KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
– Hán dịch: Căn cứ bản dịch của Tam Tạng Pháp sư Đàm Vô Sấm,
Sa môn Tuệ Nghiêm, Tuệ Quán, và Tạ Linh Vân sửa lại
– Đời Tống
– Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ – Phan Rang
Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đổng Minh
PHẨM THỨ HAI MƯƠI TƯ: BỒ TÁT CA DIẾP
(Từ Quyển 31 đến Quyển 34)
– Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
– Thưa đức Thế Tôn ! Ðức Như Lai thương xót tất cả chúng sinh. Người chẳng điều phục có thể điều phục, người bất tịnh có thể làm cho tịnh, người không qui y có thể làm qui y, người chưa giải thoát có thể khiến cho giải thoát, được vào tám tự tại, làm Ðại y sư, làm Ðại Dược Vương. Tỳkheo Thiện Tinh là đệ tử của đức Phật, khi làm Bồ tát, sau khi xuất gia, thọ trì, đọc tụng, phân biệt, giải nói mười hai bộ Kinh, hoại tan kết sử cõi Dục, thu hoạch được bốn thiền mà sao đức Như Lai huyền ký rằng, Thiện Tinh chính là nhất xiển đề, người thấp hèn, ở địa ngục suốt kiếp, người chẳng thể sửa trị ? Ðức Như Lai vì sao chẳng trước vì ông ấy diễn nói chính pháp, rồi sau mới vì Bồ tát ? Ðức Như Lai Thế Tôn nếu chẳng thể cứu Tỳkheo Thiện Tinh thì làm sao được gọi là đấng có đại từ mẫn, có đại phương tiện ?
Ðức Phật dạy rằng :
– Này thiện nam tử ! Ví như cha mẹ chỉ có ba người con. Người con thứ nhất ấy có lòng tín thuận, cung kính cha mẹ, căn tính linh lợi, có trí tuệ, đối với việc thế gian có thể mau biết rõ. Người con thứ hai ấy chẳng kính cha mẹ, không lòng tín thuận, lợi căn, trí tuệ, đối với việc thế gian có thể mau rõ biết. Người con thứ ba ấy chẳng kính cha mẹ, không lòng tín thuận, căn tính ám độn, không có trí tuệ. Cha mẹ nếu khi muốn dạy bảo chúng thì nên dạy ai trước ? Thân ái với ai trước ? Phải trước dạy cho ai biết việc thế gian ?
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
– Thưa đức Thế Tôn ! Nên trước dạy trao cho người con có lòng tín thuận, cung kính cha mẹ, lợi căn, trí tuệ, hiểu biết việc đời. Tiếp theo dạy đến người con thứ hai, rồi mới đến người con thứ ba. Nhưng mà hai người con kia tuy không có lòng tín thuận cung kính nhưng vì từ niệm nên tiếp theo phải dạy bảo họ !
– Này thiện nam tử ! Như Lai cũng vậy ! Ba người con kia, người đầu tiên là dụ cho Bồ tát, người ở giữa là dụ cho Thanh Văn, người sau cùng là dụ cho nhất xiển đề. Như ý nghĩa vi tế trong các Kinh của mười hai bộ Kinh, ta trước đã vì các Bồ tát mà nói. Ý nghĩa thiển cận của Kinh thì ta vì hàng Thanh Văn mà nói. Còn ý nghĩa thế gian thì ta vì bọn nhất xiển đề, ngũ nghịch tội mà nói. Trong đời hiện tại tuy không có lợi ích nhưng do lòng thương xót nên làm phát sinh những chủng tử (hạt giống) thiện cho đời sau. Này thiện nam tử ! Như có ba thứ ruộng : Một là ruộng có kênh mương lưu thông tiện lợi dễ dàng, không có những cát, đất mặn, sành, đá, gai góc… thì gieo trồng một thu được cả trăm. Hai là ruộng tuy không có cát, đất mặn, sành đá, gai góc nhưng kênh mương hiểm trở khó khăn thì thu hoạch kết quả giảm đi một nửa. Ba là ruộng mà kênh mương hiểm trở khó khăn, có nhiều cát, đất mặn, sành, đá, gai góc thì gieo trồng một, chỉ thu hoạch được một là cỏ khô. Này thiện nam tử ! Người nông phu, trong tháng mùa Xuân, trước nên gieo trồng ruộng nào?
– Thưa đức Thế Tôn ! Trước họ nên gieo trồng ở ruộng đầu tiên, tiếp đến là ở ruộng thứ hai, rồi sau mới đến loại ruộng thứ ba.
– Ruộng đầu tiên là dụ cho Bồ tát, ruộng tiếp theo là dụ cho Thanh Văn, ruộng sau cùng là dụ cho nhất xiển đề. Này thiện nam tử ! Ví như ba cái đồ đựng : một cái lành lặn (hoàn hảo), cái thứ hai bị rò rỉ, cái thứ ba bị vỡ. Nếu muốn đựng đầy sữa, cao sữa, ván sữa, nước thì trước dùng cái nào?
– Thưa đức Thế Tôn ! Nên dùng cái lành lặn, tiếp đến dùng cái rò rỉ, sau mới dùng đến cái bị vỡ !
– Cái lành lặn sạch sẽ ấy là dụ cho Bồ tát tăng, cái rò rỉ là dụ cho Thanh Văn, cái bị vỡ là dụ cho nhất xiển đề. Này thiện nam tử ! Như có ba người bệnh đều đi đến chỗ thầy thuốc : Một người dễ điều trị, người thứ hai khó điều trị, người thứ ba thì chẳng thể điều trị. Này thiện nam tử ! Thầy thuốc nếu trị thì phải trị ai trước ?
– Thưa đức Thế Tôn ! Nên trước điều trị cho người dễ, tiếp đến là người thứ hai, sau mới đến người thứ ba. Vì sao vậy ? Vì là thân thuộc.
– Người dễ trị ấy là dụ cho Bồ tát tăng. Người khó trị ấy là dụ cho Thanh Văn tăng. Người chẳng thể trị là dụ cho nhất xiển đề. Với hạng người này trong đời hiện tại tuy không kết quả tốt nhưng vì thương xót nên ta vì họ gieo trồng những hạt giống lành cho đời sau. Này thiện nam tử ! Ví như vị đại vương có ba giống ngựa. Một là ngựa đã điều phục trẻ khỏe đầy sức mạnh. Hai là ngựa chẳng điều phục, trẻ khỏe, nhiều sức mạnh. Ba là ngựa chẳng điều phục, gầy yếu, già cả, không có sức. Nhà vua nếu cưỡi ngựa thì phải cưỡi con nào trước ?
– Thưa đức Thế Tôn ! Nên cưỡi con ngựa điều phục trẻ khỏe nhiều sức mạnh, tiếp đến cưỡi con thứ hai, sau mới cưỡi đến con thứ ba.
– Này thiện nam tử ! Con ngựa điều phục trẻ khỏe nhiều sức mạnh là dụ cho Bồ tát tăng, con ngựa thứ hai là dụ cho Thanh Văn tăng, con ngựa thứ ba là dụ cho nhất xiển đề. Trong đời hiện tại hạng người này tuy không có ích lợi nhưng vì thương xót nên ta vì họ gieo trồng hạt giống lành cho đời sau. Này thiện nam tử ! Như khi đại thí (làm bố thí lớn) có ba người đến : Một là người quí tộc, thông minh, trì giới. Hai là người thuộc dòng họ bậc trung, độn căn, trì giới. Ba là người thuộc dòng họ thấp hèn, độn căn, hủy giới. Này thiện nam tử ! Vị đại thí chủ này nên trước bố thí cho ai ?
– Thưa đức Thế Tôn ! Nên trước bố thí cho người quí tộc, lợi căn, trì giới, tiếp đến là người thứ hai, rồi sau mới đến người thứ ba.
– Người thứ nhất dụ cho Bồ tát tăng, người thứ hai dụ cho Thanh Văn tăng, người thứ ba dụ cho nhất xiển đề. Này thiện nam tử ! Như con sư tử lớn khi giết chết con hương tượng phải dùng hết sức của nó, giết chết một con thỏ cũng vậy, chẳng sinh ý tưởng khinh thường. Các đức Phật Như Lai cũng lại như vậy, khi vì các Bồ tát và nhất xiển đề diễn nói pháp dùng công đức không hai (không khác nhau).
Này thiện nam tử ! Vào một thuở, ta trụ ở thành Vương Xá, Tỳkheo Thiện Tinh là cấp sứ (người sai khiến, cung cấp) của ta. Ở đầu đêm, ta vì trời Ðế Thích diễn nói pháp yếu. Theo phép làm đệ tử là nên ngủ sau thầy. Bấy giờ, do ta ngồi lâu nên lòng Thiện Tinh sinh ra ý niệm ác. Trẻ con trai gái của thành Vương Xá thời đó nếu khóc không nín thì cha mẹ hay dọa rằng : “Nếu con chẳng nín thì sẽ đem con giao cho quỉ Bạc câu la !” Bấy giờ, Thiện Tinh trái lại nắm lấy lời ấy mà nói với ta rằng : “Hãy mau vào thiền thất ! Quỉ Bạc câu la đến !”. Ta nói rằng : “Này người ngu si ! Ông thường chẳng nghe, Như Lai Thế Tôn chẳng sợ gì sao ?”. Bấy giờ, Ðế Thích liền nói với ta rằng : “Thưa đức Thế Tôn ! Những người như vậy cũng lại được vào trong Phật pháp sao ?”. Ta liền nói rằng : “Này Kiều Thi Ca ! Người như vậy được vào Phật pháp, cũng có Phật tính, sẽ được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ta tuy vì ông Thiện Tinh này nói pháp mà ông đó đều không có lòng tín thọ”. Này thiện nam tử ! Vào một thuở, ta ở tại thành Thi Bà Phú La của nước Ca Thi, Tỳkheo Thiện Tinh là cấp sứ của ta. Khi ta muốn vào thành đó khất thực có vô lượng chúng sinh lòng trống không, khao khát, ngưỡng mộ muốn thấy dấu chân của ta thì Tỳkheo Thiện Tinh liền theo sau ta mà hủy diệt. Ông ấy đã chẳng thể xóa hết mà còn khiến cho chúng sinh sinh lòng bất thiện. Ta vào thành rồi, ở quán rượu, thấy một Ni Kiền gò lưng ngồi chồm hỗm dưới đất ăn bã rượu. Tỳkheo Thiện Tinh thấy rồi mà nói rằng : “Thưa đức Thế Tôn ! Thế gian nếu có A la hán thì người này là tối thắng. Vì sao vậy ? Vì người này đã nói rằng, không nhân không quả”. Ta nói rằng : “Này người ngu si ! Ông có thường nghe, A la hán thì chẳng uống rượu, chẳng hại người, chẳng lừa dối, chẳng trộm cắp, chẳng dâm dục. Còn như người này giết hại cha mẹ, ăn nuốt bã rượu thì làm sao mà nói là A la hán ? Người này sau khi xả thân nhất định sẽ rơi vào địa ngục A Tỳ còn A la hán đoạn tuyệt vĩnh viễn ba đường ác thì làm sao mà nói là A la hán?”. Thiện Tinh liền nói rằng : “Tính của bốn đại còn có thể chuyển dịch nhưng muốn khiến cho người này nhất định rơi vào ngục A tỳ thì không có điều đó”. Ta nói rằng : “Này người ngu si ! Ông thường chẳng nghe lời nói thành thật của các đức Phật Như Lai không có hai !”. Ta tuy vì ông Thiện Tinh này nói pháp mà ông đó tuyệt không có lòng tín thọ. Này thiện nam tử ! Vào một thuở, ta cùng với Tỳkheo Thiện Tinh trụ ở thành Vương Xá. Bấy giờ, trong thành có một Ni Càn tên là Khổ Ðắc, thường nói rằng : “Phiền não của chúng sinh không nhân không duyên. Giải thoát của chúng sinh cũng không nhân không duyên”. Tỳkheo Thiện Tinh lại nói rằng : “Thưa đức Thế Tôn ! Thế gian, nếu có A la hán thì Khổ Ðắc là bậc trên”. Ta nói rằng : “Này người ngu si ! Ni Càn Khổ Ðắc thật chẳng phải là La Hán, chẳng thể hiểu rõ đạo A la hán !”. Thiện Tinh lại nói rằng : “Vì sao La Hán đối với A la hán mà sinh ra tật đố (ganh ghét) ?”. Ta nói rằng : “Này người ngu si ! Ta đối với La hán chẳng sinh ra tật đố mà ông tự sinh ra tà kiến ác vậy. Nếu nói Khổ Ðắc là La hán thì sau bảy ngày sẽ bị bệnh túc thực (đồ ăn lưu lại không tiêu hóa), đau bụng mà chết, chết rồi sinh vào loài quỉ Thực Thổ (ói đồ ăn ra). Bọn đồng học của ông ấy sẽ đem thi thể ông ấy bỏ trong rừng lạnh”. Bấy giờ Thiện Tinh liền đi đến chỗ của Ni càn tử Khổ Ðắc nói rằng : “Thưa trưởng lão ! Ngài nay có biết gì không ? Ông sa môn Cù Ðàm đã huyền ký cho ngài sau bảy ngày sẽ bị bệnh túc thực, đau bụng mà chết, chết rồi sinh vào trong loài quỉ Thực Thổ. Những người đồng học, đồng sư sẽ đem thi thể của ngài bỏ trong rừng lạnh. Thưa trưởng lão ! Ngài hãy tư duy khéo léo tạo mọi phương tiện tốt thì sẽ khiến cho ông Cù Ðàm rơi vào trong tình trạng nói dối !”. Bấy giờ, ông Khổ Ðắc nghe lời đó xong thì liền nhịn ăn (đoạn thực) từ bắt đầu ngày một cho đến ngày sáu. Ðủ bảy ngày rồi ông liền ăn đường đen. Ăn đường đen (hắc mật) rồi lại uống nước lạnh. Uống nước lạnh rồi đau bụng mà mạng chung. Ông chết rồi bạn đồng học đem thi hài ông để trong rừng lạnh. Ông liền thọ hình thể loài quỉ đói Thực Thổ ở bên thi hài của mình. Tỳkheo Thiện Tinh nghe việc này rồi, đi đến trong rừng lạnh, thấy Khổ Ðắc thọ thân hình loài quỉ Thực Thổ ở tại bên thi hài của ông ấy, đang khom lưng ngồi xổm trên đất. Thiện Tinh nói với ông ấy rằng: “Thưa đại đức ! Ngài chết rồi sao ?”. Khổ Ðắc đáp rằng : “Ta đã chết rồi !”. Hỏi : “Vì sao chết vậy ?”. Ðáp : “Nhân đau bụng mà chết !”. Hỏi : “Ai đưa thi hài ngài ra đây ?”. Ðáp rằng : “Bạn đồng học đưa ra!”. Hỏi : “Ðặt ở đâu ?”. Ðáp rằng : “Người ngu si ơi ! Ông nay chẳng biết rừng lạnh này sao?”. Hỏi : “Ðược thân gì ?”. Ðáp rằng : “Ta được thân của loài quỉ Thực Thổ ! Này Thiện Tinh! Ông đã lắng nghe lời thiện, lời đúng lúc, lời nghĩa, lời pháp… Này Thiện Tinh ! Miệng Như Lai nói ra lời chân thật như vậy mà ông lúc bấy giờ sao chẳng tin ? Nếu có chúng sinh chẳng tin lời nói chân thật của Như Lai thì người đó cũng sẽ thọ thân này như ta !”. Bấy giờ Thiện Tinh liền trở lại chỗ của ta mà nói rằng : “Thưa đức Thế Tôn ! Ni Càn Khổ Ðắc sau khi mạng chung sinh lên trời Ba mươi ba”. Ta nói rằng : “Này người ngu si ! A la hán thì không có chỗ sinh làm sao mà nói Khổ Ðắc sinh lên trời Ba mươi ba ?”. Thiện Tinh nói : “Thưa đức Thế Tôn ! Thật đúng như lời ngài, Ni Càn Khổ Ðắc thật chẳng sinh lên trời Ba mươi ba mà nay đang thọ thân của loài quỉ đói Thực Thổ !”. Ta nói rằng : “Này người ngu si ! Lời nói thành thật của các đức Phật Như Lai không hai. Nếu nói rằng, Như Lai có nói hai lời thì không có điều đó !” Thiện Tinh liền nói rằng : “Lúc ấy đức Như Lai tuy nói lời nói đó nhưng con đối với việc này đều chẳng sinh niềm tin tưởng”. Này thiện nam tử ! Ta cũng thường vì Tỳkheo Thiện Tinh nói pháp chân thật mà ông đó tuyệt nhiên không có lòng tín thọ. Này thiện nam tử ! Tỳkheo Thiện Tinh tuy lại đọc tụng mười hai bộ Kinh, thu hoạch được bốn thiền… nhưng thậm chí chẳng hiểu được ý nghĩa của một bài kệ, một câu, một chữ lại còn gần gũi bạn ác làm thoái mất bốn thiền. Mất bốn thiền rồi thì sinh ra tà kiến ác, ông ấy nói lên lời như vầy : “Không Phật, không Pháp, không có Niết Bàn ! Ông Sa môn Cù Ðàm giỏi biết phép xem tướng nên có thể được biết tâm của người khác !”. Ta vào lúc ấy, bảo Thiện Tinh rằng : “Lời nói pháp của ta thì đầu tiên tốt, khoảng giữa tốt và về sau cũng tốt. Lời nói ấy xảo diệu, chữ nghĩa chân chính. Lời nói không xen tạp thành tựu đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh !” Tỳkheo Thiện Tinh lại nói rằng : “Ðức Như Lai tuy lại vì con nói pháp mà con chân thật cho là không có nhân quả!”. Này thiện nam tử ! Nếu ông chẳng tin việc như vậy thì hiện nay Tỳkheo Thiện Tinh ở gần sông Ni Liên Thiền, có thể đi chung đến hỏi !
Bấy giờ đức Như Lai liền cùng với Bồ tát Ca Diếp đi đến chỗ của Thiện Tinh. Tỳkheo Thiện Tinh từ xa thấy đức Phật đến, thấy rồi liền sinh lòng tà ác. Do lòng ác nên thân sống của ông bị hãm vào ngục A tỳ.
Ðức Phật nói tiếp :
– Này thiện nam tử ! Tỳkheo Thiện Tinh tuy vào vô lượng bảo tụ của Phật Pháp mà trống rỗng, không thu hoạch được gì, thậm chí chẳng được sự lợi ích của một pháp vì buông lung và theo ác tri thức. Ví như có người tuy vào biển cả, thấy nhiều mọi thứ báu mà không được gì vì buông lung. Lại như vào được biển tuy thấy bảo tụ (đống báu), rồi tự giết nhau mà chết, hoặc bị quỉ ác La sát giết chết. Tỳkheo Thiện Tinh cũng lại như vậy, vào Phật pháp rồi thì bị sự giết hại của đại quỉ La sát Ác Tri thức. Này thiện nam tử ! Vậy nên Như Lai do thương xót nên thường nói nhiều những sự buông lung của ông Thiện Tinh. Này thiện nam tử ! Nếu vốn bần cùng thì ở chỗ người này tuy sinh thương xót nhưng lòng ấy mỏng. Nếu vốn cự phú thì sau khi mất của cải mà ở chỗ người này sinh ra thương xót thì lòng ấy dày. Tỳkheo Thiện Tinh cũng lại như vậy, tuy thọ trì đọc tụng mười hai bộ kinh, thu hoạch được bốn thiền nhưng về sau thoái mất rất đáng thương xót. Vậy nên ta nói nhiều những phóng dật của Tỳkheo Thiện Tinh. Vì nhiều phóng dật nên cắt đứt các căn lành. Những đệ tử của ta, người có thấy nghe thì đối với người này không ai chẳng sinh lòng thương xót nặng nề như người giàu lúc đầu về sau mất của. Ðã nhiều năm ta thường cùng với Thiện Tinh chung nhau theo đuổi mà ông đó tự sinh ra lòng tà ác mà do tà ác nên chẳng bỏ ác kiến. Này thiện nam tử ! Ta từ trước đến nay nếu thấy ông Thiện Tinh này có một chút căn lành như sợi lông cọng tóc thì nhất định ta chẳng huyền ký rằng, ông đó đoạn tuyệt căn lành, là nhất xiển đề, hạng người thấp hèn, trụ kiếp địa ngục. Do ông ấy tuyên nói không nhân, không quả, không có tác nghiệp nên ta mới huyền ký rằng, người đó vĩnh viễn cắt đứt thiện căn, là nhất xiển đề, hạng người thấp hèn, trụ kiếp địa ngục. Này thiện nam tử ! Ví như có người chìm trong chuồng xí (cầu tiêu), có bậc thiện tri thức dùng tay kéo nâng lên mà níu được đầu tóc thì liền kéo ra khỏi, nhưng tìm lâu chẳng được vậy mới ngưng ý tìm kiếm. Ta cũng như vậy, tìm thấy chút xíu căn lành của Thiện Tinh thì liền muốn cứu vớt. Nhưng ta trọn ngày tìm kiếm mà thậm chí chẳng được chút xíu căn lành như sợi lông cọng tóc. Vậy nên ông chẳng được cứu vớt khỏi địa ngục ấy.
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng :
– Thưa đức Thế Tôn ! Ðức Như Lai vì sao huyền ký ông đó sẽ đọa vào địa ngục A tỳ ?
– Này thiện nam tử ! Có nhiều quyến thuộc của Tỳkheo Thiện Tinh đều gọi Thiện Tinh là Alahán, là được đạo quả. Ta muốn hủy hoại lòng tà ác đó nên huyền ký rằng : Ông Thiện Tinh đó do phóng dật nên đọa vào địa ngục. Này thiện nam tử ! Ông nay phải biết, lời nói của Như Lai chân thật không hai. Vì sao vậy ? – Vì nếu lời ký của Phật là sẽ đạo vào địa ngục, mà nếu chẳng đọa thì không có điều này. Lời ký biệt của Thanh Văn, Duyên Giác thì có hai thứ, hoặc hư dối, hoặc chân thật. Như ông Mục Kiền Liên, ở tại nước Ma Dà Ðà, bảo khắp mọi người rằng, lùi sau bảy ngày trời sẽ tuông mưa mà hết thời hạn trời chẳng mưa. Ông lại ký biệt rằng, con trâu cái sẽ sinh con nghé trắng, đến khi con trâu ấy sinh thì sinh ra con nghé loang lổ, ký sinh nam thì sau sinh ra nữ !. Này thiện nam tử ! Tỳkheo Thiện Tinh thường vì vô lượng những chúng sinh tuyên nói rằng, tất cả không quả báo thiện ác. Khi ấy ông đã cắt đứt vĩnh viễn tất cả căn lành, thậm chí không có chút xíu như sợi lông cọng tóc. Này thiện nam tử ! Ta biết từ lâu Tỳkheo Thiện Tinh này sẽ cắt đứt căn lành. Do vậy nên ta ở chung trọn hai mươi năm nuôi dưỡng, tu hành chung. Nếu ta rời xa chẳng gần gũi tả hữu thì người này sẽ dạy cho vô lượng chúng sinh tạo tác nghiệp ác. Ðó gọi là lực giải thứ năm của Như Lai.
– Thưa đức Thế Tôn ! Bọn nhất xiển đề vì nhân duyên gì mà không có thiện pháp ?
– Này thiện nam tử ! Bọn nhất xiển đề đoạn tuyệt căn lành. Chúng sinh có tín.v.v… năm căn mà bọn nhất xiển đề thì đoạn diệt vĩnh viễn. Do nghĩa này mà giết hại một con kiến còn bị tội sát sinh nhưng giết chết nhất xiển đề thì không có tội sát sinh.
– Thưa đức Thế Tôn ! Nhất xiển đề thì nhất định không thiện pháp. Vậy nên gọi là nhất xiển đề sao ?
Ðức Phật dạy rằng :
– Ðúng vậy ! Ðúng vậy !
– Thưa đức Thế Tôn ! Tất cả chúng sinh có ba thứ thiện. Ðó là thiện quá khứ, thiện vị lai, thiện hiện tại. Bọn nhất xiển đề cũng chẳng thể đoạn dứt thiện pháp của vị lai thì làm sao nói rằng, đoạn các thiện pháp gọi là nhất xiển đề vậy ?
– Này thiện nam tử ! Ðoạn có hai thứ : Một là hiện tại diệt. Hai là hiện tại chướng ngại đến vị lai. Bọn nhất xiển đề đủ cả hai thứ đoạn này. Vậy nên ta nói rằng, đoạn dứt các căn lành. Này thiện nam tử ! Ví như có người chìm trong chuồng xí chỉ có đầu một sợi tóc, cọng lông chưa chìm. Tuy còn đầu một sợi tóc, cọng lông chưa chìm mà đầu một sợi lông chẳng thể thấy được thân. Bọn nhất xiển đề cũng lại như vậy, tuy đời vị lai sẽ có thiện căn mà chẳng thể cứu thoát khỏi khổ của địa ngục. Ðời vị lai tuy có thể cứu vớt nhưng đời hiện tại thì điều đó không có. Vậy nên gọi là chẳng thể cứu tế. Do nhân duyên Phật tính nên có thể được cứu. Phật tính thì chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại. Vậy nên Phật tính chẳng thể đoạn được. Như hạt giống mục nát thì chẳng thể mọc mầm. Nhất xiển đề cũng lại như vậy. – Thưa đức Thế Tôn ! Bọn nhất xiển đề chẳng đoạn dứt Phật tính mà Phật tính cũng thiện thì làm sao nói rằng, đoạn dứt tất cả thiện pháp ?
– Này thiện nam tử ! Nếu các chúng sinh trong đời hiện tại có Phật tính thì chẳng được gọi là nhất xiển đề. Như tính ngã của chúng sinh trong thế gian, Phật tính là thường, ba đời chẳng nhiếp lấy. Ba đời nếu nhiếp lấy thì gọi là vô thường. Phật tính vị lai do sẽ thấy nên nói rằng, chúng sinh đều có Phật tính. Do nghĩa này nên Bồ tát Thập Trụ trang nghiêm đầy đủ mới được thấy chút ít.
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng :
– Thưa đức Thế Tôn ! Phật tính thường giống như hư không thì vì sao đức Như Lai nói rằng, vị lai ? Nếu đức Như Lai nói nhất xiển đề không có thiện pháp thì bọn nhất xiển đề đối với người đồng học, đồng sư, cha mẹ, thân tộc, vợ con của họ há sẽ chẳng sinh lòng ái niệm sao ? Nếu bọn ấy sinh lòng đó thì chẳng phải là thiện ư ?
Ðức Phật dạy rằng :
– Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Ông hỏi vấn đề ấy hay lắm ! Phật tính giống như hư không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại ! Tất cả chúng sinh có ba thứ thân. Ðó là thân quá khứ, thân vị lai và thân hiện tại. Thân chúng sinh vị lai trang nghiêm đầy đủ thanh tịnh thì được thấy Phật tính. Vậy nên ta nói Phật tính vị lai. Này thiện nam tử ! Ta vì chúng sinh hoặc khi nói nhân là quả, hoặc khi nói quả là nhân. Vậy nên trong Kinh nói mạng là ăn, thấy sắc là xúc. Thân vị lai tịnh nên nói Phật tính.
– Thưa đức Thế Tôn ! Như lời đức Phật nói mà nghĩa như vậy thì vì sao nói rằng, tất cả chúng sinh đều có Phật tính ?
– Này thiện nam tử ! Phật tính của chúng sinh tuy hiện tại Không nhưng chẳng thể nói là Không. Như tính hư không tuy không hiện tại nhưng chẳng được nói là Không. Tất cả chúng sinh tuy lại vô thường mà Phật tính này thường trụ không biến đổi. Vậy nên ở trong Kinh này ta nói rằng, Phật tính của chúng sinh chẳng phải trong, chẳng phải ngoài giống như hư không chẳng phải trong, chẳng phải ngoài. Như hư không ấy có trong ngoài thì hư không chẳng gọi là một, là thường, cũng chẳng được nói rằng, tất cả chỗ có. Hư không tuy lại chẳng phải trong, chẳng phải ngoài mà các chúng sinh đều có nó. Phật tính của chúng sinh cũng lại như vậy. Như lời ông nói, bọn nhất xiển đề có thiện pháp thì nghĩa này không đúng. Vì sao vậy? – Vì bọn nhất xiển đề nếu có nghiệp thân, nghiệp miệng, nghiệp ý, nghiệp thủ (lấy), nghiệp cầu, nghiệp thí, nghiệp giải .v.v… những nghiệp như vậy thì đều là nghiệp tà. Vì sao vậy? – Vì chẳng cầu nhân quả vậy. Này thiện nam tử ! Như quả, rễ, thân, cành, lá, hoa… của cây Ha lê lặc đều đắng, nghiệp của nhất xiển đề cũng lại như vậy.
– Này thiện nam tử ! Như Lai biết đầy đủ các căn, lực. Vậy nên Như Lai giỏi có thể phân biệt chúng sinh thượng căn, trung căn, hạ căn. Như Lai có thể biết người này chuyển đổi hạ căn trở thành trung căn, có thể biết người này chuyển đổi trung căn trở thành thượng căn, có thể biết người này chuyển đổi thượngï căn trở thành trung căn, có thể biết người này chuyển đổi trung căn trở thành hạ căn. Vậy nên ông phải biết là căn tính của chúng sinh không có quyết định. Do không quyết định nên hoặc đoạn dứt thiện căn mà đoạn rồi thì sinh trở lại. Nếu căn tính của những chúng sinh định thì nhất định chẳng trước đoạn dứt và đoạn rồi lại sinh ra, cũng chẳng nên nói rằng, bọn nhất xiển đề rơi vào địa ngục sống lâu một kiếp. Này thiện nam tử ! Vậy nên Như Lai nói rằng, tất cả pháp không có tướng quyết định !
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
– Thưa đức Thế Tôn ! Ðức Như Lai biết đầy đủ các căn, lực thì nhất định biết ông Thiện Tinh sẽ đoạn dứt thiện căn. Do nhân duyên gì mà Ngài cho phép ông ấy xuất gia ?
Ðức Phật dạy rằng :
– Này thiện nam tử ! Vào thuở trước, khi ta mới xuất gia thì em ta là Nan Ðà, tùng đệ là A Nan, Ðề Bà Ðạt Ða, con ta là La Hầu La… những người như vậy đều theo ta xuất gia tu đạo. Nếu ta chẳng cho ông Thiện Tinh xuất gia thì người ấy theo thứ tự sẽ được nối ngôi vua. Sức lực ông ấy tự tại thì sẽ hủy hoại Phật pháp. Do nhân duyên này nên ta cho ông ấy xuất gia tu đạo. Này thiện nam tử ! Tỳkheo Thiện Tinh nếu chẳng xuất gia cũng đoạn dứt thiện căn, ở vô lượng đều không có lợi ích. Nay ông ấy xuất gia rồi, tuy đoạn thiện căn nhưng có thể thọ trì giới, cúng dường cung kính bậc kỳ cựu trưởng túc và người có đức, tu tập Sơ thiền cho đến Tứ thiền. Ðó gọi là thiện nhân (nhân duyên thiện). Thiện nhân như vậy có thể sinh ra thiện pháp. Thiện pháp đã sinh thì có thể tu tập đạo. Ðã tu tập đạo thì sẽ được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vậy nên ta cho ông Thiện Tinh xuất gia. Này thiện nam tử ! Nếu ta chẳng cho Tỳkheo Thiện Tinh xuất gia thọ giới thì mới chẳng được xưng ta là Như Lai đầy đủ mười lực. Này thiện nam tử ! Phật quan sát chúng sinh đầy đủ thiện pháp và bất thiện pháp. Người này tuy đủ hai pháp như vậy nhưng chẳng bao lâu có thể đoạn dứt tất cả thiện căn mà đầy đủ bất thiện căn. Vì sao vậy? – Vì chúng sinh như vậy chẳng gần gũi bạn tốt, chẳng nghe chánh pháp, chẳng khéo tư duy, chẳng theo đúng như pháp tu hành. Do nhân duyên này người ấy có thể cắt đứt thiện căn, đầy đủ bất thiện căn. Này thiện nam tử ! Như Lai lại biết người này đời hiện tại hay đời vị lai lúc nhỏ, lúc lớn, khi già sẽ gần gũi bạn tốt, thính thọ chánh pháp : Khổ, Tập, Diệt, Ðạo thì lúc ấy có thể trở lại sinh ra căn lành. Này thiện nam tử ! Ví như có dòng suối cách xóm làng chẳng xa. Nước suối ấy ngon ngọt, đủ tám vị công đức. Có người nóng khát muốn đi đến suối. Có người trí ở bên cạnh quan sát người khát đó nhất định sẽ đi đến chỗ nước không gì nghi ngờ. Vì sao vậy ? – Vì không có con đường nào khác. Như Lai Thế Tôn quan sát các chúng sinh cũng lại như vậy. Vậy nên Như Lai gọi là biết đầy đủ các căn lực.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lấy ít đất ở dưới đất đặt lên móng tay mà bảo ngài Ca Diếp Bồ tát rằng :
– Ðất này nhiều hay đất của thế giới mười phương nhiều ?
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
– Thưa đức Thế Tôn ! Ðất trên móng tay thì chẳng thể sánh với đất sở hữu của mười phương được.
– Này thiện nam tử ! Có người xả thân trở lại được thân người, xả thân ba đường ác, được thọ thân người, các căn đầy đủ lành lặn, sinh ra ở trung tâm đất nước, đầy đủ chánh tín, có thể tu tập đạo, đã tu đạo là có thể được giải thoát, được giải thoát rồi là có thể vào Niết Bàn thì như đất trên móng tay. Còn chúng sinh xả thân người rồi được thân ba ác, xả thân ba ác được thân ba ác, các căn chẳng đủ, sinh ra nơi biên địa, tin tà đảo kiến, tu tập tà đạo, chẳng được giải thoát, Niết Bàn thường lạc thì như đất đai sở hữu của thế giới mười phương. Này thiện nam tử ! Hộ trì cấm giới, tinh cần chẳng giải đãi, chẳng phạm bốn trọng cấm, chẳng tạo tội ngũ nghịch, chẳng dùng đồ vật của tăng chúng, chẳng làm nhất xiển đề, chẳng cắt đứt căn lành, tin Kinh điển Niết Bàn.v.v… những người như vậy như đất trên móng tay (ít). Phá hủy giới, giải đãi, phạm bốn trọng cấm, tạo tội ngũ nghịch, dùng đồ vật của tăng chúng, làm nhất xiển đề, cắt đứt các căn lành, chẳng tin Kinh Ðại Niết Bàn này.v.v… những người như vậy như đất đai sở hữu của thế giới mười phương. Này thiện nam tử ! Như Lai giỏi biết chúng sinh thượng căn, trung căn và hạ căn như vậy. Vậy nên xưng Phật biết đầy đủ căn lực.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
– Thưa đức Thế Tôn ! Ðức Như Lai đầy đủ sự biết căn lực này nên có thể biết sự sai biệt về ngu độn, lanh lợi, hạ căn, trung căn, thượng căn của tất cả chúng sinh, biết các căn của chúng sinh đời hiện tại, cũng biết các căn của chúng sinh đời vị lai. Sau khi đức Phật diệt độ, những chúng sinh như vậy sẽ nói lên như vầy : “Như Lai vào rốt ráo Niết Bàn hoặc chẳng vào rốt ráo Niết Bàn, hoặc nói có ngã, hoặc nói vô ngã, hoặc có “trung ấm”, hoặc không “trung ấm”, hoặc nói có thoái, hoặc nói không thoái, hoặc nói thân Như Lai là hữu vi, hoặc nói thân Như Lai là vô vi, hoặc nói mười hai nhân duyên là pháp hữu vi, hoặc nói mười hai nhân duyên là pháp vô vi, hoặc nói tâm là hữu thường, hoặc nói tâm là vô thường, hoặc nói thọ năm dục lạc có thể chướng ngại đạo, hoặc nói chẳng ngăn ngại đạo, hoặc nói pháp đệ nhất của đời chỉ là Dục giới, hoặc nói là Tam giới, hoặc nói bố thí chỉ là nghiệp của ý, hoặc nói tức là của năm ấm”. Hoặc có người nói rằng, có ba vô vi. Hoặc có người nói rằng, không có ba vô vi. Lại có người nói rằng, hoặc có tạo sắc. Lại có người nói rằng, hoặc không tạo sắc. Hoặc có người nói rằng, có sắc vô tác. Hoặc có người nói rằng, không có sắc vô tác. Hoặc có người nói rằng, có pháp tâm số. Hoặc có người nói rằng, không có pháp tâm số. Hoặc có người nói rằng, có năm thứ hữu. Hoặc có người nói rằng, có sáu thứ hữu. Hoặc có người nói rằng, pháp tám giới trai, người đầy đủ giới Ưu bà tắc thọ được. Hoặc có người nói rằng, người chẳng đủ thọ được. Hoặc có người nói rằng, Tỳkheo phạm bốn trọng cấm rồi thì giới Tỳkheo vẫn tồn tại, hoặc nói chẳng tồn tại. Hoặc có người nói rằng, người Tu đà hoàn, người Tư đà hàm, người A na hàm, người A la hán đều được Phật đạo, hoặc nói chẳng được. Hoặc có người nói, Phật tính tức là hữu của chúng sinh, hoặc nói, Phật tính lìa khỏi hữu của chúng sinh. Hoặc có người nói rằng, người phạm bốn trọng cấm, tạo tội ngũ nghịch, nhất xiển đề.v.v… đều có Phật tính, hoặc nói rằng, không. Hoặc có người nói rằng, có Phật mười phương. Hoặc có người nói rằng, không có Phật mười phương… Như đức Như Lai thành tựu đầy đủ việc biết căn lực ấy thì vì sao ngày hôm nay chẳng quyết định nói?
Ðức Phật bảo Bồ tát Ca Diếp rằng :
– Này thiện nam tử ! Nghĩa như vậy chẳng phải là nhãn thức biết… cho đến chẳng phải là ý thức biết. Ðó là sự “năng tri” của trí tuệ. Nếu người có trí tuệ thì ta đối với người này nhất định chẳng tạo tác hai lời. Ðó cũng gọi là ta chẳng tạo tác hai lời. Ðối với kẻ vô trí thì ta tạo tác lời nói bất định mà kẻ vô trí này cũng lại cho là ta tạo tác lời nói bất định. Này thiện nam tử ! Tất cả nghiệp hạnh sở hữu của Như Lai đều vì điều phục các chúng sinh. Ví như những phương thuốc sở hữu của vị y vương đều vì trị liệu tất cả bệnh khổ. Này thiện nam tử! Như Lai Thế Tôn vì đất nước, vì thời tiết, vì lời nói người khác. Vì người, vì mọi căn nên ở trong một pháp tạo ra hai thứ nói, đối với pháp một tên nói ra vô lượng tên, ở trong một nghĩa nói ra vô lượng tên, ở vô lượng nghĩa nói ra vô lượng tên. Sao gọi là một tên nói ra vô lượng tên ? – Giống như Niết Bàn, cũng tên là Niết Bàn, cũng tên là vô sinh, cũng tên là Vô Xuất, cũng tên là Vô Tác, cũng tên là Vô Vi, cũng tên là Quy Y, cũng tên là Hang Ổ (Quật trạch), cũng tên là Giải thoát, cũng tên là Quang Minh, cũng tên là Ðăng Minh, cũng tên là Bỉ Ngạn, cũng tên Vô Úy, cũng tên là Vô Thoái, cũng tên là An Xứ, cũng tên là Tịch Tịnh, cũng tên là Vô Tướng, cũng tên là Vô Nhị, cũng tên là Nhất Hạnh, cũng tên là Thanh Lương, cũng tên là Vô Ám, cũng tên là Vô Ngại, cũng tên là Vô Tránh, cũng tên là Vô Trược, cũng tên là Quảng Ðại, cũng tên là Cam Lộ, cũng tên là Cát Tường… Ðó gọi là một tên tạo ra vô lượng tên.
Sao gọi là một nghĩa nói ra vô lượng tên ? – Giống như Ðế Thích. Cũng tên là Ðế Thích, cũng tên là Kiều Thi Ca, cũng tên là Bà Tha Bà, cũng tên là Phú Lan Ðà La, cũng tên là Ma Khư Bà, cũng tên là Nhân Ðà La, cũng tên là Thiên Nhãn, cũng tên là Xá Chỉ Phù, cũng tên là Kim Cương, cũng tên là Bảo Ðỉnh, cũng tên là Bảo Tràng… Ðó là một nghĩa nói ra vô lượng tên.
Sao gọi là vô lượng nghĩa nói ra vô lượng tên ? – Như Phật Như Lai tên là Như Lai thì nghĩa khác tên khác, cũng tên là A La Ha thì nghĩa khác tên khác, cũng tên là Tam Miệu Tam Phật Ðà thì nghĩa khác tên khác, cũng tên là Thuyền Sư, cũng tên là Ðạo sư, cũng tên là Chính Giác, cũng tên là Minh Hành Túc, cũng tên là Ðại sư Tử vương, cũng tên là Sa Môn, cũng tên là Bà la Môn, cũng tên là Tịch Tịnh, cũng tên là Thí Chủ, cũng tên là Ðáo Bỉ Ngạn, cũng tên là Ðại Y Vương, cũng tên là Ðại Tượng Vương, cũng tên là Ðại Long Vương, cũng tên là Thí Nhãn, cũng tên là Ðại Lực Sĩ, cũng tên là Ðại Vô Úy, cũng tên là Bảo Tụ, cũng tên là Thương Chủ, cũng tên là Ðắc Thoát, cũng tên là Ðại Trượng Phu, cũng tên là Thiên Nhân Sư, cũng tên là Ðại Phân Ðà Lợi, cũng tên là Ðộc Vô Ðẳng Lữ, cũng tên là Ðại Phước Ðiền, cũng tên là Ðại Trí Tuệ Hải, cũng tên là Vô Tướng, cũng tên là Cụ Túc Bát Trí… Như vậy tất cả nghĩa khác, tên khác. Này thiện nam tử ! Ðó gọi là trong vô lượng nghĩa nói vô lượng tên.
Lại có một nghĩa nói vô lượng tên. Ðó là Như Ấm, cũng tên là Ấm, cũng tên là Ðiên Ðảo, cũng tên là Ðế, cũng tên là Tứ Niệm Xứ, cũng tên là Tứ Thực (Bốn ăn), cũng tên là Tứ Thức Trụ Xứ, cũng tên là Hữu, cũng tên là Ðạo, cũng tên là Thời, cũng tên là Chúng Sinh, cũng tên là Vi Thế, cũng tên là Ðệ Nhất nghĩa, cũng tên là Tam Tu gọi là Thân, Giới, Tâm, cũng tên là Nhân Quả, cũng tên là Phiền Não, cũng tên là Giải Thoát, cũng tên là Thập Nhị Nhân Duyên, cũng tên là Thanh Văn, Bích Chi Phật, cũng tên là Ðịa Ngục, Ngã Quỷ, Súc Sinh, Nhân Thiên, cũng tên là Quá Khứ, Hiện tại, Vị Lai… Ðó gọi là một nghĩa mà nói vô lượng tên. Này thiện nam tử ! Như Lai Thế Tôn vì chúng sinh nên trong rộng nói lược, trong lược nói rộng. Ðệ Nhất Nghĩa Ðế nói là Thế Ðế, nói Thế Ðế pháp là Ðệ Nhất Nghĩa Ðế.
Sao gọi là trong rộng nói lược ? – Như bảo các Tỳkheo rằng : “Ta nay tuyên nói mười hai nhân duyên. Sao gọi là mười hai nhân duyên ? Ðó là Nhân quả”.
Sao gọi là trong lược nói rộng ? – Như bảo các Tỳkheo rằng : “Ta nay tuyên nói Khổ, Tập, Diệt, Ðạo. Khổ nghĩa là vô lượng những khổ, Tập nghĩa là vô lượng phiền não, Diệt nghĩa là vô lượng giải thoát, Ðạo nghĩa là vô lượng phương tiện”.
Sao gọi là Ðệ Nhất Nghĩa Ðế nói là Thế Ðế ? – Như bảo Tỳkheo rằng : “Thân này của ta hôm nay có già, bệnh, chết”. Sao gọi là Thế Ðế nói là Ðệ Nhất Nghĩa Ðế ? – Như ta bảo ông Kiều Trần Như rằng : “Ông được pháp nên được gọi là A Nhã Kiều Trần Như”. Vậy nên tùy người, tùy ý, tùy lúc nên gọi là Như Lai biết các căn lực. Này thiện nam tử ! Ta nếu phải đối với những nghĩa như vậy mà tạo tác lời nói quyết định thì chẳng được xưng ta là Như Lai biết đầy đủ căn lực. Này thiện nam tử ! Người có trí phải biết rằng : Sự gánh vác của con hương tượng chẳng phải là sự thắng hơn của con lừa. Sở hạnh của tất cả chúng sinh không lượng vậy nên Như Lai vì họ nói đủ thứ pháp không lường. Vì sao vậy ? – Vì chúng sinh có nhiều những phiền não. Nếu giả sử Như Lai chỉ nói về một hạnh thì chẳng gọi là Như Lai thành tựu đầy đủ sự hiểu biết các căn lực. Vậy nên ở trong Kinh khác của ta nói rằng, năm thứ chúng sinh chẳng nên trở lại vì họ nói năm thứ pháp : Vì người chẳng tin thì chẳng khen chánh tín, vì người hủy phạm cấm giới thì chẳng khen trì giới, vì người xan tham thì chẳng khen bố thí, vì người giải đãi thì chẳng khen đa văn, vì người ngu si thì chẳng khen (tán thành) trí tuệ. Vì sao vậy ? – Vì người trí nếu vì năm thứ người này mà nói năm việc đó thì phải biết là người nói này chẳng được đầy đủ sự biết các căn lực, cũng chẳng được gọi là thương xót chúng sinh. Vì sao vậy ? – Vì năm thứ người này nghe năm việc đó rồi thì sinh lòng bất tín, lòng ác, lòng sân. Do nhân duyên này mà chúng sinh đó ở trong vô lượng đời chịu quả báo khổ. Vậy nên chẳng gọi người nói pháp đó là Bậc thương xót chúng sinh, biết đầy đủ căn lực. Vậy nên trước đây, ở trong Kinh khác, ta bảo ông Xá Lợi Phất rằng : “Như thận trọng không vì người lợi căn rộng nói pháp ngữ, người độn căn lược nói pháp vậy !”. Ông Xá Lợi Phất nói rằng : “Thưa đức Thế Tôn ! Con chỉ vì thương xót nên nói, chẳng phải là đầy đủ căn lực nên nói!”. Này thiện nam tử ! Nói pháp rộng hay lược là cảnh giới của Phật, chẳng phải sự hiểu biết của hàng Thanh Văn, Duyên Giác. Này thiện nam tử ! Như lời ông nói, sau khi Phật Niết Bàn, các đệ tử .v.v… đều nói khác thì những người đó đều do nhân duyên điên đảo, chẳng được chánh kiến. Vậy nên họ chẳng thể tự lợi và lợi tha. Này thiện nam tử ! Những chúng sinh đó chẳng phải chỉ một tính, một hạnh, một căn, một thứ đất nước, một thiện tri thức. Vậy nên Như Lai vì đủ thứ người đó tuyên nói pháp yếu. Do nhân duyên này mà các đức Phật Như Lai ba đời trong mười phương vì chúng sinh khai thị diễn nói mười hai bộ Kinh. Này thiện nam tử ! Như Lai nói mười hai bộ Kinh đó chẳng phải vì tự lợi mà chỉ vì lợi tha. Vậy nên lực thứ năm của Như Lai gọi là Giải lực. Nhờ hai lực này mà Như Lai biết sâu : Người này hiện tại có thể cắt đứt thiện căn, người này đời sau có thể cắt đứt thiện căn, người này hiện tại có thể được giải thoát, người này đời sau có thể được giải thoát… Vậy nên Như Lai gọi là Lực sĩ vô thượng.
Này thiện nam tử ! Nếu người nói rằng Như Lai Niết Bàn rốt ráo hay chẳng Niết Bàn rốt ráo thì người này chẳng hiểu được ý của Như Lai nên nói lời như vậy. Này thiện nam tử ! Trong núi Hương Sơn này có những năm vạn ba ngàn tiên nhân mà họ đều ở chỗ đức Phật Ca Diếp đời quá khứ, tu các công đức nhưng chưa được chánh đạo và gần gũi các đức Phật thính thọ chánh pháp. Như Lai muốn vì những người đó nên bảo ông A Nan rằng : “Qua ba tháng, rồi ta sẽ Niết Bàn!”. Chư thiên nghe rồi, tiếng ấy đắp đổi vang vọng đến tận Hương Sơn, các tiên nhân nghe rồi liền sinh lòng hối tiếc, nói lời như vầy : “Sao chúng ta được sinh ra trong loài người mà chẳng thân cận đức Phật ! Các đức Phật Như Lai ra đời rất khó như hoa Ưu đàm ! Chúng ta nay phải đi đến chỗ đức Thế Tôn để thính thọ chánh pháp”. Này thiện nam tử ! Bấy giờ năm vạn ba ngàn những tiên nhân liền đến chỗ ta. Ta liền vì họ đáp ứng nói pháp : “Này các đại sĩ ! Sắc là vô thường. Vì sao vậy ? – Vì nhân duyên của Sắc là vô thường. Nhân vô thường sinh ra sắc thì sao gọi là thường được ? Cho đến Thức ta cũng nói như vậy. Lúc bấy giờ, các tiên nhân nghe pháp này rồi tức thời chứng được quả Alahán.
Này thiện nam tử ! Thành Câu Thi Na có các lực sĩ nhiều đến ba mươi vạn người mà không có sự ràng buộc. Họ tự thị kiêu mạn, phóng túng sắc lực, thân mạng, của cải, lòng loạn cuồng say. Này thiện nam tử ! Ta vì điều phục các lực sĩ nên bảo ông Mục Liên rằng : “Ông phải điều phục những lực sĩ như vậy!”. Ông Mục Kiền Liên cung kính thuận theo lời dạy của ta, ở trong năm năm, dùng đủ cách giáo hóa mà thậm chí chẳng thể khiến cho một lực sĩ điều phục thọ pháp. Vậy nên ta lại vì những lực sĩ kia mà bảo ông A nan rằng : “Qua ba tháng rồi ta sẽ Niết Bàn!” . Này thiện nam tử ! Các lực sĩ nghe lời nói này rồi thì tập họp nhau lại, sửa sang đường cái bằng phẳng. Qua ba tháng rồi, ta liền từ nước Tỳ Xá Ly đi đến thành Câu Thi Na. Giữa đường, từ xa thấy một nhóm những lực sĩ, ta liền tự hóa thân làm hình dáng Sa môn, đi đến chỗ lực sĩ, nói lên như vầy : “Các đồng tử làm việc gì vậy?”. Các lực sĩ nghe rồi đều nỗi sân giận mà nói như vầy : “Này Samôn ! Nay ông làm sao mà gọi bọn chúng ta là đồng tử vậy ?”. Ta nói rằng : “Các ông, rất đông người, đến ba mươi vạn người đem hết sức lực của thân mình mà chẳng thể dời được hòn đá nhỏ xíu này thì sao mà chẳng gọi là đồng tử ư ?”. Các lực sĩ nói rằng : “Nếu ông gọi chúng ta là đồng tử thì phải biết ông tức là đại nhân (người lớn) vậy”. Này thiện nam tử ! Lúc ấy, ta dùng hai ngón chân đào hòn đá này ra. Các lực sĩ này thấy việc đó rồi liền ở thân mình phát sinh ý tưởng yếu hèn, lại nói rằng : “Này ông Samôn ! Ông nay lại có thể dời hòn đá này ra khỏi đường đi không?”. Ta nói rằng : “Này các đồng tử ! Vì nhân duyên gì mà các ông sửa sang con đường này ?”. Các lực sĩ nói rằng : “Này ông Samôn ! Ông chẳng biết sao ? Ðức Thích Ca Như Lai sẽ theo con đường này đi đến rừng Ta La để vào Niết Bàn. Do nhân duyên đó nên chúng ta sửa sang”. Ta khen rằng : “Hay thay ! Này các đồng tử ! Các ông đã phát lòng lành như vậy thì ta sẽ vì các ông trừ khử hòn đá này”. Ta dùng tay nâng cao hòn đá ném lên cao đến tận trời A Ca Ni Sấc. Các lực sĩ thấy hòn đá ở tại hư không đều sinh kinh sợ, liền muốn chạy tứ tán. Ta lại bảo rằng : “Này các lực sĩ ! Các ông nay chẳng nên sinh lòng sợ hãi mà muốn tản đi”. Các lực sĩ nói rằng : “Này ông Sa môn ! Nếu có thể cứu hộ chúng tôi thì chúng tôi sẽ ở yên. Bây giờ ta lại dùng tay tiếp lấy hòn đá đặt nó vào bàn tay. Lực sĩ thấy rồi thì lòng sinh vui mừng, lại nói rằng : “Thưa ông Sa môn ! Hòn đá này là thường hay vô thường vậy ?”. Lúc ấy, ta dùng miệng thổi hòn đá thì hòn đá liền tan hoại giống như vi trần. Lực sĩ thấy xong liền nói rằng : “Thưa ông Samôn ! Hòn đá này vô thường!”. Họ liền sinh lòng hổ thẹn mà tự khảo trách rằng : “Làm sao chúng ta cậy nhờ vào tự tại sắc lực thân mạng, của cải mà sinh ra kiêu mạn ?”. Ta biết lòng của ho, liền xả bỏ hóa thân trở lại hình dáng cũ mà vì họ nói pháp. Các lực sĩ thấy rồi thì tất cả đều phát tâm Bồ đề.
Này thiện nam tử ! Thành Câu Thi Na có một người thợ khéo tên là Thuần Ðà. Người này đời trước ở chỗ đức Phật Ca Diếp phát thệ nguyện lớn rằng : “Khi đức Thích Ca Như Lai vào Niết Bàn thì tôi sẽ phụng thí bữa ăn uống sau cùng!”. Vậy nên ta đang ở nước Tỳ Xá Ly, lệnh cho Tỳkheo Ưu Bà Ma Na rằng : “Này thiện nam tử ! Qua ba tháng rồi thì ta sẽ ở rừng Ta La Song Thọ tại thành Câu Thi Na mà vào Bát Niết Bàn. Ông hãy đến bảo cho ông Thuần Ðà biết”.
Này thiện nam tử ! Trong thành Vương Xá có vị tiên ngũ thông tên là Tu Bạt Ðà một trăm hai mươi tuổi, thường tự xưng là người Nhất thiết trí, sinh lòng đại kiêu mạn. Ông này đã từng ở chỗ vô lượng Phật đời quá khứ gieo trồng các thiện căn. Ta cũng vì muốn điều phục người đó nên bảo ông A Nan rằng : “Qua ba tháng rồi ta sẽ vào Niết Bàn, ông Tu Bạt nghe rồi sẽ đến chỗ ta, phát sinh lòng tin cung kính, ta sẽ vì ông đó nói đủ thứ pháp. Người ấy nghe rồi sẽ được tận lậu.
Này thiện nam tử ! Vua nước La Duyệt Kỳ là Tần Bà Ta La. Thái tử của vua ấy tên là Thiện Kiến do nghiệp nhân duyên nên sinh lòng nghịch ác muốn hại cha mình mà chẳng được thuận tiện. Bấy giờ người ác Ðề Bà Ðạt Ða cũng nhân nghiệp nhân duyên quá khứ cũng lại ở chỗ ta sinh lòng bất thiện muốn hại ta, liền tu ngũ thông, chẳng bao lâu thì thu hoạch được. Ông cùng với thái tử Thiện Kiến chung làm bạn thân hậu và vì thái tử nên hiện làm đủ thứ việc thần thông như : từ chẳng phải cửa mà ra rồi từ cửa mà vào, từ cửa mà vào rồi chẳng phải từ cửa mà ra, hoặc có khi thị hiện thân voi, ngựa, trâu, dê, trai, gái… Thái tử Thiện Kiến thấy rồi liền sinh lòng yêu thích, lòng vui mừng, lòng kính tín. Vì những việc này nên thái tử sắp bày đủ thứ đồ cúng dường mà cúng dường ông đó. Lại nữa, thái tử bạch rằng : “Thưa đại sư Thánh nhân ! Tôi nay muốn thấy hoa Mạn Ðà La!”. Ðề Bà Ðạt Ða liền đi đến trời Ba mươi ba, theo người trời đó mà tìm kiếm hoa. Nhưng phước của ông ấy hết nên đều không có ai cho. Ðã chẳng được hoa nên ông suy nghĩ : “Cây Mạn Ðà La không ngã và ngã sở. Nếu ta tự lấy thì sẽ có tội gì ?”. Trước khi, ý ông muốn lấy hoa thì liền mất hết thần thông và trở lại thấy thân mình ở tại thành Vương Xá. Lòng ông ấy sinh tàm quý, chẳng thể gặp lại thái tử Thiện Kiến nên lại nghĩ rằng : “Ta nay phải đi đến chỗ đức Như Lai tìm kiếm đại chúng. Ðức Phật nếu cho phép thì ta sẽ tùy ý dạy bảo, kêu gọi, sai bảo ông Xá Lợi Phất.v.v…”. Bấy giờ ông Ðề Bà Ðạt Ða liền đến chỗ ta nói như vầy: Nguyện xin đức Thế Tôn đem đại chúng này giao phó cho con ! Con sẽ nói đủ thứ pháp giáo hóa khiến cho họ điều phục”. Ta nói rằng : “Này người ngu si ! Ông Xá Lợi Phất.v.v.. là những bậc thông minh đại trí, được đời tin phục mà ta còn chẳng đem đại chúng giao phó huống là ông, người ngu si, kẻ ăn đồ nhổ bỏ ư ?”. Ðề Bà Ðạt Ða lại đối với ta sinh ra ác tâm bội phần và nói như vầy : “Này ông Cù Ðàm ! Ông nay tuy điều phục được đại chúng nhưng thế lực chẳng bao lâu sẽ bị mòn diệt (ma diệt)!”. Nói lời đó rồi thì đại địa tức thời sau lần chấn động, Ðề Bà Ðạt Ða liền ngã lăn ra đất. Ở bên thân ông ấy, gió rất mạnh nổi lên thổi tung những bụi đất và bụi bẩn vùi thây. Ðề Bà Ðạt Ða thấy ác tướng rồi lại nói rằng : “Nếu đời hiện tại thân này của ta nhất định vào địa ngục A Tỳ thì ta cần phải báo cái oán lớn này!”. Ðề Bà Ðạt Ða liền đứng dậy đi đến chỗ của thái tử Thiện Kiến. Thái tử Thiện Kiến thấy rồi liền hỏi : “Thưa Thánh nhân ! Vì sao dung nhan ngài tiều tụy có vẻ lo âu vậy ?”. Ðề Bà Ðạt Ða nói rằng : “Ta thường như vậy Ngài chẳng biết ư ?”. Ông Thiện Kiến đáp rằng : “Nguyện xin ngài nói lên ý nghĩ ấy ! Vì nhân duyên gì vậy ?”. Ðề Bà Ðạt Ða nói rằng : “Tôi nay cùng ngài đã trở thành rất thân ái. Người ngoài mắng ngài rất là phi lý mà ta nghe được việc này thì há chẳng lo ư?”. Thái tử Thiện Kiến lại nói rằng : “Người trong nước làm sao mà nhục mạ ta?”. Ðề Bà Ðạt Ða nói rằng : “Người trong nước mắng ngài là “Oán chưa sinh”!. Thiện Kiến lại nói rằng : “Vì sao gọi ta là “Óan chưa sinh ? Ai tạo ra cái tên này?” . Ðề Bà Ðạt Ða nói rằng : “Khi ngài chưa sinh ra, tất cả thầy tướng đều nói rằng, đứa trẻ này sinh ra rồi sẽ giết cha của nó! Vậy nên người bên ngoại đều gọi ngài là Oán chưa sinh. Tất cả người bên nội một lòng ủng hộ ngài nên gọi ngài là Thiện Kiến! Phu nhân Vi Ðề nghe lời nói này, sinh ra thân ngài rồi, ở trên lầu cao bỏ ngài xuống đất, hủy hoại của ngài một ngón tay. Do nhân duyên này mà người lại gọi ngài là Ba La Lưu Chi. Ta nghe những điều đó rồi lòng sinh ra lo rầu mà lại chẳng thể nói cho ngài biết”. Ðề Bà Ðạt Ða dùng đủ thứ việc ác như vậy dạy bảo ông ấy giết cha. Rằng nếu cha ngài chết thì ta cũng có thể giết chết ông Sa môn Cù Ðàm. Thái tử Thiện Kiến hỏi một vị đại thần tên là Vũ Hạnh rằng : “Ðại vương vì sao đặt tên ta là Vị Sinh Oán ?”. Vị đại thần liền vì thái tử nói hết đầu đuôi chuyện ấy đúng như lời của Ðề Bà Ðạt Ða không khác. Thái tử Thiện Kiến nghe rồi liền cùng với đại thần bắt giam vua cha. Bên ngoài thành ông dùng bốn thứ binh mà thủ vệ. Phu nhân Vi Ðề nghe được việc này liền đi đến chỗ vua thì bị người canh giữ vua ngăn chẳng cho vào. Bấy giờ phu nhân sinh lòng sân nhuế liền trách mắng họ. Những người canh giữ liền báo cho thái tử rằng : “Thưa đại vương ! Phu nhân của vua cha muốn gặp vua cha, chẳng biết có nên cho không ?”. Thiện Kiến nghe rồi lại sinh hờn giận, liền đến chỗ của mẹ, kéo tóc mẹ về trước, vung dao muốn chém. Bấy giờ, ông Kỳ Bà bạch rằng : “Thưa đại vương ! Từ khi có nước trở đi, tội tuy rất nặng nhưng chẳng bằng giết nữ nhân, huống là mẹ đẻ mình!”. Thái tử Thiện Kiến nghe lời nói đó rồi, vì Kỳ Bà nên liền buông tha. Ông cho người ngăn dứt nguồn quần áo, đồ nằm, ăn uống, thuốc thang của vua cha, qua bảy ngày rồi thì nhà vua mạng chung. Thái tử Thiện Kiến thấy cha chết rồi mới sinh lòng hối hận. Ðại thần Vũ Hạnh lại dùng đủ thứ pháp tà ác để nói cho vua nghe rằng : “Thưa đại vương ! Tất cả nghiệp hạnh đều không có tội thì hôm nay vì sao mà sinh lòng hối hận ?”. Kỳ Bà lại nói rằng : “Thưa đại vương ! Ngài phải biết là nghiệp như vậy thì tội gồm hai thứ, một là giết vua cha, hai là giết Tu đà hoàn. Tội như vậy thì ngoại trừ đức Phật thì không ai có thể trừ diệt được!”. Vua Thiện Kiến nói rằng : “Ðức Như Lai thanh tịnh không có uế trược, còn người có tội như chúng ta thì làm sao được thấy ?”. Này thiện nam tử ! Ta biết việc như vậy nên bảo ông A Nan rằng : “Qua ba tháng rồi ta sẽ Niết Bàn !”. Vua Thiện Kiến nghe được liền đến chỗ của ta. Ta vì ông ấy nói pháp tội nặng được nhẹ, thu hoạch được niềm tin vô căn(?). Này thiện nam tử ! Những đệ tử của ta nghe lời nói này rồi chẳng lý giải được ý của ta nên nói rằng, Như Lai quyết định nói Niết Bàn rốt ráo.
Này thiện nam tử ! Bồ tát có hai thứ, một là thật nghĩa, hai là giả danh. Bồ tát giả danh nghe ta ba tháng sẽ vào Niết Bàn thì đều sinh thoái tâm mà nói rằng : “Như đức Như Lai kia mà còn không thường, chẳng trụ thì chúng ta làm gì được ? Vì việc này nên ở trong vô lượng đời chịu khổ não lớn. Ðức Như Lai Thế Tôn thành tựu đầy đủ vô lượng công đức mà còn chẳng thể hủy hoại được loài ma chết như vậy, huống là bọn chúng ta sẽ có thể hoại được sao ?”. Này thiện nam tử ! Vậy nên ta vì những Bồ tát như vậy mà nói rằng, Như Lai thường trụ không có biến dịch. Này thiện nam tử! Những đệ tử của ta nghe lời này rồi chẳng hiểu được ý của ta nên quyết định nói rằng, Như Lai nhất định chẳng rốt ráo vào Niết Bàn.
Này thiện nam tử ! Có những chúng sinh ở đoạn kiến nói lên lời như vầy : “Thân của tất cả chúng sinh sau khi diệt thì nghiệp quả thiện ác không có người thọ. Ta vì những người đó nói như vầy : “Quả báo thiện ác thật có người thọ !”. Làm sao biết là có ? – Này thiện nam tử ! Ðời quá khứ tại thành Câu Thi Na, có vị vua tên là Thiện Kiến, khi làm đồng tử trải qua tám muôn bốn ngàn năm, khi làm thái tử trải qua tám muôn bốn ngàn năm và khi lên ngôi vua cũng trải qua tám muôn bốn ngàn năm. Ở riêng một chỗ, ông ngồi suy nghĩ rằng : “Chúng sinh bạc phước, thọ mạng ngắn ngủi, thường có bốn oán đuổi theo mà chẳng tự biết còn buông lung ! Vậy nên ta phải xuất gia, tu đạo, đoạn tuyệt bốn oán sinh, già, bệnh, chết”. Ngài liền ra lệnh cho quan Hữu ty, làm bảy ngôi bảo đường ở bên ngoài thành ấy. Xây dựng xong, nhà vua liền bảo quần thần bá quan, phi, hậu, các con, quyến thuộc ở nội cung rằng : “Này các ngươi phải biết, ta muốn xuất gia ! Các ngươi có cho không ?”. Bấy giờ đại thần và quyến thuộc của vua đều nói rằng : “Hay thay ! Thưa đại vương ! Hôm nay chính là lúc đó!”. Vua Thiện Kiến đem theo một người sai bảo, rồi một mình lên thượng đường. Nhà vua lại trải qua tám muôn bốn ngàn năm tu tập từ tâm. Nhờ nhân duyên của lòng Từ đó mà về sau tám muôn bốn ngàn đời theo thứ lớp được làm Chuyển Luân Thánh Vương, trong ba mươi đời làm Thích Ðề Hoàn Nhân, trong vô lượng đời làm các tiểu vương. Này thiện nam tử ! Vua Thiện Kiến bây giờ đâu phải ai khác ư? Chớ tác khởi sự quan sát ấy mà chính là thân ta đó ! Này thiện nam tử ! Những đệ tử của ta nghe lời này rồi chẳng hiểu được ý ta nên xướng rằng : “Như Lai quyết định nói có ngã và có ngã sở”. Lại, một thuở, ta vì các chúng sinh nói rằng : “Ngã tức là tính vậy ! Như là nhân duyên trong ngoài, mười hai nhân duyên, chúng sinh, ngũ ấm, tâm, giới, thế gian, công đức, nghiệp hạnh, trời tự tại, đời… thì gọi là Ngã. Những đệ tử của ta nghe lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý ta nên xướng lên rằng : “Ðức Như Lai quyết định nói có Ngã”.
Này thiện nam tử ! Lại vào một lúc khác, có một Tỳkheo đi đến chỗ ta nói như vầy : “Thưa đức Thế Tôn ! Sao gọi là Ngã ? Ai là Ngã vậy ? Ngã duyên gì? “. Ta liền vì vị Tỳkheo mà nói rằng : “Này Tỳkheo ! Không Ngã và Ngã sở ! Nhãn (mắt) tức là vốn không nay có, đã có lại hoàn không. Khi mắt ấy sinh thì không có nơi từ đó đến và khi mắt ấy diệt cũng không có chỗ đi đến. Tuy có nghiệp quả nhưng không có tác giả. Không có người xả ấm và người thọ ấm. Như lời ông hỏi, sao gọi là ngã thì ngã tức là hẹn kỳ vậy. Ai là ngã thì tức là nghiệp vậy. Ngã duyên gì thì tức là Ái vậy. Này Tỳkheo ! Ví như hai tay vỗ vào nhau thì tiếng phát ra trong ấy ! Ngã cũng như vậy. Chúng sinh, nghiệp, ái, ba nhân duyên nên gọi là Ngã. Này Tỳkheo ! Sắc của tất cả chúng sinh chẳng phải ngã, trong ngã không sắc, trong sắc không ngã… Cho đến Thức cũng như vậy. Này Tỳkheo ! Những bọn ngoại đạo tuy nói có ngã nhưng nhất định chẳng lìa khỏi ấm. Nếu nói lìa khỏi ấm mà riêng có ngã thì không có điều này. Hành của tất cả chúng sinh như huyễn hóa, như lửa cháy khi nóng. Này Tỳkheo ! Năm ấm đều là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh.
Này thiện nam tử ! Bấy giờ, có vô lượng Tỳkheo quan sát năm ấm này không có ngã và ngã sở mà đắc quả Alahán. Này thiện nam tử ! Những đệ tử của ta nghe lời nói này rồi chẳng hiểu được ý ta nên xướng lên rằng, đức Như Lai quyết định nói vô ngã.
Này thiện nam tử ! Ở trong Kinh, ta lại nói rằng : “Ba việc hòa hợp thì được thọ thân này. Một là cha, hai là mẹ, ba là trung ấm là ba việc hòa hợp được thọ thân này”. Hoặc khi lại nói :”Người Anahàm hiện Bát Niết Bàn, hoặc ở trung ấm vào Bát Niết Bàn”. Hoặc lại nói rằng : “Thân căn trung ấm đầy đủ rõ ràng đều nhân nghiệp đời trước như đề hồ sạch sẽ”. Này thiện nam tử ! Ta hoặc có khi nói rằng : “Chúng sinh tệ ác thọ trung ấm như tấm vải sù sì thô ráp trong thế gian, còn chúng sinh thuần thiện thọ trung ấm như tấm vải trắng mịn sản xuất ở thành ba La Nại”. Các đệ tử của ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của ta nên xướng lên rằng : “Ðức Như Lai nói có trung ấm”.
Này thiện nam tử ! Ta lại vì những chúng sinh tội nghịch kia mà nói lời rằng : “Người tạo ngũ nghịch, xả thân vào thẳng địa ngục A Tỳ”. Ta lại nói rằng : “Tỳkheo Ðàn Ma Lưu Chi xả thân vào thẳng địa ngục A Tỳ, ở khoảng giữa ấy không có chỗ dừng tá túc”. Ta lại vì phạm chí Ðộc tử kia nói rằng : “Này phạm chí ! Nếu có trung ấm thì có sáu hữu!”. Ta lại nói rằng: “Chúng sinh cõi vô sắc không có trung ấm!”. Này thiện nam tử ! Các đệ tử của ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của ta mà xướng lên rằng : “Ðức Phật nói quyết định không trung ấm”.
Này thiện nam tử ! Ở trong Kinh, ta lại nói có thoái. Vì sao vậy ? – Vì nhân ở vô lượng giải đãi, các Tỳkheo lười biếng.v.v…chẳng tu đạo. Nói “thoái” là có năm thứ : Một là ưa nhiều chuyện (đa sự) hai là ưa nói việc đời, ba là ưa ngủ nghỉ, bốn là ưa gần kẻ tại gia, năm là ưa du hành nhiều. Do những nhân duyên này nên khiến cho các Tỳkheo thoái (lui). Nói về nhân duyên thoái lui có hai thứ, một là trong, hai là ngoài. Người Alahán tuy lìa khỏi nội nhân nhưng chẳng lìa khỏi ngoại nhân (nhân duyên bên ngoài). Do nhân duyên bên ngoài nên sinh ra phiền não, mà sinh ra phiền não thì liền thoái mất. Lại có Tỳkheo tên là Cù Chỉ có đến sáu lần thoái mất. Thoái rồi thì xấu hổ trở lại tiến tu, đến lần thứ bảy thì ông được. Ðược rồi lại sợ mất nên ông dùng dao tự hại mình. Ta lại hoặc nói có lúc giải đãi, hoặc nói có sáu thứ A la hán.v.v… Các đệ tử của ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của ta nên xướng lên rằng : “Ðức Như Lai quyết định nói có Thoái”.
Này thiện nam tử ! Trong kinh lại nói rằng, ví như đốt than thì than chẳng trở lại như cũ, cũng như bình vỡ thì lại không còn bình dùng. Phiền não cũng vậy, A la hán đoạn xong thì chẳng sinh trở lại. Kinh cũng nói rằng, chúng sinh sinh ra phiền não, nhân duyên phàm có ba thứ : Một là chưa đoạn phiền não, hai là chẳng đoạn nhân duyên, ba là chẳng khéo suy nghĩ. Nhưng mà A la hán không có hai nhân duyên là đoạn phiền não và khéo suy nghĩ. Này thiện nam tử ! Các đệ tử của ta nghe những lời đó rồi, chẳng hiểu ý của ta nên xướng lên rằng : “Ðức Như Lai quyết định nói không thoái”.
Này thiện nam tử ! Ở trong Kinh, ta nói, thân Như Lai có hai thứ : một là sinh thân, hai là pháp thân. Nói sinh thân thì tức là thân ứng hóa phương tiện. Như thân này thì có thể được nói rằng là sinh, già, bệnh, chết, dài, ngắn, đen, trắng, là đây, là đó, là học hay vô học… Các đệ tử của ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý của ta mà xướng lên rằng: “Ðức Như Lai quyết định nói thân Phật là pháp hữu vi”.
Pháp thân tức là Thường Lạc Ngã Tịnh, vĩnh viễn lìa khỏi tất cả sinh già bệnh chết, chẳng phải trắng, chẳng phải đen, chẳng phải dài, chẳng phải ngắn, chẳng phải đây, chẳng phải đó, chẳng phải học, chẳng phải vô học… Nếu Phật ra đời và chẳng ra đời thì vẫn thường trụ chẳng động, không có biến dịch. Này thiện nam tử ! Các đệ tử của ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý của ta mà xướng lên rằng : “Ðức Như Lai quyết định nói thân Phật là pháp Vô vi”.
Này thiện nam tử ! Trong Kinh của ta nói rằng, sao gọi là mười hai nhân duyên? Từ Vô minh sinh ra Hành, từ Hành sinh ra Thức, từ Thức sinh ra Danh sắc, từ Danh sắc sinh ra Lục nhập, từ Lục nhập sinh ra Xúc, từ Xúc sinh ra Thọ, từ Thọ sinh ra Ái, từ Ái sinh ra Thủ, từ Thủ sinh ra Hữu, từ Hữu sinh ra Sinh, từ Sinh thì có Lão Tử Ưu khổ. Này thiện nam tử! Các đệ tử của ta nghe lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý của ta mà xướng lên rằng : “Ðức Như Lai nói mười hai nhân duyên quyết định là hữu vi”.
Ta lại có lúc bảo Dụ Tỳkheo mà nói lên rằng : “Mười hai nhân duyên có Phật, không Phật, tính tướng thường trụ. Này thiện nam tử ! Có mười hai duyên chẳng từ duyên sinh. Có từ duyên sinh chẳng phải mười hai duyên. Có từ duyên sinh cũng mười hai duyên. Có chẳng phải duyên sinh cũng chẳng phải mười hai duyên. Có mười hai duyên chẳng phải duyên sinh nghĩa là mười hai chi của đời vị lai. Có từ duyên sinh chẳng phải mười hai duyên thì nghĩa là năm ấm sở hữu của A la hán. Có từ duyên sinh cũng mười hai duyên thì nghĩa là năm ấm, mười hai nhân duyên sở hữu của người phàm phu. Có chẳng phải duyên sinh chẳng phải mười hai duyên thì nghĩa là hư không Niết Bàn”. Này thiện nam tử ! Các đệ tử của ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý của ta mà xướng lên rằng: “Ðức Như Lai nói mười hai nhân duyên quyết định là vô vi”.
Này thiện nam tử ! Trong Kinh ta nói : “Tất cả chúng sinh tạo tác nghiệp thiện ác, khi xả thân thì bốn đại ở đây tức thời tan hoại. Người nghiệp thuần thiện thì tâm liền đi lên. Kẻ nghiệp thuần ác thì tâm đi xuống”. Này thiện nam tử ! Các đệ tử của ta nghe lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của ta mà xướng lên rằng : “Ðức Như Lai nói tâm quyết định Thường”.
Này thiện nam tử ! Vào một thuở, ta vì vua Tần Bà Ta La mà nói rằng : “Này đại vương ! Ông phải biết rằng, sắc là vô thường. Vì sao vậy? Vì nó từ nhân vô thường mà được sinh ra. Sắc đó nếu từ nhân vô thường sinh ra thì người trí làm sao mà nói rằng là thường ? Nếu sắc là thường thì chẳng nên hoại diệt mà sinh ra các khổ não. Nay ông thấy sắc này tan diệt hư hoại ! Vậy nên ông phải biết sắc là vô thường…” cho đến thức cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Các đệ tử của ta nghe lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý của ta mà xướng lên rằng : “Ðức Như Lai nói Tâm quyết định đoạn”.
Này thiện nam tử ! Trong Kinh ta nói rằng, những đệ tử của ta thọ nhận những hương hoa, vàng bạc, vật báu, vợ con, nô tỳ… trăm thứ vật bất tịnh mà vẫn thu hoạch được Chánh đạo mà được Chánh đạo rồi cũng chẳng rời bỏ. Những đệ tử của ta nghe lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý ta mà quyết định nói rằng : “Ðức Như Lai nói thọ năm dục chẳng phương hại Thánh đạo”.
Lại có một lúc, ta lại nói rằng : “Người tại gia mà được Chánh đạo thì không có điều này”. Này thiện nam tử ! Những đệ tử của ta nghe lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý ta mà xướng lên rằng : “Ðức Như Lai nói người thọ năm dục quyết định ngăn trở đạo Chân chính”.
Này thiện nam tử ! Trong Kinh ta nói rằng, xa lìa phiền não chưa được giải thoát mà giống như ở Dục giới tu tập pháp đệ nhất của thế gian vậy. Này thiện nam tử ! Các đệ tử của ta nghe lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý ta mà xướng lên rằng : “Ðức Như Lai nói pháp Ðệ Nhất chỉ là Dục giới”.
Lại nữa, ta nói rằng, pháp noãn (ấm) pháp đỉnh, pháp nhẫn, pháp thế đệ nhất ở tại sơ thiền đến đệ tứ thiền. Các đệ tử của ta nghe lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý ta mà xướng lên rằng : “Ðức Như Lai nói những pháp như vậy ở tại Sắc giới”.
Lại nữa, ta nói rằng, các ngoại đạo.v.v… trước đã đoạn phiền não của bốn thiền, tu tập pháp noãn, pháp đĩnh, pháp nhẫn, pháp thế đệ nhất mà quan sát bốn chân đế thì được quả A na hàm. Các đệ tử của ta nghe lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý ta mà xướng lên rằng : “Ðức Như Lai nói pháp đệ nhất ở tại Vô sắc giới”.
Này thiện nam tử ! Trong Kinh ta nói rằng, trong bốn thứ thí có ba thứ tịnh : Một là thí chủ tin nhân, tin quả, tin thí mà người thọ chẳng tin. Hai là người thọ thí tin nhân, quả, thí mà thí chủ chẳng tin. Ba là thí chủ và người thọ cả hai có tin. Bốn là thí chủ và người thọ cả hai chẳng tin. Ðó là bốn thứ thí mà ba thứ đầu là tịnh. Các đệ tử của ta nghe lời nói này rồi, chẳng hiểu ý ta mà xướng lên rằng : “Ðức Như Lai nói thí chỉ là ý”.
Này thiện nam tử ! Ta có lúc lại nói rằng, người thí khi thí dùng năm việc thí. Những gì là năm ? Một là thí sắc, hai là thí lực, ba là thí an, bốn là thí mạng, năm là thí biện. Do nhân duyên này nên thí chủ trở lại được năm quả báo. Các đệ tử của ta nghe lời nói này rồi, chẳng hiểu ý ta mà xướng lên rằng : “Ðức Phật nói thí tức là năm ấm”.
Này thiện nam tử ! Ta có lúc tuyên nói rằng, Niết Bàn tức là xa lìa phiền não, tận diệt vĩnh viễn không sót lại nữa. Giống như đèn tắt lại không pháp sinh ra, Niết Bàn cũng vậy. Rằng, hư không thì tức là không sở hữu. Ví như thế gian không sở hữu nên gọi là hư không. Chẳng phải duyên trí diệt tức là không sở hữu. Như hư không kia có thì nên có nhân duyên. Có nhân duyên nên có tận diệt. Do hư không kia không nên không có tận diệt. Các đệ tử của ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý ta mà xướng lên rằng : “Ðức Phật nói không có ba vô vi”.
Này thiện nam tử ! Có một lúc, ta vì ông Mục Kiền Liên mà nói rằng: “Này Mục Liên ! Luận về Niết Bàn thì tức là chương cú, tức là dấu chân, chính là chỗ rốt ráo, chính là vô sở úy, tức là Ðại sư, tức là Ðại Quả, là trí rốt ráo, tức là Ðại Nhẫn Vô Ngại tam muội, là Ðại pháp giới, là vị cam lộ, tức là khó thấy. Này Mục Liên ! Nếu nói không Niết Bàn thì làm sao có người sinh ra bài báng thì rơi vào địa ngục”. Này thiện nam tử ! Những đệ tử của ta nghe những lời đó rồi, chẳng hiểu ý ta mà xướng lên rằng : “Ðức Như Lai nói có Niết Bàn”.
Lại vào một lúc khác, ta vì ông Mục Kiền Liên mà nói rằng : “Này Mục Liên ! Nhãn (mắt) chẳng bền chắc.. cho đến thân cũng vậy, chúng đều chẳng bền chắc. Vì chẳng bền chắc nên gọi là hư không. Ðồ ăn xuống chỗ xoay chuyển tiêu hóa, tất cả âm thanh, đều gọi là hư không”. Các đệ tử của ta nghe lời nói này rồi, chẳng hiểu ý ta mà xướng lên rằng: “ Ðức Như Lai quyết định nói có hư không vô vi”.
Lại vào một lúc khác, ta vì ông Mục Kiền Liên nói rằng : “Này Mục Liên ! Có người chưa được quả Tu Ðà Hoàn, khi trụ ở nhẫn pháp thì đoạn được vô lượng quả báo của ba đường ác. Ông phải biết rằng, chẳng từ Trí duyên mà diệt !” Các đệ tử của ta nghe lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý ta mà xướng lên rằng : “Ðức Như Lai quyết định nói “Có” chẳng phải trí duyên diệt”.
Này thiện nam tử ! Ta lại vào một lúc khác vì ông Tỳkheo Bạt Ba nói rằng : “Nếu Tỳkheo quan sát sắc hoặc quá khứ, hoặc vị lại, hoặc hiện tại, hoặc gần, hoặc xa, hoặc lớn, hoặc nhỏ.v.v… những sắc như vậy chẳng phải ngã và ngã sở. Nếu Tỳkheo quan sát như vậy rồi thì có thể cắt đứt sắc ái”. Bạt Ba lại nói rằng : “Sao gọi là sắc ?” Ta nói rằng : “Bốn đại gọi là sắc, bốn ấm gọi là danh !” Các đệ tử của ta nghe lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý ta mà xướng lên rằng : “Ðức Như Lai quyết định nói rằng, sắc chính là bốn đại”.
Này thiện nam tử ! Ta lại nói rằng : “Ví như nhân tấm gương thì có hình dáng hiện ra. Sắc cũng như vậy, nhân bốn đại tạo ra. Nào là to, nhỏ, nhám, trơn, xanh, vàng, đỏ, trắng, dài, ngắn, vuông, tròn, tà (xiêng), góc, nhẹ, nặng, lạnh, nóng, đói, khát, khói, mây, bụi, mù… Ðó gọi là tạo sắc giống như tiếng vang và hình dáng”. Các đệ tử của ta nghe lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý ta mà xướng lên rằng : “Ðức Như Lai nói có bốn đại thì có tạo sắc thành ra không bốn đại, không có tạo sắc”.
Này thiện nam tử ! Thuở xưa có khi vương tử Bồ Ðề nói lời như vầy : “Nếu có Tỳkheo hộ trì cấm giới mà phát lòng ác thì phải biết lúc đó đã mất giới Tỳkheo”. Ta thì nói rằng : “Này vương tử Bồ Ðề ! Giới có bảy thứ, từ ở thân miệng có vô tác sắc. Do nhân duyên vô tác sắc này nên tâm ấy tuy ở tại trong ác vô ký nhưng chẳng gọi là mất giới mà còn gọi là trì giới. Vì nhân duyên gì gọi là vô tác sắc ? Chẳng phải nhân sắc khác thì chẳng tạo tác quả sắc khác. Này thiện nam tử ! Các đệ tử của ta nghe lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý ta mà xướng lên rằng : “Ðức Phật nói có vô tác sắc”.
Này thiện nam tử ! Ở Kinh khác, ta lại nói như vầy : “Giới tức là ngăn chận, chế ngự ác pháp. Nếu chẳng làm ác thì đó gọi là Trì giới”. Các đệ tử của ta nghe lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý ta mà xướng lên rằng : “Ðức Như Lai quyết định tuyên nói không có Vô tác sắc”.
Này thiện nam tử ! Ở Krong kinh, ta nói như vầy : “Sắc ấm cho đến thức ấm của Thánh nhân đều là sự phát xuất của nhân duyên vô minh. Tất cả phàm phu cũng lại như vậy. Từ vô minh sinh ra ái thì phải biết là ái này tức là vô minh. Từ ái sinh ra thủ thì phải biết thủ này tức là vô minh ái. Từ thủ sinh ra hữu thì phải biết hữu này tức là vô minh ái thủ. Từ hữu sinh ra thọ thì phải biết thọ này tức là hành hữu. Từ thọ nhân duyên sinh ra danh sắc, vô minh, ái, thủ, hữu, hành, thọ, xúc, thức, lục nhập.v.v… Vậy nên thọ tức là mười hai chi”. Này thiện nam tử ! Các đệ tử của ta nghe lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý ta mà xướng lên rằng : “Ðức Như Lai nói không có tâm số”.
Này thiện nam tử ! Ở trong Kinh, ta nói như vầy : “Từ mắt, sắc làm sáng bốn pháp ác dục thì sinh ra nhãn thức (sự nhận thức của mắt). Nói ác dục tức là nói vô minh. Khi tính dục cầu thì gọi là Ái. Ái nhân duyên thủ. Thủ gọi là Nghiệp. Nghiệp nhân duyên Thức. Thức duyên Danh sắc. Danh sắc duyên Lục nhập. Lục nhập duyên Xúc. Xúc duyên Tưởng, Thọ, Ái, Tín, Tinh tấn, Ðịnh, Tuệ.v.v… Những pháp như vậy nhân xúc mà sinh ra, nhưng chẳng phải là xúc. Này thiện nam tử ! Các đệ tử của ta nghe lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý ta mà xướng lên rằng : “Ðức Phật nói có tâm số”.
Này thiện nam tử ! Hoặc có khi ta nói rằng, chỉ có một hữu. Hoặc nói rằng, có hai ba bốn năm sáu bảy tám chín cho đến hai mươi lăm cõi hữu. Các đệ tử của ta nghe lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý ta mà xướng lên rằng : “Ðức Như Lai nói có năm cõi hữu, hoặc nói có sáu cõi hữu”.
Này thiện nam tử ! Một thuở trước đây, khi ta trụ ở rừng Ni Câu Ðà tại thành Ca Tỳ La Vệ, ông Thích Ma Nam đi đến chỗ ta mà nói như vầy : “Sao gọi là Ưu bà tắc ?” Ta liền vì ông trả lời : “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân các căn hoàn bị, thọ ba quy y thì đó gọi là Ưu bà tắc vậy”. Ông Thích Ma Nam nói rằng : “Thưa đức Thế Tôn ! Sao gọi là một phần Ưu bà tắc ?” Ta đáp rằng : “Nếu thọ ba quy y và thọ một giới thì đó gọi là một phần Ưu bà tắc vậy !”. Các đệ tử của ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý ta mà xướng lên rằng : “Ðức Như Lai nói Giới Ưu bà tắc chẳng thọ đủ được”. Này thiện nam tử ! Vào một thuở, ta trụ ở bên sông Hằng, bấy giờ ông Ca Chiên Diên đi đến chỗ ta mà nói như vầy : “Thưa đức Thế Tôn ! Con dạy chúng sinh bảo họ thọ Trai pháp (pháp Bát quan trai) hoặc một ngày, hoặc một đêm, hoặc một giờ, hoặc một niệm. Người như vậy có thành Trai giới không vậy ?”. Ta nói rằng : “Này Tỳkheo ! Người này được tốt (thiện) chớ chẳng gọi là được Trai !”. Các đệ tử của ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý ta mà xướng lên rằng : “Ðức Như Lai nói Bát giới trai thọ đầy đủ mới được”.
Này thiện nam tử ! Ở trong Kinh ta nói như vầy : “Nếu có Tỳkheo phạm bốn trọng cấm rồi thì chẳng gọi là Tỳkheo mà gọi là Tỳkheo phá, Tỳkheo vong thất (mất), chẳng lại có thể sinh ra hạt giống mầm thiện. Ví như hạt giống cháy chẳng sinh ra kết quả. Như đầu cây Ða La nếu bị chặt phá thì chẳng sinh ra trái, Tỳkheo phạm trọng cấm cũng lại như vậy”. Các đệ tử của ta nghe lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý ta mà xướng lên rằng : “Ðức Như Lai nói các Tỳkheo phạm trọng cấm rồi thì mất giới Tỳkheo.
Này thiện nam tử ! Ở trong Kinh ta vì ông Thuần Ðà mà nói về bốn thứ Tỳkheo, một là rốt ráo đến đạo, hai là thị (bày) đạo, ba là thọ đạo, bốn là ô (lấm bẩn) đạo. Phạm bốn trọng cấm thì tức là ô đạo. Các đệ tử của ta nghe lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý ta mà xướng lên rằng : “Ðức Như Lai nói các Tỳkheo phạm bốn trọng cấm rồi chẳng mất giới cấm”.
Này thiện nam tử ! Ở trong Kinh ta bảo các Tỳkheo rằng : “Một thừa, một đạo, một hạnh, một duyên. Như vậy một thừa… cho đến một duyên có thể vì chúng sinh tạo tác Ðại Tịch Tịnh, đoạn vĩnh viễn khổ của tất cả trói buộc sầu khổ và nhân của khổ, khiến cho tất cả chúng sinh đến với Nhất hữu”. Các đệ tử của ta nghe lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý ta mà xướng lên rằng : “Ðức Như Lai nói Tu đà hoàn cho đến A la hán đều được Phật đạo”.
Này thiện nam tử ! Ở trong Kinh ta nói : “Người Tu đà hoàn lên trời xuống nhân gian, qua lại bảy lần thì liền Bát Niết Bàn. Người Tư đà hàm một lần thọ thân người, trời thì liền Bát Niết Bàn. Người A na hàm thường có năm thứ, hoặc có người trung gian Bát Niết Bàn… cho đến người thượng lưu Bát Niết Bàn. Người A la hán thường có hai thứ, một là hiện tại, hai là vị lai. Hiện tại cũng đoạn phiền não năm ấm, vị lai cũng đoạn phiền não năm ấm”. Các đệ tử của ta nghe lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý ta mà xướng lên rằng : “Ðức Như Lai nói Tu đà hoàn cho đến A la hán chẳng được Phật đạo”.
Này thiện nam tử ! Ở trong Kinh này, ta nói rằng: “Phật tính có đủ sáu việc, một là Thường, hai là Thật, ba là Chân, bốn là Thiện, năm là Tịnh, sáu là Khả kiến”. Các đệ tử của ta nghe lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý ta mà xướng lên rằng: “Ðức Phật nói Phật tính của chúng sinh lìa khỏi chúng sinh mà có”.
Này thiện nam tử ! Ta lại nói rằng : “Phật tính của chúng sinh giống như hư không. Hư không thì chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại, chẳng phải nội, chẳng phải ngoại, chẳng phải là sắc, thanh, hương, vị, xúc tiếp. Phật tính cũng vậy”. Các đệ tử của ta nghe lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý ta mà xướng lên rằng : “Ðức Phật nói Phật tính của chúng sinh lìa khỏi chúng sinh mà có”.
Này thiện nam tử ! Ta lại nói nữa rằng : “Phật tính của chúng sinh giống như Bảo tạng trong nhà người con gái nghèo, như viên ngọc báu Kim Cương trên trán vị lực sĩ, như dòng suối cam lộ của vị Chuyển Luân Thánh Vương”. Các đệ tử của ta nghe lời nói này rồi, chẳng hiểu ý ta mà xướng lên rằng : “Phật nói Phật tính của chúng sinh lìa khỏi chúng sinh mà có”.
Này thiện nam tử ! Ta lại nói rằng : “Người phạm bốn trọng cấm, nhất xiển đề, người bài báng Kinh Phương Ðẳng, người tạo tác tội ngũ nghịch đều có Phật tính. Những chúng sinh như vậy đều không thiện pháp mà Phật tính chính là thiện”. Các đệ tử của ta nghe lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý ta mà xướng lên rằng: “Ðức Phật nói Phật tính của chúng sinh lìa khỏi chúng sinh mà có”.
Này thiện nam tử ! Ta lại nói rằng : “Chúng sinh tức là Phật tính. Vì sao vậy ? Vì nếu lìa khỏi chúng sinh thì chẳng được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vậy nên ta cùng với vua Ba Tư Nặc nói về bài dụ con voi. Như người mù nói về voi tuy chẳng được voi nhưng chẳng lìa khỏi voi. Chúng sinh nói sắc cho đến nói thức chính là Phật tính thì cũng lại như vậy tuy chẳng phải Phật tính nhưng chẳng phải chẳng Phật tính. Như ta vì nhà vua nói bài dụ về cây đàn Không Hầu, Phật tính cũng vậy”. Này thiện nam tử ! Các đệ tử của ta nghe những lời nói này rồi, chẳng hiểu ý ta mà tạo tác đủ thứ lời nói, như việc người mù hỏi về sữa mà Phật tính cũng vậy. Do nhân duyên này nên hoặc có người nói rằng, người phạm bốn trọng cấm, bài báng kinh Phương Ðẳng, tạo ngũ nghịch tội, nhất xiển đề.v.v… đều có Phật tính, hoặc nói rằng, không ! Này thiện nam tử ! Ở khắp nơi nơi trong kinh, ta nói rằng : “Một người ra đời nhiều người lợi ích, trong một đất nước có hai vua Chuyển Luân, trong một thế giới có hai Phật ra đời thì không có điều này. Một Tứ Thiên Hạ có tám Tứ Thiên vương… cho đến hai trời Tha Hóa Tự Tại cũng không có điều này. Nhưng ta mới nói từ địa ngục A Tỳ của cõi Diêm Phù Ðề lên đến trời A Ca Ni Sấc. Các đệ tử của ta nghe lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý ta mà xướng lên rằng : “Ðức Phật nói không có mười phương Phật”. Nhưng ở trong những kinh Ðại thừa, ta cũng nói có mười phương Phật.
*********
– Này thiện nam tử ! Tranh tụng như vậy là cảnh giới của Phật, chẳng phải là sự hiểu biết của các Thanh Văn, Duyên Giác. Nếu người đối với vấn đề này sinh ra lòng nghi ngờ thì còn có thể tiêu hoại vô lượng phiền não như núi Tu Di. Nếu người ở trong vấn đề này sinh ra quyết định thì đó gọi là chấp trước.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
– Thưa đức Thế Tôn ! Sao gọi là chấp trước ?
Ðức Phật dạy rằng :
– Này thiện nam tử ! Người như vậy, hoặc theo người khác nghe, hoặc tự tìm ở kinh điển, hoặc người khác dạy bảo cho mà đối với những việc đã nhận được chẳng thể buông bỏ thì đó gọi là chấp trước.
Bồ tát Ca Diếp lại bạch rằng :
– Thưa đức Thế Tôn ! Như vậy chấp trước là thiện hay là bất thiện vậy?
– Này thiện nam tử ! Như vậy chấp trước chẳng gọi là thiện. Vì sao vậy? Vì chẳng thể tiêu hoại các lưới nghi.
Ngài Ca Diếp lại bạch rằng :
– Thưa đức Thế Tôn ! Như vậy con người vốn tự chẳng nghi ngờ thì làm sao mà nói rằng chẳng hoại lưới nghi ?
– Này thiện nam tử ! Luận về chẳng nghi thì tức là nghi vậy !
– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu có người cho là người Tu đà hoàn chẳng rơi vào ba ác thì người đó cũng phải gọi là trước, gọi là nghi !
– Này thiện nam tử ! Ðó có thể gọi là định, chẳng được gọi là nghi. Vì sao vậy ? Này thiện nam tử ! Ví như có người trước thấy người và cây. Sau đó vào ban đêm từ xa thấy rễ cây nhô lên liền phát sinh ý tưởng nghi ngờ là người hay là cây vậy ? Này thiện nam tử ! Như người trước thấy Tỳkheo và Phạm chí, lúc sau ở trên đường từ xa thấy Tỳkheo liền sinh ý tưởng nghi ngờ là Sa môn hay là Phạm chí vậy ? Này thiện nam tử ! Như người trước thấy trâu và trâu nước, lúc sau từ xa thấy trâu liền sinh ra ý tưởng nghi ngờ là trâu hay là trâu nước vậy? Này thiện nam tử ! Tất cả chúng sinh trước thấy hai vật thì về sau liền sinh ra nghi ngờ. Vì sao vậy? Vì tâm chẳng liễu ngộ vậy. Ta cũng chẳng nói người Tu đà hoàn có đoạ vào ba ác, chẳng đọa vào ba ác thì người đó vì sao sinh ra lòng nghi?
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng :
– Thưa đức Thế Tôn ! Như lời đức Phật nói, cần phải trước thấy rồi nhiên hậu mới nghi. Nhưng có người khi chưa thấy hai thứ vật cũng sinh nghi là sao vậy? Như là Niết Bàn đó ! Thưa đức Thế Tôn ! Ví như có người trên đường đi gặp vũng nước đục, nhưng chưa từng thấy, mà vẫn sinh nghi ngờ, nước như vậy là sâu hay cạn vậy? Người này chưa thấy thì làm sao sinh nghi ?
– Này thiện nam tử ! Luận về Niết Bàn thì tức là đoạn khổ, chẳng phải Niết Bàn thì tức là khổ. Thấy của tất cả chúng sinh có hai thứ : Khổ, chẳng phải khổ. Khổ, chẳng phải khổ thì tức là đói khát, nóng lạnh, sân giận, vui mừng, bệnh ốm, yên ổn, già, trẻ, sinh, chết, trói buộc, giải thoát, ân ái biệt ly, oán ghét tụ hội… Chúng sinh thấy rồi liền sinh ra nghi ngờ : “Phải chăng có sự xa lìa rốt ráo khổ não như vậy ?”. Vậy nên chúng sinh đối với Niết Bàn mà sinh ra nghi vậy. Theo ý ông nếu cho rằng, người này trước khi đến chưa thấy vũng nước đục mà làm sao sinh ra nghi ngờ thì nghĩa này không đúng. Vì sao vậy ? Vì người đó đã thấy trước chỗ khác rồi. Vậy nên ở chỗ này chưa từng đến mà lại sinh ra nghi.
– Thưa đức Thế Tôn ! Người này khi trước thấy chỗ sâu, cạn rồi chẳng sinh nghi, đến nay vì sao mà lại sinh nghi?
Ðức Phật dạy rằng :
– Này thiện nam tử ! Vốn chưa đi nên đã sinh ra nghi. Vậy nên ta nói rằng, chẳng rõ nên nghi.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
– Thưa đức Thế Tôn ! Như lời đức Phật nói, nghi tức là chấp trước, chấp trước tức là nghi, là ai vậy?
– Này thiện nam tử ! Là người đoạn thiện căn.
Ngài Ca Diếp bạch rằng :
– Thưa đức Thế Tôn ! Những bọn người nào có thể đoạn thiện căn?
– Này thiện nam tử ! Nếu có người thông minh, trí tuệ, căn tính linh lợi, có thể giỏi phân biệt mà xa lìa bạn lành, chẳng nghe chính pháp, chẳng khéo tư duy, chẳng theo đúng như pháp mà trụ thì người như vậy có thể cắt đứt căn lành. Người lìa khỏi bốn việc đó thì lòng tự nghĩ suy : “Không có vật bố thí. Vì sao vậy ? Vì thí tức là xả bỏ tài vật (của cải). Nếu bố thí có quả báo thì phải biết thí chủ thường nên nghèo cùng. Vì sao vậy ? Vì hạt với quả tương tợ. Vậy nên nói rằng, không nhân không quả”. Nếu nói không nhân không quả như vậy thì đó gọi là cắt đứt căn lành. Người đó lại khởi ý nghĩ : “Thí chủ, người nhận và cả tài vật ba việc đều vô thường, không có đình trụ. Nếu không đình trụ thì làm sao nói rằng, đây là thí chủ, người nhận, tài vật ? Nếu không người nhận thì làm sao được quả báo ? Do nghĩa này nên không nhân không quả”. Nếu người nói không nhân không quả như vậy thì phải biết người đó có thể cắt đứt căn lành. Người đó lại nghĩ rằng : “Người bố thí khi thí có năm việc thí. Người nhận đã nhận rồi hoặc có khi làm thiện, hoặc làm bất thiện mà thí chủ này cũng lại chẳng được quả thiện hay bất thiện. Như pháp thế gian, từ hạt sinh ra quả, rồi quả trở lại làm hạt. Nhân tức là thí chủ, quả tức là người nhận mà người nhận này chẳng thể dùng pháp thiện hay bất thiện này để khiến cho thí chủ được. Do nghĩa này nên không nhân không quả”. Nếu người nói không nhân không quả như vậy thì phải biết người đó có thể cắt đứt căn lành. Người đó lại nghĩ : “Không có vật thí. Vì sao vậy? Vì vật thí vô ký. Nếu là vô ký thì làm sao mà được quả báo thiện vậy ? Không quả báo thiện ác tức là vô ký. Của cải nếu vô ký thì phải biết là không quả báo thiện ác. Vậy nên không thí, không nhân, không quả”. Nêu người nói không nhân không quả như vậy thì phải biết người đó có thể cắt đứt căn lành. Người đó lại nghĩ : “Thí tức là ý. Nếu là ý thì không thấy, không đối tác, chẳng phải là sắc pháp. Nếu chẳng phải là sắc pháp thì làm sao có thể thí. Vậy nên không thí, không nhân, không quả”. Nếu người nói không nhân không quả như vậy thì phải biết người này có thể cắt đứt căn lành. Người đó lại nghĩ : “Thí chủ nếu vì tượng Phật, tượng trời, cha mẹ quá cố mà hành thí thì tức là không người nhận. Nếu không người nhận thì ứng không quả báo. Nếu không quả báo thì đó là không nhân. Nếu không nhân thì đó là không quả”. Nếu người nói không nhân không quả như vậy thì phải biết người này có thể cắt đứt căn lành. Người đó lại nghĩ : “Không cha, không mẹ. Nếu nói cha mẹ là nhân của chúng sinh sinh ra chúng sinh thì theo lý nên thường sinh không có đoạn tuyệt. Vì sao vậy ? Vì nhân thường có vậy. Nhưng mà chẳng thường sinh. Vậy nên phải biết là không có cha mẹ”. Lại nghĩ rằng : “Không cha không mẹ. Vì sao vậy ? Vì nếu thân chúng sinh nhân cha mẹ mà có thì một người nên đủ hai căn nam và nữ. Nhưng mà không đủ thì phải biết là chúng sinh chẳng phải nhân cha mẹ”. Lại nghĩ rằng : “Chẳng phải nhân cha mẹ mà sinh ra chúng sinh. Vì sao vậy ? Vì mắt thấy chúng sinh chẳng giống cha mẹ như là thân sắc, tâm, oai nghi, tiến lùi…Vậy nên cha mẹ chẳng phải là nhân của chúng sinh”. Lại nghĩ rằng : “Tất cả thế gian có bốn thứ không : Một là chưa sinh ra gọi là không như khi viên bùn chưa có công dụng của cái bình. Hai là diệt rồi gọi là không như khi bình vỡ rồi thì đó gọi là không. Ba là đều khác lẫn nhau không như trong trâu không ngựa, trong ngựa không trâu. Bốn là rốt ráo gọi là không như sừng thỏ, lông rùa. Cha mẹ của chúng sinh cũng lại như vậy, đồng với bốn không này. Nếu nói cha mẹ là nhân của chúng sinh thì khi cha mẹ chết, con chẳng nhất định chết. Vậy nên cha mẹ chẳng phải nhân của chúng sinh”. Lại nghĩ rằng : “Nếu nói cha mẹ là nhân của chúng sinh thì nên nhân cha mẹ thường sinh ra chúng sinh. Nhưng mà lại có hóa sinh, thấp sinh. Vậy nên phải biết chẳng phải nhân cha mẹ sinh ra chúng sinh vậy”. Lại nghĩ rằng : “Tự có chúng sinh, chẳng phải nhân cha mẹ mà được sinh trưởng. Ví như chim Khổng tước (công) nghe tiếng sấm động mà liền được có thai. Lại như con sẻ xanh uống nước mắt con sẻ đực mà liền được có thai. Như loài chim mạng mạng (cộng mạng) thấy con trống thì múa mà liền được có thai”. Khi tác khởi những ý niệm này mà người ấy chẳng gặp thiện tri thức thì phải biết người đó có thể cắt đứt căn lành. Có người lại nghĩ rằng : “Tất cả thế gian không có quả báo thiện ác. Vì sao vậy ? Vì có những chúng sinh đủ mười thiện pháp, ưa bố thí, siêng tu công đức mà người này cũng lại bị bệnh tật, chết yểu, tài vật tổn thất, nhiều những ưu khổ. Có chúng sinh làm mười điều ác, san tham, tật đố, lười biếng, giải đãi, chẳng tu các điều thiện mà họ được thân yên không bệnh, sống lâu trọn đời, thừa thãi của báu, không các sầu khổ. Vậy nên phải biết là không có quả báo thiện ác”. Họ lại nghĩa rằng : “Ta cũng từng nghe các bậc Thánh nhân nói rằng, có người tu thiện khi mạng chung đọa vào ba đường ác, có người làm ác khi mạng chung được sinh lên cõi người, trời. Vậy nên phải biết là không quả báo thiện, ác”. Họ lại nghĩ rằng : “Tất cả Thánh nhân có hai lối nói, hoặc nói sát sinh được quả báo thiện, hoặc nói sát sinh được quả báo ác. Vậy nên phải biết lời nói của Thánh bất định (chẳng quyết định). Thánh nếu bất định thì ta làm sao định được ? Vậy nên phải biết là không quả báo thiện ác”. Họ lại nghĩ rằng : “ Tất cả thế gian không có Thánh nhân. Vì sao vậy ? Vì nếu nói là Thánh nhân thì nên được Chính đạo. Khi tất cả chúng sinh đầy đủ phiền não mà tu chính đạo thì phải biết là người tu đó đều có chính đạo và phiền não cùng một lúc. Nếu có cùng một lúc thì phải biết là chính đạo chẳng thể phá kết. Nếu không phiền não mà tu chính đạo thì như vậy sở tác của chính đạo là gì ? Vậy nên người đủ phiền não thì đạo chẳng thể hoại, chẳng đủ phiền não thì đạo vô dụng. Vậy nên phải biết là tất cả thế gian không có Thánh nhân”. Họ lại nghĩ rằng : “Vô minh duyên hành… cho đến sinh duyên lão tử, mười hai nhân duyên này, tất cả chúng sinh đều chung có. Tám Thánh đạo thì tính của chúng bình đẳng cũng nên như vậy : Khi một người được thì tất cả nên được, khi một người tu thì nên tất cả khổ diệt. Vì sao vậy ? Vì phiền não bình đẳng. Nhưng mà nay thì chẳng được. Vậy nên phải biết là không có Chính đạo”. Họ lại nghĩ rằng : “Thánh nhân đều có pháp đồng với phàm phu như là ăn, uống, đi, đứng, ngồi, nằm, ngủ nghỉ, vui cười, đói khát, nóng lạnh, ưu sầu, khủng bố… Nếu họ đồng với phàm phu trong những việc như vậy thì phải biết Thánh nhân chẳng được đạo Thánh. nếu được đạo Thánh thì các vị ấy cần phải cắt đứt vĩnh viễn những việc như vậy. Những việc như vậy mà các vị ấy chẳng cắt đứt thì phải biết không có Thánh đạo”. Họ lại nghĩ rằng : “Thánh nhân có thân hưởng thọ niềm vui năm dục, cũng lại nhục mạ đánh đập người, ganh ghét, kiêu mạn, chịu khổ vui, tạo tác nghiệp thiện ác… Do nhân duyên này nên biết không có Thánh nhân. nếu có đạo thì nên cắt đứt việc này. Việc này chẳng cắt đứt thì phải biết là không có đạo”. Họ lại nghĩ rằng : “Người nhiều lân mẫn thì gọi là Thánh nhân. Vì nhân duyên gì gọi là Thánh nhân ? Vì nhân duyên đạo nên gọi là Thánh nhân. Nếu tính của đạo là lân mẫn thì nên thương nghĩ đến tất cả chúng sinh chẳng đợi tu rồi nhiên hậu mới được. Như đạo ấy không lân mẫn thì vì sao Thánh nhân nhân được đao Thánh có thể lân mẫn vậy ? Vậy nên phải biết là đời không có Thánh đạo”. Họ lại nghĩ rằng : “Tất cả bốn đại chẳng từ nhân sinh mà chúng sinh đều có tính bốn đại này thì chẳng quan sát chúng sinh bên này nên đến, bên kia chẳng nên đến. Nếu có tính Thánh đạo thì nên như vậy. Nhưng mà nay chẳng vậy. Vậy nên phải biết là đời không có Thánh nhân”. Họ lại nghĩ rằng : “Nếu các Thánh nhân có một Niết Bàn thì phải biết là không có Thánh nhân. Vì sao vậy ? Vì chẳng thể được vậy. Theo lý của pháp thường trụ thì chẳng thể được, chẳng thể lấy hay bỏ (thủ xả). Nếu các Thánh nhân Niết Bàn nhiều thì tức là vô thường. Vì sao vậy ? Vì pháp có thể tính vậy. Niết Bàn nếu khi mỗi một người được thì tất cả nên được. Niết Bàn nếu nhiều thì tức là có biên mà biên (giới) thì làm sao gọi là Thường ? Nếu có người nói rằng, thể của Niết Bàn là một mà giải thoát thì nhiều như vòm miệng là một mà răng, lưỡi thì nhiều. Nghĩa lý này chẳng đúng ! Vì sao vậy? Vì mỗi một đều sở đắc riêng, chẳng phải tất cả được. Vì cũng có biên nên là ứng với vô thường. Nếu đã vô thường thì làm sao được gọi là Niết Bàn vậy ? Niết Bàn nếu không thì ai là Thánh nhân. Vậy nên phải biết là không có Thánh nhân”. Họ lại nghĩ rằng : “Ðạo Thánh nhân chẳng phải nhân duyên được. Nếu đạo Thánh nhân chẳng phải nhân duyên được thì vì sao tất cả chẳng làm Thánh nhân? Nếu tất cả người chẳng phải Thánh nhân thì phải biết là không có Thánh nhân và cả Thánh đạo”. Họ lại nghĩ rằng : “Ðức Thánh nói, chánh kiến có hai nhân duyên, một là từ người khác nghe pháp, hai là bên trong tự suy nghĩ. Hai nhân duyên này nếu từ duyên sinh ra thì cái chỗ từ đó sinh ra lại từ duyên sinh ra. Như vậy đắp đổi có đến vô cùng vậy. Còn nếu hai việc này chẳng từ duyên sinh ra thì tất cả chúng sinh vì sao chẳng được…”. Khi tác khởi những sự quan sát này thì có thể cắt đứt căn lành. Này thiện nam tử ! Nếu có chúng sinh thấy sâu không nhân, không quả như vậy thì người đó có thể cắt đứt Tín căn.v.v… năm căn. Này thiện nam tử ! Người cắt đứt căn lành chẳng phải là người thấp hèn ngu độn, cũng chẳng phải ở trong trời và ba đường ác. Kẻ phá tăng cũng vậy.
Bồ tát Ca Diếp bạch Phật rằng :
– Thưa đức Thế Tôn ! Người như vậy thì khi nào sẽ sanh trở lại thiện căn.
Ðức Phật dạy :
– Này Thiện nam tử ! Người như vậy có hai trường hợp sinh trở lại thiện căn. Ðó là khi mới vào dịa ngục và khi ra khỏi địa ngục.
Này thiện nam tử ! Thiện có ba thứ, quá khứ, hiện tại, vị lai. Nếu là quá khứ thì tánh của nó tự diệt. Nhân tuy diệt tận mà quả báo chưa chín, vậy nên không gọi là đoạn quả của quá khứ, đoạn nhân của ba đời, nên gọi là đoạn.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu đoạn nhân của ba đời thì gọi là đoạn thiện căn mà người đoạn thiện căn thì có Phật tính. Như vậy Phật tính chính là quá khứ hay chính là hiện tại hay chính là vị lai hay là khắp ba đời ? Nếu là quá khứ thì làm sao gọi là Thường ? Phật tính chính là Thường. Vậy nên phải biết chẳng phải là quá khứ. Nếu là vị lai thì làm sao gọi là Thường ? Vì sao đức Phật nói tất cả chúng sinh nhất định sẽ được ? Nếu nhất định được thì sao nói là đoạn ? Nếu là hiện tại thì làm sao lại thường ? Vì sao lại nói nhất định sẽ thấy ? Ðức Như Lai cũng nói Phật tính có sáu, một là thường, hai là chân, ba là thật, bốn là thiện, năm là tịnh, sáu là khả kiến (có thể thấy). Nếu người đoạn thiện căn có Phật tính thì chẳng được gọi là đoạn thiện căn vậy. Nếu không Phật tính thì làm sao lại nói tất cả chúng sinh đều có Phật tính ? Nếu nói rằng, Phật tính cũng có, cũng đoạn thì làm sao đức Như Lai lại nói là Thường ?
Ðức Phật dạy rằng :
– Này thiện nam tử ! Như Lai Thế Tôn vì chúng sinh nên có bốn thứ đáp, một là định đáp, hai là phân biệt đáp, ba là tùy vấn đáp, bốn là trí (đặt để) đáp.
Này thiện nam tử ! Sao gọi là định đáp ? Nếu hỏi : Nghiệp ác được quả thiện hay quả bất thiện vậy ? Là nên quyết định đáp rằng, được quả bất thiện và thiện cũng như vậy mà đáp. Nếu hỏi : Như Lai có Nhất Thiết Trí không ? Là nên quyết định đáp rằng, chính là Nhất Thiết Trí. Nếu hỏi : Phật pháp chính là thanh tịnh chăng ? Là nên quyết định đáp rằng, nhất định thanh tịnh. Nếu hỏi : Ðệ tử của Như Lai có đúng như pháp mà trụ không ? Là nên quyết định đáp rằng, có đúng như pháp mà trụ. Ðó gọi là định đáp.
Sao gọi là phân biệt đáp ? Như lời nói về pháp bốn chân đế của ta. Những gì là bốn? – Khổ, Tập, Diệt, Ðạo. Sao gọi là Khổ đế ? Có tám khổ nên gọi là Khổ đế. Sao gọi là Tập đế ? Nhân của năm ấm nên gọi là Tập đế. Sao gọi là Diệt đế? Tham dục, sân, si hết rốt ráo nên gọi là Diệt đế. Sao gọi là Ðạo đế ? Ba mươi bảy pháp trợ đạo gọi là Ðạo đế. Ðó gọi là phân biệt đáp.
Sao gọi là tùy vấn đáp ? Như lời ta nói, tất cả pháp vô thường. Lại có người hỏi rằng : “Ðức Như Lai Thế Tôn vì pháp gì mà nói đến vô thường?”. Ðáp rằng: “Như Lai vì pháp hữu vi nên nói vô thường”. Ðối đáp về vô ngã cũng vậy. Như lời ta nói, tất cả pháp đốt cháy người khác. Lại hỏi rằng : “Ðức Như Lai Thế Tôn vì pháp gì mà nói tất cả đốt cháy ?” Ðáp rằng : “Như Lai vì tham, sân, si nên nói tất cả cháy”.
Này thiện nam tử ! Mười lực Như Lai, bốn Vô sở úy, đại Từ đại Bi, ba Niệm xứ, Thủ Lăng Nghiêm.v.v… tám muôn ức các tam muội môn, ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp. Ngũ trí ấn.v.v… ba vạn năm ngàn các tam muội môn, Kim Cương định.v.v… bốn ngàn hai trăm các tam muội môn, phương tiện tam muội nhiều vô lượng vô biên.v.v… những pháp như vậy là Phật tính. Phật tính như vậy thì có bảy việc : Một là thường, hai là ngã, ba là lạc, bốn là tịnh, năm là chân, sáu là thật, bảy là thiện. Ðó gọi là phân biệt đáp. Này thiện nam tử ! Phật tính của Bồ tát thân sau có sáu việc : Một là thường, hai là tịnh, ba là chân, bốn là thật, năm là thiện, sáu là ít thấy. Ðó là phân biệt đáp. Như trước ông hỏi, người đoạn thiện căn có Phật tính thì người đó cũng có Phật tính Như Lai, cũng có Phật tính thân sau. Hai Phật tính này chướng ngại vị lai nên được gọi là không rốt ráo được, nên được gọi là có. Ðó gọi là phân biệt đáp. Phật tính của Như Lai chẳng phải quá khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai. Phật tính của thân sau thì hiện tại, vị lai ít có thể thấy nên được gọi là hiện tại. Chưa thấy đủ nên gọi là vị lai. Khi Như Lai chưa được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì nhân của Phật tính cũng là quá khứ, hiện tại, vị lai, còn quả thì chẳng vậy, có quả là ba đời, có quả chẳng phải ba đời. Nhân của Phật tính Bồ tát thân sau cũng là quá khứ, hiện tại, vị lai và quả cũng như vậy. Ðó gọi là phân biệt đáp. Phật tính của Bồ tát Cữu Trụ có sáu thứ. Một là thường, hai là thiện, ba là chân, bốn là thật, năm là tịnh, sáu là khả kiến. Nhân của Phật tính cũng là quá khứ, hiện tại, vị lai và quả cũng như vậy. Ðó gọi là phân biệt đáp. Phật tính của Bồ tát Bát Trụ xuống đến Lục Trụ có năm việc : Một là chân, hai là thật, ba là tịnh, bốn là thiện, năm là khả kiến. Nhân của Phật tính cũng là quá khứ, hiện tại, vị lai và quả cũng như vậy. Ðó gọi là phân biệt đáp. Phật tính của Bồ tát Ngũ Trụ xuống đến Sơ Trụ có năm việc : Một là chân, hai là thật, ba là tịnh, bốn là khả kiến, năm là thiện hay bất thiện. Này thiện nam tử ! Năm thứ Phật tính, sáu thứ Phật tính, bảy thứ Phật tính này thì người đoạn thiện căn nhất định sẽ được nên được nói rằng có. Ðó gọi là phân biệt đáp.
Nếu có người nói rằng : “Người đoạn thiện căn thì quyết định có Phật tính hay quyết định không có Phật tính. Ðó gọi là Trí đáp.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
– Thưa đức Thế Tôn ! Con nghe mà không trả lời mới gọi là trí đáp. Ngày nay đức Như lai dùng nhân duyên gì để đáp mà gọi là trí đáp.
Này thiện nam tử ! Ta cũng không nói trí mà chẳng đáp, mới gọi là trí đáp.
Này thiện nam tử ! Như vậy trí đáp lại có hai thứ, một là chận đứng, hai là không để ý, theo nghĩa này nên gọi là trí đáp.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
– Thưa đức Thế Tôn ! Như lời đức Phật nói thì sao gọi là Nhân cũng là quá khứ, hiện tại, vị lai ? Quả cũng quá khứ, hiện tại, vị lai ? Chẳng phải là quá khứ, hiện tại, vị lai?
Ðức Phật dạy rằng :
– Này thiện nam tử ! Năm ấm có hai thứ, một là nhân, hai là quả. Là nhân thì năm ấm là quá khứ, hiện tại, vị lai. Là quả thì năm ấm cũng là quá khứ, hiện tại, vị lai và cũng chẳng phải quá khứ, hiện tại, vị lai. Này thiện nam tử ! Kết sử của tất cả vô minh phiền não đều là Phật tính. Vì sao vậy? Vì nhân của Phật tính. Từ vô minh, hành… và các phiền não được năm ấm thiện thì đó gọi là Phật tính. Từ năm ấm thiện cho đến chứng được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vậy nên ở trong Kinh, trước ta đã nói, Phật tính của chúng sinh như máu với sữa hoàn lẫn. Máu tức là vô minh, hành.v.v… tất cả phiền não. Sữa tức là năm ấm thiện vậy. Vậy nên ta nói, từ các phiền não và năm ấm thiện được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Như thân chúng sinh đều từ tinh huyết mà được thành tựu, Phật tính cũng vậy. Người Tu đà hoàn, người Tư đà hàm vì đoạn ít phiền não nên Phật tính như sữa. Phật tính của người A na hàm như cao sữa (lạc), của người A la hán giống như sinh tô (váng sữa sống), của hàng từ Bích Chi Phật cho đến Bồ tát Thập Trụ giống như thục tô (váng sữa chín). Phật tính của Như Lai giống như đề hồ. Này thiện nam tử ! Phiền não hiện tại vì làm chướng ngại nên khiến cho các chúng sinh chẳng được nhìn thấy. Như trong núi Hương có loại cỏ Nhẫn nhục mà chẳng phải tất cả trâu đều có thể được ăn, Phật tính cũng vậy. Ðó gọi là phân biệt đáp.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
– Thưa đức Thế Tôn ! Năm thứ, sáu thứ, bảy thứ Phật tính mà nếu vị lai có thì làm sao nói rằng, người đoạn thiện căn có Phật tính vậy ?.
Ðức Phật dạy rằng :
– Này thiện nam tử ! Như các chúng sinh có nghiệp quá khứ mà nhân nghiệp này nên chúng sinh hiện tại được thọ quả báo. Còn chúng sinh có nghiệp vị lai, do chưa sinh ra nên nhất định chẳng sinh ra quả báo. Có phiền não hiện tại hoặc không phiền não thì tất cả chúng sinh nên phải rõ ràng hiện thấy Phật tính. Vậy nên người đoạn thiện căn do nhân duyên phiền não đời hiện tại có thể cắt đứt căn lành. Những đời vị lai nhờ nhân duyên của lực Phật tính nên trở lại sinh ra thiện căn. Bồ tát Ca Diếp bạch rằng :
– Thưa đức Thế Tôn ! Vị lai làm sao có thể sinh ra thiện căn ?
– Này thiện nam tử ! Giống như đèn và mặt trời tuy lại chưa sinh ra nhưng cũng có thể phá bóng tối, sự sinh của vị lai có thể sinh ra chúng sinh. Phật tính vị lai cũng lại như vậy. Ðó gọi là phân biệt đáp.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :
– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu nói năm ấm là Phật tính thì làm sao nói rằng, Phật tính của chúng sinh chẳng phải trong, chẳng phải ngoài?
Ðức Phật dạy rằng :
– Này thiện nam tử ! Vì nhân duyên gì mà ông mất ý như vậy ? Ta trước chẳng đã nói Phật tính của chúng sinh là trung đạo đó sao ?
Ngài Ca Diếp bạch rằng :
– Thưa đức Thế Tôn ! Con thật chẳng mất ý ! Nhưng do việc chúng sinh ở trung đạo này, con chẳng thể lý giải nên hỏi vấn đề ấy thôi !
– Này thiện nam tử ! Chúng sinh chẳng hiểu tức là trung đạo : Hoặc khi có hiểu, hoặc có chẳng hiểu ! Này thiện nam tử ! Ta vì chúng sinh được khai giải mà nói rằng, Phật tính chẳng phải trong, chẳng phải ngoài. Vì sao vậy ? Vì chúng sinh phàm phu hoặc nói rằng, Phật tính trụ ở trong năm ấm như trong đồ đựng có trái cây. Hoặc nói rằng, lìa khỏi năm ấm có Phật tính giống như hư không. Vậy nên Như Lai nói ở trung đạo, Phật tính chẳng phải trong sáu nhập chẳng phải ngoài sáu nhập mà trong ngoài hợp lại nên gọi là trung đạo. Vậy nên Như Lai tuyên nói Phật tính tức là Trung đạo, chẳng phải trong chẳng phải ngoài nên gọi là Trung đạo. Ðó gọi là phân biệt đáp.
Lại nữa, này thiện nam tử ! Sao gọi là chẳng phải trong chẳng phải ngoài ? Này thiện nam tử ! Hoặc nói rằng, Phật tính tức là ngoại đạo. Vì sao vậy ? Vì Ðại Bồ tát ở vô lượng kiếp, ở tại trong ngoại đạo, cắt đứt các phiền não, điều phục lòng mình, giáo hóa chúng sinh rồi nhiên hậu mới được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Do đó Phật tính tức là ngoại đạo. Hoặc nói rằng, Phật tính tức là nội đạo. Vì sao vậy ? Vì Bồ tát tuy ở trong vô lượng kiếp, tu tập ngoại đạo nhưng nếu lìa khỏi nội đạo thì chẳng thể được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Do đó Phật tính tức là nội đạo. Vậy nên Như Lai ngăn chận quan niệm nhị biên này mà nói rằng, Phật tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, cũng gọi là trong ngoài, gọi là Trung đạo. Ðó gọi là phân biệt đáp.
Lại nữa, này thiện nam tử ! Hoặc nói rằng, Phật tính tức là thân Như Lai Kim Cương với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Vì sao vậy ? Vì chẳng hư dối vậy. Hoặc nói rằng, Phật tính tức là Mười lực, bốn Vô sở úy, Ðại từ Ðại bi và bốn Niệm xứ, Thủ Lăng Nghiêm.v.v… tất cả tam muội. Vì sao vậy? Vì nhân tam muội này mà sinh ra thân Kim Cương ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Vậy nên Như Lai ngăn chận quan niệm nhị biên này mà nói rằng, Phật tính chẳng phải trong chẳng phải ngoài, cũng gọi là trong ngoài, gọi là Trung đạo. Ðó gọi là phân biệt đáp.
Lại nữa, này thiện nam tử ! Hoặc có người nói rằng, Phật tính tức là bên trong tư duy tốt. Vì sao vậy ? Vì lìa khỏi tư duy tốt (thiện) thì chẳng thể được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vậy nên Phật tính tức là bên trong tư duy tốt. Hoặc có người nói rằng, Phật tính tức là theo người khác nghe pháp. Vì sao vậy ? Vì theo người khác nghe pháp thì có thể bên trong tư duy tốt. Nếu chẳng nghe pháp thì không có tư duy. Do đó Phật tính tức là theo người khác nghe pháp. Vậy nên Như Lai ngăn chận quan niệm nhị biên này (hai bên) mà nói rằng, Phật tính chẳng phải trong chẳng phải ngoài, cũng gọi là nội ngoại, gọi là Trung đạo. Lại nữa, này thiện nam tử ! Lại có người nói rằng, Phật tính là ngoài như là Ðàn Balamật mà từ Ðàn Balamật được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Do đó nói rằng, Ðàn Balamật tức là Phật tính. Hoặc có người nói rằng, Phật tính là trong như là năm Balamật (còn lại). Vì sao vậy ? Vì lìa khỏi năm việc này thì phải biết là không có nhân quả Phật tính. Do đó nói rằng, năm Balamật tức là Phật tính. Vậy nên Như Lai ngăn chận quan niệm nhị biên này mà nói rằng, Phật tính chẳng phải trong chẳng phải ngoài, cũng trong cũng ngoài. Ðó gọi là Trung đạo. Lại nữa, này thiện nam tử ! Hoặc có người nói rằng, Phật tính ở trong ví như viên ngọc báu trên trán người lực sĩ. Vì sao vậy ? Vì Thường Lạc Ngã Tịnh như viên ngọc báu. Do đó nói rằng, Phật tính ở bên trong. Hoặc có người nói rằng, Phật tính ở bên ngoài như bảo tàng của người nghèo. Vì sao vậy ? Vì do phương tiện nên mới được thấy. Phật tính cũng vậy, ở bên ngoài chúng sinh, phải dùng phương tiện mới được thấy nó. Vậy nên Như Lai ngăn chận quan niệm nhị biên này mà nói rằng, Phật tính chẳng phải trong chẳng phải ngoài, cũng trong cũng ngoài. Ðó gọi là Trung đạo.
Này thiện nam tử ! Phật tính của chúng sinh chẳng phải có chẳng phải không. Sở dĩ vì sao ? Vì Phật tính tuy có nhưng chẳng phải như hư không. Vì sao vậy ? Vì hư không của thế gian tuy dùng vô lượng phương tiện khéo léo nhưng chẳng thể được thấy mà Phật tính có thể thấy. Vậy nên tuy có nhưng chẳng phải như hư không. Phật tính tuy không nhưng chẳng đồng với sừng thỏ. Vì sao vậy ? Vì lông rùa, sừng thỏ tuy dùng vô lượng phương tiện khéo léo vẫn chẳng thể được sinh ra mà Phật tính có thể sinh ra. Vậy nên Phật tính tuy không nhưng chẳng đồng với sừng thỏ. Vậy nên Phật tính chẳng phải có chẳng phải không mà cũng có cũng không. Sao gọi là có ? Tất cả đều có ! Những chúng sinh này chẳng đoạn, chẳng diệt như ngọn đèn cháy sáng, cho đến được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ðó gọi là có. Sao gọi là không? Tất cả chúng sinh hiện tại chưa có tất cả Phật pháp Thường Lạc Ngã Tịnh. Vậy nên gọi là không. Có không hợp lại nên tức là Trng đạo. Vậy nên Phật nói rằng, Phật tính của chúng sinh chẳng phải có chẳng phải không. Này thiện nam tử ! Nếu có người hỏi rằng : “Trong chủng tử này có quả hay không có quả vậy ?” thì nên quyết định đáp rằng : “Cũng có cũng không !” Vì sao vậy ? Vì lìa khỏi chủng tử ra thì chẳng thể sinh ra quả. Vậy nên gọi là có. Chủng tử chưa mọc mầm nên gọi là không. Do nghĩa này nên cũng có cũng không. Sở dĩ vì sao? Vì thời tiết có khác nhưng thể ấy là một. Phật tính của chúng sinh cũng lại như vậy. Nếu nói rằng, trong chúng sinh có Phật tính riêng khác thì nghĩa đó chẳng đúng. Vì sao vậy ? Vì chúng sinh tức là Phật tính, Phật tính tức là chúng sinh mà những do thời tiết khác mà có tịnh hay bất tịnh. Này thiện nam tử ! Nếu có người hỏi rằng : “Hạt giống này có thể sinh ra quả không ? Quả này có thể sinh ra hạt không ?” Thì nên quyết định đáp rằng : “Cũng sinh, cũng chẳng sinh !”
– Thưa đức Thế Tôn ! Như người đời nói trong sữa có cao sữa (lạc), thì nghĩa đó ra sao ?
– Này thiện nam tử ! Nếu có người nói rằng, trong sữa có cao sữa thì đó gọi là chấp trước. Nếu nói không có cao sữa thì gọi là hư vọng. Lìa khỏi hai việc này thì nên quyết định nói rằng, cũng có cũng không. Vì sao gọi là có ? Vì từ sữa sinh ra cao sữa. Nhân tức là sữa, quả tức là cao sữa. Ðó gọi là có. Sao gọi là không ? Sắc vị đều khác, cách dùng chẳng đồng : Bệnh nóng uống sữa, bệnh lạnh uống cao sữa. Sữa sinh ra bệnh lạnh, cao sữa sinh ra bệnh nóng. Này thiện nam tử ! Nếu nói trong sữa có tính của cao sữa thì sữa tức là cao sữa, cao sữa tức là sữa. Nếu tính của chúng là một thì vì nhân duyên gì sữa xuất hiện trước mà cao sữa chẳng sinh ra trước ? Nếu có nhân duyên thì tất cả người đời vì sao chẳng nói Còn nếu không nhân duyên thì vì sao cao sữa chẳng xuất hiện trước ? Nếu cao sữa chẳng xuất hiện trước thì ai tạo tác theo thứ lớp sữa, cao sữa, váng sữa sống, váng sữa chín, đề hồ ? Vậy nên biết là, cao sữa trước không nay có. Nếu trước không nay có thì tức là pháp vô thường. Này thiện nam tử ! Nếu có người nói rằng, sữa có tính cao sữa nên có thể sinh ra cao sữa. Nước không tính của cao sữa nên chẳng sinh ra cao sữa, thì nghĩa này chẳng đúng. Vì sao vậy ? Vì nước và cỏ cũng có tính của sữa và cao sữa. Sở dĩ vì sao ? Vì nhân nước và cỏ thì sinh ra sữa và cao sữa. Nếu nói trong sữa quyết định có tính của cao sữa mà nước và cỏ không thì đó gọi là hư vọng. Vì sao vậy ? Vì lòng chẳng bình đẳng nên nói hư vọng. Này thiện nam tử ! Nếu nói trong sữa quyết định có cao sữa thì trong cao sữa cũng nên quyết định có tính của sữa. Vậy vì nhân duyên gì trong sữa sinh ra cao sữa mà trong cao sữa chẳng sinh ra sữa ? Nếu không nhân duyên thì phải biết là cao sữa trước không nay có. Vậy nên người trí nên nói rằng, trong sữa chẳng phải có tính của cao sữa, chẳng phải không tính của cao sữa. Này thiện nam tử ! Vậy nên Như Lai, ở trong kinh, nói lời như vầy : “Tất cả chúng sinh quyết có Phật tính”. Ðó gọi là đắm trước. Nếu nói không Phật tính thì đó gọi là hư vọng. Người trí nên nói Phật tính của chúng sinh cũng có cũng không.
Này thiện nam tử ! Bốn việc hòa hợp sinh ra nhãn thức. Những gì là bốn ? Ðó là mắt, sắc, ánh sáng và dục. Tính của nhãn thức này chẳng phải mắt, chẳng phải sắc, chẳng phải ánh sáng, chẳng phải dục mà từ sự hòa hợp nên liền được sinh ra. Như vậy nhãn thức trước không nay có mà có rồi lại hoàn không. Vậy nên phải biết không có bản tính. Tính của cao sữa trong sữa cũng lại như vậy. Nếu có người nói rằng, nước không tính của cao sữa nên chẳng sinh ra cao sữa vậy nên trong sữa quyết định có tính của cao sữa thì nghĩa này chẳng đúng! Vì sao vậy ? Này thiện nam tử ! Vì tất cả các pháp khác nhân khác quả, cũng chẳng phải một nhân sinh tất cả quả, chẳng phải tất cả quả từ một nhân sinh ra. Này thiện nam tử ! Như từ bốn việc sinh ra nhãn thức thì chẳng thể lại nói từ bốn việc này ứng sinh ra nhĩ thức. Này thiện nam tử ! Lìa khỏi phương diện, trong sữa được cao sữa, cao sữa sinh ra váng sữa chăng ? Hay được như vậy cần phải có phương tiện ? Này thiện nam tử ! Kẻ trí chẳng thể thấy, lìa khỏi phương tiện mà từ sữa được cao sữa nghĩa là được sinh ra tô cũng nên lìa khỏi phương tiện như vậy để được ! Này thiện nam tử ! Vậy nên, ở trong kinh này, ta nói : Nhân sinh nên pháp có, nhân diệt nên pháp diệt ! Này thiện nam tử ! Như tính của muối là mặn, có thể khiến cho chẳng phải mặn hay khiến cho mặn. Nếu vật chẳng phải mặn trước có tính mặn thì người đời vì sao lại cầu mặn vậy ? Nếu trước không tính mặn thì phải biết là trước không nay có, do duyên khác mà được mặn vậy. Nếu nói tất cả vật chẳng mặn đều có tính mặn mà vì nhỏ nên chẳng biết nên do tính mặn nhỏ này có thể khiến cho mặn. Nếu vốn không tính mặn thì tuy lại có muối nhưng chẳng thể khiến cho nó mặn được. Ví như hạt giống tự có bốn đại duyên với bốn đại bên ngoài mà được tăng trưởng mầm chồi, thân cây, cành lá. Tính của muối cũng vậy thì nghĩa này không đúng. Vì sao vậy ? Vì vật chẳng mặn trước có tính mặn thì muối cũng nên có tính chẳng mặn nhỏ. Muối này nếu có hai tính như vậy thì vì nhân duyên gì mà lìa khỏi vật chẳng mặn, chẳng thể một mình dùng? Vậy nên biết là muối vốn không hai tính. Như muối tất cả vật chẳng mặn cũng lại như vậy. Nếu nói ngoài bốn đại chủng bên ngoài, sức hạt giống có thể tăng trưởng bốn đại bên trong thì nghĩa này chẳng đúng. Vì sao vậy ? Vì nói theo thứ lớp vậy. Chẳng từ phương tiện mà trong sữa được cao sữa, rồi sinh váng sữa cho đến tất cả các pháp đều như vậy, chẳng phải do phương tiện mà được. Bốn đại cũng lại như vậy. Nếu nói từ bốn đại bên ngoài tăng trưởng bốn đại bên trong, chẳng thấy từ bốn đại bên trong tăng trưởng bốn đại bên ngoài. Như trái cây Thi Lợi Sa, trước không hình chất nhưng khi có sao Mão thì trái sinh ra lớn đủ năm tấc (thốn). Quả (trái) như vậy thì thật chẳng nhân vào bốn đại bên ngoài mà lớn.
Này thiện nam tử ! Như lời ta nói, mười hai bộ Kinh, hoặc ta theo ý mình mà nói, hoặc theo ý người khác mà nói, hoặc theo ý mình và ý người mà nói.
Sao gọi là theo ý mình nói ? Như năm trăm vị Tỳkheo hỏi ông Xá Lợi Phất : “Thưa đại đức ! Ðức Phật nói, nhân của thân là gì đó vậy ?”. Ông Xá Lợi Phất nói rằng : “Này các Ðại đức ! Các ông cũng đều được Chánh giải thoát thì tự nên biết ! Vì duyên gì mới hỏi như vậy ?”. Có Tỳkheo nói rằng : “Thưa Ðại đức ! Khi tôi chưa chứng được Chánh Giải thoát thì cho là Ý vô minh tức là nhân của thân. Khi tôi tạo tác sự quan sát này thì được quả A la hán”. Lại có Tỳkheo nói rằng : “Thưa Ðại đức ! Khi tôi chưa chứng được giải thoát chân chính thì cho là Ái vô minh tức là nhân của thân. Khi tôi tác khởi sự quan sát này thì được quả A la hán. Hoặc có vị nói rằng, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, ẩm thực, ngũ dục… tức là nhân của thân. Lúc bấy giờ năm trăm vị Tỳkheo, mỗi mỗi đều tự nói sự hiểu biết của mình, rồi cùng chung đi đến chỗ đức Phật, cúi đầu dưới chân của đức Phật, đi quanh về bên phải ba vòng. Lễ bái xong rồi họ lui về ngồi một bên, đều đem ý nghĩa hiểu biết của mình như trên, hướng về đức Phật mà nói. Ngài Xá Lợi Phất bạch đức Phật rằng: “Thưa đức Thế Tôn ! Những người như vậy thì ai nói đúng ? Ai nói chẳng đúng ?”. Phật bảo rằng : “ Này Xá Lợi Phất ! Hay thay ! Hay thay ! Mỗi một vị Tỳkheo đâu chẳng phải chánh thuyết !”. Ngài Xá Lợi Phất bạch rằng : “Thưa đức Thế Tôn ! Ý đức Phật thế nào ?”. Phật dạy rằng : “Này Xá Lợi Phất ! Ta vì chúng sinh cõi Dục nói rằng, cha mẹ tức là nhân của thân !”. Những kinh như vậy gọi là theo ý của mình mà nói.
Sao gọi là theo ý người khác nói ? Như ông trưởng giả Ba Sấc La đi đến chỗ của ta nói lên rằng : “Thưa ngài Cù Ðàm ! Ngài biết huyễn không ? Nếu ngài biết huyễn thì tức là người đại huyễn. Nếu ngài chẳng biết thì chẳng phải Nhất Thiết Trí !”. Ta nói rằng : “Này ông trưởng giả ! Người biết huyễn gọi là người huyễn sao ?” Ông trưởng giả nói rằng : “Hay thay ! Hay thay ! Người biết huyễn tức là người huyễn!” Phật nói rằng : “Này ông trưởng giả ! Bên trong nước Xá Vệ, vua Ba Tư Nặc, có người Chiên đà la tên là Khí Hư. Ông có biết không ?” Ông trưởng giả đáp rằng : “Thưa ông Cù Ðàm ! Tôi biết ông đó đã lâu !” Ðức Phật nói rằng : “Ông biết lâu thì có thể trở thành Chiên đà la không ?”. Ông trưởng giả nói rằng : “Thưa ông Cù Ðàm ! Tôi tuy biết người Chiên đà la đó nhưng thân này của tôi chẳng phải Chiên đà la !”. Ðức Phật nói rằng : “Này ông trưởng giả ! Ông được nghĩa này, biết Chiên đà la thì chẳng phải là Chiên đà la. Ta nay vì sao chẳng được biết huyễn mà chẳng phải huyễn ư ? Này ông trưởng giả ! Ta thật biết huyễn, biết người huyễn, biết quả báo huyễn, biết kỹ thuật huyễn. Ta biết giết, biết giết người, biết giết quả báo, biết giết giải thoát… cho đến biết tà kiến, biết người tà kiến, biết quả báo tà kiến, biết giải thoát tà kiến. Này ông trưởng giả ! Nếu nói người chẳng phải huyễn gọi là người huyễn, người chẳng phải tà kiến nói là người tà kiến thì bị tội không lường”. Ông trưởng giả nói rằng : “Thưa ông Cù Ðàm ! Như lời ông nói thì tôi bị tội lớn. Sở hữu của tôi hôm nay đều đem dâng lên ngài, mong ngài chớ cho vua Ba Tư Nặc kia biết việc này của tôi !”. Ðức Phật nói rằng : “Này ông trưởng giả ! Nhân duyên của tội đó chẳng nhất định mất của cải mà còn sẽ nhân đó bị rơi vào ba đường ác!”. Khi đó ông trưởng giả nghe đến tên ác đạo thì lòng sinh kinh sợ mà bạch Phật rằng : “Thưa đức Thánh nhân ! Tôi nay thất ý chuốc lấy tội lớn ! Thưa đức Thánh nhân ! Ngài nay chính là đấng Nhất Thiết Trí nên phải biết rõ, chứng được giải thoát ! Tôi phải làm sao để được thoát khỏi địa ngục, ngã quỉ, súc sinh ?”. Bấy giờ ta vì ông đó nói bốn chân đế. Ông trưởng giả nghe rồi thì được quả Tu đà hoàn, lòng sinh tàm quí (xấu hổ), hướng về đức Phật sám hối rằng : “Con vốn ngu si, đức Phật chẳng phải người huyễn mà nói là huyễn ! Con từ hôm nay quy y Tam bảo !”. Phật dạy rằng : “Hay thay ! Hay thay ! Này ông trưởng giả !” Ðó gọi là theo ý người khác nói.
Sao gọi là theo ý mình ý người khác nói ? Như lời ta nói, tất cả kẻ trí của thế gian nói Có thì ta cũng nói Có. Kẻ trí nói Không thì ta cũng nói Không. Người trí thế gian nói năm dục lạc có vô thường, khổ, vô ngã, có thể đoạn thì ta cũng nói là Có. Người trí thế gian nói năm dục lạc có Thường ngã tịnh, không có điều đó. Ta cũng nói như vậy, không có điều đó. Ðó gọi là theo ý mình ý người mà nói. Này thiện nam tử ! Như lời ta nói, Bồ tát Thập Trụ thấy ít Phật tính. Ðó gọi là theo ý người khác nói. Vì sao gọi là thấy ít ? Vì Bồ tát Thập Trụ được Thủ Lăng Nghiêm tam muội.v.v… ba ngàn pháp môn. Vậy nên tự biết rõ ràng họ sẽ được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác mà chẳng thấy tất cả chúng sinh quyết định được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vậy nên ta nói, Bồ tát Thập Trụ thấy phần ít Phật tính. Này thiện nam tử ! Ta thường tuy nói rằng, “tất cả chúng sinh đều có Phật tính”. Ðó gọi là theo ý mình nói. “Tất cả chúng sinh chẳng đoạn chẳng diệt… cho đến được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác”. Ðó gọi là theo ý mình nói. “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, vì phiền não che nên chẳng thể được thấy”, ta nói như vậy, ông nói cũng vậy. Ðó gọi là theo ý mình ý người mà nói.
Này thiện nam tử ! Như Lai, hoặc khi vì một pháp nên nói vô lượng pháp, như trong Kinh nói, tất cả Phạm hạnh nhân Thiện tri thức. Nhân của tất cả phạm hạnh tuy không lường, nhưng nói Thiện tri thức thì đã thu nhiếp hết. Như lời ta nói, tất cả ác hạnh thì tà kiến là nhân. Nhân của tất cả ác hạnh tuy không lường nhưng nếu nói tà kiến thì đã thâu nhiếp hết. Hoặc nói : Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác lấy tín tâm làm nhân. Nhân của Bồ Ðề này tuy lại không lường nhưng nếu nói tín tâm thì đã thâu nhiếp hết. Này thiện nam tử ! Như Lai tuy nói vô lượng những pháp lấy làm Phật tính, nhưng chẳng lìa khỏi ấm nhập và giới (năm ấm, sáu nhập, mười tám giới) vậy.
Này thiện nam tử ! Như Lai nói pháp vì chúng sinh nên có bảy thứ lời nói (ngữ) : Một là nhân ngữ, hai là quả ngữ, ba là nhân quả ngữ, bốn là dụ ngữ, năm là bất ứng thuyết ngữ (lời chẳng nên nói), sáu là thế lưu bố ngữ (lời lưu bố ở đời), bảy là như ý ngữ.
Sao gọi là nhân ngữ ? Trong nhân hiện tại nói quả vị lai. Như lời ta nói : “Này thiện nam tử ! Ông thấy chúng sinh ưa giết hại cho đến ưa hành tà kiến, thì phải biết là người đó tức là người của địa ngục. Này thiện nam tử ! Nếu có chúng sinh chẳng ưa giết hại… cho đến tà kiến thì phải biết người đó tức là người trời. Ðó gọi là nhân ngữ.
Sao gọi là quả ngữ ? Trong quả hiện tại nói nhân quá khứ. Như trong Kinh nói rằng : “Này thiện nam tử ! Như ông đã thấy, chúng sinh nghèo cùng, hình dung xấu xí, chẳng được tự tại, thì phải biết người đó quyết định có phá giới, lòng tật đố, lòng sân hận, lòng không tàm quí. Nếu thấy chúng sinh nhiều của cải, giàu to, các căn đầy đủ, uy đức tự tại thì phải biết người đó có trì giới, bố thí, tinh cần, tàm quí, không có tật đố, sân hận”. Ðó gọi là quả ngữ.
Sao gọi là nhân quả ngữ ? Như trong Kinh nói rằng : “Này thiện nam tử ! Nhân tiếp xúc sáu nhập của chúng sinh hiện tại thì đó gọi là nghiệp quả quá khứ. Như Lai cũng nói, tên đó là nghiệp. Nhân duyên của nghiệp nay được quả vị lai. Ðó gọi là nhân quả ngữ.
Sao gọi là dụ ngữ ? Như nói : Vua Sư Tử thì tức là dụ cho thân ta. Ðại Tượng vương, Ðại Long vương, cây Ba lợi chất đa la, Thất bảo tụ, Ðại hải, Tu Di sơn, Ðại địa, mưa lớn, Thuyền sư, Ðạo sư, Ðiều ngự, Trượng phu, Lực sĩ, Ngưu Vương, Bà la môn, Sa môn, Ðại thành, cây Ða la.v.v… những dụ như vậy, Kinh gọi là Dụ ngữ.
Sao gọi là Bất ứng ngữ ? – Trong Kinh ta nói : “Trời đất có thể hợp lại, sông chẳng chảy vào biển”. Như vì vua Ba Tư Nặc nói rằng : “Bốn phương núi đến !” Như vì Ưu bà di Lộc Mẫu (mẹ nai) nói rằng : “Nếu cây Ta La có thể thọ tám giới thì được thọ hưởng niềm vui của người trời !” Như nói : “Thà nói Bồ tát Thập Trụ có lòng thoái chuyển, chẳng nói Như Lai có hai thứ lời nói. Thà nói người Tu đà hoàn đọa ba đường ác, chẳng nói Bồ tát Thập trụ có lòng thoái chuyển”. Ðó gọi là bất ứng ngữ.
Sao gọi là thế lưu bố ngữ ? – Như lời Phật nói : Trai gái, lớn nhỏ, đi lại ngồi nằm, xe cộ, phòng xá, bình, áo, chúng sinh, Thường Lạc Ngã Tịnh, quân đội, rừng, thành, ấp, huyễn hóa, hợp tan… Ðó gọi là thế lưu bố ngữ.
Sao gọi là như ý ngữ ? Như ta quở trách người hủy cấm khiến cho người đó tự trách mà hộ trì cấm giới. Như ta khen ngợi người Tu đà hoàn khiến cho các phàm phu sinh ra lòng thiện. Ta khen ngợi Bồ tát khiến cho chúng sinh phát tâm Bồ Ðề. Ta nói sự khổ não của ba đường ác vì khiến mọi người tu tập các pháp thiện. Ta nói tất cả đốt cháy là chỗ vì tất cả pháp hữu và vô ngã cũng vậy. Ta nói, các chúng sinh đều có Phật tính là vì khiến cho tất cả chẳng buông lung (phóng dật). Ðó gọi là Như Ý ngữ.
Này thiện nam tử ! Như Lai lại có lời nói theo ý mình : Phật tính của Như Lai thì có hai thứ, một là có, hai là không. Có thì nghĩa là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, mười lực, bốn vô sở úy, ba niệm xứ, Ðại từ Ðại bi, Thủ lăng nghiêm.v.v… vô lượng tam muội, Kim cương.v.v… vô lượng tam muội, phương tiện.v.v… Vô lượng tam muội Ngũ trí ấn.v.v… vô lượng tam muội. Ðó gọi là Có. Không thì nghĩa là các thiện, chẳng thiện, vô ký quá khứ của Như Lai, nghiệp nhân quả báo, phiền não, năm ấm, mười hai nhân duyên. Ðó gọi là không.
Này thiện nam tử ! Như có không, thiện chẳng thiện, có lậu không lậu, thế gian chẳng phải thế gian, Thánh chẳng phải Thánh, hữu vi vô vi, thật chẳng thật, tịch tịnh chẳng phải tịnh tịnh, tranh (cãi) chẳng phải tranh, cõi chẳng phải cõi, phiền não chẳng phải phiền não, thủ (lấy) chẳng phải thủ, thọ ký chẳng phải thọ ký, có chẳng phải có, ba đời chẳng phải ba đời, thời chẳng phải thời, thường vô thường, ngã vô ngã, lạc vô lạc, tịnh vô tịnh, sắc thọ tưởng hành thức chẳng phải sắc thọ tưởng hành thức, nội nhập chẳng phải nội nhập, ngoại nhập chẳng phải ngoại nhập, mười hai nhân duyên chẳng phải mười hai nhân duyên. Ðó gọi là Có Không của Phật tính Như Lai… cho đến Phật tính của nhất xiển đề có không cũng lại như vậy.
Này thiện nam tử ! Ta tuy nói rằng, tất cả chúng sinh đều có Phật tính mà chúng sinh chẳng lý giải được những lời nói theo ý mình như vậy của đức Phật.
Này thiện nam tử ! Những lời nói như vậy thì Bồ tát thân sau còn chẳng thể lý giải huống là đối với hàng nhị thừa và các hạng Bồ tát còn lại. Này thiện nam tử ! Một lúc xưa, ta ở tại núi Kỳ Xà Quật, cùng với Bồ tát Di Lặc chung luận bàn thế đế. Ông Xá Lợi Phất.v.v…năm trăm Thanh Văn đối với việc này đều chẳng hay biết, huống gì là Ðệ nhất nghĩa đế của đạo Xuất thế.
Này thiện nam tử ! Hoặc có Phật tính mà nhất xiển đề thì có, người thiện căn thì không. Hoặc có Phật tính mà người thiện căn có, nhất xiển đề không. Hoặc có Phật tính mà cả hai người đều có. Hoặc có Phật tính mà cả hai người đều không.
Này thiện nam tử ! Các đệ tử của ta nếu lý giải được ý nghĩa của bốn câu như vậy thì chẳng nên nạn vấn rằng, người nhất xiển đề quyết định có Phật tính, quyết định không Phật tính. Nếu nói chúng sinh đều có Phật tính thì đó gọi là tùy tự ý ngữ của Như Lai. Tùy tự ý ngữ như vậy của Như Lai thì chúng sinh làm sao lý giải một hướng được ?
Này thiện nam tử ! Như trong sông Hằng có bảy chúng sinh : Một là thường chìm, hai là tạm ra rồi trở lại chìm, ba là ra rồi thì trụ lại, bốn là ra rồi quan sát khắp bốn phương, năm là quan sát khắp rồi đi, sáu là đi rồi lại trụ, bảy là trên nước trên đất đều đi. Rằng chúng sinh thường chìm là gọi loài cá lớn thọ nghiệp ác lớn, thân nặng ở sâu. Vậy nên thường chìm. Chúng sinh tạm ra rồi chìm trở lại là loài cá lớn thọ ác nghiệp, thân nặng ở cạn, tạm thấy ánh sáng. Nhân ánh sáng nên nó tạm ra nhưng vì nặng nên trở lại chìm. Chúng sinh ra rồi liền trụ là gọi loài cá Chỉ Di, thân ở nước cạn, ưa thấy ánh sáng nên ra rồi trụ lại. Chúng sinh trụ lại nhìn khắp bốn phương là gọi loài cá tích vì kiếm tìm đồ ăn nên quan sát khắp bốn phương. Chúng sinh quan sát rồi đi là gọi loài cá tích từ xa thấy vật khác cho là có thể ăn nên mau chóng đi đến đó. Chúng sinh quan sát rồi đi, đi rồi lại trụ là loài cá này đi đến rồi, đã được mồi có thể ăn thì liền dừng lại nên gọi là đi rồi lại trụ. Chúng sinh trên nước, đất đều đi thì tức là loài rùa.
Này thiện nam tử ! Dòng sông Ðại Niết Bàn vi diệu như vậy, trong sông ấy cũng có bảy thứ chúng sinh : từ loài đầu tiên thường chìm cho đến loài thứ bảy hoặc vào hoặc ra. Nói rằng, thường chìm là có người nghe Kinh Ðại Niết Bàn này, Như Lai thường trụ không có biến dịch, Thường Lạc Ngã Tịnh, nhất định chẳng rốt ráo vào Niết Bàn, tất cả chúng sinh đều có Phật tính, người nhất xiển đề bài báng Kinh Phương Ðẳng, tạo tội ngũ nghịch phạm bốn trọng cấm nhất định sẽ được thành đạo Bồ Ðề, Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán, Bích Chi Phật.v.v… nhất định sẽ được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác… Nghe những lời nói này rồi, họ sinh ra lòng bất tín liền tác khởi ý niệm này. Tác khởi ý niệm này rồi thì họ liền nói rằng : “Kinh điển Niết Bàn này là sách ngoại đạo, chẳng phải là Kinh Phật”. Người này, bấy giờ xa lìa bạn tốt, chẳng nghe chính pháp. Tuy có lúc họ được nghe nhưng chẳng thể tư duy. Tuy họ lại tư duy nhưng chẳng tư duy thiện mà chẳng tư duy thiện nên như trụ ở ác pháp. Người trụ ở ác pháp có sáu thứ : Một là ác, hai là không thiện, ba là làm bẩn pháp, bốn là thêm có, năm là não nhiệt, sáu là thọ quả báo ác. Ðó gọi là chìm. Vì sao gọi là chìm ? Vì không lòng thiện, thường làm ác, chẳng tu đối trị. Ðó gọi là chìm. Sở dĩ gọi rằng ác là bị thánh nhân quở trách, lòng sinh bố úy, người thiện xa lìa chẳng ích chúng sinh. Ðó gọi là ác. Nói rằng không thiện thì có thể sinh ra vô lượng quả báo ác, thường bị sự trói buộc nhiễu loạn của vô minh, ưa cùng người ác làm bạn bè, không có tu các phương tiện tốt, lòng họ điên đảo thường lầm lẫn. Ðó gọi là không thiện. Nói rằng làm bẩn pháp tức là thường làm bẩn thân miệng, làm bẩn chúng sinh thanh tịnh, tăng thêm nghiệp bất thiện, xa lìa thiện pháp. Ðó gọi là ô pháp. Nói rằng, tăng hữu (thêm có) tức là như pháp sở hành của ba người trên, có thể tăng thêm địa ngục, súc sinh, ngã quỉ, chẳng thể tu tập pháp giải thoát, nghiệp thân miệng ý chẳng chán các hữu. Ðó gọi là tăng hữu. Nói rằng, người não nhiệt thì tức là người làm đủ bốn việc như trên có thể khiến cho thân tâm có hai việc phiền não. Xa lìa tịch tịnh thì gọi là nhiệt. Thọ quả báo địa ngục nên gọi là nhiệt. Ðốt cháy các chúng sinh nên gọi là nhiệt. Ðốt cháy các thiện pháp nên gọi là nhiệt. Này thiện nam tử ! Lòng tin thanh lương thì người này chẳng đủ. Vậy nên gọi là nhiệt. Nói rằng, người thọ quả báo ác thì tức là người đầy đủ năm việc trên, chết đọa vào địa ngục, ngã quỉ, súc sinh. Này thiện nam tử ! Có ba việc ác, lại gọi là quả báo ác : Một là phiền não ác, hai là nghiệp ác, ba là báo ác. Ðó gọi là thọ quả báo ác. Này thiện nam tử ! Người này đầy đủ sáu việc như trên thì có thể cắt đứt căn lành, tạo tác năm tội nghịch, có thể phạm bốn trọng cấm, có thể bài báng Tam Bảo, sử dụng vật của chúng Tăng, có thể làm đủ thứ việc phi pháp. Do nhân duyên này nên họ chìm đắm ở tại địa ngục A tỳ, phải thọ thân hình dọc ngang tám vạn bốn ngàn do diên. Nghiệp thân, miệng tâm của người này nặng nên chẳng thể được ra. Vì sao vậy ? Vì tâm người ấy chẳng thể sinh ra thiện pháp nên tuy có vô lượng những đức Phật ra đời mà họ chẳng nghe chẳng thấy nên gọi là thường chìm mất như con cá lớn trong dòng sông Hằng.
Này thiện nam tử ! Ta tuy nói nhất xiển đề.v.v… gọi là thường mất nhưng lại có người thường chìm mất chẳng phải nhất xiển đề. Ðó là ai vậy? Như người vì có tu Thí, Giới, Thiện. Ðó gọi là thường chìm mất.
Này thiện nam tử ! Có bốn việc thiện mà gặt lấy quả ác. Những gì là bốn ? Một là vì thắng người khác nên dọc tụng kinh điển, hai là vì lợi dưỡng nên thọ trì cấm giới, ba là vì lệ thuộc người khác mà làm bố thí, bốn là vì Phi tưởng phi phi tưởng xứ nên lắng lòng tư duy. Ðó là bốn việc thiện được quả báo ác. Nếu người tu tập bốn việc như vậy thì đó gọi là chìm rồi trở lại ra, ra rồi trở lại chìm. Vì sao gọi là chìm ? Vì ưa ba hữu vậy. Vì sao gọi là ra ? Vì do thấy ánh sáng vậy. Ánh sáng tức là nghe thí, giới, định. Vì sao trở lại chìm? Vì tăng trưởng tà kiến, sinh ra kiêu mạn vậy. Vậy nên ở trong Kinh ta nói kệ rằng :
Nếu có chúng sinh ưa các hữu
Vì hữu, nghiệp ác lành tạo nên
Người này liền mất Niết Bàn đạo
Ðó gọi tạm ra trở lại chìm.
Ði trong biển sinh tử hắc ám
Tuy được giải thoát xen não phiền
Người này trở lại thọ quả ác
Ðó gọi tạm ra trở lại chìm.
Này thiện nam tử ! Như con cá lớn kia nhân thấy ánh sáng nên tạm được ra khỏi nước. Nhưng thân cá ấy nặng nên lại trở lại chìm đắm. Như hai người trên cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Lại hoặc có người ưa đam mê ba hữu thì đó gọi là chìm. Ðược nghe Kinh Ðại Niết Bàn này sinh ra lòng tin thì đó gọi là ra. Vì nhân duyên gì gọi đó là ra ? Vì nghe Kinh này rồi, xa lìa ác pháp, tu tập thiện pháp nên đó gọi là ra. Người này tuy tin nhưng cũng chẳng đầy đủ. Vì nhân duyên gì mà tin chẳng đầy đủ ? Vì người này tuy tin Ðại Bát Niết Bàn Thường Lạc Ngã Tịnh nhưng nói thân Như Lai vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh. Như Lai thì có hai thứ Niết Bàn, một là hữu vi, hai là vô vi. Hữu vi Niết Bàn không Thường Lạc Ngã Tịnh, vô vi Niết Bàn có Thường Lạc Ngã Tịnh. Họ tuy tin Phật tính là chúng sinh có nhưng chẳng nhất định tất cả đều có Phật tính. Vậy nên gọi là tin chẳng đầy đủ.
Này thiện nam tử ! Tin có hai thứ, một là tin, hai là cầu. Người như vậy tuy lại có tin nhưng chẳng thể tìm cầu. Vậy nên gọi là tin chẳng đầy đủ. Tin lại có hai thứ, một là từ nghe sinh ra, hai là từ nghĩ sinh ra. Lòng tin của người này từ nghe mà sinh ra, chẳng từ nghĩ sinh ra. Vậy nên gọi là tin chẳng đầy đủ. Tin lại có hai thứ, một là tin có đạo, hai là tin người được đạo. Lòng tin người này chỉ tin có đạo, đều chẳng tin có người được đạo. Vậy nên gọi là tin chẳng đầy đủ. Tin lại có hai thứ, một là tin chánh, hai là tin tà. Nói có nhân quả, có Phật Pháp Tăng thì đó gọi là tin chánh. Nói không nhân quả, tính Tam Bảo khác, tin các lời nói tà bậy, phú lan na.v.v… thì đó gọi là tin tà. Người này tuy tin Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo, nhưng chẳng tin Tam Bảo đồng một tính tướng. Họ tuy tin nhân quả nhưng chẳng tin người được quả báo. Vậy nên gọi là tin chẳng đầy đủ.
Người đó thành tựu chẳng đầy đủ niềm tin, việc thọ cấm giới cũng chẳng đầy đủ thì vì nhân duyên gì gọi là chẳng đầy đủ ? Vì nhân chẳng đủ nên sở đắc cấm giới cũng chẳng đầy đủ. Lại vì nhân duyên gì gọi là chẳng đầy đủ ? Vì cấm giới có hai thứ, một là oai nghi giới, hai là tùng giới giới. Người đó tuy đầy đủ giới oai nghi nhưng chẳng đủ giới tùng giới. Vậy nên gọi là giới chẳng đầy đủ. Lại giới có hai thứ, một là tác giới, hai là không tác giới. Người đó chỉ đủ tác giới chẳng đủ không tác giới. Vậy nên gọi là giới chẳng đầy đủ. Giới lại có hai thứ, một là từ thân miệng được chánh mạng, hai là từ thân miệng chẳng được chánh mạng. Người đó chỉ từ thân miệng chẳng được chánh mạng nên gọi đó là giới chẳng đầy đủ. Giới lại có hai thứ, một là cầu giới, hai là xả giới. Người đó chỉ đủ giới cầu có, chẳng được xả giới. Vậy nên gọi là giới chẳng đầy đủ. Giới lại có hai thứ, một là theo có, hai là theo đạo. Người đó chỉ đủ giới theo có, chẳng đủ giới theo đạo. Vậy nên gọi là Giới chẳng đầy đủ. Giới lại có hai thứ, một là thiện giới, hai là ác giới. Thân miệng ý thiện thì đó gọi là thiện giới. Giới của trâu, giới của chó thì đó gọi là ác giới. Người đó tin sâu hai thứ giới này đều có quả báo thiện. Vậy nên gọi là giới chẳng đầy đủ.
Người đó chẳng tin đầy đủ hai việc của giới. Việc tu học đa văn cũng chẳng đầy đủ thì làm sao gọi là nghe chẳng đầy đủ ? Mười hai bộ Kinh mà Như Lai đã nói chỉ tin sáu bộ, chẳng tin sáu bộ. Vậy nên gọi là nghe chẳng đầy đủ. Chỉ lại thọ trì sáu bộ Kinh này chẳng có thể đọc tụng, vì người khác giải nói, không có sự lợi ích. Vậy nên gọi là nghe chẳng đầy đủ. Lại nữa, thọ nhận sáu bộ Kinh này rồi vì luận nghị, vì hơn kẻ khác, vì lợi dưỡng, vì các hữu (có) nên thọ trì, đọc tụng, giải nói. Vậy nên gọi là nghe chẳng đầy đủ. Này thiện nam tử ! Ở trong Kinh ta nói, nghe chẳng đầy đủ thì thế nào là đầy đủ ? Nếu có Tỳkheo, thân miệng ý thiện, trước có thể cúng dường Hòa Thượng, các sư trưởng, người có đức. Những vị sư trưởng này.v.v… đối với người đó sinh lòng ái niệm. Do nhân duyên này nên các vị dạy trao kinh pháp, người đó hết lòng thọ trì, đọc tụng, tu tập. Thọ trì, đọc tụng, tu tập rồi thì thu được trí tuệ, được trí tuệ rồi thì có thể khéo suy nghĩ, theo đúng như pháp mà trụ. Khéo suy nghĩ rồi thì được chính nghĩa, được chính nghĩa rồi thì thân tâm tịch tịnh, thân tâm tịch tịnh rồi thì sinh lòng hoan hỷ. Nhân duyên lòng hoan hỷ thì tâm được định, nhân được định nên được Chánh tri kiến. Có Chánh tri kiến rồi thì đối với các hữu, lòng sinh nhàm chán, hối hận mà nhàm chán hối hận các hữu nên có thể được giải thoát. Người đó không có những việc như vậy nên gọi là nghe chẳng đầy đủ.
Người đó chẳng đủ ba việc như vậy thì Thí cũng chẳng đủ. Thí có hai thứ, một là tài thí, hai là pháp thí. Người đó tuy lại làm tài thí mà vì cầu có (hữu) nên tuy hành pháp thí nhưng cũng chẳng đầy đủ. Vì sao vậy ? Vì còn giữ kín chẳng nói hết sợ người khác hơn. Vậy nên gọi là thí chẳng đầy đủ. Tài, pháp hai thứ thí đều có hai thứ, một là Thánh, hai là chẳng phải Thánh. Thánh thì thí rồi chẳng cầu quả báo. Chẳng phải Thánh thì thí rồi cầu quả báo. Bậc Thánh thí pháp làm tăng trưởng pháp. Kẻ chẳng phải Thánh thí pháp làm tăng trưởng các hữu. Những người như vậy vì thèm của cải mà làm tài thí, vì thêm các hữu mà hành pháp thí. Vậy nên gọi là thí chẳng đầy đủ. Lại nữa, người đó thọ nhận sáu bộ Kinh mà thấy người thọ pháp thì cung cấp, còn người chẳng thọ thì chẳng cung cấp. Ðó gọi là Thí chẳng đầy đủ.
Người đó chẳng đủ bốn việc như trên thì việc tu trí tuệ cũng chẳng đầy đủ. Tính của trí tuệ là tính có thể phân biệt. Người đó chẳng thể phân biệt Như Lai là thường hay vô thường. Ở trong Kinh Niết Bàn này, Như Lai nói rằng, Như Lai tức là Giải thoát, Giải thoát tức là Như Lai, Như Lai tức là Niết Bàn, Niết Bàn tức là Giải thoát. Ở trong nghĩa này người đó chẳng thể phân biệt. Phạm hạnh tức là Như Lai, Như Lai tức là Từ, Bi, Hỷ, Xả. Từ, Bi, Hỷ, Xả tức là Giải thoát, Giải thoát tức là Niết Bàn, Niết Bàn tức là Từ, Bi, Hỷ, Xả. Ở trong nghĩa này người đó chẳng thể phân biệt. Vậy nên gọi là Trí chẳng đầy đủ. Lại nữa, chẳng thể phân biệt được Phật tính. Phật tính tức là Như Lai, Như Lai tức là tất cả pháp bất cộng, pháp bất cộng tức là Giải thoát, Giải thoát tức là Niết Bàn, Niết Bàn tức là pháp bất cộng… Ở trong nghĩa này họ chẳng thể phân biệt. Vậy nên gọi là Trí chẳng đầy đủ. Lại nữa, chẳng thể phân biệt bốn đế : Khổ – Tập – Diệt – Ðạo. Chẳng thể phân biệt bốn chân đế nên chẳng biết Thánh hạnh, chẳng biết Thánh hạnh nên chẳng biết Như Lai, chẳng biết Như Lai nên chẳng biết Giải thoát, chẳng biết Giải thoát nên chẳng biết Niết Bàn. Vậy nên gọi là Trí chẳng đầy đủ.
Người đó chẳng đủ năm việc như vậy thì có hai thứ, một là tăng thiện pháp, hai là tăng ác pháp. Sao gọi là tăng trưởng ác pháp ? Người đó chẳng thấy mình chẳng đầy đủ mà tự nói đầy đủ và sinh ra lòng chấp trước, đối với người đồng hành tự cho mình hơn. Vậy nên họ thân cận bạn ác đồng với mình. Ðã thân cận rồi lại còn được nghe pháp chẳng đầy đủ, nghe rồi lòng vui mừng và lòng họ nhiễm trước khởi lên kiêu mạn, hành động nhiều phóng dật, rồi nhân phóng dật nên gần gũi với hàng tại gia, cũng ưa nghe nói việc tại gia, xa lìa pháp xuất gia thanh tịnh. Do nhân duyên này nên thêm lớn ác pháp, ác pháp tăng nên thân miệng ý.v.v… khởi tác nghiệp bất tịnh. Vì ba nghiệp bất tịnh nên thêm lớn quả báo địa ngục, súc sinh, ngã quỉ. Ðó gọi là tạm ra rồi trở lại chìm. Tạm ra rồi trở lại chìm thì trong Phật pháp của ta người ấy là ai vậy ? Là Ðề Bà Ðạt Ða, Tỳkheo Cù Dà Li, Tỳkheo Uyển Thủ, Tỳkheo Thiện Tinh, Tỳkheo Chỉ Xá, Tỳkheo Mãn Túc, Tỳkheo ni Từ Ðịa, Tỳkheo ni Khoáng Dã, Tỳkheo ni Phương, Tỳkheo ni Mạn, trưởng giả Tịnh Khiết, Ưu bà tắc Cầu Hữu, Xá Lặc Thích Chủng, Tượng trưởng giả, Ưu bà di Danh Xưng, Ưu bà di Quang Minh, Ưu bà di Nan Ðà, Ưu bà di Quân, Ưu bà di Linh.v.v… Những người như vậy gọi là tạm ra rồi trở lại chìm ví như con cá lớn thấy ánh sáng nên ra mà thân nặng nên chìm.
Người thứ hai tự thấy biết sâu là hành động chẳng đầy đủ, chẳng đầy đủ nên cầu gần gũi bạn lành, gần gũi bạn lành nên ưa hỏi han điều chưa nghe, nghe rồi ưa thọ, thọ rồi ưa suy nghĩ tốt, suy nghĩ tốt rồi có thể đúng như pháp trụ, đúng như pháp trụ nên thêm lớn căn lành, thêm lớn căn lành nên nhất định chẳng chìm nữa. Ðó gọi là Trụ. Trong Phật pháp của ta, những người ấy là ai vậy ? Là Xá Lợi Phất, Ðại Mục Kiền Liên, A Nhã Kiều Trần Như.v.v… năm vị Tỳkheo, Gia Xá.v.v… năm trăm vị Tỳkheo, A Nâu Lâu Ðà đồng tử, Ca Diếp, Maha Ca Diếp, Thập Lực Ca Diếp, Tỳkheo ni Cù Ðàm Di, Tỳkheo ni Ba Sấc La Hoa, Tỳkheo ni Thắng, Tỳkheo ni Thật Nghĩa, Tỳkheo ni Ý, Tỳkheo ni Bạt Ðà, Tỳkheo ni Tịnh, Tỳkheo ni Bất Thoái Chuyển, vua Tần Bà Ta La, trưởng giả Úc Dà, trưởng giả Tu Ðạt Ða, Thích Ma Nam, Tu Ðạt Ða nghèo, con ông trưởng giả Thủ Lang, trưởng giả Danh Xưng, trưởng giả Cụ Túc, tướng quân Sư Tử, trưởng giả Ưu Ba Ly, trưởng giả Ðao (Dao), Ưu bà di Vô Úy, Ưu bà di Thiện Trụ, Ưu bà di Ái Pháp, Ưu bà di Dũng Kiện, Ưu bà di Thiên Ðắc, Ưu bà di Thiện Sinh, Ưu bà di Cụ Thân, Ưu bà di Ngưu Ðắc, Ưu bà di Khoáng Dã, Ưu bà di Ma Ha Tư Na.v.v.. Những Tỳkheo, Tỳkheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di như vậy được gọi là trụ. Sao gọi là trụ ? Thường ưa nhìn thấy ánh sáng thiện. Do nhân duyên này nên nếu Phật ra đời, hoặc chẳng ra đời thì những người như vậy nhất định chẳng tạo ác. Ðó gọi là Trụ. Như loài cá Chỉ Di ưa thấy ánh sáng chẳng đắm chẳng chìm, những chúng như trên cũng lại như vậy. Vậy nên, ở trong Kinh ta nói kệ rằng:
Nếu người giỏi hay phân biệt quả
Hết lòng cầu đến quả sa môn
Nếu hay quở trách tất cả “hữu”
“Như pháp trụ”, người đó xưng tên.
Nếu hay cúng dường vô lượng Phật
Thì đã tu đạo, đời không lường
Nếu thọ thế lạc chẳng phóng dật
Thì “Như pháp trụ” người đó xưng
Thân cận bạn lành nghe chánh pháp
Trong khéo tư duy, trụ theo pháp
Tu tập đạo, ưa thấy quang minh
Chứng được giải thoát trụ yên ổn.
*********
…Này thiện nam tử! Trí chẳng đầy đủ thường có năm việc. Người đó biết rồi cầu gần bạn lành. Bạn lành như vậy phải biết quan sát người này tham dục, sân nhuế, ngu si và suy nghĩ hiểu biết người này thiên về cái gì nhiều? Nếu biết người đó tham dục nhiều thì liền ứng vì họ nói pháp quán bất tịnh. Người sân nhuế nhiều thì vì họ nói từ bi. Người suy nghĩ hiểu biết nhiều thì dạy cho họ sổ tức (phép đếm hơi thở). Người chấp trước ngã nhiều thì phải vì họ phân tích mười tám giới.v.v.. Người đó nghe rồi chí tâm thọ trì, chí tâm thọ trì rồi theo đúng như pháp tu hành, theo đúng như pháp tu hành rồi theo thứ lớp chứng được bốn niệm xứ, quán thân bất tịnh, thọ là khổ, tâm vô thường, pháp vô ngã. Ðược cái quán này rồi thì theo thứ lớp quán mười hai nhân duyên. Quán như vậy rồi thì người đó được Noãn pháp.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Tất cả chúng sinh đều có Noãn (ấm) pháp. Vì sao vậy? Vì như lời đức Phật nói, ba pháp hòa hợp gọi là chúng sinh: một là tuổi thọ, hai là noãn (hơi ấm), ba là thức. Nếu theo nghĩa này thì tất cả chúng sinh nên trước có noãn mà vì sao đức Như Lai nói rằng, Noãn pháp nhân bạn lành sinh ra?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Như lời ông hỏi, có Noãn pháp thì tất cả chúng sinh đến nhất xiển đề đều có hết. Như lời hôm nay ta nói là Noãn pháp cần phải nhân phương tiện, rồi nhiên hậu mới được thì nó vốn không nay có. Do nghĩa này nên chẳng phải các chúng sinh, tất cả trước đã có. Vậy nên hôm nay, ông chẳng nên nạn vấn ta là tất cả chúng sinh đều có Noãn pháp. Này thiện nam tử! Noãn pháp như vậy là pháp của Sắc giới, chẳng phải Dục giới có được. Nếu nói rằng, tất cả chúng sinh có thì chúng sinh Dục giới cũng đều nên có mà Dục giới không có nên phải biết là chẳng phải tất cả có. Vì sao vậy? Vì đệ tử của ta có còn ngoại đạo thì không. Do nghĩa này nên tất cả chúng sinh chẳng nhất định đều có. Này thiện nam tử! Tất cả ngoại đạo chỉ quán sáu hạnh còn đệ tử của ta đầy đủ mười sáu hạnh (?). Mười sáu hạnh này thì tất cả chúng sinh chẳng nhất định đều có.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Cái nói là Noãn pháp thì sao gọi là Noãn? Vì tự tính noãn hay vì người khác nên noãn?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Như vậy tự tính của pháp noãn, chẳng phải vì người khác nên noãn!
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Ðức Như Lai trước đã nói rằng, mã sư Mãn Túc không có Noãn pháp. Vì sao vậy? Vì ở chỗ Tam Bảo không tín tâm. Vậy nên không noãn thì phải biết tín tâm tức là Noãn pháp.
– Này thiện nam tử! Tín chẳng phải Noãn pháp. Vì sao vậy? Vì nhân ở tín tâm mà sau mới được noãn. Này thiện nam tử! Luận về Noãn pháp thì tức là trí tuệ. Vì sao vậy? Vì quan sát bốn Ðế. Vậy nên gọi đó là mười sáu hạnh mà hạnh tức là trí. Này thiện nam tử! Như câu hỏi của ông nhân duyên thế nào nên gọi là noãn. Này thiện nam tử! Luận về Noãn pháp thì tức là tướng lửa của tám Thánh đạo. Vậy nên gọi là noãn. Này thiện nam tử! Ví như dùi lửa thì trước có hơi ấm, tiếp đến có lửa sinh ra và sau cùng thì bốc khói. Ðạo Vô lậu này cũng lại như vậy. Hơi ấm tức là mười sáu hạnh, lửa tức là quả Tu đà hoàn, khói tức là tu đạo, cắt đứt kết sử.
Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Như vậy Noãn pháp cũng là Hữu pháp cũng là hữu vi! Quả báo pháp này được năm ấm của Sắc giới nên gọi là Hữu. Do nhân duyên này nên lại gọi là hữu vi. Nếu là hữu vi thì làm sao có thể là tướng của đạo Vô lậu được?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Ðúng vậy! Ðúng vậy! Ðúng như lời ông nói! Này thiện nam tử! Như vậy Noãn pháp tuy là hữu vi, pháp có nhưng trở lại có thể phá hoại hữu vi và pháp có. Vậy nên nó có thể là tướng của đạo Vô lậu. Này thiện nam tử! Như người cưỡi ngựa cũng yêu ngựa nhưng cũng thúc giục ngựa. Noãn tâm cũng vậy, yêu thích nên thọ sinh, nhàm chán nên quan sát hạnh. Vậy nên tuy lại là hữu pháp, hữu vi mà có thể cùng chánh đạo kia làm tướng, được Noãn pháp. Người có bảy mươi ba thứ, Dục giới có mười thứ, thứ người này đầy đủ tất cả phiền não, từ đoạn một phần cho đến chín phần. Như ở Dục giới, từ sơ thiền cho đến Vô Sở Hữu Xứ cũng lại như vậy. Ðó gọi là bảy mươi ba thứ. Những người như vậy được Noãn pháp rồi thì chẳng lại có thể cắt đứt căn lành, làm tội ngũ nghịch, phạm bốn trọng cấm. Hai thứ người này, một là gặp bạn lành, hai là gặp bạn ác. Người gặp bạn ác thì tạm ra trở lại chìm. Người gặp bạn lành thì quan sát khắp bốn phương, quan sát bốn phương thì tức là đỉnh pháp. Pháp này tuy tính lại là năm ấm nhưng cũng duyên bốn Ðế. vậy nên được gọi là quan sát khắp bốn phương. Ðược đỉnh pháp rồi tiếp đến được nhẫn pháp. Nhẫn này cũng vậy, tính cũng năm ấm, cũng duyên bốn Ðế. Người này tiếp đến được pháp Thế đệ nhất. Pháp này tuy tính lại là năm ấm, cũng duyên bốn Ðế. Người này tiếp đến được Khổ nhẫn pháp mà tính của nhẫn là tuệ duyên với một Ðế. Như vậy nhẫn pháp duyên một Ðế rồi cho đến thấy đoạn phiền não, được quả Tu đà hoàn. Ðó gọi là quan sát khắp bốn phương thứ tư. Bốn phương tức là bốn Ðế.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Như đức Phật trước đã nói, việc đoạn phiền não của người Tu đà hoàn giống như vũng nước dọc ngang bốn mươi dặm, còn cái còn lại ấy thì như một giọt nước nhỏ xíu. Trong giọt nước nhỏ này thì sao nói là đoạn ba kết? Gọi là Tu đà hoàn thì một là ngã kiến, hai là chẳng phải nhân thấy nhân, ba là nghi võng. Thưa đức Thế Tôn! Vì nhân duyên gì gọi Tu đà hoàn quan sát khắp bốn phương? Lại vì nhân duyên gì gọi Tu đà hoàn? Lại vì nhân duyên gì nói Tu đà hoàn dụ cho cá Tích?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Người Tu đà hoàn tuy lại có thể đoạn vô lượng phiền não nhưng ba thứ nặng này cũng nhiếp lấy sự cắt đứt kết sử của tất cả người Tu đà hoàn. Này thiện nam tử! Ví như vị Ðại vương khi ra đi tuần du tuy có bốn binh nhưng người đời chỉ nói vua đến vua đi. Vì sao vậy? Vì thế gian xem trọng vua vậy. Ba phiền não này cũng lại như vậy. Vì nhân duyên gì mà gọi đó là trọng (nặng)? Vì tất cả chúng sinh thường khởi nó lên nhỏ khó nhận biết nên gọi là trọng. Như ba kết này khó có thể đoạn trừ nên có thể là nhân của tất cả phiền não. Oán địch đối trị ba kết này là giới, định, tuệ. Này thiện nam tử! Có các chúng sinh nghe Tu đà hoàn có thể đoạn vô lượng phiền não như vậy thì sinh ra thoái tâm, liền nói lên rằng: “Chúng sinh làm sao có thể đoạn vô lượng phiền não như vậy?” Vậy nên Như Lai phương tiện nói có ba! Như lời ông hỏi, vì nhân duyên gì mà người Tu đà hoàn dụ cho quan sát bốn phương? Này thiện nam tử! Người Tu đà hoàn quan sát bốn Ðế thu hoạch được bốn việc: Một là trụ ở đạo kiên cố, hai là có thể quan sát khắp, ba là có thể thấy như thật, bốn là có thể hoại đại oán. Ðạo kiên cố nghĩa là Tu đà hoàn sở hữu năm căn nên không thể động. Vậy nên gọi là trụ đạo kiên cố. Quan sát khắp cùng nghĩa là Tu đà hoàn có thể quở trách phiền não trong, ngoài. Thấy như thật thì tức là Nhẫn trí. Hoại đại oán nghĩa là hoại bốn điên đảo. Như lời ông hỏi, vì nhân duyên gì gọi là Tu đà hoàn? Này thiện nam tử! Tu là gọi Vô lậu, Ðà Hoàn là gọi tu tập. Tu tập Vô lậu nên gọi là Tu đà hoàn. Này thiện nam tử! Lại có, Tu gọi là lưu. Lưu có hai thứ: một là thuận lưu (thuận dòng), hai là nghịch lưu (ngược dòng). Do nghịch lưu nên gọi là Tu đà hoàn.
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Nếu từ ý nghĩa này thì vì nhân duyên gì mà người Tư đà hàm, người A na hàm, người A la hán chẳng được gọi là Tu đà hoàn vậy?
– Này thiện nam tử! Từ Tu đà hoàn cho đến các đức Phật cũng được gọi là Tu đà hoàn. Nếu từ Tư đà hàm cho đến các đức Phật không Tu đà hoàn (nghịch lưu) thì làm sao được gọi là Tư đà hàm cho đến Phật. Tên tất cả chúng sinh có hai thứ: một là cựu (cũ, trước), hai là khách (mượn tạm). Khi còn là phàm phu thì có tên gọi của đời. Ðã được đạo rồi thì đổi tên gọi là Tu đà hoàn. Do trước được đạo nên tên là Tu đà hoàn, rồi sau được tiếp nên gọi Tư đà hàm. Người đó cũng tên là Tu đà hoàn, cũng tên là Tư đà hàm… cho đến Phật cũng lại như vậy. Này thiện nam tử! Lưu có hai thứ: Một là giải thoát, hai là Niết Bàn. Tất cả Thánh nhân đều có hai thứ này, cũng có thể được gọi là Tu đà hoàn, cũng gọi là Tư đà hàm… cho đến Phật cũng lại như vậy. Này thiện nam tử! Tu đà hoàn cũng gọi là Bồ tát. Vì sao vậy? Vì Bồ tát thì tức là tận trí và Vô sinh trí mà người Tu đà hoàn cũng lại tìm cầu hai thứ trí như thế. Vậy nên phải biết người Tu đà hoàn được gọi là Bồ tát. Người Tu đà hoàn cũng được gọi là Giác. Vì sao vậy? Vì Chính giác thì thấy đạo, cắt đứt phiền não vậy. Do nhân quả của Chính giác nên Chính giác chung với đạo và chẳng chung với đạo. Tư đà hàm cho đến A la hán cũng lại như vậy. Này thiện nam tử! Tu đà hoàn này thường có hai thứ: Một là lợi căn, hai là độn căn. Người độn căn thì qua lại cõi người, trời bảy lần. Người độn căn đó lại có năm thứ: hoặc người có sáu lần, năm lần, bốn lần, ba lần, hai lần qua lại trời người. Người lợi căn thì hiện tại chứng được quả Tu đà hoàn đến quả A la hán. Này thiện nam tử! Như lời ông hỏi, vì nhân duyên gì dùng loài cá Tích dụ cho người Tu đà hoàn? Này thiện nam tử! Loài cá Tích có bốn việc: Một là xương nhỏ nên nhẹ, hai là có cánh nên nhẹ, ba là ưa thấy ánh sáng, bốn là ngậm vật giữ chặc. Người Tu đà hoàn cũng có bốn việc: Răng, xương nhỏ là dụ cho phiền não nhỏ, có cánh là dụ cho Xa ma tha (chỉ) Tỳ bà xá na (quán), ưa thấy ánh sáng là dụ cho thấy đạo, ngậm vật giữ chắc là dụ cho nghe Như Lai nói vô thường khổ vô ngã bất tịnh thì giữ chắc chẳng bỏ. Giống như Ma vương hóa làm hình dáng Phật, trưởng giả Thủ La nhìn thấy rồi, lòng kinh hãi. Ma thấy lòng ông trưởng giả ấy động rồi, liền nói với ông trưởng giả rằng: “Ta trước nói có bốn chân đế là lời nói chẳng chân thật! Nay ta sẽ vì ông nói lại là có năm Ðế, sáu ấm, mười ba nhập, mười chín giới!” Ông trưởng giả nghe rồi liền quan sát pháp tướng, nhưng đều không có cái lý này. Vậy nên phải kiên trì lòng mình chẳng động.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Tu đà hoàn này trước đã được đạo nên gọi là Tu đà hoàn. Vì sơ quả (quả vị đầu tiên) nên gọi là Tu đà hoàn. Nếu trước đã được đạo nên gọi là Tu đà hoàn thì khi được Khổ pháp nhẫn vì sao chẳng được gọi là Tu đà hoàn mà gọi là Hướng? Nếu vì sơ quả mà gọi là Tu đà hoàn thì người ngoại đạo trước đã đoạn phiền não, đến được “Vô sở hữu xứ” mà tu đạo vô lậu lại được quả A na hàm. Vì sao chẳng gọi họ là Tu đà hoàn?
– Này thiện nam tử! Do sơ quả nên gọi là Tu đà hoàn! Như lời ông hỏi, người ngoại đạo trước đã đoạn phiền não, đến được Vô sở hữu xứ mà tu đạo Vô lậu được quả A na hàm thì vì sao chẳng gọi họ là Tu đà hoàn? Này thiện nam tử! Do sơ quả nên gọi là Tu đà hoàn. Người này khi ấy đầy đủ tám trí và mười sáu hạnh!
Ngài Ca Diếp bạch rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Người được A na hàm cũng lại như vậy, cũng được tám trí, đủ mười sáu hạnh mà vì sao chẳng được gọi là Tu đà hoàn?
– Này thiện nam tử! Mười sáu hạnh hữu lậu có hai thứ: một là chung (cộng), hai là chẳng chung (bất cộng). Mười sáu hạnh Vô lậu cũng có hai thứ: Một là hướng quả, hai là đắc quả. Tám trí cũng có hai: Một là hướng quả, hai là đắc quả. Người Tu đà hoàn xả mười sáu hạnh cộng được mười sáu hạnh bất cộng, bỏ tám trí hướng quả được tám trí đắc quả. Người A na hàm thì chẳng như vậy. Vậy nên sơ quả gọi là Tu đà hoàn. Này thiện nam tử! Người Tu đà hoàn duyên với bốn Ðế còn người A na hàm chỉ duyên một Ðế. Vậy nên sơ quả gọi là Tu đà hoàn. Do nhân duyên này nên dụ dùng loài cá Tích. Người quan sát khắp rồi đi tức là Tư đà hàm hết lòng tu đạo vì đoạn trừ tham dục, sân, si, kiêu mạn như con cá Tích kia quan sát khắp bốn phương rồi vì mồi ăn nên đi.
Ði rồi lại trụ là dụ cho A na hàm, được ăn rồi trụ. A na hàm này thường có hai thứ: Một là hiện tại được A na hàm rồi tiến tu liền được quả A la hán. Hai là tham trước Tịch tịnh tam muội trong Sắc giới, Vô sắc giới mà người này chẳng thọ thân dục giới nên gọi là A na hàm. A na hàm này lại có năm thứ: Một là Trung Bát Niết Bàn, hai là Thọ Thân Bát Niết Bàn, ba là Hành Bát Niết Bàn, bốn là Vô hành Bát Niết Bàn, năm là Thượng lưu Bát Niết Bàn. A na hàm lại có sáu thứ: Năm thứ nêu trên, thêm sáu là Hiện tại Bát Niết Bàn. Lại có bảy thứ: Sáu thứ như trên, thêm thứ bảy là Vô Sắc Giới Bát Niết Bàn. Hành Bát Niết Bàn lại có hai thứ: Hoặc thọ hai thân, hoặc thọ bốn thân. Nếu thọ hai thân thì đó gọi là lợi căn. Nếu thọ bốn thân thì đó gọi là độn căn. Lại có hai thứ: Một là tinh tấn không tự tại định, hai là giải đãi có tự tại định. Lại có hai thứ: Một là đủ tinh tấn định, hai là chẳng đủ. Này thiện nam tử! Chúng sinh Sắc giới có hai thứ nghiệp: Một là tác nghiệp, hai là thọ sinh nghiệp. Trung Niết Bàn thì chỉ có tác nghiệp không có thọ sinh nghiệp. Vậy nên ở giữa mà Bát Niết Bàn, xả thân Dục giới, chưa đến Sắc giới. Do lợi căn nên ở Trung Niết Bàn. Người A na hàm Trung Niết Bàn này có bốn thứ tâm: Một là phi học phi vô học, hai là học, ba là vô học, bốn là phi học phi vô học. Vào với Niết Bàn mà sao lại gọi là Trung Bát Niết Bàn? Này thiện nam tử! Vì trong bốn thứ tâm của A na hàm này có hai: Một là Niết Bàn và hai là phi Niết Bàn. Vậy nên gọi là Trung Bát Niết Bàn. Thọ thân Niết Bàn có hai thứ: Một là tác nghiệp, hai là sinh nghiệp. Người xả thân Dục giới thọ thân Sắc giới, tinh cần tu đạo, hết thọ mạng ấy thì vào với Niết Bàn.
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Nếu nói rằng hết thọ vào Niết Bàn thì làm sao mà nói rằng Thọ Thân Niết Bàn?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Người này thọ thân rồi nhiên hậu mới đoạn trừ phiền não của ba cõi nên gọi là Thọ Thân Niết Bàn. Này thiện nam tử! Hành Bát Niết Bàn thì thường tu hành đạo. Do có sức của tam muội hữu vi nên có thể đoạn trừ phiền não mà vào với Niết Bàn. Ðó gọi là Hành Bát Niết Bàn. Vô Hành Niết Bàn là người này quyết định biết sẽ được Niết Bàn nên giải đãi. Cũng do lực của tam muội hữu vi nên hết thọ mạng thì được vào với Niết Bàn. Ðó gọi là Vô Hành Bát Niết Bàn. Thượng Lưu Bát Niết Bàn là nếu có người được Ðệ Tứ Thiền rồi mà sinh ra ái tâm ở Sơ thiền thì do nhân duyên này sinh lùi lại ở Sơ thiền. Hạng này có hai dòng (lưu): Một là dòng phiền não, hai là dòng đạo. Nhờ dòng đạo nên người này thọ mạng hết sinh ra yêu Nhị thiền. Do nhân duyên này nên họ sinh ra ở Nhị thiền… cho đến Ðệ tứ Thiền cũng lại như vậy. Trong bốn thiền này lại có hai thứ: Một là vào Vô sắc giới, hai là vào Ngũ Tịnh Cư. Hai người như vậy thì một người ưa tam muội và người thứ hai ưa trí tuệ. Người ưa trí tuệ thì vào Ngũ Tịnh Cư còn người ưa tam muội thì vào Vô Sắc giới. Như vậy hai người: Một là tu Ðệ Tứ Thiền thì có năm bậc sai khác, hai là chẳng tu. Những gì là năm bậc? Ðó là hạ, trung, thượng, thượng trung và thượng thượng. Người tu thượng thượng thì ở Vô Tiểu Thiên. Người tu thượng trung thì ở Thiện Kiến Thiên. Người tu thượng phẩm thì ở Thiện Kiến Thiên. Người tu trung phẩm thì ở Vô Nhiệt Thiên. Người tu hạ phẩm thì ở Thiểu Quảng Thiên. Hai người như vậy, một là ưa luận nghị, hai là ưa tịch tịnh. Người ưa tịch tịnh thì vào Vô Sắc Giới. Người ưa luận nghị ở Ngũ Tịnh Cư. Lại có hai thứ người, một là tu huân thiền, hai là chẳng tu huân thiền. Người tu huân thiền thì vào Ngũ Tịnh Cư. Người chẳng tu huân thiền thì sinh ở Vô sắc giới. Hết thọ mạng thì người ấy Bát Niết Bàn nên gọi là thượng lưu Bát Niết Bàn. Nếu muốn vào với Vô sắc giới thì tức là chẳng thể tu năm sai khác của Bốn Thiền. Nếu tu năm sai khác thì có thể quở trách định của Vô sắc giới.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Người Trung Niết Bàn thì tức lợi căn. Nếu là người lợi căn thì vì sao chẳng hiện tại vào Niết Bàn vậy? Vì sao Dục giới có Trung Niết Bàn mà Sắc giới thì không?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Người đó hiện tại bốn đại gầy yếu chẳng thể tu đạo. Tuy có Tỳkheo với bốn đại mạnh khỏe nhưng không có phòng nhà, đồ ăn thức uống, quần áo, ngọa cụ, thuốc chữa bệnh… mọi duyên chẳng đủ. Vậy nên chẳng được hiện tại Niết Bàn. Này thiện nam tử! Ngày trước một thuở, ta ở tại tinh xá A Na Bân Chỉ nước Xá Vệ, có một Tỳkheo đi đến chỗ của ta nói lên như vầy: “Thưa đức Thế Tôn! Con thường tu đạo mà chẳng thể được quả Tu đà hoàn đến quả A la hán!” Ta tức thời bảo ông A Nan rằng: “Ông nay phải vì vị Tỳkheo này cấp đủ những sự cần dùng”. Lúc bấy giờ ông A Nan đem vị Tỳkheo này đến rừng Kỳ Ðà cấp cho phòng nhà đẹp. Khi đó vị Tỳkheo nói với ông A nan rằng: “Thưa đại đức! Nguyện xin ngài vì tôi trang nghiêm phòng nhà, sửa sang sạch sẽ, nghiêm lệ bảy báu, treo bảo cái, tràng phan lụa ngũ sắc…” Ông A Nan nói rằng: “Thế gian, người nghèo mới gọi là Sa môn thì tôi phải làm sao có thể bày biện những việc đó?” Tỳkheo này nói rằng: “Thưa đại đức! Nếu ngài có thể vì tôi làm thì tốt! Nếu chẳng thể thì tôi sẽ trở lại đi đến chỗ đức Thế Tôn!”. Lúc bấy giờ, ông A Nan liền đi đến chỗ Phật mà thưa rằng: “Thưa đức Thế Tôn! Tỳkheo vừa rồi theo con cầu tìm đủ thứ trang nghiêm bảy báu, tràng, cái… chẳng xem xét việc này thì phải làm sao vậy?”. Vào lúc ấy, ta lại bảo ông A Nan rằng: “Nay ông trở lại đi theo ý của Tỳkheo, đem những vật cần dùng của ông ấy mà bày biện đủ!”. Lúc bấy giờ, ông A Nan trở lại trong phòng, vì vị Tỳkheo này bày biện từng việc từng việc đầy đủ. Tỳkheo được như ý rồi thì hết lòng tu đạo. Chẳng bao lâu ông liền được quả Tu đà hoàn đến quả A la hán. Này thiện nam tử! Vô lượng chúng sinh ứng vào Niết Bàn nhưng vì thiếu thốn nên làm loạn lòng họ nên chẳng được. Này thiện nam tử! Lại có chúng sinh rất vui được giáo hóa nên lòng họ rộn ràng chẳng thể được định. Vậy nên chẳng được Hiện Tại Niết Bàn. Này thiện nam tử! Như lời ông hỏi, vì nhân duyên gì xả thân Dục giới có Trung Niết Bàn mà Sắc giới thì không?. Này thiện nam tử! Người này quan sát ở Dục giới, nhân duyên phiền não có hai: Một là nội, hai là ngoại mà trong Sắc giới không có ngoại nhân duyên. Dục giới lại có hai thứ ái tâm, một là dục ái, hai là thực (ăn) ái. Quan sát hai ái này, hết lòng quở trách, quở trách rồi thì được vào Niết Bàn. Trong Dục giới này có thể quở trách các phiền não thô như là xan tham, tật đố, không tàm, không quí… Do nhân duyên này nên có thể được Niết Bàn. Lại, đạo của Dục giới, tính của đạo ấy dũng kiện. Vì sao vậy? Vì được bốn quả vậy. Vậy nên Dục giới có Trung Niết Bàn mà trong Sắc giới thì không. Này thiện nam tử! Trung Niết Bàn thì thường có ba thứ. Ðó là thượng, trung, hạ. Thượng là xả thân chưa rời khỏi Dục giới liền được Niết Bàn. Trung là bắt đầu rời khỏi Dục giới chưa đến Sắc giới liền được Niết Bàn. Hạ là rời khỏi Dục giới rồi đến biên giới Sắc giới mới được Niết Bàn. Dụ dùng loài cá Tích được mồi ăn rồi đi, người này cũng vậy. Sao gọi là Trụ? Ở tại Sắc giới và Vô sắc giới được thọ thân vậy. Vậy nên gọi trụ. Chẳng thọ thân người, trời, địa ngục, súc sinh, ngã quỉ của Dục giới. Vậy nên gọi là Trụ. Ðã đoạn trừ vô lượng các phiền não kết, còn lại chút ít vậy. Vậy nên gọi Trụ. Lại vì nhân duyên gì mà gọi đó là Trụ? Vì nhân duyên nhất định chẳng tạo tác chung việc của phàm phu. Vậy nên gọi là Trụ. Mình không sợ gì, chẳng khiến người khác sợ. Vậy nên gọi là Trụ. Xa lìa hai ái, xan tham, sân nhuế. Vậy nên gọi là Trụ.
Này thiện nam tử! Người đến bờ kia là dụ cho A la hán, Bích Chi Phật, Bồ tát, Phật, giống như Rùa thần trên nước trên đất đều đi được cả. Vì nhân duyên gì mà dụ những vị ấy cho rùa? Vì nhân duyên năm tàng tốt (thiện). Những bậc A la hán này cho đến các đức Phật cũng lại như vậy, khéo che năm căn vậy nên dụ cho rùa. Rằng nước và đất thì nước dụ cho thế gian, đất dụ cho xuất thế gian. Các vị Thánh này cũng lại như vậy, có thể quan sát tất cả phiền não ác nên đến với bờ kia. Vậy nên dụ cho đến dưới nước, trên đất đều đi.
Này thiện nam tử! Như bảy loài chúng sinh trong sông Hằng, tuy có tên là cá, rùa nhưng chẳng lìa khỏi nước. Như vậy trong Ðại Niết Bàn vi diệu, từ nhất xiển đề lên đến các đức Phật tuy có tên khác nhau nhưng cũng chẳng lìa khỏi nước Phật tính. Này thiện nam tử! Bảy loại chúng sinh này hoặc thiện pháp, hoặc bất thiện pháp, hoặc phương tiện đạo, hoặc giải thoát đạo, hoặc thứ đệ đạo, hoặc nhân, hoặc quả… hết thảy đều là Phật tính. Ðó gọi là Tùy Tự Ý Ngữ của Như Lai!
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Nếu có nhân thì có quả, nếu không nhân thì không quả. Niết Bàn gọi là quả thường nên không có nhân. Nếu không nhân thì sao gọi là quả? Nhưng mà Niết Bàn này cũng gọi là Sa môn và gọi là quả Sa môn thì thế nào là Sa môn? Thế nào là quả Sa môn?
– Này thiện nam tử! Tất cả thế gian có bảy thứ quả: Một là quả phương tiện, hai là quả báo ân, ba là quả thân cận, bốn là quả tàn dư, năm là quả bình đẳng, sáu là quả quả báo, bảy là quả viễn ly. Phương tiện quả thì như người thế gian, mùa thu, thu hoạch nhiều lúa, đều nói với nhau rằng, được phương tiện quả. Phương tiện quả còn gọi là Nghiệp hành quả. Quả như vậy thì có hai thứ nhân: Một là nhân gần, hai là nhân xa. Nhân gần là gọi hạt giống (chủng tử). Nhân xa là gọi nước, phân bón, công sức của người. Ðó gọi là phương tiện quả. Báo ân quả thì như người thế gian cúng dường cha mẹ, cha mẹ đều nói rằng, ta nay đã được quả báo ân dưỡng. Con có thể báo đền ơn cha mẹ thì gọi đó là quả. Quả như vậy thì nhân cũng có hai thứ: Một là nhân gần, hai là nhân xa. Nhân gần tức là nghiệp thuần thiện đời quá khứ của cha mẹ. Nhân xa tức là cha mẹ đã sinh ra con hiếu. Ðó gọi Báo ân quả. Thân cận quả thì ví như có người gần gũi bạn lành hoặc được từ quả Tu đà hoàn đến quả A la hán. Người đó xướng lên rằng: “Ta nay được Thân cận quả!” Quả như vậy thì nhân có hai thứ: Một là nhân gần, hai là nhân xa. Nhân gần là lòng tin, nhân xa là bạn lành. Ðó gọi là Thân cận quả. Dư tàn quả thì như nhân chẳng sát hại được thân thứ ba kéo dài thêm thọ mạng. Ðó gọi là Dư tàn quả. Quả như vậy thì có hai thứ nhân: Một là nhân gần, hai là nhân xa. Nhân gần tức là thân, miệng, ý thanh tịnh. Nhân xa tức là kéo dài thêm thọ mạng. Ðó gọi là Tàn dư quả. Bình đẳng quả nghĩa là thế giới khí (đồ dùng). Quả như vậy thì cũng có hai thứ nhân: Một là nhân gần, hai là nhân xa. Nhân gần như là chúng sinh tu mười nghiệp thiện. Nhân xa như là tam tai. Ðó gọi là Bình đẳng quả. Quả Báo quả thì như người chứng được thân thanh tịnh rồi tu nghiệp thanh tịnh của thân, miệng, ý. Người đó liền nói rằng, ta được quả báo quả. Quả như vậy thì nhân có hai thứ: Một là nhân gần, hai là nhân xa. Nhân gần thì như là thân, miệng, ý hiện tại thanh tịnh. Nhân xa thì như là thân, miệng, ý quá khứ thanh tịnh. Ðó gọi là quả báo quả. Viễn ly quả thì tức là Niết Bàn lìa các khổ não. Tất cả nghiệp thiện là nhân của Niết Bàn. Nó lại có hai thứ: Một là nhân gần, hai là nhân xa. Nhân gần tức là ba cửa giải thoát. Nhân xa tức là việc tu hành thiện pháp của vô lượng đời. Này thiện nam tử! Như pháp thế gian, hoặc nói sinh nhân, hoặc nói liễu nhân. Pháp xuất thế cũng lại như vậy, cũng nói sinh nhân, cũng nói liễu nhân. Này thiện nam tử! Ba cửa giải thoát, ba mươi bảy phẩm trợ đạo có thể vì tất cả phiền não làm chẳng sinh ra sinh nhân, cũng vì Niết Bàn mà làm liễu nhân. Này thiện nam tử! Lìa xa phiền não thì được thấy rõ ràng Niết Bàn. Vậy nên Niết Bàn chỉ có liễu nhân, không có sinh nhân. Này thiện nam tử! Như lời ông hỏi, thế nào là Sa môn na? Thế nào là Sa môn quả? Này thiện nam tử! Sa môn na tức là Bát chánh đạo. Sa môn quả thì từ đạo rốt ráo diệt vĩnh viễn tất cả tham, sân, si.v.v… Ðó gọi là Sa môn na và Sa môn quả.
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Bát chánh đạo gọi là Sa môn na?
– Này thiện nam tử! Ðời nói Sa môn là gọi thiếu! Na là gọi Ðạo. Như vậy Ðạo là đoạn tất cả thiếu, đoạn tất cả đạo. Do nghĩa này nên gọi Bát chánh đạo là Sa môn na. Từ trong đạo này chứng được quả nên gọi là Sa môn quả. Này thiện nam tử! Lại, Sa môn na là như người thế gian có lạc tịnh (vui yên lặng) thì cũng gọi là Sa môn. Ðạo như vậy thì cũng lại như vậy có thể khiến cho hành giả lìa khỏi cái ác của thân, miệng, ý và tà mạng.v.v… mà được vui tịch tịnh. Vậy nên gọi đó là Sa môn na. Này thiện nam tử! Như hạng hạ nhân của đời có thể làm bậc thượng nhân. Ðó gọi là Sa môn. Như vậy đạo đó cũng lại như vậy, có thể khiến cho hạng hạ nhân làm bậc thượng nhân. Vậy nên được gọi là Sa môn na. Này thiện nam tử! Người A la hán tu đạo này thì được Sa môn quả. Vậy nên được gọi là đến với bờ kia. Quả A la hán tức là thân pháp năm phần vô học (vô học ngũ phận pháp thân). Giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, nhân năm phần này được đến bờ kia. Vậy nên gọi là đến với bờ kia. Ðến bờ kia mà tự nói rằng: “Ta, sinh đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã hoàn thành, lại chẳng thọ thân sau”. Này thiện nam tử! A la hán này đã đoạn trừ vĩnh viễn nhân duyên sinh ba đời. Vậy nên tự nói, ta, sinh đã hết, cũng cắt đứt thân năm ấm của ba cõi. Vậy nên lại nói rằng, ta, sinh đã hết, việc tu phạm hạnh đã rốt ráo. Vậy nên xướng rằng, phạm hạnh đã lập. Lại nữa, xả bỏ học đạo cũng gọi là đã lập. Như sở cầu thuở trước, ngày nay đã được, vậy nên xướng lên rằng, việc làm đã hoàn thành. Tu đạo được quả cũng nói rằng, đã hoàn thành. Chứng được Tận trí, Vô sinh trí nên xướng lên rằng, Ta, sinh đã hết, tận diệt các hữu kết. Do những nghĩa này nên gọi là A la hán được đến bờ kia. Như A la hán, Bích Chi Phật cũng lại như vậy. Bồ tát và Phật thành tựu đầy đủ sáu Ba la mật nên gọi là đến bờ kia. Phật và Bồ tát này được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác rồi thì gọi là đầy đủ sáu Ba la mật. Vì sao vậy? Vì được quả của sáu Ba la mật. Do được quả nên gọi là đầy đủ. Này thiện nam tử! Bảy loại chúng sinh này chẳng tu thân, chẳng tu giới, chẳng tu tâm, chẳng tu tuệ, chẳng thể tu tập bốn việc như vậy thì có thể tạo tác tội nặng ngũ nghịch, có thể cắt đứt căn lành, phạm bốn trọng cấm, bài báng Phật Pháp Tăng. Vậy nên họ được gọi là thường đắm chìm. Này thiện nam tử! Trong bảy thứ người này nếu có người thân cận thiện tri thức, hết lòng thính thọ chính pháp của Như Lai, nội tâm giỏi tư duy, theo đúng như pháp mà trụ, tinh cần tu tập thân, giới, tâm, tuệ thì được gọi là qua khỏi dòng sông sinh tử, đến được bờ kia. Nếu có người nói rằng, người nhất xiển đề được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì đó gọi là nhiễm trước, còn nếu nói rằng, chẳng được thì đó gọi là hư vọng. Này thiện nam tử! Bảy thứ người này, hoặc có một người đủ bảy, hoặc có bảy người từng người một. Này thiện nam tử! Nếu người mà lòng miệng khác, tưởng khác nói rằng, nhất xiển đề được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, thì phải biết người đó bài báng Phật, Pháp, Tăng. Nếu người mà tâm miệng khác, tưởng khác nói rằng, nhất xiển đề chẳng được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, thì người đó cũng gọi là bài báng Phật, Pháp, Tăng. Này thiện nam tử! Nếu có người nói Bát Thánh đạo phận là sở đắc của phàm phu thì người đó cũng gọi là bài báng Phật, Pháp, Tăng. Nếu có người nói rằng, Bát Thánh đạo phận chẳng phải là sở đắc của phàm phu thì người đó cũng gọi là bài báng Phật, Pháp, Tăng. Này thiện nam tử! Nếu có người nói rằng, tất cả chúng sinh quyết định có Phật tính hay quyết định không Phật tính thì người đó cũng gọi là bài báng Phật, Pháp, Tăng. Này thiện nam tử! Vậy nên ở trong Khế kinh ta nói có hai thứ người bài báng Phật, Pháp, Tăng: Một là chẳng tin lòng sân nhuế, hai là tuy tin nhưng chẳng hiểu nghĩa. Này thiện nam tử! Nếu lòng tin của người không có trí tuệ thì người đó có thể thêm lớn vô minh. Nếu có trí tuệ mà không có lòng tin thì người đó có thể thêm lớn tà kiến. Này thiện nam tử! Người chẳng tin mà lòng sân nhuế nói rằng, không có Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo. Người tin mà không tuệ thì giải nghĩa điên đảo khiến cho người nghe pháp bài báng Phật, Pháp, Tăng. Này thiện nam tử! Vậy nên ta nói rằng, người chẳng tin mà lòng sân nhuế, người có tin mà không trí tuệ là những người có thể bài báng Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo. Này thiện nam tử! Nếu có người nói rằng, nhất xiển đề.v.v… chưa sinh ra thiện pháp liền được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì người đó cũng gọi là bài báng Phật, Pháp, Tăng. Nếu lại có người nói rằng, người nhất xiển đề bỏ nhất xiển đề, ở trong thân khác được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì người đó cũng gọi là bài báng Phật, Pháp, Tăng. Nếu lại có người nói rằng, người nhất xiển đề có thể sinh ra thiện căn, sinh thiện căn rồi nối nhau chẳng đoạn được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác nên nói rằng, nhất xiển đề được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì phải biết người đó chẳng bài báng Tam Bảo. Này thiện nam tử! Nếu có người nói rằng, tất cả chúng sinh quyết định có Phật tính, Thường Lạc Ngã Tịnh, chẳng tác, chẳng sinh mà vì nhân duyên phiền não nên chẳng thấy thì phải biết người đó bài báng Phật, Pháp, Tăng. Nếu có người nói rằng, tất cả chúng sinh đều không Phật tính giống như sừng thỏ, từ phương tiện sinh ra, vốn không nay có, có rồi trở lại không thì phải biết người đó bài báng Phật, Pháp, Tăng. Nếu có người nói rằng, Phật tính của chúng sinh chẳng phải có như hư không, chẳng phải không như sừng thỏ. Vì sao vậy? Vì hư không thì thường, sừng thỏ thì không có vậy. Vậy nên được nói rằng, cũng có cũng không. Nếu có thì nên phá sừng thỏ, còn không thì nên phá hư không. Người nói như vậy thì chẳng bài báng Tam Bảo. Này thiện nam tử! Luận về Phật tính thì chẳng gọi là một pháp, chẳng gọi là mười pháp, chẳng gọi là trăm pháp, chẳng gọi là ngàn pháp, chẳng gọi là vạn pháp. Khi chưa được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác mà tất cả thiện, bất thiện, vô ký hết thì gọi là Phật tính. Như Lai, hoặc khi trong nhân nói quả, trong quả nói nhân. Ðó gọi là Tùy Tự Ý Ngữ của Như Lai. Vì Tùy Ý Ngữ nên gọi là Như Lai, Tùy Ý Ngữ nên gọi là A La Ha, Tùy Ý Ngữ nên gọi là Tam Miệu Tam Phật Ðà!
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Như lời đức Phật nói, Phật tính của chúng sinh giống như hư không, thì sao gọi là hư không vậy?
– Này thiện nam tử! Tính của hư không chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại. Phật tính cũng vậy. Này thiện nam tử! Hư không chẳng phải quá khứ. Vì sao vậy? Vì không hiện tại vậy. Pháp, nếu hiện tại có thể nói quá khứ. Nhưng do không hiện tại nên không quá khứ, cũng không hiện tại. Vì sao vậy? Vì không vị lai vậy. Pháp, nếu vị lai có thể nói hiện tại. Nhưng do không vị lai nên không hiện tại, cũng không vị lai. Vì sao vậy? Vì không hiện tại và quá khứ. Nếu có hiện tại, quá khứ thì có vị lai, nhưng do không hiện tại quá khứ nên không vị lai. Do nghĩa này nên tính của hư không chẳng phải ba đời nhiếp lấy.
Này thiện nam tử! Do hư không không nên không có ba đời. Chẳng do có nên không ba đời vậy. Như hoa hư không chẳng phải là có nên không có ba đời. Hư không cũng vậy, chẳng phải là có nên không có ba đời.
Này thiện nam tử! Không có vật tức là hư không, Phật tánh cũng vậy.
Này thiện nam tử! Hư không không nên chẳng phải ba đời nhiếp lấy. Phật tính thường nên chẳng phải ba đời nhiếp lấy.
Này thiện nam tử! Như Lai đã được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác nên Phật tính sở hữu và tất cả Phật pháp thường trụ không biến đổi. Do nghĩa này nên không có ba đời giống như hư không.
Này thiện nam tử! Hư không không nên chẳng phải trong chẳng phải ngoài, Phật tính thường nên chẳng phải trong chẳng phải ngoài nên nói Phật tính giống như hư không.
Này thiện nam tử! Như trong thế gian, chỗ không ngăn ngại gọi là hư không. Như lại được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác rồi thì đối với tất cả pháp không có ngăn ngại nên nói rằng Phật tính giống như hư không. Do nhân duyên này ta nói rằng, Phật tính giống như hư không.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Như Lai, Phật tính, Niết Bàn chẳng phải sự nhiếp lấy của ba đời mà gọi là hữu (có). Hư không cũng chẳng phải là sự nhiếp lấy của ba đời mà vì sao chẳng được gọi là hữu vậy?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Vì chẳng phải Niết Bàn gọi là Niết Bàn. Vì chẳng phải Như Lai gọi là Như Lai. Vì chẳng phải Phật tính gọi là Phật tính. Sao gọi là chẳng phải Niết Bàn vậy? Ðó là tất cả pháp hữu vi phiền não. Vì phá phiền não hữu vi như vậy nên đó gọi là Niết Bàn. Chẳng phải Như Lai là gọi từ nhất xiển đề đến Bích Chi Phật. Vì phá nhất xiển đề đến Bích Chi Phật như vậy nên đó gọi là Như Lai. Chẳng phải Phật tính là gọi tất cả những vật vô tình như tường, vách, sành, đá.v.v… Lìa khỏi những vật vô tình như vậy thì đó gọi là Phật tính. Này thiện nam tử! Tất cả thế gian không chẳng phải hư không đối với hư không.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Thế gian cũng không chẳng phải bốn đại đối với bốn đại mà còn được gọi bốn đại là có mà hư không không đối với thì vì sao chẳng được gọi là có?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Nếu nói Niết Bàn chẳng phải sự nhiếp lấy của ba đời mà hư không cũng vậy thì nghĩa này chẳng đúng. Vì sao vậy? – Vì Niết Bàn là có thể thấy, có thể chứng, là sắc với đủ dấu vết, chương cú, là có, là tướng, là duyên, là chỗ qui y, là ánh sáng tịch tịnh, là bờ kia yên ổn. Vậy nên được gọi là chẳng phải sự nhiếp lấy của ba đời. Còn tính của hư không là không có những pháp như vậy. Vậy nên gọi là không. Nếu có lìa khỏi những pháp như vậy thì lại có pháp thì ứng với sự nhiếp lấy của ba đời. Hư không nếu đồng với pháp có này thì chẳng được chẳng phải là sự nhiếp lấy của ba đời.
Này thiện nam tử! Như người đời nói, hư không gọi là không sắc, không đối, chẳng thể nhìn thấy. Nếu không sắc, không đối, chẳng thể nhìn thấy thì tức là pháp tâm số (sổ). Hư không nếu đồng với pháp tâm số thì chẳng được chẳng là sự nhiếp lấy của ba đời. Vì nếu ba đời nhiếp lấy thì tức là bốn ấm.. Vậy nên lìa khỏi bốn ấm rồi thì không có hư không.
Lại nữa, này thiện nam tử! Các ngoại đạo nói rằng, Luận về hư không thì tức là ánh sáng. Hư không nếu là ánh sáng thì tức là sắc pháp. Hư không nếu là sắc pháp thì tức là vô thường. Ðã là vô thường nên bị sự nhiếp lấy của ba đời thì làm sao ngoại đạo nói là chẳng phải ba đời? Nếu ba đời nhiếp lấy thì chẳng phải hư không, cũng có thể nói rằng, hư không là thường.
Này thiện nam tử! Lại có người nói rằng, hư không tức là trụ xứ. Hư không nếu có trụ xứ thì tức là sắc pháp mà tất cả chỗ đều là vô thường, bị sự nhiếp lấy của ba đời. Hư không cũng thường, chẳng phải sự nhiếp lấy của ba đời. Nếu nói có chỗ thì biết không có hư không. Lại có người nói rằng, hư không thì tức là thứ lớp. Nếu là thứ lớp thì tức là Sổ pháp. Nếu là có thể tính thì tức là ba đời nhiếp lấy. Nếu ba đời nhiếp lấy thì làm sao nói là Thường?.
Này thiện nam tử! Nếu lại nói rằng, luận về hư không thì chẳng lìa khỏi ba pháp: Một là rỗng không, hai là thật, ba là rỗng không thật. Nếu nói rỗng không là đúng thì phải biết hư không là pháp vô thường. Vì sao vậy? Vì chỗ quả thật là không. Nếu nói là Thật đúng thì phải biết hư không cũng là vô thường. Vì sao vậy? Vì chỗ rỗng không là không. Nếu rỗng không thật đúng thì phải biết hư không cũng là vô thường. Vì sao vậy? Vì cả hai chỗ là không. Vậy nên hư không gọi là không. Này thiện nam tử! Như nói, hư không là pháp có thể tạo tác. Như nói khử bỏ cây cối, khử bỏ nhà cửa mà tạo làm hư không, làm bằng phẳng hư không, che ở trên hư không, vẽ ở hư không, màu sắc hư không như nước biển cả… Vậy nên hư không là pháp có tạo tác. Tất cả pháp tạo tác đều là vô thường. Giống như chiếc bình gốm, hư không nếu vậy thì nên là vô thường. Này thiện nam tử! Người thế gian nói rằng, chỗ không ngăn ngại trong tất cả pháp gọi là hư không. Chỗ không ngăn ngại này đối với tất cả chỗ là có đầy đủ hay là có từng phần vậy? Nếu có đầy đủ thì phải biết chỗ còn lại không có hư không. Nếu có từng phần thì tức là đó, đây pháp có thể tính. Nếu là có thể tính thì phải biết là vô thường. Này thiện nam tử! Nếu có người nói, hư không, không ngại cùng có, đều hòa hợp. Lại có người nói rằng, hư không ở tại sự vật như trái cây ở trong đồ đựng. Cả hai đều chẳng đúng. Vì sao vậy? Vì, nếu nói cùng hòa hợp thì có ba thứ: Một là khác nghiệp hợp như loài chim bay tập họp trên cây. Hai là cộng nghiệp (nghiệp chung) hợp như hai con dê tiếp xúc nhau. Ba là đã hợp cộng hợp như hai đôi ngón tay hợp ở một chỗ. Nếu nói rằng, khác nghiệp hợp chung mà khác thì có hai, một là nghiệp của vật, hai là nghiệp của hư không. Nếu “không nghiệp” hợp với vật mà không thì vô thường. Nếu vật nghiệp hợp với không mà vật thì bất biến. Như vậy bất biến ấy là cũng vô thường. Nhưng nếu nói hư không là thường mà tính hư không ấy chẳng động, cùng với vật động hợp thì nghĩa này chẳng đúng! Vì sao vậy? Vì hư không nếu thường thì vật cũng nên thường. Vật nếu không thường thì hư không cũng không thường. Nếu nói hư không cũng thường cũng vô thường thì không có điều đó. Nếu cộng nghiệp hợp thì nghĩa này không đúng! Vì sao vậy? Vì hư không gọi là cùng khắp (biến) nên nếu cùng nghiệp hợp thì nghiệp cũng nên cùng khắp. Nếu nghiệp này cùng khắp thì nên tất cả cùng khắp. Nếu tất cả cùng khắp nên tất cả hợp thì chẳng nên nói có hợp cùng chẳng hợp. Nếu nói đã hợp chung hợp như hai đôi ngón hợp thì nghĩa này chẳng đúng! Vì sao vậy? Vì trước không có hợp về sau mới hợp. Trước không, sau có là pháp vô thường. Vậy nên chẳng được nói rằng, hư không đã hợp chung hợp như pháp thế gian trước không sau có là vật vô thường. Hư không nếu vậy thì cũng nên vô thường. Nếu nói hư không ở tại sự vật như trái cây ở trong đồ đựng thì nghĩa này chẳng đúng! Vì sao vậy? Vì như vậy thì hư không trước lúc không đồ chứa, tồn tại ở đâu? Nếu có chỗ trụ mà hư không thì nhiều. Như hư không ấy nhiều thì làm sao nói rằng thường? Rằng một? Rằng cùng khắp? Nếu giả sử hư không lìa khỏi không để có chỗ trụ thì vật có cũng nên lìa khỏi hư không mà trụ. Vậy nên phải biết là không có hư không! Này thiện nam tử! Nếu có người nói rằng, chỗ trụ của ngón tay gọi là hư không thì phải biết hư không là pháp vô thường. Vì sao vậy? Vì ngón tay có bốn phương. Nếu có bốn phương thì phải biết hư không cũng có bốn phương. Nhưng tất cả pháp thường đều không địa phương xứ sở nên do có phương sở nên hư không vô thường. Nếu là vô thường thì chẳng lìa khỏi năm ấm mà cần lìa khỏi năm ấm là không sở hữu. Này thiện nam tử! Có pháp, nếu từ nhân duyên trụ thì phải biết pháp đó gọi là vô thường. Này thiện nam tử! Ví như tất cả chúng sinh, cây cối nhân đất mà trụ mà đất vô thường nên những vật nhân ở đất theo thứ lớp vô thường. Này thiện nam tử! Như đất nhân nước mà nước vô thường nên đất cũng vô thường. Như nước nhân gió mà gió vô thường nên nước cũng vô thường. Gió nương hư không mà hư không vô thường nên gió cũng vô thường. Nếu vô thường thì làm sao nói rằng, hư không là thường, cùng khắp tất cả chỗ. Hư không không nên chẳng phải là quá khứ, vị lai, hiện tại, cũng như sừng thỏ là vật không có nên chẳng phải là quá khứ, vị lai, hiện tại. Vậy nên ta nói rằng, Phật tính thường nên chẳng phải sự nhiếp lấy của ba đời. Hư không không nên chẳng phải sự nhiếp lấy của ba đời. Này thiện nam tử! Ta nhất định chẳng cùng thế gian chung tranh cãi (cộng tranh). Vì sao vậy? Vì trí thế gian nói có ta cũng nói có, trí thế gian nói không ta cũng nói không!
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Ðại Bồ tát đầy đủ bao nhiêu pháp để chẳng cùng với đời tranh cãi, chẳng bị sự thấm bẩn của thế pháp?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát đầy đủ mười pháp thì chẳng cùng đời tranh cãi và chẳng bị sự thấm bẩn của thế pháp. Những gì là mười? Một là tín tâm, hai là có giới, ba là thân cận bạn lành, bốn là bên trong giỏi tư duy, năm là đầy đủ tinh tấn, sáu là đầy đủ chánh niệm, bảy là đầy đủ trí tuệ, tám là đầy đủ chánh ngữ, chín là ưa thích chánh pháp, mười là thương xót chúng sinh. Này thiện nam tử! Bồ tát đầy đủ mười pháp như vậy thì chẳng cùng đời tranh cãi, chẳng bị sự thấm bẩn của thế pháp, như hoa Ưu bát la.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Như lời đức Phật nói, thế trí nói có ta cũng nói có, thế trí nói không ta cũng nói không thì những gì gọi là có, không của thế trí?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Thế trí nếu nói sắc là vô thường, khổ, không, vô ngã… cho đến thức cũng như vậy thì, này thiện nam tử! Ðó gọi là thế trí nói có, ta cũng nói có. Này thiện nam tử! Thế trí nói sắc không có Thường Lạc Ngã Tịnh và Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng lại như vậy thì, này thiện nam tử! Ðó gọi là thế trí nói không, ta cũng nói không.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Trí thế gian tức là Phật, Bồ tát, tất cả Thánh nhân. Nếu sắc của các Thánh nhân là Vô thường, Khổ, Không, vô ngã thì làm sao đức Như Lai nói sắc thân của Phật thường hằng không biến đổi? Trí thế gian nói là không pháp làm sao đức Như Lai nói là có? Ðức Như Lai Thế Tôn đã nói lời như vậy mà sao lại nói chẳng cùng đời tranh cãi, chẳng bị sự thấm bẩn của thế pháp? Ðức Như Lai đã lìa ba thứ điên đảo là tưởng đảo, tâm đảo và kiến đảo nên nói sắc thân Phật thật là vô thường nay mới nói thường thì sao được gọi là xa lìa điên đảo, chẳng cùng đời tranh cãi?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Sắc của phàm phu từ phiền não sinh ra. Vậy nên kẻ trí nói sắc là vô thường, khổ, không, vô ngã. Sắc của Như Lai thì xa lìa phiền não. Vậy nên nói là thường hằng, không biến đổi.
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Sao gọi là sắc từ phiền não sinh?
– Này thiện nam tử! Phiền não có ba thứ là dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Kẻ trí nên phải quán sát tội lỗi sở hữu của ba lậu này. Sở dĩ vì sao? Vì biết tội lỗi rồi có thể xa lìa. Ví như thầy thuốc trước xem mạch bệnh nhân, biết bệnh tại đâu, rồi nhiên hậu mới trao cho thuốc. Này thiện nam tử! Như có người đem người đến trong rừng gai rồi bỏ đó trở về. Người mù về sau rất khó được ra khỏi mà giả sử có được ra khỏi thì thân thể cũng rách nát hết. Phàm phu thế gian cũng lại như vậy, chẳng thể thấy biết tội lỗi của ba lậu nên chạy đuổi theo. Như người thấy được tội lỗi ấy thì có thể xa lìa. Biết tội lỗi rồi thì tuy họ có thọ quả báo nhưng là quả báo nhỏ nhẹ. Này thiện nam tử! Có bốn thứ người: Một là khi tạo nghiệp thì nặng, khi thọ báo thì nhẹ. Hai là khi tạo nghiệp thì nhẹ, khi thọ báo thì nặng. Ba là khi tạo nghiệp thì nặng, khi thọ báo cũng nặng. Bốn là khi tạo nghiệp thì nhẹ, khi thọ báo cũng nhẹ. Này thiện nam tử! Nếu người có thể quan sát tội lỗi của phiền não thì người này tạo nghiệp, thọ quả đều nhẹ. Này thiện nam tử! Người có trí có ý nghĩ như vầy: “Ta nên xa lìa các lậu như vậy! Lại nữa, chẳng nên làm những việc xấu xa hèn hạ như vậy. Vì sao vậy? Vì ta nay chưa được giải thoát khỏi quả báo địa ngục, ngã quỉ, súc sinh, người, trời. Ta nếu tu đạo thì sẽ nhân cái lực đó mà phá hoại các khổ”. Người này quan sát rồi thì tham dục, sân nhuế, ngu si nhỏ yếu dần đi. Ðã thấy tham dục, sân nhuế, ngu si nhẹ rồi thì lòng người ấy vui mừng mà tác khởi ý nghĩ này: “Ta nay như vậy đều do lực nhân duyên tu đạo nên khiến cho ta được lìa khỏi pháp bất thiện, gần gũi pháp thiện. Vậy nên hiện tại được thấy chánh đạo thì cần phải siêng năng thêm mà tu tập đạo”. Người này nhân sức siêng tu đạo đó mà xa lìa vô lượng những phiền não ác và lìa khỏi quả báo địa ngục, súc sinh, ngã quỉ, người, trời. Vậy nên ở trong Khế kinh ta nói rằng, phải quan sát tất cả phiền não hữu lậu và nhân của hữu lậu. Vì sao vậy? Vì người có trí nếu chỉ quan sát lậu, chẳng quan sát nhân của lậu thì chẳng thể cắt đứt các phiền não. Vì sao vậy? Vì kẻ trí quan sát: “Lậu từ nhân này sinh ra, ta nay cắt đứt nhân thì lậu chẳng sinh ra!” Này thiện nam tử! Như vị thầy thuốc kia, trước cắt đứt nhân của bệnh thì bệnh chẳng sinh ra. Kẻ trí, trước cắt đứt nhân của phiền não thì cũng lại như vậy. Người có trí trước phải quan sát nhân, tiếp đến quan sát quả báo, biết từ nhân thiện sinh ra quả thiện, biết từ nhân ác sinh ra quả ác, quan sát quả báo rồi xa lìa nhân ác. Quan sát quả báo rồi lại phải tiếp đến quan sát sự nặng nhẹ của phiền não. Quan sát được nặng, nhẹ rồi thì trước lìa khỏi phiền não nặng. Ðã lìa khỏi nặng rồi thì phiền não nhẹ tự khử (tự tiêu mất). Này thiện nam tử! Người trí nếu biết phiền não, nhân của phiền não, quả của phiền não, phiền não nặng nhẹ thì người này lúc ấy, tinh cần tu đạo chẳng dừng chẳng hối, gần gũi bạn lành, hết lòng nghe pháp vì diệt các phiền não như vậy. Này thiện nam tử! Ví như người bệnh tự biết bệnh nhẹ thì nhất định có thể trừ khỏi, tuy được thuốc đắng nhưng uống vào chẳng hối. Người có trí cũng lại như vậy, siêng tu Thánh đạo, hoan hỷ, chẳng buồn, chẳng dừng chẳng hối. Này thiện nam tử! Nếu người có thể biết phiền não, nhân của phiền não, quả báo của phiền não, phiền não nhẹ nặng mà vì trừ phiền não nên siêng tu Thánh đạo thì người này chẳng từ phiền não sinh ra sắc và thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Nếu người chẳng thể biết phiền não, nhân của phiền não, quả báo của phiền não, phiền não nặng nhẹ nên chẳng siêng tu tập Thánh đạo thì người đó từ phiền não sinh ra sắc và thọ, tưởng, hành thức cũng lại như vậy. Này thiện nam tử! Người biết phiền não, nhân của phiền não, quả báo của phiền não, phiền não nặng nhẹ rồi vì cắt đứt phiền não mà tu hành Thánh đạo thì tức là Như Lai. Do nhân duyên này nên sắc của Như Lai thường… cho đến thức thường. Này thiện nam tử! Kẻ chẳng biết phiền não, nhân của phiền não, quả báo của phiền não và phiền não nặng nhẹ, chẳng tu tập đạo thì tức là phàm phu. Vậy nên sắc của phàm phu vô thường và thọ, tưởng, hành, thức đều là vô thường. Này thiện nam tử! Người trí của thế gian mà tất cả Thánh nhân, Bồ tát, chư Phật nói là hai nghĩa này. Ta cũng như vậy nói là hai nghĩa này. Vậy nên ta nói, chẳng cùng với người trí của thế gian chung tranh cãi, chẳng bị sự thấm bẩn của thế pháp. Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Như lời đức Phật nói, có ba thứ lậu thì sao gọi là dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu vậy?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Dục lậu là giác quán ác bên trong nhân với duyên bên ngoài sinh ra dục lậu. Vậy nên thuở trước, ta ở tại thành Vương Xá, bảo ông A Nan rằng: “Này A Nan! Ông nay hãy nhận lời nói kệ tụng của người con gái này! Bài kệ này chính là lời tuyên thuyết của các đức Phật đời quá khứ vậy. Vậy nên tất cả giác quán ác bên trong và các nhân duyên bên ngoài gọi là dục”. Ðó gọi là dục lậu. Hữu lậu là các ác pháp bên trong và các nhân duyên bên ngoài của Sắc giới và Vô sắc giới trừ các nhân duyên bên ngoài và các giác quán bên trong của Dục giới. Ðó gọi là hữu lậu. Vô minh lậu là chẳng thể rõ biết ngã và ngã sở, chẳng phân biệt trong ngoài thì gọi là Vô minh lậu. Này thiện nam tử! Vô minh tức là căn bản của tất cả các lậu. Vì sao vậy? Vì nhân vô minh của tất cả chúng sinh duyên với ấm, nhập, giới nhớ tưởng làm tướng gọi là chúng sinh. Ðó gọi là tướng đảo, tâm đảo, kiến đảo (điên đảo). Do nhân duyên này sinh ra tất cả lậu. Vậy nên ở mười hai bộ kinh, ta nói rằng, vô minh tức là nhân của tham, nhân của sân, nhân của si.
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Ðức Như Lai thuở trước, ở trong mười hai bộ Kinh, có nói rằng: “Chẳng khéo suy nghĩ nhân duyên sinh ra tham dục, sân, si”. Vì nhân duyên gì đến nay mới nói vô minh?
– Này thiện nam tử! Hai pháp như vậy giúp làm cho nhân quả giúp nhau tăng trưởng: Tư duy bất thiện sinh ra vô minh, nhân duyên vô minh sinh ra tư duy bất thiện. Này thiện nam tử! Những điều ấy có thể sinh trưởng các phiền não nên đều gọi là nhân duyên của phiền não. Thân cận nhân duyên phiền não như vậy thì gọi là vô minh tư duy bất thiện. Như hạt sinh ra mầm thì hạt là nhân gần, bốn đại là nhân xa, phiền não cũng vậy.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Như lời đức Phật nói, vô minh tức là lậu, thì sao lại nói rằng, nhân vô minh nên sinh ra các lậu?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Như lời ta nói, lậu của vô minh tức là nội vô minh. Nhân vào vô minh sinh ra các lậu tức là nhân nội ngoại. Nếu nói lậu của vô minh là gọi sự điên đảo ở bên trong, chẳng nhận thức được vô thường, khổ, không, vô ngã. Nếu nói là nhân duyên của tất cả phiền não thì đó gọi là chẳng biết ngã và ngã sở bên ngoài. Nếu nói lậu của vô minh thì đó gọi là vô thỉ vô chung, từ vô minh sinh ra ấm, nhập, giới.v.v…
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Như lời đức Phật nói, người có trí biết được nhân của lậu, thì sao gọi là biết được nhân của lậu?
– Này thiện nam tử! Người trí phải quan sát, vì nhân duyên gì mà sinh ra phiền não này? Tạo tác hạnh gì mà sinh ra phiền não này? Ở trong lúc nào mà sinh ra phiền não này? Khi ở chung với ai mà sinh ra phiền não này? Dừng trụ ở đâu mà sinh ra phiền não này? Quan sát việc gì rồi sinh ra phiền não? Thọ nhận phòng nhà, ngọa cụ, ẩm thực, y phục, thuốc thang của ai mà sinh ra phiền não? Vì nhân duyên gì nên chuyển từ hạ lên trung, chuyển từ trung lên thượng, từ hạ nghiệp lên trung, từ trung nghiệp lên thượng? Khi Ðại Bồ tát tác khởi sự quan sát này thì được sự xa lìa nhân duyên sinh ra lậu. Khi quan sát như vậy mà người chưa sinh phiền não thì ngăn chận khiến cho chẳng sinh, người đã sinh phiền não thì liền được trừ diệt. Vậy nên, ở trong Khế kinh, ta nói kẻ trí phải quan sát nhân sinh ra phiền não.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Chúng sinh có một thân thì làm sao có thể khởi đủ thứ phiền não?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Như trong một đồ vật đựng có đủ thứ hạt mà gặp được nước, mưa rồi thì mỗi mỗi đều tự mọc ra. Chúng sinh cũng vậy, đồ vật đựng tuy là một nhưng do nhân duyên ái mà có thể sinh trưởng đủ thứ phiền não.
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Kẻ trí làm sao quan sát được quả báo?
– Này thiện nam tử! Người trí phải quan sát: Các nhân duyên của lậu có thể sinh ra địa ngục, ngã quỉ, súc sinh; nhân duyên của lậu này được thân người, trời tức là vô thường, khổ, không, vô ngã; trong thân khí này bị ba thứ khổ, ba thứ vô thường; nhân duyên của lậu này có thể khiến cho chúng sinh tạo tác tội ngũ nghịch, thọ các ác báo, có thể cắt đứt căn lành, phạm bốn trọng cấm, bài báng Tam Bảo. Người trí phải quan sát: Ta đã thọ được thân như vậy thì chẳng nên sinh khởi những phiền não như vậy mà bị thọ các ác quả!
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Có quả Vô lậu mà ngài lại nói, kẻ trí đoạn trừ các quả báo thì quả vô lậu có ở trong sự đoạn trừ này không? Những người đắc đạo có quả vô lậu, cũng như kẻ trí ấy cầu quả Vô lậu thì làm sao đức Phật nói, tất cả kẻ trí nên đoạn trừ quả báo. Nếu người ấy đoạn thì các Thánh nhân hôm nay làm sao được có?
– Này thiện nam tử! Như Lai, hoặc khi trong nhân nói quả, trong quả nói nhân! Như người thế gian nói, bùn tức là bình, lụa tức là áo. Ðó gọi là trong nhân nói quả. Trong quả nói nhân thì như con trâu tức là nước cỏ, người tức là đồ ăn. Ta cũng như vậy, trong nhân nói quả. Ở trước, trong Kinh đã nói lời rằng: “Ta từ tâm thân đi đến biên giới của Phạm thiên”. Ðó gọi là trong nhân nói quả (?). Trong quả nói nhân thì như lục nhập này gọi là nghiệp quá khứ. Ðó gọi là trong quả nói nhân. Này thiện nam tử! Tất cả Thánh nhân chân thật không có quả báo Vô lậu. Quả báo tu đạo của tất cả Thánh nhân lại chẳng sinh ra lậu. Vậy nên gọi là quả báo vô lậu. Này thiện nam tử! Người có trí khi quan sát như vậy thì liền được quả báo phiền não tiêu diệt vĩnh viễn. Này thiện nam tử! Người trí quan sát rồi, vì đoạn trừ quả báo phiền não như vậy nên tu tập Thánh đạo. Thánh đạo tức là Không, Vô tướng, Vô nguyện. Tu đạo này rồi thì có thể diệt quả báo của tất cả phiền não.
*********
– Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Tất cả chúng sinh đều từ phiền não mà bị quả báo. Nói phiền não thì tức là gọi cái ác. Việc sinh ra phiền não từ phiền não ác cũng gọi là ác. Như vậy thì phiền não có hai thứ: Một là nhân, hai là quả. Nhân ác nên quả ác, quả ác nên chủng tử ác. Như trái cây Nhiệm Bà, hạt của nó đắng nên hoa, trái, thân, lá… tất cả đều đắng. Giống như cây độc thì hạt của nó độc nên trái cũng là độc. Nhân cũng chúng sinh, quả cũng chúng sinh, nhân cũng phiền não, quả cũng phiền não, nhân quả phiền não tức là chúng sinh, chúng sinh tức là nhân quả phiền não. Nếu từ nghĩa này thì làm sao đức Như Lai trước đây dụ rằng, núi Tuyết có cỏ độc cũng có vua thuốc vi diệu ? Nếu nói rằng, phiền não tức là chúng sinh, chúng sinh tức là phiền não thì làm sao mà nói rằng trong thân chúng sinh có vua thuốc vi diệu ?
Ðức Phật dạy rằng:
– Hay thay! Hay thay! Này thiện nam tử! Có vô lượng chúng sinh đều đồng với sự nghi ngờ này! Ông nay có thể vì họ trình bày và thỉnh cầu giảng giải! Ta cũng có thể cắt đứt sự nghi ngờ ấy! Ông hãy lắng nghe! Lắng nghe! Hãy suy nghĩ kỹ càng! Ta nay sẽ vì ông phân biệt giải nói! Này thiện nam tử! Dụ núi Tuyết tức là chúng sinh. Nói cỏ độc thì tức là phiền não. Vua thuốc vi diệu tức là phạm hạnh thanh tịnh. Này thiện nam tử! Nếu có chúng sinh có thể tu phạm hạnh thanh tịnh như vậy thì đó gọi là trong thân có vua thuốc vi diệu.
Ngài Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Sao gọi là chúng sinh có phạm hạnh thanh tịnh?
– Này thiện nam tử! Giống như thế gian từ hạt sinh ra trái, và quả này có thứ có thể cho hạt làm nhân hay có thứ chẳng thể cho. Có thứ có thể cho hạt làm nhân thì đó gọi là hạt của quả. Nếu trái chẳng thể cho hạt làm nhân thì chỉ được gọi là quả chẳng được gọi là hạt. Tất cả chúng sinh cũng lại như vậy, đều có hai thứ: Một là có quả phiền não là nhân của phiền não. Hai là có quả phiền não chẳng phải nhân của phiền não. Quả phiền não này chẳng phải nhân của phiền não thì đó gọi là phạm hạnh thanh tịnh.
Này thiện nam tử! Chúng sinh quan sát thọ biết được nhân gần của tất cả lậu gọi chung là nội ngoại lậu. Vì thọ nhân duyên nên chẳng thể đoạn tuyệt tất cả các lậu, cũng chẳng thể ra khỏi ngục tù ba cõi. Chúng sinh nhân thọ mà chấp trước ngã và ngã sở rồi sinh ra tâm điên đảo, tưởng điên đảo, kiến điên đảo. Vậy nên chúng sinh trước phải quan sát thọ. Như thọ này vì tất cả ái mà tạo tác nhân gần. Vậy nên kẻ trí muốn đoạn tuyệt thì phải trước quan sát thọ. Này thiện nam tử! Sở tác thiện ác của mười hai nhân duyên của tất cả chúng sinh đều nhân lúc thọ. Vậy nên ta vì A Nan nói rằng: “Này A Nan! Sở tác thiện ác của tất cả chúng sinh đều là khi thọ”. Vậy nên kẻ trí trước phải quan sát thọ! Ðã quan sát thọ rồi lại phải quan sát lại thọ như vậy là do nhân duyên nào sinh ra ? Nếu có nhân duyên sinh ra thì nhân duyên như vậy lại từ đâu sinh ra ? Nếu không nhân sinh ra thì vì sao chẳng sinh ra không thọ ? Lại quan sát thọ này chẳng nhân trời Tự Tại sinh, chẳng nhân sĩ phu sinh, chẳng nhân vi trần sinh, chẳng phải thời tiết sinh, chẳng nhân tưởng sinh, chẳng nhân tính sinh, chẳng từ tự sinh, chẳng từ người khác sinh, chẳng phải mình và người khác sinh, chẳng phải không nhân sinh. Thọ này đều từ duyên hợp mà sinh ra. Nhân duyên thì tức là ái vậy. Trong sự hòa hợp này chẳng phải có thọ, chẳng phải không thọ. Vậy nên ta phải cắt đứt sự hòa hợp này. Cắt đứt sự hòa hợp thì chẳng sinh ra thọ.
Này thiện nam tử! Người trí đã quan sát nhân rồi thì tiếp đến quan sát quả báo. Chúng sinh nhân thọ mà thọ địa ngục, ngã quỉ, súc sinh cho đến vô lượng khổ não của ba cõi. Nhân duyên thọ nên thọ niềm vui vô thường, nhân duyên thọ nên cắt đứt căn lành, nhân duyên thọ nên chứng được giải thoát. Khi tác khởi sự quan sát này thì chẳng tạo tác nhân của thọ. Sao gọi là chẳng tạo tác nhân của thọ ? Nghĩa là phân biệt thọ: những thọ nào có thể làm nhân của ái ? Những ái nào có thể làm nhân của thọ. Này thiện nam tử! Chúng sinh nếu có thể quan sát sâu như vậy về nhân của ái và nhân của thọ thì liền có thể đoạn tuyệt ngã và ngã sở. Này thiện nam tử! Nếu người có thể tác khởi những quan sát như vậy thì nên phân biệt ái cùng thọ diệt tại chỗ nào ? Rồi liền thấy ái thọ có chỗ diệt ít thì phải biết cũng nên có rốt ráo diệt. Bấy giờ liền đối với giải thoát sinh ra tin. Sinh ra lòng tin rồi thì chỗ giải thoát này do đâu mà được ? Biết là từ Bát chánh đạo thì tức thời liền tu tập. Sao gọi là Bát chánh đạo vậy? Ðạo này quan sát thọ có ba thứ tướng: Một là khổ, hai là lạc, ba là chẳng khổ chẳng lạc. Ba thứ như vậy đều có thể tăng trưởng thân cùng với tâm. Vì nhân duyên gì có thể tăng trưởng vậy ? Nhân duyên xúc vậy. Xúc này có ba thứ: Một là vô minh xúc, hai là minh xúc, ba là chẳng phải minh và vô minh xúc. Nói rằng Minh xúc thì tức là Bát chánh đạo. Hai xúc còn lại ấy tăng trưởng thân tâm và ba thứ thọ. Vậy nên ta nên đoạn tuyệt nhân duyên của hai xúc. Xúc đã cắt đứt thì chẳng sinh ra ba thọ. Này thiện nam tử! Như vậy thọ cũng là nhân, cũng gọi là quả. Người trí phải quan sát là cũng nhân, cũng quả. Sao gọi là nhân ? Nhân thọ mà sinh ra ái thì gọi đó là nhân. Sao gọi là quả ? Nhân xúc mà sinh ra nên gọi đó là quả. Vậy nên thọ này cũng là nhân, cũng là quả. Người trí quán thọ này như vậy rồi, tiếp đến lại quan sát ái thọ quả báo nên gọi đó là ái. Người trí quan sát ái lại có hai thứ: Một là tạp thực, hai là vô thực. Tạp thực ái là nhân sinh ra già, bệnh chết và tất cả các hữu. Vô thực ái là đoạn tuyệt sinh già bệnh chết và tất cả các hữu, tham đạo vô lậu. Người trí lại phải tác khởi ý niệm như vầy: “Nếu ta sinh ra Tạp thực ái này thì chẳng thể đoạn tuyệt sinh già bệnh chết. Ta nay tuy tham đạo vô lậu nhưng chẳng đoạn nhân của thọ thì chẳng thể được đạo quả vô lậu. Vậy nên cần phải trước đoạn trừ xúc này. Xúc đã đoạn rồi thì thọ tự diệt. Thọ đã diệt rồi thì ái cũng diệt theo”. Ðó gọi là Bát Chánh đạo.
Này thiện nam tử! Nếu có chúng sinh có thể quan sát như vậy thì tuy có thân độc (hại) nhưng trong thân ấy có vua thuốc vi diệu, như trong núi Tuyết tuy có cỏ độc nhưng cũng có diệu dược.
Này thiện nam tử! Như vậy chúng sinh tuy từ phiền não mà được quả báo, nhưng quả báo này chẳng lại vì phiền não làm nhân. Ðó gọi là phạm hạnh thanh tịnh.
Lại nữa, này thiện nam tử! Người trí phải quan sát hai việc thọ, ái do nhân duyên gì sinh ra ? Biết là nhân tưởng sinh ra. Vì sao vậy ? Vì chúng sinh thấy sắc cũng chẳng sinh tham và khi quan sát thọ cũng chẳng sinh ra tham. Nếu ở trong sắc sinh ra điên đảo tưởng, gọi sắc tức là Thường Lạc Ngã Tịnh, thọ là thường hằng không có biến dịch. Nhân điên đảo tưởng này sinh ra tham, sân, si. Vậy nên người trí cần phải quan sát tưởng. Quan sát tưởng như thế nào ? Phải tác khởi ý niệm này: “Tất cả chúng sinh chưa được chính đạo đều có điên đảo tưởng. Ðiên đảo tưởng là sao ? Là ở trong cái chẳng phải thường sinh ra thường tưởng, ở trong cái chẳng vui sinh ra lạc tưởng, ở trong cái chẳng phải tịnh sinh ra tịnh tưởng, ở trong không pháp sinh ra ngã tưởng, đối với chẳng phải trai gái, lớn nhỏ, ngày đêm, năm tháng, y phục, phòng xá, ngọa cụ…. sinh ra tư tưởng về nam nữ… cho đến ngọa cụ. Tưởng này có ba thứ, một là nhỏ, hai là lớn, ba là vô biên. Nhân duyên nhỏ nên sinh ra tưởng nhỏ, nhân duyên lớn nên sinh ra tưởng lớn, vô lượng nhân duyên nên sinh ra vô lượng tưởng. Lại có tiểu tưởng gọi là chưa vào định. Lại có đại tưởng gọi là đã vào định. Lại có vô lượng tưởng gọi là mười tất cả nhập. Lại có tiểu tưởng là gọi tất cả tưởng của Dục giới. Lại có đại tưởng là gọi tất cả tưởng của Sắc giới. Lại có vô lượng tưỏng là gọi tất cả tưởng của Vô sắc giới. Ba tưởng diệt thì thọ tự diệt. Tưởng, thọ diệt thì gọi là giải thoát.
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Diệt tất cả pháp gọi là giải thoát, đức Như Lai làm sao nói tưởng, thọ diệt gọi là giải thoát vậy?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Như Lai, hoặc khi nhân chúng sinh nói mà người nghe hiểu được pháp, hoặc khi nhân pháp nói với chúng sinh mà người nghe cũng giải nói cho chúng sinh. Sao gọi là nhân chúng sinh nói mà người nghe hiểu pháp ? Như ta trước vì ông Ca Diếp nói: “Này Ca Diếp! Khi chúng sinh diệt thì thiện pháp diệt. Ðó gọi là nhân chúng sinh nói, người nghe hiểu pháp. Sao gọi là nhân pháp nói với chúng sinh mà người nghe cũng giải nói với chúng sinh ? Như ta trước vì ông A Nan nói rằng: “Ta cũng chẳng nói thân cận tất cả pháp, cũng lại chẳng nói chẳng thân cận tất cả pháp. Nếu pháp gần rồi thì thiện pháp suy yếu, bất thiện pháp hưng thịnh. Pháp như vậy thì chẳng nên thân cận. Nếu pháp gần rồi thì bất thiện suy yếu, thiện pháp tăng trưởng. Pháp như vậy thì nên thân cận”. Ðó gọi là nhân pháp nói với chúng sinh mà người nghe cũng giải nói với chúng sinh. Này thiện nam tử! Như Lai tuy nói tưởng, thọ cả hai diệt thì đã nói thâu tóm tất cả có thể đoạn trừ. Người trí đã quan sát tưởng như vậy rồi tiếp đến quan sát tưởng căn. Vô lượng tưởng này nhân đâu mà sinh ra ? Biết là nhân xúc sinh ra. Xúc này có hai thứ: Một là nhân phiền não xúc, hai là nhân giải thoát xúc. Nhân vô minh sinh ra gọi là phiền não xúc. Nhân minh sinh ra thì gọi là giải thoát xúc. Nhân phiền não xúc sinh ra điên đảo tưởng. Nhân giải thoát xúc sinh ra bất đảo tưởng. Quan sát nhân của tưởng rồi, tiếp đến quan sát quả báo.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Nếu do nhân vào phiền não tưởng này sinh ra điên đảo tưởng thì tất cả Thánh nhân thật có điên đảo tưởng mà không có phiền não thì nghĩa này ra sao ?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Làm sao Thánh nhân mà có điên đảo tưởng?
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Tất cả Thánh nhân thì đối với trâu tác khởi ngưu tưởng và cũng nói là trâu, với ngựa tác khởi mã tưởng và cũng nói là ngựa, trai gái, lớn nhỏ, nhà cửa, xe cộ, đi lại cũng vậy. Ðó gọi là điên đảo tưởng!
– Này thiện nam tử! Tất cả phàm phu có hai thứ tưởng: Một là thế lưu bố tưởng, hai là trước tưởng. Tất cả Thánh nhân chỉ có Thế lưu bố tưởng (cái tưởng phổ biến ở thế gian) mà không có Trước tưởng (tưởng chấp trước). Tất cả phàm phu do giác quán ác nên đối với thế lưu bố tưởng sinh ra trước tưởng. Tất cả Thánh nhân do giác quán thiện nên đối với Thế lưu bố tưởng chẳng sinh ra Trước tưởng. Vậy nên phàm phu gọi là điên đảo tưởng. Bậc Thánh nhân tuy biết nhưng chẳng gọi là điên đảo tưởng. Người trí quan sát nhân của tưởng như vậy rồi tiếp đến quan sát quả báo. Quả báo ác tưởng này thọ ở tại trong địa ngục, ngã quỉ, súc sinh, người, trời. Như ta nhân cắt đứt giác quán ác nên vô minh xúc đoạn trừ. Vậy nên tưởng đoạn diệt. Nhân tưởng đoạn trừ nên quả báo cũng đoạn diệt. Kẻ trí vì đoạn trừ nhân của tưởng như vậy mà tu Bát Chánh đạo. Này thiện nam tử! Nếu có thể tác khởi sự quan sát như vậy thì được gọi là Phạm hạnh thanh tịnh. Này thiện nam tử! Trong thân độc của chúng sinh có vua thuốc vi diệu như trong núi Tuyết tuy có cỏ độc nhưng cũng có diệu dược.
Lại nữa, này thiện nam tử! Người trí quan sát dục mà dục thì tức là sắc, thanh, hương, vị, xúc. Này thiện nam tử! Tức là Như Lai, trong nhân nói quả, từ năm việc này sinh ra dục chứ thật chẳng phải dục vậy. Này thiện nam tử! Người ngu si tham cầu thọ dục đó. Ở trong sắc này sinh ra điên đảo tưởng… cho đến ở trong thức cũng sinh ra điên đảo tưởng. Nhân duyên điên đảo tưởng liền sinh ra thọ. Vậy nên thế gian nói, nhân điên đảo tưởng sinh ra mười thứ tưởng. Nhân duyên của dục nên ở tại thế gian thọ quả báo ác, dùng ác thêm với cha mẹ, sa môn, bà la môn.v.v… Việc chẳng nên làm mà làm chẳng tiếc thân mạng. Vậy nên kẻ trí quan sát nhân duyên ác tưởng này nên sinh ra dục tâm. Kẻ trí quan sát nhân của dục như vậy rồi tiếp đến quan sát quả báo. Dục này có nhiều những quả báo ác như là địa ngục, ngã quỉ, súc sinh, trong loài người, trên cõi trời. Ðó gọi là quan sát quả báo. Nếu tưởng ác đó được trừ diệt thì nhất định chẳng sinh ra lòng dục này. Không lòng dục nên chẳng thọ ác thọ. Không ác thọ thì không ác quả. Vậy nên ta nên trước đoạn trừ ác tưởng. Ðoạn ác tưởng rồi thì những pháp như vậy tự nhiên mà diệt. Vậy nên kẻ trí vì diệt ác tưởng nên tu Bát Chánh đạo. Ðó gọi là Phạm hạnh thanh tịnh. Ðó gọi là trong thân tộc của chúng sinh có vua diệu dược như trong núi Tuyết tuy có cỏ độc nhưng cũng có diệu dược.
Lại nữa, này thiện nam tử! Kẻ trí quan sát dục đó như vậy rồi tiếp đến phải quan sát nghiệp. Vì sao vậy ? Vì người có trí phải tác khởi ý niệm này: “Thọ, tưởng, xúc, dục tức là phiền não mà phiền não này có thể tạo tác sinh nghiệp, chẳng tạo tác thọ nghiệp. Như vậy phiền não cùng với nghiệp chung hành động thì có hai thứ: Một là tạo tác sinh nghiệp, hai là tạo tác thọ nghiệp. Vậy nên kẻ trí phải quan sát đến nghiệp. Nghiệp này có ba thứ là thân, miệng, ý. Này thiện nam tử! Thân, miệng hai nghiệp cũng gọi là nghiệp cũng gọi là nghiệp quả, còn ý chỉ gọi là nghiệp, chẳng gọi là nghiệp quả. Vì nhân của nghiệp nên gọi là nghiệp. Này thiện nam tử! Hai nghiệp thân và miệng gọi là ngoại nghiệp (nghiệp bên ngoài). Ý nghiệp gọi là nội nghiệp. Ba thứ nghiệp này chung với phiền não hành động nên tạo ra hai thứ nghiệp: Một là sinh nghiệp, hai là thọ nghiệp. Này thiện nam tử! Chính nghiệp tức là ý nghiệp. Kỳ nghiệp (nghiệp có kỳ hẹn) là gọi nghiệp thân và miệng. Phát ra trước nên gọi là ý nghiệp. Từ ý nghiệp sinh ra gọi là nghiệp thân và miệng. Vậy nên ý nghiệp được gọi là chính. Kẻ trí quan sát nghiệp rồi tiếp đến quan sát nhân của nghiệp. Nhân của nghiệp thì tức là vô minh xúc. Nhân vô minh xúc chúng sinh cầu có mà nhân duyên của cầu có tức là ái vậy. Ái nhân duyên nên tạo tác ba thứ nghiệp thân, miệng, ý. Này thiện nam tử! Kẻ trí quan sát nhân của nghiệp như vậy rồi, tiếp đến quan sát quả báo. Quả báo có bốn thứ: Một là đen thì quả báo đen, hai là trắng thì quả báo trắng, ba là tạp thì quả báo tạp, bốn là chẳng đen chẳng trắng thì quả báo chẳng đen chẳng trắng. Ðen quả báo đen là khi tạo tác nghiệp cấu bẩn thì quả báo cũng cấu bẩn. Trắng quả báo trắng là khi tạo tác nghiệp sạch thì quả báo cũng sạch. Tạp quả báo tạp là khi tạo tác nghiệp tạp thì quả báo cũng tạp. Chẳng trắng chẳng đen quả báo cũng chẳng trắng chẳng đen là gọi nghiệp vô lậu.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Trước nói vô lậu không có quả báo, nay sao nói rằng có quả báo chẳng trắng chẳng đen vậy ?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Nghĩa này có hai: Một là cũng quả cũng báo, hai là chỉ là quả chẳng phải là báo. Ðen thì quả báo đen cũng gọi là quả, cũng gọi là báo. Nhân của đen sinh ra nên được gọi là quả mà quả này có thể làm nhân nên lại gọi là báo. Tịnh, tạp cũng vậy. Quả vô lậu là nhân hữu lậu sinh ra nên gọi là quả mà chẳng làm nhân cho cái khác nên chẳng gọi là báo. Vậy nên gọi là quả mà chẳng gọi là báo.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Nghiệp vô lậu này chẳng phải là hắc pháp thì vì nhân duyên gì chẳng gọi là bạch (trắng).
– Này thiện nam tử! Không có báo nên chẳng gọi là bạch. Ðối trị với hắc nên gọi là bạch. Ta nay nếu nói thọ quả báo thì gọi hắc là đối với bạch. Nghiệp vô lậu này chẳng thọ báo nên chẳng gọi là bạch mà gọi là Tịch tịnh. Như vậy nghiệp là có quyết định chỗ thọ báo. Như mười ác pháp quyết định tại địa ngục, ngã quỉ, súc sinh; nghiệp mười thiện thì quyết định tại người và trời. Mười pháp bất thiện có thượng, trung, hạ. Nhân duyên thượng nên thọ thân địa ngục. Nhân duyên trung nên thọ thân súc sinh. Nhân duyên hạ nên thọ thân ngã quỉ. Nghiệp con người về mười thiện lại có bốn thứ: Một là hạ, hai là trung, ba là thượng, bốn là thượng thượng. Nhân duyên hạ nên sinh ra ở Uất Ðan Việt. Nhân duyên trung nên sinh ra ở Phất Bà Ðề. Nhân duyên thượng nên sinh ra ở Cù Ðà Ni. Nhân duyên thượng thượng nên sinh ra ở Diêm Phù Ðề. Người có trí tác khởi sự quan sát này rồi liền khởi ý niệm này: “Ta phải làm sao đoạn trừ quả báo này!” Lại tác khởi ý niệm này: “Nghiệp đó nhân duyên vô minh xúc sinh ra, ta nếu đoạn trừ vô minh cùng xúc thì như vậy nghiệp quả diệt, chẳng sinh ra!” Vậy nên kẻ trí vì đoạn trừ nhân duyên vô minh, xúc nên tu Bát Chánh đạo. Ðó thì gọi là Phạm hạnh thanh tịnh. Này thiện nam tử! Ðó gọi là trong thân độc của chúng sinh có vua diệu dược như trong núi Tuyết tuy có cỏ độc nhưng cũng có diệu dược.
Lại nữa, này thiện nam tử! Người trí quan sát nghiệp, quan sát phiền não rồi, tiếp đến quan sát hai quả báo sở đắc này. Hai quả báo này tức là khổ. Ðã biết là khổ thì có thể lìa bỏ tất cả thọ sinh. Người trí lại quan sát nhân duyên phiền não sinh ra phiền não, nhân duyên nghiệp cũng sinh ra phiền não, nhân duyên phiền não lại sinh ra nghiệp, nhân duyên nghiệp sinh ra khổ, nhân duyên khổ nên sinh ra phiền não, nhân duyên phiền não sinh ra hữu (có), nhân duyên hữu sinh ra khổ, nhân duyên hữu sinh ra hữu, nhân duyên hữu sinh ra nghiệp, nhân duyên nghiệp sinh ra phiền não, nhân duyên phiền não sinh ra khổ, nhân duyên khổ sinh ra khổ. Này thiện nam tử! Kẻ trí nếu có thể tác khởi sự quan sát như vậy thì phải biết người đó có thể quan sát nghiệp khổ. Vì sao vậy ? Vì sự quan sát như trên tức là sinh tử mười hai nhân duyên. Nếu người có thể quan sát sinh tử mười hai nhân duyên như vậy thì phải biết người đó chẳng tạo ra nghiệp mới, có thể phá hoại nghiệp cũ. Này thiện nam tử! Người có trí quan sát khổ của địa ngục. Quan sát từ một địa ngục cho đến một trăm ba mươi sáu chỗ. Mỗi một địa ngục có đủ thứ khổ mà đều là nhân duyên nghiệp phiền não sinh ra. Quan sát địa ngục rồi, tiếp đến quan sát khổ của ngã quỉ và súc sinh.v.v… Tác khởi sự quan sát này rồi, lại quan sát những khổ sở hữu của người và trời. Như vậy mọi thứ khổ đều từ nhân duyên nghiệp phiền não sinh ra. Này thiện nam tử! Trên trời tuy không có việc khổ não lớn nhưng thân thể mềm mại mịn màng ấy, khi thấy năm tướng suy xuất hiện thì chịu đựng khổ lớn như khổ địa ngục, không sai khác. Này thiện nam tử! Kẻ trí quan sát sâu những khổ của ba cõi đều từ nhân duyên nghiệp phiền não sinh ra. Này thiện nam tử! Ví như đồ vật bằng đất thô tức là dễ phá vỡ. Chúng sinh thọ thân cũng lại như vậy. Ðã thọ thân rồi tức là đồ chứa mọi khổ, ví như cây lớn hoa trái sum suê mà mọi loài chim có thể phá hoại, như cỏ khô lâu ngày thì chút lửa nhỏ có thể đốt cháy. Chúng sinh thọ thân bị sự phá hoại của khổ cũng lại như vậy. Này thiện nam tử! Kẻ trí nếu có thể quan sát khổ tám thứ như trong hạnh Thánh thì phải biết người đó có thể đoạn trừ mọi khổ.
Này thiện nam tử! Kẻ trí quan sát sâu tám khổ này, rồi tiếp đến quan sát nhân của khổ. Nhân của khổ tức là ái vô minh. Ái vô minh này thì có hai thứ: Một là cầu thân mạng, hai là cầu của cải. Cầu thân, cầu tài cả hai đều là khổ. Vậy nên phải biết ái vô minh, tức là nhân của khổ.
Này thiện nam tử! Ái vô minh này thì có hai thứ: Một là nội, hai là ngoại. Nội thì có thể tạo tác nghiệp, ngoại thì có thể làm tăng trưởng. Lại nữa, nội có thể tạo tác nghiệp, ngoại có thể tạo tác quả của nghiệp. Ðoạn nội ái rồi thì nghiệp được đoạn, đoạn ngoại ái rồi thì quả được đoạn. Nội ái có thể sinh ra khổ của đời vị lai. Ngoại ái có thể sinh ra khổ đời hiện tại. Kẻ trí quan sát ái tức là nhân của khổ. Ðã quan sát nhân của khổ rồi, tiếp đến quan sát quả báo của khổ. Quả báo của khổ tức là thủ, quả báo của ái gọi là thủ. Nhân duyên thủ này là nội ngoại ái mà ái thì có ái khổ.
Này thiện nam tử! Kẻ trí phải quan sát ái nhân duyên thủ, thủ nhân duyên ái. Nếu ta có thể cắt đứt hai việc ái và thủ thì chẳng tạo nghiệp mà thọ mọi sự khổ. Vậy nên kẻ trí vì đoạn thọ khổ nên tu Bát Chánh đạo. Này thiện nam tử! Nếu có người có thể quan sát như vậy thì đó gọi là Phạm hạnh thanh tịnh. Ðó gọi là trong thân độc của chúng sinh có vua thuốc vi diệu như trong núi Tuyết tuy có cỏ độc nhưng cũng có diệu dược.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Sao gọi là Phạm hạnh thanh tịnh ?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Tất cả pháp đó!
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Tất cả pháp thì nghĩa chẳng quyết định. Vì sao vậy ? Vì đức Như Lai, hoặc nói là thiện hay chẳng thiện, hoặc khi nói là bốn niệm xứ quán, hoặc nói là mười hai nhập, hoặc nói là thiện tri thức, hoặc nói là mười hai nhân duyên, hoặc nói là chúng sinh, hoặc nói là chính kiến hay tà kiến, hoặc nói là mười hai bộ kinh, hoặc nói là nhị đế… hôm nay đức Như Lai mới nói tất cả pháp là Phạm hạnh thanh tịnh thì cái gì đều là tất cả pháp vậy ?
Ðức Phật dạy rằng:
– Hay thay! Hay thay! Này thiện nam tử! Như vậy Kinh Ðại Niết Bàn vi diệu mới chính là Bảo tàng của tất cả thiện pháp. Ví như biển lớn chính kho tàng của mọi báu, kinh Niết Bàn này cũng lại như vậy, tức là kho tàng bí mật của tất cả chữ nghĩa.
Này thiện nam tử! Như núi Tu Di là căn bản của mọi thứ thuốc, kinh Niết Bàn này cũng vậy, tức là căn bản của giới (cấm) Bồ tát. Này thiện nam tử! Ví như hư không là chỗ trụ xứ của tất cả vật, kinh này cũng vậy, tức là trụ xứ của tất cả thiện pháp. Này thiện nam tử! Ví như gió mạnh không thể trói buộc mà hạnh của tất cả Bồ tát chính là Kinh thì cũng lại như vậy, chẳng bị sự trói buộc của tất cả pháp ác phiền não .Này thiện nam tử! Ví như Kim Cương không thể phá vỡ, Kinh này cũngvậy, tuy có người tà ác ngoại đạo nhưng chẳng thể phá hoại. Này thiện nam tử! Như cát của sông Hằng không thể tính thì nghĩa của Kinh này cũng lại như vậy, không thể tính.
Này thiện nam tử! Kinh điển này vì các Bồ tát mà làm pháp tràng như Ðế Thích tràng.
Này thiện nam tử! Kinh này tức là thương chủ đi đến thành Niết Bàn như vị thầy dẫn đường lớn dẫn các thương nhân đi về biển cả.
Này thiện nam tử! Kinh này có thể vì các Bồ tát.v.v… làm ánh sáng pháp như mặt trời mặt trăng của thế gian có thể phá các tối tăm.
Này thiện nam tử! Kinh này có thể vì chúng sinh bệnh khổ làm đại lương dược như vua thuốc vi diệu trong núi Hương có thể trị mọi bệnh.
Này thiện nam tử! Kinh này có thể là cây gậy của nhất xiển đề giống như người yếu nhờ gậy được đứng lên.
Này thiện nam tử! Kinh này có thể vì tất cả người ác mà làm cây cầu giống như cây cầu của đời có thể đi qua tất cả.
Này thiện nam tử! Kinh này có thể vì người đi trong ba cõi gặp phiền não nhiệt mà làm sự che mát như cái dù của thế gian ngăn che sức nóng của mặt trời.
Này thiện nam tử! Kinh này tức là vua đạo vô úy có thể hủy hoại của tất cả ma ác phiền não, như vua sư tử hàng phục mọi loài thú.
Này thiện nam tử! Kinh này tức là thầy đại thần chú có thể hoại tất cả ma quỉ phiền não như thầy thần chú của đời có thể trừ khử yêu quái. Này thiện nam tử! Kinh này tức là mưa đá vô thường có thể hoại tất cả quả báo sinh tử như mưa đá của đời phá hoại cây trái.
Này thiện nam tử! Kinh này có thể vì người hư con mắt giới (cấm) làm đại lương dược giống như thuốc An xà đà của thế gian trị lành bệnh đau mắt.
Này thiện nam tử! Kinh này có thể trụ tất cả thiện pháp như đất thế gian có thể trụ mọi vật.
Này thiện nam tử! Kinh này tức là gương sáng của chúng sinh hủy giới như gương soi của thế gian nhìn thấy các sắc tượng.
Này thiện nam tử! Kinh này có thể vì người không tàm quí mà làm y phục như áo quần của đời che đậy hình thể.
Này thiện nam tử! Kinh này có thể vì người nghèo thiện pháp làm của báu lớn như vị trời Công Ðức Lợi cho người nghèo.
Này thiện nam tử! Kinh này có thể vì chúng sinh khao khát pháp làm nước uống cam lồ như nước tám vị làm sung túc người khát.
Này thiện nam tử! Kinh này có thể vì người phiền não mà làm giường pháp, như người đời gặp được giường yên ổn.
Này thiện nam tử! Kinh này có thể vì Bồ tát sơ địa đến Bồ tát thập địa mà làm chuỗi ngọc, hương hoa, hương bột, hương đốt… chiếc xe đầy đủ chủng tính thanh tịnh hơn tất cả chỗ thọ diệu lạc của sáu Ba la mật như cây cây Ba Lợi Chất Ða của trời Ðao Lợi.
Này thiện nam tử! Kinh này tức là búa bén Kim Cương có thể chặt tất cả cây lớn phiền não, tức là dao bén có thể cắt đứt tập khí, tức là sức mạnh có thể tiêu diệt ma oán, tức là lửa trí đốt cháy củi phiền não, tức là kho nhân duyên tạo ra Phật Bích Chi, tức là Thanh Văn tạng sinh ra người Thanh Văn, tức là mắt của tất cả chư thiên, tức là chính đạo của tất cả mọi người, tức là chỗ nương cậy của tất cả loài súc sinh, tức là chỗ giải thoát của loài ngã quỉ, tức là đấng Vô Thượng Tôn của địa ngục, tức là vô thượng khí của tất cả chúng sinh trong mười phương, tức là cha mẹ của các đức Phật quá khứ, vị lai, hiện tại trong mười phương vậy.
Này thiện nam tử! Vậy nên kinh này nhiếp lấy tất cả pháp. Như lời ta trước đã nói, Kinh này tuy nhiếp lấy tất cả các pháp, nhưng ta nói, Phạm hạnh tức là ba mươi bảy pháp trợ đạo.
Này thiện nam tử! Như vậy nếu lìa ba mươi bảy phẩm thì nhất định chẳng thể được chính quả Thanh Văn… cho đến quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, chẳng thấy Phật tính và quả của Phật tính. Do nhân duyên này nên Phạm hạnh tức là ba mươi bảy phẩm. Vì sao vậy? Vì tính của ba mươi bảy phẩm chẳng phải điên đảo mà có thể hủy hoại điên đảo. Tính ấy chẳng phải ác kiến mà có thể hủy hoại ác kiến. Tính ấy chẳng phải bố úy mà có thể hủy hoại bố úy. Tính ấy chính là tịnh hạnh có thể khiến cho chúng sinh rốt ráo tạo tác Phạm hạnh thanh tịnh.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Pháp hữu lậu cũng lại có thể làm nhân của pháp vô lậu thì đức Như Lai vì sao chẳng nói hữu lậu là Phạm hạnh thanh tịnh. Này thiện nam tử! Tất cả hữu lậu tức là điên đảo. Vậy nên hữu lậu chẳng được gọi là Phạm hạnh thanh tịnh.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Ðệ nhất pháp thế gian chính là hữu lậu hay là vô lậu vậy ?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Chính là hữu lậu vậy!
– Thưa đức Thế Tôn! Tuy là hữu lậu nhưng tính chẳng phải điên đảo mà vì sao chẳng gọi là Phạm hạnh thanh tịnh ?
– Này thiện nam tử! Ðệ nhất pháp thế gian là nhân của vô lậu nên tựa như vô lậu, hướng về vô lậu nên chẳng gọi là điên đảo. Này thiện nam tử! Phạm hạnh thanh tịnh phát tâm nối tiếp nhau cho đến rốt ráo còn Ðệ nhất pháp của thế gian chỉ là một niệm. Vậy nên chẳng được gọi là Phạm hạnh thanh tịnh.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Năm thức của chúng sinh cũng là hữu lậu, chẳng phải là điên đảo, lại chẳng phải một niệm thì vì sao chẳng gọi là Phạm hạnh thanh tịnh ?
– Này thiện nam tử! Năm thức của chúng sinh tuy chẳng phải là một niệm nhưng là hữu lậu, lại là điên đảo, làm tăng thêm các lậu nên gọi là hữu lậu. Thể của nó chẳng phải chân thật, chấp trước tưởng nên điên đảo. Thế nào gọi là thể chẳng phải chân thật, chấp trước nên sanh điên đảo. Trong chẳng phải nam nữ sinh ra nam nữ tưởng… cho đến nhà cửa, xe cộ, cái bình, quần áo cũng lại như vậy. Ðó gọi là điên đảo. Này thiện nam tử! Tính của ba mươi bảy phẩm không điên đảo. Vậy nên được gọi là Phạm hạnh thanh tịnh. Này thiện nam tử! Nếu có Bồ tát đối với ba mươi bảy phẩm mà biết căn, biết nhân, biết nhiếp lấy, biết tăng thêm, biết chủ, biết đạo (dẫn đường), biết thắng, biết thật, biết rốt ráo thì như vậy Bồ tát được gọi là Phạm hạnh thanh tịnh.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Sao gọi là biết căn… cho đến biết rốt ráo ?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Hay thay! Hay thay! Bồ tát phát vấn vì hai việc: Một là vì sự hiểu biết của mình, hai là vì sự hiểu biết của người khác. Ông nay đã biết rồi, chỉ vì vô lượng chúng sinh chưa hiểu biết mà thỉnh ta bày tỏ việc này. Vậy nên ta nay một lần nữa khen ngợi ông! Hay thay! Hay thay! Này thiện nam tử! Căn bản của ba mươi bảy phẩm chính là Dục mà nhân gọi là minh xúc, nhiếp lấy gọi là thọ, tăng thêm gọi là thiện tư, chủ gọi là niệm, đạo gọi là định, thắng gọi là trí tuệ, thật gọi là giải thoát, rốt ráo gọi là Ðại Bát Niết Bàn. Này thiện nam tử! Thiện dục tức là bắt đầu phát tâm đạo cho đến căn bản của Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vậy nên ta nói dục là căn bản.
Này thiện nam tử! Như thế gian nói, tất cả khổ não thì ái là căn bản, tất cả bệnh tật thì ăn chính là căn bản, tất cả đoán sự thì đấu tranh là gốc, tất cả việc ác thì hư vọng là gốc.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Ðức Như Lai trước ở trong kinh này đã nói rằng, tất cả thiện pháp thì chẳng phóng dật là gốc, đến nay mới nói tới Dục là nghĩa làm sao ?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Nếu nói “sinh nhân” thì tức là thiện dục đó! Nếu nói “Liễu nhân” thì tức là chẳng phóng dật đó! Như thế gian nói tất cả quả thì hạt là nhân của quả ấy. Hoặc lại có nói hạt là sinh nhân, đất là liễu nhân. Nghĩa này cũng vậy.
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Ðức Như Lai, trước ở trong kinh khác nói ba mươi bảy phẩm thì Phật là căn bản là nghĩa làm sao ?
– Này thiện nam tử! Như Lai trước nói chúng sinh bắt đầu biết ba mươi bảy phẩm thì Phật chính là căn bản. Nếu tự chứng được thì dục là căn bản!
– Thưa đức Thế Tôn! Sao minh xúc gọi dục là nhân?
– Này thiện nam tử! Như Lai hoặc khi nói minh là tuệ hoặc nói là tín. Này thiện nam tử! Nhân duyên tín nên gần gũi bạn lành thì đó gọi là xúc. Nhân duyên gần gũi được nghe chính pháp thì đó gọi là xúc. Nhân nghe chính pháp mà thân miệng ý thanh tịnh thì đó gọi là xúc. Nhân ba nghiệp thanh tịnh nên thu hoạch được chánh mạng thì đó gọi là xúc. Nhân chánh mạng nên được căn giới thanh tịnh. Nhân tịnh căn giới nên ưa chỗ tịch tịnh. Nhân ưa tịch tịnh nên có thể thiện tư duy. Nhân thiện tư duy nên được đúng như pháp trụ. Nhân đúng như pháp trụ nên được ba mươi bảy phẩm, có thể hoại phá vô lượng những phiền não ác. Ðó gọi là xúc. Này thiện nam tử! Thọ gọi là nhiếp lấy. Khi chúng sinh thọ thì có thể tạo tác thiện hay ác. Vậy nên gọi thọ là nhiếp lấy vậy. Này thiện nam tử! Nhân duyên thọ nên sinh ra các phiền não mà ba mươi bảy phẩm có thể phá hoại. Vậy nên gọi thọ là nhiếp lấy. Nhân thiện tư duy có thể phá phiền não. Vậy nên gọi là tăng thêm. Vì sao vậy ? Vì siêng tu tập nên được ba mươi bảy phẩm như vậy.v.v… Nếu quán có thể phá các phiền não ác thì cần nhờ vào chuyên niệm. Vậy nên lấy niệm làm chủ. Như trong thế gian, tất cả bốn binh chủng đều theo ý của chủ tướng. Ba mươi bảy phẩm cũng lại như vậy, đều theo niệm chủ.
Này thiện nam tử! Ðã vào định rồi, ba mươi bảy phẩm có thể giỏi phân biệt tất cả pháp tướng. Vậy nên lấy định làm dẫn đường. Ba mươi bảy phẩm này phân biệt pháp tướng thì trí là tối thắng. Vậy nên lấy tuệ làm thắng. Như vậy trí tuệ biết phiền não rồi thì nhờ lực trí tuệ nên phiền não tiêu diệt. Như trong thế gian, bốn binh phá hoại oán tặc, hoặc một, hoặc hai người dũng kiện có thể phá. Ba mươi bảy phẩm cũng lại như vậy, lực trí tuệ có thể phá hoại phiền não. Vậy nên dùng tuệ làm thắng.
Này thiện nam tử! Tuy nhân tu tập ba mươi bảy phẩm chứng được tứ thiền thần thông an lạc nhưng cũng chẳng gọi là Thật. Nếu khi phá hoại phiền não chứng được giải thoát thì mới gọi là Thật. Nhân ba mươi bảy phẩm này phát tâm tu đạo tuy dược thế lạc và xuất thế lạc, bốn quả Sa môn và cả Giải thoát nhưng cũng chẳng được gọi là rốt ráo. Nếu có thể đoạn trừ việc sở hành của ba mươi bảy phẩm thì đó gọi là Niết Bàn. Vậy nên ta nói rằng rốt ráo thì tức là Ðại Niết Bàn.
Lại nữa, này thiện nam tử! Lòng ái niệm thiện tức là dục vậy. Nhân ái niệm thiện mà gần gũi bạn lành nên gọi là xúc. Ðó gọi là nhân. Nhân gần gũi bạn lành nên gọi là thọ. Ðó gọi là nhiếp lấy. Nhân gần gũi bạn lành có thể thiện tư duy nên gọi là tăng thêm. Nhân bốn pháp này có thể sinh trưởng đạo như là dục, niệm, định trí. Ðó tức gọi là chủ, đạo, thắng vậy. Nhân ba pháp này được hai giải thoát, đoạn trừ ái nên được tâm giải thoát, cắt đứt vô minh nên được tuệ giải thoát. Ðó gọi là thật. Như vậy tám pháp rốt ráo được quả gọi là Niết Bàn nên gọi là rốt ráo.
Lại nữa, này thiện nam tử! Dục tức là phát tâm xuất gia, Xúc tức là bạch bốn yết ma. Ðó gọi là nhân. Nhiếp tức là thọ hai thứ giới: Một là Ba la đề mộc xoa giới, hai là tịnh căn giới. Ðó gọi là thọ. Ðó gọi là nhiếp lấy. Tăng thêm tức là tu tập bốn thiền, chủ tức là quả Tu đà hoàn, quả Tư đà hàm, đạo tức là quả A na hàm, thắng tức là quả A la hán, thật tức là quả Bích Chi Phật, rốt ráo tức là quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Lại nữa, này thiện nam tử! Dục gọi là thức, xúc gọi là lục nhập, nhiếp gọi là thọ, tăng thêm gọi là vô minh, chủ gọi là danh sắc, đạo gọi là ái, thắng gọi là thủ, thật gọi là hữu, rốt ráo gọi là sinh già bệnh chết.
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Căn bản nhân, tăng thêm ba pháp như vậy làm sao có khác? Này thiện nam tử! Cái gọi là căn tức là mới phát, nhân tức là tương tợ chẳng đoạn, tăng thêm tức là diệt tướng tợ rồi có thể sinh ra tương tợ.
Lại nữa, này thiện nam tử! Căn tức là tác, nhân tức là quả, tăng thêm tức là có thể dùng. Này thiện nam tử! Ðời vị lai tuy có quả báo nhưng do chưa thọ nên gọi là nhân và khi thọ quả ấy thì đó gọi là tăng thêm.
Lại nữa, này thiện nam tử! Căn tức là cầu, được tức là nhân, dùng tức là tăng thêm. Này thiện nam tử! Trong Kinh này thì căn tức là thấy đạo, nhân tức là tu đạo, tăng thêm tức là đạo vô học.
Lại nữa, này thiện nam tử! Căn tức là chánh nhân, nhân tức là phương tiện nhân. Từ hai nhân này thu hoạch được quả báo gọi là tăng trưởng.
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Như lời đức Phật nói, rốt ráo tức là Niết Bàn. Như vậy Niết Bàn làm sao có thể được ?
– Này thiện nam tử! Nếu Ðại Bồ tát, Tỳkheo, Tỳkheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di có thể tu mười tưởng thì phải biết người đó có thể được Niết Bàn. Những gì là mười tưởng ? Một là vô thường tưởng. Hai là khổ tưởng. Ba là vô ngã tưởng. Bốn là yểm ly thực tưởng. Năm là tưởng tất cả thế gian chẳng thể vui. Sáu là tử (chết) tưởng. Bảy là tưởng nhiều tội lỗi. Tám là ly (lìa) tưởng. Chín là diệt tưởng. Mười là vô ái tưởng. Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát, Tỳkheo, Tỳkheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di tu tập mười thứ tưởng như vậy thì người đó rốt ráo quyết định được Niết Bàn, chẳng theo lòng người khác mà tự có thể phân biệt thiện hay bất thiện.v.v… Ðó gọi là chân thật xứng với nghĩa của Tỳkheo… cho đến được xứng với nghĩa của Ưu bà di.
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Sao gọi là Bồ tát … cho đến Ưu bà di.v.v… tu vô thường tưởng ?
Này thiện nam tử! Bồ tát có hai thứ: Một là mới phát tâm, hai là đã hành đạo. Vô thưởng tưởng cũng lại có hai thứ: Một là thô, hai là tế (nhỏ). Bồ tát mới phát tâm khi quan sát được vô thường tưởng tác khởi suy nghĩ này: “Vật của thế gian có hai thứ, một là nội, hai là ngoại. Như vậy nội vật vô thường biến dị. Ta thấy lúc sinh, lúc nhỏ, lúc lớn, lúc trai trẻ, lúc già lão, lúc chết… những thời tiết này mỗi mỗi đều chẳng đồng. Vậy nên phải biết nội vật vô thường”. Bồ tát lại khởi ý niệm này: “Ta thấy chúng sinh, hoặc có người béo tốt, đầy đủ sắc lực, đi lại tiến dừng tự tại không trở ngại. Hoặc thấy bệnh khổ, sắc lực tiều tụy, nhan mạo hao tổn, chẳng được tự tại. Hoặc thấy của cải giàu có, kho tàng đầy ắp. Hoặc thấy nghèo cùng, đụng việc thì thiếu thốn. Hoặc thấy thành tựu vô lượng công đức. Hoặc thấy đầy đủ vô lượng pháp ác…. Vậy nên quyết định biết nội pháp vô thường”. Bồ tát lại quan sát ngoại pháp: Khi hạt, khi mầm, khi thân, khi lá, khi hoa, khi quả… như vậy những thời tiết mỗi mỗi đều chẳng đồng. Như vậy ngoại pháp hoặc có đầy đủ, hoặc chẳng đầy đủ. Vậy nên phải biết tất cả ngoại vật quyết định là vô thường. Ðã quan sát thấy pháp là vô thường rồi thì lại quan sát pháp nghe: Ta nghe chư thiên thành tựu đầy đủ khoái lạc cực diệu, thần thông tự tại mà cũng có năm tướng. Vậy nên phải biết tức là vô thường. Lại nghe kiếp ban đầu có các chúng sinh, mỗi mỗi đều đầy đủ công đức thượng diệu, ánh sáng thân tự chiếu soi chẳng nhờ mặt trời, mặt trăng. Nhưng do lúc vô thường nên ánh sáng diệt, đức tổn. Lại nghe: Ngày xưa có vị Chuyển Luân Thánh Vương thống lĩnh bốn thiên hạ, thành tựu bảy báu, được đại tự tại nhưng mà chẳng thể phá hoại tướng vô thường. Bồ tát lại quan sát đại địa: Thuở xưa, là chỗ yên, bố trí vô lượng chúng sinh, vùng không chỗ trống như vừng bánh xe, sinh trưởng đầy đủ tất cả diệu dược, rừng rậm, cây cối hoa trái sum suê. Nhưng chúng sinh bạc phước khiến cho đại địa này không còn thế lực, vật sở sinh trở nên hư hao. Vậy nên phải biết pháp trong ngoài, tất cả vô thường. Ðó thì gọi là thô vô thường vậy. Ðã quan sát thô rồi thì Bồ tát tiếp đến quan sát tế. Sao gọi tế ? Ðại Bồ tát quan sát tất cả vật nội ngoại cho đến vi trần ở tại thời vị lai đã là vô thường. Vì sao vậy ? Vì thành tựu đầy đủ tướng phá hoại. Nếu sắc vị lai vô thường thì chẳng được nói rằng, sắc có mười thời sai khác. Nhnữg gì là mười? Một là mô thời, hai là bào thời, ba là bào thai thời, bốn là nhục đoàn thời, năm là chi thời, sáu là anh hài thời, bảy là đồng tử thời, tám là thiếu niên thời, chín là thạnh tráng thời, mười là suy lão thời. Bồ tát quan sát mô, nếu chẳng phải vô thường thì chẳng nên đến bào… cho đến thạnh tráng nên chẳng phải vô thường thì nhất định chẳng đến lão. Nếu những thời đó chẳng phải từng niệm từng niệm diệt thì nhất định chẳng lớn dần mà nên phải một lúc trở thành lớn đầy đủ. Do việc này vậy nên phải biết là quyết định có từng niệm từng niệm vi tế vô thường. Lại thấy có người với các căn đầy đủ, nhan mạo rực rỡ mà về sau thấy khô khốc tiều tụy, lại tác khởi ý niệm này: “Người đó quyết định có từng niệm từng niệm vô thường”. Lại quan sát bốn đại và bốn oai nghi, lại quan sát trong ngoài đều có hai nhân của khổ là đói khát, nóng lạnh, lại quan sát là bốn. Nếu không niệm vi tế vô thường thì cũng chẳng thể được nói bốn khổ như vậy. Nếu có Bồ tát có thể tác khởi ý niệm này thì đó gọi là Bồ tát quan sát tế vô thường. Như nội ngoại sắc, tâm pháp cũng vậy. Vì sao vậy ? Vì hành lục xứ. Khi hành lục xứ thì hoặc sinh ra hỷ tâm, hoặc sinh ra sân tâm, hoặc sinh ra ái tâm, hoặc sinh ra tham tâm… lần lượt sinh ra khác, chẳng được một thứ. Vậy nên phải biết, tất cả sắc pháp và chẳng phải sắc pháp đều là vô thường. Này thiện nam tử! Bồ tát nếu có thể ở trong một niệm thấy tất cả pháp sinh diệt vô thường thì đó gọi là Bồ tát đủ vô thường tưởng. Này thiện nam tử! Kẻ trí tu tập vô thường tưởng rồi thì xa lìa thường mạn, thường đảo, tưởng đảo.
Tiếp đến tu khổ tướng. Vì nhân duyên gì nên có khổ như vậy ? Biết sâu khổ này nhân ở vô thường. Nhân vô thường nên thọ sinh, già, bệnh, chết. Sinh già bệnh chết nhân duyên nên gọi là vô thường. Vô thường nhân duyên nên thọ nội ngoại khổ. Ðói khát, nóng lạnh, đánh đập, nhục mạ.v.v…. những khổ như vậy đều nhân vô thường. Lại nữa, kẻ trí quan sát sâu thân này tức là đồ đựng vô thường. Ðồ đựng vô thường tức là khổ. Do đồ đựng khổ nên pháp được chứa đựng cũng lại là khổ. Này thiện nam tử! Kẻ trí lại quan sát, sinh tức là khổ, diệt tức là khổ. Khổ sinh diệt nên tức là vô thường, chẳng phải ngã và ngã sở, tu vô ngã tưởng. Kẻ trí lại quan sát khổ tức là vô thường, vô thường tức là khổ. Nếu khổ vô thường thì người trí làm sao nói rằng, có ngã ? Khổ chẳng phải là ngã,vô thường cũng vậy. Như vậy năm ấm cũng khổ vô thường thì chúng sinh làm sao nói rằng có ngã ? Lại nữa, quan sát tất cả pháp có hòa hợp khác, chẳng từ một hòa hợp sinh ra tất cả pháp, cũng chẳng phải một pháp là quả của tất cả hòa hợp. Tất cả hòa hợp đều không tự tính, cũng không một tính, cũng không tính khác, cũng không tính của vật, cũng không tự tại. Các pháp nếu có những tưởng như vậy thì người trí làm sao nói rằng có ngã. Lại tác khởi ý niệm này: Trong tất cả pháp không có một pháp có thể làm tác giả. Nếu giả sử một pháp chẳng thể làm thì mọi pháp hòa hợp cũng chẳng thể làm. Tính của tất cả các pháp nhất định chẳng thể một mình sinh một mình diệt mà hòa hợp nên diệt, hòa hợp nên sinh. Pháp này sinh ra rồi thì chúng sinh điên đảo tưởng nói rằng, hòa hợp này từ hòa hợp sinh ra. Tưởng của chúng sinh điên đảo, không có chân thật thì làm sao mà có ngã chân thật được ? Vậy nên kẻ trí quan sát vô ngã. Lại nữa, quan sát kỹ càng vì nhân duyên gì mà chúng sinh nói có ngã ? Ngã này nếu có thì nên một hay nên nhiều ? Ngã nếu một thì làm sao mà có Sát lợi, Bà la môn, Tỳ xá, Thủ đà, người, trời, địa ngục, ngã quỉ, súc sinh, lớn nhỏ, già trẻ…. vậy nên biết ngã chẳng phải là một. Ngã nếu nhiều thì làm sao nói rằng, ngã của chúng sinh là một, là khắp cùng, không có bờ cõi. Hoặc một, hoặc nhiều cả hai đều không có ngã.
Người trí quan sát vô ngã như vậy rồi, tiếp đến lại quan sát yếm ly thực tưởng, Bồ tát khởi ý niệm rằng: “Nếu tất cả pháp vô thường, khổ, không, vô ngã thì làm sao thực (ăn) khởi lên ba thứ nghiệp ác của thân miệng ý ? Nếu có chúng sinh vì tham ăn nên khởi lên ba thứ nghiệp ác của thân miệng ý thì việc được của cải mọi người đều chung được đó, nhưng về sau chịu quả báo khổ thì không chung phần”. Này thiện nam tử! Kẻ trí lại quan sát tất cả chúng sinh vì ăn uống nên thân tâm chịu khổ. Nếu từ mọi khổ mà được ăn thì ta phải làm sao ở trong ăn này mà sinh ra tham trước? Vậy nên đối với cái ăn chẳng sinh ra lòng tham. Lại nữa, kẻ trí phải quan sát, nhân ăn uống mà thân được tăng trưởng, ta nay xuất gia, thọ giới, tu đạo vì muốn xả thân, nhưng nay tham cái ăn này thì làm sao sẽ được xả thân này vậy? Quán như vậy rồi, tuy lại thọ ăn giống như quỉ Khoáng Dã ăn thịt của con mình, nhưng lòng người ấy chán ghét đều thấy chẳng ngon lành. Quan sát sâu đoàn thực có lỗi như vậy. Tiếp đến quan sát xúc thực như trâu bị mỗ bị vô lượng trùng bu ăn. Tiếp đến quan sát tư thực như đám lửa lớn, thức thực giống như ba trăm cái dùi, cái mâu. Này thiện nam tử! Người trí quan sát bốn thứ ăn như vậy rồi thì đối với ăn nhất định chẳng sinh tham lạc tưởng. Nếu còn sinh tham thì phải quán bất tịnh. Vì sao vậy? Vì lìa khỏi tham ái nên đối với tất cả loại ăn giỏi có thể phân biệt tưởng bất tịnh, tùy theo các bất tịnh mà khiến cho cùng tương tợ. Quán như vậy rồi, nếu được đồ ăn ngon và cả đồ ăn dở thì khi thọ giống như bôi thuốc lên ung nhọt, nhất định chẳng sinh ra lòng tham ái. Này thiện nam tử! Kẻ trí nếu có thể quan sát như vậy thì đó gọi là thành tựu được yếm ly thực tưởng.
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Kẻ trí quan sát ăn tạo tác bất tịnh tưởng là chính là quán chân thật hay quán hư giải vậy ? Nếu chính là quan sát chân thật thì cái ăn được quan sát thật chẳng phải bất tịnh. Nếu chính là hư giải thì pháp đó sao gọi là thiện tưởng.
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Người quan sát như vậy cũng là thực quán, cũg là hư giải. Có thể phá hoại được lòng tham ăn nên gọi là thật. Chẳng phải là trùng mà thấy trùng nên gọi là hư giải. Này thiện nam tử! Tất cả hữu lậu đều gọi là hư mà cũng có thể được thật. Này thiện nam tử! Nếu có Tỳkheo phát tâm xin ăn mà tác khởi ý niệm rằng: “Ta sẽ xin ăn, nguyện được của ngon, chớ được đồ thô ác! Nguyện ắt được nhiều, chứ khiến cho ít quá! Cũng nguyện cho mau được chớ khiến cho chậm trễ!” Tỳkheo như vậy chẳng gọi là đối với ăn được tư tưởng chán lìa mà việc tu tập pháp thiện ngày đêm hao suy, pháp bất thiện sẽ tăng trưởng dần.
Này thiện nam tử! Nếu có Tỳkheo khi muốn xin ăn thì trước phải nguyện rằng: “Nguyện cho những người xin ăn đều được no đủ và người cho đồ ăn kia được phước không lường. Ta nếu được ăn là để trị liệu thân độc hại, tu tập pháp lành, lợi ích cho thí chủ”. Khi tác khởi nguyện này thì sự tu hành thiện pháp ngày đêm tăng trưởng, pháp bất thiện sẽ tiêu diệt dần. Này thiện nam tử! Nếu có Tỳkheo có thể tu như vậy thì phải biết người đó chẳng ăn của luống dối đối với tín thí nơi trung tâm quốc gia.
Này thiện nam tử! Kẻ trí đầy đủ bốn tưởng như vậy thì có thể tu thế gian bất khả lạc tưởng (tư tưởng thế gian chẳng thể vui). Kẻ trí tác khởi ý niệm này: “Tất cả thế gian không chỗ nào chẳng có sinh, lão, bệnh, tử, mà thân người của ta không chỗ nào chẳng sinh ra. Nếu trong thế gian không có một chỗ sẽ được lìa khỏi sinh già bệnh chết thì ta sẽ làm sao mà vui với thế gian. Tất cả thế gian không có gì tiến được mà chẳng lùi mất. Vậy nên thế gian quyết định vô thường. Nếu là vô thường thì làm sao mà kẻ trí vui với đời được? Mỗi một chúng sinh trải qua cùng khắp tất cả thế gian thọ đủ khổ vui. Tuy lại được thọ thân Phạm thiên cho đến trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, nhưng mạng chung rồi trở lại rơi vào trong ba đường ác. Tuy làm thân Tứ Thiên Vương cho đến thân trời Tha Hóa Tự Tại, nhưng khi mạng chung rồi sinh ra trong đường súc sinh, hoặc làm sư tử, hổ báo, sài lang, voi ngựa, trâu lừa. Tiếp đến Bồ tát quan sát thân của Chuyển Luân Thánh Vương, thống lĩnh bốn thiên hạ, giàu sang tự tại, nhưng khi phước hết nghèo cùng khốn khó, ăn mặc chẳng cung cấp đủ. Người trí quan sát sâu những việc như vậy rồi thì thấy sinh ra ở thế gian chẳng thể lạc tưởng. Kẻ trí quan sát hữu pháp của thế gian như là nhà cửa, quần áo, ăn uống, ngọa cụ, thuốc thang, hương hoa, chuỗi ngọc, đủ thứ kỹ nhạc, của cải, vật báu… Những việc như vậy đều vì để lìa khỏi khổ mà những vật thể đó tức là khổ thì làm sao dùng khổ mà muốn lìa khỏi khổ ?
Này thiện nam tử! Người trí quan sát như vậy rồi thì đối với vật của thế gian chẳng sinh ra ái lạc mà tạo tác lạc tưởng.
Này thiện nam tử! Ví như có người thân mắc bệnh nặng, tuy có đủ thứ âm nhạc, xướng kỹ, hương hoa, chuỗi ngọc… nhưng nhất định không đối với những vật ấy sinh ra tham ái lạc. Người trí quan sát rồi cũng lại như vậy.
Này thiện nam tử! Người trí quan sát sâu, tất cả thế gian chẳng phải chỗ qui y, chẳng phải chỗ giải thoát, chẳng phải chỗ tịch tịnh, chẳng phải chỗ khả ái, chẳng phải chỗ bờ kia, chẳng phải pháp Thường Lạc Ngã Tịnh…. Nếu ta tham lạc thế gian như vậy thì ta làm sao được lìa khỏi pháp đó. Như người chẳng ưa chỗ tối tăm mà cầu ánh sáng, lại trở lại về với tối tăm. Tối tăm tức là thế gian, ánh sáng tức là xuất thế gian. Nếu ta ưa thế gian thì tăng trưởng tối tăm, xa lìa ánh sáng. Tối tức là vô minh, ánh sáng tức là trí minh (trí sáng). Nhân của trí minh này tức là thế gian bất khả lạc tưởng. Tất cả tham kết tuy là ràng buộc nhưng hôm nay tham đối với trí minh thì chẳng tham thế gian. Kẻ trí quan sát sâu pháp như vậy rồi thì đầy đủ thế gian bất khả lạc tưởng.
Này thiện nam tử! Người có trí đã tu tập Thế gian bất khả lạc tưởng rồi, tiếp đến tu tử tưởng (tư tưởng chết). Quan sát thọ mạng này thường bị sự nhiễu hại của vô lượng oán thù, từng niệm từng niệm tổn giảm, không có tăng trưởng giống như nước chảy xiết từ núi xuống chẳng được trụ dừng, cũng như móc buổi sớm thế chẳng dừng lâu, như người tù dẫn đến chợ mỗi bước mỗi bước gần với cái chết, như dắt trâu, dê đi đến chỗ giết thịt.
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Làm sao kẻ trí quan sát từng niệm từng niệm diệt ?
– Này thiện nam tử! Ví như bốn người đều giỏi thuật bắn tên tụ lại ở một chỗ, đều bắn về một phương, đều tác khởi ý niệm này: “Bốn người chúng ta đều phát ra, đều rơi xuống!” Lại có một người tác khởi ý niệm rằng: “Như vậy bốn mũi tên kịp khi chúng chưa rơi xuống, ta có thể cùng một lúc dùng tay bắt lấy hết!” Này thiện nam tử! Người như vậy có thể nói là nhanh không ?
Bồ tát Ca Diếp bạch rằng:
– Ðúng vậy! Thưa đức Thế Tôn!
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Quỉ địa hành nhanh lại là nhanh hơn người, có quỉ phi hành lại nhanh hơn quỉ địa hành, nhanh của Tứ Thiên Vương lại nhanh hơi quỉ phi hành, thiên thần mặt trời mặt trăng lại nhanh hơn bốn vua trời, Hành Kiên thiên lại nhanh hơn mặt trời mặt trăng. Thọ mạng của chúng sinh lại nhanh hơn trời Kiên Tật. Này thiện nam tử! Một hơi thở, một nháy mắt mà thọ mạng của chúng sinh bốn trăm lần sinh diệt. Kẻ trí nếu có thể quan sát mạng như vậy thì đó gọi là có thể quan sát niệm niệm sinh diệt vậy. Này thiện nam tử! Kẻ trí quan sát mạng hệ thuộc tử vương (vua thần chết): Ta nếu có thể lìa khỏi tử vương như vậy thì được vĩnh viễn đoạn trừ thọ mạng vô thường. Lại nữa, kẻ trí quan sát thọ mạng này giống như bờ sông đến cây lớn cao vút, cũng như có người tạo tội đại nghịch và người ấy chịu tội chết không ai thương tiếc, như khi vua sư tử đói khát cùng khốn, cũng như khi độc xà hút gió lửa, giống như con ngựa khát hộ tiếc nước, như con ác quỉ lớn khi sân nhuế phát khởi, vua chết của chúng sinh cũng lại như vậy. Này thiện nam tử! Kẻ trí nếu có thể tạo tác sự quan sát như vậy thì đó gọi là tu tập tử tưởng. Này thiện nam tử! Kẻ trí lại quan sát: Ta nay xuất gia, giả sử được thọ mạng, bảy ngày bảy đêm thì ta sẽ ở trong thời gian đó, tinh cần tu đạo, hộ trì cấm giới, nói pháp giáo hóa lợi ích cho chúng sinh. Ðó gọi là kẻ trí tu tử tưởng. Lại cho dùng bảy ngày bảy đêm là nhiều thì nếu được sáu ngày, năm ngày, bốn ngày, ba ngày, hai ngày, một ngày, một giờ… cho đến khoảnh khắc thở hít vào… ta cũng sẽ ở trong thời gian đó tinh cần tu đạo, hộ trì cấm giới, nói pháp giáo hóa lợi ích chúng sinh. Ðó gọi là kẻ trí giỏi tu tử tưởng. Kẻ trí đầy đủ sáu tưởng như trên thì liền được bảy tưởng nhân. Những gì là bảy ? Một là thường tu tưởng. Hai là ưa tu tưởng. Ba là vô sân tưởng. Bốn là vô tật đố tưởng. Năm là thiện nguyện tưởng. Sáu là vô mạn tưởng. Bảy là Tam muội tự tại tưởng. Này thiện nam tử! Nếu có Tỳkheo đầy đủ bảy tưởng thì đó gọi là Sa môn, gọi là Bà la môn, đó gọi là tịch tịnh, đó gọi là tịnh khiết, đó gọi là giải thoát, đó gọi là người trí, đó gọi là chính kiến, gọi là đến bờ kia, gọi là Ðại y vương, đó là đại thương chủ, đó gọi là giỏi hiểu bí mật của Như Lai. Tỳkheo này cũng biết bảy thứ lời nói của chư Phật, gọi là chánh kiến, biết đoạn trừ lưới nghi sở sinh trong bảy thứ lời nói. Này thiện nam tử! Nếu người đầy đủ sáu tưởng như trên thì phải biết là người đó có thể quở trách ba cõi, xa lìa ba cõi, diệt trừ ba cõi, ở trong ba cõi mà chẳng sinh ra ái trước. Ðó gọi là kẻ trí đầy đủ mười tưởng. Nếu có vị Tỳkheo đầy đủ mười tưởng thì liền được xứng đáng tướng Sa môn.
Lúc bấy giờ, Bồ tát Ca Diếp liền ở trước đức Phật, dùng kệ khen ngợi đức Phật rằng:
Ðại Y vương thương xót thế gian
Thân và trí tuệ đều tịch tịnh
Trong pháp vô ngã có pháp chân
Vậy nên kính lễ đấng Vô Thượng!
Phát tâm “hai chẳng biệt” rốt cùng
Như vậy hai tâm, tâm trước khó
Tự chưa được độ, độ người tiên (trước)
Nên con lễ đấng lòng mới phát!
Mới phát rồi làm thầy nhân thiên
Thắng hơn Thanh Văn và Duyên Giác
Hơn ba cõi như vậy phát tâm
Vậy nên được gọi Tối Vô Thượng!
Cứu thế yêu cầu, sau được thành
Như Lai không thỉnh, làm thầy dẫn
Phật như con nghé theo thế gian
Vậy nên được gọi Ngưu Bi (trâu từ bi) lớn
Như Lai công đức đầy mười phương
Phàm phu vô trí chẳng khen ngợi
Con nay tán thán Từ Bi tâm
Ví báo thân miệng hai thứ nghiệp.
Tự lợi ích, thường lạc thế gian
Như Lai trọn chẳng làm việc đó
Hay đoạn (quả) báo thế giới chúng sinh
Nên con lễ đấng Tự Tha Lợi!
Làm ích dày, người đời theo thân (thân tình)
Như Lai lợi ích không thân, oán
Phật không tưởng này như thế nhân
Nên tâm Phật không hai, bình đẳng
Nói khác làm khác là thế gian
Như Lai nói như làm không khác
Phàm tu là đoạn các hạnh liền
Trước đã biết rõ lỗi phiền não
Thị hiện khắp nơi vì chúng sinh
Nên được gọi là Như Lai vậy.
Giải thoát rồi, ở mãi thế gian
Vì từ bi ưa ở sinh tử
Tuy hiện thiên thân và nhân thân
Từ bi theo đuổi như trâu nghé!
Như lai tức là mẹ chúng sinh
Lòng từ tín là trâu nghé vậy
Tự thọ mọi khổ vì chúng sinh
Khi niệm mẫn bi lòng chẳng hối
Chẳng biết khổ, lân mẫn đầy lòng
Nên con cúi lạy đấng Bạt Khổ!
Như Lai tuy làm phước không lường
Nghiệp thân miệng ý hằng thanh tịnh
Thường vì chúng sinh, chẳng vì mình
Nên con lễ đấng Thanh Tịnh Nghiệp!
Như Lai thọ khổ, khổ chẳng màng
Thấy chúng sinh khổ như mình khổ
Tuy ở địa ngục vì chúng sinh
Chẳng sinh tưởng khổ và lòng hối.
Thọ khác khổ của mọi chúng sinh
Ðều chính Như Lai, một người khổ
Biết rồi lòng ấy chuyển vững bền
Nên hay siêng tu đạo Vô Thượng.
Phật đủ một vị (mùi vị) đại từ tâm
Thương nghĩ chúng sinh như tử tưởng (tưởng con)
Chúng sinh chẳng biết Phật cứu mình
Nên bài báng Phật, Pháp, Tăng bảo.
Thế gian tuy đủ mọi não phiền
Cũng có vô lượng những lỗi ác
Như vậy mọi kết và tội khiên
Mới phát tâm Phật đã hay hoại.
Chỉ có chư Phật khen Thế Tôn (Phật)
Trừ Phật không ai hay khen ngợi
Con nay chỉ dùng một pháp khen
Là lòng từ đi khắp cõi thế.
Từ là đại pháp của Thế Tôn
Từ này cũng hay độ sinh chúng
Là Vô Thượng Giải thoát thật chân
Giải thoát tức là Ðại Niết Bàn.