KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
– Hán dịch: Căn cứ bản dịch của Tam Tạng Pháp sư Đàm Vô Sấm,
Sa môn Tuệ Nghiêm, Tuệ Quán, và Tạ Linh Vân sửa lại
 – Đời Tống
 – Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ – Phan Rang
Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đổng Minh

 

PHẨM PHẠM HẠNH

(Từ Quyển 14 đến giữa quyển 18)

Này thiện nam tử ! Sao gọi là Phạm hạnh của Ðại Bồ tát? Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát trụ ở Ðại Thừa Ðại Bát Niết Bàn, trụ ở bảy thiện pháp thì được đủ Phạm hạnh. Những gì là bảy? Một là biết pháp, hai là biết nghĩa, ba là biết thời, bốn là biết đủ, năm là tự biết, sáu là biết mọi người, bảy là biết tôn, ti. Này thiện nam tử ! Sao gọi là Ðại Bồ tát biết pháp ? Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát này biết mười hai bộ Kinh là : Tu Ða La, Kỳ Dạ, Thọ Ký, Da Ðà, Ưu Ðà Na, Ni Ðà Na, A Ba Ðà Na, Y Ðế Mục Ða Dà, Xà Ðà Dà, Tỳ Phật Lược, A Phù Ðà Ðạt Ma, Ưu Ba Ðề Xá. Này thiện nam tử ! Những gì gọi là Tu Ða La Kinh? Từ “Như thị ngã văn” (Tôi nghe như vầy)… cho đến “hoan hỷ phụng hành”. Tất cả như vậy gọi là Tu Ða La. Những gì gọi là Kỳ Dạ Kinh? Ðức Phật bảo các vị Tỳ kheo : “Xưa ta cùng các ông ngu si không trí tuệ, chẳng thể thấy bốn chân đế như thật. Vậy nên lưu chuyển lâu ở sinh tử, chìm đắm trong biển đại khổ. Những gì là bốn chân đế ? Khổ Tập Diệt Ðạo”. Như Phật ngày xưa vì các Tỳ kheo nói Khế Kinh xong rồi. Bấy giờ lại có chúng sinh lợi căn, vì nghe pháp nên về sau đến chỗ Phật, liền hỏi người : “Ðức Như Lai hướng về ai nói việc gì ?” Ðức Phật biết rồi liền nhân vào nội dung Kinh cũ mà dùng kệ tụng rằng :

Ta xưa cùng các ông

Chẳng thấy bốn chân đế

Vậy nên mãi chuyển vần

Trong bể khổ sinh tử.

Nếu thấy bốn đế chân

Thì được đoạn sinh tử

Sinh tử đã hết xong

Lại chẳng thọ các “hữu”.

Ðó gọi là Kỳ Dạ Kinh. Sao gọi là Thọ Ký Kinh ? Như có Kinh Luật, khi đức Như Lai nói mà vì những trời, người trao lời ký biệt làm Phật : “Này A Dật Ða ! Ðời vị lai có vị vua tên là Nhương Khư sẽ ở đời đó mà thành đao Phật  hiệu là Di Lặc”. Ðó gọi là Thọ Ký Kinh. Sao gọi là Dà Ðà Kinh ? Trừ Tu Ða La và các giới luật, số còn lại ấy có nói kệ bốn câu, như là :

Chư ác mạc tác

(Chớ làm các ác)

Chúng thiện phụng hành

(Vâng làm mọi lành)

Tự tịnh kỳ ý

(Tự sạch ý ấy)

Thị chư Phật giáo.

(Lời dạy Thế Tôn).

Ðó gọi là Dà Ðà Kinh. Sao gọi là Ưu Ðà Na Kinh ? Như khi đức Phật gợi mở (mớm lời) vào với thiền định, vì các thiên chúng rộng nói pháp yếu. Như các Tỳ kheo đều khởi lên ý niệm này : “Ðức Như Lai hôm nay làm việc gì đây ?” Sáng sớm đức Như Lai ra khỏi thiền định, không có người hỏi, dùng Tha Tâm Trí, liền tự nói rằng : “Này Tỳ kheo! Các ông phải biết, tất cả chư thiên thọ mạng rất dài ! Này các Tỳ kheo ! Hay thay ! Các ông vì người khác, chẳng cầu lợi mình ! Hay thay ! Thiểu dục ! Hay thay ! Tri túc ! Hay thay ! Tịch tịnh !” Các Kinh không ai hỏi mà đức Phật tự nói như vậy  thì đó gọi là Ưu Ðà Na Kinh. Sao gọi là Ni Ða Na Kinh ? Như những Kinh kệ mà nguyên nhân căn bản là đức Phật vì người khác diễn nói. Như ở nước Xá Vệ có một trượng phu chăn lưới bắt chim, bắt được rồi nhốt vào lồng, rồi tùy loài mà cho nước uống, lúa ăn… rồi trở lại thả ra. Ðức Thế Tôn biết gốc ngọn nhân duyên ấy mà nói kệ rằng :

Chớ khinh ác nhỏ

Là không tai ương

Giọt nước tuy nhỏ

Ðồ lớn đầy tràn.

Ðó gọi là Ni Ðà Na Kinh. Sao gọi là A Ba Ðà Na Kinh ? Như lời nói ví dụ trong Giới Luật thì đó là A Ba Ðà Na Kinh. Sao gọi là Y Ðế Mục Ða Dà Kinh? Như lời đức Phật nói rằng, Các Tỳ kheo phải biết, khi ta ra đời thì lời nói của ta gọi là Khế Kinh. Khi đức Phật Cưu Lưu Tần ra đời.. thì gọi là Cam Lộ Cổ (trống cam lộ). Khi đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni ra đời thì gọi là Pháp Kính (gương pháp). Khi đức Phật Ca Diếp ra đời… thì gọi là  Phân Biệt Không. Ðó gọi là Y Ðế Mục Ða Dà Kinh. Sao gọi là Xà Ðà Dà Kinh ? Như đức Phật Thế Tôn, xưa làm Bồ tát tu những hạnh khổ. Phật gọi : “Này Tỳ kheo ! Các ông phải biết, ta ở đời quá khứ, làm hươu, làm gấu lớn, làm nai, làm thỏ, làm Túc Tán vương, Chuyển Luân Thánh Vương, rồng, chim cánh vàng… Những hạnh như vậy, khi làm đạo Bồ tát, ta đã có thể thọ thân”. Ðó gọi là Xà Ðà Dà. Sao gọi là Tỳ Phật Lược Kinh ? Ðó là Kinh điển Ðại Thừa Phương Ðẳng. Nghĩa Kinh ấy rộng lớn giống như hư không. Ðó gọi là Tỳ Phật Lược kinh. Sao gọi là Vị Tằng Hữu Kinh ? Như khi đức Bồ tát mới sinh ra, không có người phò trì, liền đi bảy bước, phóng ra ánh sáng lớn soi khắp mười phương. Cũng như việc con khỉ đột, tay bưng lọ đựng mật, dâng hiến đức Như Lai. Cũng như chó cổ trắng ở bên đức Phật nghe pháp. Như Ma Ba Tuần biến làm con trâu xanh đi vào vùng bát sành, khiến cho những bát sành va chạm lẫn nhau mà không bị thương tổn. Như khi đức Phật mới sinh vào miếu thờ trời, khiến cho tượng trời kia đứng dậy, xuống làm lễ cung kính. Những Kinh như vậy gọi là Vị Tằng Hữu Kinh. Sao gọi là Ưu Ba Ðề Xá Kinh ? Như lời nói các Kinh của Phật Thế Tôn, nếu tạo tác nghị luận, phân biệt, biện nói rộng rãi tướng mạo của những Kinh ấy thì đó gọi là Ưu Ba Ðề Xá Kinh. Nếu Bồ tát có thể rõ biết mười hai bộ Kinh như vậy thì gọi là biết pháp. Sao gọi là Ðại Bồ tát biết nghĩa ? Nếu Ðại Bồ tát đối với tất cả văn tự, ngôn ngữ mà hiểu biết rộng rãi nghĩa của chúng thì đó gọi là biết nghĩa. Sao gọi là Ðại Bồ tát biết thời? Này thiện nam tử ! Bồ tát giỏi biết trong lúc như vậy là dốc lòng tu Tịch tịnh, trong lúc như vậy là dốc lòng tu Tinh tấn, trong lúc như vậy là dốc lòng tu Xả định, trong lúc như vậy là dốc lòng cúng dường Phật, trong lúc như vậy là dốc lòng cúng dường thầy, trong lúc như vậy là dốc lòng tu bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, đầy đủ Bát nhã Balamật. Ðó gọi là biết thời. Sao gọi là Ðại Bồ tát biết đủ. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát biết đủ những cái gọi là ăn uống, thuốc men, đi, đứng, ngồi, nằm, ngủ, thức, nói năng, lặng thinh… Ðó gọi là biết đủ. Này thiện nam tử ! Sao gọi là Ðại Bồ tát tự biết ? Bồ tát này tự biết rằng : “Ta có niềm tin như vậy, cấm giới như vậy, đa văn như vậy, xả như vậy, tuệ như vậy, đi lại như vậy, chánh niệm như vậy, thiện hạnh như vậy, hỏi như vậy, đáp như vậy… Ðó gọi là tự biết. Sao gọi là Ðại Bồ tát biết mọi người ? Này thiện nam tử! Bồ tát đó biết những chúng Sát lợi, chúng Bà la môn, chúng cư sĩ, chúng Samôn… này như vậy nên đối với chúng đó đi, lại như vậy, ngồi, đứng dậy như vậy, nói pháp như vậy, hỏi, đáp như vậy. Ðó gọi là biết mọi người. Này thiện nam tử ! Sao gọi là Ðại Bồ tát biết người tôn, ti? Này thiện nam tử ! Người có hai thứ, một là tín, hai là bất tín. Bồ tát phải biết người tín là thiện, người bất tín thì chẳng gọi là thiện. Lại nữa, tín có hai thứ, một là thường trụ tăng phường, hai là chẳng trụ. Bồ tát phải biết, người trụ ấy là thiện, người chẳng trụ ấy thì chẳng gọi là thiện. Người trụ tăng phường lại có hai thứ, một là lễ bái, hai là chẳng lễ bái. Bồ tát phải biết, người lễ bái là thiện, người chẳng lễ bái thì chẳng gọi là thiện. Người lễ bái ấy lại có hai thứ, một là nghe pháp, hai là chẳng nghe. Bồ tát phải biết,  nghe pháp là thiện, người chẳng nghe pháp thì chẳng gọi là thiện. Người nghe pháp ấy lại có hai thứ, một là chí tâm nghe, hai là chẳng chí tâm. Bồ tát phải biết, người chí tâm nghe thì gọi là thiện, người chẳng chí tâm thì chẳng gọi là thiện. Chí tâm nghe pháp lại có hai thứ, một là tư duy nghĩa, hai là chẳng tư duy nghĩa. Bồ tát phải biết, người suy nghĩ nghĩa là thiện, người chẳng suy nghĩ nghĩa thì chẳng gọi là thiện. Người suy nghĩ nghĩa lại có hai thứ, một là theo như lời nói tu hành, hai là chẳng theo như lời nói tu hành. Người theo như lời nói tu hành thì gọi là thiện, người chẳng theo lời nói tu hành thì chẳng gọi là thiện. Người theo như lời nói tu hành lại có hai thứ, một là cầu Thanh Văn, chẳng thể đem lại lợi an, nhiêu ích cho tất cả chúng sinh khổ não. Hai là hồi hướng Ðại Thừa Vô thượng đem lợi ích cho nhiều người, khiến cho họ được an lạc. Bồ tát nên biết, người có thể lợi cho nhiều người, được an lạc thì tối thượng tối thiện. Này thiện nam tử ! Như trong các báu thì ngọc báu Như Ý rất là thắng diệu; như trong các vị thì vị cam lộ là tối thượng. Như vậy Bồ tát ở trong loài người, trời là tối thắng, tối thượng, chẳng thể ví dụ. Này thiện nam tử ! Ðó gọi là Ðại Bồ tát trụ ở Kinh Ðại Thừa Ðại Niết Bàn, trụ bảy pháp thiện. Nếu Bồ tát trụ ở bảy pháp thiện này rồi thì được đủ phạm hạnh.

Lại nữa, này thiện nam tử ! Lại có phạm hạnh gọi là Từ Bi Hỷ Xả.

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu tu nhiều Từ có thể đoạn sân nhuế, tu tâm Bi thì cũng đoạn sân nhuế thì sao mà nói rằng, bốn vô lượng tâm ? Tìm theo nghĩa mà nói thì nên có ba thôi. Thưa đức Thế Tôn ! Từ có ba duyên, một là duyên chúng sinh, hai là duyên với pháp, ba là không duyên. Tâm Bi, Hỷ, Xả cũng lại như vậy. Nếu theo nghĩa này thì chỉ nên có ba, chẳng nên nói bốn. Chúng sinh  duyên là duyên với năm ấm, nguyện cho vui năm ấm ấy. Ðó gọi là chúng sinh duyên. Pháp duyên là duyên với vật cần dùng của các chúng sinh mà thí cho họ. Ðó gọi là Pháp duyên, Vô duyên là duyên với Như Lai. Ðó gọi là Vô duyên. Từ là duyên nhiều với chúng sinh bần cùng. Ðại sư Như Lai vĩnh viễn lìa khỏi bần cùng, hưởng thụ đệ nhất lạc. Nếu duyên chúng sinh thì chẳng duyên với Phật, Pháp cũng như vậy. Do nghĩa này nên duyên Như Lai thì gọi là Vô duyên. Thưa đức Thế Tôn ! Sở duyên của từ là tất cả chúng sinh, như duyên với cha mẹ, vợ con, thân thuộc… Do nghĩa này nên gọi là Chúng sinh duyên. Pháp duyên là chẳng thấy cha mẹ, vợ con, thân thuộc… chỉ thấy tất cả pháp đều từ duyên sinh. Ðó gọi là Pháp duyên. Vô duyên là chẳng trụ ở Pháp tướng và chúng sinh tướng. Vậy nên gọi là Vô duyên. Tâm Bi, Hỉ, Xả cũng lại như vậy. Vậy nên có ba chẳng nên có bốn. Thưa đức Thế Tôn ! Người có hai thứ, một là kiến hạnh, hai là ái hạnh. Người kiến hạnh tu nhiều Từ, Bi. Người ái hạnh tu nhiều Hỷ, Xả. Vậy nên có hai chẳng nên có bốn. Thưa đức Thế Tôn ! Phàm vô lượng thì gọi là vô biên. Biên chẳng thể có được nên gọi là vô lượng. Nếu vô lượng thì nên là một chẳng nên nói rằng bốn. Nếu nói là bốn thì làm sao được vô lượng. Do đó nên là một, chẳng nên nói là bốn vậy.

Ðức Phật bảo ngài Ca Diếp rằng :

– Này thiện nam tử ! Các đức Phật Như Lai vì những chúng sinh đã tuyên nói pháp yếu. Lời nói các vị ấy bí mật, khó có thể biết rõ. Hoặc chư Phật vì chúng sinh nói một nhân duyên. Như nói những gì là một nhân duyên? Ðó là nói tất cả pháp hữu vi. Này thiện nam tử ! Hoặc nói hai thứ, nhân duyên và kết quả. Hoặc nói ba thứ là phiền não, nghiệp và khổ. Hoặc nói bốn thứ như là vô minh, các hạnh, sinh và lão tử. Hoặc nói năm thứ như là thọ, ái, thủ, hữu và sinh. Hoặc nói sáu thứ như là nhân quả ba đời. Hoặc nói bảy thứ như là thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ và ái, thủ. Hoặc nói tám thứ là mười hai nhân duyên trừ đi vô minh, hành và sinh, lão tử, tám việc còn lại ấy. Hoặc nói chín thứ, đúng như mười hai nhân duyên trong Kinh trừ đi vô minh, hành, thức, chín việc còn lại ấy. Hoặc nói mười một thứ như đúng như lời nói với Tát Già Ni Kiền Tử trừ đi một pháp sinh, mười một pháp còn lại ấy. Hoặc có khi nói đủ mười hai nhân duyên, như ở thành Vương Xá, Phật vì Ca Diếp.v.v… nói đủ mười hai nhân duyên, từ vô minh cho đến sinh, già, bịnh, chết. Này thiện nam tử ! Như một nhân duyên, nhưng vì chúng sinh nên chư Phật phân biệt đủ thứ. Tâm pháp vô lượng cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Do nghĩa này nên đối với những hành xử thân mật của Như Lai chẳng nên sinh ra nghi hoặc. Này thiện nam tử ! Như Lai Thế Tôn có phương tiện lớn : Vô thường nói thường – thường nói vô thường, nói vui là khổ – nói khổ là vui, bất tịnh nói tịnh – tịnh nói bất tịnh, ngã nói vô ngã – vô ngã nói ngã, đối với chẳng phải chúng sinh nói là chúng sinh, đối với chúng sinh thật thì nói chẳng phải chúng sinh, chẳng phải vật nói là vật – vật nói chẳng phải vật, chẳng phải thật nói là thật – thật nói chẳng phải thật, chẳng phải cảnh nói là cảnh – cảnh nói chẳng phải cảnh, chẳng phải sinh nói là sinh – sinh nói chẳng phải sinh… cho đến vô minh nói là minh – minh nói là vô minh, sắc nói chẳng phải sắc – chẳng phải sắc nói là sắc, chẳng phải đạo nói là đạo – đạo nói chẳng phải đạo. Này thiện nam tử ! Như Lai dùng vô lượng phương tiện như vậy, đâu phải là hư dối vậy ! Này thiện nam tử ! Hoặc có chúng sinh tham của cải thì ta đối với người ấy tự hóa thân mình làm vua Chuyển Luân, ở trong vô lượng năm, tùy theo sự cần dùng của người ấy mà cung cấp đủ thứ. Rồi nhiên hậu ta mới giáo hóa khiến cho người ấy an trụ Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nếu có chúng sinh tham trước năm dục thì ở trong vô lượng năm, ta dùng năm dục vi diệu thỏa mãn tình cảm của người ấy. Rồi nhiên hậu ta mới khuyến hóa khiến cho người ấy an trụ ở Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nếu có chúng sinh  vinh hiển giàu sang thì ta đối với người ấy ở trong vô lượng năm, nguyện làm bộc sứ (người sai khiến) chạy theo cung cấp hầu hạ. Ðược lòng người ấy rồi, ta liền khuyến hóa khiến cho người ấy an trụ ở Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nếu có chúng sinh tính tình ngang trái tự cho là cần người quở trách, can gián thì ta ở trong vô lượng trăm ngàn năm, dạy bảo, quở trách, can ngăn, dụ dỗ khiến cho lòng người ấy điều phục. Rồi nhiên hậu ta mới khuyên bảo khiến cho người ấy an trụ ở Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử ! Như Lai ở trong vô lượng năm dùng đủ thứ phương tiện như vậy khiến cho các chúng sinh an trụ ở Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, đâu phải là hư dối vậy? Các đức Phật Như Lai tuy ở với mọi ác nhưng không bị nhiễm ô, giống như hoa sen. Này thiện nam tử ! Ông nên biết ý nghĩa bốn vô lượng như vậy. Này thiện nam tử ! Thể tính của vô lượng tâm này có bốn. Nếu có người tu hành thì sinh cõi Ðại Phạm.

Này thiện nam tử! Như vậy bạn bè của vô lượng có bốn. Vậy nên gọi là bốn. Phàm tu Từ thì có thể đoạn tham dục, tu tâm Bi thì có thể đoạn sân nhuế, tu tâm Hỷ thì có đoạn chẳng vui, tu tâm Xả thì có thể đoạn chúng sinh tham dục, sân nhuế. Này thiện nam tử ! Do nghĩa này nên được gọi là bốn, chẳng phải là một, hai, ba. Này thiện nam tử ! Như lời ông nói, Từ có thể đoạn được sân nhuế, cũng như vậy nên nói là ba thì nay ông chẳng nên tạo cái khó như vậy. Vì sao vậy ? Này thiện nam tử ! Sân nhuế có hai thứ, một là đoạt mạng sống, hai là đánh đập. Tu Từ thì có thể chẳng đoạt mạng sống. Tu Bi thì có thể trừ sự đánh đập. Này thiện nam tử ! Do nghĩa này nên há chẳng phải là bốn sao ? Lại nữa, sân có hai thứ, một là sân chúng sinh, hai là sân chẳng phải chúng sinh. Tu Từ tâm thì đoạn sân chúng sinh, tu Bi tâm thì đoạn sân chẳng phải chúng sinh. Lại nữa, sân có hai thứ, một là có nhân duyên, hai là không nhân duyên. Tu Từ tâm thì đoạn có nhân duyên, tu Bi tâm thì đoạn không nhân duyên. Lại nữa, sân có hai thứ, một là tu tập lâu ở đời quá khứ, hai là tu tập hôm nay ở đời hiện tại. Tu Từ Tâm thì có thể đoạn quá khứ, tu Bi tâm thì đoạn ở hiện tại. Lại nữa, sân có hai thứ, một là sân thánh nhân, hai là sân phàm phu. Tu Từ tâm thì đoạn sân thánh nhân, tu Bi tâm thì đoạn sân phàm phu. Lại nữa, sân có hai thứ, một là thượng, hai là trung. Tu Từ thì đoạn thượng, tu Bi thì đoạn trung. Này thiện nam tử ! Do nghĩa này nên gọi là bốn thì làm sao đặt nạn vấn là nên ba chẳng phải bốn ? Vậy nên, này Ca Diếp ! Vô lượng tâm này, bạn bè tương đối phân biệt làm bốn. Lại, do đồ chứa đựng thì nên gọi là bốn. Ðồ chứa đựng (tâm hành giả) nếu có Từ thì chẳng được có tâm Bi, Hỷ, Xả. Do nghĩa này thì nên là bốn, không giảm bớt. Này thiện nam tử ! Do hành phân biệt thì nên có bốn. Nếu khi hành Từ thì không Bi, Hỷ, Xả. Vậy nên có bốn. Này thiện nam tử ! Do vô lượng nên cũng được gọi là bốn. Phàm vô lượng thì có bốn thứ như là có vô lượng tâm có duyên chẳng phải tự tại, có vô lượng tâm tự tại chẳng phải duyên, có vô lượng tâm cũng duyên cũng tự tại, có vô lượng tâm chẳng phải duyên chẳng phải tự tại. Những gì là vô lượng có duyên chẳng phải tự tại ? Duyên với vô lượng vô biên chúng sinh mà chẳng thể được Tự tại tam muội. Tuy được bất định nhưng hoặc được hoặc mất. Những gì là vô lượng tự tại chẳng phải duyên ? Như duyên với cha mẹ, anh em, chị em mà muốn khiến cho họ an lạc thì chẳng phải vô lượng duyên. Những gì là vô lượng cũng duyên cũng tự tại ? Gọi chư Phật Bồ tát. Những gì là vô lượng chẳng phải duyên chẳng phải tự tại ? Hàng Thanh Văn, Duyên Giác chẳng thể duyên rộng rãi với vô lượng chúng sinh, cũng chẳng phải tự tại. Này thiện nam tử ! Do nghĩa này nên gọi là bốn vô lượng. Ðây là cảnh giới của các đức Phật Như Lai, chẳng phải là điều hiểu biết của hàng Thanh Văn, Duyên Giác. Này thiện nam tử ! Bốn việc như vậy, Thanh Văn, Duyên Giác tuy gọi là vô lượng nhưng ít chẳng đủ nói. Các đức Phật Bồ tát mói được gọi là vô lượng vô biên.

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Ðúng vậy ! Ðúng vậy ! Thật đúng như lời dạy của đức Thánh. Cảnh giới sở hữu của các đức Phật Như Lai chẳng phải là chỗ bì kịp của Thanh Văn, Duyên Giác. Thưa đức Thế Tôn ! Vã có Bồ tát trụ ở Ðại Thừa Ðại Bát Niết Bàn được tâm Từ Bi mà chẳng phải là tâm Ðại Từ, Ðại Bi chăng ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử! Có Bồ tát, nếu ở trong những chúng sinh phân biệt ba phẩm, một là người thân, hai là oán ghét, ba là người bậc giữa. Ở trong người thân lại chia làm ba bậc là thượng, trung, hạ. Oán tắng cũng vậy. Ðại Bồ tát này ở trong thượng thân cho tăng thượng lạc, đối với trung, hạ thân cũng lại bình đẳng cho tăng thượng lạc, ở trong thượng oán cho ít phần lạc, đối với trung oán đã cho trung phẩm lạc, đối với hạ oán cho tăng thượng lạc. Bồ tát như vậy chuyển tăng thêm tu tập, đối với thượng oán đã cho trung phẩm lạc, đối với hạng trung, hạ oán cho tăng thượng lạc. Bồ tát lại chuyển tu tập, đối với hạng thượng, trung, hạ cho Thượng lạc. Nếu trong thượng oán cho thượng lạc thì bấy giờ được gọi là Từ tâm thành tựu. Bồ tát bấy giờ ở chỗ cha mẹ và trong thượng oán, được tâm bình đẳng, không có sai biệt. Này thiện nam tử ! Ðó gọi là được Từ chẳng phải Ðại Từ vậy (?).

– Thưa đức Thế Tôn ! Vì duyên gì Bồ tát được Từ như vậy mà còn chẳng được gọi là Ðại Từ?

– Này thiện nam tử ! Do khó thành nên chẳng gọi là Ðại Từ. Vì sao vậy ? Vì lâu rồi, ở trong vô lượng kiếp đời quá khứ đã gom nhiều phiền não, chưa tu tập thiện pháp. Vậy nên chẳng thể ở trong một ngày mà điều phục được tâm ấy. Này thiện nam tử ! Ví như khi hạt đậu oản khô thì dùi đâm nhất định chẳng thể được. Phiền não cứng chắc cũng lại như vậy, tuy trọn ngày đêm buộc lòng chẳng tán loạn, nhưng khó có thể điều phục. Lại như chó nhà chẳng sợ người, nai hoang ở núi rừng thấy người sợ chạy. Sân nhuế khó trừ khử như chó giữ nhà, Từ tâm dễ mất như con nai hoang kia. Vậy nên tâm này khó có thể điều phục. Do nghĩa này nên chẳng gọi là Ðại Từ. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ví như vẽ lên đá thì hoa văn thường còn, vẽ lên nước thì mau diệt mất, chẳng trụ lâu. Sân như vẽ trên đá, các căn bản thiện như vẽ vào nước kia. Vậy nên tâm này khó được điều phục. Như đám lửa lớn thì ánh sáng ấy trụ lâu, sáng của ánh chớp chẳng tạm dừng lại. Sân như đám lửa, Từ như ánh chớp. Vậy nên tâm này khó được điều phục. Do nghĩa này nên chẳng gọi là Ðại Từ. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát trụ ở Sở địa gọi là Ðại Từ. Vì sao vậy ? Này thiện nam tử ! Vì người tối cực ác thì gọi là Nhất xiển đề. Khi Bồ tát mới trụ tu Ðại Từ thì đối với tâm của Nhất xiển đề không sai biệt, chẳng thấy lỗi ấy nên chẳng sinh ra sân.Do nghĩa này nên được gọi là Ðại Từ. Này thiện nam tử ! Vì các chúng sinh trừ bỏ không lợi ích thì đó gọi là Ðại Từ. Muốn cho chúng sinh vô lượng lợi lạc thì đó gọi là Ðại Bi. Ðối với chúng sinh, lòng sinh vui mừng thì đó gọi là Ðại Hỷ. Không có cái gì để ủng hộ thì gọi là Ðại Xả. Nếu chẳng tướng ngã, pháp và thân mình mà thấy tất cả pháp bình đẳng không hai thì đó gọi là Ðại Xả. Tự bỏ niềm vui của mình, thí cho người khác thì đó gọi là Ðại Xả. Này thiện nam tử ! Chỉ có bốn vô lượng tâm có thể khiến cho Bồ tát tăng trưởng đầy đủ sáu Balamật, các hạnh còn lại ấy nhất định chẳng thể làm được vậy. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát trước được bốn vô lượng tâm của thế gian, rồi nhiên hậu mới phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, theo thứ lớp mới được ra khỏi thế gian. Này thiện nam tử! Nhân vô lượng của thế gian mà được vô lượng của xuất thế gian. Do nghĩa này nên gọi là Ðại Vô lượng.

Ngài Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Trừ bỏ không lợi ích, ban cho lợi lạc thì thật ra không làm gì. Suy nghĩ như vậy tức là quan sát rỗng không, không có thật lợi. Thưa đức Thế Tôn ! Ví như khi Tỳ kheo quán bất tịnh thấy áo mình mặc đều là tướng của da mà thật chẳng phải da, cái có thể ăn nuốt đều tạo ra tướng trùng, độc hại mà thật chẳng phải là trùng, xem bát canh đậu lớn tác khởi tưởng nước bẩn mà thật chẳng phải bẩn, xem món ăn cao sữa giống như não tủy mà thật chẳng phải  não, xem xương nát vụn giống như gạo tiểu mạch mà thật chẳng phải tiểu mạch. Bốn vô lượng tâm cũng lại như vậy, chẳng thể chân thật lợi ích chúng sinh, khiến cho họ được vui. Tuy miệng nói rằng, cho chúng sinh vui thì thật ra chẳng được. Quán như vậy chẳng phải là hư vọng sao ? Thưa đức Thế Tôn ! Nếu chẳng phải hư vọng mà cho vui thật thì những chúng sinh kia vì sao chẳng do sức uy đức của các đức Phật Bồ tát nên tất cả được hưởng thụ lạc ? Nếu sẽ chân thật chẳng được vui thì như lời đức Phật nói, con nhớ thuở xưa, mộtmình tu Từ tâm, trải qua kiếp này, đời bảy lần thành, hoại, con chẳng sinh đến đây. Khi thế giới thành con sinh trong cõi Phạm thiên. Khi thế giới hoại con sinh lên cõi trời Quang AÂm. Nếu sinh lên cõi trời Phạm thì thế lực tự tại không ai có thể tiêu diệt hàng phục, ở trong hàng ngàn vị Phạm thiên  là bậc tối thắng tối thượng, gọi là vua trời Ðại Phạm. Có những chúng sinh đều ở chỗ con sinh tư tưởng tối thượng. Con có ba mươi sáu lần làm Thích Ðề Hoàn Nhân, vua cõi trời Ðao Lợi, có vô lượng trăm ngàn lần làm vua Chuyển Luân. Con chỉ tu Từ tâm mà được quả báo người, trời như vậy. Nếu chẳng thật thì sao được cùng nghĩa này tương ứng ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Ông quả thật dũng mãnh không gì kinh sợ !

Ðức Phật liền vì ngài Ca Diếp mà nói kệ rằng :

Nếu với một chúng sinh

Chẳng sinh lòng sân nhuế

Mà nguyện đó vui cùng

Ðó gọi là Từ thiện.

Trong tất cả chúng sinh

Nếu lòng bi khởi lên

Ðó gọi Thánh chủng tính

Ðược phước báo không lường.

Giả sử tiên Ngũ thông

Ðều đầy cả đại địa

Có Ðại Tự Tại vương

Phụng thí an tiên ấy

Voi, ngựa… đủ vật dùng

Quả phước báo sở đắc

Chẳng bằng tu một phần

Từ phân thành mười sáu.

Này thiện nam tử ! Phàm người tu Từ chân thật chẳng phải vọng tưởng thì chắc chắn là Chân đế. Nếu là từ của Thanh Văn, Duyên Giác thì đó gọi là hư vọng. Làm sao biết các đức Phật Bồ tát chân thật chẳng hư vọng vậy? Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát tu hành Ðại Niết Bàn như vậy thì xem đất là vàng, xem vàng là đất, đất trở thành tướng nước, nước trở thành tướng đất, nước trở thành tướng lửa, lửa trở thành tướng nước, đất trở thành tướng gió, gió trở thành tướng đất… tùy ý thành tựu, không có hư vọng. Bồ tát ấy xem thật chúng sinh là chẳng phải chúng sinh, xem chẳng phải chúng sinh là thật chúng sinh… đều tự ý thành tựu, không có hư vọng. Này thiện nam tử ! Ông phải biết bốn vô lượng tâm của Bồ tát là tư duy chân thật, chẳng phải chẳng chân thật. Lại nữa, này thiện nam tử ! Sao gọi là tư duy chân thật ? – Ðó là có thể đoạn trừ các phiền não vậy. Này thiện nam tử ! Phàm người tu Từ thì có thể đoạn được tham dục, tu Bi tâm thì có thể đoạn được sân nhuế, tu Hỷ tâm thì có thể đoạn được điều chẳng vui, tu Xả tâm thì có thể đoạn được tham dục, sân nhuế và tướng chúng sinh. Do vậy cho nên gọi là tư duy chân thật. Lại nữa, này thiện nam tử ! Bốn vô lượng tâm của Ðại Bồ tát có thể làm căn bản cho tất cả các thiện. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát nếu chẳng được thấy chúng sinh nghèo cùng thì không có nhân duyên phát sinh Từ mà nếu chẳng sinh ra Từ thì chẳng thể dấy khởi lòng huệ thí. Do nhân duyên thí nên khiến cho các chúng sinh được niềm vui yên ổn. Như là bố thí đồ ăn, thức uống, xe cộ, quần áo, hương hoa, giường nằm, nhà cửa, đèn sáng… khi bố thí như vậy mà lòng không ràng buộc, chẳng sinh tham trước thì nhất định hồi hướng về Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Tâm ấy, bấy giờ không chỗ y chỉ, vọng tưởng đoạn diệt vĩnh viễn, không bị kinh sợ, danh xưng lợi dưỡng chẳng cầu người trời, hưởng thụ khoái lạc chẳng sinh kiêu mạn, chẳng mong đền đáp lại, chẳng bị người khác lừa dối… nên là bố thí chẳng cầu giàu sang. Phàm khi làm bố thí, chẳng thấy người thọ thí là trì giới hay phá giới, là ruộng hay chẳng phải ruộng, đây là tri thức, đây chẳng phải tri thức. Khi thí chẳng thấy là khí cụ hay chẳng phải khí cụ. Chẳng chọn lựa ngày giờ, là chỗ hay chẳng phải chỗ, cũng lại chẳng kể là đói kém hay giàu có an vui, chẳng thấy nhân quả, thấy đây là chúng sinh, đây chẳng phải là chúng sinh, là phước hay chẳng phải là phước. Tuy lại chẳng thấy người bố thí, người thọ thí và cả tài vật bố thí… cho đến chẳng thấy đoạn dứt và quả báo nhưng mà thường làm bố thí, không có đoạn tuyệt. Này thiện nam tử ! Bồ tát nếu còn thấy trì giới, phá giới… cho đến quả báo thì nhất định chẳng thể bố thí mà nếu chẳng bố thí thì chẳng đầy đủ Ðàn Balamật. Nếu chẳng đầy đủ Ðàn Balamật thì chẳng thể thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử ! Ví như có người, thân bị tên độc. Quyến thuộc người ấy muốn làm cho yên ổn thì phải vì người ấy trừ độc liền mời lương y nhổ mũi tên độc ra. Người kia mới nói rằng : “Hãy khoan chớ đụng vào! Ta nay phải quan sát mũi tên độc như vậy từ phương nào đến? Ai đã bắn nó? Là chính Sát lợi, Bàlamôn, Tỳ Xá hay Thủ Ðà ?” Người ấy lại tác khởi ý niệm : “Cây tên bằng gì vậy ? Bằng tre hay bằng liễu vậy ? Sắc bọc đầu mũi tên ấy làm ở chỗ nào? Cứng hay mềm vậy? Cánh lông của tên ấy là lông cánh loài chim nào ? Là của quạ hay của chim ưng vậy ? Chất độc có ở mũi tên là do làm ra hay tự nhiên mà có ? Là độc của con người hay là độc của rắn vậy ? Như vậy người ngu si kia chưa có thể biết hết những điều ấy thì đã liền mạng chung. Này thiện nam tử ! Bồ tát cũng vậy, nếu khi làm bố thí mà phân biệt người thọ thí trì giới hay phá giới… cho đến quả báo thì nhất định chẳng có thể bố thí. Nếu chẳng thể bố thí thì chẳng đầy đủ Ðàn Balamật. Nếu chẳng đủ Ðàn Balamật thì chẳng thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát khi làm Bố thí thì đối với các chúng sinh thì Từ tâm bình đẳng, tưởng giống như con. Lại khi hành thí Bồ tát đối với các chúng sinh dấy khởi lòng bi mẫn ví như cha mẹ ngắm nhìn con bệnh. Khi làm bố thí lòng Bồ tát ấy vui mừng giống như cha mẹ thấy con khỏi bệnh. Sau khi đã bố thí, lòng Bồ tát ấy buông bỏ giống như cha mẹ thấy con khôn lớn có thể tự sống còn. Ðại Bồ tát này, ở trong lòng Từ, khi bố thí thức ăn thường phát nguyện rằng : “Ðồ bố thí của ta hôm nay đều cho chung tất cả chúng sinh. Do nhân duyên này nên khiến cho các chúng sinh được thức ăn đại trí, siêng năng tinh tấn, hồi hướng về Vô thượng Ðại Thừa. Nguyện các chúng sinh được món ăn Thiện Trí, chẳng cầu món ăn của Thanh Văn, Duyên Giác. Nguyện cho chúng sinh được thức ăn pháp hỷ, chẳng cầu món ăn ái dục. Nguyện cho các chúng sinh đều được món ăn Bát nhã Balamật, đều khiến cho họ thỏa thuê, nhiếp lấy vô ngại tăng thượng thiện căn. Nguyện cho các chúng sinh ngộ giải tướng “không”, được thân vô ngại giống như hư không. Nguyện cho các chúng sinh thường làm người thọ thí, thương xót tất cả, làm ruộng phước của mọi người”. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát khi tu Từ tâm, phàm bố thí đồ ăn cần phải phát nguyện kiên cố như vậy. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát ở trong Từ tâm khi bố thí nước uống thì phải phát nguyện rằng : “Ðồ bố thí của ta hôm nay đều cho chung tất cả chúng sinh. Do nhân duyên này nên khiến cho các chúng sinh đi theo dòng sông Ðại Thừa, uống nước tám vị, mau chóng lội vào con đường Bồ Ðề Vô thượng, lìa khỏi dòng khô cạn Thanh Văn, Duyên Giác, chí khát ngưỡng (khao khát ngưỡng mộ) Phật thừa Vô thượng, đoạn dứt sự khao khát phiền não, khát ngưỡng pháp vị, lìa khỏi ái dục sinh tử, yêu thích Ðại Thừa Ðại Bát Niết Bàn, đầy đủ pháp thân, được các Tam muội, vào đến biển cả trí tuệ rất sâu, được vị cam lộ Bồ Ðề xuất thế, ly dục tịch tịnh… những vị như vậy. Nguyện cho các chúng sinh đầy đủ vô lượng trăm ngàn pháp vị. Ðủ pháp vị rồi thì thấy được Phật tính. Thấy Phật tính rồi thì có thể mưa xuống pháp vũ. Mưa pháp vũ rồi thì Phật tính che phủ cùng khắp giống như hư không. Lại khiến cho vô lượng chúng sinh còn lại ấy được một pháp vị. Ðó là Ðại Thừa, chẳng phải vị pháp của các Thanh Văn, Bích Chi Phật. Nguyện cho các chúng sinh được một vị ngọt ngào, không có sáu thứ vị sai khác. Nguyện cho các chúng sinh chỉ cầu vị sở hạnh của pháp vị vô ngại Phật pháp, chẳng cầu những vị khác”. Này thiện nam tử !  Ðại Bồ tát ở trong Từ tâm, khi bố thí nước uống cần phải phát nguyện kiên cố như vậy. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát ở trong Từ tâm, khi bố thí xe cộ thì cần phải phát nguyện rằng : “Của bố thí của ta hôm nay đều cho chung tất cả chúng sinh. Do nhân duyên này nên khiến cho khắp cả chúng sinh thành tựu Ðại Thừa, được trụ ở Ðại Thừa, thừa chẳng thoái chuyển, thừa chẳng động chuyển, thừa Kim cương tòa, chẳng cầu Thanh Văn, Bích Chi Phật thừa, hướng về Phật thừa, thừa không thể phục, thừa không thiếu thốn, thừa chẳng thoái mất, thừa Vô thượng, thừa Thập Lực, thừa đại công đức, thừa chưa từng có, thừa hy hữu, thừa khó được, thừa vô biên, thừa biết tất cả”. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát ở trong Từ tâm khi bố thí xe cộ cần phải phát thệ nguyện kiên cố như vậy. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát ở trong Từ tâm, khi bố thí áo, phải phát nguyện rằng : “Ðồ bố thí của ta hôm nay đều cho chung tất cả chúng sinh. Do nhân duyên này khiến cho các chúng sinh được áo tàm quí, pháp giới che thân xé rách áo các kiến, quần áo lìa khỏi thân một thước sáu tấc (?), được thân Kim sắc, thọ nhận những chạm xúc êm dịu không ngăn ngại, màu sáng thấm đượm, da dẻ mịn màng, thường sáng lên vô lượng màu sắc lìa khỏi sắc. Nguyện cho các chúng sinh đều khắp được thân vô sắc, qua tất cả sắc, được vào vô sắc Ðại Bát Niết Bàn”. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát khi bố thí áo cần phải phát thệ nguyện kiên cố như vậy.

Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát ở trong tu Từ tâm khi bố thí hương hoa, hương xoa, hương bột, các tạp hương thì cần phải phát nguyện rằng : “Ðồ bố thí của ta hôm nay đều cho chung tất cả chúng sinh. Do nhân duyên này khiến cho các chúng sinh, tất cả đều được Phật Hóa tam muội, vòng hoa Thất giác vi diệu cài trên đầu chúng sinh ấy. Nguyện cho các chúng sinh thân hình như vầng trăng tròn đầy, nhìn thấy những sắc màu vi diệu đệ nhất. Nguyện cho các chúng sinh đều thành một tướng, trăm phước trang nghiêm. Nguyện cho các chúng sinh tùy ý được thấy sắc màu vừa ý. Nguyện cho các chúng sinh thường gặp bạn lành, được hương thơm vô ngại, lìa khỏi những mùi xú uế. Nguyện cho các chúng sinh đủ các căn lành vô thượng trân bảo. Nguyện cho các chúng sinh nhìn nhau vui hòa, không có ưu khổ, mọi thiện đều hoàn bị, chẳng lo nghĩ nhau. Nguyện cho các chúng sinh đầy đủ giới hương. Nguyện cho các chúng sinh giữ giới vô ngại, hơi thơm sực nức tràn đầy mười phương. Nguyện cho các chúng sinh được giới bền chắc, giới vô hối, giới Nhất thiết trí, lìa khỏi những phá giới, được vô giới, vị tằng hữu giới, vô sư giới, vô tác giới, vô uế giới, vô nhiễm ô giới, giới hết rồi, giới rốt ráo, giới được bình đẳng… Ðối với hương xoa thân và việc đâm chém thân đều bình đẳng không có yêu hay ghét. Nguyện cho các chúng sinh được giới Vô thượng, giới Ðại Thừa, giới chẳng phải Tiểu thừa. Nguyện cho các chúng sinh đều được đầy đủ Thi Ba la mật giống như sự thành tựu giới của các đức Phật. Nguyện cho các chúng sinh đều được sự huân tập tu hành của Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ. Nguyện cho các chúng sinh đều được thành tựu hoa sen vi diệu Ðại Bát Niết Bàn, hơi thơm của hoa ấy tràn ngập mười phương. Nguyện cho các chúng sinh thuần ăn bữa ăn hương thơm Vô thượng Ðại Thừa Ðại Bát Niết Bàn giống như loài ong hút hoa chỉ lấy vị hương thơm. Nguyện cho các chúng sinh đều được thành tựu tấm thân huân tập vô lượng công đức”. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát ở trong Từ tâm, khi bố thí hương hoa… thường phải phát thệ nguyện kiên cố như vậy.

Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát ở trong Từ tâm khi bố thí giường nằm nên phát nguyện rằng : “Ðồ bố thí của ta hôm nay đều cho chung tất cả chúng sinh. Do nhân duyên này khiến cho các chúng sinh được giường nằm của đấng Thiên Trung Thiên, được đại trí tuệ, ngồi chỗ Tứ thiền, nằm giường nằm của Bồ tát, chẳng nằm giường của Thanh Văn, Bích Chi Phật, lìa khỏi giường nằm ác. Nguyện cho các chúng sinh được nằm giường an lạc, lìa khỏi giường sinh tử, thành tựu giường nằm Sư tử Ðại Niết Bàn. Nguyện cho các chúng sinh ngồi ở những giường này rồi lại vì vô lượng chúng sinh còn lại ấy thị hiện thần thông Sư tử Du hí. Nguyện cho các chúng sinh trụ ở trong cung điện lớn Ðại Thừa này vì các chúng sinh diễn nói Phật tính. Nguyện cho các chúng sinh ngồi trên giường Vô thượng chẳng bị sự hàng phục của pháp thế gian. Nguyện cho các chúng sinh được giường nhẫn nhục, lìa khỏi sinh tử cơ cẩn đói rét. Nguyện cho các chúng sinh được giường Vô úy, lìa khỏi vĩnh viễn tất cả oán tặc phiền não. Nguyện cho các chúng sinh được giường thanh tịnh, chuyên cầu đạo Chánh Chân Vô thượng. Nguyện cho các chúng sinh được giường thiện pháp, thường được sự ủng hộ của bạn lành. Nguyện cho các chúng sinh được giường nằm nghiêng hông phải, y theo pháp sở hạnh của các đức Phật”. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát ở trong Từ tâm, khi bố thí giường nằm cần phải phát thệ nguyện kiên cố như vậy.

Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát ở trong Từ tâm khi bố thí nhà cửa thì phải phát nguyện rằng : “Ðồ bố thí của ta hôm nay đều cho chung tất cả chúng sinh. Do nhân duyên này khiến cho các chúng sinh ở nhà Ðại Thừa, tu hành hạnh sở hạnh của bạn lành, tu hạnh Ðại bi, hạnh sáu Ba la mật, hạnh Ðại Chánh Giác, tất cả sở hạnh của Bồ tát, hạnh đạo, hạnh rộng lớn vô biên như hư không. Nguyện cho các chúng sinh đều được Chánh niệm, xa lìa ác niệm. Nguyện cho các chúng sinh đều được an trụ ở Thường – Lạc – Ngã – Tịnh, lìa khỏi vĩnh viễn bốn điên đảo. Nguyện cho các chúng sinh đều thọ trì văn tự xuất thế. Nguyện cho các chúng sinh nhất định làm khí cụ của Vô thượng Nhất Thiết Trí. Nguyện cho các chúng sinh đều được vào đến ngôi nhà Cam lộ. Nguyện cho các chúng sinh, tâm ban đầu, tâm giai đoạn giữa, tâm sau cùng thường vào ngôi nhà Ðại Thừa Ðại Niết Bàn. Nguyện cho các chúng sinh, vào đời vị lai là thường ở cung điện chỗ ở của Bồ tát”. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát ở trong Từ tâm, khi bố thí nhà cửa thường phải phát thệ nguyện kiên cố như vậy.

Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát ở trong Từ tâm, khi bố thí đèn sáng thì phải phát nguyện rằng : “Ðồ bố thí của ta hôm nay cho chung tất cả chúng sinh. Do nhân duyên này khiến cho những chúng sinh có ánh sáng nhiều không lường, an trụ ở Phật pháp. Nguyện cho các chúng sinh thường được soi sáng. Nguyện cho các chúng sinh được ánh sáng màu vi diệu thấm đượm đệ nhất. Nguyện cho các chúng sinh được mắt ấy thanh tịnh, không các lưới ngăn che. Nguyện cho các chúng sinh được đuốc đại trí, khéo hiểu vô ngã, vô chúng sinh tướng, vô nhân, vô thọ mạng. Nguyện cho các chúng sinh đều được nhìn thấy Phật tính thanh tịnh, giống như hư không. Nguyện cho các chúng sinh, nhục nhãn thanh tịnh nhìn suốt hằng hà sa số thế giới trong mười phương. Nguyện cho các chúng sinh được ánh sáng Phật, soi khắp mười phương. Nguyện cho các chúng sinh được mắt vô ngại, đều được thấy Phật tính thanh tịnh. Nguyện cho các chúng sinh được ánh sáng Ðại trí phá tan tất cả tối tăm và Nhất xiển đề. Nguyện cho các chúng sinh được ánh sáng vô lượng, soi khắp vô lượng thế giới của chư Phật. Nguyện cho các chúng sinh thắp ngọn đèn Ðại Thừa, lìa khỏi đèn Nhị thừa. Nguyện cho các chúng sinh có ánh sáng sở đắc diệt tan tăm tối vô minh, hơn cả ngàn mặt trời đồng thời chiếu soi. Nguyện cho các chúng sinh được ánh sáng lớn diệt hết tối tăm sẵn có của ba ngàn đại thiên thế giới. Nguyện cho các chúng sinh đầy đủ ngũ nhãn, giác ngộ các pháp tướng, thành tựu sự giác ngộ không thầy (vô sư). Nguyện cho các chúng sinh không thấy vô minh. Nguyện cho các chúng sinh đều được ánh sáng vi diệu của Ðại thừa Ðại Bát Niết Bàn, thị hiện giác ngộ Phật tính chân thật của chúng sinh”. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát ở trong Từ tâm khi bố thí đèn sáng thường nên phát thệ nguyện kiên cố như vậy.

Này thiện nam tử ! Tất cả thiện căn sở hữu của Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát, các đức Phật Như Lai thì Từ là căn bản. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát tu tập Từ tâm có thể sinh ra vô lượng căn lành như vậy. Những cái gọi là bất tịnh, thở ra, hít vào, vô thường, sinh diệt, bốn niệm xứ, bảy phương tiện, ba chỗ quán, mười hai nhân duyên, vô ngã.v.v… quán pháp nóng (ấm), pháp lạnh (nguyên văn pháp đảnh), pháp nhẫn, pháp thế đệ nhất, thấy đạo, tu đạo, chánh cần, như ý (túc), các căn, các lực, bảy Bồ Ðề phận, tám đạo, bốn thiền, bốn vô lượng tâm, tám giải thoát, tám thắng xứ, mười nhất thiết nhập (vào tất cả), Không, Vô tướng, Vô nguyện, Vô tránh tam muội, trí biết tâm người khác và các thần thông, trí biết bản tế, trí Thanh Văn, trí Duyên Giác, trí Bồ tát, trí Phật… Này thiện nam tử ! Những pháp như vậy thì Từ là căn bản. Này thiện nam tử ! Do nghĩa này nên Từ là chân thật chẳng phải là hư dối vậy. Nếu có người hỏi rằng, cái gì là căn bản của tất cả các căn lành thì phải nói rằng, chính là Từ đó ! Do nghĩa này nên Từ là chân thật, chẳng phải là hư dối vậy.

Này thiện nam tử ! Có thể làm thiện thì gọi là tư duy thật. Tư duy thật thì tức là Từ. Từ tức là Như Lai. Từ tức là Ðại Thừa, Ðại Thừa tức là Từ mà Từ tức là Như Lai. Này thiện nam tử ! Từ tức Bồ Ðề đạo, Bồ Ðề đạo tức Như Lai, Như Lai tức là Từ. Này thiện nam tử ! Từ tức Ðại Phạm, Ðại Phạm tức Từ, Từ tức là Như Lai. Này thiện nam tử ! Từ thì có thể vì tất cả chúng sinh mà làm cha mẹ. Cha mẹ tức là Từ, Từ tức là Như Lai. Này thiện nam tử ! Từ mới là cảnh giới của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn. Cảnh giới chư Phật tức là Từ vậy. Ông phải biết Từ tức là Như Lai. Này thiện nam tử ! Từ tức là Phật tính của chúng sinh. Như vậy Phật tính bị sự che phủ của phiền não từ lâu nên khiến cho chúng sinh chẳng được nhìn thấy. Phật tính tức là Từ, Từ tức là Như Lai. Này thiện nam tử ! Từ tức là Ðại Không, Ðại Không tức là Từ, Từ tức là Như Lai. Này thiện nam tử ! Từ tức là hư không, hư không tức là Từ, Từ tức là Như Lai. Này thiện nam tử ! Từ tức là Thường, Thường tức là Pháp, Pháp tức là Tăng, Tăng tức là Từ, Từ tức là Như Lai. Này thiện nam tử ! Từ tức là Lạc, Lạc tức là Pháp, Pháp tức là Tăng, Tăng tức là Từ, Từ tức là Như Lai. Này thiện nam tử ! Từ tức là Tịnh, Tịnh tức là Pháp, Pháp tức là Tăng, Tăng tức là Từ, Từ tức là Như Lai. Này thiện nam tử ! Từ tức là Ngã, Ngã tức là Pháp, Pháp tức là Tăng, Tăng tức là Từ, Từ tức là Như Lai. Này thiện nam tử ! Từ tức là Cam lộ, Cam lộ tức là Từ, Từ tức là Phật tính, Phật tính tức là Pháp, Pháp tức là Tăng, Tăng tức là Từ, Từ tức là Như Lai. Này thiện nam tử ! Từ tức là đạo Vô thượng của tất cả Bồ tát mà đạo tức là Từ, Từ tức là Như Lai. Này thiện nam tử ! Từ tức là cảnh giới không lường của các đức Phật Thế Tôn. Cảnh giới không lường tức là Từ vậy. Ông phải biết là Từ tức là Như Lai.

Này thiện nam tử ! Từ nếu là vô thường mà vô thường tức là Từ thì phải biết Từ này là Từ của Thanh Văn. Này thiện nam tử ! Từ nếu là khổ, khổ tức là Từ thì phải biết Từ này là Từ của Thanh Văn. Này thiện nam tử! Từ nếu là bất tịnh, bất tịnh tức là Từ thì phải biết Từ này là Từ của Thanh Văn. Này thiện nam tử ! Từ nếu là vô ngã, vô ngã tức là Từ thì phải biết Từ này là Từ của Thanh Văn. Này thiện nam tử! Từ nếu là vọng tưởng, vọng tưởng tức là Từ thì phải biết Từ này là Từ của Thanh Văn. Này thiện nam tử ! Từ nếu chẳng gọi là Ðàn Ba la mật mà Từ chẳng phải Ðàn Ba la mật thì phải biết Từ này là Từ của Thanh Văn… cho đến Bát nhã Ba la mật cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Từ nếu chẳng thể lợi ích cho chúng sinh thì Từ như vậy là Từ của Thanh Văn. Này thiện nam tử! Từ nếu chẳng vào đạo Nhất tướng thì phải biết Từ này là Từ của Thanh Văn. Này thiện nam tử ! Từ nếu chẳng hiểu rõ các pháp thì phải biết Từ này là Từ của Thanh Văn. Này thiện nam tử ! Từ nếu chẳng thể thấy Như Lai tính thì phải biết Từ này là Từ của Thanh Văn. Này thiện nam tử ! Từ nếu thấy pháp đều là hữu tướng thì phải biết Từ này là Từ của Thanh Văn. Này thiện nam tử ! Từ nếu là hữu lậu mà hữu lậu là Từ thì tức là Từ của Thanh Văn. Này thiện nam tử ! Từ nếu là hữu vi thì Từ hữu vi là Từ của Thanh Văn. Này thiện nam tử ! Từ nếu chẳng phải trụ ở sơ trụ, chẳng phải Từ sơ trụ thì phải biết là Từ của Thanh Văn vậy. Này thiện nam tử ! Từ nếu chẳng thể được mười lực, bốn vô sở úy của Phật thì phải biết Từ này là Từ của Thanh Văn. Này thiện nam tử ! Từ có thể được bốn quả Samôn thì phải biết Từ này là Từ của Thanh Văn vậy.

Này thiện nam tử ! Từ nếu là có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, thì Từ như vậy chẳng phải là việc có thể nghĩ bàn của các Thanh Văn, Bích Chi Phật. Này thiện nam tử ! Từ nếu chẳng thể nghĩ bàn thì pháp chẳng thể nghĩ bàn, Phật tính chẳng thể nghĩ bàn, Như Lai cũng chẳng thể nghĩ bàn.

Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát trụ ở Ðại Thừa Ðại Bát Niết Bàn tu Từ như vậy, tuy lại an trụ ở trong ngủ nghỉ mà chẳng ngủ nghỉ, siêng tinh tấn vậy, tuy thường tỉnh thức mà cũng không tỉnh thức vì không ngủ. Ở trong ngủ nghĩ  chư thiên tuy không hộ, cũng không người hộ nhưng chẳng làm ác. Hành giả ngủ chẳng ác mộng, không có việc chẳng lành, lìa khỏi ngủ nghỉ, sau khi mạng chung tuy sinh lên cõi trời Phạm, cũng không có sự sinh mà được tự tại vậy. Này thiện nam tử ! Phàm tu Từ thì có thể được thành tựu vô lượng vô biên công đức như vậy. Này thiện nam tử ! Kinh điển vi diệu Ðại Niết Bàn này cũng có thể thành tựu vô lượng vô biên công đức như vậy. Các đức Phật Như Lai cũng được thành tựu vô lượng vô biên công đức như vậy.

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Những tư duy sẵn có của Ðại Bồ tát đều là chân thật còn của Thanh Văn, Duyên Giác chẳng phải là chân thật thì tất cả chúng sinh vì sao chẳng do uy lực của Bồ tát mà đều hưởng thụ khoái lạc ? Nếu các chúng sinh thật chẳng được vui thì phải biết việc tu Từ tâm của Bồ tát là không lợi ích.

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Từ của Bồ tát chẳng phải chẳng ích lợi ! Này thiện nam tử ! Có những chúng sinh hoặc nhất định thọ khổ, hoặc có chúng sinh chẳng thọ. Nếu có chúng sinh nhất định thọ khổ thì Từ của Bồ tát là không lợi ích như là Nhất xiển đề. Nếu có người thọ khổ chẳng nhất định thì Từ của Bồ tát là lợi ích, khiến cho chúng sinh đó đều hưởng thụ khoái lạc. Này thiện nam tử ! Ví như có người từ xa thấy sư tử, hổ báo, sài lang, la sát quỉ.v.v… tự nhiên sinh ra sợ, đi đêm thấy cái ghế cũng sinh ra kinh sợ. Này thiện nam tử ! Như những người tự nhiên sinh sợ này, chúng sinh thấy người tu Từ như vậy thì tự nhiên sinh ra vui. Này thiện nam tử ! Do nghĩa này nên Bồ tát tu Từ là thật Tư duy, chẳng phải không lợi ích.

Này thiện nam tử ! Ta nói Từ này có vô lượng môn, như là Thần thông. Này thiện nam tử ! Như Ðề Bà Ðạt Ða, vua A Xà Thế muốn hại Như Lai. Lúc đó, ta vào đại thành Vương Xá, đi theo thứ lớp khất thực vua A Xà Thế liền thả con voi say điên Hộ Tài ra, muốn cho nó hại ta và các đệ tử. Con voi ấy bấy giờ đã đạp giết vô lượng trăm ngàn chúng sinh mà chúng sinh chết rồi có nhiều huyết khí (hơi máu) nên con voi này đã ngữi phải thì cuồng say gấp bội lúc thường. Nó thấy ta mặc quần áo màu đỏ nên cho là máu mà nhắm lao vào. Trong đệ tử của ta số người chưa ly dục, sợ hãi chạy tứ tán, chỉ trừ có ông A Nan. Lúc bấy giờ, trong đại thành Vương Xá, tất cả nhân dân đồng thời cất tiếng kêu gào khóc lóc mà nói lên rằng : “Lạ thay ! Ðức Như Lai hôm nay chắc chết mất ! Sao mà đấng Chánh Giác một sớm bị tan hoại ?” Khi đó ông Ðiều Ðạt, lòng sinh vui mừng mà rằng : “Samôn Cù Ðàm diệt mất, rất hay ! Từ nay về sau thật sự là biến mất ! Sướng thay! Ðây kể như nguyện của ta đã được thỏa”. Này thiện nam tử ! Lúc bấy giờ, ta vì muốn hàng phục con voi Hộ Tài nên liền vào Từ định, duỗi tay bày ra thì liền ở năm ngón tay hiện ra năm con sư tử. Con voi này thấy rồi, lòng nó kinh sợ đến vãi phân, toàn thân gieo xuống đất, lễ kính dưới chân ta. Này thiện nam tử ! Bấy giờ năm đầu ngón tay ta thật không có sư tử mà chính là lực thiện căn của sự tu Từ nên khiến cho con voi đó được điều phục. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ta sắp Niết Bàn, ban đầu cất bước hướng về thành Câu Thi Na, nơi có năm trăm người lực sĩ. Ðường đi ở trong thành ấy bằng phẳng, quét dọn sạch sẽ, nhưng giữa đường có một tảng đá, mọi người muốn nhấc bỏ, đem hết sức mà chẳng thể được. Ta thương xót liền khởi Từ tâm. Các lực sĩ đó liền thấy ta dùng ngón chân hất tung tảng đá lớn này lên hư không, rồi lại dùng tay tiếp lấy đặt yên vào bàn tay phải, thổi một cái khiến cho viên đá tan nát, rồi lại tụ hợp trở lại thành tảng đá, khiến cho lòng cống cao của các lực sĩ đó dứt ngay. Ta liền vì họ lược nói đủ thứ pháp yếu khiến cho họ đều phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử ! Như Lai, bấy giờ thật  chẳng dùng ngón chân hất tung viên đá lớn này lên trong hư không, trở lại đặt vào bàn tay phải, thổi khiến cho tan nát, lại hợp lại như cũ. Này thiện nam tử ! Ông phải biết, đó là lực thiện căn của Từ đã khiến cho các lực sĩ thấy việc như vậy.

Lại nữa, này thiện nam tử ! Tại Nam Thiên Trúc này có một ngôi thành lớn tên là Thủ Ba La, ở trong thành đó có một ông trưởng giả tên là Lô Chí làm chủ dẫn đường mọi người, đã ở chỗ Phật đời quá khứ nhiều không lường, gieo trồng các gốc thiện. Này thiện nam tử ! Tất cả nhân dân trong thành lớn đó tin phục tà đạo, phụng thờ phái Ni Kiền. Ta thì muốn độ ông trưởng giả đó nên từ thành Vương Xá đi đến thành ấp kia, khoảng cách nhau giữa hai thành là sáu mươi lăm do tuần. Ta lội bộ mà đi đến vì muốn hóa độ những người ở đó. Những người Ni Kiền kia nghe ta sắp đến thành Thủ Ba La liền khởi ý nghĩ rằng : “Ông Samôn Cù Ðàm đến đây thì những nhân dân này liền sẽ bỏ ta và chẳng cung cấp. Chúng ta khốn cùng nhờ vào đâu mà tự sống? Bọn những Ni Kiền mỗi mỗi đều phân tán đi bảo người trong thành đó rằng : “Ông Samôn Cù Ðàm nay sắp đến đây. Nhưng ông Samôn đó bỏ bê cha mẹ, rong ruổi Ðông Tây mà chỗ đến của ông ấy có thể khiến cho đất đai lúa gạo chẳng lên nổi, nhân dân đói kém, mọi tướng bệnh, héo hắt, không thể cứu giải. Ông Cù Ðàm vô lại thuần đem những quỉ thần La sát ác để làm thị tùng. Những người cô quả nghèo cùng, không cha, không mẹ đến hỏi han theo ông ấy làm môn đồ mà lời dạy bảo toàn nói về hư không. Tùy theo chỗ đến của ông ấy thì việc trước tiên là không có an vui”. Những người đó nghe rồi liền ôm lòng sợ hãi, đầu mặt lễ kính dưới chân Ni Kiền Tử mà bạch rằng : “Thưa Ðại Sư ! Chúng con hôm nay phải bày kế gì ?” Người Ni Kiền đáp rằng : “Tính Samôn Cù Ðàm ưa rừng rậm, suối chảy, nước trong. Giả sử bên ngoài có thì cần phải phá hoại ! Các ngươi liền có thể cùng nhau ra khỏi thành, xem chỗ nào có thì chặt phá hết, đừng để sót lại. Dòng suối, giếng, ao… đều đặt phân, thây chết, đóng chặt cửa thành, nghiêm bị binh khí, phải dựng vách phòng hộ, siêng năng tự cố thủ. Giả sử ông Cù Ðàm kia đến thì chớ cho được gặp trước. Nếu chẳng gặp trước thì các ngươi sẽ yên ổn. Chúng ta cũng sẽ làm đủ thứ phép thuật khiến cho ông Cù Ðàm kia quay trở lại đường đi khỏi”. Những nhân dân đó nghe lời nói này rồi thì kính vâng, thi hành. Họ chặt phá cây cối, làm ô nhục các dòng nước, nghiêm bị binh khí, tự phòng hộ chắc chắn. Này thiện nam tử ! Vào lúc bấy giờ, ta đến thành đó rồi, chẳng thấy tất cả cây cối, rừng rậm, chỉ thấy mọi người trang nghiêm binh khí, dựng vách tự thủ. Thấy việc đó rồi, ta liền sinh lòng Từ thương xót hướng về họ thì cây cối sẵn có trở lại sống như cũ, lại sinh trưởng những cây còn lại ấy nhiều chẳng thể xưng kể. Sông, ao, suối, giếng… nước trong ấy trong sạch, tràn đầy như lưu ly xanh, mọc lên mọi thứ hoa rộng che bên trên, biến vách thành ấy thành lưu ly xanh biếc, nhân dân bên trong thành đều được thông suốt thấy ta và đại chúng, cửa thành tự mở ra, không ai có thể chế ngự, những binh khí nghiêm bị đều biến thành đủ thứ hoa. Trưởng giả Lô Chí làm thượng thủ cùng với nhân dân thành ấy đều chung theo nhau đi đến chỗ đức Phật. Ta liền vì họ nói đủ thứ Pháp yếu khiến cho những người đó, tất cả đều phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử ! Ta vào lúc ấy, thật ra chẳng hóa làm đủ thứ cây cối, dòng nước trong sạch tràn đầy sông ao, biến vách thành ấy làm lưu ly xanh biếc khiến cho nhân dân trong đó thông suốt thấy ta, mở cửa thành ấy, binh khí thành hoa. Này thiện nam tử ! Ông phải biết, đều là sức thiện căn của Từ có thể khiến cho những người ở đó thấy được việc như vậy.

Lại nữa, này thiện nam tử ! Trong thành Vương Xá có con gái của Bà la môn họ Bà Tư Tra chỉ có một đứa con hết mực yêu thương, nhưng gặp bệnh nặng mạng chung. Lúc bấy giờ, người con gái sầu độc nhập tâm, cuồng loạn mất tính, khỏa thân không thẹn, du hành ở ngã tư đường, gào khóc thất thanh, xướng lên rằng : “Con ơi ! Con! Con đi chỗ nào ?” Ði khắp cùng thành ấp mà không biết mệt mỏi. Người con gái này đã ở chỗ các đức Phật trước gieo trồng mọi gốc đức. Này thiện nam tử ! Ta đối với người con gái này dấy khởi lòng từ mẫn thì lúc đó người con gái liền được thấy ta, liền sinh tư tưởng về, trở lại bản tâm, trước ôm lấy thân ta đúng như phép yêu con. Ta liền bảo thị giả A Nan : “Ông nên đem áo cho người con gái này !” Ðã cho áo rồi, ta liền vì người con gái đó nói đủ thứ những pháp yếu. Người con gái này nghe pháp, vui mừng nhảy nhót, phát lòng Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử ! Vào lúc ấy ta thật chẳng phải con của người đó, người đó chẳng phải là mẹ ta, cũng không ôm giữ ta. Này thiện nam tử ! Ông phải biết, đều là sức thiện căn của Từ đã khiến cho người con gái đó thấy việc như vậy.

Lại nữa, này thiện nam tử ! Thành Ba La Nại có người Ưu bà di tên là Ma Ha Tư Na Ðạt Ða, đã ở đời quá khứ, trước chư Phật nhiều không lường gieo trồng các căn lành. Vị ưu bà di này, trong chín mươi ngày mùa hạ, thỉnh mời chúng Tăng phụng thí thuốc men chữa bệnh. Lúc đó trong chúng có một vị Tỳ kheo mắc bệnh nặng, lương y xem bệnh thấy cần phải dùng thuốc có thịt. Nếu được thịt thì bệnh có thể trừ khỏi, nếu chẳng được thịt thì mạng sẽ chẳng toàn vẹn. Người ưu bà di nghe lời nói này của thầy thuốc, liền mang vàng đến khắp các chợ, xướng lên rằng : “Ai có thịt bán, ta dùng vàng để mua ! Nếu ai có thịt thì sẽ ngang cùng vàng !” Ði khắp cùng chợ trong thành mà cầu chẳng thể được, người Ưu bà di này liền tự lấy dao cắt thịt vế của mình nấu thành canh cho vào đủ thứ hương liệu, đưa đến cho vị Tỳ kheo bệnh. Vị Tỳ kheo uống rồi, bệnh liền được khỏi. Vị Ưu bà di bị vết thương, khổ não chẳng thể chịu đựng nổi liền lên tiếng rằng : “Nam mô Phật Ðà ! Nam mô Phật Ðà !” Vào lúc ấy, ta tại thành Xá Vệ, nghe âm thanh ấy thì đối với người con gái này khởi lên lòng đại từ. Người con gái này liền thấy ta đem lương dược xoa lên vết thương ấy trở lại lành như cũ. Ta liền vì người ấy nói đủ thứ pháp. Nghe pháp rồi người ấy vui mừng, phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử ! Ta vào lúc ấy, thật sự chẳng đi đến thành Ba La Nại, đem thuốc thoa vết thương của người Ưu bà di này. Này thiện nam tử ! Ông phải biết, đều là sức thiện căn của Từ khiến cho người con gái đó thấy việc như vậy.

Lại nữa, này thiện nam tử !  Người ác Ðiều Ðạt tham chẳng biết đủ, uống nhiều váng sữa (tô) nên đau đầu, đầy bụng, chịu khổ não lớn, chẳng thể chịu đựng nổi nên phát lên lời như vầy : “Nam mô Phật Ðà ! Nam mô Phật Ðà !” Ta khi ấy trụ tại thành Ưu Thiền Ni, nghe âm thanh ấy, liền sinh Từ tâm. Bấy giờ, Ðiều Ðạt liền thấy ta đi đến chỗ ấy, tay xoa đầu, bụng trao cho nước muối mà bảo uống, uống rồi thì bình phục. Này thiện nam tử ! Ta thật ra chẳng đi đến chỗ ông Ðiều Ðạt, xoa đầu bụng, trao thuốc thang bảo uống. Này thiện nam tử ! Ông phải biết, đều là sức thiện căn Từ khiến cho Ðiều Ðạt thấy việc như vậy.

Lại nữa, này thiện nam tử ! Nước Kiều Tát La có những bọn giặc, số ấy những năm trăm bầy đảng, cướp bóc làm hại nhiều lắm. Vua Ba Tư Nặc lo cho nạn tung hoành hung bạo của bọn ấy, sai lính theo dõi tìm bắt. Bắt được rồi, nhà vua cho móc mắt, rồi đem bỏ chúng dưới rừng rậm tối tăm. Những bọn giặc này đã từng ở chỗ Phật đời trước, gieo trồng mọi gốc đức. Chúng đã mất mắt rồi, chịu khổ não lớn nên đều nói lên lời này : “Nam mô Phật Ðà ! Nam mô Phật Ðà ! Chúng con hôm nay không người cứu hộ !” Họ khóc lóc kêu gào. Ta lúc ấy, trụ tại tinh xá Kỳ Hoàn, nghe được âm thanh ấy, liền sinh ra Từ tâm thì liền có luồng gió mát thổi đủ thứ hương dược trong núi Hương Sơn đầy vành mắt những người ấy, mắt những người ấy trở lại như cũ, chẳng khác. Những kẻ giặc mở mắt ra liền thấy Như Lai đang ở trước mặt họ mà vì họ nói pháp. Giặc nghe pháp rồi phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử ! Vào lúc ấy, ta thật chẳng làm gió thổi đủ thứ hương dược trong núi Hương Sơn và trụ ở trước những người ấy mà nói pháp. Này thiện nam tử ! Ông phải biết, đều là sức thiện căn của Từ khiến cho bọn giặc kia thấy việc như vậy. Lại nữa, này thiện nam tử ! Thái tử Lưu Ly do ngu si nên phế bỏ cha mình tự lập làm vua, lại nhớ hiềm khích xưa, hại nhiều người  họ Thích. Ông bắt lấy một vạn hai ngàn người con gái họ Thích, dùng hình phạt cắt tai, mũi, chặt đứt tay, chân rồi xô họ xuống hầm, hào. Những người con gái, thân chịu khổ não, nói lên rằng : “Nam mô Phật Ðà ! Nam mô Phật Ðà ! Chúng con hôm nay không có ai cứu hộ !” Họ lại gào khóc. Những người con gái này đã ở chỗ Phật đời trước gieo trồng các căn lành. Vào lúc ấy, ta ở trong rừng trúc, nghe được âm thanh ấy, liền khởi Từ tâm. Những người con gái lúc bấy giờ thấy ta đi đến thành Ca Tỳ La, dùng nước rửa vết thương và lấy thuốc xoa vào thì khổ đau liền tiêu trừ, tai, mũi, tay, chân trở lại như cũ. Ta liền vì họ lược nói pháp yếu, khiến cho họ đều phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Những người con gái ấy liền ở chỗ của Tỳ kheo ni Ðại Ái Ðạo, xuất gia thọ Cụ túc giới. Này thiện nam tử ! Lúc bấy giờ, Như Lai thật chẳng đi đến thành Ca Tỳ La, dùng nước rửa vết thương, thoa thuốc, dừng khổ. Này thiện nam tử ! Ông phải biết, đó đều là lực thiện căn của Từ khiến cho những người con gái đó được việc như vậy. Lòng Bi, Hỷ cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Do nghĩa này nên Ðại Bồ tát tu tư duy Từ tức là Chân thật, chẳng phải là hư dối vậy. Này thiện nam tử ! Phàm vô lượng thì chẳng thể nghĩ bàn, sở hành của Bồ tát chẳng thể nghĩ bàn, sở hạnh của chư Phật cũng chẳng thể nghĩ bàn, Kinh điển Ðại Thừa Ðại Niết Bàn này cũng chẳng thể nghĩ bàn.

********

Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát tu Từ, Bi, Hỷ rồi được trụ ở Ðịa Cực ái nhất tử. Này thiện nam tử ! Sao địa này gọi là Cực ái, lại gọi là Nhất tử ? Này thiện nam tử ! Ví như cha mẹ thấy con yên ổn, lòng rất vui mừng. Ðại Bồ tát trụ trong Ðịa này cũng lại như vậy, thấy các chúng sinh đồng với con một, thấy người tu thiện thì phát sinh đại hoan hỷ. Vậy nên Ðịa này gọi là Cực ái. Này thiện nam tử ! Ví như cha mẹ thấy con gặp hoạn nạn thì lòng khổ não, xót thương sầu độc không nỡ lìa bỏ. Ðại Bồ tát trụ trong Ðịa này cũng lại như vậy, thấy các chúng sinh bị sự ràng buộc bức thiết của phiền não, lòng sinh ra sầu não, lo nghĩ như con, các lỗ chân lông của thân đều chảy ra máu. Vậy nên Ðịa này gọi là Nhất tử (con một). Này thiện nam tử ! Như khi người còn nhỏ nhặt lấy hòn đất, phân dơ, ngói, đá, xương khô, cành cây đặt vào trong miệng. Cha mẹ thấy thế rồi, sợ người ấy bị hoạn nạn nên tay trái nắm lấy đầu, tay phải móc ra. Ðại Bồ tát trụ trong Ðịa này cũng lại như vậy, thấy pháp thân của các chúng sinh chưa tăng, hoặc làm nghiệp chẳng thiện của thân, miệng, ý. Bồ tát thấy thế rồi thì dùng tay trí nhổ nó ra, chẳng muốn cho chúng lưu chuyển sinh tử chịu những khổ não. Vậy nên Ðịa này gọi là Nhất tử. Này thiện nam tử ! Ví như đứa con thân yêu của cha mẹ bỏ đi mà chết mất. Cha mẹ sầu não nguyện cùng chết theo. Bồ tát cũng vậy, thấy Nhất xiển đề rơi vào địa ngục, cũng khiến cùng sinh vào trong địa ngục. Vì sao vậy? Vì nhất xiển đề này khi thọ khổ, hoặc lòng sinh ra một ý niệm cải hối thì ta liền sẽ vì họ nói đủ thứ pháp khiến cho họ được sinh ra một ý niệm căn lành. Vậy nên Ðịa này lại gọi là Nhất tử. Này thiện nam tử ! Ví như cha mẹ chỉ có một người con. Người con ấy ngủ, thức, đi, đứng, ngồi, nằm… lòng cha mẹ ấy luôn nghĩ đến đó. Nếu nó có tội lỗi thì cha mẹ khéo nói dỗ dành, chẳng thêm ghét bỏ. Ðại Bồ tát cũng lại như vậy, thấy các chúng sinh, nếu rơi vào địa ngục, súc sinh, ngã quỉ, hoặc ở trong trời, người tạo tác thiện, ác thì lòng thường nghĩ đến họ, chẳng buông bỏ họ, Nếu họ làm những điều ác nhất định chẳng sinh ra sân giận để thêm ghét họ. Vậy nên Ðịa này lại tên là Nhất tử.

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Ðúng như lời đức Phật nói, lời nói ấy bí mật! Trí con hôm nay cạn cợt làm sao có thể lý giải được? Nếu Bồ tát trụ ở Nhất tử địa có thể như vậy thì sao thuở xưa đức Như Lai khi làm quốc vương hành đạo Bồ tát đã đoạn tuyệt mạng của người Bà la môn ? Nếu ngài được địa này thì nên hộ niệm hắn, còn nếu chẳng được thì lại vì nhân duyên gì mà chẳng đọa địa ngục? Nếu giả sử nhìn bình đẳng tất cả chúng sinh đồng với tư tưởng như La Hầu La thì vì sao ngài lại hướng về Ðề Bà Ðạt Ða mà nói rằng: “Người si dại không xấu hổ, ăn nước dãi của người nhổ ra” khiến cho ông đó nghe rồi phát sinh sân hận, dấy lên lòng bất thiện, làm chảy máu thân Phật. Ðề Bà Ðạt Ða tạo ác này rồi, đức Như Lai lại trao lời ký rằng, sẽ đọa địa ngục một kiếp để chịu tội. Thưa đức Thế Tôn ! Lời nói như vậy thì làm sao đối với nghĩa này chẳng trái ngược nhau? Thưa đức Thế Tôn! Ông Tu Bồ Ðề trụ ở Hư Không địa. Phàm muốn vào thành cầu xin đồ ăn thức uống, trước tiên cần phải quan sát người. Nếu có người đối với mình sinh lòng ngờ vực, ganh ghét thì ông dừng lại chẳng đi, thậm chí đói cùng cực còn chẳng đi xin. Vì sao vậy ? Vì ông Tu Bồ Ðề này luôn nghĩ rằng : “Ta nhớ thuở xưa, ở chỗ ruộng phước, đã sinh ra một ác niệm. Do nhân duyên này nên rơi vào địa ngục chịu đủ thứ khổ. Ta nay thà chịu đói trọn ngày chẳng ăn, nhất định chẳng khiến cho người đó đối với ta khởi lên ngờ vực mà bị đọa vào địa ngục, chịu khổ não vậy”. Ông ấy lại nghĩ rằng : “Nếu có chúng sinh ngờ vực ta mà đứng thì ta sẽ trọn ngày ngồi ngay thẳng, chẳng đứng dậy. Nếu có chúng sinh ngờ vực ta mà ngồi thì ta sẽ trọn ngày đứng, chẳng dời chỗ. Ði, nằm cũng vậy… Ông Tu Bồ Ðề này hộ chúng sinh mà còn dấy khởi lòng như vậy, huống gì là Bồ tát. Bồ tát nếu được Nhất tử địa thì vì duyên gì mà đức Như Lai nói ra lời thô này, khiến cho các chúng sinh khởi lòng trọng ác ?

– Này thiện nam tử ! Ông nay chẳng nên nạn vấn như vậy ! Phật Như Lai vì các chúng sinh tạo tác nhân duyên phiền não ! Này thiện nam tử ! Giả sử mòng muỗi có thể uống hết biển cả. Như Lai nhất định không vì chúng sinh làm các nhân duyên phiền não. Này thiện nam tử ! Giả sử làm cho đại địa này đều là chẳng phải sắc, nước là tướng khô cứng, lửa là tướng lạnh, gió là tướng đứng yên, Tam bảo, Phật tính và cả hư không trở nên tướng vô thường… thì Như Lai nhất định chẳng vì các chúng sinh tạo tác nhân duyên phiền não. Này thiện nam tử ! Giả sử người hủy phạm bốn tội trọng cấm và Nhất xiển đề bài báng chánh pháp mà hiện thân được thành mười lực, bốn vô úy, ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp thì Như Lai nhất định chẳng vì các chúng sinh tạo tác nhân duyên phiền não. Này thiện nam tử ! Giả sử Thanh Văn, Bích Chi Phật.v.v.. là thường trụ, bất biến thì Như Lai cũng nhất định chẳng vì các chúng sinh tạo tác nhân duyên phiền não. Này thiện nam tử ! Giả sử những Bồ tát Thập Trụ.v.v… phạm bốn trọng cấm, làm Nhất xiển đề, bài báng chánh pháp thì Như Lai nhất định chẳng vì các chúng sinh tạo tác nhân duyên phiền não. Này thiện nam tử ! Giả sử tất cả vô lượng chúng sinh đoạn diệt Phật tính, Như Lai rốt ráo vào Bát Niết Bàn thì Như Lai nhất định chẳng vì các chúng sinh tạo tác nhân duyên phiền não. Này thiện nam tử ! Giả sử ném sợi tơ có thể trói buộc được gió, răng có thể phá hoại sắt, móng có thể hủy hoại núi Tu Di thì Như Lai nhất định chẳng vì các chúng sinh tạo tác nhân duyên phiền não. Thà cùng rắn độc ở đồng chung một chỗ, thà đưa hai tay mình vào miệng sư tử đó, thà dùng than Khư đà la tắm rửa thân thể… chẳng nên nói rằng, Như Lai Thế Tôn vì các chúng sinh tạo tác nhân duyên phiền não. Này thiện nam tử ! Như Lai chân thật có khả năng vì chúng sinh đoạn trừ phiền não, nhất định chẳng vì họ tạo tác nhân duyên phiền não.

Này thiện nam tử ! Ðúng như lời ông nói, Như Lai thuở xưa đã giết Bà la môn ! Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát, thậm chí con kiến còn chẳng nên giết huống gì là Bà la môn ! Bồ tát thường làm đủ thứ phương tiện, ban cho chúng sinh thọ mạng nhiều không lường. Này thiện nam tử ! Phàm cho người ăn thì tức là cho mạng sống. Khi Ðại Bồ tát hành Ðàn Ba la mật thì thường thí cho chúng sinh vô lượng thọ mạng. Này thiện nam tử ! Tu giới Bất Sát được sống lâu dài. Khi Ðại Bồ tát hành Thi Ba la mật thì tức là thí cho tất cả chúng sinh vô lượng  thọ mạng. Này thiện nam tử ! Thận trọng miệng, không tội lỗi thì được thọ mạng lâu dài. Khi Ðại Bồ tát hành Sằn đề Ba la mật, thường khuyên chúng sinh chớ sinh tư tưởng oán giận, đưa ngay thẳng đến người, đem rắc rối về mình, không có sự tranh tụng, được thọ mạng lâu dài. Vậy nên khi Bồ tát hành Sằn đề Ba la mật thì đã thí cho chúng sinh vô lượng thọ mạng. Này thiện nam tử ! Tinh cần tu thiện được thọ mạng lâu dài. Khi Ðại Bồ tát hành Tỳ lê gia Ba la mật, thường khuyên chúng sinh siêng tu thiện pháp, tu hành rồi được vô lượng thọ mạng. Vậy nên khi Bồ tát hành Tỳ lê gia Ba la mật, đã thí cho chúng sinh vô lượng thọ mạng. Này thiện nam tử ! Tu nhiếp lấy tâm thì được thọ mạng lâu dài. Khi Ðại Bồ tát hành Thiền Ba la mật thì khuyên các chúng sinh tu tâm bình đẳng. Chúng sinh tu hành rồi thì được thọ mạng lâu dài. Vậy nên khi Bồ tát hành Thiền Ba la mật, rồi thí cho chúng sinh vô lượng thọ mạng. Này thiện nam tử ! Ðối với các thiện pháp mà chẳng buông lung thì được thọ mạng lâu dài. Khi Ðại Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật thì khuyên các chúng sinh đối với những thiện pháp chẳng sinh buông lung. Chúng sinh tu hành rồi thì do nhân duyên này mà được thọ mạng lâu dài. Vậy nên khi Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật thì đã thí cho chúng sinh vô lượng thọ mạng. Này thiện nam tử ! Do nghĩa này nên Ðại Bồ tát đối với các chúng sinh nhất định không đọat lấy mạng họ. Này thiện nam tử ! Về câu hỏi của ông, khi giết Bà la môn thì có được Ðịa này không ? Này thiện nam tử ! Khi đó ta đã được nó rồi ! Do ái niệm nên ta đoạn dứt mạng căn ông ấy, chứ chẳng phải do ác tâm vậy ! Này thiện nam tử ! Ví như cha mẹ chỉ có một đứa con nên rất nặng tình yêu thương mà đứa con phạm phải hiến chế (pháp luật) nhà nước. Khi đó cha mẹ do sợ hãi nên hoặc đuổi đi, hoặc giết chết con. Tuy có sự đuổi đi hay giết chết nhưng không có ác tâm. Ðại Bồ tát vì hộ chánh pháp cũng lại như vậy, nếu có chúng sinh bài báng Ðại Thừa thì liền dùng roi đánh đập để thêm khổ mà sửa trị họ. Hoặc đoạt mạng của họ là muốn khiến cho họ đổi đời để tuân tu pháp lành. Bồ tát thường phải tác khởi suy nghĩ  này : “Dùng nhân duyên gì có thể khiến cho chúng sinh phát khởi tín tâm ! Rồi theo phương tiện ấy mà cần phải làm cho họ”. Những Bà la môn, sau khi mạng chung, sinh vào địa ngục A Tỳ liền có ba ý nghĩ : Một là tự nghĩ, ta từ chỗ nào mà sinh đến đây ? Liền tự biết từ trong nhân đạo đến. Hai là tự nghĩ, chỗ sinh của ta hôm nay là chỗ nào ? Rồi liền tự biết chính là địa ngục A Tỳ. Ba là tự nghĩ, ta theo nghiệp duyên gì mà sinh đến đây ? Rồi liền tự biết theo nhân duyên bất tín, bài báng Kinh điển Ðại Thừa Phương Ðẳng mà bị quốc chủ giết chết nên sinh đến đây. Họ nghĩ ra việc này rồi thì liền đối với Kinh điển Ðại Thừa Phương Ðẳng phát sinh lòng tin kính, tức thời mạng chung, sinh vào thế giới của đức Như Lai Cam Lộ Cổ, ở đó thọ mạng đầy đủ mười kiếp. Này thiện nam tử ! Do nghĩa này nên vào thuở xa xưa ta mới cho người đó mười kiếp thọ mạng. Sao gọi là giết ? Này thiện nam tử! Có người đào đất, cắt cỏ, chặt cây, băm vằm xác chết, mắng chữi, đánh đập… do những nghiệp duyên này có bị đọa địa ngục không?

Ngài Ca Diếp Bồ tát bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Như sự lý giải của con về ý nghĩa lời nói của đức Phật thì người đó nên đọa vào địa ngục. Vì sao vậy ? Vì thuở xưa đức Phật vì hàng Thanh Văn nói pháp rằng : “Này Tỳ kheo ! Các ông đối với những loài cỏ cây chớ sinh ra ác tâm. Vì sao vậy ? Vì tất cả chúng sinh nhân ác tâm nên đọa vào địa ngục”.

Lúc bấy giờ, đức Phật khen Bồ tát Ca Diếp rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Ðúng như lời nói của ông ! Ông nên khéo thọ trì! Này thiện nam tử ! Nếu nhân ác tâm mà đọa vào địa ngục thì Bồ tát bấy giờ quả thật không có ác tâm. Vì sao vậy ? Vì Ðại Bồ tát đối với tất cả chúng sinh thậm chí cả trùng, kiến…. đều phát sinh thương xót đem cho ích lợi. Sở dĩ vì sao ? Vì Bồ tát giỏi biết phương tiện nhân duyên, dùng phương tiện lực muốn khiến cho chúng sinh gieo trồng các thiện căn. Này thiện nam tử ! Do nghĩa này nên ta vào lúc bấy giờ, dùng phương tiện khéo léo, tuy đoạt lấy mạng của Bà la môn ấy mà chẳng phải ác tâm. Này thiện nam tử ! Pháp của Bà la môn, nếu giết loài kiến đựng đầy mười xe thì không có tội báo. Muỗi, bọ chét, chấy, rận, mèo, chồn, sư tử, cọp, sói, gấu… những loài trùng ác, thú ác và những thứ còn lại có thể làm hại chúng sinh thì có giết đầy xe, quỉ thần, la sát, Câu bàn trà, Ca la Phú đơn na, điên cuồng, khô cạn, các quỉ thần.v.v… có thể vì chúng sinh tạo tác sự nhiễu hại, cho dù có đoạt mất mạng họ thì đều không có tội báo. Nếu giết người ác thì có tội báo. Giết người rồi chẳng hối hận thì đọa vào loài ngã quỉ. Nếu có thể sám hối, ba ngày nhịn ăn thì tội ấy tiêu diệt, không có còn sót lại. Nếu giết Hòa Thượng, hại cha mẹ mình, nữ nhân và trâu thì vô số ngàn năm ở trong địa ngục. Này thiện nam tử ! Phật và Bồ tát biết rằng, giết có ba là hạ, trung, thượng. Hạ sát là giết từ con kiến cho đến tất cả loài súc sinh, chỉ trừ Bồ tát thị hiện sinh ra. Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát do nhân duyên thệ nguyện thị hiện thọ thân súc sinh. Ðó gọi là hạ sát. Do nhân duyên hạ sát nên đọa vào địa ngục, súc sinh, ngã quỉ chịu đủ hạ khổ. Vì sao vậy ? Vì các chúng sinh có thiện căn nhỏ nhoi. Vậy nên kẻ giết chịu đủ tội báo. Ðó gọi là hạ sát. Trung sát là giết từ người phàm phu cho đến A Na Hàm. Ðó gọi là trung sát. Do nhân duyên nghiệp này nên đọa vào địa ngục, súc sinh, ngã quỉ chịu đủ trung khổ. Ðó gọi là trung sát. Thượng sát là giết từ cha mẹ cho đến A La Hán, Bích Chi Phật, Tất định Bồ tát. Ðó gọi Thượng. Do nhân duyên nghiệp này nên đọa vào trong đại địa ngục A Tỳ, chịu đủ thượng khổ. Ðó gọi là thượng sát. Này thiện nam tử ! Nếu có người có thể giết Nhất xiển đề thì chẳng  đọa vào trong ba thứ giết này. Này thiện nam tử! Những Bà la môn đó.v.v.. tất cả đều là Nhất xiển đề vậy. Ví như đào đất, cắt cỏ, chặt cây, băm vằm xác chết, mắng chữi, đánh đập… không có tội báo. Giết Nhất xiển đề cũng lại như vậy, không có tội báo. Vì sao vậy? Vì các Bà la môn thậm chí không có niềm tin ngang bằng năm pháp. Vậy nên tuy giết nhưng chẳng đọa địa ngục.

Này thiện nam tử ! Lời nói trước đây của ông, vì sao đức Như Lai mắng Ðề Bà Ðạt Ða là người ngu si ăn nước dãi nhổ ra, ông cũng chẳng nên hỏi câu hỏi như vậy. Vì sao vậy ? Vì các đức Phật Thế Tôn, phàm lời nói ra của các ngài chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam tử ! Hoặc có lời nói chân thật vì sự yêu thương thế gian mà chẳng phải lúc, chẳng phải pháp, chẳng vì lợi ích thì lời nói như vậy ta nhất định chẳng nói. Này thiện nam tử ! Hoặc lại có lời nói thô ác hư vọng, chẳng phải lúc, chẳng phải pháp mà người nghe chẳng yêu thích, chẳng thể lợi ích thì ta cũng chẳng nói. Này thiện nam tử ! Nếu có lời nói tuy thô ác nhưng chân thật, chẳng hư vọng, đúng lúc, đúng pháp, có thể làm cho tất cả chúng sinh lợi ích, người nghe tuy chẳng vui lòng nhưng ta cần phải nói. Vì sao vậy ? Vì các đức Phật Thế Tôn Ứng Cúng Chánh Biến Tri biết phương tiện vậy. Này thiện nam tử ! Như ta một thuở, du hành ở vùng khoáng dã, tụ lạc, rừng rậm kia, tại dưới khu rừng ấy, có một quỉ thần tên là Khoáng Dã thuần ăn máu thịt, giết hại nhiều chúng sinh. Nó lại ở tại tụ lạc ấy mỗi ngày ăn thịt một người. Này thiện nam tử ! Vào lúc đó, ta vì quỉ thần kia rộng nói pháp yếu, nhưng quỉ bạo ác ngu si vô trí đó chẳng thính thọ giáo pháp. Ta liền hóa thân làm quỉ đại lực lay động cung điện của con quỉ ấy khiến cho chỗ ở chẳng yên. Con quỉ đó liền đem quyến thuộc của nó ra khỏi cung điện, muốn đến chống trả lại. Quỉ thấy ta tức thời mất hồn, sợ hãi ngã lăn ra đất mê man, đoạn tuyệt giống như người chết. Ta dùng tay từ mẫn xoa lên thân quỉ ấy thì quỉ liền đứng lên trở lại mà nói như vầy : “Khoái thay ! Hôm nay ta trở lại được thân mạng ! Vị Ðại Thần Vương này có uy đức lớn, có lòng từ mẫn xá bỏ tội lỗi của ta”. Quỉ ấy liền đối với ta đã phát sinh lòng tin thiện. Ta liền trở lại thân Như Lai, rồi vì quỉ ấy nói đủ thứ pháp yếu khiến cho quỉ thần đó thọ giới bất sát (chẳng sát sinh). Vào ngày đó, trong thôn Khoáng Dã liền có một ông trưởng giả theo thứ tự nên phải chết, người trong thôn đã đưa đến giao cho quỉ thần đó. Quỉ thần được rồi liền đem cho ta. Ta đã nhận rồi liền vì ông trưởng giả đổi lập tự danh tên là Thủ trưởng giả. Lúc bấy giờ, quỉ kia liền bạch với ta rằng : “Thưa đức Thế Tôn ! Con và quyến thuộc chỉ trông chờ vào máu thịt để tự sống còn, nay đã thọ giới thì nên phải sống ra sao ?” Ta liền đáp rằng : “Từ nay ta sẽ bảo đệ tử Thanh Văn, theo chỗ tu hành Phật pháp, đều sẽ khiến cho họ cho ông ăn uống”. Này thiện nam tử ! Do nhân duyên này nên ta vì các Tỳ kheo chế giới như vầy : “Các ông từ nay luôn phải cho quỉ Khoáng Dã đó ăn ! Nếu có trú xứ nào chẳng thể bố thí thì phải biết, bọn này chẳng phải là đệ tử của ta mà là đồ đảng quyến thuộc của thiên ma”. Này thiện nam tử ! Như Lai vì muốn điều phục chúng sinh nên thị hiện đủ thứ phương tiện như vậy, chẳng phải là cố làm cho quỉ đó sinh ra kinh sợ vậy. Này thiện nam tử ! Ta cũng dùng cây đánh quỉ hộ pháp. Lại vào một thuở, tại trên một ngọn núi ta đã xô quỉ đầu dê rơi xuống núi. Lại ở trên ngọn cây ta đánh ngã quỉ Hộ Di Hầu. Ta khiến cho voi Hộ tài thấy năm con sư tử, sai thần Kim Cương khủng bố Tát Già Ni Kiền, cũng dùng kim đâm vào thân của quỉ Tiểu Mao… Ta tuy làm như vậy nhưng cũng chẳng khiến cho những quỉ thần đó.v.v.. bị diệt mất. Ta ngay thẳng muốn khiến cho những quỉ đó an trụ ở Chánh pháp nên thị hiện đủ thứ phương tiện như vậy thôi. Này thiện nam tử ! Vào lúc bấy giờ,  ta thật sự chẳng nhục mạ Ðề Bà Ðạt Ða mà Ðề Bà Ðạt Ða cũng chẳng ngu si ăn nước dãi của người, cũng chẳng sinh ở trong đường ác, địa ngục A Tỳ, chịu tội một kiếp, cũng chẳng hủy hoại Tăng, làm chảy máu thân Phật, cũng chẳng vi phạm bốn tội nặng, bài báng chính pháp, kinh điển Ðại Thừa, chẳng phải Nhất xiển đề, cũng chẳng phải là Thanh Văn, Bích Chi Phật vậy. Này thiện nam tử ! Việc ông Ðề Bà Ðạt Ða quả thật chẳng phải là cảnh giới của Thanh Văn. Duyên Giác mà chỉ là sự thấy biết của chư Phật. Này thiện nam tử ! Vậy nên ông nay chẳng nên nạn vấn, vì nhân duyên gì đức Như Lai quở trách, nhục mạ Ðề Bà Ðạt Ða. Ðối với cảnh giới sở hữu của chư Phật, ông chẳng nên sinh ra lưới nghi ngờ như vậy.

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Ví như mía ngọt, lần lữa chưng nấu được đủ thứ vị. Con cũng như vậy, theo đức Phật lần lữa nghe được nhiều vị pháp, như là vị xuất gia, vị ly dục, vị tịch diệt, vị đạo… Thưa đức Thế Tôn ! Ví như vàng ròng lẫn lữa đốt đập, nấu tan ra nước, luyện trị thì trở nên sáng sạch, điều hòa, mềm mại, quang sắc vi diệu, giá trị vàng ấy khó lường. Rồi nhiên hậu nó mới của báu quí trọng của người, trời. Thưa đức Thế Tôn ! Ðức Như Lai cũng vậy, có trịnh trọng hỏi han thì mới được nghe thấy ý nghĩa thậm thâm, khiến cho hành giả thọ trì phụng tu sâu sắc, khiến cho vô lượng chúng sinh phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Rồi nhiên hậu họ mới được sự tôn trọng, cung kính, cúng dường.

Lúc bấy giờ, đức Phật khen Bồ tát Ca Diếp rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Ðại Bồ tát vì muốn lợi ích cho các chúng sinh nên hỏi han Như Lai về nghĩa sâu như vậy ! Này thiện nam tử ! Do nghĩa này nên ta theo ý ông nói về pháp Ðại Thừa Phương Ðẳng thậm thâm bí mật là “Cực ái như nhất tử địa”.

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu các Bồ tát tu Từ Bi Hỷ được Nhất tử địa thì khi tu tâm Xả lại được Ðịa gì ?

Ðức Phật đáp rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Ông khéo biết thời cơ, biết ta sắp nói thì ông hỏi đến ! Khi Ðại Bồ tát tu tâm Xả thì được trụ ở Không Bình Ðẳng địa như ông Tu Bồ Ðề. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát trụ ở Không Bình Ðẳng địa thì chẳng thấy có cha mẹ, anh em, chị em, vợ con, thân tộc, bạn bè, kẻ oán người thân… cho đến chẳng thấy ấm, giới, các nhập, chúng sinh, thọ mạng…. Này thiện nam tử ! Ví như hư không không có cha mẹ, anh em, vợ con… cho đến không có chúng sinh, thọ mạng. Tất cả các pháp cũng lại như vậy, không có cha mẹ… cho đến thọ mạng. Ðại Bồ tát thấy tất cả pháp cũng lại như vậy. Tâm Bồ tát ấy bình đẳng như Hư Không kia. Vì sao vậy ? Vì Bồ tát khéo có thể tu tập các pháp không vậy.

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Sao gọi là Không ?

– Này thiện nam tử ! Không là cái gọi là Nội không, Ngoại không, Nội ngoại không, Hữu vi không, Vô vi không, Vô thỉ không, Tính không, Vô sở hữu không, Ðệ nhất nghĩa không, Không không, Ðại không. Sao gọi là Ðại Bồ tát quán đến Nội không? Ðại Bồ tát này quan sát Nội pháp không. Nội pháp không này là không cha mẹ, người oán, kẻ thân, chúng sinh, thọ mạng, Thường Lạc Ngã Tịnh, Như Lai, Pháp, Tăng, tài vật sở hữu. Trong nội pháp này, tuy có Phật tính mà Phật tính đó chẳng phải nội, chẳng phải ngoại. Sở dĩ vì sao ? Vì Phật tính thường trụ, chẳng biến dị vậy. Ðó gọi là Ðại Bồ tát quán đến Nội không. Ngoại không thì cũng lại như vậy, không có nội pháp. Nội ngoại không thì cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Chỉ có Như Lai, Pháp, Tăng, Phật tính là chẳng ở tại hai không. Vì sao vậy ? Vì như vậy là bốn pháp Thường Lạc Ngã Tịnh. Vậy nên bốn pháp chẳng gọi là không. Ðó gọi là Nội, Ngoại đều không. Này thiện nam tử ! Hữu vi không là pháp hữu vi đều là không. Ðó là Nội không, Ngoại không, Nội ngoại không, Thường Lạc Ngã Tịnh không, chúng sinh, thọ mạng, Như Lai, Pháp, Tăng, Ðệ nhất nghĩa không, trong đó Phật tính chẳng phải là pháp hữu vi. Vậy nên Phật tính chẳng phải là Hữu vi pháp không. Ðó gọi là Hữu vi không. Này thiện nam tử! Sao gọi là Ðại Bồ tát quán Vô vi không ? Pháp Vô vi này đều là không. Như không vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã, ấm, giới, nhập, chúng sinh, thọ mạng, tướng, hữu vi, hữu lậu, nội pháp, ngoại pháp. Trong pháp Vô vi, Phật ngang bằng bốn pháp, chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, tính là thiện nên chẳng phải vô vi, tính thường trụ nên chẳng phải hữu vi. Ðó gọi là Bồ tát quán Vô vi không. Sao gọi là Ðại Bồ tát quán Vô thỉ không ? Ðại Bồ tát này thấy sinh tử Vô thỉ (không có bắt đầu), đều là không tịch. Cái gọi không là Thường Lạc Ngã Tịnh đều không tịch không có biến dị, chúng sinh, thọ mạng, Tam bảo, Phật tính và pháp Vô vi. Ðó gọi là Bồ tát quán Vô thỉ không. Sao gọi là Bồ tát quán đến Tính không ? Ðại Bồ tát này quan sát bản tính của tất cả pháp đều không. Những cái gọi là ấm, giới, nhập, thường, vô thường, khổ, lạc, tịnh, bất tịnh, ngã, vô ngã… Bồ tát quan sát tất cả các pháp như vậy mà chẳng thấy bản tính thì đó gọi là Ðại Bồ tát quán đến Tính không. Sao gọi là Ðại Bồ tát quán Vô sở hữu không ? Như người không con nói rằng nhà cửa trống không. Quan sát rốt ráo là không có thân ái. Người ngu si nói rằng, các phương trống không. Người nghèo cùng nói rằng, tất cả rỗng không. Việc kể như vậy thì hoặc không hoặc chẳng phải không. Khi Bồ tát quan sát như người bần cùng, tất cả đều không thì đó gọi là Ðại Bồ tát quán Vô sở hữu không. Sao gọi là Ðại Bồ tát quán Ðệ nhất nghĩa không ? Này thiện nam tử ! Khi Ðại Bồ tát quan sát Ðệ nhất nghĩa thì thấy mắt này khi sinh không có chỗ từ đó lại và khi nó diệt thì ra đi không chỗ đến, xưa không nay có, đã có rồi lại không, tìm kiếm thật tính ấy thì không mắt, không chủ. Như mắt, tất cả các pháp cũng lại như vậy. Sao gọi là Ðệ nhất nghĩa không ? Có nghiệp có báo mà chẳng thấy tác giả, không pháp như vậy gọi là Ðệ nhất nghĩa không. Ðó gọi là Ðại Bồ tát quán Ðệ nhất nghĩa không. Sao gọi là Ðại Bồ tát quán đến Không không ? Trong Không không này mới là chỗ mê đắm của Thanh Văn, Bích Chi Phật. Này thiện nam tử ! Có này, không có này thì đó gọi là Không không. Ðúng này, chẳng phải đúng này thì đó gọi là Không không. Này thiện nam tử ! Bồ tát Thập Trụ còn ở trong đó thông đạt phần ít giống như hạt bụi nhỏ, huống gì là những người còn lại. Này thiện nam tử ! Như vậy Không không cũng chẳng đồng với tam muội Không không sở đắc của Thanh Văn. Ðó gọi là Bồ tát quán đến Không không. Này thiện nam tử ! Sao gọi là Ðại Bồ tát quán đến Ðại không? Này thiện nam tử ! Nói Ðại không thì nghĩa là Bát Nhã Ba la mật. Ðó gọi là Ðại không. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát được không môn như vậy thì được trụ ở Hư Không Ðẳng địa. Này thiện nam tử ! Ta nay ở trong đại chúng này khi nói những nghĩa không như vậy thì có mười hằng hà sa số Ðại Bồ tát liền được trụ ở Hư Không Ðẳng địa. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát trụ ở Ðịa đó rồi thì không có lòng trệ ngại, trói buộc, câu chấp, không còn mê muộn đối với tất cả pháp. Do nghĩa này nên gọi là Hư Không Ðẳng địa. Này thiện nam tử ! Ví như hư không đối với màu sắc đáng yêu chẳng sinh tham trước, ở trong màu sắc chẳng yêu thích chẳng sinh sân nhuế. Ðại Bồ tát trụ trong Ðịa này cũng lại như vậy, đối với sắc đẹp, xấu không phát sinh tham trước, sân nhuế. Này thiện nam tử ! Ví như hư không rộng lớn không gì đối lại đều có thể dung chứa tất cả các pháp. Bồ tát Ma ha tát trụ trong Ðịa này cũng lại như vậy, rộng lớn không gì đối lại đều có thể dung chứa tất cả các pháp. Do nghĩa này nên lại được gọi là Hư Không Ðẳng địa vậy.

Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát trụ trong Ðịa này, đối với tất cả pháp cũng thấy, cũng biết. Hoặc hành, hoặc duyên, hoặc tính, hoặc tướng, hoặc nhân, hoặc duyên, hoặc tâm chúng sinh, hoặc căn, hoặc thiền định, hoặc Thừa, hoặc thiện tri thức, hoặc trì cấm giới, hoặc sở thí.v.v… những pháp như vậy, Bồ tát tất cả đều thấy biết. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát trụ trong Ðịa này, biết mà chẳng thấy. Sao gọi là biết ? Biết pháp tự nhịn đói, gieo xuống vực sâu, nhảy vào lửa đỏ, tự rơi xuống từ núi cao, thường kiễng một chân (co lên một chân), năm lửa nướng thân, thường nằm trên tro đất, gai nhọn, cành bền (đàn cành cây lại với nhau), lá cây, cỏ xấu, phân bò, áo mặc là áo vải thô đồ bỏ ở nghĩa trang rách rưới bẩn thiểu, áo vải Khâm bà la, áo quần bằng rơm cỏ, da hươu nai, ăn rau, ăn trái, củ rễ, cặn dầu, phân trâu, rễ cây, trái cây… Nếu đi xin ăn thì giới hạn một nhà. Người chủ nhà nếu nói rằng, không thì liền bỏ đi. Giả sử người chủ đó gọi lại thì nhất định chẳng quay trở lại, chẳng ăn thịt muối, năm thứ vị của sữa trâu, đồ uống thường là nước trấu, nước sôi, thọ trì giới của trâu, giới của chó gà trĩ, lấy tro bôi thân thể, để tóc dài làm hình tướng, dùng dê khi tế cúng, trước chú nguyện, sau giết thịt, bốn tháng thờ lửa, bảy ngày đớp gió, trăm ngàn ức hoa cúng dường chư Thiên… Những nguyện sở dục nhân vào những việc này mà thành tựu. Những pháp như vậy mà có thể là nhân của giải thoát vô thượng thì điều này không có được. Ðó gọi là Tri. Sao gọi là chẳng thấy ? Ðại Bồ tát chẳng thấy một người tu hành pháp như vậy mà được giải thoát thì đó gọi là chẳng thấy. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát cũng thấy, cũng biết. Những gì là thấy ? Thấy các chúng sinh làm những tà pháp này nhất định rơi vào địa ngục thì đó gọi là thấy. Sao gọi là biết ? Biết những chúng sinh từ địa ngục sinh ra ở trong loài người, nếu có thể tu hành Ðàn Ba la mật… đầy đủ những Ba la mật. Người đó nhất định được vào Chánh giải thoát. Ðó gọi là biết. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát lại có cũng thấy, cũng biết. Sao gọi là thấy ? Thấy thường – vô thường, Khổ – lạc, tịnh – bất tịnh, ngã – vô ngã thì đó gọi là thấy. Sao gọi là biết ? Biết các đức Như Lai nhất định chẳng rốt ráo vào với Niết Bàn. Biết thân Như Lai là Kim Cương chẳng hoại, chẳng phải là thân do phiền não thành tựu, lại chẳng phải là thân xú uế hủ bại. Bồ tát cũng lại có thể biết tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Ðó gọi là biết. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát lại có cũng biết, cũng thấy. Sao gọi là biết ? Biết chúng sinh này thành tựu tín tâm, biết chúng sinh này cầu Ðại Thừa, người này thuận dòng, người này nghịch dòng, người này chánh trụ. Bồ tát biết chúng sinh này đã đến bờ kia, người thuận dòng gọi là người phàm phu, người nghịch dòng là từ bậc Tu Ðà Hoàn… cho đến Duyên Giác, người Chánh trụ gọi là Bồ tát.v.v.., người đến bờ kia tức là Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Ðó gọi là biết. Sao gọi là thấy ? Ðại Bồ tát trụ ở Kinh điển Ðại Thừa Ðại Niết Bàn tu tâm Phạm hạnh, dùng thiên nhãn thanh tịnh thấy các chúng sinh tạo ba nghiệp thân, miệng, ý chẳng lành nên rơi vào địa ngục, súc sinh, ngã quỉ, thấy những chúng sinh tu thiện nghiệp thì mạng chung sẽ nhất định sinh lên trời hay trong loài người, thấy có các chúng sinh từ tối vào tối, có các chúng sinh từ tối vào sáng, có các chúng sinh từ sáng vào tối, có các chúng sinh từ sáng vào sáng. Ðó gọi là thấy. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát lại có cũng biết, cũng thấy. Ðại Bồ tát biết các chúng sinh tu thân tu giới, tu tâm, tu huệ; biết người này đời nay thành tựu nghiệp ác, hoặc nhân tham dục, sân nhuế, ngu si, nghiệp đó nhất định ứng với địa ngục thọ báo; biết người này ngay thẳng do tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ nên đời hiện tại thọ báo nhẹ nhàng, chẳng rơi vào địa ngục. Sao gọi là Nghiệp có thể được hiện báo ? Sám hối phát lộ những việc ác sở hữu. Sau khi đã sám hối rồi lại chẳng dám làm, thành tựu đức tàm quí, cúng dường Tam Bảo, luôn tự quở trách. Do nhân duyên nghiệp thiện này, người đó chẳng rơi vào địa ngục mà ở đời hiện tại thọ quả báo như là đau đầu, đau mắt, đau bụng, đau lưng, chết bất đắc kỳ tử, bị quở trách, mạ nhục, đánh đập, giam cầm đói khát, khốn khổ… Thọ những quả báo nhẹ ở đời hiện tại như vậy thì gọi là Biết. Sao gọi là thấy ? Ðại Bồ tát thấy người như vậy chẳng thể tu tập thân, giới, tâm, tuệ mà tạo chút ít nghiệp ác thì nhân duyên nghiệp này nên thọ báo hiện tại. Người này ít ác, chẳng thể sám hối, chẳng tự quở trách, chẳng sinh tàm quí, không có sợ sệt. Nghiệp này nếu lớn thêm thì thọ quả báo địa ngục. Ðó gọi là thấy. Lại có biết mà chẳng thấy. Sao gọi là biết mà chẳng thấy ? Biết các chúng sinh đều có Phật tính, vì bị sự che phủ của các phiền não nên chẳng thể được thấy. Ðó gọi là biết mà chẳng thấy. Lại có biết mà ít thấy. Ðại Bồ tát Thập Trụ.v.v… biết các chúng sinh đều có Phật tính nhưng thấy chẳng sáng tỏ giống việc nhìn thấy trong đêm tối chẳng rõ ràng. Lại nữa, có cũng thấy, cũng biết. Như là các đức Phật Như Lai cũng thấy, cũng biết, chẳng thấy, chẳng biết. Cũng thấy, cũng biết là gọi văn tự, ngôn ngữ, nam nữ, xe cộ, bình chậu, nhà cửa, thành ấp, quần áo, ăn uống, núi sông, vườn rừng, chúng sinh, thọ mạng… của thế gian. Ðó gọi là cũng biết cũng thấy. Sao gọi là chẳng thấy chẳng biết ? Lời nói vi mật sẵn có của Thánh nhân, không có trai gái… cho đến vườn rừng. Ðó gọi là chẳng thấy chẳng biết. Lại có biết mà chẳng thấy. Biết cái ban cho, biết chỗ cung cấp, biết kẻ thọ nhận, biết nhân quả báo ứng thì đó gọi là biết. Sao gọi là chẳng thấy ? Chẳng thấy cái cho, chỗ cung cấp, người thọ nhận và cả quả báo thì đó gọi là chẳng thấy. Biết của Ðại Bồ tát có tám thứ tức là sự rõ biết của năm mắt Như Lai.

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Ðại Bồ tát như vậy có thể biết được những lợi gì?

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát như vậy có thể iết được bốn vô ngại là pháp vô ngại, nghĩa vô ngại, từ (lời) vô ngại, lạc thuyết vô ngại. Pháp vô ngại là biết tất cả pháp và tên gọi của pháp. Nghĩa vô ngại là biết những nghĩa sở hữu của tất cả pháp, có thể tùy theo sự lập tên gọi của các pháp mà tạo tác nghĩa. Từ vô ngại là tùy theo tự (chữ) luận, chính âm luận, siển đà luận, thế biện luận. Lạc thuyết vô ngại là gọi Ðại Bồ tát phàm có sự diễn nói thì không có chướng ngại, chẳng thể động chuyển, không sự kinh sợ, khó có thể tiêu diệt hàng phục. Này thiện nam tử ! Ðó gọi là Bồ tát có thể như vậy thấy biết liền được bốn vô ngại trí như vậy. Lại nữa, này thiện nam tử ! Pháp vô ngại là Ðại Bồ tát biết khắp cùng pháp của Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát và chư Phật. Nghĩa vô ngại là thừa tuy có ba nhưng biết chúng qui về một, nhất định chẳng cho là có tướng sai khác. Từ vô ngại là Ðại Bồ tát ở trong một pháp tạo tác đủ thứ tên, trải qua vô lượng kiếp, nói chẳng thể cùng tận. Thanh Văn, Duyên Giác mà có thể tạo tác sự nói năng này thì không có điều đó. Lạc thuyết vô ngại là Ðại Bồ tát ở vô lượng kiếp, vì các chúng sinh diễn nói các pháp mà hoặc tên gọi, hoặc ý nghiã, đủ thứ sai khác, nói chẳng thể cùng tận. Lại nữa, này thiện nam tử ! Pháp vô ngại là Ðại Bồ tát tuy biết các pháp mà chẳng thủ trước. Nghĩa vô ngại là Ðại Bồ tát tuy biết các nghĩa mà chẳng thủ trước. Tư vô ngại là Ðại Bồ tát tuy biết tên gọi mà cũng chẳng thủ trước. Lạc thuyết vô ngại là Ðại Bồ tát tuy biết lạc thuyết tối thượng như vậy mà cũng chẳng thủ trước. Vì sao vậy ? Này thiện nam tử ! Vì nếu thủ trước thì chẳng gọi là Bồ tát.

Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu chẳng thủ trước thì chẳng biết pháp. Nếu biết pháp thì tức là thủ trước. Nếu biết pháp mà chẳng thủ trước thì không có cái để biết làm sao đức Như Lai nói rằng, biết pháp mà chẳng thủ trước.

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Phàm đã thủ trước thì chẳng gọi là Vô ngại. Không có sự thủ trước mới gọi là vô ngại. Này thiện nam tử ! Vậy nên tất cả các Bồ tát.v.v… có thủ trước thì không có vô ngại mà nếu không có vô ngại thì chẳng gọi là Bồ tát, phải biết rằng, người này gọi là Phàm phu. Vì sao thủ trước gọi là Phàm phu ? Vì tất cả phàm phu thủ trước đối với sắc… cho đến thủ trước đối với thức. Do thủ trước sắc nên sinh ra lòng tham mà sinh lòng tham nên bị sắc trói buộc… cho đến bị sự trói buộc của thức. Do bị trói buộc nên chẳng được khỏi sinh, già, bệnh, chết, ưu, bi, tất cả phiền não đại khổ. Vậy nên thủ trước gọi là phàm phu. Do nghĩa này nên tất cả phàm phu không có bốn vô ngại. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát đã ở trong vô lượng atăngkỳ kiếp, thấy biết pháp tướng. Do thấy biết nên biết được nghĩa của những pháp ấy. Do thấy pháp tướng và biết cả nghĩa nên ở trong sắc mà chẳng sinh chấp trước ràng buộc… cho đến ở trong thức cũng lại như vậy. Do chẳng thủ trước nên Bồ tát đối với sắc chẳng sinh lòng tham… cho đến ở trong thức cũng chẳng sinh tham. Do không tham nên chẳng bị sự trói buộc của sắc… cho đến chẳng bị sự trói buộc của Thức. Do chẳng bị trói buộc nên được thoát khỏi ưu bi của sinh già bịnh chết và tất cả phiền não đại khổ. Do nghĩa này nên tất cả Bồ tát được bốn vô ngại. Này thiện nam tử ! Do nhân duyên này nên ta vì đệ tử, trong mười hai bộ Kinh, nói rằng buộc chấp trước thì gọi là sự trói buộc của ma. Nếu chẳng thủ trước thì thoát khỏi sự ràng buộc của ma. Ví như người thế gian có tội bị sự trói buộc của vua, người không tội thì vua chẳng thể trói buộc. Ðại Bồ tát cũng lại như vậy, có sự trói buộc thủ trước thì bị sự trói buộc của ma, không có sự trói buộc thủ trước thì ma chẳng thể ràng buộc. Do nghĩa này nên Ðại Bồ tát không sở trước.

Lại nữa, này thiện nam tử ! Pháp vô ngại là Ðại Bồ tát khéo biết thủ trì mà chẳng quên mất. Cái để thủ trì đó là như đất, như núi, như mắt, như mây, như người, như mẹ… tất cả các pháp cũng lại như vậy. Nghĩa vô ngại là Bồ tát tuy biết tên gọi các pháp mà chẳng biết nghĩa. Bồ tát được nghĩa vô ngại thì biết nghĩa của những pháp ấy. Sao gọi là biết nghĩa ? Gọi đất giữ gìn là như đất giữ gìn khắp tất cả chúng sinh và chẳng phải chúng sinh. Do nghĩa này nên gọi là Ðịa trì (đất giữ gìn). Này thiện nam tử ! Gọi sơn trì (núi giữ gìn) là Ðại Bồ tát khởi lên suy nghĩ rằng : “Vì sao gọi là núi mà giữ gìn vậy ? Núi có thể giữ gìn đất khiến cho không khuynh động. Vậy nên gọi là Trì. Vì sao lại gọi mắt là trì vậy ? Mắt có thể giữ ánh sáng nên gọi là trì. Vì sao lại gọi Vân là trì vậy ? Mây gọi là hơi rồng (long khí), hơi rồng giữ nước nên gọi là Vân trì. Vì sao lại gọi Nhân là trì vậy ? Vì người có thể giữ gìn pháp và cả phi pháp nên gọi là Nhân trì. Vì sao lại gọi Mẫu là trì vậy ? Vì mẹ có thể giữ gìn con nên gọi là Mẫu trì. Ðại Bồ tát biết tên gọi câu nghĩa của tất cả pháp cũng lại như vậy. Từ vô ngại là Ðại Bồ tát dùng đủ thứ lời để diễn nói một nghĩa, cũng không có nghĩa, giống như tên gọi trai, gái, nhà cửa, xe cộ, chúng sinh.v.v… vì sao vô nghĩa ? Này thiện nam tử ! Phàm là nghĩa thì mới là cảnh giới của các đức Phật, Bồ tát. Từ là cảnh giới của phàm phu. Do biết nghĩa nên được từ vô ngại. Lạc thuyết vô ngại là Ðại Bồ tát biết từ, biết nghĩa nên ở trong vô lượng atăngkỳ kiếp, nói từ nói nghĩa mà chẳng thể cùng tận. Ðó gọi là Lạc thuyết vô ngại. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát ở trong vô lượng atăngkỳ kiếp đã tu hành Thế Ðế. Do đã tu hành nên biết pháp Vô ngại. Bồ tát lại ở vô lượng atăngkỳ kiếp tu Ðệ nhất nghĩa đế nên được nghĩa vô ngại, cũng ở vô lượng atăngkỳ kiếp tập Tỳ Dà La Na luận nên được từ vô ngại, cũng ở vô lượng atăngkỳ kiếp tu tập nói thế đế luận nên được Lạc thuyết vô ngại. Này thiện nam tử ! Thanh Văn, Duyên Giác nếu có được bốn vô ngại này thì không có điều đó. Này thiện nam tử ! Trong chín bộ Kinh ta nói, người Thanh Văn, Duyên Giác có bốn vô ngại, nhưng hàng Thanh Văn, Duyên Giác chân thật không có. Vì sao vậy ? Vì Ðại Bồ tát vì độ chúng sinh nên tu bốn trí vô ngại như vậy. Người Duyên Giác tu pháp Tịch diệt , chí ưa chỗ một mình. Nếu giáo hóa chúng sinh thì chỉ hiện thần thông, trọn ngày lặng thinh, không tuyên thuyết điều gì cả thì sao phải có bốn trí vô ngại ? Vì sao lặng thinh mà không nói điều gì ? Vì Duyên Giác chẳng thể nói pháp độ người, khiến cho họ được pháp noãn, pháp đỉnh, pháp nhẫn, pháp thế đệ nhất, Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán, Bích Chi Phật, Ðại Bồ tát và chẳng thể khiến cho người phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vì sao vậy ? Này thiện nam tử ! Duyên Giác ra đời, thế gian không có chín bộ Kinh điển. Vậy nên Duyên Giác không có từ vô ngại và lạc thuyết vô ngại. Này thiện nam tử ! Người Duyên Giác tuy biết các pháp nhưng không có pháp vô ngại. Vì sao vậy ? Vì pháp vô ngại thì gọi là biết chữ (tri tự). Người Duyên Giác tuy biết văn tự nhưng không có Tự Vô ngại. Vì sao vậy ? Vì họ chẳng biết hai chữ Thường trụ. Vậy nên Duyên Giác chẳng được Pháp vô ngại. Người Duyên Giác tuy biết được nghĩa nhưng không có nghĩa vô ngại. Chân thật biết nghĩa là biết các chúng sinh đều có Phật tính. Nghĩa của Phật tính thì gọi là Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Do nghĩa này nên người Duyên Giác chẳng được nghĩa vô ngại. Vậy nên Duyên Giác, tất cả không có bốn trí vô ngại. Sao gọi là Thanh Văn không bốn vô ngại ? Người Thanh Văn không có ba thứ phương tiện khéo léo. Những gì là ba? Một là nhất định cần lời dịu dàng, nhiên hậu thọ pháp. Hai là nhất định cần lời thô tháo, nhiên hậu thọ hóa. Ba là chẳng dịu dàng, chẳng thô tháo, nhiên hậu thọ hóa. Người Thanh Văn không có ba thứ này nên không bốn vô ngại. Lại nữa, Thanh Văn, Duyên Giác chẳng thể rốt ráo biết từ, biết nghĩa, không trí tự tại biết được cảnh giới, không có mười lực, bốn vô sở úy, chẳng thể rốt ráo qua được dòng sông lớn mười hai nhân duyên, chẳng thể giỏi biết các căn lợi, độn sai khác của chúng sinh, chưa thể đoạn trừ vĩnh viễn lòng nghi hoặc hai đế (?) chẳng biết cảnh giới sở duyên của đủ thứ các tâm chúng sinh, chẳng thể khéo nói Ðệ nhất nghĩa không. Vậy nên hàng Nhị thừa không có bốn vô ngại.

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu những người Thanh Văn, Duyên Giác, tất cả không có bốn vô ngại thì sao đức Thế Tôn nói rằng, Xá Lợi Phất trí tuệ đệ nhất, Ðại Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất, Ma Ha Câu Hy La bốn vô ngại đệ nhất. nếu như những vị ấy không thì vì sao đức Như Lai nói như vậy ?

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen ngài Ca Diếp rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Ví như sông Hằng có vô lượng nước, nước sông lớn Tân Ðầu cũng vô lượng, nước sông lớn Bác Xoa cũng vô lượng, nước sông lớn Tất (Tư) Ðà cũng vô lượng, nước ao A Nậu Ðạt cũng vô lượng, nước trong biển cả cũng vô lượng. Như vậy những lượng nước tuy đồng là vô lượng, nhưng nước ấy nhiều ít thật ra chẳng ngang bằng. Bốn trí vô ngại của Thanh Văn, Duyên Giác và các Bồ tát cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Nếu nói ngang bằng thì không có điều đó. Này thiện nam tử ! Ta vì phàm phu mà nói rằng, Ma Ha Câu Hy La thì bốn trí vô ngại là tối đệ nhất. Về câu hỏi của ông thì nghĩa ấy là như vậy. Này thiện nam tử ! Người Thanh Văn hoặc có được một, hoặc có được hai, còn nếu đầy đủ cả bốn thì không có điều đó.

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Như lời nói trước đây của đức Phật, trong phẩm Phạm Hạnh, Bồ tát thấy biết được bốn vô ngại. Nếu Bồ tát thấy biết thì không sở đắc, cũng không có lòng nói rằng, không sở đắc. Thưa đức Thế Tôn ! Ðại Bồ tát này chân thật không sở đắc. Nếu khiến cho lòng Bồ tát có được thì chẳng phải Bồ tát mà gọi là phàm phu. Thế sao đức Như Lai nói rằng, Bồ tát mà có sở đắc ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Hay thay ! Hay thay ! Ðiều ta sắp muốn nói mà ông lại hỏi ! Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát thật không có sở đắc mà không sở đắc thì gọi là bốn Vô ngại. Này thiện nam tử ! Do nghĩa này nên không sở đắc thì gọi là Vô ngại. Nếu có sở đắc thì gọi là Ngại mà có chướng ngại thì gọi là bốn điên đảo. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát không có bốn điên đảo nên được Vô ngại. Vậy nên Bồ tát gọi là Vô sở đắc. Lại nữa, này thiện nam tử ! Vô sở đắc thì gọi là Tuệ. Ðại Bồ tát được tuệ như vậy gọi là vô sở đắc. Có vô sở đắc gọi là vô minh. Bồ tát vĩnh viễn không có vô minh ám tối, nên gọi là vô sở đắc. Như vậy nên gọi Bồ tát là vô sở đắc. Lại nữa, này Thiện nam tử Vô sở đắc gọi là Ðại Niết Bàn. Ðại Bồ tát an trụ trong Ðại Niết Bàn như vậy thì chẳng thấy tính tướng của tất cả các pháp. Vậy nên Bồ tát gọi là Vô sở đắc. Có sở đắc thì gọi là hai mươi lăm Hữu mà Bồ tát đoạn trừ vĩnh viễn hai mươi lăm Hữu, được Ðại Niết Bàn. Vậy nên Bồ tát gọi là Vô sở đắc. Lại nữa, này thiện nam tử ! Vô sở đắc thì gọi là Ðại Thừa. Ðại Bồ tát chẳng trụ ở các pháp nên được Ðại Thừa. Vậy nên Bồ tát gọi là Vô sở đắc. Có sở đắc thì gọi là đạo Thanh Văn, Bích Chi Phật. Bồ tát đoạn trừ vĩnh viễn đạo Nhị thừa nên được Phật đạo. Vậy nên Bồ tát gọi là Vô sở đắc. Lại nữa, này thiện nam tử ! Vô sở đắc thì gọi là Kinh Phương Ðẳng. Ðại Bồ tát đọc tụng Kinh như vậy nên được Ðại Niết Bàn. Vậy nên Bồ tát gọi là Vô sở đắc. Có sở đắc thì gọi là mười hai bộ Kinh. Việc tu hành của Bồ tát, thuần nói Kinh điển Ðại Thừa Phương Ðẳng. Vậy nên Bồ tát gọi là Vô sở đắc. Lại nữa, này thiện nam tử ! Vô sở đắc thì gọi là là Hư không. Thế gian không có vật gọi là hư không. Bồ tát được Hư không tam muội này thì không sở kiến. Vậy nên Bồ tát gọi là Vô sở đắc. Có sở đắc thì gọi là sinh tử luân (bánh xe sinh tử). Tất cả phàm phu luân hồi sinh tử nên có sở kiến. Bồ tát đoạn trừ vĩnh viễn tất cả sinh tử. Vậy nên Bồ tát gọi là Vô sở đắc. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát không sở đắc thì gọi là Thường Lạc Ngã Tịnh. Ðại Bồ tát thấy Phật tính nên được Thường Lạc Ngã Tịnh. Vậy nên Bồ tát gọi là Vô sở đắc. Có sở đắc thì gọi là vô thường vô lạc vô ngã vô tịnh. Ðại Bồ tát đoạn trừ vô thường vô lạc vô ngã vô tịnh này. Vậy nên Bồ tát gọi là Vô sở đắc. Lại nữa, này thiện nam tử ! Vô sở đắc thì gọi là Ðệ Nhất Nghĩa Không. Ðại Bồ tát quan sát Ðệ Nhất Nghĩa Không đều không sở kiến. Vậy nên Bồ tát gọi là Vô sở đắc. Có sở đắc thì gọi là ngũ kiến (năm thứ thấy). Bồ tát đoạn trừ vĩnh viễn ngũ kiến này nên được Ðệ Nhất Nghĩa Không. Vậy nên Bồ tát gọi là Vô sở đắc. Lại nữa, này thiện nam tử ! Vô sở đắc thì gọi là Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Khi Ðại Bồ tát được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì đều không sở kiến. Vậy nên Bồ tát gọi là Vô sở đắc. Có sở đắc thì gọi là Bồ Ðề của Thanh Văn, Duyên Giác. Bồ tát vĩnh viễn đoạn dứt Bồ Ðề của Nhị thừa. Vậy nên Bồ tát gọi là Vô sở đắc. Này thiện nam tử ! Câu hỏi của ông cũng không sở đắc, lời nói của ta cũng không sở đắc. Nếu nói có sở đắc là quyến thuộc của ma, chẳng phải là đệ tử của ta !

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Vì khi lời nói của con là Bồ tát không sở đắc thì vô lượng chúng sinh đoạn trừ tâm hữu tưởng. Do việc này nên con mới dám hỏi han về nghĩa của Vô sở đắc, khiến cho vô lượng chúng sinh như vậy .v.v… lìa khỏi quyến thuộc của ma, làm đệ tử của đức Phật.

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Ðức Như Lai trước ở vùng Ta La Song Thọ vì ông Thuần Ðà nói kệ rằng :

Vốn có nay không

Vốn không hay có,

Pháp ba đời có

Ðiều này thì không.

Thưa đức Thế Tôn ! Nghĩa này thế nào ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Ta vì hóa độ các chúng sinh mà nói lời đó, cũng vì Thanh Văn, Bích Chi Phật mà nói lời đó, cũng vì Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử mà nói lời đó, chứ chẳng chính vì Thuần Ðà, một người mà nói bài kệ đó. Văn Thù Sư Lợi sắp muốn hỏi ta, ta biết ý ông ấy mà vì ông ấy nói đó. Ta đã nói rồi thì Văn Thù Sư Lợi liền được hiểu rõ.

Bồ tát Ca Diếp thưa rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Như Văn Thù.v.v… há có bao nhiêu người có thể rõ nghĩa này ? Nguyện xin đức Thế Tôn lại vì đại chúng phân biệt giảng nói rộng rãi !

– Này thiện nam tử ! Hãy lắng nghe ! Lắng nghe ! Nay ta sẽ vì ông diễn bày vấn đề đó một lần nữa. Nói rằng, vốn có là Ngã thuở xưa vốn có vô lượng phiền não. Do phiền não nên hiện tại không có Ðại Bát Niết Bàn. Nói rằng vốn không là vốn không Bát Nhã Ba la mật. Do không Bát Nhã Ba la mật nên hiện tại có đủ các phiền não kết. Nếu có Samôn, hoặc Bà la môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc Phạm, hoặc người… nói rằng, Như Lai quá khứ, vị lai và hiện tại có phiền não, thì không có điều đó. Lại nữa, này thiện nam tử ! Nói rằng, vốn có là Ngã thuở xưa vốn có thân cha mẹ hòa hợp. Vậy nên hiện tại không có thân pháp Kim Cương vi diệu. Nói rằng, vốn không là thân của Ngã không có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Do không có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp nên hiện tại có đủ bốn trăm linh bốn bệnh. Nếu Samôn, hoặc Bà la môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc Phạm, hoặc người… nói rằng, Như Lai quá khứ, vị lai và hiện tại có bịnh khổ, thì không có điều đó. Lại nữa, này thiện nam tử ! Nói rằng, vốn có là Ngã xưa vốn vô thường vô lạc vô ngã vô tịnh. Do vô thường vô lạc vô ngã vô tịnh nên hiện tại không có Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nói rằng, vốn không là vốn chẳng thấy Phật tính. Do chẳng thấy Phật tính nên không có Thường Lạc Ngã Tịnh. Nếu có Samôn, hoặc Bà la môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc Phạm, hoặc người… nói rằng, Như Lai quá khứ, vị lai và hiện tại không có Thường Lạc Ngã Tịnh, thì không có điều đó. Lại nữa, này thiện nam tử ! Nói rằng, vốn có là vốn có tâm phàm phu tu khổ hạnh cho là được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Do việc này nên hiện tại chẳng thể phá hoại bốn ma. Nói rằng, vốn không là Ngã vốn không có sáu Ba la mật. Do vốn không có sáu Ba la mật nên tâm tu hành khổ hạnh phàm phu, gọi là được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nếu có Samôn, hoặc Bà la môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc Phạm, hoặc người… nói rằng, Như Lai quá khứ, vị lai và hiện tại có khổ hạnh, thì không có điều đó. Lại nữa, này thiện nam tử ! Nói rằng, vốn có là Ngã xưa vốn có thân tạp thực. Do thân tạp thực nên hiện tại không có thân vô biên. Nói rằng, vốn không là vốn không có ba mươi bảy pháp trợ đạo. Do không có ba mươi bảy pháp trợ đạo nên hiện tại có đủ thân tạp thực. Nếu có Samôn, hoặc Bà la môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc Phạm, hoặc người… nói rằng, Như Lai quá khứ, vị lai và hiện tại có thân tạp thực, thì không có điều đó. Lại nữa, này thiện nam tử ! Nói rằng, vốn có là Ngã, xưa vốn có lòng thủ trước trong tất cả pháp. Do việc này nên hiện tại không có rốt ráo không định. Nói rằng, vốn không là Ngã vốn không có nghĩa thật của trung đạo. Do không có nghĩa chân thật của trung đạo nên đối với tất cả pháp có lòng thủ trước. Nếu có Samôn, hoặc Bà la môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc Phạm, hoặc người… nói rằng, Như Lai quá khứ, vị lai và hiện tại nói tất cả pháp là có tướng, thì không có điều đó. Lại nữa, này thiện nam tử ! Nói rằng, vốn có là Ngã đầu tiên khi được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, có các đệ tử Thanh Văn độn căn. Do có đệ tử Thanh Văn độn căn nên chẳng được diễn nói Nhất Thừa chân thật. Nói rằng, vốn không là vốn không có tượng vương trong người lợi căn như Bồ tát Ca Diếp.v.v… Do không có người lợi căn như Ca Diếp.v.v… nên tùy nghi dùng phương tiện khai thị ba thừa. Nếu có Samôn, hoặc Bà la môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc Phạm, hoặc người… nói rằng, Như Lai quá khứ, vị lai và hiện tại, rốt ráo diễn nói pháp ba thừa, thì không có điều đó. Lại nữa, này thiện nam tử ! Nói rằng, vốn có là Ta vốn nói rằng, lui về sau ba tháng, ở Ta La Song Thọ, sẽ vào Niết Bàn. Vậy nên hiện tại chẳng được nói kinh điển Ðại Phương Ðẳng Ðại Bát Niết Bàn. Nói rằng, vốn không là vốn xưa không có Ðại Bồ tát Văn Thù Sư Lợi.v.v… Do không có nên hiện tại nói rằng, Như Lai vô thường. Nếu có Samôn, hoặc Bà la môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc Phạm, hoặc người… nói rằng, Như Lai quá khứ, vị lai và hiện tại là vô thường thì không có điều đó.

Này thiện nam tử ! Như Lai khắp vì các chúng sinh nên tuy biết các pháp, nhưng nói rằng, chẳng biết, tuy thấy các pháp nhưng nói rằng, chẳng thấy, có pháp tướng mà nói rằng vô tướng, không pháp tướng nói rằng hữu tướng, thật có vô thường nói rằng có thường, thật có hữu thường nói rằng vô thường. Lạc, Ngã, Tịnh.v.v… cũng lại như vậy. Pháp ba thừa nói rằng một thừa, pháp một thừa, tùy nghi nói ba thừa, tướng lược nói rộng, tướng rộng nói lược, bốn trọng pháp nói Du Lan Già, Du Lan Già nói bốn trọng pháp, phạm nói chẳng phải phạm, chẳng phải phạm nói phạm (hủy phạm), khinh tội nói trọng, trọng tội nói khinh. Vì sao vậy ? Vì Như Lai thấy rõ ràng căn của chúng sinh. Này thiện nam tử ! Như Lai tuy nói thế nhưng nhất định không hư vọng. Vì sao vậy ? Vì lời nói hư vọng tức là tội lỗi. Như Lai đã đoạn dứt hết tất cả tội lỗi thì làm sao sẽ có lời hư vọng vậy ? Này thiện nam tử ! Như Lai tuy lời nói không hư vọng nhưng nếu biết chúng sinh nhân hư vọng mà nói được pháp lợi thì Như Lai tùy nghi phương tiện vì họ nói pháp. Này thiện nam tử ! Tất cả thế đế, nếu đối với Như Lai thì tức là Ðệ nhất nghĩa đế. Vì sao vậy ? Vì các đức Phật Thế Tôn vì Ðệ nhất nghĩa đế nên nói đến Thế đế, cũng khiến cho chúng sinh được Ðệ nhất nghĩa đế. Nếu khiến cho chúng sinh chẳng được Ðệ nhất nghĩa đế như vậy thì các đức Phật nhất định chẳng tuyên nói Thế đế. Này thiện nam tử ! Có lúc Như Lai diễn nói Thế đế mà các chúng sinh gọi là Phật nói Ðệ nhất nghĩa đế. Có lúc diễn nói Ðệ nhất nghĩa đế mà các chúng sinh gọi là Phật diễn nói Thế đế. Ðó là cảnh giới thậm thâm của các đức Phật, chẳng phải là sự hiểu biết của hàng Thanh Văn, Duyên Giác. Này thiện nam tử ! Vậy nên ông trước chẳng nên nạn vấn, Ðại Bồ tát vô sở đắc vậy. Bồ tát thường được Ðệ nhất nghĩa đế thì sao nạn vấn là không sở đắc vậy ?

Ngài Ca Diếp lại nói rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Ðệ nhất nghĩa đế cũng gọi là Ðạo, cũng gọi là Bồ Ðề, cũng gọi là Niết Bàn. Nếu có Bồ tát nói rằng, có được Ðạo, Bồ Ðề, Niết Bàn thì tức là vô thường. Vì sao vậy ? Vì Pháp, nếu thường thì không thể được, giống như hư không thì ai có được nào ? Thưa đức Thế Tôn ! Như vật của thế gian vốn không mà nay có nên gọi là vô thường. Ðạo cũng như vậy, Ðạo nếu được thì gọi là vô thường.Pháp, nếu Thường thì không được, không sinh, giống như Phật tính không được, không sinh. Thưa đức Thế Tôn ! Phàm là Ðạo thì chẳng phải sắc, chẳng phải chẳng sắc, chẳng dài, chẳng ngắn, chẳng phải cao, chẳng phải thấp, chẳng phải sinh, chẳng phải diệt, chẳng phải đỏ, chẳng phải trắng, chẳng phải xanh, chẳng phải vàng, chẳng phải có, chẳng phải không… thì sao đức Như Lai nói rằng có thể được Bồ Ðề, Niết Bàn cũng lại như vậy.

Ðức Phật dạy rằng :

– Ðúng vậy ! Ðúng vậy ! Này thiện nam tử ! Ðạo có hai thứ, một là Thường, hai là Vô thường. Tướng Bồ Ðề cũng có hai thứ, một là Thường, hai là Vô thường. Niết Bàn cũng vậy. Ðạo của ngoại đạo thì gọi là vô thường. Ðạo của nội đạo thì gọi là thường. Bồ Ðề sở hữu của Thanh Văn, Duyên Giác thì gọi là vô thường. Bồ Ðề sở hữu của các đức Phật, Bồ tát thì gọi là thường. Giải thoát bên ngoài thì gọi là vô thường. Giải thoát bên trong thì gọi đó là thường. Này thiện nam tử ! Ðạo cùng Bồ Ðề và cả Niết Bàn đều gọi là thường. Tất cả chúng sinh thường bị sự che phủ của vô lượng phiền não, không có tuệ nhãn nên chẳng thể được thấy. Nhưng mà các chúng sinh vì muốn thấy nên tu Giới, Ðịnh, Tuệ. Do tu hành nên họ thấy Ðạo, Bồ Ðề và cả Niết Bàn. Ðó gọi là Bồ tát được Ðạo, Bồ Ðề và Niết Bàn vậy. Tính tướng của Ðạo thật chẳng sinh diệt. Do nghĩa này nên chẳng thể nắm biết. Này thiện nam tử ! Ðạo tuy không sắc tượng để có thể thấy, xưng lường, có thể biết mà thật hữu dụng. Này thiện nam tử ! Như tâm chúng sinh tuy chẳng phải là sắc, chẳng phải dài, chẳng phải ngắn, chẳng phải thô, chẳng phải tế (nhỏ mịn), chẳng phải trói, chẳng phải mở (cởi), chẳng phải là thấy pháp mà cũng là có. Do nghĩa này nên ta vì ông Tu Ðạt nói rằng, lòng trưởng giả làm chủ ngôi thành. Nếu trưởng giả chẳng hộ trì tâm thì chẳng hộ trì thân, miệng, nếu đã hộ trì tâm thì hộ trì thân, miệng. Do chẳng khéo hộ trì thân miệng này nên khiến cho các chúng sinh đến ba đường ác. Hộ trì thân miệng thì khiến cho chúng sinh được Niết Bàn người, trời, được gọi là Chân thật, nếu chẳng được thì gọi là chẳng chân thật. Này thiện nam tử ! Ðạo cùng Bồ Ðề và cả Niết Bàn cũng lại như vậy, cũng có cũng thường. Như những điều ấy không thì làm sao có thể đoạn tất cả phiền não ? Do những điều ấy có nên tất cả Bồ tát tỏ rõ thấy biết. Này thiện nam tử ! Thấy có hai thứ, một là thấy tướng mạo, hai là thấy tỏ rõ. Sao gọi là thấy tướng mạo ? Như từ xa thấy khói thì gọi là thấy lửa mà thật chẳng thấy lửa. Tuy chẳng thấy lửa nhưng cũng chẳng phải hư vọng. Thấy chim hạc trong không liền nói rằng thấy nước. Tuy chẳng thấy nước, nhưng cũng chẳng phải hư vọng. Như thấy hoa lá liền nói thấy rễ cây. Tuy chẳng thấy rễ cây nhưng chẳng phải hư vọng. Như người xa xa thấy sừng trâu ở bờ dậu liền nói thấy trâu. Tuy chẳng thấy trâu nhưng cũng chẳng phải hư vọng. Như thấy nữ nhân mang thai, liền nói thấy dục. Tuy chẳng thấy dục nhưng cũng chẳng phải hư vọng. Như thấy cây sinh ra lá liền nói thấy nước. Tuy chẳng thấy nước nhưng cũng chẳng phải hư vọng. Lại như thấy mây liền nói rằng thấy mưa. Tuy chẳng thấy mưa nhưng cũng chẳng phải hư vọng. Như thấy thân nghiệp và cả khẩu nghiệp liền nói rằng thấy tâm. Tuy chẳng thấy tâm nhưng cũng chẳng phải hư vọng… Ðó gọi là thấy tướng mạo. Sao gọi là thấy tỏ rõ (liễu liễu) ? Như mắt thấy sắc. Này thiện nam tử ! Như nhãn căn của người thanh tịnh, chẳng hoại, tự xem trái cây A Ma Lặc trongh bàn tay. Ðại Bồ tát thấy tỏ rõ Ðạo, Bồ Ðề, Niết Bàn cũng lại như vậy. Tuy thấy tướng vô kiến đầu tiên như vậy, này thiện nam tử ! Nhưng do nhân duyên này nên ta thuở trước bảo ông Xá Lợi Phất : “Tất cả thế gian, nếu có sự chẳng biết, chẳng thấy, chẳng giác của Samôn, hoặc Bà la môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc phạm, hoặc người… thì chỉ có Như Lai là biết, thấy, giác hết và các Bồ tát cũng lại như vậy. Này Xá Lợi Phất ! Nếu có sự thấy, biết, giác của các thế gian thì ta cùng Bồ tát cũng biết, thấy, giác. Sự chẳng biết, chẳng thấy, chẳng giác của chúng sinh thế gian, họ cũng chẳng tự biết chẳng biết, thấy giác sự biết, thấy, giác của chúng sinh thế gian nên liền tự nói rằng, ta biết, thấy, giác. Này Xá Lợi Phất ! Như Lai, tất cả đều biết, thấy, giác mà cũng chẳng tự nói rằng, ta biết, thấy, giác, tất cả Bồ tát cũng lại như vậy. Vì sao vậy ? Vì nếu giả sử Như Lai tạo tác tướng biết, thấy, giác thì phải biết đó chẳng phải là Phật Thế Tôn mà gọi là Phàm phu. Bồ tát cũng vậy”.

*********

Bồ tát Ca Diếp nói rằng :

– Như đức Phật Thế Tôn vì ngài Xá Lợi Phất nói về sự hiểu biết của thế gian thì con cũng được biết. Nói về sự chẳng biết của thế gian thì con cũng đều biết. Nghĩa ấy thế nào ?

– Này thiện nam tử ! Tất cả thế gian chẳng biết, chẳng thấy, chẳng giác Phật tính. Nếu có người biết – thấy – giác Phật tính thì chẳng gọi là thế gian mà gọi là Bồ tát. Người thế gian cũng lại chẳng biết, chẳng thấy, chẳng giác mười hai bộ Kinh, mười hai nhân duyên, bốn điên đảo, bốn đế, ba mươi bảy phẩm, Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, Ðại Bát Niết Bàn mà nếu họ biết – thấy – giác thì chẳng gọi là Thế gian, phải gọi là Bồ tát. Này thiện nam tử ! Ðó gọi là thế gian chẳng biết, chẳng giác. Sao gọi là sự biết – thấy – giác của thế gian ? Ðó là gọi Phạm thiên, Tự Tại thiên, Bát Tý thiên… Khi tính vi trần thì pháp và phi pháp là chủ tạo hóa, thế giới chung – thỉ, đoạn – thường hai kiến. Nói rằng, Sơ thiền cho đến Phi phi tưởng gọi là Niết Bàn, này thiện nam tử ! Ðó gọi là sự biết – thấy – giác của thế gian. Ðại Bồ tát đối với việc như vậy cũng biết – thấy – giác. Bồ tát biết – thấy – giác như vậy rồi, nếu nói rằng, chẳng biết, chẳng thấy, chẳng giác thì đó là hư vọng mà pháp hư vọng thì tức là tội. Vì là tội nên đọa vào địa ngục. Này thiện nam tử ! Hoặc nam, hoặc nữ, hoặc Samôn, hoặc Bàlamôn nói rằng, không có Ðạo, Bồ Ðề, Niết Bàn thì phải biết bọn người này gọi là Nhất xiển đề, quyến thuộc của ma gọi là bài báng pháp. Bài báng pháp như vậy gọi là bài báng chư Phật. Người như vậy chẳng gọi là thế gian, chẳng gọi là chẳng phải thế gian.

Bấy giờ, Bồ tát Ca Diếp nghe việc như vậy rồi liền dùng kệ tụng mà khen ngợi đức Phật rằng :

Ðấng thương xót sinh chúng

Nên nay con về nương

Khéo nhổ mọi tên độc

Nên xưng Ðại Y Vương.

Dùng thế y trị liệu

Tuy khỏi nhưng lại sinh.

Sự trị liệu của Phật

Chẳng tái phát, rốt cùng.

Thuốc cam lộ của Phật

Ðem ban cho chúng sinh

Mà chúng sinh đã uống

Thì chẳng chết, chẳng sinh.

Vì con nay đức Phật

Diễn nói Ðại Niết Bàn.

Chúng sinh nghe bí tạng

Chẳng sinh diệt được liền.

Bồ tát Ca Diếp nói bài kệ này rồi, liền bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Như lời đức Phật nói, tất cả thế gian chẳng biết, thấy, giác, Bồ tát đều có thể biết, thấy, giác. Nếu giả sử Bồ tát là người thế gian thì chẳng được nói rằng, thế gian chẳng biết, chẳng thấy, chẳng giác mà Bồ tát này có thể biết, thấy, giác. Nếu chẳng phải thế gian thì có tướng gì khác ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Nói rằng, Bồ tát thì cũng là thế gian, cũng chẳng phải thế gian. Chẳng biết, thấy, giác thì gọi là thế gian, còn biết, thấy, giác thì chẳng gọi là thế gian. Ông nói rằng, có gì khác, thì ta nay sẽ nói ! Này thiện nam tử ! Hoặc nam hoặc nữ, nếu có nghe Kinh Niết Bàn này đầu tiên mà liền sinh ra kính tín phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì đó gọi là Bồ tát thế gian. Tất cả thế gian chẳng biết – thấy – giác thì như vậy Bồ tát cũng đồng thế gian chẳng biết – thấy – giác. Bồ tát nghe Kinh Niết Bàn này rồi biết có thế gian chẳng biết – thấy – giác. Bồ tát biết – thấy – giác này biết việc đó rồi liền tự tư duy : “Ta phải làm sao dùng phương tiện tu tập cho được biết – thấy – giác”. Rồi lại tự nghĩ rằng : “Chỉ phải thâm tâm tu trì tịnh giới !” Này thiện nam tử ! Bấy giờ, Bồ tát do nhân duyên này, vào đời vị lai ở tại chỗ sinh đến, giới thường thanh tịnh. Ðại Bồ tát do giới thanh tịnh nên ở tại chỗ sinh đến, thường không kiêu mạn, tà kiến, nghi hoặc và nhất định chẳng nói rằng, Như Lai rốt ráo vào với Niết Bàn. Ðó gọi là Bồ tát tu trì tịnh giới. Giới đã thanh tịnh, tiếp theo là tu Thiền định. Do tu Ðịnh nên ở tại nơi sinh đến, chánh niệm chẳng quên. Ðó là tất cả chúng sinh đều có Phật tính, mười hai bộ Kinh, các đức Phật Thế Tôn thường-lạc-ngã-tịnh, tất cả Bồ tát an trụ ở Kinh Phương Ðẳng Ðại Niết Bàn, đều thấy Phật tính. Những việc như vậy.v.v… hành giả nhớ mà chẳng quên. Nhân tu Ðịnh nên hành giả được mười một “không”. Ðó gọi là Bồ tát tu thanh tịnh Ðịnh. Giới Ðịnh đã đủ, tiếp theo hành giả tu Tuệ. Do tu Tuệ nên mới chẳng kể chấp trước trong thân có ngã, trong ngã có thân, là thân, là ngã, chẳng phải thân, chẳng phải ngã… Ðó gọi là Bồ tát tu tập Tịnh Tuệ. Do tu tuệ nên việc thọ trì giới bền chặc chẳng động. Này thiện nam tử ! Ví như núi Tu Di chẳng bị sự khuynh động của bốn thứ gió. Ðại Bồ tát cũng lại như vậy, chẳng bị sự khuynh động của bốn điên đảo. Này thiện nam tử! Bấy giờ Bồ tát tự biết – thấy – giác việc thọ trì giới không có khuynh động. Ðó gọi là sự biết – thấy – giác của Bồ tát, chẳng phải thế gian vậy. Này thiện nam tử ! Bồ tát thấy sự trì giới bền chặc chẳng động, lòng không hối hận. Không hối hận nên lòng được hoan hỷ. Ðược hoan hỷ nên lòng được duyệt lạc. Ðược duyệt lạc nên lòng yên ổn. Lòng yên ổn nên được Vô động định. Ðược Vô động định nên được thật tri kiến. Ðược thật tri kiến nên chán lìa sinh tử. Chán lìa sinh tử nên liền được Giải thoát. Ðược giải thoát nên thấy ánh sáng Phật tính. Ðó gọi là sự biết – thấy – giác của Bồ tát, chẳng phải thế gian vậy. Này thiện nam tử ! Ðó gọi là thế gian chẳng biết – thấy – giác mà là sự biết – thấy – giác của Bồ tát.

Ngài Ca Diếp lại nói rằng :

– Sao gọi là Bồ tát tu trì tịnh giới, tâm không hối hận ? … cho đến thấy sáng rõ được Phật tính ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Giới (cấm) thế gian thì chẳng gọi là thanh tịnh. Vì sao vậy ? Vì giới thế gian là đối với có nên tính bất định, chẳng phải rốt ráo, chẳng thể rộng vì tất cả chúng sinh. Do nghĩa này nên gọi là bất tịnh. Do bất tịnh nên có lòng hối hận. Do hối hận nên lòng chẳng hoan hỷ. Không hoan hỷ thì không duyệt lạc. Không duyệt lạc thì không yên ổn. Không yên ổn nên không có Bất động định. Không Bất động định nên không tri kiến chân thật. Không thật tri kiến thì không chán lìa. Không chán lìa thì không giải thoát. Không giải thoát nên chẳng thấy Phật tính. Chẳng thấy Phật tính nên nhất định chẳng thể được Ðại Bát Niết Bàn. Ðó gọi là Giới thế gian chẳng thanh tịnh. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát thanh tịnh giới là giới chẳng phải giới, chẳng phải là có, nhất định rốt ráo, vì chúng sinh. Ðó gọi là giới thanh tịnh của Bồ tát vậy. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát ở trong tịnh giới, tuy chẳng muốn sinh lòng hối hận, nhưng lòng không hối hận tự nhiên mà sinh ra. Này thiện nam tử ! Ví như có người cầm giữ gương sáng, chẳng hẹn thấy mặt mà hình dáng mặt tự hiện lên, cũng như người nông phu gieo hạt vào ruộng tốt, chẳng hẹn mọc mầm mà mầm tự mọc ra, cũng như thắp đèn, chẳng hẹn tiêu diệt bóng tối mà bóng tối tự diệt. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát kiên trì tịnh giới, lòng không hối hận tự nhiên mà sinh ra cũng lại như vậy. Do tịnh giới nên lòng được hoan hỷ. Này thiện nam tử ! Như người đoan chính tự thấy diện mạo, lòng sinh hoan hỷ, người trì tịnh giới cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Người phá giới thấy giới bất tịnh, lòng chẳng hoan hỷ. Như người tàn phế tự thấy diện mạo, chẳng sinh hỷ duyệt, người phá giới cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Ví như người chăn trâu có hai người con gái, một người mang bình đựng cao sữa, một người mang bình đựng nước uống. Cả hai đều cùng đến thành phố để bán, ở trên đường đi trợt chân ngã, cả hai bình đều vỡ. Một người thì hoan hỷ, một người thì sầu não. Trì giới, phá giới cũng lại như vậy. Người trì giới thì lòng hoan hỷ mà lòng hoan hỷ thì liền suy nghĩ : “Các đức Phật Như Lai ở trong Niết Bàn nói rằng, có người có thể trì giới thanh tịnh thì được Niết Bàn. Ta nay tu tập tịnh giới như vậy cũng ứng được Niết Bàn. Do nhân duyên này nên lòng duyệt lạc.

Ngài Ca Diếp lại thưa rằng :

– Hỷ cùng với lạc có gì sai biệt ?

– Này thiện nam tử ! Khi Ðại Bồ tát chẳng làm ác thì gọi là hoan hỷ, lòng trì tịnh giới thì gọi đó là Lạc. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát quan sát ở sinh tử thì gọi là Hỷ, thấy Ðại Niết Bàn thì gọi đó là Lạc. Dưới thì gọi là Hỷ, trên thì gọi là Lạc. Lìa khỏi Thế cộng pháp thì gọi đó là Hỷ, được Bất cộng pháp thì gọi đó là Lạc. Do giới thanh tịnh nên thân thể nhẹ nhàng mềm mại, miệng không thô ác, lỗi lầm. Bồ tát bấy giờ, hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc ngữi, hoặc thưởng thức, hoặc chạm xúc, hoặc biết… đều không có các thứ ác. Do không ác nênlòng được yên ổn. Do yên ổn nên được tịch định. Ðược tịch định nên được tri kiến chân thật. Do thấy biết chân thật nên chán lìa sinh tử. Chán lìa sinh tử thì được Giải thoát. Ðược Giải thoát nên được thấy Phật tính. Thấy Phật tính nên được Ðại Niết Bàn. Ðó gọi là trì giới thanh tịnh của Bồ tát, chẳng phải là giới của thế gian. Vì sao vậy ? Này thiện nam tử ! Vì sự thọ trì tịnh giới của Ðại Bồ tát có năm pháp tá trợ. Sao gọi là năm ? Một là tín, hai là tàm, ba là quí, bốn là thiện tri thức, năm là tôn kính giới. Bồ tát lìa khỏi ngũ cái nên thấy thanh tịnh, lìa khỏi ngũ kiến nên lòng không lưới nghi, lìa khỏi năm nghi, một là nghi Phật, hai là nghi Pháp, ba là nghi Tăng, bốn là nghi giới, năm là nghi chẳng phóng dật. Bồ tát bấy giờ, liền được năm căn là tín, niệm, tinh tấn, định, tuệ. Ðược năm căn nên được năm thứ Niết Bàn là sắc giải thoát, cho đến thức giải thoát. Ðó gọi là trì giới thanh tịnh của Bồ tát, chẳng phải giới của thế gian vậy. Này thiện nam tử ! Ðó gọi là sự chẳng biết, chẳng thấy, chẳng giác của thế gian mà là sự biết – thấy – giác của Bồ tát.

Này thiện nam tử ! Nếu đệ tử của ta thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói Kinh Ðại Niết Bàn mà có người phá giới, có người quở trách, khinh chê, hủy nhục mà nói rằng : “Nếu Kinh Ðại Niết Bàn bí tạng có uy lực thì sao khiến cho ông hủy phạm việc thọ giới. Nếu người thọ trì Kinh Niết Bàn này mà hủy phạm cấm giới thì phải biết Kinh này là không có uy lực. Nếu không uy lực thì tuy lại đọc tụng nhưng là không có lợi ích”. Do sự khinh khi, hủy báng Kinh Niết Bàn này nên lại khiến cho vô lượng vô biên chúng sinh rơi vào địa ngục. Kẻ thọ trì Kinh này mà hủy phạm giới thì tức là ác tri thức của chúng sinh, chẳng phải là đệ tử của ta, là quyến thuộc của ma. Người như vậy, ta cũng chẳng cho thọ trì Kinh điển này. Thà khiến cho chẳng thọ, chẳng trì, chẳng tu, chẳng để cho người hủy phạm giới thọ trì tu tập. Này thiện nam tử ! Nếu đệ tử của ta thọ trì, đọc tụng, ghi chép, diễn nói Kinh Niết Bàn thì phải chính thân tâm, thận trọng chớ có cử động đùa cợt, khinh tháo. Thân là điều hí, tâm là khinh động. Lòng cầu có gọi là khinh động. Thân tạo các nghiệp gọi là điều hí. Nếu đệ tử của ta cầu có, tạo nghiệp thì chẳng nên thọ trì Kinh điển Ðại Thừa Ðại Niết Bàn này. Nếu có người thọ trì Kinh như vậy thì người ta sẽ khinh chê, quở trách mà nói lên rằng : “Nếu Kinh Ðại Niết Bàn, Bí tạng của Phật có uy lực thì sao lại khiến cho ông cầu có, tạo nghiệp ? Nếu người trì Kinh mà cầu có, tạo nghiệp thì phải biết Kinh này không uy lực. Nếu không uy lực thì tuy thọ trì nhưng là không lợi ích. Duyên vào sự khinh chê, hủy báng Kinh Niết Bàn này nên lại khiến cho vô lượng vô biên chúng sinh rơi vào địa ngục. Kẻ thọ trì Kinh này mà cầu có, tạo nghiệp thì chính là ác tri thức (bạn xấu) của chúng sinh, chẳng phải là đệ tử của ta, chính là quyến thuộc của ma. Lại nữa, này thiện nam tử ! Nếu đệ tử của ta thọ trì, đọc tụng, ghi chép, diễn nói Kinh Ðại Niết Bàn thì chớ nói phi thời ! Chớ nói phi quốc (chẳng phải đất nước đáng nói) ! Chớ nói mà chẳng ai thỉnh ! Chớ nói bằng tấm lòng khinh khi ! Chớ nói khắp nơi nơi ! Chớ nói để tự khen ! Chớ nói để khinh người khác. Chớ nói để diệt Phật pháp ! Chớ nói để rực sáng Thế pháp ! Này thiện nam tử ! Nếu đệ tử của ta thọ trì Kinh này, chẳng phải lúc mà nói… cho đến thế pháp rực sáng thì người ta sẽ khinh khi, quở trách mà nói rằng : “Nếu Kinh Ðại Niết Bàn, bí mật tạng của đức Phật có uy lực thì sao khiến cho ông chẳng phải lúc mà nói… cho đến thế pháp rực sáng mà nói. Nếu người thọ trì Kinh tạo tác sự nói như vậy thì phải biết Kinh này là không uy lực. Nếu Kinh không uy lực thì tuy thọ trì nhưng là không lợi ích”. Duyên vào sự khinh khi, hủy báng Kinh Niết Bàn nên khiến cho vô lượng chúng sinh rơi vào địa ngục. Người thọ trì Kinh này, chẳng phải lúc mà nói… cho đến thế pháp rực sáng mà nói thì chính là ác tri thức của chúng sinh, chẳng phải là đệ tử của ta, chính là quyến thuộc của ma. Này thiện nam tử ! Nếu người thọ trì muốn nói Ðại Niết Bàn, nói Phật tính, nói bí mật tạng của Như Lai, nói Ðại Thừa, nói Kinh Phương Ðẳng, nói Thanh Văn thừa, nói Bích Chi Phật thừa, nói giải thoát, thấy Phật tính… thì trước tiên phải thanh tịnh thân mình. Do thân thanh tịnh nên không quở trách. Không quở trách nên khiến cho vô lượng người đối với Ðại Niết Bàn phát sinh thanh tịnh tín. Tín tâm đã sinh nên cung kính Kinh này. Nếu nghe một bài kệ, một câu, một chữ ở người nói pháp mà được phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì phải biết người nói pháp đó chính là thiện tri thức chân thật của chúng sinh, chẳng phải ác tri thức, chính là đệ tử của ta, chẳng phải quyến thuộc của ma. Ðó gọi là Bồ tát, chẳng phải là thế gian vậy. Này thiện nam tử ! Ðó gọi là sự chẳng biết chẳng thấy chẳng giác của thế gian mà chính là sự biết – thấy – giác của Bồ tát.

Lại nữa, này thiện nam tử ! Sao lại gọi là sự chẳng biết – thấy – giác của tất cả thế gian mà chính là sự biết – thấy – giác của Bồ tát ? Ðó là sáu niệm xứ ! Những gì là sáu ? Là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm Thiên (trời). Này thiện nam tử ! Sao gọi là niệm Phật? Là niệm Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn thường trụ chẳng biến dị, đầy đủ mười lực, bốn vô sở úy, Ðại sư tử hống, gọi là Ðại Samôn, Ðại Bàlamôn, Ðại tịnh rốt ráo đến được Bờ kia, không người có thể thắng, không người thấy đỉnh, không có bố úy, chẳng kinh, chẳng động, một mình không bạn bè, không thầy tự giác ngộ… thành tựu báu trí như tật trí (trí nhanh chóng), đại trí, lợi trí, thâm trí, giải thoát trí, bất cộng trí, quảng phổ trí, tất cảnh trí (trí rốt ráo)…,  vua voi trong loài người, vua trâu trong loài người, vua rồng trong loài người, đấng trượng phu trong loài người, hoa sen hoa phân đà lợi trong loài người, đấng điều ngự nhân sư, bậc đại thí chủ, đấng địa pháp sư. Do biết pháp nên gọi là Ðại pháp sư. Do biết nghĩa nên gọi là Ðại pháp sư. Do biết thời nên gọi là Ðại pháp sư. Do biết đủ nên gọi là Ðại pháp sư. Do biết Ngã nên gọi là Ðại pháp sư. Do biết đại chúng nên gọi là Ðại pháp sư. Do biết đủ thứ tính của chúng sinh nên gọi là Ðại pháp sư. Do biết các căn lợi, độn, trung bình nên gọi là Ðại pháp sư. Do nói trung đạo nên gọi là Ðại pháp sư.

Sao gọi là Như Lai, đúng như lời nói của chư Phật quá khứ chẳng biến dị? Sao gọi là bất biến? các đức Phật quá khứ vì độ chúng sinh nên nói mười hai bộ Kinh. Như Lai cũng vậy nên gọi là Như Lai. Các đức Phật Thế Tôn từ sáu Balamật, ba mươi bảy phẩm, mười một không lại đến Ðại Niết Bàn. Như Lai cũng vậy. Vậy nên hiệu Phật là Như Lai vậy. Các đức Phật Thế Tôn vì chúng sinh nên tùy nghi phương tiện khai thị Tam thừa, thọ mạng không lường, chẳng thể xưng kể. Như Lai cũng vậy. Vậy nên Phật hiệu là Như Lai vậy.

Sao gọi là Ứng ? Pháp thế gian đều gọi là oán gia. Phật ứng hại nên gọi là Ứng. Phàm bốn ma thì chính là ôán địch của Bồ tát. Các đức Phật Như Lai khi làm Bồ tát, có thể dùng trí tuệ phá hoại bốn ma. Vậy nên gọi là Ứng. Lại nữa, Ứng thì gọi là viễn ly (xa lìa). Khi làm Bồ tát cần phải xa lìa vô lượng phiền não nên gọi là Ứng. Lại nữa, Ứng gọi là lạc. Các đức Phật quá khứ khi làm Bồ tát, tuy ở trong vô lượng Atăngkỳ kiếp, vì chúng sinh nên chịu các khổ não nhưng nhất định không gì chẳng vui mà thường lạc. Như Lai cũng vậy nên gọi là Ứng. Lại nữa, Ứng là tất cả người, trời nên dùng đủ thứ hương hoa, chuỗi ngọc, tràng phan, kỹ nhạc mà cúng dường Phật. Vậy nên gọi là Ứng.

Sao gọi là Chánh biến tri ? Chánh là chẳng điên đảo. Biến Tri là đối với bốn điên đảo không gì chẳng thông đạt. Lại nữa, Chánh gọi là  khổ hạnh. Biến Tri là biết nhân khổ hạnh quyết định có khổ quả. Lại nữa, Chánh là gọi giữa thế gian. Biến Tri là rốt cùng nhất định biết tu tập trung đạo thì được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Lại nữa, Chánh gọi là có thể tính, có thể lường, có thể nói lên. Biến Tri là chẳng thể tính, chẳng thể lường, chẳng thể nói lên. Vậy nên hiệu Phật là Chánh Biến Tri. Này thiện nam tử ! Thanh Văn, Duyên Giác cũng có Biến Tri, cũng chẳng Biến Tri. Vì sao vậy ? Vì Biến Tri là gọi năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới. Thanh Văn, Duyên Giác cũng được Biến Tri. Ðó gọi là Biến Tri. Sao gọi là chẳng Biến Tri ? Này thiện nam tử ! Giả sử hàng Nhị Thừa, ở vô lượng kiếp, quan sát một sắc ấm mà chẳng thể biết hết. Do nghĩa này nên Thanh Văn, Duyên Giác không có Biến Tri.

Sao gọi là Minh Hành Túc ? Minh là gọi được vô lượng thiện quả. Hành là gọi Chân đi (cước túc). Thiện quả là gọi Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Chân đi thì gọi là Giới, Tuệ. Ði bằng chân trí tuệ được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác nên gọi là Minh Hành Túc. Lại nữa, Minh gọi là Chú, Hành gọi là Cát, Túc gọi là Quả. Này thiện nam tử ! Ðó là nghĩa của thế gian. Chú gọi là Giải thoát, Cát gọi là Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, Quả gọi là Ðại Bát Niết Bàn. Vậy nên gọi là Minh Hành Túc. Lại nữa, Minh là gọi ánh sáng, Hành là gọi Nghiệp, Túc là gọi Quả. Này thiện nam tử ! Ðó gọi là nghĩa của thế gian. Ánh sáng là gọi chẳng phóng dật, nghiệp là gọi sáu Balamật, quả là gọi Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Lại nữa, Minh là gọi ba minh, một là Bồ tát minh, hai là Chư Phật minh, ba là Vô minh minh. Bồ tát minh tức là Bát nhã Balamật. Chư Phật minh tức là Phật nhãn. Vô minh minh tức là rốt ráo không. Hành là ở vô lượng kiếp, vì chúng sinh nên tu các thiện nghiệp. Túc là sáng thấy Phật tính. Do nghĩa này nên gọi là Minh Hành Túc. Sao gọi là Thiện Thệ ? Thiện là gọi cao, Thệ là gọi chẳng cao. Này thiện nam tử ! Ðó gọi là nghĩa của thế gian. Cao là gọi Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Chẳng cao tức là tâm Như Lai. Này thiện nam tử ! Tâm nếu cao thì chẳng gọi là Như Lai. Vậy nên Như Lai gọi là Thiện Thệ. Lại nữa, Thiện là gọi thiện tri thức, Thệ là quả của thiện tri thức. Này thiện nam tử ! Ðó gọi là nghĩa của thế gian. Thiên tri thức tức là mới phát tâm. Quả là gọi Ðại Bát Niết Bàn. Như Lai chẳng xả bỏ sự phát tâm đầu tiên, được Ðại Niết Bàn. Vậy nên Như Lai gọi là Thiện Thệ. Lại nữa, Thiện là gọi tốt đẹp, Thệ là gọi có. Này thiện nam tử ! Ðó gọi là nghĩa thế gian. Tốt đẹp là gọi thấy Phật tính, có là gọi Ðại Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Tính của Niết Bàn thật chẳng phải có. Các đức Phật Thế Tôn nhân thế gian nên nói rằng là có. Này thiện nam tử ! Ví như người đời thật không có con mà nói rằng có con, thật không có đạo (đường) mà nói rằng có đạo, Niết Bàn cũng vậy, nhân thế gian nên nói rằng là có. Các đức Phật Thế Tôn thành Ðại Niết Bàn nên gọi là Thiện Thệ.

Này thiện nam tử ! Sao gọi là Thế Gian Giải ? Này thiện nam tử! Thế gian là gọi năm ấm, Giải là gọi sự biết. Các đức Phật Thế Tôn giỏi biết năm ấm nên gọi là Thế Gian Giải. Lại nữa, Thế gian là gọi năm dục, Giải là gọi chẳng đắm trước, chẳng đắm trước năm dục nên gọi là Thế Gian Giải. Lại, Thế Gian Giải là tất cả Thanh Văn, Duyên giác ở vô lượng Atăngkỳ thế giới của phương Ðông chẳng biết, chẳng thấy, chẳng giải mà các đức Phật đều biết, đều thấy, đều giải. Phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn phương bàng, phương trên, phương dưới cũng lại như vậy. Vậy nên hiệu Phật là Thế Gian Giải. Lại, Thế gian là tất cả phàm phu. Giải là biết nhân quả thiện ác của các phàm phu, chẳng phải là sự biết của Thanh Văn, Duyên Giác, chỉ có Phật mới có thể biết. Vậy nên hiệu Phật là Thế Gian Giải. Lại, Thế gian là gọi hoa sen, Giải là gọi chẳng bẩn (bất ô). Này thiện nam tử ! Ðó là nghĩa của thế gian. Hoa sen tức là Như Lai. Chẳng bẩn là Như Lai chẳng bị sự ô nhiễm của tám pháp thế gian. Vậy nên hiệu Phật là Thế Gian Giả. Lại, Thế Gian Giải là các đức Phật, Bồ tát gọi là Thế Gian Giải. Vì sao vậy ? Vì các đức Phật, Bồ tát thấy thế gian nên gọi là Thế Gian Giải. Này thiện nam tử ! Như  nhân ăn được mạng nên gọi ăn là mạng. Các đức Phật, Bồ tát cũng lại như vậy, thấy thế gian nên gọi là Thế Gian Giải. Sao gọi là Vô Thượng Sĩ ? Thượng Sĩ thì gọi đó là đoạn (chặt đứt). Không có cái để đoạn thì gọi là Vô Thượng Sĩ. Các đức Phật Thế Tôn không có phiền não nên không có cái để đoạn. Vậy nên hiệu Phật là Vô Thượng Sĩ. Lại Thượng Sĩ là gọi tranh tụng. Vô Thượng Sĩ là không có tranh tụng mà Như Lai không có tranh tụng. Vậy nên hiệu Phật là Vô Thượng Sĩ. Lại, Thượng Sĩ là lời nói có thể hoại. Vô Thượng Sĩ là lời nói chẳng thể hoại mà lời nói của Như Lai là lời chẳng thể hoại của tất cả chúng sinh. Vậy nên hiệu Phật là Vô Thượng Sĩ. Lại Thượng Sĩ là gọi Thượng tòa. Vô Thượng Sĩ là gọi Vô Thượng tòa, các đức Phật ba đời lại không có ai qua khỏi. Vậy nên hiệu Phật là Vô Thượng Sĩ. Thượng là gọi mới, Sĩ là gọi cũ. Thể các đức Phật Thế Tôn là Ðại Niết Bàn không mới, không cũ. Vậy nên hiệu Phật là Vô Thượng Sĩ. Sao gọi là Ðiều Ngự Trượng Phu ? Tự mình đã trượng phu, lại điều phục trượng phu. Này thiện nam tử! Nói rằng, Như Lai thật chẳng phải trượng phu, chẳng phải chẳng trượng phu, nhân điều phục trượng phu nên gọi Như Lai là trượng phu vậy. Này thiện nam tử ! Tất cả trai gái nếu đủ bốn pháp thì gọi là trượng phu. Những gì là bốn ? Một là thiện tri thức, hai là có thể nghe pháp, ba là suy nghĩ nghĩa, bốn là theo đúng lời nói tu hành. Này thiện nam tử ! Nếu nam hay nữ đủ bốn pháp này thì gọi là Trượng phu. Này thiện nam tử ! Nếu có nam tử không có bốn pháp này thì chẳng được gọi là Trượng phu. Vì sao vậy ? Vì thân tuy là trượng phu nhưng hành động đồng với súc sinh mà Như Lai điều phục hoặc nam hoặc nữ. Vậy nên hiệu Phật là Ðiều Ngự Trượng Phu. Lại nữa, này thiện nam tử ! Như người cầm cương ngựa (điều khiển ngựa) phàm có bốn thứ, một là chạm lông, hai là chạm da, ba là chạm thịt, bốn là chạm xương. Tùy theo sự chạm xúc ấy xứng với ý người cầm cương. Như Lai cũng vậy, dùng bốn thứ pháp điều phục chúng sinh. Một là nói về sinh liền khiến cho người nghe thọ lời Phật dạy như chạm vào lông ngựa ấy là ngựa theo ý người cầm cương. Hai là nói về sinh, già liền khiến cho người nghe thọ lời Phật dạy như chạm vào lông, da thì ngựa ấy theo ý người cầm cương. Ba là nói về sinh và cả lão, bệnh liền khiến cho người nghe thọ lời Phật dạy, như chạm vào lông da, thịt thì ngựa ấy theo ý người cầm cương. Bốn là nói về sinh, già, bệnh và chết liền khiến cho người nghe thọ lời Phật dạy, như chạm vào lông, da, thịt và xương thì ngựa ấy theo ý người cầm cương. Này thiện nam tử ! Người cầm cương điều phục ngựa không có quyết định, Như Lai Thế Tôn điều phục chúng sinh nhất định chẳng chẳng rỗng không. Vậy nên hiệu Phật là Ðiều Ngự Trượng Phu. Sao gọi là Thiên Nhân Sư ? Sư có hai thứ, một là thiện giáo (lời dạy tốt), hai là ác giáo (lời dạy xấu). Các đức Phật, Bồ tát thường dùng thiện pháp dạy các chúng sinh. Những gì là thiện pháp ? Ðó là thiện của thân, miệng, ý. Các đức Phật, Bồ tát dạy các chúng sinh đều nói lời như vầy: “Này thiện nam tử ! Ông phải xa lìa thân chẳng thiện nghiệp ! Vì sao vậy ? Vì ác nghiệp của thân có thể xa lìa là được giải thoát. Vậy nên ta dùng pháp này dạy ông. Nếu nghiệp ác này chẳng thể xa lìa, được giải thoát thì nhất định ta chẳng dạy ông khiến cho xa lìa vậy”. Nếu các chúng sinh lìa khỏi nghiệp ác rồi mà còn rơi vào ba đường ác thì không có điều đó. Do xa lìa nên thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, được Ðại Niết Bàn. Vậy nên các đức Phật, Bồ tát thường dùng pháp này giáo hóa chúng sinh. Miệng, ý cũng vậy. Vậy nên hiệu Phật là Vô Thượng Sư. Lại nữa, xưa chưa được đạo, nay đã được rồi, đem đạo sở đắc vì chúng sinh giảng nói. Từ xưa đến nay chưa tu phạm hạnh, nay đã tu xong, đem điều đã tu vì chúng sinh giảng nói. Tự phá vô minh, lại vì chúng sinh phá hoại vô minh. Tự được tịnh mục (mắt thanh tịnh), lại vì chúng sinh phá trừ mù tối, khiến cho họ được tịnh nhãn. Tự biết Nhị đế, lại vì chúng sinh diễn nói Nhị đế. Ðã tự giải thoát, lại vì chúng sinh nói pháp giải thoát. Tự qua khỏi vô biên dòng sông lớn sinh tử, lại khiến cho chúng sinh đều được qua khỏi hết. Tự được Vô úy, lại dạy chúng sinh khiến cho họ không kinh sợ. Ðã tự Niết Bàn lại vì chúng sinh diễn nói Ðại Niết Bàn. Vậy nên hiệu Phật là Vô Thượng Sư. Thiên là gọi ngày. Trên trời ngày dài đêm ngắn. Vậy nên gọi là  Thiên. Lại nữa, Thiên là gọi không sầu não, thường hưởng thụ khoái lạc. Vậy nên gọi là Thiên. Lại nữa, Thiên là gọi đèn sáng, có thể phá đen tối mà làm nguồn ánh sáng lớn. Vậy nên gọi là Thiên. Cũng do có thể phá nghiệp ác đen tối, được các nghiệp thiện mà sinh lên trời. Vậy nên gọi là Thiên. Lại nữa, Thiên là gọi Cát (tốt). Do cát tường nên được gọi là Thiên. Lại nữa, Thiên là gọi mặt trời. Mặt trời có ánh sáng nên gọi mặt trời là Thiên. Do những nghĩa đó nên gọi là Thiên vậy. Nhân là gọi có thể nhiều ân nghĩa. Lại nữa, Nhân là thân, miệng nhu nhuyến. Lại nữa, Nhân là gọi có kiêu mạn. Lại nữa, Nhân là có thể phá kiêu mạn. Này thiện nam tử ! Các đức Phật tuy làm Ðại Sư Vô thượng của tất cả chúng sinh, nhưng trong Kinh nói làm Thiên Nhân Sư. Vì sao vậy ? Này thiện nam tử ! Trong các chúng sinh chỉ có trời cùng người là có thể phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, có thể tu Thập thiện nghiệp đạo, có thể được quả Tu đà hoàn, quả Tư đà hàm, quả A na hàm, quả A la hán, đạo Bích Chi Phật, được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vậy nên hiệu Phật là Thiên Nhân Sư. Sao gọi là Phật ? Phật là gọi Giác. Ðã tự giác ngộ lại có thể giác ngộ người khác. Này thiện nam tử ! Ví như có người hay biết có giặc thì giặc không thể làm gì. Ðại Bồ tát hiểu biết tất cả vô lượng phiền não mà hiểu rõ rồi thì khiến cho các phiền não không thể làm điều gì được. Vậy nên gọi là Phật. Do sự giác ngộ đó nên chẳng sinh, chẳng già, chẳng bệnh, chẳng chết. Vậy nên gọi là Phật Bà Dà Bà (Thế Tôn) thì Bà Dà gọi là Phá, Bà gọi là phiền não. Có khả năng phá phiền não nên gọi là Bà Dà Bà. Lại, người có khả năng thành tựu các thiện pháp, lại có khả năng giỏi giải nghĩa các pháp, có đại công đức không ai có thể hơn, có danh tiếng lớn vang khắp mười phương. Lại là người có khả năng đại huệ thí đủ thứ lại ở vô lượng Atằng kiếp đã vất bỏ nữ căn. Này thiện nam tử ! Nếu nam hay nữ mà có thể nghĩ đến Phật (niệm Phật) như vậy  thì hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc ngày, hoặc đêm, hoặc sáng, hoặc tối… thường được chẳng lìa khỏi thấy Phật Thế Tôn. Này thiện nam tử ! Vì sao gọi là Như Lai Ứng Chánh Biến Tri … cho đến Bà Dà Bà mà có như vậy vô lượng công đức đại danh xưng vậy ? Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát ở vô lượng Atăngkỳ kiếp xưa, cung kính cha mẹ, hòa thượng, các thầy, các trưởng lão thượng tòa, ở vô lượng kiếp thường vì chúng sinh mà làm bố thí, kiên trì cấm giới, tu tập nhẫn nhục, siêng làm tinh tấn, thiền định, trí tuệ, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Vậy nên hôm nay Bồ tát Mahatát được thân Kim Cương với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Lại nữa, Bồ tát thuở xưa, vô lượng Atăngkỳ kiếp đã tu tập năm căn Tín, Tấn, Niệm, Ðịnh, Tuệ, đối với các sư trưởng cung kính cúng dường, thường vì pháp lợi, chẳng vì lợi dưỡng. Bồ tát nếu thọ trì mười hai bộ kinh, hoặc đọc, hoặc tụng, luôn vì chúng sinh muốn khiến cho họ giải thoát yên ổn, khoái lạc thì nhất định chẳng vì mình. Vì sao vậy ? Vì Bồ tát thường tu bằng tâm xuất thế gian và tâm xuất gia, tâm vô vi, tâm không tranh tụng, tâm không cấu uế, tâm không trói buộc, tâm không thủ trước, tâm không che trùm, tâm không vô ký, tâm không sinh tử, tâm không lưới nghi, tâm không tham dục, tâm không sân nhuế, tâm không ngu si, tâm không kiêu mạn, tâm không uế trược, tâm không phiền não, tâm không khổ, tâm vô lượng, tâm quãng đại, tâm hư không, tâm vô, tâm vô vô (không không), tâm điều phục, tâm chẳng hộ, tâm không che giấu, tâm không thế gian, tâm thường định, tâm thường tu, tâm thường giải thoát, tâm không báo đền, tâm vô nguyện, tâm thiện nguyện, tâm vô ngữ, tâm nhu nhuyến, tâm chẳng trụ, tâm tự tại, tâm vô lậu, tâm Ðệ nhất nghĩa, tâm bất thoái, tâm vô thường, tâm chánh chân, tâm không dua nịnh quanh co, tâm thuần thiện, tâm không nhiều ít, tâm không keo kiệt, tâm không phàm phu, tâm không Thanh Văn, tâm không Duyên Giác, tâm thiện tri, tâm Giới (cõi) tri, tâm sinh giới (cõi) tri, tâm tự tại giới… Vậy nên hôm nay Ðại Bồ tát được mười lực, bốn vô sở úy, Ðại Bi, ba (?) niệm xứ, Thường-Lạc-Ngã-Tịnh. Vậy nên Ðại Bồ tát được xưng là Như Lai… cho đến Bà Dà Bà. Ðó gọi là Ðại Bồ tát niệm Phật. Sao gọi là Ðại Bồ tát niệm pháp ? Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát suy nghĩ điều có thể nói của các đức Phật là  pháp tối diệu, tối thượng. Nhân pháp này nên có thể khiến cho chúng sinh được quả hiện tại. Chỉ chánh pháp này không có thời tiết (?) mà là điều thấy được của pháp nhãn, chẳng phải là nhục nhãn nhìn thấy, nhưng chẳng thể dùng ví dụ làm so sánh, chẳng sinh, chẳng xuất, chẳng trụ, chẳng diệt, chẳng thỉ, chẳng chung, vô vi, vô số, kẻ không nhà vì họ làm nhà, không chỗ về làm chỗ về, không sáng làm sáng, chưa đến bờ kia khiến cho đến bờ kia, vì chỗ không hương làm vô ngại hương, chẳng thể thấy thì nhìn thấy, chẳng động, chẳng chuyển, chẳng dài, chẳng ngắn, vĩnh viễn đoạn dứt các niềm vui mà vui yên ổn rốt ráo, vi diệu, chẳng phải sắc đoạn dứt sắc mà cũng là sắc… cho đến chẳng phải thức đoạn dứt thức mà cũng là thức, chẳng phải nghiệp đoạn nghiệp, chẳng phải kết đoạn kết, chẳng phải vật đoạn vật mà cũng là vật, chẳng phải giới (cõi) đoạn giới mà cũng là giới, chẳng phải hữu đoạn hữu mà cũng là hữu, chẳng phải nhập đoạn nhập mà cũng là nhập, chẳng phải nhân đoạn nhân mà cũng là nhân, chẳng phải quả đoạn quả mà cũng là quả, chẳng phải hư, chẳng phải thật đoạn tất cả thật mà cũng là thật, chẳng phải sinh, chẳng phải diệt vĩnh viễn đoạn sinh diệt mà cũng là diệt, chẳng phải tướng, chẳng phải phi tướng đoạn tất cả tướng mà cũng là tướng, chẳng phải giáo, chẳng phải chẳng giáo mà cũng là thầy dạy, chẳng phải sợ, chẳng phải an đoạn tất cả sợ mà cũng là an, chẳng phải nhẫn, chẳng phải chẳng nhẫn vĩnh viễn đoạn chẳng nhẫn mà cũng là nhẫn, chẳng phải dừng (chỉ) chẳng phải chẳng dừng đoạn tất cả dừng mà cũng là dừng, tất cả pháp đỉnh đều có thể vĩnh viễn đoạn tất cả phiền não, vô tướng thanh tịnh vĩnh viễn thoát khỏi các tướng, chỗ trụ rốt ráo của vô lượng chúng sinh, có thể diệt tất cả lửa rực sinh tử, chính là chỗ du cư của chư Phật thường trụ chẳng biến dị. Ðó gọi là Bồ tát niệm pháp. Sao gọi là niệm Tăng ? Các đức Phật Thánh Tăng theo đúng như pháp mà trụ, thọ pháp chính trực, thuần theo tu hành, chẳng thể nhìn thấy, chẳng thể nắm bắt, chẳng thể phá hoại, không thể nhiễu hại, chẳng thể nghĩ bàn, ruộng phước, thần giúp đỡ của tất cả chúng sinh, tuy là ruộng phước nhưng không gì thọ nhận, thanh tịnh dơ bẩn, vô lậu vô vi, rộng khắp vô biên. Lòng thánh tăng điều hòa, nhu nhuyến, bình đẳng không hai, không có nhiễu hại ô trược, thường chẳng biến dị. Ðó gọi là niệm Tăng. Sao gọi là niệm Giới? Bồ tát suy nghĩ : “Có giới chẳng phá, chẳng lậu, chẳng hoại, chẳng tạp, tuy không hình sắc mà có thể hộ trì, tuy không chạm xúc đối tác nhưng khéo tu phương tiện, có thể được đầy đủ, không có lỗi lầm, sự khen ngợi của chư Phật, Bồ tát, chính là nhân của Ðại Phương Ðẳng Ðại Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Ví như đất đai, thuyền bè, chuỗi ngọc, biển cả, nước tro, nhà cửa, dao kiếm, cây cầu, lương y, diệu dược, A dà đà dược, ngọc báu Như ý, chân cẳng, mắt, cha mẹ, lạnh lẽo… không thể trộm cướp, chẳng thể nhiễu hại, lửa chẳng thể đốt cháy, nước chẳng thể trôi dạt, bậc thang lên núi lớn, thắng tràng diệu bảo của các đức Phật, Bồ tát. Nếu trụ ở giới này thì được quả Tu đà hoàn, ta cũng có phần nhưng ta chẳng cần. Vì sao vậy ? Vì nếu ta được quả Tu đà hoàn này thì chẳng thể rộng độ tất cả chúng sinh. Nếu trụ ở giới này mà được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì ta cũng có phần, là sở dục của ta. Vì sao vậy ? Vì nếu được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì ta sẽ vì chúng sinh rộng nói diệu pháp mà tạo tác sự cứu hộ. Ðó gọi là Ðại Bồ tát niệm giới. Sao gọi là niệm thí ? Ðại Bồ tát quan sát sâu sắc việc bố thí này mới là cái nhân của Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Các đức Phật, Bồ tát thân cận, tu tập bố thí như vậy thì ta cũng thân cận, tu tập như vậy. Nếu chẳng huệ thí thì chẳng thể trang nghiêm bốn bộ chúng. Bố thí tuy chẳng thể đoạn trừ rốt ráo kết sử mà có thể đoạn trừ phá kiến ở tại phiền não. Do nhân duyên bố thí nên thường được sự khen ngợi của chúng sinh ở vô lượng vô biên thế giới nhiều như cát sông Hằng trong mười phương. Ðại Bồ tát thí cho chúng sinh ăn tức là thí cho mạng của họ. Do quả báo này nên khi thành Phật thường trụ chẳng biến dị. Do thí cho Lạc nên khi Bồ tát thành Phật thì được an lạc. Khi Bồ tát bố thí thì đúng như pháp cầu tài (của cải), chẳng lấn hiếp sự bố thí đó (có ý lợi dụng). Vậy nên khi thành Phật được Niết Bàn thanh tịnh. Khi Bồ tát bố thí thì khiến cho chúng sinh chẳng cầu mà được. Vậy nên khi thành Phật được tự tại Ngã. Do nhân duyên bố thí nên khiến cho người khác được sức lực. Vậy nên khi thành Phật thu hoạch được mười lực. Do nhân duyên bố thí nên khiến cho người khác được lời nói. Vậy nên khi thành Phật được bốn vô ngại. Các đức Phật Bồ tát tu tập sự bố thí này làm nhân của Niết Bàn, ta cũng tu tập bố thí như vậy để làm nhân của Niết Bàn. Rộng nói như trong Tạp hoa (?). Sao gọi là niệm thiên ? Có cõi bốn thiên vương… cho đến cõi Phi tưởng phi phi tưởng. Nếu có lòng tin được cõi bốn thiên vương thì ta cũng có phần. Nếu giới, đa văn, bố thí, trí huệ mà được cõi bốn thiên vương… cho đến được cõi Phi tưởng phi phi tưởng thì ta cũng có phần. Nhưng chẳng phải là điều ham muốn của ta. Vì sao vậy ? Vì cõi bốn thiên vương… cho đến cõi Phi tưởng phi phi tưởng đều là vô thường. Do vô thường nên sinh, già, bịnh chết. Do nghĩa này nên chẳng phải là điều ham muốn của ta. Ví như sự huyễn hóa dối gạt được người ngu, người trí tuệ thì chẳng mê hoặc họ được. Như huyễn hóa tức là cõi bốn thiên vương… cho đến cõi Phi tưởng phi phi tưởng. Người ngu tức là tất cả phàm phu. Ta thì chẳng đồng với người phàm phu ngu. Ta từng nghe có Ðệ nhất nghĩa thiên là gọi các đức Phật, Bồ tát thường trụ chẳng biến dị. Do thường trụ nên chẳng sinh, chẳng già, chẳng bệnh, chẳng chết. ta vì chúng sinh tinh cần cầu đến Ðệ nhất nghĩa thiên. Vì sao vậy ? Vì Ðệ nhất nghĩa thiên có thể khiến cho chúng sinh đoạn trừ phiền não giống như cây Như ý. Nếu ta có Tin… cho đến có Tuệ thì có thể được Ðệ nhất nghĩa thiên này. Ta sẽ vì chúng sinh rộng vì chúng sinh phân biệt, giảng nói Ðệ nhất nghĩa thiên. Ðó gọi là Ðại Bồ tát niệm Thiên. Này thiện nam tử ! Ðó gọi là Bồ tát chẳng phải thế gian vậy. Ðó là thế gian chẳng biết – thấy – giác mà là sự biết – thấy – giác của Bồ tát. Này thiện nam tử ! Nếu đệ tử của ta cho là thọ trì, đọc tụng, ghi chép, diễn nói mười hai bộ Kinh và cả việc thọ trì, đọc tụng, ghi chép, phu diễn, giải nói Kinh Ðại Niết Bàn là ngang bằng, không sai biệt thì nghĩa này chẳng vậy. Vì sao vậy ? Này thiện nam tử ! Vì Kinh Ðại Niết Bàn tức là tạng bí mật thậm thâm của các đức Phật Thế Tôn. Vì tạng bí mật thậm thâm của chư Phật này tức là thắng hơn. Này thiện nam tử ! Do nghĩa này nên Kinh Ðại Niết Bàn rất kỳ lạ, rất đặc biệt, chẳng thể nghĩ bàn !

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Con cũng biết Kinh Ðại Niết Bàn này rất kỳ lạ rất đặc biệt chẳng thể nghĩ bàn, Phật Pháp, chúng Tăng chẳng thể nghĩ bàn. Bồ tát, Bồ Ðề, Kinh Ðại Niết Bàn cũng chẳng thể nghĩ bàn. Thưa đức Thế Tôn ! Do nghĩa gì mà lại nói rằng, Bồ tát chẳng thể nghĩ bàn ?

– Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát không có người dạy mà có thể tự phát tâm Bồ Ðề. Ðã phát tâm rồi thì Bồ tát siêng tu tinh tấn. Giả sử lửa lớn thiêu đốt thân, đầu, Bồ tát nhất định chẳng cầu cứu, xả bỏ tâm niệm pháp. Vì sao vậy ? Vì Ðại Bồ tát thường tự suy nghĩ : Ta ở vô lượng Atăngkỳ kiếp, hoặc ở tại địa ngục, ngã quỉ, súc sinh, trong loài người, trên cõi trời bị sự thiêu đốt của ngọn lửa các kết sử, ban đầu chưa từng được một pháp quyết định. Pháp quyết định tức là Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ta vì Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác nhất định chẳng thủ hộ tiếc nuối thân, tâm cùng mạng sống. Ta vì Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác mà giả sử thân nát vụn giống như vi trần nhất định chẳng buông bỏ siêng năng tinh tấn. Vì sao vậy ? Vì lòng siêng tinh tấn tức là cái nhân của Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử ! Như vậy Bồ tát chưa thấy Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác mà có thể chẳng tiếc, mạng thân như vậy, huống lại là đã thấy rồi. Vậy nên Bồ tát chẳng thể nghĩ bàn. Lại nữa, chẳng thể nghĩ bàn là việc thấy sinh tử có vô lượng tội ác của Ðại Bồ tát chẳng phải là sự bì kịp của hàng Thanh Văn, Duyên Giác. Tuy Bồ tát biết vô lượng lỗi ác của sinh tử nhưng vì chúng sinh nên ở trong đó chịu khổ chẳng sinh ra chán lìa. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Ðại Bồ tát vì chúng sinh nên tuy ở tại địa ngục chịu các khổ não nhưng giống như niềm vui Tam thiền. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam tử ! Ví như nhà ông trưởng giả bị hỏa hoạn. Ông trưởng giả thấy rồi, chạy ra khỏi nhà, các con ông ở sau, chưa thoát được nạn lửa. Bấy giờ, ông trưởng giả nhất định biết sự tai hại của lửa, vì các con nên quay trở lại xông vào cứu hộ, chẳng đoái hoài gì đến hiểm nạn ấy. Ðại Bồ tát cũng lại như vậy, tuy biết sinh tử có nhiều lỗi ác nhưng vì chúng sinh nên ở lại đó chẳng chán. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam tử ! Vô lượng chúng sinh phát tâm Bồ Ðề, thấy trong sinh tử có nhiều những lỗi ác, lòng liền thoái mất nên hoặc làm Thanh Văn, hoặc làm Duyên Giác. Nếu có Bồ tát nghe Kinh này thì nhất định chẳng thoái mất tâm Bồ Ðề mà làm Thanh Văn, Bích Chi Phật. Như vậy Bồ tát tuy lại chưa vào bậc sơ địa Bất Ðộng mà tâm kiên cố không có thoái mất. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam tử ! Nếu có người nói rằng, ta có thể bơi qua nước của biển cả. Lời nói như vậy có thể nghĩ  bàn chăng ?

– Thưa đức Thế Tôn ! Lời nói như vậy, hoặc có thể nghĩ bàn, hoặc chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao vậy ? Vì nếu người qua được thì chẳng thể nghĩ bàn. A tu la qua được thì có thể nghĩ bàn.

– Này thiện nam tử ! Ta cũng chẳng nói A tu la mà chính là nói người vậy !

– Thưa đức Thế Tôn ! Trong loài người cũng có người có thể nghĩ bàn, có người chẳng thể nghĩ bàn. Thưa đức Thế Tôn ! Người cũng có hai hạng, một là Thánh nhân, hai là Phàm phu. Người Phàm phu thì chẳng thể nghĩ bàn. Người Thánh nhân thì có thể nghĩ bàn.

– Này thiện nam tử ! Ta nói phàm phu, chẳng nói Thánh nhân.

– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu là phàm phu thì quả thật chẳng thể nghĩ bàn !

– Này thiện nam tử ! Người phàm phu thật chẳng thể qua được nước biển cả. Như vậy Bồ tát thật có thể qua khỏi biển cả sinh tử. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam tử ! Nếu có người có thể dùng tơ của ngó sen để treo núi Tu Di lên thì có thể nghĩ bàn chăng ?

– Chẳng vậy, thưa đức Thế Tôn !

– Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát ở trong khoảnh khắc một niệm có thể xưng lường hết tất cả sinh tử ! Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát đã ở vô lượng Atăngkỳ kiếp thường quan sát sinh tử, vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh mà vì chúng sinh phân biệt diễn nói Thường-Lạc-Ngã-Tịnh, tuy nói như vậy nhưng chẳng phải là tà kiến. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam tử ! Như người vào trong nước mà nước chẳng thể nhận chìm vào trong lửa mạnh mà lửa chẳng thể thiêu đốt. Việc như vậy chẳng thể nghĩ bàn. Ðại Bồ tát cũng lại như vậy, tuy ở trong sinh tử nhưng chẳng bị sự não hại của sinh tử. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam tử ! Con người có ba hạng là Thượng, Trung và Hạ. Người Hạ phẩm khi mới vào thai thì tác khởi ý nghĩ rằng : “Ta nay ở nơi nhà xí, chỗ mọi dơ bẩn tụ về, vùng đặt tử thi, trong chỗ nhiều gai nhọn, chỗ rất đen tối”. Khi ra khỏi thai thì họ lại nghĩ rằng : “Ta nay ra khỏi nhà xí, ra khỏi chỗ mọi dơ bẩn… cho đến ra khỏi chỗ rất đen tối”. Người Trung phẩm khi vào thai thì nghĩ rằng : “Ta nay vào trong rừng cây, trong dòng sông thanh tịnh, phòng ốc nhà cửa”. Khi ra cũng vậy. Người Thượng phẩm, khi vào thì nghĩ rằng : “Ta thăng lên điện đường, ở tại vùng rừng hoa, cưỡi ngựa, cưỡi voi đi lên núi cao”. Khi ra cũng vậy. Ðại Bồ tát, khi mới vào thai tự biết vào, khi trụ biết trụ, khi ra biết ra nhất định chẳng sinh ra lòng tham, sân mà chưa được bậc trụ địa đầu tiên. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam tử ! Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác quả thật chẳng thể dùng thí dụ để làm so sánh. Này thiện nam tử ! Tâm cũng chẳng thể dùng phương tiện thí dụ để làm so sánh mà đều có thể nói. Ðại Bồ tát không có thầy hỏi han, thọ học mà có thể được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ðược pháp này rồi lòng không keo kiệt tiếc lận, Bồ tát thường vì chúng sinh mà diễn nói. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát có thân viễn ly (xa lìa) chẳng phải là miệng, có miệng viễn ly chẳng phải là thân, có chẳng phải thân miệng mà cũng viễn ly. Thân viễn ly là lìa khỏi sát sinh, trộm cắp, dâm dục. Ðó gọi là thân viễn ly chẳng phải là miệng. Miệng viễn ly là lìa khỏi vọng ngữ, lưỡng thiệc, ác khẩu, lời nói vô nghĩa. Ðó gọi là miệng viễn ly chẳng phải là thân. Chẳng phải thân chẳng phải miệng viễn ly là gọi sự xa lìa tham dục, sân nhuế, tà kiến. Này thiện nam tử ! Ðó gọi là chẳng phải thân chẳng phải miệng mà chính là viễn ly. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát chẳng thấy một pháp là thân, là nghiệp và cùng lìa khỏi chủ mà cũng có lìa. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Miệng cũng như vậy. Này thiện nam tử ! Từ thân lìa khỏi thân, từ miệng lìa khỏi miệng, từ tuệ xa lìa chẳng phải thân, chẳng phải miệng. Này thiện nam tử! Thật có tuệ này nhưng chẳng thể khiến cho Bồ tát xa lìa. Vì sao vậy ? Này thiện nam tử ! Không có một pháp có thể hủy hoại, có thể tạo tác. Tính pháp hữu vi sinh khác, diệt khác. Vậy nên tuệ này chẳng thể viễn ly. Này thiện nam tử ! Tuệ này chẳng thể phá, lửa chẳng thể đốt, nước chẳng thể làm thối rữa, gió chẳng thể lay động, đất chẳng thể trì giữ, sinh chẳng thể sinh, già chẳng thể già, trụ chẳng thể trụ, hoại chẳng thể hoại, tham chẳng thể tham, sân chẳng thể sân, si chẳng thể si. Do tính hữu vi sinh khác, diệt khác nên Ðại Bồ tát nhất định chẳng phát sinh ý niệm : “Ta dùng tuệ này phá các phiền não”. Mà tự nói rằng : “Ta phá phiền não”. Bồ tát tuy nói lời này nhưng chẳng phải là hư dối. Vậy nên lại gọi là là chẳng thể nghĩ  bàn.

Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Con nay mới biết Ðại Bồ tát chẳng thể nghĩ bàn. Phật pháp, chúng Tăng, Kinh Ðại Niết Bàn và người thọ trì Bồ Ðề Niết Bàn chẳng thể nghĩ bàn. Thưa đức Thế Tôn ! Phật pháp vô thượng sẽ trụ thế thời gian lâu mau mà diệt ?

– Này thiện nam tử ! Như Kinh Ðại Niết Bàn… cho đến có năm hạnh này là Thánh hạnh, Phạm hạnh, Thiên hạnh, Bệnh hạnh, Anh nhi hạnh (hạnh trẻ con) mà nếu đệ tử của ta có thể thọ trì, đọc tụng, ghi chép, diễn nói nghĩa của những điều ấy thì được sự cung kính, tôn trọng, khen ngợi, cúng dường đủ thứ của các chúng sinh. Ông phải biết là lúc bấy giờ Phật pháp chưa diệt. Này thiện nam tử ! Nếu Kinh Ðại Niết Bàn lưu bố đầy đủ, đang lúc ấy mà các đệ tử của ta phạm cấm giới nhiều, tạo tác mọi điều ác, chẳng thể kính tín Kinh điển như vậy, do chẳng tin nên chẳng thể thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói nghĩa ấy, chẳng được sự cung kính… cho đến cúng dường của mọi người, thấy người thọ trì thì khinh chê, bài báng rằng : “Ông chính là bọn lục sư, chẳng phải đệ tử của Phật” thì phải biết là Phật pháp sắp diệt, chẳng còn bao lâu !

Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Con gần gũi theo đức Phật, nghe được nghĩa như vầy : “Pháp của đức Phật Ca Diếp trụ thế bảy ngày nhiên hậu diệt tận”. Thưa đức Thế Tôn ! Ðức Như Lai Ca Diếp có Kinh này chăng ? Như có Kinh ấy thì sao nói rằng diệt ? Còn như Kinh ấy không có thì sao nói rằng Kinh Ðại Niết Bàn là tạng Bí mật của các đức Như Lai ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Ta nói ở trước rằng, chỉ có  Văn Thù Sư Lợi mới giải được nghĩa này. Hôm nay ta sẽ nói một lần nữa, ông hãy chí tâm lắng nghe ! Này thiện nam tử ! Các đức Phật Thế Tôn có hai thứ pháp, một là Thế pháp, hai là Ðệ nhất nghĩa pháp. Thế pháp có thể diệt, Ðệ nhất nghĩa pháp thì chẳng hoại diệt. Lại có hai thứ, một là Vô thường – Vô ngã – Vô lạc – Vô tịnh, hai là Thường – Lạc – Ngã – Tịnh. Vô thường, Vô lạc, Vô ngã, Vô tịnh thì có hoại diệt. Thường Lạc Ngã Tịnh thì không hoại diệt. Lại có hai thứ, một là sự trì giữ của Nhị thừa, hai là sự trì giữ của Bồ tát. Sự trì giữ của Nhị thừa thì có hoại diệt, sự trì giữ của Bồ tát thì không hoại diệt. Lại có hai thứ, một là ngoại, hai là nội. Ngoại pháp thì có hoại diệt, nội pháp thì không hoại diệt. Lại có hai thứ, một là hữu vi, hai là vô vi. Pháp hữu vi thì có hoại diệt, pháp vô vi thì không hoại diệt. Lại có hai thứ, một là có thể được, hai là chẳng thể được. Pháp có thể được thì có hoại diệt, pháp chẳng thể được thì không hoại diệt. Lại có hai thứ, một là Cộng pháp, hai là Bất cộng pháp. Cộng pháp thì hoại diệt, Bất cộng pháp thì không hoại diệt. Lại có hai thứ, một là trong người, hai là trong trời. Pháp trong người hoại diệt, pháp trong trời thì không hoại diệt (?). Lại có hai thứ, một là mười một bộ Kinh, hai là Kinh Phương Ðẳng. Mười một bộ Kinh thì có hoại diệt, Kinh điển Phương Ðẳng không có hoại diệt. Này thiện nam tử ! Nếu đệ tử của ta thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói Kinh điển Phương Ðẳng, cung kính, tôn trọng, khen ngợi thì phải biết, lúc bấy giờ Phật pháp chẳng diệt. Này thiện nam tử ! Câu hỏi của ông hướng về việc đức Như Lai Ca Diếp có Kinh này không ? Thì này thiện nam tử ! Kinh Ðại Niết Bàn đều là tạng bí mật của tất cả các đức Phật. Vì sao vậy ? Vì các đức Phật tuy có mười một bộ Kinh nhưng chẳng nói Phật tính, chẳng nói Như Lai Thường-Lạc-Ngã-Tịnh, các đức Phật Thế Tôn vĩnh viễn chẳng rốt ráo vào với Niết Bàn. Vậy nên Kinh này gọi là Tạng bí mật của Như Lai, điều mà chẳng nói ở mười một bộ Kinh. Vậy nên gọi là Tạng. Như người có bảy báu, chẳng đem ra ngoài để dùng nên gọi đó là Tạng. Này thiện nam tử ! Người đó sở dĩ  tàng chứa vật này là vì việc chưa đến. Những gì là việc chưa đến ? Ðó là lúa gạo khan hiếm, giặc đến xâm lấn đất nước, gặp phải vua ác dùng tiền chuộc mạng, nạn nguy cấp trên đường đi, của cải khó được… thì mới phải xuất ra để dùng. Này thiện nam tử ! Tạng bí mật của các đức Phật Như Lai cũng lại như vậy, vì những Tỳ kheo ác ở đời vị lai nuôi chứa những vật bất tịnh, vì bốn chúng nói Như Lai rốt ráo vào với Niết Bàn, đọc tụng thế điển, chẳng kính Phật kinh… khi những việc ác như vậy hiện ở đời thì đức Như Lai vì muốn diệt những việc ác đó, khiến cho họ được xa lìa tà mạng, lợi dưỡng thì Như Lai vì họ diễn nói Kinh này. Nếu Kinh điển này, tạng bí mật của Như Lai biến mất thì phải biết là lúc bấy giờ Phật pháp diệt. Này thiện nam tử ! Kinh Ðại Niết Bàn thường trụ chẳng biến dị thì sao nạn hỏi rằng, thời đức Phật Ca Diếp có Kinh này không ? Này thiện nam tử ! Thời đức Phật Ca Diếp, chúng sinh sở hữu, tham dục rất ít, trí tuệ nhiều thêm, các Ðại Bồ tát điều hòa, nhu nhuyến dễ giáo hóa, có đại uy đức, tổng trì chẳng quên như Ðại Tượng Vương, thế giới Phật thì thanh tịnh. Tất cả chúng sinh của thế giới đó đều biết Như Lai nhất định chẳng rốt ráo vào với Niết Bàn, thường trụ, bất biến.. nên tuy có Kinh điển này nhưng chẳng cần diễn nói. Này thiện nam tử ! Ðời nay, chúng sinh nhiều những phiền não, ngu si, vui quên, không có trí tuệ, nhiều những lưới nghi hoặc, tín căn chẳng thành lập, thế giới bất tịnh, tất cả chúng sinh đều cho là Như Lai vô thường, biến thiên, rốt ráo vào với Ðại Bát Niết Bàn. Vậy nên Như Lai diễn nói Kinh điển này. Này thiện nam tử ! Pháp của các đức Phật Ca Diếp thật cũng chẳng diệt. Vì sao vậy ? Vì pháp thường trụ, bất biến. Này thiện nam tử ! Nếu có chúng sinh mà ngã thấy vô ngã – vô ngã thấy ngã, thường thấy vô thường – vô thường thấy thường, lạc thấy vô lạc – vô lạc thấy lạc, tịnh thấy bất tịnh – bất tịnh thấy tịnh, diệt thấy bất diệt – bất diệt thấy diệt, tội thấy chẳng phải tội – chẳng phải tội thấy tội, tội nhẹ thấy nặng – tội nặng thấy nhẹ, thừa thấy chẳng phải thừa – chẳng phải thừa thấy thừa, đạo thấy chẳng phải đạo – chẳng phải đạo thấy đạo, thật là Bồ Ðề thấy chẳng phải Bồ Ðề – thật chẳng phải Bồ Ðề thấy là Bồ Ðề, khổ thấy chẳng phải khổ, tập thấy chẳng phải tập, diệt thấy chẳng phải diệt, thật thấy chẳng phải thật, thật là Thế đế thấy Ðệ nhất nghĩa đế – Ðệ nhất nghĩa đế thấy là Thế đế, qui (về) thấy chẳng phải qui – chẳng phải qui thấy qui, lấy lời Phật chân thật gọi là lời nói của ma, thật là lời nói của ma lấy làm lời nói của Phật.. Khi như vậy thì chư Phật mới nói Kinh Ðại Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Thà nói vòi muỗi hút cạn đáy biển cả chớ chẳng thể nói rằng pháp Như Lai diệt ! Thà nói miệng thổi hoại tan núi Tu Di, chớ chẳng thể nói rằng pháp Như Lai diệt ! Thà nói dùng sợi tơ trói buộc gió mạnh, chớ chẳng thể nói rằng pháp Như Lai diệt ! Thà nói rằng trong lửa Khư đà la mọc ra hoa sen, chớ chẳng thể nói rằng pháp Như Lai diệt ! Thà nói thuốc A Dà Ðà mà là độc dược chớ chẳng thể nói rằng pháp Như Lai diệt ! Thà nói mặt trăng có thể làm cho nóng, mặt trời có thể làm cho lạnh, chớ chẳng thể nói rằng pháp Như Lai diệt ! Thà nói bốn đại đều bỏ tính của mình, chớ chẳng thể nói rằng pháp Như Lai diệt ! Này thiện nam tử ! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác rồi, chưa có đệ tử lý giải nghĩa thậm thâm mà đức Phật Thế Tôn đó liền nhập Niết Bàn thì phải biết là pháp đó chẳng trụ thế lâu dài. Lại nữa, này thiện nam tử ! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác rồi, có các đệ tử lý giải nghĩa thậm thâm thì tuy Phật Niết Bàn, nhưng phải biết là pháp đó trụ thế lâu dài. Lại nữa, này thiện nam tử ! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác rồi, tuy có đệ tử giải được nghĩa thậm thâm nhưng không có đàn việt bạch y dốc lòng tin kính trọng Phật pháp mà Phật liền Niết Bàn thì phải biết là pháp đó chẳng trụ thế lâu dài. Lại nữa, này thiện nam tử ! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác rồi, có các đệ tử giải được nghĩa thậm thâm, có nhiều đàn việt bạch y dốc lòng tin, kính trọng Phật pháp thì tuy Phật Niết Bàn, nhưng phải biết là Phật pháp trụ ở đời lâu dài. Lại nữa, này thiện nam tử ! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác rồi, có các đệ tử giải được nghĩa thậm thâm, tuy có đàn việt bạch y dốc lòng tin, kính trọng Phật pháp nhưng mà các đệ tử diễn nói kinh pháp vì tham lợi dưỡng, chẳng vì Niết Bàn, Phật lại diệt độ thì phải biết là pháp đó chẳng trụ thế lâu dài. Lại nữa, này thiện nam tử ! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác rồi, có các đệ tử giải được nghĩa thậm thâm, lại có đàn việt bạch y dốc lòng tin, kính trọng Phật pháp, các đệ tử của đức Phật đó, phàm diễn nói kinh pháp, chẳng tham lợi dưỡng vì cầu Niết Bàn thì tuy đức Phật diệt độ nhưng phải biết là pháp đó trụ ở đời lâu dài. Lại nữa, này thiện nam tử ! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác rồi, tuy có đệ tử giải được nghĩa thậm thâm, lại có đàn việt bạch y dốc lòng tin, kính trọng Phật pháp mà các đệ tử dấy lên nhiều tranh cãi phải trái lẫn nhau, Phật lại Niết Bàn thì phải biết là pháp đó chẳng trụ thế lâu dài. Lại nữa, này thiện nam tử ! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác rồi, có các đệ tử giải được nghĩa thậm thâm, lại có đàn việt bạch y dốc lòng tin, kính trọng Phật pháp, các đệ tử của đức Phật đó tu hòa hợp kính Pháp, chẳng tranh phải, trái tôn trọng lẫn nhau thì Phật tuy Niết Bàn nhưng phải biết pháp đó trụ lâu chẳng diệt. Lại nữa, này thiện nam tử ! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác rồi, tuy có đệ tử giải được nghĩa thậm thâm, lại có đàn việt bạch y dốc lòng tin, kính trọng Phật pháp, các đệ tử của đức Phật ấy vì Ðại Niết Bàn mà diễn nói pháp, cung kính lẫn nhau, chẳng khởi lên tranh cãi, nhưng nuôi chứa tất cả vật bất tịnh, lại tự khen rằng, ta được quả Tu đà hoàn… cho đến quả A la hán, đức Phật lại Niết Bàn thì phải biết là pháp đó trụ thế chẳng lâu. Lại nữa, này thiện nam tử ! Nếu Phật mới xuất hiện được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác rồi, có các đệ tử giải được nghĩa thậm thâm, lại có đàn việt bạch y dốc lòng tin, kính trọng Phật pháp, các đệ tử của đức Phật đó vì Ðại Niết Bàn diễn nói Kinh pháp, khéo tu hòa kính, tôn trọng lẫn nhau, chẳng nuôi chứa tất cả vật bất tịnh, cũng chẳng nói rằng được Tu đà hoàn… cho đến A la hán, đức Phật Thế Tôn đó tuy lại diệt độ, nhưng phải biết là pháp đó trụ ở đời lâu dài. Lại nữa, này thiện nam tử ! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác rồi, có các đệ tử… cho đến chẳng nuôi chứa vật bất tịnh, lại chẳng tự nói rằng được Tu đà hoàn… cho đến A la hán, nhưng đều chấp sở kiến, đủ thứ dị thuyết mà nói lên rằng : “Thưa trưởng lão ! Việc chế ra bốn trọng pháp… cho đến bảy pháp diệt tránh (diệt tranh cãi), vì chúng sinh nên hoặc ngăn (già) hoặc mở (khai), mười hai bộ Kinh cũng lại như vậy. Vì sao vậy ? Vì  Phật biết đất nước, thời tiết đều khác, chúng sinh chẳng đồng, độn căn, lợi căn sai biệt. Vậy nên đức Như Lai hoặc ngăn, hoặc mở, có khinh, có trọng mà nói. Này thiện nam tử ! Ví như vị lương y vì bệnh cho uống sữa, vì bệnh ngăn uống sữa, bệnh nóng thì cho uống, bệnh lạnh thì ngăn. Ðức Như Lai cũng vậy, quan sát bệnh căn phiền não của chúng sinh nên cũng mở, cũng ngăn. Thưa trưởng lão ! Tôi thân cận  theo đức Phật nghe được nghĩa như vậy. Chỉ có tôi biết nghĩa, còn ông thì chẳng thể biết. Chỉ có tôi giải được Luật, còn ông thì chẳng thể giải. Tôi biết các Kinh, còn ông thì chẳng thể biết”. Ðức Phật đó lại diệt độ thì phải biết pháp đó chẳng trụ thế lâu dài. Lại nữa, này thiện nam tử ! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác rồi, có các đệ tử… cho đến chẳng nói rằng, ta được quả Tu đà hoàn đến quả A la hán, cũng chẳng nói rằng : “Các đức Phật Thế Tôn vì chúng sinh nên hoặc ngăn, hoặc mở, thưa trưởng lão ! Tôi thân cận theo đức Phật nghe nghĩa như vậy, Pháp như vậy, Luật như vậy ! Thưa trưởng lão ! Phải nương vào mười hai bộ Kinh của Như Lai. Nghĩa này như vậy thì tôi thọ trì, như chẳng phải nghĩa ấy thì tôi sẽ xả bỏ…” Tuy đức Phật Thế Tôn đó lại Niết Bàn, nhưng phải biết là pháp đó trụ ở đời lâu dài. Này thiện nam tử ! Khi pháp của ta diệt, có hàng đệ Thanh Văn, hoặc nói có Thần, hoặc nói Thần rỗng không, hoặc nói có ấm bên trong, hoặc nói không ấm bên trong, hoặc nói có ba đời, hoặc nói không ba đời, hoặc nói có ba thừa, hoặc nói không ba thừa, hoặc nói tất cả hữu, hoặc nói tất cả không, hoặc nói chúng sinh có thỉ có chung, hoặc nói chúng sinh vô thỉ vô chung, hoặc nói mươi hai nhân duyên là pháp hữu vi, hoặc nói mười hai nhân duyên là pháp vô vi, hoặc nói Như Lai có bệnh khổ hạnh, hoặc nói Như Lai không bệnh khổ hạnh, hoặc nói Như Lai chẳng cho Tỳ kheo ăn mười thứ thịt. Những gì là mười ? Ðó là thịt người, rắn, voi, ngựa, lừa, chó, sư tử, heo, chồn, khỉ đột. Những thứ còn lại ấy đều cho ăn. Hoặc nói tất cả chẳng cho ăn. Hoặc nói Tỳ kheo chẳng làm năm việc. Những gì là năm ? Là chẳng bán miệng sống, dao, rượu, cát sông, dầu mè; số còn lại ấy đều cho làm. Hoặc nói chẳng cho vào năm thứ nhà. Những gì là năm ? Ðó là nhà đứa giết mổ, nhà dâm nữ, nhà bán rượu, cung vua, nhà Chiên đa la. Số nhà còn lại đều cho vào. Hoặc nói chẳng cho mặc áo Kiều xa gia, số còn lại tất cả đều cho. Hoặc nói Như Lai cho các Tỳ kheo nhận lấy áo quần, đồ ăn, ngọa cụ mà giá trị những đồ ấy đến hàng mười vạn lượng vàng, hoặc nói chẳng cho. Hoặc nói Niết Bàn Thường-Lạc-Ngã-Tịnh. Hoặc nói Niết Bàn chính là kết sử hết, lại không có thứ biệt pháp gọi là Niết Bàn. Ví như dệt sợi tơ gọi đó là áo mà áo đã hoại rồi thì gọi là không có áo. Thật ra không có biệt pháp gọi là không có áo. Thể của Niết Bàn cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Ðang lúc ấy, đệ tử của ta, người nói chân chính thì ít, kẻ nói tà bậy thì nhiều, người thọ chính pháp thì ít, kẻ thọ tà pháp thì nhiều, người thọ lời Phật thì ít, kẻ thọ lời ma thì nhiều ! Này thiện nam tử ! Lúc bấy giờ, nước Câu Diệm Di có hai đệ tử, một là A la hán, hai là phá giới. Ðồ chúng của người phá giới có đến năm trăm người, đồ chúng của vị A la hán có chừng một trăm người. Người phá giới nói rằng : “Ðức Như Lai rốt ráo vào với Niết Bàn, ta gần gũi theo đức Phật nghe được nghĩa như vậy. Như Lai đã chế ra bốn trọng pháp mà nếu giữ gìn thì cũng có thể phạm, cũng không có tội. Ta nay cũng được quả A la hán, bốn vô ngại trí mà A la hán cũng phạm bốn trọng pháp như vậy. Bốn trọng pháp nếu là tội chân thật thì A la hán nhất định chẳng nên phạm. Ðức Như Lai tại thế chế rằng, kiên trì đến khi Niết Bàn thì đều buông bỏ hết”. Vị Tỳ kheo  A la hán nói rằng : “Thưa trưởng lão ! Ngài chẳng nên nói Như Lai rốt ráo vào với Niết Bàn ! Tôi biết Như Lai thường trụ chẳng biến dị. Ðức Như Lai tại thế và sau khi Niết Bàn, phạm bốn trọng cấm, tội không sai biệt. Nếu nói A la hán phạm bốn trọng cấm thì nghĩa đó chẳng vậy. Vì sao vậy ? Vì người Tu đà hoàn còn chẳng phạm cấm giới, huống gì là A la hán ? Nếu trưởng lão nói rằng, ta là A la hán, thì A la hán nhất định chẳng sinh ra tư tưởng ta được A la hán. A la hán thì chỉ nói pháp thiện, chẳng nói pháp bất thiện. Lời nói của trưởng lão đều thuần là phi pháp. Nếu người có được thấy mười hai bộ Kinh thì nhất định biết trưởng lão chẳng phải là A la hán”. Này thiện nam tử ! Lúc bấy giờ, đồ chúng của Tỳ kheo phá giới liền cùng nhau giết chết vị A la hán. Này thiện nam tử ! Khi đó ma vương nhân lòng phẩn hận của hai chúng đó nên đều hại hết sáu trăm vị Tỳ kheo này. Bấy giờ, người phàm phu đều cùng nói rằng : “Thương thay ! Phật pháp đến đây đã diệt tận !” Mà chính pháp của ta thật chẳng diệt vậy. Lúc bấy giờ, nước ấy có mười hai vạn những vị Ðại Bồ tát giỏi hộ trì pháp của ta thì sao phải nói pháp của ta diệt vậy ? Ðang khi ấy, bên trong cõi Diêm phù đề không có một vị Tỳ kheo làm đệ tử của ta. Lúc bấy giờ, ma Ba Tuần dùng lửa lớn đốt cháy tất cả Kinh điển sẵn có ở đó. Trong số Kinh điển ấy, nếu có còn sót lại thì các Bà la môn liền trộm lấy, khắp nơi nơi nhặt nhạnh đem an trí vào Kinh điển của mình. Do nghĩa này nên khi Phật chưa xuất hiện thì các tiểu Bồ tát cùng theo tín thọ lời nói của Bà la môn. Các thầy Bà la môn tuy nói lời rằng : “Ta có trai giới mà các ngoại đạo chân thật là không vậy” nhưng các ngoại đạo.v.v…tuy lại nói rằng, có Ngã, Lạc, Tịnh nhưng mà thật chẳng thể giải được nghĩa Ngã, Lạc, Tịnh. Những dùng một chữ, hai chữ, một câu, hai câu của Phật pháp mà nói rằng, Kinh điển của ta có nghĩa như vậy.

Lúc bấy giờ, vùng Ta La Song Thọ ở thành Câu Thi Na, vô lượng vô biên Atăngkỳ chúng nghe lời nói này rồi đều chung nhau xướng lên rằng :

– Thế gian rỗng không ! Thế gian rỗng không !

Bồ tát Ca Diếp bảo các đại chúng rằng :

– Các ông hãy chớ ưu sầu gào khóc ! Thế gian chẳng rỗng không ! Như Lai thường trụ, không có biến dị ! Pháp, Tăng cũng vậy !

Lúc bấy giờ, đại chúng nghe lời này rồi, gào khóc liền dừng lại, đều phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

*********

Lúc bấy giờ, vua A Xà Thế của thành lớn Vương Xá, tính ông ấy tệ ác, ưa hành động giết hại, miệng đủ bốn lỗi ác. Tham dục, sân nhuế, ngu si hừng hực trong lòng ông ấy. Ông chỉ thấy hiện tại, chẳng thấy vị lai, thuần dùng người ác làm quyến thuộc, tham trước năm dục lạc đời hiện tại. Phụ vương không tội, ông ngang ngược gia thêm nghịch hại. Nhân hại cha rồi, lòng sinh ra hối hận nóng nảy, thần cỡi bỏ chuỗi ngọc, kỹ nhạc chẳng ngự xem. Lòng hối hận, nóng nảy nên khắp thân thể sinh ra ghẻ lở. Ghẻ lở ấy hôi thối, dơ bẩn, chẳng thể đến gần, ông liền tự nghĩ rằng : “Ta hôm nay, thân đã chịu hoa báo, còn quả báo địa ngục sẽ gần chẳng xa”. Lúc bấy giờ, mẹ ông ấy tên là Vi Ðề Hy, dùng đủ thứ thuốc mà thoa thì ghẻ ấy liền tăng thêm, không có giảm bớt. Vua liền thưa mẹ rằng : “Như vậy ghẻ lở từ lòng mà sinh ra chẳng phải do bốn đại khởi lên. Nếu nói rằng, chúng sinh có thể trị được thì không có điều đó”. Có vị đại thần tên là Nguyệt Xứng, đến chỗ nhà vua, đứng ở một bên, tâu rằng : “Thưa đại vương ! Vì sao ưu sầu, tiều tụy, dung nhan chẳng vui ? Vì thân đau à ? Hay vì lòng đau ư ?” Nhà vua đáp lời bề tôi rằng : “Ta nay thân tâm đâu được chẳng đau ! Cha ta không tội mà ngang ngược gia thêm nghịch hại ! Ta theo người trí từng nghe nghĩa này. Ðời có năm hạng người chẳng thoát được địa ngục, gọi là ngũ nghịch tội. Ta nay đã có ở vô lượng vô biên atăngkỳ tội thì sao thân tâm mà chẳng bị đau ? Lại không có lương y trị liệu cho thân tâm của ta”. Vị đại thần tâu rằng : “Thưa đại vương ! Ngài chớ sầu khổ” liền nói kệ rằng :

Nếu thường sầu khổ

Sầu liền lớn lên

Như người ưa ngủ

Thì ngủ nhiều thêm.

Tham dâm, thèm rượu

Cũng lại như trên.

Như lời nhà vua nói, đời có năm hạng người chẳng thoát khỏi địa ngục, ai đến đó thấy mà về nói với vua vậy ? Người nói địa ngục chính là người nhiều trí của thế gian nói. Như lời vua nói, đời không có lương y trị thân tâm thì hôm nay có vị đại lương y tên là Phú Lan Na, tất cả thấy biết, được tự tại định, rốt ráo tu tập phạm hạnh thanh tịnh, thường vì vô lượng vô biên chúng sinh mà diễn nói đạo Niết Bàn Vô thượng. Ông vì các đệ tử nói pháp như vầy : Không có nghiệp đen, không nghiệp báo đen, không có nghiệp trắng, không nghiệp báo trắng, không có nghiệp đen trắng, không nghiệp báo trắng đen, không có nghiệp trên và cả nghiệp dưới. Vị thầy này nay ở tại trong thành Vương Xá. Nguyện xin đại vương chịu khuất, xa giá đến đó, có thể khiến cho vị thầy đó trị liệu thân tâm cho ngài:. Nhà vua đáp rằng : “Xét có thể quả đúng như vậy, diệt trừ được tội của ta thì ta sẽ qui y !”

Lại có một vị bề tôi tên là Tạng Ðức, lại đến chỗ nhà vua mà nói lên rằng : “Thưa đại vương ! Vì sao diện mạo ngài tiều tụy, môi miệng khô cháy, âm thanh vi tế giống như người khiếp nhược nhìn thấy oán địch lớn. Nhan sắc ngài biến đổi thảm hại vì nỗi khổ gì đây ? Vì thân đau à ? Hay vì lòng đau ư ?” Nhà vua liền đáp rằng : “Ta nay thân tâm làm sao chẳng đau? Ta đã ngu si, mù tối, không có mắt tuệ, gần bạn ác mà làm thân thiện, theo lời người ác Ðề Bà Ðạt Ða, vua của Chánh pháp, ngang ngược gia thêm nghịch hại. Ta xưa từng nghe người trí nói kệ rằng :

Nếu với song thân

Phật và đệ tử

Sinh chẳng thiện tâm

Khởi lên nghiệp ác

Như vậy quả đền (báo)

Tại A Tỳ ngục.

Do việc này nên khiến cho lòng ta sợ, sinh ra khổ não lớn, lại không có lương y mà cứu vớt, trị liệu cho”. Vị đại thần lại tâu rằng : “Nguyện xin đại vương hãy chớ buồn sợ ! Pháp có hai thứ, một là xuất gia, hai là vương pháp. Vương pháp thì gọi việc hại cha ấy là vua đất nước. Tuy gọi là nghịch nhưng thật không có tội, như con trùng ca la la cần phải phá hoại bụng của mẹ, rồi nhiên hậu mới sinh ra. Phép sinh như vậy, tuy phá hoại thân mẹ nhưng thật cũng không tội. Con la (loa) mang thai .v.v… cũng lại như vậy. Phép trị nước, phương pháp nên như vậy, tuy giết hại cha, anh nhưng thật không có tội. Phép xuất gia thì thậm chí giết con muỗi, con kiến cũng có tội. Nguyện xin đại vương ý thoáng rộng chớ buồn. Vì sao vậy ? Vì :

Nếu thường sầu khổ

Sầu liền lớn lên

Như người ưa ngủ

Thì ngủ nhiều thêm

Tham dâm, thèm rượu

Cũng lại như trên.

Như lời vua nói, đời không lương y trị liệu thân tâm, thì nay có đại sư tên là Mạt Dà Lê Câu Xá Ly tử đủ tất cả tri kiến, thương xót chúng sinh giống như con đỏ, đã lìa khỏi phiền não, có thể nhổ ba mũi tên bén độc hại, tất cả chúng sinh đối với tất cả pháp không biết, thấy, giác, chỉ một người này độc nhất biết-thấy-giác. Ðại sư như vậy thường vì đệ tử nói pháp như vầy : Thân của tất cả chúng sinh có bảy thành phần. Những gì là bảy ? Ðó là đất, nước, lửa, gió, khổ, lạc, thọ mạng. Bảy pháp như vậy chẳng phải hóa, chẳng phải tác, chẳng thể hủy hại như cỏ Y Sư Ca, an trụ chẳng động như núi Tu Di, chẳng xả (bỏ), chẳng tác giống như cao sữa, đều chẳng tranh tụng, hoặc khổ, hoặc vui, hoặc thiện, hoặc chẳng thiện, lao vào dao bén không bị tổn thương. Vì sao vậy ? Vì trong bảy thành phần rỗng không không có phương hại nên mạng cũng không hại. Vì sao vậy ? Vì không có hại và chết nên không tác, không thọ, không nói, không nghe, không có niệm và giáo (dạy bảo) thì thường nói pháp này có thể khiến cho chúng sinh diệt trừ tất cả vô lượng tội nặng. Vị thầy này nay ở tại đại thành Vương Xá, nguyện xin đại vương đi đến nơi ấy ! Nhà vua nếu thấy ông ấy thì mọi tội tiêu trừ”. Nhà vua đáp rằng : “Xét có thể quả đúng như vậy, trừ diệt được tội của ta thì ta sẽ qui y”.

Lại có một đại thần tên là Thật Ðắc, lại đến chỗ vua, liền nói kệ rằng :

Vì sao Ðại vương

Thân cởi chuỗi ngọc

Ðầu tóc rối tung

Ðến nỗi như vậy ?

Vì sao vương thân (thân vua)

Chẳng yên, run rẩy

Giống như mãnh phong (gió mạnh)

Thổi cây hoa động ?

Ðức vua hôm nay vì sao dung sắc ưu sầu tiều tụy giống như nông phu sau khi xuống giống mà trời chẳng tuông mưa. Ngài sầu khổ như vậy là chính lòng đau hay là thân đau vậy ?” Nhà vua liền đáp rằng : “Ta hôm nay, thân tâm há được chẳng đau sao ? Cha ta, đấng tiên vương, từ ái nhân đức, những thấy nghĩ mà thương, không có lỗi lầm. Vua cha có lần đến hỏi thầy tướng, thầy tướng đáp rằng, sinh đứa con này rồi, nhất định về sau sẽ hại cha. Tuy nghe lời nói này nhưng vua còn nâng niu nuôi dưỡng. Ta từng nghe kẻ trí nói rằng, nếu người thông dâm với mẹ và Tỳ kheo ni, ăn trộm đồ vật của tăng kỳ, giết người phát tâm Bồ Ðề và hại cha của mình… người như vậy nhất định sẽ đọa địa ngục A Tỳ. Ta nay thân tâm há được chẳng đau sao ?” Vị đại thần lại nói rằng : “Nguyện xin đại vương hãy chớ sầu khổ ! Như tu giải thoát mà hại vua cha ấy thì có tội. Nếu theo pháp trị nước mà giết thì không tội. Thưa đại vương ! Chẳng phải pháp thì gọi là vô pháp mà vô pháp thì gọi là vô pháp. Ví như không con thì gọi là vô tử, cũng như ác tử (con xấu) cũng gọi là vô tử. Tuy nói rằng, không con nhưng thật chẳng phải là không con. Như ăn không muối gọi là không muối, nếu ăn ít muối cũng gọi là không muối. Như dòng sông không nước gọi là không nước, nếu có ít nước cũng gọi là không nước. Như từng niệm từng niệm diệt gọi là vô thường, tuy trụ một kiếp cũng gọi là vô thường. Như người chịu khổ gọi là không vui, tuy hưởng ít vui cũng gọi là không vui. Như chẳng tự tại gọi là vô ngã, tuy ít tự tại cũng gọi là vô ngã. Như khi đêm tối gọi là không mặt trời, khi mây mù cũng nói rằng không mặt trời. Thưa đại vương! Tuy nói rằng ít pháp gọi là vô pháp nhưng thật chẳng phải không có pháp ! Nguyện xin đức vua để lòng nghe lời nói của thần, tất cả chúng sinh đều có dư nghiệp. Do nghiệp duyên nên đôi khi thọ sinh tử. Nếu giả sử đấng tiên vương có dư nghiệp mà hôm đức vua hại ngài xong thì có tội gì ? Nguyện xin đại vương rộng thoáng tâm ý, chớ ưu sầu ! Vì sao vậy ? Vì :

Nếu thường sầu khổ

Sầu khổ lớn lên

Như người ưa ngủ

Thì ngủ nhiều thêm

Tham dâm, thích rượu

Cũng lại như trên.

Như lời vua nói, đời không có lương y trị liệu thân tâm thì hôm nay có đại sư tên là San Xà Gia Tỳ La Ðê tử, tất cả thấy, biết, trí thầy ấy uyên thâm giống như biển cả, có uy đức lớn, đủ đại thần thông, có thể khiến cho chúng sanh lìa khỏi các lưới nghi, tất cả chúng sinh chẳng biết, thấy, giác, chỉ độc một người này là biết, thấy, giác. Hôm nay vị đại sư này trụ ở gần thành Vương Xá, vì các đệ tử nói pháp như vầy : Trong tất cả chúng, nếu là vương giả thì tự tại tùy ý tạo tác thiện ác. Tuy làm mọi ác nhưng đều không có tội. Như lửa thiêu đốt vật không phân biệt tịnh hay chẳng tịnh, vua cũng như vậy, cùng với lửa đồng tính. Vì như đại địa, sạch, dơ đều chở hết. Tuy làm việc đó mà đất không giận hay mừng, vua cũng như vậy, cùng với đất đồng tính. Ví như tính của nước, sạch dơ đều tẩy rửa. Tuy làm việc đó mà nước cũng không lo hay mừng, vua cũng như vậy, cùng với nước đồng tính. Ví như tính của gió, sạch hay dơ đều thổi. Tuy làm việc đó mà gió cũng không lo hay mừng, vua cũng như vậy, cùng với gió đồng tính. Như mùa thu cây trụi cành lá, mùa xuân thì trở lại sinh ra. Tuy trọc trụi cành lá nhưng thật không có tội. Tất cả chúng sinh cũng lại như vậy, mạng chung chỗ này trở lại sinh ra chỗ kia. Do sinh ra trở lại mà phải có tội sao? Quả báo khổ vui của tất cả chúng sinh đều chẳng do nghiệp của đời hiện tại. Nhân tại quá khứ thì hiện tại thọ quả. Hiện tại mà không nhân thì vị lai không quả. Do quả báo hiện tại nên chúng sinh trì giới, siêng tu tinh tấn, ngăn chận quả ác hiện tại. Do trì giới nên được vô lậu. Ðược vô lậu nên hết nghiệp hữu lậu. Do hết nghiệp nên mọi khổ được hết mà mọi khổ hết nên được giải thoát. Nguyện xin đại vương hãy mau đến chỗ vị đại sư ấy, để cho ông ấy trị liệu sự thống khổ của thân tâm ngài. Ðức vua nếu thấy vị đại sư ấy thì mọi tội tiêu trừ”. Nhà vua liền đáp rằng : “Xét đúng có vị đại sư này, có thể trừ được tội của ta thì ta sẽ qui y”.

Lại nữa, có một đại thần tên là Tất Tri Nghĩa, lại đến chỗ nhà vua mà nói rằng : “Ðức vua hôm nay vì sao hình dung chẳng đoan nghiêm như người mất nước, như suối khô, ao cạn, không hoa sen, cây không hoa lá, như Tỳ kheo phá giới, thân không uy đức, vì thân đâu ? Hay vì lòng đau ư?” Nhà vua đáp rằng : “Ta nay thân tâm há được chẳng đau sao? Cha ta, đấng tiên vương từ ái lưu niệm, nhưng ta bất hiếu, chẳng biết báo ơn. Ngài thường dùng an lạc để an lạc cho ta mà ta bội ân, phản nghịch cắt đứt niềm an lạc ấy. Ðấng tiên vương không tội mà ta ngang ngược dấykhởi nghịch hại. Ta cũng từng nghe kẻ trí nói rằng, nếu có người hại cha thì sẽ ở trong vô lượng atăngkỳ kiếp, thọ đại khổ não. Ta nay chẳng bao lâu nữa nhất định rơi vào địa ngục mà lại không có lương y cứu tế, trị liệu tội của ta”. Vị đại thần liền nói rằng : “Nguyện xin đại vương buông bỏ sầu khổ ! Ðức vua chẳng nghe sao ? Thuở xưa có một vị vua tên là La Ma hại cha mình, rồi được nối ngôi vua. Ðại vương Bạt Ðề, vua Tỳ Lâu Chân, vua Na Hầu Sa, vua Ca Ðế Ca, vua Tỳ Xá Khư, vua Nguyệt Quang Minh, vua Nhật Quang Minh, vua Ái, vua Trì Ða Nhân.v.v… những vua như vậy đều hại cha của mình để được nối ngôi vua, nhưng không có một vị vua nào vào địa ngục cả. Ở hiện tại hôm nay, vua Tỳ Lưu Ly, vua Ưu Ðà Na, vua Ác Tính, vua Thử (chuột), vua Liên Hoa.v.v.. Những vua như vậy đều hại cha mình mà đều không một vị vua nào sinh ra sầu não cả. Tuy nói rằng, trong địa ngục, ngã quỉ, trời nhưng nào có ai thấy đâu ? Thưa đại vương ! Chúng ta chỉ thấy có hai con đường, một là đường làm người, hai là đường súc sinh thôi ! Tuy có hai lối đó nhưng chẳng phải là nhân duyên sinh, chẳng phải là nhân duyên chết. Nếu chẳng phải do nhân duyên thì làm gì có thiện ác ! Nguyện xin đại vương chớ ôm lòng buồn sợ. Vì sao vậy ? Vì :

Nếu thường sầu khổ

Sầu liền tăng lên

Như người ưa ngủ

Thì ngủ nhiều thêm

Tham dâm, thích rượu

Cũng lại như trên.

Như lời đại vương nói, đời không lương y trị liệu thân tâm, thì nay có đại sư tên là A Kỳ Ða Xí Xá Khâm Bà La, tất cả đều thấy biết, quan sát vàng cùng đất bình đẳng không hai, kẻ cầm dao chặt vào hông phải, người trát chiên đàn hông trái, đại sư ấy đối với hai người này, lòng không sai khác, bình đẳng nhìn kẻ oán người thân, lòng không dị tướng. Vị thầy này chân thật là lương y của đời, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm luôn ở tại tam muội, lòng không phân tán. Ngài bảo các đệ tử rằng, hoặc tự làm hoặc dạy người khác làm, hoặc tự chặt hoặc dạy người khác chặt, hoặc tự nướng hoặc dạy người khác nướng, hoặc tự hại hoặc dạy người khác hại, hoặc tự ăn trộm hoặc dạy người khác ăn trộm, hoặc tự dâm dục hoặc dạy người khác dâm dục, hoặc tự nói dối hoặc dạy người khác nói dối, hoặc tự uống rượu hoặc dạy người khác uống rượu, hoặc giết chết một làng, một thành, một nước hoặc dùng bánh xe dao (đao luân) giết chết tất cả chúng sinh, hoặc ở phía Nam sông Hằng bố thí chúng sinh mà ở phía Bắc sông Hằng thì sát hại chúng sinh… Tất cả đều không có tội phước, không có thí, giới, định. Hiện nay vị đại sư ấy trụ ở gần thành Vương Xá, nguyện xin đại vương đến đó mau ! Ðại vương nếu thấy vị ấy thì mọi tội trừ diệt hết”. Nhà vua nói rằng : “Này đại thần ! Xét nếu có thể đúng như vậy, trừ diệt được tội của ta thì ta sẽ qui y”.

Lại có vị đại thần tên là Cát Ðức, lại đến chỗ nhà vua mà nói lên rằng : “Ðức vua hôm nay vì sao mặt ngài không ngời sáng ? Sao như ánh đèn trong ánh sáng mặt trời ? Như mặt trăng lúc ban ngày ? Như đất hoang hóa ? Thưa đại vương ! Hôm nay, bốn phương thanh bình, không có những oán địch mà vì sao đức vua sầu khổ như vậy ? Vì thân khổ sao ? Vì tâm khổ ư ? Có các vương tử thường sinh ý niệm này, ta nay khi nào được tự tại ? Thưa đại vương ! Hôm nay ngài đã thỏa nguyện tự tại ! Ðức vua thống lĩnh nước Ma Dà Ðà, bảo tàng của tiên vương đã được đầy đủ thì chỉ phải khoái ý mặc tình hưởng thụ lạc thú ! Ngài ôm mãi sầu não như vậy để làm gì ?” Nhà vua liền đáp rằng : “Ta nay làm sao được phép chẳng sầu não ? Này đại thần ! Ví như người ngu  chỉ tham vị ngon ấy mà chẳng thấy lưỡi dao bén, như ăn tạp độc mà chẳng thấy cái hại của độc ấy, ta cũng như vậy. Như con hươu thấy cỏ mà chẳng thấy hố sâu, như con chuột tham ăn mà chẳng thấy mèo chồn, ta cũng như vậy. Ta thấy niềm vui hiện tại mà chẳng thấy quả khổ chẳng lành đời sau. Ta từng theo bậc trí giả nghe lời nói như vầy : “Thà trọn ngày chịu đựng ba trăm lần giáo đâm, chớ chẳng đối với cha mẹ sinh  ra một ý niệm ác ! Ta nay đã gần với lửa rực địa ngục thì làm sao được phép chẳng sầu não vậy ?” Vị đại thần lại tâu rằng : “Ai đến dối gạt đức vua rằng có địa ngục ? Như cây nhọn đâm vào đầu là sự tạo ra của ai ? Chim bay khác màu lại ai làm ra ? Tính nước thấm nhuần, tính đá cứng chắc, như gió tính động, như lửa tính nóng… tất cả muôn vật tự chết tự sinh, những sự tạo tác này của ai ? Nói rằng, địa ngục chỉ những là sự tạo tác văn từ của bậc trí giả. Nói địa ngục là có nghĩa gì ? Bề tôi sẽ giải nói, địa là gọi đất, ngục là gọi phá. Phá đối với địa ngục không có tội báo. Ðó gọi là địa ngục. Lại nữa, địa là gọi người, ngục là gọi trời. Do hại cha mình nên đến với người, trời. Do nghĩa này nên tiên nhân Bà Tẩu xướng lên rằng : Giết dê được niềm vui người trời. Ðó gọi là địa ngục. Lại nữa, địa là gọi mạng, ngục là gọi dài. Do giết sự sống nên được thọ mạng lâu dài nên gọi là địa ngục. Thưa đại vương ! Vậy nên ngài phải biết thật không có địa ngục. Thưa đại vương ! Như gieo lúa mì được lúa mì, gieo lúa nước được lúa nước, giết địa ngục thì trở lại được địa ngục, giết hại người nên trở lại được làm người. Thưa đại vương ! Hôm nay, ngài phải nghe lời nói của thần là thật không có sự giết hại. Nếu có ngã thì thật cũng không hại. Nếu vô ngã thì lại không có cái bị hại. Vì sao vậy ? Vì nếu có ngã thì thường trụ, chẳng biến dị. Do thường trụ nên chẳng thể giết hại. Chẳng phá, chẳng hoại, chẳng ràng, chẳng buộc, chẳng giận, chẳng mừng giống như hư không thì sao gọi rằng phải có tội giết hại ? Nếu vô ngã thì các pháp vô thường. Do vô thường nên từng niệm từng niệm hoại diệt mà nếu từng niệm từng niệm diệt thì cái giết cái chết đến từng niệm từng niệm diệt. Nếu từng niệm từng niệm diệt thì ai phải có tội ? Thưa đại vương ! Như lửa đốt cây, lửa thì không tội, như búa chặt cây, búa cũng không tội, như liềm cắt cỏ, liềm thật không tội, như dao giết người, dao thật chẳng phải là người mà dao đã không tội thì người làm sao gọi là tội ? Như độc giết người, độc thật chẳng phải là người. Thuốc độc không tội thì người sao gọi là tội ? Tất cả muôn vật đều cũng như vậy, thật không giết hại thì sao gọi là có tội ? Nguyện xin đại vương chớ sinh sầu khổ ! Vì sao vậy ? Vì :

Nếu thường sầu khổ

Sầu liền tăng lên

Như người ưa ngủ

Thì ngủ nhiều thêm

Tham dâm, thích rượu

Cũng lại như trên.

Như lời vua nói, đời không có lương y trị liệu nghiệp ác thì hôm nay có vị đại sư tên là Ca La Cưu Ðà Ca Chiên Diên, tất cả đều tri kiến, sáng tỏ ba đời, ở trong khoảnh khắc một niệm có thể thấy vô lượng vô biên thế giới và nghe tiếng cũng vậy, có thể khiến cho chúng sinh xa lìa tội lỗi ác. Ví như sông Hằng, hoặc trong, hoặc ngoài những tội sở hữu đều thanh tịnh hết, vị đại lương y này cũng lại như vậy, có thể trừ diệt mọi tội trong ngoài của chúng sinh. Vị đại sư ấy vì các đệ tử nói pháp như vầy : Nếu người giết hại tất cả chúng sinh mà lòng không tàm quí thì nhất định chẳng đọa vào ác đạo, giống như hư không chẳng thọ bụi, nước. Người có tàm quí thì liền vào địa ngục, giống như nước lớn thấm tháp ở đất. Tất cả chúng sinh đều là sự tạo tác của trời Tự Tại. Trời Tự Tại vui thì chúng sinh an lạc, trời Tự Tại giận thì chúng sinh khổ não. Tất cả chúng sinh hoặc tội, hoặc phước mới chính là việc làm của trời Tự Tại thì sao phải nói rằng người có tội, phước ? Vì như người thợ mộc làm người gỗ máy, đi, đứng, ngồi, nằm chỉ chẳng thể nói được, chúng sinh cũng vậy. Trời Tự Tại là dụ cho người thợ mộc, người gỗ là dụ cho thân chúng sinh. Tạo hóa như vậy thì ai sẽ có tội ? Bậc đại sư như vậy hiện nay trụ ở gần thành Vương Xá, nguyện xin đại vương hãy mau đến đó ! Như ngài diện kiến vị ấy thì mọi tội đều tiêu diệt”. Nhà vua liền đáp rằng : “Xét quả đúng có người này, có thể diệt tội của ta thì ta sẽ qui y”. Lại có một vị đại thần tên là Vô Sở Úy, đi đến chỗ nhà vua mà nói như vầy : “Thưa đại vương ! Ðời có người ngu, trong một ngày, trăm điều mừng, trăm điều buồn, trăm lần ngủ, trăm lần thức, trăm lần kinh hãi, trăm lần khóc lóc. Người có trí thì không có những việc này. Ðại vương vì sao lo buồn như vậy ? Như mất bạn bè khách khứa ? Như rơi vào bùn sâu không người cứu vớt ? Như người khát chẳng được nước uống ? Giống như người đi lạc không có kẻ dẫn đường ? Như người bệnh khốn không thầy thuốc chửa trị ? Như thuyền trên biển bị vỡ không người tiếp cứu ? Thưa đại vương! Hôm nay ngài thân đau chăng ? Hay vì lòng đau ư ?” Nhà vua liền đáp rằng : “Ta nay thân tâm há được phép chẳng đau sao ? Ta gần bạn xấu, chẳng quan sát tội lỗi của miệng, đấng tiên vương không tội mà ta ngang ngược dấy khởi nghịch hại. Ta nay nhất định biết sẽ vào địa ngục, lại không có lương y mà diện kiến xin cứu tế”. Vị đại thần liền bạch rằng : “Nguyện xin đại vương chớ sinh sầu độc ! Phàm Sát Lợi thì gọi là dòng vua. Nếu ngài vì đất nước, hoặc vì Samôn hay Bà la môn, vì yên nhân dân, tuy ngài lại giết hại nhưng không có tội vậy. Ðấng tiên vương tuy lại cung kính Samôn nhưng chẳng thể vưng thờ các Bàlamôn, lòng không bình đẳng mà không bình đẳng nên chẳng phải là Sát lợi. Thưa đại vương ! Nay ngài vì muốn cúng dường các Bà la môn mà giết hại tiên vương thì sẽ có tội gì ? Thưa đại vương ! Quả thật ngài không giết hại. Phàm giết hại thì giết hại thọ mạng. Mạng gọi là hơi gió mà tính của hơi gió chẳng thể giết hại thì sao gọi là hại mạng mà phải có tội ? Nguyện xin đại vương chớ sầu khổ nữa ! Vì sao vậy ? Vì :

Nếu thường sầu khổ

Sầu liền tăng lên

Như người ưa ngủ

Thì ngủ nhiều thêm

Tham dâm, thích rượu

Cũng lại như trên.

Như lời đức vua nói, đời không có lương y có thể trị liệu thì nay có vị đại sư tên là Ni Càn Ðà Nhã Ðề Tử, tất cả đều thấy biết, thương xót chúng sinh, giỏi biết các căn lợi hay độn của chúng sinh, giải đạt tất cả tùy nghi phương tiện, tám pháp thế gian đã chẳng thể nhiễm ô, tịch tịnh, tu tập phạm hạnh thanh tịnh, vì các đệ tử nói pháp như vầy : không thí, không thiện, không cha, không mẹ, không đời nay, đời sau, không A la hán, không tu, không đạo. Tất cả chúng sinh trải qua tám vạn kiếp ở trong vòng sinh tử, rồi tự nhiên được giải thoát dù có tội hay không tội đều cũng như vậy. Như bốn dòng sông lớn là Tân Ðầu, Hằng Hà, Bác Xoa, Tư Ðà đều chảy vào biển cả không có sai biệt, tất cả chúng sinh cũng lại như vậy. Khi được giải thoát họ đều không sai biệt. Vị thầy này, nay ở tại thành Vương Xá, nguyện xin đại vương mau chóng đi đến chỗ vị ấy. Nếu được diện kiến ngài thì mọi tội của vua đều tiêu trừ”. Nhà vua nói rằng : “Xét đúng có thầy này, có thể trừ tội của ta thì ta sẽ qui y”.

Lúc bấy giờ, vị đại y tên là Kỳ Bà đi đến chỗ nhà vua mà tâu rằng: “Thưa đại vương ! Ngài được ngủ yên không ?” Nhà vua dùng kệ đáp rằng :

Nếu có thể đoạn mãi

Tất cả các não phiền

Chẳng tham nhiễm ba cõi

Thì mới được ngủ yên

Ðại Niết Bàn nếu được

Diễn nói nghĩa thậm thâm

Gọi Bà la môn thật

Thì mới được ngủ yên.

Thân không các nghiệp ác

Miệng lìa bốn lỗi lầm

Lòng không có nghi hoặc

Thì mới được ngủ yên.

Thân tâm không nhiệt não

Chỗ tịch tịnh trụ an

Thu hoạch Vô thượng lạc

Thì mới được ngủ yên.

Lòng không có thủ trước

Các oán thù lìa tan

Thường hòa không tranh cãi

Thì mới được ngủ yên.

Nếu chẳng tạo nghiệp ác

Tàm quí lòng thường mang

Tin ác có quả báo

Thì mới được ngủ yên.

Kính dưỡng với cha mẹ

Chẳng hại một chúng sinh

Chẳng trộm của người khác

Thì mới được ngủ yên.

Với các căn điều phục

Thân cận với bạn lành

Phá hoại bốn ma chúng

Thì mới được ngủ yên.

Chẳng thấy tốt, chẳng tốt(cát)

Và khổ, vui vân vân…

Vì tất cả sinh chúng

Nên sinh tử xoay vần

Nếu có thể như vậy

Thì mới được ngủ yên.

Ai được ngủ yên ổn

Ðó là Phật Thế Tôn

Thâm quán không tam muội

Chẳng động, yên tâm thân.

Ai được ngủ yên ổn

Là đấng Từ Bi Tôn

Thường tu chẳng phóng dật

Xem mọi người như con.

Chúng sinh vô minh tối

Chẳng thấy quả não phiền

Thường tạo các nghiệp ác

Chẳng được giấc ngủ yên.

Nếu vì tự thân mạng

Và thân của tha nhân

Tạo tác mười ác nghiệp

Thì chẳng được ngủ yên.

Nếu nói rằng vì lạc

Hại cha không lỗi lầm

Thuận theo ác tri thức

Thì chẳng được ngủ yên.

Nếu ăn quá tiết độ

Uống lạnh mà quá chừng

Như vậy thì bịnh khổ

Thì chẳng được ngủ yên.

Nếu với vua có lỗi

Tà niệm vợ tha nhân

Và đi đường trống vắng

Thì chẳng được ngủ yên.

Trì giới chưa thành thục

Thái tử, ngôi chưa lên

Kẻ trộm chưa được của

Thì chẳng được ngủ yên.

Này Kỳ Bà ! Ta nay bệnh nặng, đối với vua Chánh pháp dấy lên ác nghịch hại. Tất cả lương y, diệu dược, chú thuật khéo léo xem bệnh đều đã chẳng thể trị liệu được. Vì sao vậy ? Vì cha ta, vị pháp vương, đúng như pháp trị nước, thật không có tội lỗi mà ta ngang ngược gia thêm nghịch hại, như cá ở trên đất sẽ có vui sao ? Như loài hươu ở tại vùng hoang lương không có lòng vui, như người tự biết mạng sống chẳng còn trọn ngày, như vị vua mất nước chạy trốn sang đất khác, như người nghe bệnh chẳng thể trị liệu, như người phá giới nghe nói tội lỗi… Ta thuở trước từng nghe bậc trí giả nói rằng, nghiệp thân, miệng, ý nếu chẳng thanh tịnh thì phải biết người này nhất định đọa vào địa ngục. Ta cũng như vậy thì làm sao sẽ được ngủ yên ổn vậy ? Nay ta lại không có bậc đại y Vô thượng diễn nói pháp dược diệt trừ bệnh khổ của ta”. Ông Kỳ Bà đáp rằng : “Hay thay ! Hay thay! Ðức vua tuy làm nên tội nhưng lòng sinh ra hối hận vô cùng mà mang lòng tàm quí. Thưa đại vương ! Các đức Phật Thế Tôn thường nói lời này, có hai bạch pháp có thể cứu chúng sinh, một là tàm, hai là quí. Tàm là tự chẳng làm nên tội. Quí là chẳng dạy người khác làm. Tàm là bên trong tự hổ thẹn. Quí là phát lộ hướng về người. Tàm là hổ thẹn người. Quí là hổ thẹn trời. Ðó gọi là tàm quí. Không tàm quí thì chẳng gọi là người mà gọi là súc sinh. Có tàm quí thì có thể cung kính cha mẹ, sư trưởng. Có tàm quí nên nói có cha mẹ, anh em, chị em. Hay thay ! Thưa đại vương! Ngài có đủ tàm quí ! Thưa đại vương ! Ngãi hãy lắng nghe ! Thần có nghe đức Phật nói rằng, kẻ trí có hai, một là chẳng tạo các ác, hai là đã làm rồi thì sám hối. Người ngu cũng có hai, một là làm nên tội, hai là che giấu. Tuy trước làm ác nhưng sau có thể phát lộ, hối lỗi rồi tàm quí, lại chẳng dám làm nữa. Giống như nước đục, đặt vào đó viên minh châu. Do uy lực của viên ngọc nên nước liền lắng trong, như khói mây tiêu trừ thì trăng trong sáng… làm ác mà có thể hối hận thì cũng lại như vậy. Ðức vua nếu sám hối, mang lòng tàm quí thì tội liền trừ diệt, thanh tịnh như cũ. Thưa đại vương ! Giàu có hai thứ, một là voi, ngựa đủ thứ súc sinh, hai là vàng, bạc đủ thứ trân bảo. Voi, ngựa tuy nhiều nhưng chẳng địch lại một viên ngọc. Thưa đại vương ! Chúng sinh cũng vậy, một là giàu ác, hai là giàu thiện. Làm nhiều những ác chẳng bằng một điều thiện. Thần nghe đức Phật nói rằng, tu một điều thiện, lòng phá trăm thứ ác. Thưa đại vương ! Như một chút Kim Cương có thể phá hoại núi Tu Di, cũng như chút xíu lửa có thể đốt cháy tất cả, như ít thuốc độc có thể hại chúng sinh… chút ít thiện cũng vậy, có thể phá tan đại ác. Tuy gọi là chút thiện nhưng thật ra thiện ấy là lớn. Vì sao vậy ? Vì nó phá được đại ác. Thưa đại vương ! Như lời đức Phật nói, che giấu thì có lậu, chẳng che giấu thì không có lậu. Phát lộ hối lỗi vậy nên chẳng lậu. Nếu làm mọi tội mà chẳng che chẳng giấu thì do chẳng che nên tội rất nhỏ, nếu còn mang lòng tàm quí thì tội tiêu diệt. Thưa đại vương ! Như giọt nước tuy nhỏ nhưng dần dần tràn đầy đồ đựng lớn. Lòng thiện cũng vậy, mỗi một lòng thiện có thể phá tan đại ác. Nếu che giấu tội thì tội lớn thêm, còn phát lộ, tàm quí thì tội tiêu diệt. Vậy nên các đức Phật nói người có trí thì chẳng che giấu tội. Hay thay! Thưa đại vương ! Ngài có thể tin nhân quả, tin nghiệp, tin báo ! Nguyện xin đại vương chớ ôm lòng sầu sợ ! Nếu có chúng sinh tạo tác các tội mà che giấu, chẳng sám hối, lòng không tàm quí, chẳng thấy nhân quả và cả nghiệp báo, chẳng thể hỏi han người có trí, chẳng gần bạn lành thì người như vậy, tất cả lương y dù cho đến xem bệnh cũng chẳng thể trị liệu được. Như bệnh Ca ma la thì thầy thuốc của đời đành bó tay, người che giấu tội cũng lại như vậy. Sao gọi là tội nhân ? Là gọi Nhất xiển đề. Nhất xiển đề là người chẳng tin nhân quả, không có tàm quí, chẳng tin nghiệp báo, chẳng thấy hiện tại và đời vị lai, chẳng thân cận bạn lành, chẳng theo lời nói dạy răn của chư Phật. Người như vậy gọi là Nhất xiển đề mà các đức Phật Thế Tôn chẳng thể trị liệu. Vì sao vậy? Vì như thây chết của thế gian thầy thuốc chẳng thể trị liệu. Người Nhất xiển đề cũng lại như vậy, các đức Phật Thế Tôn chẳng thể trị liệu được. Thưa đại vương ! Ngài nay chẳng phải là Nhất xiển đề thì sao nói rằng chẳng thể cứu giúp, trị liệu ?

Như lời đức vua nói, không người có thể trị liệu thì đại vương phải biết là tại thành Ca Tỳ La có vương tử của vua Tịnh Phạn, dòng họ Cù Ðàm tên là Tất Ðạt Ða, vô sư tự nhiên giác ngộ mà được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm bản thân, đầy đủ mười lực, bốn vô sở úy, tất cả thấy biết, đại từ, đại bi, thương xót tât cả như La Hầu La, theo chúng sinh thiện như nghé con theo trâu mẹ, biết lúc mà nói pháp, phi thời thì chẳng nói lời thật, lời tịnh, lời diệu, lời nghĩa, lời pháp. Một lời nói có thể khiến cho chúng sinh lìa khỏi vĩnh viễn phiền não, giỏi biết căn tâm tính của chúng sinh, tùy nghi phương tiện, không gì chẳng thông đạt. Trí của vị ấy cao như núi Tu Di, sâu thẳm mênh mông giống như biển cả. Chính là Phật Thế Tôn có trí Kim Cương có thể phá tất cả tội ác của chúng sinh. Nếu nói rằng, ngài chẳng thể thì không có điều này. Hôm nay ngài ở cách đây mươi hai do tuần, tại vùng Ta La Song Thọ của thành Câu Thi Na, rộng vì vô lượng atăngkỳ những chúng Tăng Bồ tát.v.v… mà diễn nói đủ thứ pháp : hoặc có hay không, hoặc hữu vi hay vô vi, hoặc hữu lậu hay vô lậu, hoặc quả phiền não hay quả thiện pháp, hoặc sắc pháp hay phi sắc pháp hay phi sắc phi phi sắc pháp, hoặc ngã hay phi ngã hay phi ngã phi phi ngã, hoặc thường hay phi thường hay phi thường phi phi thường, hoặc lạc hay phi lạc hay phi lạc phi phi lạc, hoặc tướng hay phi tướng hay phi tướng phi phi tướng, hoặc đoạn hay phi đoạn hay phi đoạn phi phi đoạn, hoặc thế hay xuất thế hay phi thế phi xuất thế, hoặc thừa hay phi thừa hay phi thừa phi phi thừa, hoặc tự tác tự thọ, hoặc tự tác người khác thọ, hoặc không tác không thọ. Thưa đại vương ! Nếu ngài đang ở chỗ đức Phật nghe vấn đề không tác không thọ thì những trọng tội sở hữu của đức vua liền sẽ tiêu diệt. Ðức vua hôm nay hãy lắng nghe ! Có ông Thích Ðề Hoàn Nhân nhân mạng mình sắp muốn hết nên có năm tướng xuất hiện, một là quần áo bẩn thỉu, hai là hoa trên đầu héo úa, ba là thân thể hôi thối, bốn là dưới nách ra mồ hôi, năm là chẳng ưa bản tòa. Thiên Ðế Thích hoặc ở chỗ yên lặng nếu thấy Samôn hay Bà la môn thì liền đi đến chỗ những vị ấy mà sinh ra Phật tưởng. Lúc bấy giờ, Samôn và Bà la môn thấy Ðế thích đến thì tự cho là may mắn, mừng vui vô hạn. Họ liền nói lời này : “Thưa Thiên chúa ! Tôi nay xin qui y với ngài !” Ðế Thích nghe rồi mới biết chẳng phải Phật, lại tự nghĩ rằng : “Những vị đó, nếu chẳng phải Phật thì chẳng thể trị liệu năm tướng thoái mất của ta !” Lúc đó có vị ngự thần (bề tôi theo hầu xe) tên là Bát Già Thi nói với Ðế Thích rằng : “Thưa Kiều Thi Ca ! Vua Càn Thát Bà tên là Ðôn Phù Lâu, vua ấy có người con gái tên là Tu Bạt Ðà. Nhà vua nếu có thể đem người con gái này cùng tương kiến thì hạ thần sẽ bày đức vua diệt trừ chỗ tướng suy”. Ðế Thích liền đáp rằng : “Này thiện nam tử ! Vua A tu la Tỳ Ma Chất Ða có người con gái Xá Chỉ là chỗ kính yêu của ta. Khanh nếu nhất định có thể bày ta tiêu diệt chỗ tướng ác thì đâu còn phải tương kiến cùng Tu Bạt Ðà ?” Vị ngự thần thưa : “Thưa Kiều Thi Ca ! Có đức Phật Thế Tôn tự là Thích Ca Mâu Ni, nay đang ở tại đại thành Vương Xá, nếu ngài có thể đến đó bẩm hỏi điều chưa nghe thì tướng suy mất nhất định được tiêu trừ”. Ðế Thích bảo : “Này thiện nam tử ! Nếu đức Phật Thế Tôn, xét quả có thể diệt được thì hãy quay xa giá đi đến chỗ ấy ngay !” Vị ngự thần vâng lệnh, liền quay xa giá trở lại, đi đến chỗ đức Phật trong núi Kỳ Xà Quật ở thành Vương Xá, Ðế Thích, đầu mặt lễ dưới chân đức Phật, lui về ngồi một bên, mà bạch đức Phật rằng : “Thưa đức Thế Tôn ! Trong cõi trời người, cái gì là ràng buộc ?” Ðức Phật đáp : “Này Kiều Thi Ca ! San tham, tật đố !” Lại hỏi : “San tham, tật đốt nhân đâu mà sinh ra ?” Ðáp rằng : “Nhân vô minh sinh ra !” Lại hỏi : “Vô minh lại nhân đâu sinh ra ?” Ðáp rằng : “Nhân phóng dật sinh ra”. Lại hỏi : “Phóng dật nhân đâu sinh ra ?” Ðáp rằng : “Nhân điên đão sinh ra !” Lại hỏi : “Ðiên đảo lại nhân đâu sinh ra ?” Ðáp rằng : “Nhân lòng nghi hoặc sinh ra !” Ðế Thích bạch rằng : “Thưa đức Thế Tôn ! Pháp điên đảo nhân nghi hoặc sinh ra ! Thật đúng như lời dạy của đức Thánh ! Vì sao vậy ? Vì con có nghi tâm mà do nghi tâm nên sinh ra điên đảo, đối với chẳng phải Thế Tôn mà sinh ra Thế Tôn tưởng. Con nay thấy đức Phật, thì lưới nghi hoặc liền trừ diệt. Lưới nghi trừ diệt nên điên đảo cũng hết. Ðiên đảo đã hết nên không có lòng san tham cho đến lòng tật đố”. Ðức Phật dạy rằng : “Ông nói không có lòng san tham, tật đố thì ông hôm nay đã được A na hàm rồi sao vậy ? A na hàm là không có lòng tham. Nếu ông không lòng tham thì tại sao vì mạng sống mà đi đến chỗ ta ? Như Anahàm thì quả thật chẳng cầu mạng sống !” Ðế Thích bạch : “Thưa đức Thế Tôn ! Có điên đảo thì có cầu mạng sống, không điên đảo thì chẳng cầu mạng sống. Nhưng con hôm nay quả thật chẳng cầu mạng sống. Ðiều con muốn cầu là chỉ cầu thân Phật pháp và trí tuệ của Phật !” Ðức Phật dạy : “Này Kiều Thi Ca ! Cầu thân Phật pháp và trí tuệ của Phật thì đời tương lai nhất định sẽ được đó !”. Bấy giờ, Ðế Thích nghe lời đức Phật nói rồi thì năm tướng suy mất tức thời tiêu diệt, liền đứng dậy làm lễ, nhiễu quanh đức Phật ba vòng, chắp tay cung kính mà bạch đức Phật rằng : “Thưa đức Thế Tôn ! Con nay dù tử, dù sinh, mất mạng hay được mạng mà lại nghe đức Phật thọ ký sẽ được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì chính là lại sinh, là lại được mạng ! Thưa đức Thế Tôn ! Tất cả người, trời làm sao được tăng ích ? Lại do nhân duyên gì đi đến tổn giảm ?” Ðức Phật dạy : “Này Kiều Thi Ca ! Do nhân duyên đấu tranh mà người, trời tổn giảm ! Khéo tu hòa kính thì được tăng ích !” Ðế Thích bạch : “Thưa đức Thế Tôn ! Nếu do đấu tranh mà tổn giảm thì con từ hôm nay lại chẳng cùng với Atula đánh nhau nữa”. Ðức Phật dạy rằng : “Hay thay ! Hay thay ! Này Kiều Thi Ca ! Các đức Phật Thế Tôn nói pháp Nhẫn nhục, chính là nhân của Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác”.

Lúc bấy giờ, Thích Ðề Hoàn Nhân liền lễ trước đức Phật. Ðến đây thì Ðế Thích đi trở về. Thưa đại vương (nói với vua A Xà Thế) Như Lai do có thể trừ các ác tướng nên xưng Phật chẳng thể nghĩ bàn. Ðức vua nếu đến đó thì trọng tội sở hữu của ngài nhất định sẽ được tiêu trừ. Ðại vương hãy nghe đây : Có đứa con của vị Bà la môn tên là Bất Hại, do giết chết vô lượng những chúng sinh nên mang danh là Ương Quật Ma. Ông ấy lại muốn hại mẹ, khi ác tâm dấy lên thì thân cũng động theo. Thân tâm động thì tức là nhân của ngũ nghịch mà nhân ngũ nghịch nên nhất định đọa địa ngục. Sau khi thấy đức Phật thì thân tâm đều động lại muốn sinh hại. Thân tâm động thì tức là nhân của ngũ nghịch mà nhân ngũ nghịch nên sẽ vào địa ngục. Người này được gặp đấng đại sư Như Lai tức thời được diệt nhân duyên địa ngục, phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vậy nên xưng đức Phật là đấng thầy thuốc Vô thượng, chẳng phải là hàng lục sư vậy. Thưa đại vương ! Lại có vương tử Tu Tỳ La. Cha ông ấy giận, chặt chân tay ông ấy rồi xô xuống giếng sâu. Mẹ ông ấy thương xót sai người kéo lên đem đến chỗ đức Phật, vừa thấy đức Phật thì tay chân đủ trở lại. Ông liền phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Thưa đại vương ! Do thấy Phật nên được quả báo hiện tiền. Vậy nên xưng Phật là thầy thuốc Vô thượng, chẳng phải là Lục sư vậy. Thưa đại vương ! Như bên bờ sông Hằng có những quỉ đói, số quỉ ấy có đến năm trăm. Chúng ở đây dã vô lượng năm mà chẳng hề thấy nước, tuy có đến trên dòng sông nhưng thuần thấy lửa cháy. Sự bức bách của đói khát khiến chúng lên tiếng gào khóc. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đang ngồi dưới một gốc cây ở tại rừng Uất Ðàm Bát bên dòng sông ấy thì các quỉ đói đi đến chỗ đức Phật mà bạch rằng : “Thưa đức Thế Tôn ! Chúng con đói khát, mạng sắp chẳng còn lâu !” Ðức Phật dạy rằng : “Sông Hằng nước chảy sao các ngươi chẳng uống ?” Quỉ liền đáp rằng : “Ðức Như Lai thấy nước còn chúng con thì thấy lửa !” Ðức Phật dạy rằng : “Dòng nước sông Hằng trong sạch, thật không có lửa vậy. Do nghiệp ác nên lòng tự điên đảo mà gọi đó là lửa. Ta sẽ vì các ngươi trừ diệt điên đảo khiến cho các ngươi thấy nước”. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn rộng vì các quỉ nói về tội lỗi của san tham. Các quỉ liền nói rằng : “Chúng con nay đói khát, tuy nghe lời nói pháp nhưng đều chẳng vào lòng !” Ðức Phật dạy rằng : “Các ngươi nếu khát quá thì trước hãy vào dòng sông mà mặc lòng uống nước đi !” Những quỉ đó nhờ thần lực của đức Phật nên liền được uống nước. Ðã uống nước rồi, đức Như Lai lại vì chúng mà nói pháp đủ thứ. Ðã nghe pháp rồi, chúng đều phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, bỏ hình thể quỉ đói mà được thân trời. Thưa đại vương ! Vậy nên xưng Phật là thầy thuốc Vô thượng, chẳng phải là Lục sư vậy. Thưa đại vương ! Bọn giặc ở nước Xá Bà Ðề có năm trăm tên bị vua Ba Tư Nặc móc hết mắt của chúng. Bọn chúng mù mà không người dẫn đường đi trước nên chẳng thể được đi đến chỗ đức Phật. Ðức Phật thương xót chúng nên liền đến chỗ bọn giặc an ủi dỗ dành chúng rằng : “Này thiện nam tử ! Hãy khéo hộ trì thân miệng ! Chớ lại tạo ác !” Bọn giặc, bấy giờ nghe âm thanh của đức Như Lai vi diệu trong suốt, liền được mắt trở lại. Chúng liền ở trước đức Phật chắp tay lễ Phật mà bạch rằng : “Thưa đức Thế Tôn ! Con nay biết từ tâm của đức Phật che khắp tất cả chúng sinh, chẳng phải chỉ độc có người, trời”. Lúc bấy giờ, đức Như Lai liền vì chúng mà nói pháp, đã nghe pháp rồi thì đều phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vậy nên đức Như Lai chân thật là đấng lương y Vô thượng của thế gian, chẳng phải là Lục sư vậy. Thưa đại vương ! Nước Xá Bà Ðề có chiên đà la tên là Khí Hư, giết vô lượng người, thấy vị đại đệ tử của đức Phật là ngài Ðại Mục Kiền Liên thì tức thời được phá nhân duyên địa ngục mà được sinh lên trời thứ Ba mươi ba. Do có đệ tử Thánh như vậy nên xưng Phật Như Lai là thầy thuốc Vô thượng, chẳng phải là hạng Lục sư vậy. Thưa đại vương ! Thành Ba La Nại có đứa con ông trưởng giả tên là A Dật Ða dâm lén với mẹ, do nhân duyên đó nên giết chết cha mình. Rồi mẹ hắn lại cùng với người ngoài thông giao mà hắn biết được liền lại giết chết luôn. Có vị A la hán là bạn của hắn biết được việc này nên hắn lại sinh hổ thẹn liền giết luôn người đó. Giết rồi, hắn liền đến tinh xá Kỳ Hoàn cầu xin xuất gia. Các vị Tỳ kheo đều biết người này có ba nghịch tội, không dám cho xuất gia. Do không cho xuất gia nên phát sinh sân nhuế bội phần ngay trong đêm ấy, hắn phóng hỏa đốt cháy tăng phường, giết chết nhiều người vô tội. Rồi nhiên hậu hắn lại đến trong thành Vương Xá, đi tới chỗ đức Như Lai cầu xin xuất gia. Ðức Như Lai liền cho phép và vì người đó nói pháp yếu khiến cho trọng tội ấy dần dần nhẹ bớt đi, rồi phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vậy nên xưng đức Phật là lương y của thế gian, chẳng phải là hàng Lục sư vậy. Thưa đại vương ! Ngài vốn tính bạo ác, tin theo người ác Ðề Bà Ðạt Ða, thả voi lớn say, muốn khiến cho nó dầy xéo đức Phật. Voi thấy đức Phật rồi tức thời tỉnh ngộ, đức Phật liền duỗi tay ra xoa trên đầu nó lại vì nó nói pháp, khiến cho nó được phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Thưa đại vương ! Súc sinh thấy Phật còn được phá hoại nghiệp quả súc sinh, huống lại là người vậy ? Ðại vương phải biết, nếu thấy đức Phật thì trọng tội sở hữu nhất định sẽ được diệt trừ. Thưa đại vương ! Khi đức Thế Tôn chưa được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì ma cùng vô lượng vô biên quyến thuộc đến chỗ đức Bồ tát, bấy giờ đức Bồ tát dùng sức nhẫn nhục phá hoại lòng ác của ma, khiến cho ma thọ pháp và liền phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ðức Phật có lực đại công đức như vậy đó. Thưa đại vương ! Có loài quỉ Khoáng Dã hại nhiều chúng sinh. Ðức Như Lai bấy giờ vì ông Thiện Hiền trưởng giả nên đi đến thôn Khoáng Dã vì quỉ ấy nói pháp. Quỉ Khoáng Dã nghe nói pháp thì vui mừng, liền đem ông trưởng giả trao cho đức Như Lai, rồi nhiên hậu mới phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Thưa đại vương ! Thành Ba La Nại có người đồ tể tên là Quảng Ngạch, ở trong ngày ngày, giết vô lượng dê, thấy ngài Xá Lợi Phất liền thọ tám giới, trải qua một ngày đêm. Do nhân duyên này nên khi mạng chung được làm con vua trời Tỳ Sa Môn ở phương Bắc. Ðệ tử của đức Như Lai còn có quả đại công đức như vậy, huống lại là đức Phật vậy. Thưa đại vương ! Ở bắc Thiên Trúc có thành tên là Tế Thạch. Thành ấy có vị vua tên là Long Ấn, vì tham đất nước, trọng ngôi vị nên giết hại cha mình. Giết cha mình rồi, nhà vua lòng sinh ra hối hận liền bỏ quốc chính, đi đến chỗ đức Phật, khẩn cầu xin xuất gia. Ðức Phật dạy rằng : “Thiện lai !” Ông liền thành Tỳ kheo trọng tội tiêu diệt, rồi phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ðại vương phải biết, đức Phật có vô lượng vô biên quả đại công đức như vậy đó. Thưa đại vương ! Ðức Như Lai có em là Ðề bà Ðạt Ða, phá hoại chúng tăng, làm chảy máu thân Phật, hại Tỳ kheo ni Liên Hoa… làm ba nghịch tội. Ðức Như Lai vì ông ấy nói đủ thứ pháp yếu khiến cho trọng tội ấy liền được giảm nhẹ. Vậy nên đức Như Lai là vị Ðại lương y, chẳng phải là hàng Lục sư vậy. Thưa đại vương ! Nếu ngài có thể tin lời nói của thần thì nguyện xin ngài hãy mau chóng đi đến chỗ đức Như Lai ! Nếu chẳng thấy tin thì nguyện xin ngài suy nghĩ kỹ những điều thần nói đó ! Thưa đại vương ! Các đức Phật Thế Tôn, đại bi che khắp, chẳng giới hạn ở một người, chánh pháp rộng lớn không chỗ nào chẳng bao phủ, kẻ oán người thân bình đẳng lòng không yêu ghét nhất định chẳng thiên vị một người khiến cho được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, còn người khác thì chẳng được. Ðức Như Lai chẳng phải chỉ độc là thầy của bốn bộ chúng mà là thầy của khắp tất cả trời, người, rồng, thần, quỉ, địa ngục, súc sinh, ngã quỉ.v.v…. Tất cả chúng sinh cũng sẽ nhìn đức Phật như tưởng cha mẹ. Thưa đại vương ! Ngài phải biết, đức Như Lai chẳng chỉ độc vì người giàu sang như vua Bạt Ðề Ca mà diễn nói pháp. Ngài cũng vì hàng hạ tiện như Ưu Ba Ly.v.v… Ngài chẳng độc thiên lệch nhận sự dâng cúng bữa ăn của ông Tu Ðạt Ða A Na Bân Ðể mà cũng nhận bữa ăn của người nghèo Tu Ðạt Ða. Ngài chẳng chỉ độc vì người lợi căn như ngài Xá Lợi Phất.v.v… nói pháp mà cũng vì kẻ độn căn như ông Châu Lợi Bàn Ðặc. Ngài chẳng chỉ độc cho phép người tính không tham như ngài Ðại Ca Diếp xuất gia cầu đạo mà cũng cho phép kẻ đại tham như Nan Ðà xuất gia. Ngài chẳng chỉ độc cho phép người ít phiền não như ngài Ưu Lâu tần Loa Ca Diếp.v.v… xuất gia cầu đạo mà cũng cho phép kẻ phiền não sâu dày, tạo tội nặng như em vua Ba Tư Nặc là Tu Ðà Gia xuất gia cầu đạo. Ngài chẳng vì Ta Thảo cung kính cúng dường mà cứu vớt sân căn ông ấy, còn Ương Quật Ma La, lòng ác muốn hại nên bỏ mà chẳng cứu. Ngài chẳng chỉ độc vì nam tử có trí mà diễn nói pháp, còn cũng vì người cực ngu Phán Hợp Hôn là nữ nhân nói pháp. Ngài chẳng chỉ độc khiến cho người xuất gia được bốn đạo quả mà cũng khiến cho kẻ tại gia được ba đạo quả (?).Ngài chẳng chỉ độc vì Phú Ða La.v.v… bỏ những việc thông suốt, nhàn tịch suy nghĩ mà nói pháp yếu, ngài cũng vì vua Tần Bà Ta La.v.v.. thống lĩnh việc nước, xử lý việc vua mà nói pháp yếu. Ngài chẳng chỉ độc vì người bỏ dứt rượu mà cũng vì kẻ đam mê rượu như ông trưởng giả Úc Dà say mèm nói pháp. Ngài chẳng chỉ độc vì người vào Thiền định như Ly Bà Ða.v.v… mà cũng vì người chôn con loạn tâm như Bà la môn nữ Bà Tư Tra nói pháp. Ngài chẳng chỉ độc vì đệ tử của mình mà cũng vì ngoại đạo Ni Kiền Tử nói pháp. Ngài chẳng chỉ độc vì người tuổi trai tráng hai mươi lăm mà cũng vì người lão suy tám mươi nói pháp. Ngài chẳng chỉ độc vì người căn thuần thục mà cũng vì người thiện căn chưa thuần thục nói pháp. Ngài chẳng chỉ độc vì Mạt Lợi phu nhân mà cũng vì dâm nữ Liên Hoa nữ nói pháp. Ngài chẳng chỉ độc thọ bữa ăn thịnh soạn ngon lành của vua Ba Tư Nặc mà cũng thọ bữa ăn tạp độc của ông Thi Lợi Cúc Ða. Thưa đại vương ! Ngài phải biết, ông Thi Lợi Cúc Ða thuở trước cũng tạo tác nhân duyên nghịch tội. Rồi do gặp đức Phật, nghe pháp nên ông liền phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Thưa đại vương ! Giả sử một tháng thường dùng y thực để cúng dường cung kính tất cả chúng sinh chẳng bằng một phần mười sáu công đức sở đắc của người niệm Phật trong một niệm. Thưa đại vương ! Giả sử có người rèn kim loại làm xe ngựa chở báu vật mà số ấy đều hàng trăm thứ đem dùng bố thí thì chẳng bằng có người phát tâm hướng về Phật trong thời gian nhấc một bước chân. Thưa đại vương ! Giả sử, người ấy lại dùng xe voi trăm chiếc chở đủ thứ trân bảo của nước Ðại Tần (?) và những nữ nhân thân đeo chuỗi ngọc của nước ấy mà số cũng cả trăm người đem dùng bố thí cũng còn chẳng bằng người phát tâm hướng về đức Phật trong thời gian nhấc một bước chân. Lại giả sử có việc này, nếu có người dùng tứ sự cúng dường cung cấp cho chúng sinh sẵn có trong ba ngàn đại thiên thế giới còn cũng chẳng bằng người phát tâm hướng về đức Phật trong thời gian nhấc một bước chân. Lại giả sử có việc này, nếu khiến cho vị đại vương cúng dường cung kính vô lượng chúng sinh nhiều như cát sông Hằng thì cũng chẳng bằng một lần đi đến chỗ đức Như Lai tại Ta La Song Thọ mà thành tâm nghe pháp”. Lúc bấy giờ, đại vương đáp rằng : “Này Kỳ Bà ! Ðức Như Lai Thế Tôn, tính đã điều nhu nên được người điều nhu làm quyến thuộc, như rừng cây Chiên đàn thì thuần dùng cây chiên đàn mà vây quanh. Ðức Như Lai thanh tịnh nên quyến thuộc sở hữu cũng lại thanh tịnh, giống như con rồng lớn thì thuần lấy các rồng mà làm quyến thuộc. Ðức Như Lai tịch tịnh nên quyến thuộc sở hữu của ngài cũng lại tịch tịnh. Ðức Như Lai không tham nên quyến thuộc sở hữu của ngài cũng lại không tham. Ðức Phật không phiền não nên quyến thuộc sở hữu của ngài cũng không phiền não. Ta nay đã là người cực ác bị ác nghiệp trói buộc, thân mình hôi thối, thuộc về địa ngục thì sao đáng được đến chỗ đức Như Lai. Ta giả sử đi đến thì sợ ngài chẳng đoái hoài tiếp nhận nói năng ! Ông tuy khuyên ta, bảo đến chỗ đức Phật, nhưng ta hôm nay tự thấy thấp hèn đáng thương sâu sắc nên không có lòng nào để đi đến đó !” Lúc bấy giờ, trong hư không liền phát ra tiếng nói rằng : “Phật pháp vô thượng sắp muốn suy tàn ! Dòng sông pháp thậm thâm đến đây muốn cạn ! Ðèn sáng Ðại pháp sắp tắt ! Chẳng còn lâu núi pháp sắp sụp lở ! Thuyền pháp sắp chìm ! Cây cầu pháp sắp hoại ! Ngôi điện pháp sắp tan ! Pháp tràng sắp ngã ! Cây pháp sắp gãy ! Bạn lành sắp ra đi ! Ðại khủng bố sắp đến ! Chúng sinh đói khát sắp đến ! Chẳng bao lâu phiền não dịch bệnh sắp sửa lưu hành ! Thời đại ám đến ! Thời khát pháp lại ! Ma vương mừng vui cởi bỏ giáp trụ ! Vầng mặt trời Phật sẽ lặn xuống núi Ðại Niết Bàn ! Này đại vương ! Nếu đức Phật ra đi thì trọng ác của vua đời lại không có người trị liệu. Này đại vương ! Nay ngài đã tạo nghiệp A Tỳ địa ngục rất nặng ! Do nghiệp duyên này nhất định ngài phải chịu, chẳng nghi ngờ gì nữa ! Này đại vương ! Chữ A là nói rằng, Không ! Chữ Tỳ là gọi rằng Gián (xen vào). Gián là không tạm vui nên gọi là Vô gián. Này đại vương ! Giả sử một người, một mình rơi vào địa ngục này thì thân người ấy to lớn đến tám vạn do tuần, tràn đầy khắp trong địa ngục ấy, xen không có chỗ trống. Thân người ấy chịu đủ thứ khổ giáp vòng. Giả sử có nhiều người thì thân họ cũng đầy khắp nhưng chẳng phương (hại) ngại (ngăn ngại) lẫn nhau. Này đại vương ! Trong địa ngục lạnh còn tạm gặp gió nóng nên lấy đó làm vui. Trong địa ngục nóng còn tạm gặp  gió lạnh cũng gọi là vui. Có địa ngục, người trong đó mạng chung rồi, nếu nghe tiếng “sống” thì liền sống trở lại. Ðịa ngục A Tỳ đều không có những việc này. Này đại vương ! Ðịa ngục A Tỳ, bốn mặt đều có cửa. Bên ngoài mỗi một  cửa đều có lửa mạnh, Ðông Tây Nam Bắc giao qua thông suốt, tám vạn do tuần tường sắt giáp vòng, lưới sắt che khắp bên trên, đất địa ngục ấy cũng bằng sắt, lửa bên trên cháy suốt xuống dưới, lửa bên dưới cháy suốt lên trên. Thưa đại vương ! Như cá trong lò sấy bị mở đốt cháy, tội nhân trong ngục này cũng lại như vậy. Này đại vương ! Kẻ tạo tác một nghịch tội thì liền thọ đủ một tội như vậy, nếu tạo hai nghịch tội thì liền chịu gấp đôi, người đủ năm nghịch tội cũng chịu gấp năm lần. Này đại vương ! Ta nay đã biết ác nghiệp của vua nhất định chẳng được miễn. Nguyện xin đại vương mau chóng đi đến chỗ đức Phật ! Ngoại trừ đức Phật Thế Tôn thì không còn ai khác có thể cứu ngài ! Ta nay thương xót ngài nên khuyên nhau và dẫn đường !” Lúc bấy giờ, nhà vua nghe lời nói đó rồi, lòng mang nỗi kinh sợ, toàn thân run rẩy, năm vóc lắc động như cây chuối, ngước lên mà đáp rằng : “Ngài là ai đó ? Chẳng hiện ra sắc tượng mà chỉ có âm thanh !” Trên không đáp : “Ta là cha ngươi, Tần Bà Ta La đây ! Ngươi nay phải nghe theo lời nói của ông Kỳ Bà ! Chớ theo lời nói của sáu người bề tôi tà kiến !” Nhà vua nghe xong, ngất đi ngã lăn ra đất, ghẻ trên thân tăng nhiều lắm, hôi thối gấp bội hơn trước đó. Tuy dùng thuốc lạnh bôi lên để điều trị nhưng ghẻ bốc nhiệt độc, chỉ tăng thêm, không tổn giảm.

*********

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn ở tại vùng Song Thọ, thấy vua A Xà Thế ngất xỉu ngã lăn ra đất, liền bảo đại chúng rằng :

– Ta nay sẽ vì vị vua này mà trụ thế đến vô lượng kiếp, chẳng vào Niết Bàn !

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Ðức Như Lai phải vì vô lượng chúng sinh mà chẳng vào Niết Bàn chớ vì sao độc chỉ vì vua A Xà Thế ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Trong đại chúng này không có một người cho là ta nhất định vào với Niết Bàn còn A Xà Thế thì quyết định cho là ta sẽ rốt ráo diệt mãi. Vậy nên ông ấy ngất xỉu đi tự lăn ra đất. Này thiện nam tử ! Như lời ta nói, vì vua A Xà Thế ta chẳng vào Niết Bàn. Ý nghĩa bí mật như vậy ông chưa có thể hiểu được. Vì sao vậy ? Vì ta nói vì là tất cả phàm phu như A Xà Thế và khắp tất cả người tạo ngũ nghịch tội. Lại nữa vì tức là vì tất cả chúng sinh hữu vi. Ta nhất định chẳng vì chúng sinh vô vi mà trụ ở đời. Vì sao vậy ? Vì phàm là vô vi thì chẳng phải chúng sinh vậy. A Xà Thế thì tức là người đầy đủ phiền não.v.v… Lại nữa, vì tức là chúng sinh chẳng thấy Phật tính. Nếu chúng sinh thấy Phật tính thì ta nhất định chẳng vì họ trụ ở đời lâu.  Vì sao vậy ? Vì người thấy Phật tính chẳng phải là chúng sinh vậy. A Xà Thế thì tức là tất cả những người chưa phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Lại nữa, vì thì tức là hai chúng A Nan và Ca Diếp. A Xà Thế thì tức là hậu cung phi hậu của vua A Xà Thế và tất cả phụ nữ của thành Vương Xá. Lại nữa, vì thì gọi là Phật tính. A Xà Thế thì gọi là bất sinh. Thế thì gọi là oán. Do chẳng sinh Phật tính nên oán phiền não sinh mà oán phiền não sinh nên chẳng thấy Phật tính. Do chẳng sinh phiền não nên thấy Phật tính mà thấy Phật tính thì được an trụ ở Ðại Bát Niết Bàn. Ðó gọi là bất sinh. Vậy nên gọi là A Xà Thế. Này thiện nam tử ! A Xà thì gọi là bất sinh mà bất sinh thì gọi là Niết Bàn. Thế nào gọi là Thế pháp. Vì thì gọi là bất ô (chẳng dơ bẩn). Do việc chẳng ô nhiễm tám pháp thế gian nên vô lượng vô biên atăngkỳ kiếp chẳng vào Niết Bàn. Vậy nên ta nói rằng, vì A Xà Thế nên vô lượng ức kiếp chẳng vào Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Mật ngữ của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn ! Phật pháp, chúng Tăng cũng chẳng thể nghĩ bàn ! Ðại Bồ tát cũng chẳng thể nghĩ bàn. Kinh Ðại Niết Bàn cũng chẳng thể nghĩ bàn !

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn, đấng Ðại Bi Ðạo Sư, vì vua A Xà Thế vào tam muội Nguyệt Ái. Vào tam muội rồi, ngài phóng ra ánh sáng lớn. Ánh sáng thanh lương ấy đến chiếu vào thân vua thì ghẻ trên thân liền khỏi, hôi thối trừ diệt. Nhà vua hay biết ghẻ đã khỏi, thân thể thanh lương thì nói với ông Kỳ Ðà rằng :

– Ta từng nghe người nói rằng, khi kiếp sắp muốn hết thì ba mặt trăng đồng thời hiện lên. Ðang lúc đó thì hoạn khổ của tất cả chúng sinh đều trừ hết. Thời đã chưa đến mà ánh sáng này từ đâu đến soi vào một mình thân ta, sự khổ của ghẻ lở trừ khỏi, thân được an vui.

Ông Kỳ Ðà đáp rằng :

– Ðây chẳng phải là kiếp hết, ba mặt trăng soi cùng một lúc, cũng chẳng phải là ánh sáng của lửa, mặt trời, tinh tú, thảo dược, ngọc báu, trời.

Nhà vua lại hỏi rằng :

– Ánh sáng này nếu chẳng phải là ánh sáng của ba mặt trăng cùng soi, của ngọc báu thì chính là ánh sáng của ai ?

– Thưa đại vương ! Ngài phải biết, đó là ánh sáng phóng ra của đấng Thiên Trung Thiên ! Ánh sáng này vô hạn, không có bờ cõi, chẳng phải nóng, chẳng phải lạnh, chẳng phải thường, chẳng phải diệt, chẳng phải sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải xanh, chẳng phải vàng, chẳng phải đỏ, chẳng phải trắng… Vì muốn độ chúng sinh nên khiến cho họ có thể thấy có tướng, có thể nói vô hạn, có biên, có nóng, có lạnh, có xanh, vàng, đỏ, trắng. Thưa đại vương ! Ánh sáng này tuy vậy, thật ra chẳng thể nói, chẳng thể nhìn thấy, thậm chí không có xanh, vàng, đỏ, trắng.

Nhà vua nói rằng :

– Này Kỳ Bà ! Ðấng Thiên Trung Thiên đó vì nhân duyên gì mà phóng ra ánh sáng ấy ?

Ông Kỳ Bà đáp rằng :

– Tướng điềm này hôm nay là vì đại vương ! Do đại vương trước nói rằng, đời không có lương y trị liệu thân tâm, nên đức Phật phóng ra ánh sáng này để trị thân vua trước, nhiên hậu trị đến tâm !

Nhà vua nói rằng :

– Này Kỳ Bà ! Ðức Như Lai Thế Tôn cũng thấy được ý niệm sao?

Ông Kỳ Bà đáp rằng :

– Ví như một người mà có bảy đứa con. Một đứa con trong bảy đứa con đó gặp bệnh. Lòng cha mẹ chẳng phải không bình đẳng, nhưng đối với đứa con bệnh thì lòng thiên về nhiều hơn. Thưa đại vương ! Ðức Như Lai cũng vậy, đối với các chúng sinh chẳng phải không bình đẳng, nhưng đối với người có tội thì lòng thiên về nặng hơn, với người phóng dật thì từ niệm, với người chẳng phóng dật thì lòng buông bỏ. Những ai gọi là người chẳng phóng dật? Ðó là Lục trụ Bồ tát ! Thưa đại vương! Các đức Phật Thế Tôn đối với các chúng sinh, chẳng quan sát chủng tính, già trẻ, trung niên, giàu, nghèo, thời tiết, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, nghề khéo, hạ tiện, đồng bộc, nô tỳ mà chỉ quan sát chúng sinh có thiện tâm hay không thôi. Nếu họ có thiện tâm thì đức Như Lai liền từ niệm. Này đại vương ! Ngài phải biết, tướng điềm như vậy tức là đức Như Lai vào tam muội Nguyệt Ái mà phóng ra ánh sáng.

Nhà vua liền hỏi rằng :

– Sao gọi là tam muội Nguyệt Ái ?

Ông Kỳ Bà đáp rằng :

– Ví như ánh sáng của vầng trăng có thể khiến cho tất cả hoa Ưu bát la nở bày tươi sáng. Tam muội Nguyệt Ái cũng lại như vậy, có thể khiến cho thiện tâm của chúng sinh mở bày. Vậy nên gọi là tam muội Nguyệt Ái. Thưa đại vương ! Ví như ánh sáng của vầng trăng có thể khiến cho tất cả người đi đường, lòng sinh vui mừng. Nguyệt Ái tam muội cũng lại như vậy, có thể khiến cho người tu tập đạo Niết Bàn, lòng sinh hoan hỷ. Vậy nên gọi là Nguyệt Ái tam muội. Thưa đại vương! Ví như ánh sáng vầng trăng, từ ngày đầu tiên mồng một đến ngày mười lăm thì hình sắc, ánh sáng dần dần tăng trưởng. Nguyệt Ái tam muội cũng lại như vậy, khiến cho người mới phát tâm, các thiện căn bản dần dần tăng trưởng… cho đến đầy đủ Ðại Bát Niết Bàn. Vậy nên lại gọi là Nguyệt Ái tam muội. Thưa đại vương ! Ví như ánh sáng của vầng trăng, từ ngày mười sáu đến ngày ba mươi thì hình sắc ánh sáng dần dần tổn giảm. Nguyệt Ái tam muội cũng lại như vậy, phiền não sở hữu ở chỗ ánh sáng này soi đến có thể khiến cho dần dần giảm hết. Vậy nên lại gọi là Nguyệt Ái tam muội. Này đại vương ! Ví như khi nóng lắm thì tất cả chúng sinh thường nghĩ đến ánh sáng trăng mà ánh sáng trăng đã soi thì uất nhiệt liền diệt trừ. Nguyệt Ái tam muội cũng lại như vậy, có thể khiến cho chúng sinh trừ diệt nhiệt não của tham. Thưa đại vương ! Ví như vầng trăng tròn đầy là vua trong mọi tinh tú, là vị cam lộ được sự yêu thích của tất cả chúng sinh. Nguyệt Ái tam muội cũng lại như vậy, là vua trong các điều thiện, là vị cam lộ được sự yêu thích của tất cả chúng sinh. Vậy nên lại gọi là Nguyệt Ái tam muội.

Nhà vua nói rằng :

– Này Kỳ Bà ! Ta nghe đức Như Lai chẳng cùng với người ác đồng dừng, đồng ngồi, đồng đứng dậy, đồng nói năng đàm luận giống như biển cả chẳng chấp nhận thây chết, như chim uyên ương chẳng trụ ở nhà xí (cầu tiêu), như Thích Ðề Hoàn Nhân chẳng cùng ở với quỉ, như chim Cưu Sí La chẳng đậu cây khô… Ðức Như Lai cũng vậy thì ta làm sao mà được đến diện kiến ? Giả sử được diện kiến ngài thì thân ta sẽ chẳng bị hãm vào địa ngục sao ? Ta xem ra đức Như Lai thà gần voi say, sư tử, cọp, sói, lửa mạnh hừng hực chớ nhất định chẳng gần gũi với người ác nghiệp nặng nề này ! Vậy nên ta nay suy nghĩ thế rồi thì phải có tấm lòng gì để diện kiến đức Như Lai ?

Ông Kỳ Bà đáp rằng :

– Thưa đại vương !  Ví như người khát nước thì phải mau chóng đi đến dòng suối trong, người đói thì cầu xin đồ ăn, người sợ thì cầu người cứu, người bệnh thì cầu lương y, nóng cầu bóng mát, lạnh thì cầu lửa… Nhà vua nay cầu đức Phật cũng nên như vậy. Thưa đại vương ! Ðức Như Lai còn vì Nhất xiển đề.v.v… mà diễn nói pháp yếu, huống gì là đại vương, người chẳng phải là Nhất xiển đề mà sẽ chẳng nhờ ơn từ bi cứu tế sao?

Nhà vua nói rằng :

– Này ông Kỳ Bà ! Ta trước đã từng nghe, Nhất xiển đề chẳng tin, chẳng nghe, chẳng thể quan sát, chẳng được nghĩa lý thì vì sao đức Như Lai mà vì họ nói pháp ?

Ông Kỳ Bà đáp rằng :

– Thưa đại vương ! Ví như có người, thân mang trọng bệnh. Người này đêm mơ thấy thăng lên trên điện làm một người quan trọng, ăn uống toàn là váng sữa, dầu, mỡ và dùng xoa vào thân nữa. Mơ nằm trên tro, ăn tro. Mơ leo lên cây khô, hoặc cùng với loài vượn du hành, ngồi, nằm. Mơ chìm xuống nước, ngập trong bùn. Mơ rơi xuống từ lầu điện, núi cao, cây cối, voi ngựa, trâu dê… Mơ thân mặc áo màu xanh, vàng, đỏ, đen mà vui cười, ca múa. Hoặc mơ thấy cùng bọn với quạ, chim thứu, hồ ly… Mơ thấy răng, tóc rơi rụng, thân hình trần truồng, gối đầu vào chó, ngủ trong phân bẩn thỉu. Lại mơ cùng với người đã chết đi, đứng, ngồi, nằm, nắm tay nhau, ăn uống… Mơ thấy rắn độc đầy đường mà đi trên đó. Hoặ mơ cùng với người nữ bới tóc chung nhau ôm giữ, lấy lá cây Ða La làm quần áo, cưỡi xe lừa hư nát, nhắm hướng Nam mà đi. Người đó mơ rồi, lòng sinh sầu não. Do sầu não nên thân bệnh càng tăng. Do bệnh tăng nên những người thân thuộc sai người đi mời thầy thuốc. Hình thể người được sai đi mời thầy thuốc khiếm khuyết, lùn, các căn chẳng đầy đủ, đầu lấm lem bụi đất, mặc áo rách rưới, xe chở cũ nát… Người đó nói với thầy thuốc rằng : “Hãy mau mau lên xe !” Lúc bấy giờ, vị lương y liền tự nghĩ rằng : “Nay thấy người sứ giả này, tướng mạo chẳng tốt thì phải biết người bệnh khó có thể liệu trị”. Nhưng lại nghĩ : “Sứ giả tuy chẳng tốt, nhưng lại phải xem ngày coi có thể trị được không ? Nếu là ngày bốn, ngày sáu, ngày tám, ngày mười hai, ngày mười bốn… những ngày như vậy thì bệnh cũng khó trị !” Ông lại nghĩ : “Ngày tuy chẳng tốt nhưng còn phải xem sao (chiêm tinh) coi có thể trị được không ? Nếu là sao Hỏa, sao Kim, sao Mão, sao Diêm la vương, sao Thấp, sao Mãn… những sao như vậy  thì bệnh cũng khó trị”. Ông lại nghĩ: “Sao tuy chẳng tốt nhưng lại phải xem thời tiết. Nếu là mùa thu, mùa đông và ngày vào mùa, đêm nửa mùa, tháng vào mùa… thì phải biết là bịnh cũng khó có thể trị”. Ông lại nghĩ : “Như vậy mọi tướng tuy lại chẳng tốt nhưng hoặc định hay chẳng định thì phải quan sát người bệnh. Người bệnh, nếu có phước đức thì đều có thể trị liệu, nếu không phước đức thì tuy tốt nhưng nào ích gì ?” Suy nghĩ thế rồi, ông liền cùng đi với sứ giả. Trên đường đi, ông lại nghĩ : “Nếu người bệnh kia có tướng trường thọ thì có thể trị liệu được, còn nếu tướng đoản thọ thì chẳng thể trị”. Ông liền thấy đường trước có hai đứa trẻ đang ra sức đánh nhau. Chúng nắm đầu, bứt tóc, dùng ngói đá, dao, gậy… ném, đánh lẫn nhau. Hoặc thấy người giữ lửa tự nhiên tắt hết. Hoặc thấy người chặt cây cối. Hoặc lại thấy người, tay kéo tấm da thuộc, theo đường mà đi. Hoặc thấy trên đường đi có vật đánh rơi. Hoặc thấy có người cầm giữ đồ đựng rỗng. Hoặc thấy vị Samôn đi một mình không bạn bè. Hoặc lại thấy cọp, sói, quạ, chim thứu, chồn hoang… Ông thấy những việc đó rồi lại nghĩ rằng : “Việc người được sai khiến… cho việc thấy các tướng trên đường đi đều là chẳng tốt thì phải biết người bệnh chắc khó trị liệu lắm”. Ông lại nghĩ : “Ta nếu chẳng đến thì chẳng phải là lương y. Như đến nơi ấy thì chẳng thể cứu chữa !” Ông lại nghĩ : “Mọi tướng như vậy tuy lại chẳng lành, nhưng hãy bỏ hết để đi đến chỗ người bệnh”. Suy nghĩ thế rồi, ở đường trước ông lại nghe tiếng như vầy : “Vong thất, tử, táng, băng (lở), phá hoại, chặt, lột, cởi, rơi rụng, thiêu đốt… chẳng đến, chẳng thể trị liệu, chẳng thể cứu vớt”. Ông lại nghe ở phương Nam có tiếng chim  thú, như là tiếng chim quạ, chim thứu, chim xá lợi, hoặc tiếng chó, tiếng chuột, tiếng chồn hoang, heo, thỏ… Nghe những tiếng đó rồi ông lại nghĩ : “Phải biết, người bệnh này khó có thể trị liệu”. Lúc bấy giờ, ông đã vào đến nhà người bệnh, thấy người bệnh đó lúc nóng lúc lạnh, đốt xương đau đớn, mắt đỏ rơi lệ, tai không nghe tiếng, yết hầu thắt lại đau đớn, trên lưỡi rách nát, hình sắc đen sạm, đầu chẳng tự kềm chế, thân thể khô đét không có mồ hôi, đại tiểu tiện bế tắc chẳng thông. Thân bỗng phì to hồng đỏ khác thường. Tiếng nói chẳng đều, hoặc to hoặc nhỏ, toàn thân loang lổ, xanh, vàng khác màu. Bụng người ấy trướng đầy, lời nói chẳng rõ. Thầy thuốc thấy thế rồi, xem bệnh hỏi rằng : “Người bệnh từ trước đến nay ý chí ra sao ?” Ðáp rằng : “Thưa đại sư ! Người ấy từ trước kính tín Tam Bảo và chư Thiên, còn nay thì đổi khác, dứt tình kính tín, xưa ưa ban cho nay thì san lận, xưa tính ít ăn nay thì quá nhiều, xưa tính tình hòa thiện nay thì tệ ác, xưa tính từ hiếu, cung kính cha mẹ nay đối với cha mẹ lòng không cung kính”. Thầy thuốc nghe rồi liền ngửi người bệnh, nghe được mùi hương Ưu bát la, hương trầm thủy tạp, hương tất ca đa, hương Ða dà la, hương Ða ma la bạt, hương Uất kim, hương Chiên đàn, mùi thịt nướng, mùi rượu bồ đào, mùi gân cốt cháy, mùi cá, mùi phân. Biết được mùi hương rồi, thầy thuốc liền chạm vào thân, biết thân mềm mại giống như tơ lụa, hoa kiếp bối ta, hoặc cứng như đá, hoặc lạnh như băng, hoặc nóng như lửa, hoặc nhám như cát. Lúc bấy giờ, vị lương y thấy đủ thứ những tướng như vậy rồi, định biết người bệnh ắt phải chết, chẳng còn nghi ngờ gì. Nhưng thầy thuốc chẳng định nói rằng, người này sẽ chết, mà nói với người xem bệnh rằng : “Ta nay có việc vội, ngày mai sẽ đến lại ! Người bịnh ấy cần gì thì cứ theo ý chớ ngăn cản !” Rồi ông liền quay về nhà. Sáng hôm sau sứ giả đến, ông lại nói với người sai rằng : “Việc của ta chưa xong, thêm chưa hòa thuốc”. Người trí phải biết, như vậy người bệnh nhất định chết, chẳng gì nghi ngờ. Thưa đại vương ! Ðức Thế Tôn cũng vậy, đối với bọn Nhất xiển đề, giỏi biết căn tính của chúng mà vì chúng nói pháp. Vì sao vậy? Vì nếu chẳng vì chúng nói thì tất cả phàm phu sẽ nói rằng, Như Lai không đại từ bi. Người có từ bi thì gọi là Nhất thiết trí. Nếu không từ bi thì sao nói rằng người Nhất thiết trí. Vậy nên đức Như Lai vì Nhất xiển đề mà diễn nói pháp. Thưa đại vương ! Ðức Như Lai Thế Tôn thấy những người bệnh thường ban cho pháp dược mà người chẳng uống thì chẳng phảilỗi của đức Như Lai. Thưa đại vương ! Bọn Nhất xiển đề phân biệt có hai hạng, một là được thiện căn hiện tại, hai là được thiện căn đời sau. Ðức Như Lai giỏi biết bọn Nhất xiển đề, người có thể ở hiện tại được thiện căn thì vì họ nói pháp, người ở đời sau được thì cũng vì họ nói pháp, hôm nay tuy không có ích nhưng tạo tác nhân duyên cho đời sau. Vậy nên đức Như Lai vì Nhất xiển đề diễn nói pháp yếu. Nhất xiển đề lại có hai thứ, một là lợi căn, hai là trung căn. Người lợi căn ở đời hiện tại có thể được thiện căn. Người trung căn thì sẽ được ở đời sau. Các đức Phật Thế Tôn chẳng nói pháp rỗng không. Thưa đại vương ! Ví như người sạch sẽ bị rơi xuống hố xí, có thiện tri thức thấy thương xót mà trước liền nắm tóc kéo ra khỏi. Các đức Phật Thế Tôn cũng lại như vậy, thấy các chúng sinh rơi vào ba đường ác, dùng phương tiện cứu tế, khiến cho họ ra khỏi. Vậy nên đức Như Lai vì Nhất xiển đề mà diễn nói pháp.

Nhà vua nói với ông Kỳ Bà rằng:

– Nếu giả sử đức Như Lai thẩm xét như vậy thì ta phải sáng suốt chọn lựa ngày lành sao tốt, rồi nhiên hậu mới đi đến !

Ông Kỳ Bà tâu vua rằng :

– Thưa đại vương! Trong pháp của đức Như Lai không có việc chọn lựa ngày lành, sao tốt. Thưa đại vương ! Như người bệnh nặng còn chẳng xem ngày, thời tiết cát hung mà chỉ cầu thầy thuốc giỏi. Nhà vua hôm nay bệnh nặng cầu vị thầy thuốc giỏi Phật, chẳng nên chọn lựa thời tiết lành, ngày tốt. Thưa đại vương ! Như lửa chiên đàn và lửa y lan, cả hai đều là tướng thiêu đốt không có khác vậy. Ngày cát, ngày hung cũng lại như vậy, nếu đi đến chỗ đức Phật đều được diệt tội. Nguyện xin đại vương ngay ngày hôm nay mau đi đến đó !

Lúc bấy giờ, nhà vua liền ra lệnh cho một bề tôi tên là Cát Tường mà bảo rằng :

– Này đại thần ! Ông phải biết, ta nay muốn đi đến chỗ đức Phật Thế Tôn ! Ông hãy mau chóng lo biện đồ cúng dường cần thiết !

Vị đại thần tâu rằng :

– Thưa đại vương ! Hay thay ! Hay thay ! Ðồ cúng dường cần thiết, tất cả đều có !

Vua A Xà Thế cùng phu nhân nghiêm chỉnh xa giá, một vạn hai ngàn chiếc, năm vạn con voi lớn mạnh mẽ. Trên mỗi một con voi đều chở ba người, đem theo tràng phan, bảo cái, hoa hương, kỹ nhạc đủ thứ đồ cúng, không gì chẳng đầy đủ. Kỵ mã theo dẫn đường có đến mười tám vạn người. Nhân dân sở hữu của nước Ma Dà Ðà tháp tùng nhà vua, số ấy đầy đủ năm mươi tám vạn người. Lúc bấy giờ, đại chúng sẵn có của thành Câu Thi Na đứng đầy mười hai do tuần, đều từ xa nhìn thấy vua A Xà Thế cùng với quyến thuộc tìm đường mà đến. Lúc bấy giờ, đức Phật bảo các đại chúng rằng :

– Tất cả chúng sinh được nhân duyên gần Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì không bằng có bạn lành trước tiên. Vì sao vậy ? Vì vua A Xà Thế nếu chẳng thuận theo lời nói của ông Kỳ Già thì ngày mùng bảy tháng đến nhất định mạng chung, đọa địa ngục A Tỳ. Vậy nên nhân duyên gần không bằng bạn lành !

Vua A Xà Thế lại ở đường trước, nghe vua Xá Bà Ðề Tỳ Lưu Ly cưỡi thuyền vào biển gặp lửa mà chết, Tỳ kheo Cù Dà Ly thân sống vào đất, đến ngục A Tỳ, Tu Na Sát làm đủ thứ ác mà đi đến chỗ đức Phật thì mọi tội được diệt… Nghe những lời nói này xong, nhà vua nói với ông Kỳ Bà rằng :

– Ta nay tuy nghe hai lời nói như vậy nhưng còn chưa thẩm định được. Này ông Kỳ Bà ! Ông đến đây ! Ta muốn cùng ông đồng đi một con voi. Giả sử ta phải vào địa ngục A Tỳ thì nhờ ông nắm lấy chẳng để cho ta rơi. Vì sao vậy ? Vì ta trước đã từng nghe, người đắc đạo chẳng vào địa ngục.

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo các đại chúng rằng :

– Vua A Xà Thế còn có lòng nghi ngờ. Ta nay sẽ vì ông ấy tạo tấm lòng quyết định !

Lúc bấy giờ, trong chúng hội có một vị Bồ tát tên là Trì Nhất Thiết, bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Như lời nói trước của đức Phật, tất cả các pháp đều không định tướng, như là sắc không định tướng… cho đến Niết Bàn cũng không định tướng thì vì sao hôm nay đức Như Lai nói rằng, vì vua A Xà Thế tạo tác lòng quyết định ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Ta nay nhất định vì vua A Xà Thế tạo tác lòng quyết định. Vì sao vậy ? Vì nếu lòng nghi ngờ của vua có thể phá hoại được thì phải biết là, các pháp không có định tướng. Vậy nên ta vì vua A Xà Thế tạo tác quyết định tâm. Ông phải biết, tâm này là không quyết định. Này thiện nam tử ! Nếu tâm vua đó là quyết định thì nghịch tội của vua làm sao có thể hoại. Do không định tướng nên tội ấy có thể hoại. Vậy nên ta vì vua A Xà Thế tạo tác tâm quyết định.

Lúc bấy giờ, vị đại vương đã đến vùng Ta La Song Thọ, tới chỗ đức Phật, chiêm ngưỡng đức Như Lai với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp giống như núi vàng ròng vi diệu. Bấy giờ, đức Thế Tôn phát ra tám thứ tiếng, bảo rằng :

– Này đại vương !

A Xà Thế quay nhìn bên trái, bên phải và nghĩ : “Trong đại chúng này ai là đại vương ! Ta đã phạm tội nghịch, lại không có phước đức, đức Như Lai chẳng nên xưng ta là đại vương”. Bấy giờ đức Như Lai lại liền kêu lên rằng :

– Này đại vương A Xà Thế !

Nhà vua nghe rồi, lòng rất hoan hỷ, liền nghĩ như vầy : “Ðức Như Lai hôm nay hạ cố dùng lời ái ngữ. Ta biết quả thật đức Như Lai đối với các chúng sinh đại bi thương xót bình đẳng không sai biệt”. Vua liền bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Lòng nghi ngờ của con hôm nay vĩnh viễn không còn nữa. Con nhất định biết đức Như Lai chân thật là đấng Vô thượng đại sư của chúng sinh.

Lúc bấy giờ, Bồ tát Ca Diếp nói với Bồ tát Trì Nhất Thiết rằng :

– Ðức Như Lai đã vì vua A Xà Thế tạo tác tâm quyết định.

Vua A Xà Thế liền bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Giả sử hôm nay, con được cùng với Phạm Vương, Thích Ðề Hoàn Nhân ngồi đứng, ăn uống còn chẳng hân hoan bằng được gặp đức Như Lai với một lời đoái hoài đến con rất lấy làm vui mừng.

Bấy giờ vua A Xà Thế liền đem tràng phan, bảo cái, hương hoa, kỹ nhạc đã mang theo để cúng dường, trước làm lễ dưới chân đức Phật, nhiễu quanh về bên phải ba vòng. Lễ kính xong rồi, lui về ngồi một phía.

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo vua A Xà Thế rằng :

– Này đại vương ! Hôm nay ta sẽ vì ông nói chánh pháp yếu. Ông phải một lòng lắng nghe ! Lắng nghe ! Người phàm phu thường phải ràng buộc lòng quan sát thân có hai mươi việc.

Một là trong thân này của ta rỗng không, vô lậu.

Hai là không có các căn lành.

Ba là sinh tử này của ta chưa được điều thuận.

Bốn là rơi rớt xuống hầm sâu, không chỗ nào chẳng sợ.

Năm là dùng phương gì để được thấy Phật tính.

Sáu là làm sao tu định để được thấy Phật tính.

Bảy là sinh tử, thường, khổ, vô thường, ngã, tịnh.

Tám là nạn tám nạn khó được xa lìa.

Chín là thường bị sự truy đuổi của oán gia.

Mười là không có một pháp có thể ngăn chận các hữu.

Mười một là đối với ba đường ác chưa được giải thoát.

Mười hai là đầy đủ chủng loại những ác tà kiến.

Mười ba là cũng chưa tạo lập bến qua khỏi ngũ nghịch.

Mười bốn là sinh tử không bờ cõi mà chưa được bờ biên ấy.

Mười lăm là chẳng tạo tác các nghiệp thì chẳng bị quả báo.

Mười sáu là không có ngã làm người khác thọ quả.

Mười bảy là chẳng tạo nhân duyên vui thì nhất định không có kết quả vui.

Mười tám là nếu có tạo nghiệp thì quả nhất định chẳng mất.

Mười chín là nhân vô minh sinh thì cũng nhân đó mà tử.

Hai mươi là quá khứ, vị lai và hiện tại thường làm phóng dật. Này đại vương ! Người phàm phu phải đối với thân này thường tạo tác hai mươi thứ quan sát như vậy. Tạo tác sự quan sát này rồi thì chẳng ưa sinh tử mà chẳng ưa sinh tử thì được chỉ quán. Bấy giờ, theo thứ lớp quan sát tướng tâm sinh, tướng trụ, tướng diệt. Theo thứ lớp quan sát tướng tâm sinh, trụ, diệt rồi thì định, tuệ, tấn, giới cũng lại như vậy. Quan sát sinh, trụ, diệt rồi, biết tướng tâm… cho đến tướng giới thì nhất định chẳng làm ác, không có nỗi sợ chết, nỗi sợ ba đường ác. Nếu hành giả chẳng ràng buộc lòng quan sát hai mươi việc như vậy thì lòng buông lung, không việc ác nào chẳng làm.

Vua A Xà Thế thưa rằng :

– Như con hiểu được ý nghĩa của câu nói đức Phật thì con từ xưa đến giờ chưa từng quan sát hai mươi việc này nên đã tạo nên mọi nghiệp ác. Ðã tạo mọi nghiệp ác nên con có nỗi sợ chết, nỗi sợ ba đường ác. Thưa đức Thế Tôn ! Tự con đã rước lấy tai ương, tạo tác tội ác nặng nề ấy, phụ vương không có tội mà ngang ngược gia thêm nghịch hại. Hai mươi việc quán này mà giả sử chẳng quan sát thì nhất định phải đọa vào địa ngục A Tỳ.

Ðức Phật bảo rằng :

– Này đại vương ! Tính tướng của tất cả các pháp vô thường, không có quyết định thì sao nhà vua nói rằng, nhất định phải đọa địa ngục A Tỳ ?

Vua A Xà Thế bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu tất cả pháp không định tướng thì tội giết cha của con cũng nên chẳng định. Nếu tội giết định thì tất cả các pháp chẳng phải bất định.

Ðức Phật dạy rằng :

– Này đại vương ! Hay thay ! Hay thay ! Các đức Phật Thế Tôn nói rằng, tất cả pháp đều không định tướng, nhà vua lại có thể biết giết cũng chẳng định. Vậy nên phải biết giết không định tướng. Này đại vương ! Như lời ông nói, phụ vương không tội mà ngang ngược gia thêm nghịch hại, thì ai là cha ? Chỉ đối với năm ấm giả danh chúng sinh mà vọng sinh ra tư tưởng cha. Ở trong mười hai nhập, mười tám giới thì cái gì là cha ? Nếu sắc là cha thì bốn âm còn lại nên chẳng phải. Nếu bốn âm còn lại là cha thì sắc cũng nên chẳng phải. Nếu sắc và chẳng phải sắc hợp lại là cha thì không có điều này. Vì sao vậy ? Vì sắc cùng chẳng phải sắc, tính chúng không hợp. Này đại vương ! Chúng sinh phàm phu đối với sắc ấm này vọng sinh ra tư tưởng cha. Như vậy thì sắc ấm cũng chẳng thể hại. Vì sao vậy ? Vì sắc có mười thứ mà trong mười thứ này chỉ có một thứ sắc là có thể thấy, có thể nắm giữ, có thể xưng hô, có thể đo lường, có thể điều khiển, có thể trói buộc. Tuy có thể thấy… có thể trói buộc nhưng tính của sắc ấy chẳng trụ. Do tính ấy chẳng trụ nên chẳng thể được thấy, chẳng thể nắm bắt, chẳng thể xưng lường, chẳng thể điều khiển, trói buộc. Sắc tướng như vậy thì làm sao có thể giết ? Nếu sắc là cha có thể giết có thể hại mà bị tội báo thì chín thứ sắc còn lại nên chẳng phải. Nếu chín thứ còn lại chẳng phải thì nên không có tội. Này đại vương ! Sắc có ba thứ là sắc quá khứ, vị lai và hiện tại. Sắc quá khứ và hiện tại thì chẳng thể hại. Vì sao vậy? Vì quá khứ qua đi, còn hiện tại thì từng niệm từng niệm diệt mất, ngăn chận vị lai nên gọi đó là giết. Như vậy một sắc, hoặc có thể giết, hoặc chẳng thể giết mà có giết, chẳng giết thì sắc là bất định. Nếu sắc bất định thì giết cũng bất định mà giết bất định nên báo cũng bất định thì sao nói rằng, nhất định vào địa ngục ? Này đại vương ! Sự tội nghiệp của tất cả chúng sinh thường có hai thứ, một là khinh (nhẹ), hai là trọng (nặng). Nếu lòng với miệng làm thì gọi là khinh. Nếu thân, miệng, lòng cùng làm thì gọi là trọng. Này đại vương ! Lòng nghĩ, miệng nói mà thân chẳng làm thì bị quả báo nhẹ. Này đại vương ! Ngày xưa miệng ngài chẳng ra lệnh giết mà chỉ nói là hình phạt là đủ. Này đại vương ! Nếu ngài ra lệnh cho thị thần lập đài chém đầu vua và khi ngài ngồi xem mới chém mà còn chẳng bị tội, huống là vua chẳng ra lệnh thì sao gọi là  bị tội ? Nhà vua nếu bị tội thì các đức Phật Thế Tôn cũng nên bị tội. Vì sao vậy ? Vì cha ngài, vị tiên vương Tần Bà Ta La, đã từng ở chỗ các đức Phật gieo trồng các căn lành nên ngày hôm nay được ở ngôi vua.Nếu các đức Phật chẳng thọ sự cúng dường của ông ấy thì ông ấy chẳng được làm vua. Nếu ông ấy chẳng làm vua thì ngài chẳng vì muốn được nước nên sinh lòng giết hại. Vậy nếu ngài giết cha phải có tội thì  chúng ta, các đức Phật, cũng nên có tội. Nếu các đức Phật Thế Tôn không có tội thì làm sao một mình ngài có tội được vậy ? Này đại vương ! Vua Tần Bà Ta La, thuở trước có ác tâm, du hành ở trong núi Tỳ Phú La, săn nai. Ông đi cùng khắp vùng khoáng dã đều không được gì mà chỉ thấy một vị tiên nhân đầy đủ năm thần thông. Thấy rồi, ông liền sinh lòng ác sân nhuế mà nghĩ : “Ta nay đi săn, sở dĩ chẳng được gì chính là do người này, phải xua đuổi hắn đi khỏi”. Ông liền ra lệnh cho tả hữu giết người đó. Người ấy lâm chung sinh lòng sân ác, mất hết thần thông mà thề rằng : “Ta thật vô tội, ngươi dùng tâm, miệng ngang ngược gia hại giết chết ! Vào đời vị lai, ta cũng sẽ trở lại dùng tâm, miệng mà gia hại ngươi như vậy”. Vị vua nghe rồi liền sinh lòng hối hận, cúng dường tử thi. Vị vua này như vậy còn được khinh tội, chẳng bị đọa địa ngục, huống là vua chẳng vậy mà phải đọa địa ngục, thọ quả báo sao? Ðức tiên vương đã tự tạo ra, rồi trở lại tự nhận lấy thì làm sao khiến cho nhà vua bị tội giết được ? Như lời vua đã nói, Phụ vương không tội, thì sao gọi rằng không? Này đại vương ! Phàm người có tội thì có tội báo, người không ác nghiệp thì không tội báo. Cha của ngài, vị tiên vương, nếu không tội thì sao có quả báo ? Vua Tần Bà Ta La, ở trong hiện thế cũng được thiện quả và cả ác quả. Vậy nên vị tiên vương cũng lại bất định mà do bất định nên giết cũng bất định. Giết bất định thì làm sao mà nói rằng, nhất định vào địa ngục.

Này đại vương ! Sự cuồng hoặc của chúng sinh phàm có bốn thứ, một là tham cuồng, hai là dược cuồng, ba là chú cuồng, bốn là bản nghiệp duyên cuồng. Này đại vương ! Trong đệ tử của ta có bốn thứ cuồng này, tuy họ làm nhiều điều ác nhưng nhất định chẳng ghi là người này phạm giới. Việc làm người đó chẳng đến ba đường ác. Nếu họ trở lại được lòng thì cũng chẳng nói rằng phạm. Nhà vua vốn tham đất nước, nghịch hại phụ vương, do tâm tham cuồng làm thì làm sao bị tội ? Này đại vương ! Như người say rượu, nghịch hại cha hắn, khi tỉnh dậy rồi thì lòng sinh hối hận. Ông phải biết nghiệp này cũng chẳng bị quả báo. Nhà vua hôm nay tham say, chẳng phải bản tâm làm mà nếu chẳng phải bản tâm thì sao gọi là bị tội. Này đại vương ! Ví như vị huyễn sư, ở đầu đường ngã tư, huyễn hóa làm ra đủ  trai, gái, voi, ngựa, chuỗi ngọc, quần áo… Người ngu cho đó là chân thật. Người có trí biết đó chẳng phải thật có. Giết cũng như vậy, phàm phu cho là thật, các đức Phật Thế Tôn biết việc ấy chẳng phải chân. Này đại vương ! Ví như tiếng vang trong vùng núi, người ngu si cho là tiếng thật, kẻ có trí biết tiếng ấy chẳng phải chân. Giết cũng như vậy,  hạng phàm phu cho là thật, các đức Phật Thế Tôn biết việc ấy chẳng phải chân. Này đại vương ! Như người có kẻ oán giả trá đến cận kề, người ngu si cho là thật  thân, kẻ trí thông đạt mới biết là dối trá. Giết cũng như vậy, hạng phàm phu cho là thật, các đức Phật Thế Tôn biết việc ấy chẳng phải là chân. Này đại vương ! Như người cầm gương soi tự thấy dáng mặt của mình, người ngu si cho là mặt chân thật, kẻ trí rõ thông biết mặt ấy chẳng phải chân thật. Giết cũng như vậy, hạng phàm phu cho là thật, các đức Phật Thế Tôn biết việc ấy chẳng phải là chân. Này đại vương ! Như khi lửa cháy, người ngu si cho đó là nước, kẻ trí thông đạt biết lửa ấy chẳng phải nước. Giết cũng như vậy, hạng phàm phu cho là thật, các đức Phật Thế Tôn biết việc ấy chẳng phải là chân. Này đại vương ! Như thành của Càn thát bà, người ngu cho là chân thật, kẻ trí rõ đạt biết thành ấy chẳng phải là chân. Giết cũng như vậy, hạng phàm phu cho là thật, các đức Phật Thế Tôn biết việc ấy chẳng phải là chân. Này đại vương ! Như người trong mơ, hưởng thụ niềm vui năm dục, người ngu si cho đó là thật, kẻ trí rõ đạt biết việc ấy chẳng phải là chân. Giết cũng như vậy, hạng phàm phu cho là thật, các đức Phật Thế Tôn biết việc ấy chẳng phải là chân. Này đại vương ! Pháp giết, nghiệp giết, người giết, quả báo giết và cả giải thoát… ta đều biết rõ chúng là không có tội. Nhà vua tuy biết giết nhưng sao gọi là có tội ? Này đại vương ! Ví như có người  giỏi biết về rượu. Như người ấy chẳng uống thì cũng chẳng say, tuy lại biết lửa nhưng cũng chẳng đốt cháy. Nhà vua cũng như vậy, tuy lại biết giết nhưng sao gọi rằng có tội ? Này đại vương ! Có các chúng sinh  vào lúc mặt trời mọc làm đủ thứ tội, vào lúc mặt trăng mọc lại đi trộm cướp, mặt trời, mặt trăng chẳng mọc thì chẳng làm nên tội. Tuy nhân mặt trời, mặt trăng khiến cho họ làm nên tội nhưng mặt trời, mặt trăng này thật chẳng đắc tội. Giết cũng như vậy, tuy lại nhân nơi vua, nhưng nhà vua thật không có tội. Này đại vương ! Như trong cung vua thường lệnh bảo làm thịt dê, lòng ban đầu không sợ thì sao đối với cha riêng sinh ra lòng sợ. Tuy người và súc sinh sự tôn ty có khác biệt nhưng ham sống, sợ chết cả hai đều không khác thì vì sao đối với dê lòng nhẹ không sợ, còn đối với vua cha sinh ưu khổ nặng nề ? Này đại vương ! Người thế gian là yêu thích tôi tớ chẳng được tự tại. Vì yêu thích sự sai khiến mà làm ác hại, giả sử có quả báo thì mới là tội yêu thích. Nhà vua chẳng tự tại thì phải có tội gì ? Này đại vương !  Ví như Niết Bàn chẳng phải có, chẳng phải không mà cũng là có. Giết cũng như vậy, tuy chẳng phải có, chẳng phải không mà cũng là có. Người tàm quí thì chính là chẳng phải có, người không tàm quí thì chính là chẳng phải không. Người thọ quả báo thì gọi đó là có. Người thấy không thì tức là chẳng phải có, người thấy có thì tức là chẳng phải không. Có người thấy có thì cũng gọi là có. Vì sao vậy ? Vì có người thấy có được quả báo, không người thấy có thì không quả báo. Người thường thấy thì tức là chẳng phải không. Không người thường thấy thì tức là chẳng phải có. Người thường thường thấy thì chẳng được là không. Vì sao vậy ? Vì người thường thường thấy có nghiệp quả ác. Vậy nên người thường thường thấy thì chẳng được là không. Do nghĩa này nên tuy chẳng phải có, chẳng phải không mà cũng là có. Này đại vương ! Luận về chúng sinh thì gọi là hơi thở ra vào, đoạn dứt hơi thở ra vào nên gọi là giết : các đức Phật Thế Tôn theo thế tục cũng nói là giết. Này đại vương ! Sắc là vô thường, nhân duyên của sắc cũng là vô thường. Từ nhân duyên vô thường sinh ra sắc thì sao gọi là thường ? … cho đến thức là vô thường, nhân duyên của thức cũng là vô thường. Từ nhân duyên vô thường sinh ra thức thì sao gọi là thường ? Do vô thường nên khổ, do khổ nên không, do không nên vô ngã. Nếu là vô thường, khổ, không, vô ngã thì là giết cái gì ? Giết vô thường thì được thường Niết Bàn, giết khổ được lạc, giết không được thật, giết vô ngã mà được chân ngã. Này đại vương ! Nếu giết vô thường, khổ, không, vô ngã thì cùng với ngã đồng. Ta cũng giết vô thường, khổ, không, vô ngã mà chẳng vào địa ngục thì sao ông gọi là vào?.

Lúc bấy giờ, vua A Xà Thế theo đúng như lời đức Phật nói mà quan sát sắc… cho đến quan sát thức. Tác khởi sự quan sát này rồi, ông liền bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Hôm nay con mới biết sắc là vô thường… cho đến thức là vô thường. Con trước nếu có thể biết như vậy thì đã chẳng làm nên tội. Thưa đức Thế Tôn ! Con trước từng nghe các đức Phật Thế Tôn thường vì chúng sinh mà làm cha mẹ. Tuy nghe lời nói đó nhưng còn chưa thẩm định, hôm nay thì nhất định biết. Thưa đức Thế Tôn ! Con cũng từng nghe Tu Di Sơn Vương là sự tạo thành của bốn thứ báu là vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Nếu có nhiều chim theo chỗ tập họp thì đồng màu với núi ấy. Tuy nghe lời nói này, nhưng con cũng chẳng thẩm định. Hôm nay, con đi đến núi Tu Di Phật thì cùng đồng màu mà cùng đồng màu thì biết các pháp vô thường, khổ, không, vô ngã. Thưa đức Thế Tôn ! Con thấy ở thế gian, từ hạt Y lan sinh ra cây Y lan, chẳng thấy hạt Y lan sinh ra cây Chiên đàn. Hôm nay con mới thấy từ hạt Y lan sinh ra cây Chiên đàn. Hạt Y lan là thân con đó ! Cây chiên đàn thì tức là lòng không có niềm tin căn bản vậy. Không căn là con ban đầu chẳng biết cung kính đức Như Lai, chẳng tin Pháp, Tăng. Ðó gọi là vô căn. Thưa đức Thế Tôn ! Con nếu chẳng gặp được Như Lai Thế Tôn thì phải ở tại đại địa ngục trong vô lượng atăngkỳ kiếp, chịu vô lượng khổ. Con hôm nay may mắn được diện kiến đức Phật. Do công đức được diện kiến đức Phật này mà phá hoại tất cả ác tâm phiền não sẵn có của chúng sinh !

Ðức Phật dạy rằng :

– Này đại vương ! Hay thay ! Hay thay ! Ta nay biết ông nhất định có thể phá hoại ác tâm của chúng sinh.

– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu con xét có thể phá hoại các ác tâm của chúng sinh thì khiến cho con luôn ở tại địa ngục A Tỳ, trong vô lượng kiếp, vì các chúng sinh chịu đại khổ não mà chẳng lấy làm khổ.

Lúc bấy giờ, vô lượng nhân dân của nước Ma Dà Ðà đều phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Do vô lượng nhân dân phát đại tâm như vậy.v.v… nên trọng tội sẵn có của vua A Xà Thế liền được mỏng nhỏ bớt đi. Nhà vua và phu nhân, hậu cung thể nữ đều đồng phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Lúc bấy giờ, vua A Xà Thế nói với ông Kỳ Bà rằng :

– Ta nay chưa chết đã được thân trời, bỏ đi mạng ngắn ngủi mà được mạng dài lâu, bỏ thân vô thường mà được thân thường trụ, khiến cho những chúng sinh phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, tức là thân trời, mạng dài lâu, thân thường trụ, tức là đệ tử của tất cả các đức Phật.

Nói lời này xong, ông liền dùng đủ thứ bảo tràng, bảo phan, bảo cái, hương hoa, chuỗi ngọc, kỹ nhạc vi diệu mà cúng dường đức Phật. Ông lại dùng kệ tụng mà khen ngợi rằng :

Lời thật rất vi diệu

Câu nghĩa khéo léo hơn

Tạng thậm thâm bí mật

Vì chúng hiển thị lên.

Lời quảng bác sẵn có

Vì chúng lược tuyên dương

Ðầy đủ lời như vậy

Khéo trị liệu chúng sinh.

Nếu có các sinh chúng

Lời này được nghe xong

Hoặc tin hoặc bất tín

Biết là lời Thế Tôn.

Lời Phật thường êm dịu

Vì chúng nói thô hơn

Lời thô và lời dịu

Về Ðệ nhất nghĩa tôn.

Nên con hôm nay nguyện

Qui y với Thế Tôn.

Lời Như Lai một vị

Như nước biển mênh mông

Ðó gọi Ðệ nhất nghĩa

Không lời nghĩa rỗng không.

Hôm nay lời đức Phật

Ðủ thứ pháp không lường

Mọi trai gái nghe được

Ðệ nhất nghĩa đều đồng.

Không nhân cũng không quả

Không diệt và không sinh

Ðó gọi Niết Bàn lớn

Người nghe phá kết duyên.

Như Lai vì tất cả

Thường làm cha mẹ lành

Phải biết các sinh chúng

Ðều là con Thế Tôn.

Như Lai từ bi lớn

Vì chúng, khổ hạnh làm

Như người mê quỉ mị

Việc làm nhiều loạn cuồng.

Con nay được thấy Phật

Sở đắc ba nghiệp lành

Công đức này con nguyện

Hồi hướng đạo Không Trên (Vô thượng)

Ðồ con nay dâng cúng

Phật pháp và chúng Tăng

Công đức nay con nguyện

Tam Bảo, đời thường tồn.

Con hôm nay sẽ được

Ðủ thứ công đức lành

Con nguyện đem phá hoại

Bốn ma của chúng sinh.

Con gặp ác tri thức

Tội ba đời tạo nên

Nay hối ở trước Phật

Nguyện sau không dám làm.

Nguyện cho những sinh chúng

Ðều phát Bồ Ðề tâm

Buộc lòng thường suy nghĩ

Tất cả Phật mười phương

Lại nguyện các sinh chúng

Mãi phá tan não phiền

Tỏ rõ thấy Phật tính

Như Diệu Ðức (Văn Thù) vân vân.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen vua A Xà Thế rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Nếu có người có thể phát tâm Bồ Ðề thì phải biết là người này làm trang nghiêm đại chúng của chư Phật. Này đại vương ! Ông thuở xưa đã ở chỗ đức Phật Tỳ Ba Thi, đầu tiên phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Từ đó về sau, đến khi ta ra đời, ở khoản giữa thời gian ấy, ông chưa từng đọa vào địa ngục, chịu khổ. Ðại vương phải biết rằng, tâm Bồ Ðề mới có quả báo không lường như vậy. Này đại vương ! Từ nay về sau thường phải siêng tu tâm Bồ Ðề. Vì sao vậy ? Vì từ nhân duyên này sẽ được tiêu diệt vô lượng nghiệp ác vậy.

Lúc bấy giờ, vua A Xà Thế và nhân dân toàn nước Ma Dà Ðà đứng dậy, nhiễu quanh đức Phật, rồi từ tạ lui trở về cung. Phẩm Thiên hành, như Tạp Hoa thuyết.