 

Lúc đó, Thần Đại Thiên dơ ra bốn tay dài, lấy nước bốn biển, tự rửa mặt mình. Bốn cánh tay, biểu thị bốn vô ngại giải thoát, cũng là bốn biện tài vô ngại (Pháp vô ngại biện, nghĩa vô ngại biện, từ vô ngại biện, nhạo thuyết vô ngại biện). Nước bốn biển, biểu thị thắng lưu pháp thuỷ. Thần Đại Thiên dùng nước biển tự rửa mặt Ngài, biểu thị tự lợi, dùng rửa thân tâm. Sau cầm các hoa bằng vàng, rải lên Thiện Tài, biểu thị lợi tha, cũng biểu thị dùng bốn pháp nhiếp, nhiếp lấy bốn chúng.

Sau đó Thần Đại Thiên bảo Thiện Tài đồng tử rằng: “Thiện nam tử! Tất cả Bồ Tát chẳng những khó có thể thấy được, mà thậm chí cũng rất khó có thể nghe được danh hiệu của Bồ Tát. Các Ngài rất ít thị hiện ra đời. Ở trong chúng sinh, Ngài là bậc nhất, là đoá hoa sen trắng trong loài người. Là chỗ trở về của chúng sinh. Là người cứu hộ chúng sinh. Là nơi an ổn của các thế gian. Là đại quang minh tạng của các thế gian. Chỉ bày tất cả chúng sinh mê hoặc, khiến cho họ an ổn nơi con đường chánh đáng. Là đại Đạo Sư của chúng sinh, dẫn dắt tất cả chúng sinh vào cửa Phật pháp. Là tướng đại pháp, khéo giữ gìn thành nhất thiết trí huệ. Bồ Tát khó có thể gặp được như vậy, chỉ có người thân miệng ý không lỗi lầm, mới thấy được hình tướng Bồ Tát, nghe được biện tài vô ngại của Bồ Tát. Bất cứ lúc nào, Bồ Tát cũng thường thị hiện ra ở trước họ.

Thiện nam tử! Ta đã thành tựu Bồ Tát giải thoát, tên là Lưới mây. 

Thiện Tài hỏi: Đức Thánh! Cảnh giới giải thoát Lưới mây như thế nào? 

Bấy giờ, thần Đại Thiên ở trước Thiện Tài, thị hiện đống vàng, đống bạc, đống lưu ly, đống pha lê, đống xa cừ, đống mã não, đống diệm báu lớn, đống tạng báu lìa cấu, đống đại quang minh báu, đống phổ hiện thập phương báu, đống mão báu, đống ấn báu, đống chuỗi báu, đống ngọc châu báu đeo tai, đống vòng tay báu, đống vòng báu, đống lưới châu, đống đủ thứ ma ni báu, đống tất cả đồ trang nghiêm, đống ma ni như ý, đều như núi lớn.

Thần Đại Thiên nói: “Thiện nam tử! Ta đã thành tựu môn giải thoát của Bồ Tát, tên là Lưới mây”.

Thiện Tài đồng tử hỏi: “Đức Thánh! Cảnh giới giải thoát Lưới mây như thế nào”?

Lúc đó, thần Đại Thiên ở trước Thiện Tài, thị hiện đống vàng tựa như núi, đống bạc cũng vậy, cho đến đống lưu ly, đống pha lê, đống xa cừ, đống mã não, đống diệm báu lớn, đống tạng báu lìa cấu, đống đại quang minh báu, đống phổ hiện thập phương báu, đống mão báu, đống ấn báu, đống chuỗi báu, đống ngọc châu báu đeo tai, đống vòng tay báu, đống vòng báu, đống lưới châu, đống đủ thứ ma ni báu, đống tất cả đồ trang nghiêm, đống ma ni như ý, đều cao như núi lớn.

Lưới mây, là biểu thị dùng lục độ đại bi, như mây che phủ thấm nhuần, như lưới la nhiếp chúng sinh.

Lại thị hiện tất cả hoa, tất cả tràng hoa, tất cả hương, tất cả hương đốt, tất cả hương thoa, tất cả y phục, tất cả tràng phan, tất cả âm nhạc, tất cả đồ năm dục vui thích, đều cao như núi. Và hiện ra vô số trăm ngàn vạn ức các chúng đồng nữ, rồi Thần Đại Thiên bảo Thiện Tài rằng: Thiện nam tử! Có thể lấy những vật đó, dâng lên cúng dường Như Lai, tu các phước đức, và bố thí cho tất cả, nhiếp lấy chúng sinh, khiến cho họ tu học bố thí Ba La Mật, xả bỏ được vật khó xả bỏ.

Thần Đại Thiên lại thị hiện tất cả hoa, tất cả tràng hoa, tất cả hương, tất cả hương đốt, tất cả hương thoa, tất cả y phục, tất cả tràng phan, tất cả âm nhạc, tất cả đồ năm dục (tài sắc danh ăn ngủ) vui thích, đều chất đống cao như núi. Ngài lại thị hiện ra vô số trăm ngàn vạn ức các chúng đồng nữ, sau đó thần Đại Thiên bảo Thiện Tài rằng: “Thiện nam tử! Ngươi hãy lấy những vật đó, dâng lên cúng dường chư Phật, tu các phước đức, và bố thí cho tất cả, để nhiếp lấy chúng sinh, cũng khiến cho họ tu học bố thí Ba La Mật, xả bỏ được vật khó xả bỏ.

Thiện nam tử! Như ta vì ngươi thị hiện những vật nầy, là dạy ngươi tu hành bố thí. Vì tất cả chúng sinh, cũng đều như thế, đều khiến cho họ nhờ căn lành huân tập nầy, cung kính cúng dường nơi Tam Bảo, chỗ thiện tri thức, sẽ tăng trưởng pháp lành, mà phát tâm vô thượng bồ đề.

Thiện nam tử! Như ta vì ngươi thị hiện đủ thứ những vật nầy, là dạy ngươi tu hành pháp môn bố thí. Ta vì tất cả chúng sinh, cũng đều như thế, đều khiến cho họ nhờ đủ thứ căn lành huân tập nầy, cung kính cúng dường Tam Bảo, thiện tri thức, sẽ tăng trưởng pháp lành, mà phát tâm vô thượng bồ đề.

Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh, tham chấp năm dục, tự phóng dật, thì vì họ thị hiện cảnh giới bất tịnh. Nếu có chúng sinh, sân hận kiêu mạn, nhiều cạnh tranh, thì vì họ thị hiện thân hình rất đáng sợ, như La Sát .v.v… uống máu ăn thịt, khiến cho họ thấy rồi, sợ hãi kinh hoàng, tâm ý điều nhu, xả lìa oán kết. Nếu có chúng sinh, hôn trầm lười biếng, thì vì họ thị hiện vua cướp nước lửa, và các bệnh nặng, khiến cho họ thấy rồi, tâm sinh kinh hãi, biết có sầu khổ, mà tự cố gắng. Dùng đủ thứ phương tiện như vậy, khiến cho họ xả bỏ tất cả các hạnh bất thiện, tu hành pháp lành. Khiến cho họ trừ tất cả chướng Ba La Mật, đầy đủ Ba La Mật. Khiến cho họ vượt qua tất cả đường hiểm chướng ngại, đến nơi không chướng ngại.

Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh, tham chấp năm dục (tài, sắc, danh, ăn, ngủ, hoặc sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), tự phóng dật, thì ta vì họ thị hiện cảnh giới bất tịnh, khiến cho họ thức tỉnh. Nếu có chúng sinh, có tâm sân hận, kiêu ngạo, ngã mạn, trong mắt chẳng coi ai ra gì, thường cạnh tranh với người khác, thì ta vì họ thị hiện thân hình rất đáng sợ, như La Sát .v.v… uống máu ăn thịt chúng sinh, khiến cho họ thấy rồi, bèn sợ hãi kinh hoàng, tâm ý biến thành điều phục nhu thuận, xả lìa oán kết. Nếu có chúng sinh, hôn trầm lười biếng, thì ta vì họ thị hiện phạm vương pháp, trộm cướp, nước dìm, nạn lửa, và tất cả các chứng bệnh nặng, khiến cho họ thấy rồi, bèn sinh tâm kinh hãi, biết trên thế gian có nhiều sầu khổ, mà tự mình cố gắng sách tấn dụng công tu hành, không còn phóng dật lười biếng nữa. Ta dùng đủ thứ pháp môn phương tiện như vậy, khiến cho họ xả bỏ tất cả các hạnh bất thiện, mà tu hành pháp lành. Khiến cho họ trừ khử được tất cả chướng ngại Ba La Mật, mà đầy đủ pháp Ba La Mật đến bờ kia. Khiến cho họ vượt qua tất cả đường hiểm chướng ngại, đến được nơi không chướng ngại.

Thiện nam tử! Ta chỉ biết giải thoát Lưới mây nầy. Như các đại Bồ Tát, giống như trời Đế Thích, đã hàng phục được tất cả quân A tu la phiền não. Giống như nước lớn, khắp tiêu diệt được các lửa phiền não của tất cả chúng sinh. Giống như lửa mạnh, khắp khô cạn các nước ái dục của tất cả chúng sinh. Giống như gió lớn, khắp thổi bay các tràng kiến chấp của tất cả chúng sinh. Giống như kim cương, đều phá tan được các núi ngã kiến của tất cả chúng sinh. Mà ta làm sao biết được, nói được, những hạnh công đức đó?

Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn giải thoát Lưới mây nầy. Như các đại Bồ Tát, các Ngài giống như trời Đế Thích, đã hàng phục được tất cả quân A tu la phiền não. Giống như nước lớn, khắp tiêu diệt được các lửa phiền não của tất cả chúng sinh. Giống như lửa mạnh, khắp khô cạn các nước ái dục của tất cả chúng sinh. Giống như gió lớn, khắp thổi bay các tràng kiến chấp của tất cả chúng sinh. Giống như kim cương, đều phá tan được các núi ngã kiến của tất cả chúng sinh. Mà ta làm sao biết được, nói được những hạnh công đức đó? Ngươi hãy đi tìm một vị thiện tri thức khác.

Thiện nam tử! Trong Bồ Đề Tràng nước Ma Kệt Đề Diêm Phù Đề nầy, có Chủ Địa Thần, tên là An Trụ. Ngươi hãy đi đến đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Tu Bồ Tát đạo? 

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ vị Thần Đại Thiên, rồi đi nhiễu vô lượng vòng, ân cần từ tạ mà đi.

Thiện nam tử! Trong Bồ Đề Tràng nước Ma Kệt Đề (phía đông Ấn Độ) nam Diêm Phù Đề nầy, có một vị Chủ Địa Thần (cai quản đất đai), tên là An Trụ. Ngươi hãy đi đến chỗ vị đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Tu Bồ Tát đạo”?

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ vị Thần Đại Thiên, rồi đi nhiễu vô lượng vòng, sau đó ân cần từ tạ mà đi về hướng nam tìm cầu một vị thiện tri thức khác.

 

30. ĐỊA THẦN AN TRỤ PHÓ THÁC THỨ MƯỜI HỒI HƯỚNG VÀO PHÁP GIỚI VÔ LƯỢNG

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử từ từ đi du hành, đến nước Ma Kiệt Đề, trong Bồ Đề Tràng, chỗ vị Thần An Trụ.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử từ từ đi du hành về hướng nam, đến nước Ma Kiệt Đề, trong Bồ Đề Tràng, chỗ vị Thần An Trụ.

Đây là hồi hướng thứ mười vào pháp giới vô lượng, biểu thị bình đẳng đem pháp giới căn lành, hồi hướng về pháp giới. Thiện tri thức tên là Địa Thần An Trụ. Địa là chỗ nương của vạn pháp, tức là nhập vào pháp giới. An trụ, tức nghĩa là tiến vào. Bồ đề tràng, tức là nhập vào pháp giới, cũng là xứ sở của bồ đề.

Có trăm vạn vị Địa Thần cùng ở trong đó, bèn nói với nhau rằng: Đồng tử nầy đến, tức là Phật tạng, sẽ khắp vì tất cả chúng sinh làm chỗ nương tựa. Sẽ khắp phá vỡ lớp vỏ vô minh của tất cả chúng sinh. Người nầy đã sinh trong dòng dõi Pháp Vương, sẽ dùng lụa pháp lìa cấu vô ngại mà quấn trên đầu, sẽ khai mở đại trân bảo tàng trí huệ, hàng phục tất cả tà luận dị đạo.

Có trăm vạn vị Địa Thần cùng ở trong Bồ Đề Tràng, bèn nói với nhau rằng: “Vị đồng tử nầy đến, tức là Phật tạng, Ngài sẽ khắp vì tất cả chúng sinh làm chỗ nương tựa, sẽ khắp phá vỡ lớp vỏ vô minh của tất cả chúng sinh. Người nầy đã sinh trong dòng dõi Pháp Vương, sẽ dùng lụa pháp lìa cấu vô ngại mà quấn trên đầu, Ngài sẽ khai mở đại trân bảo tàng trí huệ, hàng phục tất cả tà luận dị đạo của ngoại đạo”.

Bấy giờ, vị Địa Thần An Trụ cùng trăm vạn vị Địa Thần, phóng đại quang minh, chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, khiến cho khắp đại địa đồng thời chấn động. Đủ thứ báu vật, trang nghiêm khắp nơi, hình bóng trong sạch chiếu soi lẫn nhau. Tất cả lá cây đều cùng sinh trưởng, tất cả hoa đều cùng nở ra, tất cả trái cây đều cùng chín. Tất cả dòng sông đều chảy xuống lẫn nhau, tất cả ao đầm đều tràn đầy. Mưa xuống nước thơm, tẩy rửa khắp mặt đất. Gió thổi hoa rải khắp trên mặt đất. Vô số âm nhạc, đồng thời đều tấu lên. Đồ trang nghiêm cõi trời đều vang ra tiếng hay. Trâu chúa, voi chúa, sư tử chúa .v.v… đều sinh tâm vui mừng, nhảy nhót gầm hú, như núi lớn chạm nhau vang ra tiếng, trăm ngàn bảo tàng ngầm dưới đất tự nhiên hiện lên.

Lúc đó, vị Địa Thần An Trụ cùng trăm vạn vị Địa Thần khác, phóng đại quang minh, chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, cũng khiến cho khắp đại địa đồng thời phát sinh chấn động. Có đủ thứ báu vật, trang nghiêm khắp nơi, hình bóng trong sạch hổ tương chiếu soi lẫn nhau. Ánh sáng nầy chiếu đến ánh sáng kia, ánh sáng kia chiếu đến ánh sáng nọ, hổ tương vô ngại. Tất cả lá cây đều cùng sinh trưởng, tất cả hoa đều cùng nở ra, tất cả trái cây đều cùng chín. Tất cả dòng sông đều chảy xuống lẫn nhau, liên tục không ngừng, tất cả ao đầm đều tràn đầy nước. Lại mưa xuống nước thơm, tẩy rửa khắp mặt đất. Gió thổi hoa rải khắp trên mặt đất. Lại có vô số âm nhạc, đồng thời đều tấu lên. Đồ trang nghiêm cõi trời đều cùng vang ra tiếng hay. Trâu chúa, voi chúa, sư tử chúa .v.v… đều sinh tâm vui mừng, nhảy nhót gầm hú, như núi lớn chạm nhau vang ra tiếng, có trăm ngàn bảo tàng ngầm dưới đất tự nhiên hiện lên.

Bấy giờ, Địa Thần An Trụ bảo Thiện Tài rằng: Thiện lai đồng tử! Ngươi ở tại chỗ nầy, đã từng trồng căn lành. Ta vì ngươi mà thị hiện, ngươi có muốn thấy chăng? 

Bấy giờ, Thiện Tài đảnh lễ vị Địa Thần, đi nhiễu quanh vô số vòng, đứng chắp tay bạch rằng: Đức Thánh! Dạ con muốn thấy. 

Bấy giờ, Địa Thần An Trụ dùng chân ấn xuống đất, thì trăm ngàn ức A tăng kỳ bảo tàng, tự nhiên hiện lên, rồi bảo rằng: Thiện nam tử! Nay bảo tàng nầy sẽ đi theo ngươi, đó là quả báo căn lành thuở xưa của ngươi, là phước lực của ngươi nhiếp thọ, ngươi hãy tuỳ ý thọ dụng tự tại.

Lúc đó, vị Địa Thần An Trụ bảo Thiện Tài rằng: “Thiện lai đồng tử! Ngươi ở tại chỗ nầy, đã từng trồng căn lành. Hiện nay ta vì ngươi thị hiện cảnh giới nầy, ngươi có muốn thấy chăng”? Cảnh giới của Kinh Hoa Nghiêm, đa số là hiện ra ở trong định, cho nên thời thời vô cùng vô tận, đều là nhân duyên thị hiện. Chúng ta nghe kinh đều nên biết tất cả cảnh giới nầy, đều ở trong định thuyết pháp, trong định hiện ra, đây đều là không thể nghĩ bàn.

Lúc đó, Thiện Tài đảnh lễ vị Địa Thần, rồi đi nhiễu quanh vô số vòng, đứng chắp tay bạch rằng: “Đức Thánh! Dạ con muốn thấy, thuở xưa con gieo trồng căn lành tại chỗ nầy như thế nào”!

Lúc đó, vị Địa Thần An Trụ dùng chân ấn xuống đất, thì có trăm ngàn ức A tăng kỳ bảo tàng, tự nhiên hiện lên, sau đó vị Địa Thần An Trụ bảo rằng: “Thiện nam tử! Nay đủ thứ bảo tàng nầy sẽ đi theo ngươi, đó là quả báo căn lành thuở xưa của ngươi đã gieo trồng, là phước lực của ngươi nhiếp thọ, ngươi hãy tuỳ ý thọ dụng tự tại”.

Thiện nam tử! Ta được giải thoát của Bồ Tát, tên là Tạng trí huệ không thể hoại. Ta thường dùng pháp nầy mà thành tựu chúng sinh. 

Thiện nam tử! Ta nhớ từ thuở đức Phật Nhiên Đăng đến nay, ta thường theo Bồ Tát cung kính giữ gìn, quán sát hết thảy cảnh giới tâm hạnh trí huệ của Bồ Tát, tất cả thệ nguyện các hạnh thanh tịnh, tất cả tam muội, thần thông rộng lớn, sức đại tự tại, pháp không thể hoại. Đi đến khắp tất cả cõi nước chư Phật, được khắp tất cả các Như Lai thọ ký, chuyển bánh xe pháp của tất cả chư Phật, rộng nói tất cả môn Tu Đa La, đại pháp quang minh, đều chiếu sáng khắp. Giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh, thị hiện thần biến của tất cả chư Phật. Ta đều lãnh thọ được, đều nhớ trì được.

Thiện nam tử! Ta được môn giải thoát của Bồ Tát, tên là Tạng trí huệ không thể hoại. Ta thường dùng pháp môn nầy mà thành tựu chúng sinh.

Thiện nam tử! Ta nhớ từ thuở đức Phật Nhiên Đăng đến nay, ta thường theo Bồ Tát cung kính giữ gìn các Ngài, quán sát hết thảy cảnh giới tâm hạnh trí huệ của Bồ Tát, tất cả thệ nguyện các hạnh thanh tịnh, tất cả tam muội, thần thông rộng lớn, sức đại tự tại, pháp không thể hoại. Ta đi đến khắp tất cả cõi nước chư Phật, được khắp tất cả các Như Lai thọ ký, chuyển bánh xe diệu pháp của tất cả chư Phật, rộng nói tất cả môn Tu Đa La (Kinh điển), đại pháp quang minh của ta, đều chiếu sáng khắp tất cả thế giới, giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh, ta thị hiện thần thông biến hoá của tất cả chư Phật. Đủ thứ những cảnh giới như vậy, ta đều lãnh thọ được, đều hoàn toàn ghi nhớ thọ trì được” (đây là biểu thị trí bất hoại của vị Địa Thần, nên thường nhớ trì được).

Thiện nam tử! Lại về thuở xưa, trải qua số kiếp nhiều như số hạt bụi núi Tu Di, có kiếp tên là Trang nghiêm, thế giới tên là Nguyệt Tràng, đức Phật hiệu là Diệu Nhãn. Ở chỗ đức Phật đó, ta đắc được pháp môn nầy. 

Thiện nam tử! Ta nơi pháp môn nầy, hoặc vào, hoặc ra, tu tập tăng trưởng, thường thấy chư Phật, chưa từng xả lìa. Xưa từ lúc ban đầu đắc được, cho đến hiền kiếp, trong thời gian đó, ta gặp được các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, thảy đều hầu hạ, cung kính cúng dường, cũng thấy các đức Phật đó đến toà bồ đề, hiện đại thần lực. Cũng thấy tất cả công đức căn lành của hết thảy các đức Phật đó.

Thiện nam tử! Lại về thuở xưa, trải qua số kiếp nhiều như số hạt bụi núi Tu Di, trong đó có kiếp tên là Trang nghiêm, thế giới tên là Nguyệt Tràng, đức Phật hiệu là Diệu Nhãn. Ở chỗ đạo tràng của đức Phật đó, ta đắc được pháp môn Tạng trí huệ không thể hoại nầy.

Thiện nam tử! Ta nơi pháp môn nầy, hoặc vào, hoặc ra, ta đều tu tập tăng trưởng căn lành, thường thấy được tất cả chư Phật, chưa từng xả lìa. Thuở xưa từ lúc ban đầu đắc được pháp môn nầy, cho đến hiền kiếp hiện tại, trong thời gian đó, ta gặp được các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, ta đều hầu hạ, cung kính cúng dường các Ngài, ta cũng thấy các đức Phật đó đến toà bồ đề, thị hiện đại thần lực. Ta cũng thấy tất cả công đức căn lành của hết thảy các đức Phật đó.

Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn tạng trí huệ không thể hoại nầy. Như các đại Bồ Tát thường theo chư Phật, thọ trì pháp của tất cả chư Phật nói, vào trí huệ thâm sâu của tất cả chư Phật, niệm niệm đầy khắp tất cả pháp giới, đồng với thân Như Lai, sinh tâm chư Phật, đủ pháp của chư Phật, làm các Phật sự. Mà ta làm sao biết được, nói được, những hạnh công đức đó?

Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn tạng trí huệ không thể hoại nầy. Như các đại Bồ Tát thường theo chư Phật, thọ trì pháp của tất cả chư Phật nói, vào biển trí huệ thâm sâu của tất cả chư Phật, niệm niệm đầy khắp tất cả pháp giới, thân các Ngài đồng với thân Như Lai, bình đẳng không hai, sinh ra tâm chư Phật, đầy đủ pháp của chư Phật, làm các đại Phật sự. Mà ta làm sao biết được, nói được những hạnh công đức đó?

Chúng ta sắp đả xong Phật thất nầy, trong thời gian nầy, có người rất dụng công niệm Phật, có người thì niệm cho có lệ, chẳng chịu dụng công. Người dụng công, thì sẽ trồng xuống rất nhiều căn lành, giống như Thiện Tài đồng tử, có rất nhiều bảo tàng tụ tập lại. Người chẳng dụng công, thì giống như một số phàm phu, chẳng có phước báo, cũng chẳng trồng căn lành. Cho nên mỗi năm đả thất, tôi sẽ vì các vị giảng khai thị, chẳng muốn nói đây có lợi ích gì. Vì khi nói với quý vị về lợi ích, thì quý vị sẽ tham lợi ích, mà chẳng chịu chân chánh dụng công. Đả thất là việc công của đạo tràng, cũng là pháp môn mà mỗi cá nhân nên dụng công tu hành. Cho nên một mặt thì ủng hộ đạo tràng, một mặt thì tài bồi căn lành của mình.

Kỳ niệm Phật nầy, tôi nhìn thấy có những người không biết chắp tay là đúng, hay buông tay là đúng? Nhất là những người mới chưa hiểu biết. Khi bắt đầu niệm Phật thì chắp tay, đến lúc đi quanh niệm Phật thì buông tay xuống để ở trước ngực, chứ chẳng phải là buông tay thòng xuống đầu gối, đây là một thứ oai nghi giáo tướng, khi tụng Kinh Di Đà, tụng đến sáu phương chư Phật, thì chắp tay lên, biểu thị sự cung kính. Tụng xong sáu phương chư Phật thì bỏ tay xuống. Đồng thời khi tán Di Đà, thì chắp tay lên, đây là sự việc đại khái. Những người nào đã hiểu rồi, thấy những người chưa hiểu thì nên nói cho họ biết, cũng không chịu nói, là thị ý buông tay. Vì nói nhiều thì cũng không tốt, mọi người tốt nhất là không nói, trừ phi có chuyện gì đặc biệt, thì có thể nói. Việc chẳng quan trọng, mọi người hãy một lòng dụng công niệm Phật. Do đó có câu:

“Ít nói lời thị phi
Niệm nhiều danh hiệu Phật.
Đánh được niệm đầu chết
Pháp thân bạn sống lại”.

Bạn chẳng chuyên nhứt dụng công, cứ phan duyên với người khác, nói chuyện với người khác, đó đều là phan duyên, điểm nầy mọi người phải biết, khi buổi tối làm đại hồi hướng, thì đều chắp tay lên, tất cung tất kính.

Thiện nam tử! Trong thành Ca Tỳ La, nước Ma Kiệt Đề Diêm Phù Đề nầy, có Chủ Dạ Thần tên là Bà San Bà Diễn Để, ngươi hãy đi đến đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Tu Bồ Tát đạo? 

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ vị Địa Thần An Trụ, đi nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng, rồi từ tạ mà đi.

Thiện nam tử! Trong thành Ca Tỳ La, nước Ma Kiệt Đề Diêm Phù Đề nầy, có vị Chủ Dạ Thần tên là Bà San Bà Diễn Để, ngươi hãy đi đến chỗ vị đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Vị ấy sẽ vì ngươi nói”.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ vị Địa Thần An Trụ, rồi đi nhiễu bên phải vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng vị thiện tri thức, sau đó từ tạ mà đi về hướng nam tìm cầu vị thiện tri thức khác.

 

31. DẠ THẦN BÀ SAN BÀ DIỄN ĐỂ PHÓ THÁC THỨ NHẤT HOAN HỈ ĐỊA

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử một lòng suy gẫm lời dạy của vị Địa Thần An Trụ, ghi nhớ thọ trì môn giải thoát Tạng trí huệ không thể trở hoại của Bồ Tát. Tu tam muội của Bồ Tát. Học quỹ tắc của Bồ Tát. Quán sát du hí của Bồ Tát. Nhập vào sự vi diệu của Bồ Tát. Đắc được trí huệ của Bồ Tát. Đạt được bình đẳng của Bồ Tát. Biết vô biên của Bồ Tát. Dò lường sự thâm sâu của Bồ Tát.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử một lòng suy gẫm lời dạy của Chủ Địa Thần An Trụ, ghi nhớ thọ trì pháp môn giải thoát Tạng trí huệ không thể trở hoại của Bồ Tát. Tu học tam muội của Bồ Tát. Học tập quỹ tắc của Bồ Tát. Quán sát cảnh giới tự tại du hí nhân gian của Bồ Tát, vô câu vô thúc. Chứng nhập cảnh giới vi diệu không thể nghĩ bàn của Bồ Tát. Đắc được trí huệ rộng lớn của Bồ Tát. Đạt được cảnh giới bình đẳng của Bồ Tát. Biết được thần thông diệu dụng vô lượng vô biên của Bồ Tát. Dò lường pháp vi diệu thâm sâu của Bồ Tát.

Thiện Tài từ từ đi du hành đến thành Ca Tỳ La, đi vào từ cửa hướng đông, đứng chờ chẳng bao lâu thì mặt trời lặn. Tâm nhớ lời dạy tuỳ thuận các Bồ Tát, khát ngưỡng muốn gặp vị Chủ Dạ Thần đó. Đối với thiện tri thức sinh nghĩ tưởng là Như Lai. 

Lại nghĩ như vầy: Nhờ thiện tri thức mà được con mắt khắp cùng, thấy rõ khắp cảnh giới mười phương. Nhờ thiện tri thức mà hiểu được rộng lớn, thấu đạt khắp tất cả nhân duyên. Nhờ thiện tri thức mà được mắt tam muội, quán sát được khắp tất cả pháp môn. Nhờ thiện tri thức mà được mắt trí huệ, chiếu rõ được khắp biển cõi mười phương.

Thiện Tài đồng tử từ từ đi du hành về hướng nam, đến thành Ca Tỳ La, đi vào từ cửa hướng đông, đứng ở đó chờ chẳng bao lâu thì mặt trời lặn. Tâm Ngài nghĩ nhớ tới lời dạy tuỳ thuận các Bồ Tát, khát ngưỡng muốn gặp vị Chủ Dạ Thần Bà San Bà Diễn Để. Ngài đối với thiện tri thức sinh nghĩ tưởng như Phật, thấy thiện tri thức giống như thấy Phật.

Lại nghĩ như vầy: Nhờ thiện tri thức mà được con mắt khắp cùng, thấy rõ khắp cảnh giới mười phương. Nhờ thiện tri thức mà hiểu biết rộng lớn, thấu đạt khắp tất cả nhân duyên. Nhờ thiện tri thức mà được mắt tam muội, quán sát được khắp tất cả pháp môn. Nhờ thiện tri thức mà được mắt trí huệ, chiếu rõ được khắp biển cõi mười phương.

Đây là phó thác Hoan hỉ địa thứ nhất, bạn lành là Chủ Dạ Thần Bà San Bà Diễn Để, thành tên là Ca Tỳ La, dịch là “Hoàng sắc”. Thuở xưa có vị Tiên nhơn đầu vàng ở đây, nên theo đây mà đặc tên, hoàng là màu ở giữa, biểu thị hợp với trung đạo. Hơn nữa đây là thành thị của đức Phật đản sinh, biểu thị Sơ địa sinh nơi nhà Phật.

“Bà San” dịch là “hương”, “Bà Diễn Để” dịch là “Chủ đương”, biểu thị khi mùa xuân thì chủ đương cấy mạ. Tức là sơ nhập địa, sinh trưởng vạn hạnh, cứu hộ chúng sinh. Trên đất thường thấy nhiều Dạ Thần, biểu thị chứng trí huyền diệu, lìa tướng phá tối. Hết thảy thiện tri thức của Thập địa, đều thị hiện thân nữ thần, biểu thị chứng nơi đồng thể từ bi.

Lại nữa, Thiện Tài đồng tử đi vào cửa hướng đông, vì phương đông là sáng trước nhất, hiển nhập chứng ban đầu. Thấy mặt trời lặn, là biểu thị Dạ Thần sắp chấp hành nhiệm vụ. Tại Sơ địa, Bồ Tát ban đầu đắc được Thánh vị, chứng đủ hai không, hay lợi ích ta, người, sinh đại hoan hỉ. Sơ địa đoạn kiến hoặc, tức phân biệt phiền não.

Khi nghĩ như vậy, thì thấy vị Dạ Thần ở trong hư không, ngồi trên toà sư tử hương liên hoa tạng trong lầu các báu. Thân màu vàng ròng, mắt và tóc xanh biếc, tướng mạo đoan nghiêm, ai thấy cũng đều hoan hỉ. Các chuỗi báu dùng làm nghiêm sức, thân mặc y phục đỏ, đầu đội mão Phạm Thiên, tất cả tinh tú hiện rõ trên thân. Mỗi lỗ chân lông trên thân của vị Dạ Thần đó, đều hiện hoá độ vô lượng vô số chúng sinh trong đường ác, khiến cho thân họ được lìa khỏi hiểm nạn. Các chúng sinh đó, hoặc sinh vào cõi người, hoặc sinh lên cõi trời, hoặc có người hướng về hai thừa bồ đề, hoặc có người tu hành đạo nhất thiết trí. 

Lại trong mỗi mỗi các chân lông đó, thị hiện đủ thứ phương tiện giáo hoá, hoặc vì họ hiện thân, hoặc vì họ thuyết pháp, hoặc vì họ thị hiện đạo Thanh Văn thừa, hoặc vì họ thị hiện đạo Độc Giác thừa, hoặc vì họ thị hiện Bồ Tát hạnh, Bồ Tát dũng mãnh, Bồ Tát tam muội, Bồ Tát tự tại, Bồ Tát trụ xứ, Bồ Tát quán sát, Bồ Tát sư tử tần thân, Bồ Tát giải thoát du hí, đủ thứ thành thục chúng sinh như vậy.

Khi Thiện Tài đồng tử đang nghĩ như vậy, thì thấy vị Dạ Thần Bà San Bà Diễn Để ở trong hư không, ngồi trên toà sư tử hương liên hoa tạng trong lầu các báu. Thân Ngài màu vàng ròng, mắt và tóc màu xanh biếc, tướng mạo rất đoan nghiêm, khiến cho ai thấy được Ngài cũng đều sinh tâm hoan hỉ. Các chuỗi báu dùng làm nghiêm sức, thân Ngài mặc y phục màu đỏ, trên đầu đội mão báu của trời Phạm Thiên, tất cả tinh tú hiện rõ trên thân của Ngài. Mỗi lỗ chân lông trên thân của vị Dạ Thần đó, đều thị hiện hoá độ vô lượng vô số chúng sinh trong đường ác, khiến cho thân họ được lìa khỏi hiểm nạn. Các chúng sinh đó, hoặc được sinh vào cõi người, hoặc được sinh lên cõi trời, hoặc có người hướng về hai thừa (Thanh Văn và Duyên Giác) bồ đề. Hoặc có người tu hành đạo nhất thiết trí. Đây là vị Dạ Thần chiếu theo căn tánh chúng sinh khác nhau, để giáo hoá họ.

Lại trong mỗi mỗi các chân lông của vị Dạ Thần đó, thị hiện đủ thứ pháp môn phương tiện giáo hoá: Hoặc vì chúng sinh thị hiện thân, hoặc vì chúng sinh thuyết pháp, hoặc vì chúng sinh thị hiện đạo Thanh Văn thừa, hoặc vì chúng sinh thị hiện đạo Độc Giác thừa, hoặc vì chúng sinh thị hiện Bồ Tát hạnh, Bồ Tát dũng mãnh, Bồ Tát tam muội, Bồ Tát tự tại, Bồ Tát trụ xứ, Bồ Tát quán sát, Bồ Tát sư tử tần thân, Bồ Tát giải thoát du hí. Vị Dạ Thần dùng đủ thứ pháp môn phương tiện như vậy, để thành thục chúng sinh.

Ở trên tường thuật lại cảnh giới Dạ Thần ở trong hư không. Thành thị là biểu thị giáo đạo, hư không là biểu thị chứng đạo. Thân Dạ Thần mặc y màu đỏ, là biểu thị chứng trí hiển rõ của Ngài. Và tất cả tinh tú, hiện rõ trong thân Ngài. Thân thể của Ngài dùng biểu như thể, tinh tú dùng biểu pháp môn. Tinh tú chẳng lìa một thân, như pháp môn chẳng lìa như thế. Trên thân của Ngài, mỗi mỗi lỗ chân lông đều thị hiện giáo hoá chúng sinh, là biểu thị giáo hoá đại dụng của Ngài, chẳng lìa khỏi tánh một chân lông. Đoạn kinh văn nầy tường thuật lại một cảnh giới cao thâm: Tất cả duy tâm tạo, chánh ngộ tự tâm, chẳng do người khác ngộ, mà lỗ chân lông dùng sự so sánh chân tánh, do đó: “Lớn mà không ngoài, nhỏ mà không trong”. Cho nên tất cả tinh tú, đều hiển rõ trong thân Ngài, tất cả chúng sinh có thể thị hiện nơi mỗi lỗ lông, mà những cảnh giới nầy đều đồng thời phát sinh, viên dung vô ngại.

Thiện Tài đồng tử thấy nghe như vậy rồi, tâm sinh đại hoan hỉ, cúi thân sát đất, đảnh lễ vị Dạ Thần, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, rồi chắp tay ở trước vị Dạ Thần mà bạch rằng: Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, tâm con trông mong nương thiện tri thức, đắc được công đức pháp tạng của các Như Lai, xin hãy vì con thị hiện đạo nhất thiết trí, con tu hành trong đó, cho đến bậc Thập Lực.

Thiện Tài đồng tử thấy nghe cảnh giới thị hiện không thể nghĩ bàn của vị Chủ Dạ Thần như vậy rồi, tâm sinh đại hoan hỉ, cúi thân mình sát đất, đảnh lễ vị Dạ Thần, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, rồi chắp tay ở trước vị Dạ Thần mà bạch rằng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, tâm con trông mong nương nhờ thiện tri thức, đắc được công đức pháp tạng của tất cả các Như Lai, xin Ngài hãy vì con thị hiện đạo nhất thiết trí, khiến cho con tu hành trong đó, cho đến bậc Thập Lực của Như Lai”.

Bấy giờ, vị Dạ Thần đó bảo Thiện Tài rằng: Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Thâm tâm ngươi cung kính thiện tri thức, thích nghe lời thiện tri thức, tu hành theo lời dạy của thiện tri thức, nhờ tu hành mà ngươi chắc chắn sẽ đắc được A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Lúc đó, vị Dạ Thần đó bảo Thiện Tài đồng tử rằng: “Lành thay lành thay! Thiện nam tử! Thâm tâm ngươi cung kính thiện tri thức, thích nghe lời thiện tri thức, tu hành theo lời dạy của thiện tri thức, nhờ tu hành mà chắc chắn ngươi sẽ đắc được quả Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.

Thiện nam tử! Ta đắc được giải thoát Bồ Tát pháp quang minh phá si ám của tất cả chúng sinh.

Thiện nam tử! Ta đắc được giải thoát Bồ Tát pháp quang minh phá si ám của tất cả chúng sinh.

Vị Dạ Thần nầy đã đắc được trí vô ngã, nhờ sức bi mà phá được chúng sinh ám. Pháp quang minh là trí huệ, Ngài bi trí đều đầy đủ.

Thiện nam tử! Ta đối với chúng sinh ác huệ, thì khởi tâm đại từ. Đối với chúng sinh nghiệp bất thiện, thì ta khởi tâm đại bi. Đối với chúng sinh làm nghiệp thiện, thì ta khởi tâm hoan hỉ. Đối với chúng sinh thiện ác hai hạnh, thì ta khởi tâm không hai. Đối với chúng sinh tạp nhiễm, thì ta khiến cho họ sinh tâm thanh tịnh. Đối với chúng sinh tà đạo, thì ta khiến cho họ sinh tâm chánh hạnh. Đối với chúng sinh hiểu biết thấp kém, thì ta khiến cho họ được hiểu biết rộng lớn. Đối với chúng sinh thích sinh tử, thì ta khiến cho họ bỏ luân chuyển. Đối với chúng sinh trụ đạo hai thừa, thì ta khiến cho họ trụ nhất thiết trí. 

Thiện nam tử! Ta nhờ được giải thoát nầy, mà thường cùng với tâm tương ưng như vậy.

Thiện nam tử! Ta đối với chúng sinh ác huệ không giữ quy cụ, tà tri tà kiến, thì khởi tâm đại từ. Đối với chúng sinh tạo nhiều nghiệp bất thiện, chẳng có nghiệp thiện, thì ta khởi tâm đại từ đại bi. Do đó: “Từ hay ban vui, bi hay cứu khổ”. Đối với chúng sinh làm nghiệp thiện, thì ta khởi tâm hoan hỉ. Đối với chúng sinh thiện ác hai hạnh xen tạp, thì ta chỉ nhớ nghiệp thiện, quên đi nghiệp ác, chẳng khởi tâm phân biệt hai thứ. Đối với chúng sinh tạp nhiễm chẳng thanh tịnh, thì ta khiến cho họ sinh tâm thanh tịnh. Đối với chúng sinh tà tri tà kiến bàng môn ngoại đạo, thì ta khiến cho họ sinh tâm chánh hạnh. Đối với chúng sinh hiểu biết thấp kém, thì ta khiến cho họ được hiểu biết rộng lớn, để minh bạch đạo lý chân chánh. Đối với chúng sinh thích sinh tử, thì ta khiến cho họ bỏ luân chuyển trong sáu đường. Đối với chúng sinh trụ đạo Thanh Văn Duyên Giác hai thừa, thì ta khiến cho họ trụ tâm nhất thiết trí, mà tu đại thừa Bồ Tát đạo.

Thiện nam tử! Ta nhờ đắc được môn giải thoát Pháp quang minh tạng phá si ám của tất cả chúng sinh nầy, mà ta thường cùng với tâm tương ưng như vậy.

Thiện nam tử! Khi lúc trời tối yên tĩnh, quỷ thần trộm cướp, các chúng sinh ác đi du hành, mây nhiều sương dày, gió bão mưa lớn, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, đều bị che khuất hết, chẳng thấy gì nữa. Ta thấy các chúng sinh, hoặc vào trong biển, hoặc đi trên đất, núi rừng hoang vắng, các nơi hiểm nạn, hoặc gặp trộm cướp, hoặc thiếu lương thực, hoặc mê mất phương hướng, hoặc quên mất đường về, hoảng hốt sợ hãi, không thể tự thoát được, thì ta liền dùng đủ thứ phương tiện để cứu giúp họ.

Thiện nam tử! Mỗi đêm khi lúc trời tối yên tĩnh, quỷ thần trộm cướp, các chúng sinh ác đi du hành, lúc mây nhiều sương dày, gió bão mưa lớn, mặt trời mặt trăng tinh tú, đều bị che khuất hết, chẳng thấy gì nữa. Ta thấy các chúng sinh, hoặc vào trong biển, hoặc đi trên đất, núi rừng hoang vắng các nơi hiểm nạn, hoặc gặp trộm cướp, hoặc thiếu lương thực, hoặc mê mất phương hướng, hoặc quên mất đường về, hoảng hốt sợ hãi, không thể tự thoát được, thì ta liền dùng đủ thứ phương tiện để cứu giúp họ.

Vì người gặp nạn trên biển, thì ta hiện làm người lái thuyền, làm vua cá, vua ngựa, vua rùa, vua voi, vua A tu la và Thần Biển. Vì những chúng sinh đó, ngăn gió mưa ác, ngừng sóng to, mà dẫn đường cho họ, chỉ bờ cho họ, khiến cho họ khỏi sợ hãi, đều được an ổn. Ta lại nghĩ như vầy: Nguyện đem căn lành nầy, hồi hướng cho chúng sinh, khiến cho họ xả lìa tất cả các khổ.

Vì những người gặp nạn trên biển, thì ta liền vì họ hiện làm người lái thuyền, làm vua cá, vua ngựa, vua rùa, vua voi, vua A tu la và Thần Biển. Vì những chúng sinh đó ngăn gió ác mưa lớn, ngừng sóng to, mà dẫn đường cho họ, chỉ bờ cho họ, khiến cho họ khỏi sợ hãi, đều được an ổn. Ta lại nghĩ như vầy: “Nguyện đem căn lành nầy, hồi hướng cho chúng sinh, khiến cho họ xả lìa tất cả các khổ, mà được an lạc”.

Lúc trước ở Hương Cảng, có người rớt xuống biển, được con rùa lớn cõng đưa vào bờ, cứu sống một sinh mạng. Đó là Bồ Tát thị hiện đủ thứ hình dáng để cứu độ chúng sinh, nhưng người vẫn không biết đó thôi!

Vì tất cả chúng sinh ở trên đất, trong đêm tối gặp sợ hãi, thì ta hiện làm mặt trời, mặt trăng và các tinh tú, đủ thứ ánh sáng, để soi sáng sớm tối. Hoặc hiện làm nhà cửa, hoặc hiện ra nhiều người, khiến cho họ được khỏi nạn sợ hãi. Nguyện đem căn lành nầy hồi hướng cho chúng sinh, đều khiến cho họ trừ diệt được các tối phiền não.

Vị Dạ Thần Bà San Bà Diễn Để lại nói: “Vì tất cả chúng sinh ở trên đất, trong đêm tối gặp sợ hãi, thì ta hiện làm mặt trời, mặt trăng và các tinh tú, đủ thứ ánh sáng, soi sáng sớm tối. Hoặc hiện làm nhà cửa, khiến cho chúng sinh được an ổn. Hoặc thị hiện ra rất nhiều người, khiến cho chúng sinh khỏi nạn sợ hãi. Ta nguyện đem căn lành nầy hồi hướng cho tất cả chúng sinh, đều khiến cho họ trừ diệt được các tối phiền não”.

Tất cả chúng sinh thương tiếc mạng sống, thích danh vọng, tham tiền tài, coi trọng chức quan, chấp trước nam nữ, luyến ái thê thiếp, chưa thoả lòng mong cầu, sinh nhiều lo sợ, thì ta đều cứu giúp, khiến cho họ lìa khổ. 

Vì người đi vào núi nguy hiểm mà gặp nạn, thì ta làm thiện thần, hiện thân gần gũi. Hoặc hiện làm chim đẹp, hót tiếng hay, để làm cho họ vui. Hoặc làm thuốc hay, ánh sáng chiếu soi, chỉ chỗ có trái cây, chỉ chỗ có giếng nước, suối nước, chỉ con đường chánh, chỉ chỗ đất bằng phẳng, khiến cho họ lìa khỏi các hoạn nạn. 

Vì người đi nơi đường hiểm hoang dã, rừng rậm quấn quít ngăn trở, mây dày đen tối mà sợ hãi, thì ta thị hiện cho họ con đường chánh, khiến cho họ được thoát khỏi. Ta bèn nghĩ như vầy: Nguyện tất cả chúng sinh đốn rừng rậm tà kiến, chặt đứt lưới tham ái, ra khỏi đồng hoang sinh tử, diệt phiền não đen tối, đi vào con đường chánh bằng phẳng nhất thiết trí, đến nơi rốt ráo an lạc không sợ hãi.

Tất cả chúng sinh thương tiếc mạng sống, hoặc thích danh vọng, hoặc tham tiền tài, hoặc coi trọng chức quan, hoặc chấp trước nam nữ, hoặc luyến ái thê thiếp, buông bỏ tình ái chẳng được. Họ chưa thoả lòng mong cầu, sinh nhiều lo sợ, thì ta đều cứu giúp họ, khiến cho họ lìa khỏi tất cả khổ não. Ta lại vì người đi vào núi nguy hiểm mà gặp nạn, thì ta làm thiện thần, hiện thân gần gũi. Hoặc hiện làm chim đẹp, hót tiếng hay, để làm cho họ vui. Hoặc làm thuốc hay, ánh sáng chiếu soi họ, chỉ chỗ có trái cây, chỉ chỗ có giếng nước và suối nước, khiến cho họ được uống nước mà hết khát. Lại chỉ cho họ con đường chánh, chỉ chỗ đất bằng phẳng, khiến cho họ lìa khỏi các hoạn nạn. Ta lại vì người đi nơi đường hiểm hoang dã, rừng rậm quấn quít ngăn trở, mây dày đen tối mà sợ hãi, thì ta chỉ cho họ con đường chánh, khiến cho họ được thoát khỏi. Sau đó ta bèn nghĩ như vầy: “Nguyện tất cả chúng sinh đốn ngã rừng rậm tà kiến, chặt đứt lưới tham ái, ra khỏi đồng hoang sinh tử, diệt trừ phiền não đen tối, đi vào con đường chánh bằng phẳng nhất thiết trí, đạt đến nơi rốt ráo an lạc không sợ hãi”.

Đoạn nầy miêu tả rất nhiều giai đoạn khác nhau, cũng ẩn thị đủ thứ cảnh giới của đất tâm. Rừng rậm hoang vắng trong đất tâm, mây đen tối dày đặc là đầy dẫy tà ác gian xảo, khiến cho chúng sinh chẳng có chỗ nương tựa, mà mất đi con đường chánh giác. Đây cũng là đủ thứ cảnh giới pháp môn trong đất tâm và nhiệm vụ Bồ Tát cứu độ chúng sinh.

Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh, ưa chấp cõi nước mà sầu khổ, thì ta dùng phương tiện, khiến cho họ sinh nhàm lìa. Bèn nghĩ như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh, đừng chấp trước các uẩn, trụ cảnh giới Tát Bà Nhạ của tất cả chư Phật.

Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh, ưa chấp cõi nước mà sinh ra sầu lo khổ não, thì ta dùng pháp môn phương tiện, khiến cho họ sinh tâm nhàm lìa. Sau đó ta bèn nghĩ như vầy: “Nguyện cho tất cả chúng sinh, đừng chấp trước các uẩn sắc thọ tưởng hành thức, mà an trụ nơi cảnh giới Tát Bà Nhạ của tất cả chư Phật”.

Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh, ưa chấp tụ lạc, tham ái nhà cửa, thường ở chỗ đen tối, thọ các khổ, thì ta vì họ thuyết pháp, khiến cho họ sinh nhàm lìa, khiến cho được pháp đầy đủ, khiến cho họ nương pháp mà trụ. Bèn nghĩ như vầy: Nguyện cho tất cả chúng sinh, đều không tham ưa tụ lạc sáu nơi, sớm được thoát khỏi cảnh giới sinh tử, rốt ráo an trụ thành nhất thiết trí.

Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh, ưa chấp vào tụ lạc, tham ái nhà cửa phòng ốc, không được toại tâm mãn nguyện, thường ở chỗ đen tối, thọ các đau khổ, thì ta vì họ thuyết tất cả pháp vô thường, khiến cho họ sinh tâm nhàm lìa hoàn cảnh, khiến cho được pháp đầy đủ, khiến cho họ nương pháp mà trụ. Sau đó ta bèn nghĩ như vầy: “Nguyện cho tất cả chúng sinh, đều không tham ưa tụ lạc sáu nơi (Sắc thanh hương vị xúc pháp), sớm được thoát khỏi cảnh giới sinh tử, rốt ráo an trụ thành nhất thiết trí, tức là thành Niết Bàn không sinh không diệt”.

Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh, đi trong đêm tối, mê hoặc mười phương. Nơi đường bằng phẳng, sinh tưởng hiểm nạn. Nơi đường hiểm nạn, sinh tưởng bằng phẳng. Lấy cao làm thấp, lấy thấp làm cao. Tâm họ mê hoặc, sinh đại khổ não. Ta dùng phương tiện, ánh sáng chiếu họ. Nếu người muốn thoát ra, thì ta chỉ cửa nẻo cho họ. Nếu người muốn đi, thì ta chỉ đường cho họ. Muốn qua sông thì ta chỉ cây cầu. Muốn qua sông biển, thì ta cho thuyền bè. Người thích xem phương hướng, thì ta chỉ cho họ chỗ khỏi an nguy. Người muốn nghỉ ngơi, thì ta chỉ cho họ chỗ thành ấp có nước, có cây. Bèn nghĩ như vầy: Như ta chiếu trừ đêm tối nơi đây, khiến cho các việc thế gian, đều được tuyên dương rõ ràng. Ta nguyện dùng ánh sáng trí huệ, đều chiếu soi khắp tất cả chúng sinh ở trong đêm dài đen tối vô minh.

Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh, đi trong đêm tối, mê hoặc mười phương. Nơi đường bằng phẳng, thì nghĩ tưởng hiểm nạn khó khăn. Nơi đường hiểm nạn, thì nghĩ tưởng bằng phẳng. Lấy cao làm thấp, lấy thấp làm cao. Tâm họ mê loạn nghi hoặc, sinh đại khổ não. Lúc đó, ta dùng pháp môn phương tiện, ánh sáng chiếu soi đến họ. Nếu người muốn thoát khỏi ba cõi, thì ta chỉ cửa nẻo cho họ. Nếu người muốn đi, thì ta chỉ đường cho họ đi. Muốn qua sông thì ta chỉ cây cầu cho họ. Muốn qua sông biển, thì ta cho họ thuyền bè. Người thích xem phương hướng, thì ta chỉ cho họ chỗ khỏi an nguy. Người muốn nghỉ ngơi, thì ta chỉ cho họ chỗ thành ấp có nước, có cây. Sau đó ta bèn nghĩ như vầy: “Như ta chiếu trừ đêm tối nơi đây, khiến cho các việc thế gian, đều được tuyên dương rõ ràng. Ta nguyện dùng ánh sáng trí huệ, đều chiếu soi khắp tất cả chúng sinh ở trong đêm dài đen tối vô minh”.

Do đó có thể biết, Bồ Tát vận dụng đủ thứ phương tiện giáo hoá chúng sinh, các Ngài thường hoá thân làm mặt trời, mặt trăng, tinh tú, núi biển sông hồ, cầu đường, nhà cửa, cây cối, hoa quả, tùng lâm, hoặc động vật khác nhau, mục đích đều muốn khiến cho chúng sinh được an lạc.

Các chúng sinh đó, không có mắt trí huệ, bị tâm tưởng thấy điên đảo che phủ, tưởng vô thường cho là thường, không vui cho là vui, vô ngã cho là ngã, bất tịnh cho là tịnh. Kiên cố chấp trước pháp, ta, người, chúng sinh, uẩn giới xứ. Mê hoặc nhân quả, chẳng biết thiện ác, giết hại chúng sinh, cho đến tà kiến, bất hiếu với cha mẹ, chẳng kính bậc Sa Môn và Bà La Môn. Chẳng biết người ác, chẳng biết người thiện. Tham trước việc ác, an trụ pháp tà, huỷ báng Như Lai, phá hoại bánh xe chánh pháp. Sỉ nhục thương hại các Bồ Tát, khinh đạo đại thừa, dứt tâm bồ đề. Đối với người có ơn, ngược lại thêm lòng giết hại, đối với người vô ơn, thường mang lòng oán kết. Huỷ báng Hiền Thánh, gần gũi bạn ác. Trộm vật của chùa tháp, làm tội ngũ nghịch, chẳng bao lâu sẽ đoạ vào ba đường ác. 

Tôi nguyện sớm dùng đại trí quang minh, phá vô minh đen tối của các chúng sinh đó, khiến cho họ mau phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Khi phát tâm rồi, sẽ chỉ bày thừa Phổ Hiền, mở đạo Thập lực. Cũng chỉ bày cho họ cảnh giới Như Lai Pháp Vương, cũng chỉ bày thành nhất thiết trí của chư Phật, hạnh tu của chư Phật, tự tại của chư Phật, thành tựu của chư Phật, tổng trì của chư Phật, cùng đồng một thân của tất cả chư Phật, nơi bình đẳng của tất cả chư Phật, khiến cho họ an trụ.

Tất cả chúng sinh đó, không có con mắt trí huệ, bị màng vọng tưởng tà tri tà kiến điên đảo che phủ. Họ tưởng vô thường cho là thường, không vui cho là vui, vô ngã cho là ngã, bất tịnh cho là tịnh. Bốn đức Niết Bàn là thường lạc ngã tịnh, nhưng chúng sinh điên đảo thị phi, chẳng rõ sự lý. Họ kiên cố chấp trước vào bốn tướng: Ta, người, chúng sinh, thọ mạng, và năm uẩn (Sắc thọ tưởng hành thức), 18 giới (Mắt tai mũi lưỡi thân ý, sắc thanh hương vị xúc pháp, ở giữa sinh ra nhãn thức, nhĩ thức, tĩ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức), 12 xứ (Mắt tai mũi lưỡi thân ý, sắc thanh hương vị xúc pháp). Họ mê hoặc nhân quả, chẳng biết thiện ác, vì lợi ích của chính mình, mà giết hại chúng sinh khác. Tệ hại nhất là hoan hỉ tà tri tà kiến, bất hiếu với cha mẹ, chẳng kính bậc Sa Môn và Bà La Môn tu hạnh thanh tịnh. Họ chẳng biết người ác, chẳng biết người thiện. Tham ái chấp trước việc ác, suốt ngày đến tối ăn uống chơi bời. An trụ pháp tà, huỷ báng Phật, phá hoại bánh xe chánh pháp. Họ sỉ nhục mắng chửi thương hại các Bồ Tát, khinh đại thừa Phật đạo, dứt tâm bồ đề. Đối với người có ơn, ngược lại thêm lòng giết hại, thế giới nầy đầy dẫy những người nầy. Đối với người vô ơn, trong tâm thường mang lòng cừa oán kết thù. Họ huỷ báng bậc Hiền Thánh, gần gũi bạn ác. Trộm cắp vật dụng của chùa tháp, làm tội ngũ nghịch (giết cha, giết mẹ, giết A la hán, phá hoà hợp Tăng, làm thân Phật chảy máu), chẳng bao lâu sẽ đoạ vào ba đường ác (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh).

Tôi nguyện sớm dùng đại trí quang minh, để phá tan vô minh đen tối của các chúng sinh đó, khiến cho họ mau phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Khi phát tâm rồi, ta sẽ chỉ bày thừa Phổ Hiền, mở đạo Thập lực, cũng chỉ bày cho họ cảnh giới của Như Lai Pháp Vương, đồng thời cũng chỉ bày thành nhất thiết trí của chư Phật, hạnh tu của chư Phật, tự tại của chư Phật, thành tựu của chư Phật, tổng trì của chư Phật, cùng đồng một thân của tất cả chư Phật mười phương ba đời, nơi bình đẳng của tất cả chư Phật, khiến cho họ an trụ ở trong đó.

Đoạn nầy, vị Dạ Thần tường thuật lại bệnh phiền não của chúng sinh, sau đó phát nguyện muốn giúp đỡ họ diệt trừ tà tri tà kiến, khiến cho họ sớm đến được nơi an lạc rốt ráo.

Thiện nam tử! Tất cả chúng sinh, hoặc bị bệnh trói buộc, hoặc bị già xâm lấn, hoặc bị khổ bần cùng, hoặc gặp hoạn nạn, hoặc phạm vương pháp, bị bắt giam sẽ thọ hình, không chỗ nương tựa, sinh lòng sợ hãi, thì ta đều cứu giúp. 

Lại nghĩ như vầy: Ta nguyện dùng pháp nhiếp khắp chúng sinh, khiến cho họ giải thoát tất cả phiền não, sinh già bệnh chết, lo sầu khổ hoạn. Gần thiện tri thức, thường tu pháp bố thí. Siêng tu nghiệp lành, mau đắc được pháp thân thanh tịnh của Như Lai, trụ nơi rốt ráo không biến đổi.

Thiện nam tử! Tất cả chúng sinh, hoặc bị bệnh trói buộc, hoặc bị già xâm lấn, hoặc bị khổ bần cùng, hoặc gặp thiên tai nhân hoạ, đủ thứ các tai nạn, hoặc phạm vương pháp, bị bắt giam sẽ phải thọ hình phạt, không chỗ nương tựa, sinh lòng sợ hãi, thì ta đều cứu giúp họ, khiến cho họ được an ổn. Sau đó ta lại nghĩ như vầy: “Ta nguyện dùng Phật pháp nhiếp thọ khắp tất cả chúng sinh, khiến cho họ giải thoát tất cả phiền não, sinh già bệnh chết, lo sầu khổ hoạn. Khiến cho họ gần gũi thiện tri thức, thường tu hành pháp bố thí. Siêng tu nghiệp lành, mau đắc được pháp thân thanh tịnh của Như Lai, mà trụ nơi rốt ráo không biến đổi, tức là thành Niết Bàn”.

Thiện nam tử! Tất cả chúng sinh, vào rừng rậm tà kiến, trụ nơi tà đạo. Nơi các cảnh giới khởi tà phân biệt, thường tạo nghiệp thân miệng ý bất thiện. Vọng tưởng làm đủ thứ các khổ hạnh tà kiến: Chẳng chánh giác mà sinh tưởng chánh giác. Chánh giác mà sinh tưởng chẳng chánh giác. Do ác tri thức nhiếp thọ, nên khởi ác kiến, sẽ đoạ vào đường ác. Ta dùng đủ thứ các môn phương tiện để cứu hộ họ, khiến cho họ trụ chánh kiến, được sinh trong trời người. 

Ta lại nghĩ như vầy: Như ta cứu các chúng sinh sắp bị đọa vào đường ác, ta nguyện cứu khắp tất cả chúng sinh, đều khiến cho họ được giải thoát tất cả các khổ, trụ Ba La Mật, đạo xuất thế của bậc Thánh. Được không thối chuyển nơi nhất thiết trí, đầy đủ nguyện Phổ Hiền, gần nhất thiết trí, mà chẳng xả lìa các Bồ Tát hạnh, thường siêng giáo hoá tất cả chúng sinh.

Thiện nam tử! Tất cả chúng sinh, vào rừng rậm tà kiến, trụ nơi tà đạo. Nơi các cảnh giới khởi tà kiến phân biệt, thường tạo nghiệp thân miệng ý bất thiện. Vọng tưởng làm đủ thứ các khổ hạnh tà kiến: Chẳng chánh giác mà sinh tưởng chánh giác. Chánh giác mà sinh tưởng chẳng chánh giác. Bởi vì họ do ác tri thức nhiếp thọ khống chế, nên sinh khởi kiến giải tà ác, tương lai sẽ đoạ vào ba đường ác. Ta bèn dùng đủ thứ pháp môn phương tiện để cứu hộ họ, khiến cho họ trụ nơi chánh tri chánh kiến, được sinh trong trời người. Sau đó ta lại nghĩ như vầy: “Như ta cứu các chúng sinh đó sắp bị đọa vào đường ác, ta nguyện cũng cứu khắp tất cả chúng sinh, đều khiến cho họ được giải thoát tất cả các khổ ách, trụ nơi Ba La Mật, đạo xuất thế của bậc Thánh. Được không thối chuyển nơi nhất thiết trí, đầy đủ nguyện Phổ Hiền, gần nhất thiết trí, mà chẳng xả lìa các Bồ Tát hạnh, thường siêng giáo hoá tất cả chúng sinh”.

Bấy giờ, vị Chủ Dạ Thần Bà San Bà Diễn Để muốn thuật lại nghĩa của giải thoát nầy, bèn nương thần lực của Phật, quán sát mười phương, vì Thiện Tài đồng tử mà nói kệ rằng:

Môn giải thoát ta đây
Sinh tịnh pháp quang minh
Hay phá tối ngu si
Đợi thời mà diễn nói.

Lúc đó, vị Chủ Dạ Thần Bà San Bà Diễn Để muốn thuật lại nghĩa lý của giải thoát nầy, bèn nương đại oai thần lực của mười phương chư Phật, quán sát căn tánh của chúng sinh mười phương, sau đó vì Thiện Tài đồng tử mà nói kệ dưới đây:

“Môn giải thoát của ta đây, hay sinh ra pháp quang minh thanh tịnh, hay phá trừ ngu si đen tối, tất phải đợi đúng thời mới diễn nói”.

Con người phải có chánh tri chánh kiến, nhưng không thể bới lông tìm vết. Trong Tâm Kinh có nói: “Vô trí diệc vô đắc”. Tức là không trí cũng không đắc, lại làm thế nào mà đắc được môn giải thoát nầy? Nếu bạn nói như vậy, thì tức là không tin hết thảy Phật pháp. Trong Tâm Kinh nói như thế, đó là giảng về Bát Nhã, ở đây là giảng về cảnh giới tu Bồ Tát đạo chứng đắc được. Trong Tâm Kinh là không trí cũng không đắc, ở đây không thể giải thích như thế. Bạn không thể đem hai bộ Kinh nầy ra luận bàn, sẽ sinh ra sự hoài nghi, không tin.

Xưa ta vô biên kiếp
Siêng tu từ rộng lớn
Che khắp các thế gian
Phật tử nên tu học.

Thuở xưa ta ở trong vô biên đại kiếp, lúc nào cũng siêng năng tu hành tâm từ bi rộng lớn. Che khắp tất cả chúng sinh thế gian, khiến cho họ đều được pháp ích của ta. Phật tử! Ngươi cũng nên tu hành pháp môn nầy.

Biển đại bi tịch tĩnh
Sinh ra Phật ba đời
Hay diệt khổ chúng sinh
Ngươi nên vào môn nầy.

Biển nguyện lực đại bi tịch tĩnh đó, hay sinh ra tất cả chư Phật ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Ngươi có tâm đại từ nầy, thì có thể tu hành Bồ Tát đạo, học Bồ Tát hạnh, sẽ diệt được khổ của chúng sinh. Ngươi nên vào tu học hạnh môn đại bi nầy.

Hay sinh vui thế gian
Cũng sinh vui xuất thế
Khiến tâm ta hoan hỉ
Ngươi nên vào môn nầy.

Môn giải thoát đại bi nầy hay sinh tất cả vui của thế gian, cũng sinh ra vui của xuất thế gian, thường khiến cho tâm ta cảm thấy hoan hỉ, ngươi cũng nên vào tu học pháp môn nầy.

Hãy bỏ hoạn hữu vi
Cũng xa quả Thanh Văn
Tịnh tu lực chư Phật
Ngươi nên vào môn nầy.

Ngươi hãy xả bỏ hết lo sầu hoạn nạn hữu vi, cũng xa lìa quả vị Thanh Văn thừa, thanh tịnh tu hành mười lực của chư Phật, ngươi nên vào môn đại bi nầy.

Mắt ta rất thanh tịnh
Thấy khắp mười phương cõi
Cũng thấy Phật trong đó
Ngồi dưới cội bồ đề.

Mắt của ta rất thanh tịnh, có thể nhìn thấy khắp mười phương cõi nước chư Phật, cũng thấy chư Phật ở trong đó, đang ngồi dưới cội bồ đề ban đầu thành Chánh Giác, chuyển bánh xe pháp, để giáo hoá chúng sinh.

Tướng tốt trang nghiêm thân
Vô lượng chúng vây quanh
Trong mỗi lỗ chân lông
Hiện đủ thứ quang minh.

Các đức Phật đó đều đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, vạn đức trang nghiêm thân, có vô lượng đại chúng vây quanh Phật. Trong mỗi lỗ chân lông, có đủ thứ quang minh hiện ra.

Thấy các loại quần sinh
Chết đây mà sinh kia
Luân hồi trong năm cõi
Thường thọ vô lượng khổ.

Ta cũng thấy tất cả các loại quần sinh, chết ở đây mà sinh về kia, luân hồi trong cõi người, cõi A tu la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh năm cõi, thường thọ vô lượng khổ sinh tử.

Tai ta rất thanh tịnh
Xa gần thảy đều nghe
Tất cả biển lời nói
Đều nghe nhớ trì được.

Lỗ tai của ta rất thanh tịnh, hết thảy âm thanh xa gần đều nghe được. Tất cả biển lời nói, ta đều hoàn toàn nghe nhớ thọ trì được, ta đã vào sâu tam muội lời nói.

Chư Phật chuyển pháp luân
Tiếng diệu không gì sánh
Hết thảy các văn tự
Thảy đều nhớ trì được.

Tất cả chư Phật chuyển bánh xe chánh pháp, âm thanh của các Ngài diệu không thể nghĩ bàn, chẳng gì sánh bằng. Hết thảy lời lẽ văn tự, ta đều nhớ trì nơi căn tai.

Mũi ta rất thanh tịnh
Nơi pháp đều vô ngại
Tất cả đều tự tại
Ngươi nên vào môn nầy.

Căn mũi của ta rất thanh tịnh, đối với tất cả pháp đều vô ngại, tất cả đều đắc được tự tại, ngươi nên vào pháp môn nầy.

Lưỡi ta rất rộng lớn
Tịnh tốt hay diễn nói
Tuỳ ứng diễn diệu pháp
Ngươi nên vào môn nầy.

Căn lưỡi của ta rất rộng lớn, là lưỡi rộng dài (một trong ba mươi hai tướng tốt của Phật), rất thanh tịnh tốt đẹp, hay diễn nói thao thao bất tuyệt. Tuỳ thuận căn cơ của chúng sinh mà diễn nói diệu pháp, ngươi nên vào pháp môn nầy.

Thân ta rất thanh tịnh
Ba đời đồng như như
Tuỳ tâm các chúng sinh
Tất cả thảy đều hiện.

Thân ta rất thanh tịnh, với thanh tịnh diệu pháp thân không hai không khác, có thể đến khắp ba đời, quá khứ, hiện tại, vị lai, mà như như bất động. Tuỳ thuận tâm tất cả chúng sinh, mà khắp thị hiện ở trước họ.

Tâm ta tịnh vô ngại
Như không hàm vạn tượng
Khắp niệm các Như Lai
Mà cũng chẳng phân biệt.

Tâm ta thanh tịnh vô ngại, sáu căn thanh tịnh, với hư không là một, có thể bao hàm vạn hữu, ta có thể khắp niệm tất cả các Như Lai, mà cũng chẳng sinh tâm phân biệt.

Biết rõ vô lượng cõi
Tất cả các biển tâm
Các căn và dục lạc
Mà cũng chẳng phân biệt.

Ta biết rõ vô lượng cõi nước chư Phật, tất cả biển tâm chúng sinh, căn tánh chúng sinh và dục lạc, mà cũng chẳng phân biệt họ.

Ta dùng đại thần thông
Chấn động vô lượng cõi
Thân ta đều đến khắp
Điều phục người khó điều.

Chẳng những ta dùng đại thần thông, chấn động vô lượng cõi, khiến cho phát sinh sáu thứ chấn động, mà thân ta đồng thời cũng đều đến khắp những cõi nước đó, để điều phục những chúng sinh khó điều phục.

Phước ta rất rộng lớn
Như không chẳng cùng tận
Cúng dường các Như Lai
Lợi ích tất cả chúng.

Phước báo của ta rất rộng lớn, như hư không chẳng cùng tận. Ta cúng dường tất cả chư Phật, lợi ích tất cả chúng sinh.

Trí ta rộng thanh tịnh
Biết rõ biển các pháp
Trừ diệt hoặc chúng sinh
Ngươi nên vào môn nầy.

Trí huệ của ta rộng lớn thanh tịnh, biết rõ biển tất cả các pháp, trừ diệt được nghi hoặc của chúng sinh, ngươi cũng nên vào pháp môn nầy.

Ta biết Phật ba đời
Cùng với tất cả pháp
Cũng rõ phương tiện đó
Môn nầy khắp trên hết.

Ta biết chư Phật ba đời, và tất cả các pháp, cũng hiểu rõ pháp môn phương tiện của chư Phật, pháp môn nầy trên hết khắp tất cả.

Thấy trong mỗi hạt bụi
Ba đời tất cả cõi
Cũng thấy chư Phật đó
Đây là sức phổ môn.

Trong mỗi mỗi hạt bụi, ta thấy được tất cả cõi nước của chư Phật ba đời, cũng thấy được tất cả chư Phật mười phương ba đời. Đây là sức phổ môn ta chứng đuợc.

Trong bụi cõi mười phương
Đều thấy Lô Xá Na
Ngồi dưới cội bồ đề
Thành đạo diễn diệu pháp.

Ta ở trong bụi cõi mười phương chư Phật, đều thấy được pháp thân Phật Lô Xá Na, ngồi ở dưới cội bồ đề, ban đầu thành đạo, chuyển bánh xe pháp, diễn nói diệu pháp, giáo hoá chúng sinh.

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử bạch với Chủ Dạ Thần rằng: Ngài đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề được bao lâu? Đắc được giải thoát nầy lúc nào? Mà có thể lợi ích chúng sinh như thế?

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử bạch với Chủ Dạ Thần rằng: “Ngài đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề được bao lâu rồi? Ngài đắc được giải thoát nầy lúc nào? Mà có thể lợi ích tất cả chúng sinh như thế”?

Vị Chủ Dạ Thần đáp rằng: Thiện nam tử! Vào đời quá khứ trải qua số kiếp nhiều như hạt bụi núi Tu Di, có kiếp tên là Tịch Tĩnh Quang. Thế giới tên là Xuất Sinh Diệu Bảo, có năm ức vị Phật ra đời. Trong thế giới đó, có bốn thiên hạ, tên là Bảo Nguyệt Đăng Quang. Có thành tên là Liên Hoa Quang, ông vua tên là Thiện Pháp Độ, dùng pháp bố thí giáo hoá, thành tựu bảy báu, làm vua bốn thiên hạ. Vua có phu nhân, tên là Pháp Huệ Nguyệt, nửa đêm đang ngủ.

Vị Chủ Dạ Thần đáp rằng: “Thiện nam tử! Vào đời quá khứ trải qua số kiếp nhiều như hạt bụi núi Tu Di, có một kiếp tên là Tịch Tĩnh Quang. Thế giới đó tên là Xuất Sinh Diệu Bảo. Trong kiếp đó, có năm ức vị Phật ra đời. Trong thế giới đó, có bốn thiên hạ, tên là Bảo Nguyệt Đăng Quang. Có thành tên là Liên Hoa Quang. Trong thành đó, có ông vua tên là Thiện Pháp Độ, ông ta dùng Phật pháp bố thí giáo hoá chúng sinh, thành tựu bảy báu của kim luân vương (Bánh xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, ngọc nữ báu, chủ tạng báu, chủ binh thần báu), mà xưng làm vua bốn thiên hạ. Vua có phu nhân, tên là Pháp Huệ Nguyệt. Tối hôm đó, nửa đêm đang ngủ.

Bấy giờ, hướng đông thành đó, có một khu rừng lớn, tên là Tịch Trụ. Trong rừng có một cây đại bồ đề, tên là Nhất Thiết Quang Ma Ni Vương Trang Nghiêm Thân, sinh ra tất cả Phật thần lực quang minh. 

Bấy giờ, có vị Phật hiệu là Nhất Thiết Pháp Lôi Âm Vương, đang ở dưới cây bồ đề đó, thành Đẳng Chánh Giác, phóng ra vô lượng sắc quang minh rộng lớn, chiếu khắp thế giới Xuất Sinh Diệu Bảo.

Lúc đó, ở hướng đông thành Liên Hoa Quang đó, có một khu rừng lớn, tên là Tịch Trụ. Trong rừng đó, có một cây đại bồ đề, tên là Nhất Thiết Quang Ma Ni Vương Trang Nghiêm Thân, sinh ra tất cả Phật thần lực quang minh. Lúc đó, có vị Phật hiệu là Nhất Thiết Pháp Lôi Âm Vương, đang ở dưới cây bồ đề đó, thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, phóng ra vô lượng màu sắc quang minh rộng lớn, chiếu khắp thế giới Xuất Sinh Diệu Bảo.

Trong thành Liên Hoa, có vị Chủ Dạ Thần, tên là Tịnh Nguyệt, đi đến chỗ phu nhân của vua là Pháp Huệ Nguyệt, lay động chuỗi ngọc trên thân, mà bảo rằng: Phu nhân nên biết! Như Lai Nhất Thiết Pháp Lôi Âm Vương, đang ở trong rừng Tịch Trụ, thành Vô Thượng Giác và rộng vì chúng sinh nói công đức tự tại thần lực của chư Phật, hết thảy hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, khiến cho phu nhân của vua phát tâm A nậu đa la tam miệu ta bồ đề, cúng dường đức Phật đó, và các Tăng chúng Bồ Tát Thanh Văn.

Trong thành Liên Hoa đó, có vị Chủ Dạ Thần, tên là Tịnh Nguyệt, đi đến chỗ phu nhân của vua là Pháp Huệ Nguyệt, lay động chuỗi ngọc trên thân của bà ta, để đánh thức dậy, sau đó nói với phu nhân rằng: “Phu nhân nên biết! Đức Như Lai Nhất Thiết Pháp Lôi Âm Vương, đang ở trong rừng Tịch Trụ, thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và rộng vì chúng sinh diễn nói công đức tự tại thần lực của chư Phật, và hết thảy hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền”, vị Dạ Thần Tịnh Nguyệt khiến cho phu nhân của vua phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà cúng dường đức Phật đó, và tất cả chúng Bồ Tát mười phương cùng với Tăng chúng Thanh Văn.

Thiện nam tử! Phu nhân của vua là Pháp Huệ Nguyệt thuở đó, đâu phải là người nào khác, chính là thân ta vậy. Nhờ ta ở chỗ đức Phật đó, phát tâm bồ đề trồng căn lành, nên trải qua số kiếp nhiều như hạt bụi núi Tu Di, chẳng sinh vào trong các cõi ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, cũng chẳng sinh vào nhà hạ tiện. Các căn đầy đủ, không có các khổ. Ở trong trời người, phước đức thù thắng. Chẳng sinh vào đời ác, luôn chẳng lìa khỏi Phật và các Bồ Tát đại thiện tri thức. Thường ở chỗ các Ngài, gieo trồng căn lành, trải qua số kiếp nhiều như hạt bụi tám mươi núi Tu Di, thường thọ an lạc, mà chưa đầy đủ các căn Bồ Tát.

Thiện nam tử! Phu nhân của vua là Pháp Huệ Nguyệt thuở đó, đâu phải là người nào khác, chính là thân ta vậy. Nhờ ta ở chỗ đức Phật đó, phát tâm bồ đề trồng căn lành, nên trải qua số kiếp nhiều như hạt bụi núi Tu Di, chưa từng sinh vào trong các cõi ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, cũng chẳng sinh vào nhà hạ tiện. Sáu căn của ta đầy đủ, không có các sự thống khổ. Ta ở trong trời người, phước đức rất thù thắng. Chẳng sinh vào đời ác, luôn luôn chẳng lìa khỏi Phật và các Bồ Tát đại thiện tri thức. Ta thường ở chỗ các Ngài, gieo trồng căn lành, trải qua số kiếp nhiều như hạt bụi tám mươi núi Tu Di, luôn luôn hưởng thọ sự an lạc, mà chưa đầy đủ các căn của Bồ Tát.

Qua những kiếp đó rồi, lại trải qua một vạn kiếp trước Hiền kiếp, có kiếp tên là Vô Ưu Biến Chiếu. Thế giới tên là Ly Cấu Diệu Quang. Trong thế giới đó, sạch dơ xen tạp. Có năm trăm vị Phật xuất hiện ra đời trong thế giới đó. Vị Phật thứ nhất, hiệu là Tu Di Tràng Tịch Tịnh Diệu Nhãn, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Ta là con gái của trưởng giả Danh Xưng, tên là Diệu Huệ Quang Minh, đoan chánh xinh đẹp. Vị Dạ Thần Tịnh Nguyệt đó, do vì nguyện lực, mà sinh trong thành vua Diệu Tràng, nơi thế giới Ly Cấu, một bốn thiên hạ, làm Chủ Dạ Thần, tên là Thanh Tịnh Nhãn. 

Một đêm nọ, ta đang ngủ bên cha mẹ, thì vị Chủ Dạ Thần Tịnh Nguyệt đó, đi đến chỗ ta, chấn động nhà của ta, phóng đại quang minh, mà hiện thân, tán thán công đức của Phật nói: Diệu Nhãn Như Lai đang ngồi toà bồ đề, vừa mới thành Chánh Giác, khuyên ta và cha mẹ cùng với quyến thuộc, hãy mau đến gặp đức Phật, tự đi trước dẫn đến chỗ đức Phật, dâng lễ vật lên cúng dường.

Qua các số kiếp nhiều như hạt bụi tám mươi núi Tu Di rồi, lại trải qua một vạn kiếp trước hiền kiếp, có kiếp tên là Vô Ưu Biến Chiếu. Thế giới tên là Ly Cấu Diệu Quang. Trong thế giới đó, có sự thanh tịnh và dơ bẩn xen tạp lẫn nhau. Thời đó, có năm trăm vị Phật xuất hiện ra đời trong thế giới đó. Vị Phật thứ nhất, hiệu là Tu Di Tràng Tịch Tịnh Diệu Nhãn, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Lúc đó, ta là con gái của trưởng giả Danh Xưng, tên là Diệu Huệ Quang Minh, rất đoan chánh xinh đẹp. Vị Dạ Thần Tịnh Nguyệt đó do vì nguyện lực, mà sinh trong thành vua Diệu Tràng, nơi thế giới Ly Cấu, một bốn thiên hạ, làm Chủ Dạ Thần, tên là Thanh Tịnh Nhãn.

Một đêm nọ, ta đang ngủ bên cha mẹ, thì vị Chủ Dạ Thần Tịnh Nguyệt đó, đi đến chỗ ta, chấn động nhà của ta, sau đó phóng đại quang minh, mà hiện thân, tán thán công đức của Phật nói: “Đức Phật Diệu Nhãn đang ngồi trên toà bồ đề kim cương báu, vừa mới thành Chánh Giác”, chẳng những khuyên ta, mà còn khuyên cha mẹ của ta, cùng với lục thân quyến thuộc, hãy mau đến gặp đức Phật, vị Chủ Dạ Thần tự đi trước dẫn chúng tôi đến chỗ đức Phật đó, chúng tôi dâng lễ vật lên cúng dường đức Phật đó.

Ta vừa thấy Phật, liền đắc được tam muội, tên là Sinh ra thấy Phật điều phục chúng sinh ba đời trí quang minh luân. Nhờ được tam muội nầy, nên nghĩ nhớ số kiếp nhiều như số hạt bụi núi Tu Di, cũng thấy chư Phật xuất hiện ở trong đó. Ở chỗ các đức Phật đó, lắng nghe diệu pháp. Nhờ nghe pháp, liền đắc được giải thoát pháp quang minh phá đen tối của tất cả chúng sinh.

Khi ta vừa thấy đức Phật Tu Di Tràng Tịch Tĩnh Diệu Nhãn đó, liền lập tức đắc được tam muội, tên là Sinh ra thấy Phật điều phục chúng sinh ba đời trí quang minh luân. Trải qua đại kiếp lâu dài đó, ta đều đắc được tam muội thù thắng của Bồ Tát. Nhờ ta đắc được tam muội nầy, nên liền nghĩ nhớ được số kiếp nhiều như số hạt bụi núi Tu Di, đồng thời cũng thấy chư Phật xuất hiện ra đời ở trong đó. Ta ở chỗ các đức Phật đó, lắng nghe diệu pháp. Nhờ nghe pháp, mà ta liền đắc được môn giải thoát pháp quang minh phá đen tối của tất cả chúng sinh.

Được giải thoát đó rồi, liền thấy thân mình đến khắp các thế giới nhiều như số hạt bụi cõi Phật, cũng thấy hết thảy chư Phật các thế giới đó. 
Lại thấy thân mình ở chỗ các đức Phật đó, cũng thấy tất cả chúng sinh thế giới đó. Hiểu rõ tiếng nói của họ, biết được căn tánh của họ. Biết thuở xưa họ đã từng làm bạn lành mà được nhiếp thọ. Tuỳ theo sự ưa thích của họ mà vì họ hiện thân, khiến cho họ sinh hoan hỉ. Khi ta đắc được giải thoát đó, thì niệm niệm tăng trưởng, tâm đó không gián đoạn. 

Lại thấy thân mình đến khắp các thế giới, nhiều như số hạt bụi trăm cõi Phật, tâm đó không gián đoạn. 

Lại thấy thân mình đến khắp các thế giới, nhiều như số hạt bụi ngàn cõi Phật, tâm đó không gián đoạn. 
Lại thấy thân mình đến khắp các thế giới, nhiều như số hạt bụi trăm ngàn cõi Phật. Niệm niệm như vậy cho đến các thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, cũng thấy tất cả Như Lai ở trong các thế giới đó, cũng thấy thân mình ở chỗ các đức Phật đó, lắng nghe diệu pháp, thọ trì ghi nhớ, quán sát biết rõ. Cũng biết biển bổn sự, biển các đại nguyện, của chư Phật đó. Các Như Lai đó nghiêm tịnh cõi Phật, ta cũng nghiêm tịnh, cũng thấy tất cả chúng sinh các thế giới đó, tuỳ người mà vì họ hiện thân, giáo hoá điều phục. Môn giải thoát nầy, niệm niệm tăng trưởng. Như vậy cho đến đầy khắp pháp giới.

Ta đắc được môn giải thoát pháp quang minh phá đen tối của tất cả chúng sinh đó rồi, liền lập tức thấy thân mình đến khắp các thế giới nhiều như số hạt bụi cõi Phật, đồng thời ta cũng thấy hết thảy chư Phật trong các thế giới đó. Lại thấy thân mình ở chỗ đạo tràng của các đức Phật đó, ta cũng thấy tất cả chúng sinh trong các thế giới đó, mà còn hiểu rõ tiếng nói của họ, biết được căn tánh của họ, biết thuở xưa họ đã từng làm bạn lành mà được nhiếp thọ, đó đều do được sự cảm ứng của môn giải thoát nầy. Ta tuỳ theo sự ưa thích của họ mà vì họ hiện thân, khiến cho họ sinh tâm hoan hỉ. Khi ta đắc được môn giải thoát đó, thì niệm niệm tăng trưởng, tâm bồ đề đó chưa từng gián đoạn.

Ta lại thấy thân mình đến khắp các thế giới nhiều như số hạt bụi trăm cõi Phật, mà tâm bồ đề đó cũng không gián đoạn.

Lại thấy thân mình đến khắp các thế giới nhiều như số hạt bụi ngàn cõi Phật, mà tâm bồ đề đó cũng không gián đoạn.

Lại thấy thân mình đến khắp các thế giới nhiều như số hạt bụi trăm ngàn cõi Phật. Niệm niệm như vậy cho đến các thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, ta cũng thấy tất cả Như Lai ở trong các thế giới đó, ta cũng thấy thân mình ở trong đạo tràng của các đức Phật đó, lắng nghe diệu pháp thâm sâu, thọ trì ghi nhớ, quán sát biết rõ. Ta cũng biết các biển bổn sự, các biển đại nguyện, của chư Phật đó. Các Như Lai đó nghiêm tịnh tất cả cõi Phật, ta cũng trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi Phật. Ta cũng thấy tất cả chúng sinh trong các thế giới đó, tuỳ căn cơ của họ mà vì họ hiện thân ra trước họ, để giáo hoá điều phục họ. Từ khi ta đắc được môn giải thoát nầy, niệm niệm tăng trưởng, như vậy cho đến đầy khắp pháp giới và hư không.

Thiện nam tử! Ta chỉ biết môn giải thoát Bồ Tát pháp quang minh phá đen tối của tất cả chúng sinh nầy. Như các đại Bồ Tát thành tựu vô biên hạnh nguyện Phổ Hiền. Vào khắp tất cả biển pháp giới. Đắc được tam muội chư Bồ Tát kim cang trí tràng tự tại. Sinh ra đại nguyện. Trụ trì giống Phật. Ở trong niệm niệm, thành tựu viên mãn tất cả biển đại công đức. Nghiêm tịnh tất cả thế giới rộng lớn. Dùng trí huệ tự tại, giáo hoá thành thục tất cả chúng sinh. Dùng trí huệ mặt trời, diệt trừ ám chướng của tất cả thế gian. Dùng trí huệ dũng mãnh, giác ngộ giấc ngủ của tất cả chúng sinh. Dùng trí huệ mặt trăng, quyết rõ nghi hoặc của tất cả chúng sinh. Dùng âm thanh tịnh, đoạn trừ chấp trước của tất cả các cõi. Nơi tất cả pháp giới, trong mỗi mỗi hạt bụi, thị hiện tất cả thần lực tự tại, mắt trí huệ sáng tịnh, thấy ba đời bình đẳng. Mà ta làm sao biết được những diệu hạnh đó? Nói được công đức đó? Vào được cảnh giới đó? Chỉ bày sự tự tại đó?

Thiện nam tử! Ta chỉ biết môn giải thoát Bồ Tát pháp quang minh phá đen tối của tất cả chúng sinh nầy. Như các đại Bồ Tát thành tựu vô biên hạnh nguyện Phổ Hiền. Vào khắp tất cả biển pháp giới. Đắc được tam muội chư Bồ Tát kim cang trí tràng tự tại. Sinh ra đại nguyện. Trụ trì giống Phật. Ở trong niệm niệm, thành tựu viên mãn tất cả biển đại công đức. Trang nghiêm thanh tịnh tất cả thế giới rộng lớn. Các Ngài dùng trí huệ tự tại, giáo hoá thành thục tất cả chúng sinh. Dùng trí huệ mặt trời, diệt trừ ám chướng của tất cả thế gian. Dùng trí huệ dũng mãnh, giác ngộ giấc ngủ của tất cả chúng sinh. Dùng trí huệ mặt trăng, quyết rõ nghi hoặc của tất cả chúng sinh. Dùng âm thanh tịnh, đoạn trừ chấp trước của tất cả tam giới hai mươi lăm cõi. Các Ngài nơi tất cả pháp giới, trong mỗi mỗi hạt bụi, thị hiện tất cả thần lực tự tại, mắt trí huệ sáng tịnh của các Ngài, thấy ba đời đều bình đẳng. Mà ta làm sao biết được những diệu hạnh đó? Diễn nói được công đức đó? Vào được những cảnh giới đó? Thị hiện sự tự tại đó? Sự thành tựu của các Ngài rất cao thâm khó dò, ta không thể nào hiểu biết được. Thiện nam tử! Ngươi nên đi tìm một vị thiện tri thức khác.

Thiện nam tử! Trong Bồ Đề Tràng nước Ma Kiệt Đề Diêm Phù Đề nầy, có vị Chủ Dạ Thần, tên là Phổ Đức Tịnh Quang. Ta vốn từ chỗ Ngài phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, thường dùng diệu pháp khai ngộ ta. Ngươi hãy đi đến đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Tu Bồ Tát đạo?

Thiện nam tử! Trong Bồ Đề Tràng nước Ma Kiệt Đề Diêm Phù Đề nầy, có vị Chủ Dạ Thần, tên là Phổ Đức Tịnh Quang. Ta vốn từ chỗ Ngài phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài thường dùng diệu pháp khai ngộ ta. Ngươi hãy đi đến đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Tu Bồ Tát đạo”?

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử hướng về Chủ Dạ Thần Bà San Bà Diễn Để mà nói kệ rằng:

Thấy Ngài thân thanh tịnh
Tướng tốt hơn thế gian
Như Văn Thù Sư Lợi
Cũng như núi báu chúa.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử hướng về Chủ Dạ Thần Bà San Bà Diễn Để mà nói kệ rằng: Con thấy thân thanh tịnh của Ngài, tướng tốt hơn tất cả thế gian, giống như Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, cũng như núi báu chúa.

Pháp thân Ngài thanh tịnh
Ba đời đều bình đẳng
Thế giới đều vào trong
Thành hoại đều không ngại.

Pháp thân Ngài thanh tịnh, ba đời đều bình đẳng, chẳng có sự phân biệt. Hết thảy thế giới đều vào trong thân Ngài, thế giới thành trụ hoại không đều không thể chướng ngại được Ngài.

Con quán tất cả cõi
Đều thấy hình tượng Ngài
Trong mỗi mỗi lỗ lông
Trăng sao đều giăng bày.

Con quán sát trong tất cả cõi, đều thấy hình tượng của Ngài đang ở đó giáo hoá chúng sinh, trong mỗi mỗi lỗ lông, đều có rất nhiều thế giới và trăng sao đều giăng bày với nhau.

Tâm Ngài rất rộng lớn
Như không khắp mười phương
Chư Phật đều vào trong
Thanh tịnh không phân biệt.

Tâm lượng của Ngài rất rộng lớn, giống như hư không đầy khắp mười phương, chư Phật đều vào hết trong thân của Ngài, rất thanh tịnh mà Ngài không có sự phân biệt.

Trong mỗi mỗi lỗ lông
Đều phóng vô số quang
Mười phương chỗ chư Phật
Khắp mưa đồ trang nghiêm.

Trong mỗi mỗi lỗ lông, đều phóng ra vô số quang minh, ở chỗ đạo tràng của mười phương chư Phật, Ngài khắp mưa xuống đồ cúng dường trang nghiêm.

Trong mỗi mỗi lỗ lông
Đều hiện vô số thân
Mười phương các cõi nước
Phương tiện độ chúng sinh.

Trong mỗi mỗi lỗ lông, đều hiện ra vô số thân, đến trong mười phương các cõi nước, dùng pháp môn phương tiện thiện xảo để độ tất cả chúng sinh.

Trong mỗi mỗi lỗ lông
Thị hiện vô lượng cõi
Tuỳ chúng sinh ưa thích
 Đủ thứ khiến thanh tịnh.

Trong mỗi mỗi lỗ lông của Ngài, thị hiện vô lượng cõi nước chư Phật, tuỳ tất cả chúng sinh ưa thích, mà dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, khiến cho chúng sinh được thanh tịnh.

Nếu có các chúng sinh
Nghe danh và thấy thân
Đều được công đức lợi
Thành tựu đạo bồ đề.

Nếu có các chúng sinh, nghe được danh hiệu của Ngài và thấy được thân Ngài, thì họ đều được công đức và lợi ích, mà thành tựu đạo bồ đề.

Nhiều kiếp ở cõi ác
Mới được thấy nghe Ngài
Cũng nên hoan hỉ thọ
Để diệt trừ phiền não.

Những chúng sinh đó nhiều kiếp trôi nổi ở trong ba đường ác, sau đó mới được thấy nghe Ngài, mà thoát khỏi thống khổ đường ác. Ngài nên hoan hỉ tiếp thọ sự cầu nguyện của chúng sinh, để diệt trừ phiền não của chúng sinh.

Kiếp nhiều bụi ngàn cõi
Khen chút công đức Ngài
Kiếp số có thể hết
Công đức không hết được.

Dù trải qua số kiếp nhiều như hạt bụi ngàn cõi Phật, để khen chút công đức Ngài nhỏ bằng chừng một sợi lông, cũng khen ngợi không hết được. Kiếp số có thể hết, nhưng công đức của Ngài không thể nào hết được.

Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử nói kệ đó rồi, đảnh lễ vị Chủ Dạ Thần, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng, rồi từ tạ mà đi.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nói kệ đó rồi, bèn đảnh lễ vị Chủ Dạ Thần, rồi đi nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng thiện tri thức, sau đó từ tạ mà đi về hướng nam, tìm cầu vị thiện tri thức khác.

Trang: 1 2 3 4 5