KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
– Hán dịch: Căn cứ bản dịch của Tam Tạng Pháp sư Đàm Vô Sấm,
Sa môn Tuệ Nghiêm, Tuệ Quán, và Tạ Linh Vân sửa lại
 – Đời Tống
 – Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ – Phan Rang
Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đổng Minh

 

PHẨM THỨ HAI MƯƠI BA: BỒ TÁT SƯ TỬ HỐNG

(Từ Quyển 25 đến Quyển 30)

– Lúc bấy giờ, đức Phật bảo tất cả đại chúng rằng:

– Này các thiện nam tử! Nếu các ông nghi ngờ có Phật hay không Phật, có pháp hay không pháp, có Tăng hay không Tăng, có khổ hay không khổ, có tập hay không tập, có diệt hay không diệt, có đạo hay không đạo, có thật hay không thật, có ngã hay không ngã, có vui hay không vui, có tịnh hay không tịnh, có thường hay không thường, có thừa hay không thừa, có tính hay không tính, có chúng sinh hay không chúng sinh, có hữu hay không hữu, có chân hay không chân, có nhân hay không nhân, có quả hay không quả, có tác hay không tác, có nghiệp hay không nghiệp, có báo hay không báo, thì nay ta cho mặc ý ông hỏi. Ta sẽ vì các ông phân biệt giải nói! Này thiện nam tử! Ta thật chẳng thấy hoặc trời, hoặc người, hoặc ma, hoặc Phạm, hoặc Sa môn, hoặc Bàlamôn có đến hỏi mà ta chẳng thể đáp!

Lúc bấy giờ, trong hội có một vị Bồ tát tên là Sư Tử Hống, liền đứng dậy, thu liễm dung nhan, sửa sang y phục, trước lễ dưới chân đức Phật, quì dài, tréo tay bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Con vừa muốn hỏi thì đức Như Lai đại từ đã rũ lòng thương cho phép!

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo các đại chúng rằng:

– Này các thiện nam tử! Nay các ông phải đối với vị Bồ tát này sinh lòng cung kính sâu sắc, tôn trọng, khen ngợi, phải dùng đủ thứ hương hoa, kỹ nhạc, chuỗi ngọc, tràng phan, bảo cái, quần áo, đồ ăn uống, ngọa cụ, y dược, phòng nhà, điện đường… mà cúng dường, rước đến, đưa đi. Sở dĩ vì sao? Vì người này đã ở chỗ các đức Phật quá khứ, trồng sâu căn lành, thành tựu phước đức. Vậy nên hôm nay, ở trước ta ông muốn rống tiếng sư tử. Này thiện nam tử! Như vua sư tử tự biết thân lực, nanh vuốt nhọn hoắt, bốn chân chống đất, an trụ trong hang nghiêm bị, đập đuôi phát ra tiếng. Nếu sư tử có đủ các tướng như vậy thì phải biết nó có thể rống tiếng sư tử. Vua sư tử chân thật sáng sớm ra khỏi hang, vươn vai ngáp dài, quay nhìn bốn hướng, phát ra tiếng rống chấn động vì mười một việc. Những gì là mười một? Một là vì muốn hoại chẳng phải sư tử thật mà giả làm sư tử. Hai là muốn thử thách thân lực của mình. Ba là vì muốn chỗ ở  sạch. Bốn là vì muốn các con biết chỗ ở. Năm là vì muốn bày đàn không lòng kinh sợ. Sáu là vì muốn người ngủ được thức tỉnh. Bảy là vì muốn tất cả các loài thú phóng dật chẳng buông lung. Tám là vì muốn các loài thú đến nhờ nương cận kề. Chín là vì muốn điều phục các con hương tượng. Mười là vì muốn dạy bảo những vợ con. Mười một là vì muốn trang nghiêm quyến thuộc của mình. Tất cả loài cầm thú nghe tiếng rống sư tử thì loài sống dưới nước lặn chìm vực sâu, loài đi trên đất giấu mình trong hang động, loài bay trên không rơi rớt xuống. Những con hương tượng lớn sợ chạy vãi phân… Này thiện nam tử! Như loài dã thú kia cho dù có đuổi theo sư tử đến hàng trăm năm thì nhất định chẳng thể tạo được tiếng rống của sư tử. Nếu sư tử bắt đầu tròn ba tuổi thì có thể kêu rống như vua sư tử. Này thiện nam tử! Thân đầy đủ nanh vuốt trí tuệ, bốn như ý túc, sáu Balamật của Như Lai với mười lực hùng mạnh, đại Bi làm đuôi, an trụ trong hang thanh tịnh Tứ Thiền, Như Lai vì các chúng sinh mà rống tiếng sư tử, diệt phá ma quân, mười lực thị chúng, mở hành xứ của Phật, vì các tà kiến làm chỗ quy y, an ủi vỗ về chúng sinh kinh sợ sinh tử, thức tỉnh chúng sinh trong giấc ngủ vô minh, người làm ác pháp vì họ tạo tác lòng hối hận, khai thị tất cả chúng sinh tà kiến khiến cho họ biết hàng Lục Sư chẳng phải là sư tử hống, phá lòng kiêu mạn của Phú lan na. Vì khiến cho hàng Nhị thừa sinh lòng hối hận, vì dạy các Bồ tát năm trụ.v.v… sinh tâm đại Lực, vì khiến cho bốn bộ chúng chánh kiến đối với bốn bộ đồ đảng tà kiến kia chẳng sinh ra sợ hãi… nên từ trong hang động Thánh hạnh, Phạm hạnh, Thiên hạnh vươn vai mà ra. Vì muốn khiến cho những chúng sinh đó.v.v… phá kiêu mạn nên ngáp dài. Vì khiến cho các chúng sinh.v.v… sinh ra thiện pháp nên quay nhìn bốn hướng. Vì khiến cho chúng sinh được bốn ngại nên bốn chân chống đất. Vì khiến cho chúng sinh an trụ đầy đủ ở Thi Balamật nên rống tiếng sư tử. Tiếng rống sư tử gọi là lời nói quyết định, tất cả chúng sinh đều có Phật tính, Như Lai thường trụ không có biến dịch. Này thiện nam tử! Thanh Văn, Duyên Giác tuy lại theo đuổi Như Lai Thế Tôn đến vô lượng trăm ngàn atăngkỳ kiếp mà cũng chẳng thể làm nên tiếng rống sư tử. Bồ tát Thập Trụ nếu có thể tu hành ba hành xứ này thì phải biết là có thể rống tiếng sư tử. Này các thiện nam tử! Ðại Bồ tát Sư Tử Hống này hôm nay muốn rống lên tiếng sư tử lớn như vậy. Vậy nên thâm tâm các ông cần phải cúng dường cung kính, tôn trọng khen ngợi!

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Ðại Bồ tát Sư Tử Hống rằng:

– Này thiện nam tử! Nếu ông muốn hỏi thì hôm nay có thể tùy ý!

Ðại Bồ tát Sư Tử Hống bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Sao gọi là Phật tính? Do ý nghĩa gì nên gọi là Phật tính? Vì sao lại gọi là Thường Lạc Ngã Tịnh? Nếu tất cả chúng sinh có Phật tính thì vì sao chẳng thấy Phật tính sở hữu của tất cả chúng sinh? Bồ tát Thập Trụ trụ ở những pháp gì mà chẳng thấy rõ ràng? Phật trụ ở những pháp gì mà thấy rõ ràng? Bồ tát Thập Trụ dùng những mắt gì mà chẳng thấy rõ ràng? Phật dùng mắt gì mà thấy rõ ràng?

Ðức Phật dạy rằng:

– Này thiện nam tử! Hay thay! Hay thay! Nếu có người có thể vì pháp hỏi han thì được đầy đủ hai thứ trang nghiêm, một là trí tuệ, hai là phước đức. Nếu có Bồ tát đầy đủ hai thứ trang nghiêm như vậy thì biết được Phật tính và cũng giải biết sao gọi là Phật tính… cho đến có thể biết Bồ tát Thập Trụ dùng mắt gì để thấy, các đức Phật Thế Tôn dùng mắt gì để thấy!

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Sao gọi là Trí Tuệ trang nghiêm? Sao gọi là phước đức trang nghiêm?

– Này thiện nam tử! Tuệ trang nghiêm là gọi từ Nhất Ðịa cho đến Thập Ðịa. Ðó gọi là Tuệ trang nghiêm. Phước đức trang nghiêm là gọi từ Ðàn Balamật cho đến Bát nhã, chẳng phải là Bát nhã Balamật. Lại nữa, tuệ trang nghiêm là gọi các đức Phật, Bồ tát. Phước đức trang nghiêm là gọi Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát cữu trụ.

Lại nữa, này thiện nam tử! Phước đức trang nghiêm là hữu vi, hữu lậu, có hữu, có quả báo, có ngăn ngại, chẳng phải thường… là những pháp phàm phu. Tuệ trang nghiêm là vô vi, vô lậu, không hữu, không quả báo, không ngăn ngại, thường trụ. Này thiện nam tử! Nay ông đầy đủ hai thứ trang nghiêm này nên có thể hỏi diệu nghĩa thậm thâm. Ta cũng đầy đủ hai thứ trang nghiêm này nên có thể đáp nghĩa đó.

Ðại Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Nếu có Bồ tát đầy đủ hai thứ trang nghiêm như vậy, thì chẳng nên hỏi một thứ, hai thứ… thì sao đức Thế Tôn nói rằng có thể đáp một thứ, hai thứ. Sở dĩ vì sao? Vì tất cả các pháp không một, hai thứ. Một thứ, hai thứ là tướng của phàm phu.

Ðức Phật dạy rằng:

– Này thiện nam tử! Nếu có Bồ tát không có hai thứ trang nghiêm thì chẳng thể biết một thứ, hai thứ. Nếu có Bồ tát đủ hai thứ trang nghiêm thì có thể giải biết một thứ, hai thứ. Nếu nói rằng các pháp không một, hai thì nghĩa này chẳng đúng. Vì sao vậy? Nếu không một, hai thì làm sao được nói tất cả các pháp không một, không hai… Này thiện nam tử! Nếu nói rằng, một, hai là tướng của phàm phu thì đó mới gọi là Bồ tát Thập Trụ, chẳng phải phàm phu. Vì sao vậy? Vì một là gọi Niết Bàn, hai là gọi sinh tử. Vì sao một thì gọi là Niết Bàn? Vì một ấy thường! Vì sao hai thì gọi là sinh tử? Vì thọ vô minh. Thường Niết Bàn thì chẳng phải tướng phàm phu. Sinh tử là hai thì cũng chẳng phải tướng phàm phu. Do nghĩa này nên người đủ hai trang nghiêm thì có thể hỏi, có thể đáp. Này thiện nam tử! Ông hỏi, sao gọi là Phật tính? Ông hãy lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ vì ông phân biệt giải nói! Này thiện nam tử! Phật tính là gọi Ðệ Nhất Nghĩa Không. Ðệ Nhất Nghĩa Không gọi là trí tuệ. Sở dĩ  nói không là chẳng thấy không cùng chẳng không. Người trí tuệ thấy không và cùng chẳng không, thường cùng vô thường, khổ cùng vui, ngã cùng vô ngã. Không là tất cả sinh tử, chẳng không thì gọi là Ðại Niết Bàn… cho đến vô ngã tức là sinh tử. Ngã thì gọi là Ðại Niết Bàn. Thấy tất cả không, chẳng thấy chẳng không chẳng gọi là trung đạo… cho đến thấy tất cả vô ngã, chẳng thấy ngã thì chẳng gọi là trung đạo. Trung đạo thì gọi là Phật tính. Do nghĩa này nên Phật tính thường hằng không có biến dịch, vì vô minh che nên khiến cho chúng sinh chẳng thể được thấy. Thanh Văn, Duyên Giác thấy tất cả không, chẳng thấy chẳng không… cho đến thấy tất cả vô ngã, chẳng thấy được ngã. Do nghĩa này nên họ chẳng được đệ nhất nghĩa không. Chẳng được Ðệ nhất nghĩa không nên chẳng hành trung đạo. Không trung đạo nên chẳng thấy Phật tính. Này thiện nam tử! Người chẳng thấy trung đạo thì thường có ba hạng, một là Ðịnh Lạc hạnh, hai là Ðịnh Khổ hạnh, ba là Khổ Lạc hạnh. Ðịnh Lạc hạnh là gọi Ðại Bồ tát thương xót tất cả chúng sinh nên tuy ở tại địa ngục A tỳ nhưng như niềm vui Tam thiền. Ðịnh khổ hạnh là gọi các phàm phu. Khổ lạc hạnh là gọi Thanh Văn, Duyên Giác. Thanh Văn, Duyên Giác hành theo khổ lạc, tác khởi tư tưởng trung đạo. Do nghĩa này nên tuy có Phật tính mà chẳng thể thấy. Như lời ông đã hỏi, do nghĩa gì nên gọi là Phật tính? Này thiện nam tử! Phật tính thì tức là chủng tử trung đạo của tất cả các đức Phật Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Lại nữa, này thiện nam tử! Ðạo có ba thứ là hạ, thượng, trung. Hạ là Phạm thiên, vô thường lầm thấy là thường. Hạ là sinh tử vô thường lầm thấy là thường, Tam Bảo là thường mà ngang ngược kể là vô thường. Sao gọi là Thượng? Có thể được tối thượng Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Trung thì gọi là Ðệ nhất nghĩa không, vô thường thấy vô, thường thấy là thường. Ðệ nhất nghĩa không chẳng gọi là hạ. Vì sao vậy? Vì điều chẳng thể được của tất cả phàm phu nên chẳng gọi là Thượng. Vì sao vậy? Vì tức là Thượng vậy. Ðạo tu hành của các đức Phật, Bồ tát chẳng thượng, chẳng hạ. Do nghĩa này nên gọi là trung đạo vậy.

Lại nữa, này thiện nam tử! Này thiện nam tử! Bản tế của sinh tử thường có hai thứ, một là vô minh, hai là hữu ái. Trung gian của hai thứ này thì có khổ, sinh, già, bệnh, chết. Ðó gọi là Trung đạo. Như vậy trung đạo có thể phá sinh tử nên gọi là trung. Do nghĩa này nên pháp trung đạo gọi là Phật tính. Vậy nên Phật tính Thường Lạc Ngã Tịnh. Do các chúng sinh chẳng thể thấy nên cho là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Phật tính thật chẳng phải vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Này thiện nam tử! Ví như nhà người nghèo có bảo tàng mà người đó chẳng thấy. Do chẳng thấy nên vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Có người thiện tri thức nói với người đó rằng: “Trong nhà ông có Kim bảo tàng (kho báu chứa vàng) mà vì sao ông bần cùng khốn khổ, vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh như vậy?” Người này liền dùng phương tiện khiến cho người nghèo kia thấy được. Do được thấy nên người đó liền được Thường Lạc Ngã Tịnh. Phật tính cũng vậy, chúng sinh chẳng thấy mà do chẳng thấy nên vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Có thiện tri thức các đức Phật, Bồ tát dùng phương tiện lực, đủ thứ lời dạy bảo khiến cho những chúng sinh đó được thấy. Do được thấy nên chúng sinh liền được Thường Lạc Ngã Tịnh.

Lại nữa, này thiện nam tử! Chúng sinh khởi kiến thường có hai thứ, một là thường kiến, hai là đoạn kiến. Hai kiến như vậy chẳng gọi là trung đạo, vô thường vô đoạn mới gọi là  trung đạo. Vô thường vô đoạn tức là trí quán chiếu mười hai duyên. Trí quán như vậy thì gọi là Phật tính. Người Nhị thừa tuy quán nhân duyên nhưng còn cũng chẳng được gọi là Phật tính. Phật tính tuy thường do các chúng sinh bị vô minh che nên chẳng thể được thấy, lại chưa có thể qua khỏi dòng sông mười hai duyên, giống như con thỏ, con ngựa. Vì sao vậy? Vì chẳng thấy Phật tính vậy. Này thiện nam tử! Trí tuệ quán mười hai nhân duyên này tức là hạt giống Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Do nghĩa này nên mười hai nhân duyên gọi là Phật tính. Này thiện nam tử! Ví như nấm hồ gọi là bệnh nóng. Vì sao vậy? Vì nó có thể vì bệnh nóng làm nhân duyên. Mười hai nhân duyên cũng lại như vậy. Này thiện nam tử! Phật tính thì có nhân, có nhân của nhân, có quả, có quả của quả. Có nhân tức là mười hai nhân duyên. Nhân của nhân thì tức là trí tuệ. Có quả thì tức là Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Quả của quả tức là Vô Thượng Ðại Bát Niết Bàn. Này thiện nam tử! Ví như vô minh là nhân, các hành là quả, hành là nhân, thức là quả. Do nghĩa này nên thể của vô minh đó cũng là nhân cũng là nhân của nhân và thức cũng là quả, cũng là quả của quả. Phật tính cũng vậy. Này thiện nam tử! Do nghĩa này nên mười hai nhân duyên chẳng sinh ra, chẳng diệt đi, chẳng thường, chẳng đoạn, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng lại, chẳng đi, chẳng nhân, chẳng phải quả. Này thiện nam tử! Nhân này chẳng phải quả. Như Phật tính là quả chẳng phải nhân. Như Ðại Niết Bàn là nhân, là quả. Như pháp sở sinh của mười hai nhân duyên chẳng phải nhân, chẳng phải quả nên gọi là Phật tính, chẳng phải nhân quả nên thường hằng không biến dịch. Do nghĩa này nên trong kinh ta nói mười hai nhân duyên, nghĩa ấy thậm thâm, không biết, không thấy, chẳng thể nghĩ bàn, là cảnh giới của các đức Phật, Bồ tát, chẳng phải các Thanh Văn, Duyên Giác bì kịp. Do nghĩa gì nên rất sâu rất sâu? Nghiệp hành của chúng sinh chẳng thường, chẳng đoạn mà được quả báo, tuy niệm niệm diệt mà không có gì mất, tuy không tác giả mà có tác nghiệp, tuy không người thọ mà có quả báo. Người thọ tuy diệt nhưng quả chẳng bại vong, tuy không có nghĩ biết, hòa hợp mà có tất cả chúng sinh, tuy cùng mười hai nhân duyên hành động chung mà chẳng thấy biết mà chẳng thấy biết nên không có đầu, cuối. Bồ tát Thập Trụ chỉ thấy cuối nghiệp hành ấy, chẳng thấy đầu của nghiệp hành ấy. Các đức Phật Thế Tôn thì thấy đầu, thấy cuối. Do nghĩa này nên các đức Phật được thấy Phật tính rõ ràng. Này thiện nam tử! Tất cả chúng sinh chẳng thể thấy đến mười hai nhân duyên nên bị luân chuyển. Này thiện nam tử! Như con tằm làm kén tự sinh, tự chết. Tất cả chúng sinh cũng lại như vậy, chẳng thấy Phật tính nên tự tạo kết nghiệp lưu chuyển sinh tử giống như đá cầu. Này thiện nam tử! Vậy nên ở trong các Kinh ta nói rằng, nếu có người thấy mười hai nhân duyên thì tức là thấy pháp mà thấy pháp tức là thấy Phật. Phật tức là Phật tính. Vì sao vậy? Vì tất cả các đức Phật lấy Phật tính này làm tính. Này thiện nam tử! Trí quán mười hai nhân duyên thường có bốn thứ, một là hạ, hai là trung, ba là thượng, bốn là thượng thượng. Người hạ trí quán chẳng thấy Phật tính. Do chẳng thấy nên họ được đạo Thanh Văn. Người trung trí quán thì chẳng thấy Phật tính mà do chẳng thấy nên được đạo Duyên Giác. Người thượng trí quán thì thấy Phật tính chẳng rõ ràng mà thấy chẳng rõ ràng nên trụ ở Thập Trụ Ðịa. Người thượng thượng trí quán thì thấy Phật tính rõ ràng nên được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Do nghĩa này nên mười hai nhân duyên gọi là Phật tính. Phật tính tức là Ðệ nhất nghĩa không. Ðệ nhất nghĩa không gọi là trung đạo. Trung đạo tức là Phật mà Phật gọi là Niết Bàn.

Lúc bấy giờ, Ðại Bồ tát Sư Tử Hống bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Nếu Phật cùng Phật tính không sai khác thì tất cả chúng sinh cần gì phải tu đạo?

Ðức Phật dạy rằng:

– Này thiện nam tử! Như lời ông hỏi thì nghĩa này chẳng đúng! Phật cùng Phật tính tuy không sai khác, nhưng các chúng sinh đều chưa đầy đủ. Này thiện nam tử! Ví như có người ác tâm hại mẹ, hại rồi sinh ra hối hận. Nghiệp thứ hai tuy tốt nhưng người này gọi là người địa ngục. Vì sao vậy? Vì người này nhất định phải đọa địa ngục. Người này tuy không địa ngục, ấm, giới, các nhập nhưng còn được gọi là người địa ngục. Này thiện nam tử! Vậy nên ở trong các Kinh ta nói rằng, nếu thấy có người tu hành thiện thì gọi là thấy trời người. Người tu hành ác thì gọi là thấy địa ngục. Vì sao vậy? Vì nhất định thọ báo. Này thiện nam tử! Tất cả chúng sinh nhất định được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vậy nên ta nói rằng, tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Tất cả chúng sinh chân thật chưa có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Do nghĩa này nên ở Kinh này ta nói bài kệ này:

Trước có nay không

Trước không nay có

Pháp ba đời có

Ðiều này là không.

Này thiện nam tử! Có thì thường có ba thứ, một là vị lai có, hai là hiện tại có, ba là quá khứ có. Tất cả chúng sinh đời vị lai sẽ có Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ðó gọi là Phật tính. Tất cả chúng sinh hiện tại đều có những kết phiền não nên hiện tại không có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Tất cả chúng sinh đời quá khứ mà có đoạn trừ phiền não nên hiện tại được thấy Phật tính. Do nghĩa này nên ta thường tuyên nói, tất cả chúng sinh đều có Phật tính, thậm chí nhất xiển đề.v.v… cũng có Phật tính. Nhất xiển đề.v.v… không có thiện pháp mà Phật tính cũng thiện. Do đời vị lai sẽ có nên Nhất xiển đề.v.v.. đều có Phật tính. Vì sao vậy? Vì nhất xiển đề.v.v… nhất định sẽ được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử! Ví như có người, trong nhà có cao sữa. Có người hỏi hắn rằng: “Ông có váng sữa không vậy?” Ðáp rằng: “Ta có cao sữa, thật chẳng phải váng sữa. Nhưng ta dùng phương tiện khéo thì nhất định sẽ có được nên nói rằng, có váng sữa”. Chúng sinh cũng vậy, họ đều có tâm mà phàm có tâm thì nhất định sẽ được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Do nghĩa này nên ta thường tuyên nói rằng, tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Này thiện nam tử! Rốt ráo (tất cánh) có hai thứ, một là trang nghiêm rốt ráo, hai là cứu cánh rốt ráo. Một là thế gian rốt ráo, hai là xuất thế gian rốt ráo. Trang nghiêm rốt ráo là sáu Ba la mật. Cứu cánh rốt ráo là tất cả chúng sinh được Nhất thừa. Nhất Thừa thì gọi là Phật tính. Do nghĩa này nên ta nói rằng, tất cả chúng sinh đều có Phật tính, tất cả chúng sinh đều có Nhất thừa nhưng vì vô minh che lấp nên chẳng thể được thấy. Này thiện nam tử! Như quả báo ba mươi ba trời cõi Uất Ðan Việt bị che khuất nên chúng sinh của thế gian này chẳng thể được thấy. Phật tính cũng vậy, các kết sử che khuất nên chúng sinh chẳng thấy. Lại nữa, này thiện nam tử! Phật tính tức là Thủ Lăng Nghiêm tam muội, tính như Ðề hồ tức là mẹ của tất cả các đức Phật. Do sức lực của Thủ Lăng Nghiêm tam muội mà khiến cho các đức Phật Thường Lạc Ngã Tịnh. Tất cả chúng sinh đều có Thủ Lăng Nghiêm tam muội, nhưng vì chẳng tu hành nên chẳng được thấy. Vậy nên chẳng thể được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử! Thủ Lăng Nghiêm tam muội có năm thứ tên, một là Thủ Lăng Nghiêm tam muội, hai là Bát nhã Ba la mật, ba là Kim Cương tam muội, bốn là Sư Tử Hống tam muội, năm là Phật tính. Tùy theo sở tác của tam muội ấy khắp nơi nơi mà được danh xưng. Này thiện nam tử! Như một tam muội được đủ thứ tên: Như Thiền gọi là Tứ Thiền, căn gọi là Ðịnh Căn, lực gọi là Ðịnh Lực, giác gọi là Ðịnh Giác, chính gọi là Ðịnh Chính, Bát đại nhân giác gọi là Ðịnh Giác. Thủ Lăng Nghiêm định cũng lại như vậy. Này thiện nam tử! Tất cả chúng sinh đầy đủ ba định là Thượng, Trung, Hạ. Thượng định thì gọi là Phật tính. Do đó nên nói rằng, tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Trung định là tất cả chúng sinh đầy đủ sơ thiền, khi có nhân duyên thì có thể tu tập, nếu không có nhân duyên thì chẳng thể tu tập. Nhân duyên có hai thứ, một gọi là hỏa tai (tai họa lửa), hai gọi là phá kết sử của dục giới. Do đó nên nói rằng, tất cả chúng sinh đều đủ Trung định. Hạ định là trong mười Ðại Ðịa, tâm số định vậy. Do đó nên nói rằng, tất cả chúng sinh đều đủ hạ định. Tất cả chúng sinh đều có Phật tính nhưng vì phiền não che khuất nên chẳng thể được thấy. Bồ tát Thập Trụ tuy thấy Nhất Thừa nhưng chẳng biết Như Lai là pháp thường trụ. Do đó nên nói rằng, Bồ tát Thập Trụ tuy thấy Phật tính mà chẳng sáng tỏ. Này thiện nam tử! Thủ Lăng Nghiêm thì gọi là Rốt ráo tất cả. Nghiêm gọi là Kiên, tất cả rốt ráo mà được kiên cố thì gọi là Thủ Lăng Nghiêm. Do đó nên nói rằng, Thủ Lăng Nghiêm tam muội định gọi là Phật tính.

Này thiện nam tử! Một thuở, ta ở cạnh sông Ni Liên Thiền, bảo ông A Nan rằng: “Ta nay muốn tắm, ông hãy lấy áo và cả bát gỗ múc nước tắm!” Ta đã vào nước rồi thì tất cả loài chim bay, các loài thuộc dưới nước, trên đất đều đến xem ta. Bấy giờ lại có năm trăm vị Phạm Chí đến tại bờ sông. Nhân đến chỗ ta tắm, họ đều nói với nhau rằng: “Làm sao mà được tấm thân Kim Cương? Nếu giả sử ông Cù Ðàm chẳng nói đoạn kiến thì ta sẽ từ ấy khải thọ Trai pháp!” Này thiện nam tử! Lúc bấy giờ, ta dùng trí Tha Tâm biết được điều nghĩ của lòng Phạm Chí này nên bảo Phạm Chí rằng: “Sao gọi là ta nói đến Ðoạn Kiến?” Ông Phạm Chí đó nói rằng: “Thưa ông Cù Ðàm! Trước đây ở mọi chỗ trong Kinh, ông nói các chúng sinh đều không có ngã. Ðã nói rằng vô ngã thì sao gọi là chẳng phải Ðoạn kiến vậy? Nếu vô ngã thì người trì giới là ai? Người phá giới là ai?” Phật nói rằng: “Ta cũng chẳng nói tất cả chúng sinh đều không có ngã mà ta thường tuyên nói rằng, tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Phật tính thì há chẳng phải là ngã sao? Do nghĩa này nên ta chẳng nói Ðoạn. Tất cả chúng sinh chẳng thấy Phật tính nên vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh. Như thế thì gọi là nói Ðoạn Kiến vậy”. Các Phạm Chí nghe nói Phật tính tức là ngã nên liền phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, đồng thời xuất gia tu đạo Bồ Ðề. Tất cả các loài thuộc loại chim bay, sống dưới nước, ở trên đất cũng phát tâm Bồ Ðề Vô Thượng. Ðã phát tâm rồi thì chúng liền được xả thân. Này thiện nam tử! Phật tính này thật ra chẳng phải ngã, nhưng vì chúng sinh nên ta nói danh xưng là ngã. Này thiện nam tử! Như Lai có nhân duyên nên nói rằng, vô ngã là ngã mà chân thật là vô ngã. Tuy ta nói lời này nhưng không có hư vọng. Này thiện nam tử! Vì có nhân duyên nên nói ngã là vô ngã mà chân thật có ngã. Vì thế giới nên tuy nói vô ngã mà không hư vọng. Phật tính không ngã Như Lai nói ngã vì là thường vậy. Như Lai là ngã mà nói vô ngã được tự tại vậy.

Lúc bấy giờ, Ðại Bồ tát Sư Tử Hống bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Nếu tất cả chúng sinh đều có Phật tính như lực sĩ Kim Cương thì vì nghĩa gì mà tất cả chúng sinh chẳng thể được thấy?

Ðức Phật dạy rằng:

– Này thiện nam tử! Ví như sắc pháp tuy có khác về màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, về tính chất hình dáng dài ngắn… nhưng người mù chẳng thấy. Tuy họ chẳng thấy nhưng cũng chẳng được nói rằng, sắc pháp không có tính chất, hình dáng dài, ngắn, xanh, vàng, đỏ, trắng. Vì sao vậy? Vì tuy người mù chẳng thấy, nhưng người sáng mắt thì thấy. Phật tính cũng vậy, tất cả chúng sinh tuy chẳng thể thấy nhưng Bồ tát Thập Trụ thấy một phần ít, Như Lai thấy hoàn toàn. Bồ tát Thập Trụ thấy Phật tính như ban đêm thấy sắc. Việc thấy Phật tính của Như Lai thì như ban ngày thấy sắc. Này thiện nam tử! Ví như người mù lòa thấy sắc chẳng rõ. Có vị lương y trị liệu cho ông ấy, nhờ sức lực của thuốc nên được thấy rõ ràng. Bồ tát Thập Trụ cũng lại như vậy, tuy thấy Phật tính chẳng  thể rõ ràng nhưng do lực của Thủ Lăng Nghiêm tam muội nên có thể được sáng tỏ. Này thiện nam tử! Nếu có người thấy tất cả pháp vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh và thấy chẳng phải tất cả pháp cũng vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh thì người như vậy chẳng thấy Phật tính. Tất cả thì gọi là sinh tử. Chẳng phải tất cả thì gọi là Tam Bảo. Thanh Văn, Duyên Giác thấy tất cả pháp vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh và chẳng phải tất cả pháp cũng thấy vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh. Do nghĩa này nên họ chẳng thấy Phật tính. Bồ tát Thập Trụ thấy tất cả pháp vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh, thấy chẳng phải tất cả pháp một phần ít Thường Lạc Ngã Tịnh. Do nghĩa này nên trong mười phần được thấy một phần. Các đức Phật Thế Tôn thấy tất cả pháp vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh, thấy chẳng phải tất cả pháp là Thường Lạc Ngã Tịnh. Do nghĩa này nên thấy Phật tính như xem trái A ma lặc trong lòng bàn tay. Do nghĩa này nên Thủ Lăng Nghiêm định gọi là Rốt ráo (tất cánh). Này thiện nam tử! Ví như trăng ngày đầu tiên tuy chẳng thể thấy nhưng chẳng được nói là không. Phật tính cũng vậy, tất cả phàm phu tuy chẳng được thấy nhưng cũng chẳng được nói là không có Phật tính vậy.

Này thiện nam tử! Phật tính thì như là mười lực, bốn vô sở úy, đại Bi, ba niệm xứ. Tất cả chúng sinh đều có ba thứ phá phiền não rồi nhiên hậu được thấy nhất xiển đề. Phá nhất xiển đề, rồi nhiên hậu được mười lực, bốn vô sở úy, đại Bi, ba niệm xứ. Do nghĩa này nên ta thường tuyên nói, tất cả chúng sinh đều có Phật tính.

Này thiện nam tử! Mười hai nhân duyên thì tất cả chúng sinh đều chung có cả bên trong lẫn bên ngoài. Những gì là mười hai? Phiền não quá khứ gọi là vô minh, nghiệp quá khứ thì gọi là hành. Trong đời hiện tại khi bắt đầu thọ thai thì gọi là Thức. Vào thai mà năm phần tư căn chưa đủ thì gọi là Danh Sắc. Ðầy đủ bốn căn chưa gọi là Xúc thì đó gọi là Lục Nhập. Chưa phân biệt khổ vui thì đó gọi là Xúc. Nhiễm tập một ái thì gọi là Thọ. Quen gần năm dục thì đó gọi là Ái. Tham cầu trong, ngoài thì đó gọi là Thủ. Vì việc trong ngoài mà khởi lên nghiệp thân, miệng, ý thì gọi là Hữu. Thức của đời hiện tại gọi là vị lai Sinh. Danh sắc, lục nhập, xúc, thọ hiện tại gọi là Lão bệnh tử đời vị lai. Ðó gọi là mười hai nhân duyên. Này thiện nam tử! Tất cả chúng sinh tuy có mười hai nhân duyên như vậy nhưng hoặc có loại chưa đủ. Như khi Ca la la chết thì không mười hai, từ sinh cho đến chết, được kể đủ mười hai. Chúng sinh cõi sắc không ba thứ thọ, ba thứ xúc, ba thứ ái, không có lão bệnh thì cũng được gọi là đầy đủ mười hai. Chúng sinh cõi Vô Sắc không sắc… cho đến không có lão tử mà cũng được gọi là đầy đủ mười hai. Do họ nhất định được nên gọi là chúng sinh bình đẳng có đủ mười hai nhân duyên. Này thiện nam tử! Phật tính cũng vậy, tất cả chúng sinh nhất định sẽ được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vậy nên ta nói rằng, tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Này thiện nam tử! Núi Tuyết có thứ cỏ tên là Nhẫn Nhục, trâu ăn vào thì cho ra đề hồ. Ở đó lại có thứ cỏ khác, trâu nếu ăn thì không có đề hồ. Tuy không đề hồ nhưng chẳng thể nói rằng, trong núi Tuyết không có cỏ Nhẫn Nhục. Phật tính cũng vậy, núi Tuyết là gọi Như Lai, cỏ Nhẫn Nhục là gọi Ðại Niết Bàn, cỏ khác là mười hai bộ Kinh. Chúng sinh nếu có thể thính thọ, hỏi han, gợi mở Ðại Bát Niết Bàn thì thấy Phật tính. Trong mười hai bộ Kinh, tuy chẳng nghe nói có nhưng chẳng thể nói rằng, không Phật tính vậy.

Này thiện nam tử! Phật tính là cũng sắc, phi sắc, phi sắc phi phi sắc, cũng tướng, phi tướng, phi tướng phi phi tướng, cũng nhất (một), phi nhất, phi nhất phi phi nhất, phi thường, phi đoạn, phi phi thường, phi phi đoạn, cũng có, cũng không, chẳng phải có, chẳng phải không, cũng là tận, phi tận, phi tận phi phi tân, cũng nhân, cũng quả, chẳng phải nhân, chẳng phải quả, cũng là nghĩa, phi nghĩa, phi nghĩa phi phi nghĩa, cũng là tự (chữ), phi tự, phi tự phi phi tự. Sao gọi là sắc?  Thân Kim Cương. Sao gọi là phi sắc? Mười tám pháp phi sắc bất cộng. Sao gọi là phi sắc phi phi sắc? Sắc phi sắc không có định tướng. Sao gọi là tướng. Ba mươi hai tướng. Sao gọi là  phi tướng? Tướng của tất cả chúng sinh chẳng hiện ra. Sao gọi là phi tướng phi phi tướng? Tướng chẳng phải tướng chẳng quyết định. Sao gọi là nhất? Tất cả chúng sinh đều Nhất thừa. Sao gọi là phi nhất? Nói về Ba Thừa. Sao gọi là phi nhất phi phi nhất? Vô số pháp. Sao gọi là phi thường? Từ nhân duyên mà thấy. Sao gọi là đoạn? Lìa khỏi đoạn kiến. Sao gọi là phi phi thường, phi phi đoạn? Không thỉ chủng vậy. Sao gọi là hữu? Tất cả chúng sinh đều là hữu. Sao gọi là vô? Từ phương tiện khéo mà được thấy. Sao gọi là phi hữu phi vô? Tính của hư không vậy. Sao gọi là tận? Ðược Thủ Lăng Nghiêm tam muội. Sao gọi là phi tận? Vì tam muội ấy thường vậy. Sao gọi là phi tận phi phi tận? Tất cả tướng tận đoạn hết. Sao gọi là nhân? Vì rõ nhân vậy! Sao gọi là quả? Vì quả quyết định vậy. Sao gọi là phi nhân, phi quả? Vì nhân quả ấy thường. Sao gọi là nghĩa? Có thể nhiếp lấy hết nghĩa không ngại. Sao gọi là phi nghĩa? Chẳng thể nói vậy. Sao gọi là phi nghĩa phi phi nghĩa? Rốt ráo rỗng không vậy. Sao gọi là Tự (chữ)? Có danh xưng vậy. Sao gọi là phi tự? Tên không tên vậy. Sao gọi là phi tự phi phi tự? Ðạon dứt tất cả tự. Sao gọi là phi khổ phi lạc? Ðoạn dứt tất cả Thọ. Sao gọi là phi ngã? Chưa có thể đủ được tám tự tại. Sao gọi là phi phi ngã? Do ngã ấy thường. Sao gọi là phi ngã phi phi ngã? Chẳng tác, chẳng thọ vậy. Sao gọi là không? Ðệ nhất nghĩa không. Sao gọi là phi không? Do không ấy thường vậy. Sao gọi là phi không phi phi không? Có thể vì thiện pháp tạo tác chủng tử vậy. Này thiện nam tử! Nếu có người có thể suy nghĩ  giải rõ nghĩa của Kinh Ðại Niết Bàn như vậy thì phải biết người này thấy được Phật tính. Phật tính chẳng thể nghĩ bàn mới chính là cảnh giới của các đức Phật Như Lai, chẳng phải là điều hiểu biết của các Thanh Văn, Duyên Giác. Này thiện nam tử! Phật tính chẳng phải là ấm, giới, nhập, chẳng phải vốn không nay có, chẳng phải đã có rồi trở lại không, từ nhân duyên thiện mà chúng sinh được thấy. Ví như sắt đen cho vào lửa thì đỏ, lấy ra lạnh thì trở lại đen, màu đen này chẳng phải bên trong, chẳng phải bên ngoài mà do nhân duyên nên có Phật tính cũng vậy, lửa phiền não diệt thì tất cả chúng sinh được nghe thấy. Này thiện nam tử! Như hạt giống diệt rồi thì mầm được sinh mà tính của mầm này chẳng phải bên trong, chẳng phải bên ngoài… cho đến hoa quả cũng lại như vậy, từ duyên nên có. Này thiện nam tử! Knh điển Ðại Niết Bàn vi diệu này thành tựu đầy đủ vô lượng công đức. Phật tính cũng vậy, đều là sự thành tựu vô lượng vô biên công đức.

Lúc bấy giờ, Ðại Bồ tát Sư Tử Hống nói rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Bồ tát thành tựu đầy đủ bao nhiêu pháp để được thấy Phật tính mà chẳng rõ ràng? Các đức Phật thành tựu bao nhiêu pháp mà được thấy rõ ràng?

– Này thiện nam tử! Bồ tát thành tựu đầy đủ mười pháp tuy thấy Phật tính mà chẳng sáng tỏ. Những gì là mười? Một là thiểu dục, hai là tri túc, ba là tịch tịnh, bốn là tinh tấn, năm là chánh niệm, sáu là chánh định, bảy là chánh tuệ, tám là giải thoát, chín là khen ngợi giải thoát, mười là dùng Ðại Niết Bàn giáo hóa chúng sinh!

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Thiểu dục và tri túc có gì sai biệt?

– Này thiện nam tử! Thiểu dục là chẳng cầu, chẳng lấy. Tri túc là khi được ít lòng chẳng hối hận. Thiểu dục là ít có sự ham muốn. Tri túc là chỉ vì pháp sự, lòng chẳng sầu não. Này thiện nam tử! Dục có ba thứ, một là ác dục, hai là đại dục, ba là dục dục. Ác dục là nếu có Tỳ kheo, lòng sinh tham dục muốn làm thượng thủ của tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng Tăng đuổi theo sau mình, khiến cho những bốn bộ chúng đều cúng dường, cung kính, khen ngợi, tôn trọng mình, mình trước vì bốn chúng nói pháp đều khiến cho tất cả tin thọ lời dạy của mình, cũng muốn khiến cho quốc vương, đại thần, trưởng giả đều cung kính mình, khiến cho mình được nhiều y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược, nhà cửa đẹp đẽ… là dục của sinh tử. Ðó gọi là ác dục. Sao gọi là Ðại dục? Nếu có Tỳ kheo sinh ra dục tâm: “Làm sao sẽ khiến cho bốn bộ chúng đều biết ta được Sơ trụ địa… cho đến Thập Trụ địa? Ðược Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác? Ðược quả A la hán cho đến quả Tu đà hoàn? Ta được Tứ thiền cho đến vô ngại trí?” để vì lợi dưỡng. Ðó gọi là Ðại Dục. Dục dục là nếu có Tỳ kheo muốn sinh làm Phạm thiên, Ma thiên, Tự Tại thiên, Chuyển Luân Tánh Vương, hoặc Sát Lợi, hoặc Bà la môn đều được tự tại là vì lợi dưỡng nên đó gọi là dục dục. Nếu chẳng bị sự hại của ba thứ ác dục này thì đó gọi là thiểu dục. Dục là gọi hai mươi lăm thứ yêu thích (ái). Không có hai mươi lăm thứ yêu thích như vậy thì đó gọi là thiểu dục. Chẳng cầu việc sở dục chưa đến thì đó gọi là thiểu dục. Ðược mà chẳng đắm trước thì đó gọi là tri túc. Chẳng cầu cung kính, đó gọi là thiểu dục. Ðược chẳng tích tụ, đó gọi là tri túc. Này thiện nam tử! Cũng có thiểu dục chẳng gọi là tri túc, có tri túc chẳng gọi là thiểu dục, cũng có thiểu dục cũng tri túc, có chẳng tri túc chẳng thiểu dục. Thiểu dục là gọi Tu đà hoàn, tri túc là gọi Bích Chi Phật, thiểu dục tri túc là gọi A la hán, chẳng thiểu dục chẳng tri túc là gọi Bồ tát. Này thiện nam tử! Thiểu dục tri túc lại có hai thứ, một là thiện, hai là chẳng thiện. Chẳng thiện là gọi phàm phu. Thiện là thánh nhân Bồ tát. Tất cả Thánh nhân tuy được đạo quả nhưng chẳng tự xưng nói. Chẳng xưng nói nên lòng chẳng  não hận. Ðó gọi là tri túc. Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát tu tập Kinh Ðại Thừa Ðại Niết Bàn muốn thấy Phật tính nên tu tập thiểu dục tri túc. Sao gọi là tịch tịnh? Tịch tịnh có hai, một là tâm tịch tịnh, hai là thân tịch tịnh. Thân tịch tịnh thì nhất định chẳng tạo tác ba thứ ác của thân. Tâm tịch tịnh thì cũng chẳng tạo tác ba thứ ác của ý. Ðó gọi là thân tâm tịch tịnh. Thân tịch tịnh là chẳng thân cận bốn chúng, chẳng can dự vào sự nghiệp sở hữu của bốn chúng. Tâm tịch tịnh là nhất định chẳng tu tập tham dục, sân nhuế, ngu si. Ðó gọi là thân tâm tịch tịnh. Hoặc có Tỳ kheo, thân tuy tịch tịnh mà tâm chẳng tịch tịnh, có tâm tịch tịnh mà thân chẳng tịch tịnh, có thân tâm tịch tịnh, lại có thâm tâm đều chẳng tịch tịnh. Thân tịch tịnh tâm chẳng tịch tịnh là, hoặc có Tỳ kheo ngồi thiền chỗ tịch tịnh, xa lìa bốn chúng mà tâm thường tích tập tham dục, sân nhuế, ngu si. Ðó gọi là thân tịch tịnh, tâm chẳng tịch tịnh. Tâm tịch tịnh thân chẳng tịch tịnh là, hoặc có Tỳ kheo thân cận bốn chúng, quốc vương, đại thần mà đoạn trừ tham, sân, si. Ðó gọi là tâm tịch tịnh thân chẳng tịch tịnh. Thân tâm tịch tịnh là gọi các đức Phật, Bồ tát. Thân tâm chẳng tịch tịnh là gọi các phàm phu. Vì sao vậy? Vì người phàm phu tuy thân tâm có tịch tịnh nhưng chẳng thể quan sát sâu vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Do nghĩa này nên người phàm phu chẳng thể tịch tịnh nghiệp của thân, miệng, ý. Bọn nhất xiển đề phạm bốn trọng cấm, tạo nên tội ngũ nghịch…. người như vậy cũng chẳng được gọi là thân tâm tịch tịnh. Sao gọi là tinh tấn? Nếu có Tỳ kheo muốn khiến cho nghiệp thân, miệng, ý thanh tịnh, xa lìa tất cả các nghiệp bất thiện, tu tập tất cả các nghiệp thiện thì đó gọi là tinh tấn. Người đủ tinh tấn thì luôn nghĩ đến sáu chỗ là Phật, Pháp, Tăng, Giới, Thí, Trời. Ðó gọi là Chánh niệm. Người đủ Chánh niệm thì sở đắc tam muội. Ðó gọi là Chánh định. Người đủ Chánh định thì xem thấy các pháp giống như hư không. Ðó gọi là Chánh tuệ. Người đủ Chánh tuệ thì xa lìa các kết của tất cả phiền não. Ðó gọi là giải thoát. Người được giải thoát vì các chúng sinh khen ngợi giải thoát rằng, giải thoát này thường hằng bất biến. Ðó gọi là tán thán giải thoát. Giải thoát tức là Vô Thượng Ðại Bát Niết Bàn. Niết Bàn tức là lửa các kết phiền não diệt. Lại, Niết Bàn gọi là nhà cửa. Vì sao vậy? Vì có thể ngăn chận gió mưa phiền não ác. Lại, Niết Bàn gọi là bến bãi. Vì sao vậy? Vì bốn dòng sông dữ chẳng thể cuốn trôi. Những gì là bốn? Một là Dục bạo, hai là Hữu bạo, ba là Kiến bạo, bốn là Vô minh bạo (bạo ác, dữ). Vậy nên Niết Bàn gọi là bến bãi. Lại, Niết Bàn gọi là Về rốt ráo. Vì sao vậy? Vì có thể được tất cả niềm vui rốt ráo. Nếu có Ðại Bồ tát thành tựu đầy đủ mười pháp như vậy thì tuy thấy Phật tính mà chẳng rõ ràng. Lại nữa, này thiện nam tử! Người xuất gia có bốn thứ bệnh nên chẳng được bốn quả Sa môn. Những gì là bốn bệnh? Ðó là bốn ác dục, một là y dục, hai là thực dục, ba là ngọa cụ dục, bốn là hữu dục. Ðó gọi là bốn ác dục. Bốn bệnh xuất gia này có bốn thứ thuốc hay có thể trị liệu chúng. Ðó là, Phấn tảo y có thể trị liệu Tỳ kheo bị bệnh y ác dục, Khất thực có thể phá bệnh thực ác dục, thọ hạ (ở dưới cây) có thể phá bệnh ngọa cụ ác dục, thân tâm tịch tịnh có thể phá trừ Tỳ kheo bị bệnh hữu ác dục. Nhờ bốn thứ thuốc này trừ được bốn bệnh đó. Bốn thứ thuốc này gọi là Thánh hạnh. Những hạnh Thánh như vậy được gọi là Thiểu dục tri túc. Tịch tịnh thì có bốn niềm vui. Những gì là bốn? Một là niềm vui xuất gia, hai là niềm vui tịch tịnh, ba là niềm vui vĩnh diệt, bốn là niềm vui rốt ráo. Ðược bốn niềm vui này gọi là Tịch Tịnh. Ðủ bốn tinh tấn nên gọi là Tinh Tấn. Ðủ bốn niệm xứ nên gọi là Chánh niệm. Ðủ bốn thiền nên gọi là Chánh định. Thấy bốn Thánh Thật nên gọi là Chánh tuệ. Ðoạn trừ vĩnh viễn tất cả phiền não kết nên gọi là giải thoát. Quở trách tất cả lỗi phiền não nên gọi là khen ngợi giải thoát. Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát an trụ đầy đủ mười pháp như vậy thì tuy thấy Phật tính mà chẳng rõ ràng. Lại nữa, này thiện nam tử! Ðại Bồ tát nghe Kinh này rồi thì gần gũi tu tập, xa lìa tất cả việc của thế gian. Ðó gọi là thiểu dục. Ðã xuất gia rồi thì chẳng sinh lòng hối hận. Ðó gọi là Tri túc. Ðã tri túc rồi thì gần chỗ không nhàn, xa lìa ồn ào, rối loạn. Ðó gọi là tịch tịnh. Người chẳng biết tri túc thì chẳng ưa không nhàn. Phàm người tri túc thì thường ưa không tịch. Họ ở chỗ thường tác khởi ý niệm này: “Tất cả thế gian đều cho là ta được đạo quả Sa môn, nhưng ta nay thật ra chưa có thể được. Nay ta làm sao mà lừa dối, mê hoặc mọi người được?” Tác khởi ý niệm này rồi, họ tinh cần tu tập đạo quả Sa môn. Ðó gọi là Tinh tấn. Thân cận tu tập Ðại Niết Bàn thì đó gọi là Chánh niệm. Thuận theo thiên hạnh thì đó gọi là Chánh định. An trụ ở định này mà chánh kiến, chánh tri thì đó gọi là Chánh tuệ. Thấy biết chân chính thì có thể được xa lìa sự trói buộc của phiền não kết. Ðó gọi là giải thoát. Bồ tát Thập Trụ vì chúng sinh nên xưng nói tốt Niết Bàn thì đó gọi là khen ngợi Giải thoát. Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát an trụ đầy đủ mười pháp như vậy thì tuy thấy Phật tính mà chẳng rõ ràng. Lại nữa, này thiện nam tử! Luận về thiểu dục thì như có Tỳ kheo trụ ở chỗ không tịch, ngồi ngay ngắn, chẳng nằm. Hoặc Tỳ kheo trụ ở gốc cây, hoặc tại nghĩa địa, hoặc tại chỗ trống trải, tùy theo chỗ đất có cỏ mà ngồi lên, xin đồ ăn mà ăn, tùy theo đồ ăn xin được mà cho là đủ, hoặc một lần ngồi ăn chẳng quá một món ăn, chỉ cất giữ ba áo mà là áo phấn tảo cũ mục. Ðó gọi là thiểu dục. Ðã làm việc này mà lòng chẳng sinh ra hối hận thì đó gọi là Tri túc. Tu Không tam muội, đó gọi là Tịch tịnh. Ðược bốn quả rồi mà đối với tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác chẳng ngưng nghỉ thì đó gọi là Tinh tấn. Lòng luôn luôn suy nghĩ, Như Lai thường hằng không có biến dịch thì đó gọi là Chánh niệm. Tu tám Giải thoát thì đó gọi là Chánh định. Ðược bốn vô ngại thì đó gọi là Chánh tuệ. Xa lìa bảy lậu thì đó gọi là Giải thoát. Xưng nói tốt Niết Bàn không có mười tướng thì gọi là khen ngợi Giải thoát. Mười tướng là sinh, lão, bệnh, tử, sắc, thanh, hương, vị, xúc, vô thường. Xa lìa mười tướng thì gọi là Ðại Niết Bàn. Này thiện nam tử! Ðó gọi là Ðại Bồ tát an trụ đầy đủ mười pháp như vậy, tuy thấy Phật tính mà chẳng rõ ràng. Lại nữa, này thiện nam tử! Vì nhiều dục nên gần gũi quốc vương, đại thần, trưởng giả, Sát Lợi, Bà la môn, Tỳ xá, Thủ đà và tự xưng là: “Ta được quả Tu đà hoàn… cho đến quả A la hán”. Vì lợi dưỡng nên đi, đứng, ngồi, nằm thậm chí cả khi đi đại, tiểu tiện lợi mà nếu thấy đàn việt còn hành lễ cung kính, tiếp dẫn, nói năng. Phá ác dục thì gọi là Thiểu dục. Tuy chưa có thể phá hoại hết các kết phiền não mà có thể đồng hành xứ với Như Lai. Ðó gọi là tri túc. Này thiện nam tử! Hai pháp như vậy mới là nhân duyên gần của Niệm Ðịnh thường được sự khen ngợi của người đồng học theo tông phái của thầy. Ta cũng thường ở khắp nơi nơi trong Kinh, xưng nói tốt đẹp, khen ngợi hai pháp như vậy. Nếu người có thể đầy đủ hai pháp này thì được gần với cửa Ðại Niết Bàn và năm thứ vui. Ðó gọi là tịch tịnh. Người kiên trì giới thì gọi là tinh tấn. Người có tàm quí thì gọi là Chánh niệm. Chẳng thấy tâm tướng thì gọi là Chánh định. Chẳng cầu nhân duyên tính tướng các pháp thì gọi là Chánh tuệ. Không có tướng thì phiền não đoạn trừ. Ðó gọi là giải thoát. Xưng nói tốt đẹp Kinh Ðại Niết Bàn như vậy thì gọi là tán thán giải thoát. Này thiện nam tử! Ðó gọi là Ðại Bồ tát an trụ ở mười pháp, tuy thấy Phật  tính mà chẳng rõ ràng. Này thiện nam tử! Như lời ông hỏi, Bồ tát Thập Trụ dùng mắt gì, tuy thấy Phật tính mà chẳng tỏ rõ? Các đức Phật Thế Tôn dùng mắt gì mà thấy Phật tính được sáng tỏ? Này thiện nam tử! Các Bồ tát đó dùng tuệ nhãn thấy nên chẳng được sáng tỏ. Chư Phật dùng Phật nhãn thấy nên được sáng tỏ. Vì Bồ Ðề hạnh thì chẳng tỏ rõ, nếu không có hạnh thì được tỏ rõ. Trụ ở Thập Trụ nên tuy thấy mà chẳng rõ, chẳng trụ chẳng đi thì được tỏ rõ. Nhân trí tuệ của Ðại Niết Bàn nên thấy chẳng tỏ rõ. Các đức Phật Thế Tôn đoạn trừ nhân quả nên thấy rõ ràng. Nhất thiết giác (hiểu biết hết tất cả) thì gọi là Phật tính. Bồ tát Thập Trụ chẳng được gọi là Nhất Thiết Giác. Vậy nên Bồ tát đó tuy thấy mà chẳng sáng tỏ. Này thiện nam tử! Thấy có hai thứ, một là mắt thấy, hai là nghe thấy. Các đức Phật Thế Tôn mắt thấy Phật tính như xem quả A ma lặc ở trong lòng bàn tay. Bồ tát Thập Trụ nghe thấy Phật tính nên chẳng rõ ràng. Bồ tát Thập Trụ chỉ có thể tự biết nhất định được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác mà chẳng thể biết tất cả chúng sinh đều có Phật tính.

*********

– Này thiện nam tử ! Lại có mắt thấy, các đức Phật Như Lai và Bồ tát Thập Trụ mắt thấy Phật tính. Lại có nghe thấy, tất cả chúng sinh cho đến Bồ tát Cữu Ðịa nghe thấy Phật tính. Bồ tát nếu nghe tất cả chúng sinh đều có Phật tính mà lòng chẳng sinh ra niềm vui thì chẳng gọi là nghe thấy.

Này thiện nam tử ! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân muốn thấy Như Lai thì cần phải tu tập mười hai bộ Kinh, thọ trì, đọc tụng, sao chép, giải nói.

Ðại Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Tất cả chúng sinh chẳng thể được biết tâm tướng của Như Lai thì phải quan sát thế nào mà được biết vậy ?

– Này thiện nam tử ! Tất cả chúng sinh thật chẳng thể biết tâm tướng của Như Lai ! Nếu muốn quan sát mà được biết thì có hai nhân duyên, một là mắt thấy, hai là nghe thấy. Nếu thấy thân nghiệp sở hữu của Như Lai thì phải biết chính đó là Như Lai. Ðó gọi là mắt thấy. Nếu quan sát khẩu nghiệp sở hữu của Như Lai thì phải biết chính đó là Như Lai. Ðó gọi là nghe thấy. Nếu thấy sắc mạo không cùng ngang bằng với tất cả chúng sinh thì phải biết chính đó là Như Lai. Ðó gọi là mắt thấy. Nếu nghe âm thanh vi diệu tối thắng chẳng đồng với âm thanh sở hữu của chúng sinh thì phải biết đó là Như Lai. Ðó gọi là nghe thấy. Nếu thấy thần thông sở tác của Như Lai là vì chúng sinh hay vì lợi dưỡng. Nếu vì chúng sinh chẳng vì lợi dưỡng thì phải biết chính đó là Như Lai. Ðó gọi là mắt thấy. Nếu khi quan sát Như Lai dùng trí Tha Tâm quan sát chúng sinh là để vì lợi dưỡng hay vì chúng sinh nói pháp. Nếu vì chúng sinh, chẳng vì lợi dưỡng thì phải biết chính là Như Lai. Ðó gọi là nghe thấy. Nếu quan sát sao gọi là Như Lai mà thọ thân này ? Vì sao thọ thân? Vì ai thọ thân ? Ðó gọi là mắt thấy. Nếu quan sát Như Lai, sao gọi là nói pháp ? Vì sao nói pháp ? Vì ai nói pháp ? Ðó gọi là nghe thấy. Dùng nghiệp ác thân gia hại mà chẳng sân hận thì phải biết đó là Như Lai. Ðó gọi là mắt thấy. Dùng nghiệp ác miệng gia hại mà chẳng sân hận thì phải biết đó là Như Lai. Ðó gọi là nghe thấy. Nếu thấy khi Bồ tát mới sinh, ở mười phương diện đều đi bảy bước, đại tướng quỉ thần Ma Ni Bạt Ðà, Phú Na Bạt Nan Ðà cầm tràng phan, bảo cái, chấn động vô lượng vô biên thế giới, ánh sáng vàng chói sáng cùng khắp trong hư không.Vua rồng Nan Ðà và Bạt Nan Ðà dùng sức thần thông tắm rửa thân Bồ tát, hình tượng chư thiên nghênh đón, lễ bái, tiên A Từ Ðà chắp tay cung kính, tuổi trẻ bỏ dục như nhổ bỏ nước bọt, chẳng bị sự mê hoặc của thế lạc, xuất gia tu đạo, ưa thích nhàn tịch, vì phá tà kiến nên sáu năm khổ hạnh, đối với các chúng sinh bình đẳng không hai, lòng thường ở tại định, trước không tán loạn, tướng tốt nghiêm lệ, trang sức thân mình, chỗ ngồi đi qua gò đống đều bằng phẳng, y phục rời thân bốn tấc chẳng rơi, khi đi nhìn thẳng, chẳng quay nhìn trái, phải, vật ngài đã ăn là vật, chỗ ngồi đứng dậy cỏ chẳng động chẳng rối, vì điều phục chúng sinh nên đến nói pháp mà lòng không kiêu mạn… Ðó gọi là mắt thấy. Nếu nghe Bồ tát đi bảy bước đã xướng lên rằng : “Thân này của ta hôm nay là biên sau cùng”. Nghe tiên A Tư Ðà chắp tay nói rằng : “Ðại vương phải biết, thái tử Tất Ðạt nhất định được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, nhất định chẳng ở nhà làm Chuyển Luân Vương ! Vì sao vậy ? Vì tướng sáng tỏ, còn tướng của Chuyển Luân Thánh Vương chẳng sáng tỏ. Thân tướng của thái tử Tất Ðạt sáng tỏ. Vậy nên nhất định được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác”. Nghe Bồ tát thấy lão, bệnh, tử nói rằng : “Tất cả chúng sinh rất đáng thương xót ! Họ thường cùng với sanh, già, bệnh, chết như vậy chung đuổi theo nhau mà chẳng thể quan sát ! Họ thường đi với khổ, ta sẽ đoạn trừ !” Từ tiên nhân ngũ thông A La La thọ Vô tưởng định, sau khi đã thành tựu rồi thì nói rằng: “Ðịnh ấy chẳng phải !” Từ tiên nhân Uất Ðà thọ phi hữu tưởng phi vô tưởng định, khi đã thành tựu rồi thì nói rằng : “Chẳng phải Niết Bàn mà là pháp sinh tử !” Tu sáu năm khổ hạnh không có sự thu hoạch, liền nói rằng : “Tu hạnh khổ này rỗng không không sở đắc. Nếu là thật thì ta nên được. Nhưng do hư vọng nên ta không sở đắc. Ðó gọi là tà thuật, chẳng phải chánh đạo vậy”. Bồ tát đã thành đạo rồi, Phạm thiên khuyến thỉnh : “Nguyện xin đức Như Lai vì chúng sinh mở rộng cam lộ, nói pháp Vô Thượng”. Ðức Phật nói rằng : “Này Phạm vương ! Tất cả chúng sinh thường bị sự ngăn che của phiền não, chẳng thể thọ lời nói chánh pháp của ta !” Phạm vương lại lại nói rằng : “Thưa đức Thế Tôn ! Tất cả chúng sinh thường có ba loại là lợi căn, trung căn, độn căn. Hạng lợi căn có thể thọ, nguyện xin ngài vì họ diễn nói !” Ðức Phật dạy rằng : “Này Phạm vương! Hãy lắng nghe ! Lắng nghe ! Ta nay sẽ vì tất cả chúng sinh mở cửa cam lồ”. Phật liền ở nước Ba La Nại, chuyển bánh xe chánh pháp, tuyên nói trung đạo. Tất cả chúng sinh chẳng phải phá các kết, chẳng phải chẳng thể phá. Chẳng phải phá, chẳng phải chẳng phá nên gọi là Trung đạo. Chẳng độ chúng sinh, chẳng phải chẳng độ thì đó gọi là Trung đạo. Chẳng phải tất cả thành, cũng chẳng phải chẳng thành thì đó gọi là Trung đạo. Phàm có lời nói mà chẳng tự nói rằng thầy, chẳng nói rằng đệ tử thì đó gọi là Trung đạo. Nói chẳng vì lợi mà chẳng phải chẳng được quả thì đó gọi là Trung đạo. Chánh ngữ, Thật ngữ, Thời ngữ, Chân ngữ, nói chẳng phát ra trống rỗng mà vi diệu đệ nhất… Những pháp như vậy thì gọi là nghe thấy. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân muốn thấy Như Lai thì nên phải nương vào hai thứ nhân duyên này !

Lúc bấy giờ, Ðại Bồ tát Sư Tử Hống bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Như trước ngài đã nói, quả Am La dụ cho bốn thứ người.v.v… Có người hành động tinh tế mà lòng chẳng chính thật, có người lòng tinh tế mà hành động chẳng chánh thật; có người lòng tinh tế mà hành động cũng chánh thật, có người lòng chẳng tinh tế mà hành động cũng chẳng chánh thật. Hai thứ người đầu này làm sao có thể biết ? Như lời đức Phật nói, chỉ nương vào hai thứ nhân duyên đó chẳng thể được biết.

Ðức Phật dạy rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Quả Am La dụ cho hai thứ người.v.v… thì thật khó có thể biết. Do khó biết nên trong Kinh ta nói rằng, phải cùng cộng trụ. Nếu trụ mà chẳng biết thì phải cùng ở lâu. Ở lâu mà chẳng biết thì phải dùng trí tuệ. Trí tuệ mà chẳng biết thì phải quan sát sâu. Do quan sát sâu nên biết kẻ trì giới và người phá giới. Này thiện nam tử ! Ðủ bốn việc này : Cộng trụ, ở lâu, trí tuệ, quan sát, nhiên hậu được biết trì giới hay phá giới. Này thiện nam tử ! Giới có hai thứ, người trì cũng có hai thứ, một là cứu cánh, hai là chẳng cứu cánh. Có người do nhân duyên nên thọ trì cấm giới. Người trí phải quan sát, người này trì giới là vì lợi dưỡng hay là cứu cánh trì? Này thiện nam tử ! Giới cấm của Như Lai thì không có nhân duyên. Vậy nên được gọi là cứu cánh giới. Do nghĩa này nên Bồ tát tuy bị sự tổn hại của các chúng sinh ác nhưng sinh ra sân si. Vậy nên Như Lai được gọi là thành tựu trì giới rốt cùng, trì giới cứu cánh. Này thiện nam tử ! Một thuở trước đây, ông Xá Lợi Phất và năm trăm đệ tử đều chung dừng trụ ở đại thành Chiêm Bà của nước Ma Dà Ðà, có người thợ săn truy đuổi một con bồ câu. Con bồ câu này kinh sợ đến núp bóng ông Xá Lợi Phất mà còn run lẩy bẩy như cây chuối. Nó đến núp trong bóng của ta thì thân tâm yên ổn, nỗi kinh sợ được trừ khỏi. Vậy nên phải biết rằng, Như Lai Thế Tôn rốt ráo trì giới, thậm chí bóng của thân còn có sức lực này. Này thiện nam tử ! Chẳng cứu cánh giới còn chẳng thể được Thanh Văn, Duyên Giác, huống gì là có thể được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Lại có hai thứ, một là vì lợi dưỡng, hai là vì chánh pháp. Vì lợi dưỡng nên thọ trì cấm giới thì phải biết giới này chẳng thấy Phật tính và cả Như Lai. Tuy chỉ nghe danh Phật tính và Như Lai thôi mà còn chẳng được danh để nghe thấy. Nếu vì chánh pháp thọ trì cấm giới thì phải biết giới này có thể thấy Phật tính và cả Như Lai. Ðó gọi mắt thấy, cũng gọi là nghe thấy. Lại có hai thứ, một là rễ sâu khó nhổ, hai là rễ cạn dễ lay (động). Nếu có thể tu tập Không, Vô tướng, Vô nguyện thì đó gọi là rễ sâu khó nhổ. Nếu chẳng tu tập ba tam muội này thì tuy lại tu tập vì hai mươi lăm cõi hữu thì đó gọi là rễ cạn dễ lay. Lại có hai thứ, một là vì tự thân, hai là vì chúng sinh. Vì chúng sinh thì có thể thấy Phật tính và cả Như Lai. Người trì giới lại có hai thứ, một là tính tự có thể trì, hai là cần sự dạy bảo của người khác. Nếu thọ giới rồi mà trải qua vô lượng đời, ban đầu chẳng lỗi lầm gì, rồi hoặc  gặp đất nước ác, gặp ác tri thức, lúc ác, đời ác, nghe pháp tà ác, ở chung với tà kiến… Bấy giờ tuy không thọ giới pháp, vẫn tu trì như cũ, không có sự hủy phạm. Ðó gọi là tính tự có thể trì. Nếu gặp sư tăng, bạch bốn yết ma, rồi nhiên hậu được giới. Tuy được giới rồi nhưng cần nhờ cậy Hòa Thượng, các thầy, bạn lành đồng học dạy bảo dỗ dành mới biết tấn chỉ (tiến dừng), nghe pháp, nói pháp để hoàn bị các oai nghi. Ðó gọi là cần sự dạy bảo của người khác. Này thiện nam tử ! Tính có thể trì là mắt thấy Phật tính và cả Như Lai, cũng gọi là nghe thấy. Giới lại có hai, một là Thanh Văn giới, hai là Bồ tát giới. Từ lúc mới phát tâm cho đến khi được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ðó gọi là Bồ tát giới. Như từ quan sát xương trắng cho đến chứng được quả A la hán. Ðó gọi là Thanh Văn giới. Nếu có người thọ trì Thanh Văn giới thì phải biết người đó chẳng thấy Phật tính và cả Như Lai. Nếu có người thọ trì Bồ tát giới thì phải biết người đó sẽ được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, có thể thấy Phật tính, Như Lai, Niết Bàn !

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Vì nhân duyên gì mà thọ trì cấm giới ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Vì lòng chẳng hối vậy ! Vì sao chẳng hối ? Vì thọ lạc vậy ! Vì sao thọ lạc ? Vì viễn ly (xa lìa) vậy ! Vì sao viễn ly ? Vì yên ổn vậy ! Vì sao yên ổn ? Vì Thiền định vậy ! Vì sao Thiền định ? Vì tri kiến chân thật vậy ! Vì sao vì tri kiến chân thật ? Vì thấy những tội lỗi hoạn nạn của sinh tử ! Vì sao vì thấy lỗi hoạn của sinh tử ? Vì lòng chẳng tham trước ! Vì sao vì lòng chẳng tham trước ? Vì được giải thoát ! Vì sao vì được giải thoát ? Vì được Vô Thượng Ðại Niết Bàn ! Vì sao vì được Ðại Niết Bàn? Vì được pháp Thường Lạc Ngã Tịnh. Vì sao vì được Thường Lạc Ngã Tịnh ? Vì được chẳng sinh, chẳng diệt. Vì sao vì được chẳng sinh chẳng diệt? Vì thấy Phật tính ! Vậy nên tính Bồ tát tự có thể trì cứu cánh tịnh giới. Này thiện nam tử ! Tỳ kheo trì giới tuy chẳng phát nguyện cầu lòng chẳng hối, nhưng lòng chẳng hối tự nhiên mà được. Vì sao vậy ? Vì pháp tính vậy nên tuy Tỳ kheo trì giới chẳng cầu lạc, viễn ly, yên ổn, thiền định, thật tri kiến, thấy lỗi hoạn sinh tử, lòng chẳng tham trước, giải thoát, Niết Bàn, Thường Lạc Ngã Tịnh, chẳng sinh chẳng diệt, thấy Phật tính mà tự nhiên được. Vì sao vậy ? Vì pháp tính vậy.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu nhân trì giới được quả bất hối (chẳng hối hận), nhân giải thoát được quả Niết Bàn thì Giới không có nhân, Niết Bàn không có quả. Giới nếu không nhân thì gọi là Thường. Niết Bàn không có nhân thì chính là Vô thường. Nếu vậy thì Niết Bàn là vốn không nay có. Nếu là vốn không nay có thì chính là vô thường, giống như thắp đèn. Niết Bàn nếu vậy thì làm sao được gọi là Ngã Lạc Tịnh vậy ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Hay thay ! Hay thay ! Ông đã từng ở vô lượng chỗ Phật, gieo trồng căn lành, mới có thể hỏi Như Lai nghĩa lý sâu như vậy! Này thiện nam tử ! Ông chẳng mất ý niệm xưa mới hỏi được như vậy ! Ta nhớ thuở xa xưa, qua vô lượng kiếp, tại thành Ba La Nại, có đức Phật ra đời hiệu là Thiện Ðắc. Bấy giờ, trong ba ức năm, đức Phật đó diễn nói Kinh Ðại Niết Bàn như vậy. Ta cùng với ông đều ở tại pháp hội đó, ta đã vì việc này mà hỏi han đức Phật đó. Bấy giờ đức Như Lai vì chúng sinh nên chánh thọ tam muội, chưa giải đáp nghĩa này. Hay thay ! Này Ðại sĩ ! Ông mới có thể nhớ nghĩ việc cũ như vậy ! Ông hãy lắng nghe ! Lắng nghe ! Ta sẽ vì ông diễn nói ! Giới cũng có nhân gọi là nghe chánh pháp. Nghe chánh pháp là cũng có nhân gọi là gần bạn lành. Gần bạn lành thì cũng có nhân gọi là tín tâm. Có tín tâm thì cũng có nhân. Nhân có hai thứ, một là nghe pháp, hai suy nghĩ nghĩa. Này thiện nam tử ! Tín tâm là nhân đối với thính pháp. Thính pháp là nhân đối với tín tâm. Hai pháp như vậy cũng là nhân mà cũng là nhân của nhân, cũng là quả mà cũng là quả của quả. Này thiện nam tử ! Ví như bọn ni càn đứng nâng đỡ cái bình, vì nhân quả đắp đổi họ chẳng được lìa nhau. Này thiện nam tử ! Như vô minh duyên hành, hành duyên vô minh. Vô minh, hành này cũng là nhân mà  cũng là nhân của nhân. Chúng cũng là quả mà cũng là quả của quả… cho đến sinh duyên lão tử, lão tử duyên sinh. Sinh, Lão tử này cũng là nhân mà cũng là nhân của nhân. Chúng cũng là quả mà cũng là quả của quả. Này thiện nam tử ! Sinh có thể sinh ra pháp nhưng chẳng thể tự sinh. Chẳng tự sinh nên do sinh mà sinh ra sinh. Sinh ra sinh chẳng tự sinh mà nhờ sinh nên sinh. Vậy nên hai sinh cũng là nhân mà cũng là nhân của nhân. Chúng cũng là quả mà cũng là quả của quả. Này thiện nam tử ! Tín tâm và thính pháp cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Quả này chẳng phải là nhân, gọi là Ðại Niết Bàn thì vì sao gọi là quả ? Là Thượng quả ? Quả của Sa môn ? Quả của Bà la môn ? Ðoạn trừ sinh tử, phá tan phiền não, vậy nên gọi là quả. Bị sự quở trách của các phiền não, vậy nên Niết Bàn gọi là quả. Phiền não thì gọi là tội lỗi của tội lỗi. Này thiện nam tử ! Niết Bàn không nhân mà thể chính là quả. Vì sao vậy ? Vì không sinh diệt, không sở tác, chẳng phải hữu vi, chính là vô vi, thường trụ bất biến, không xứ sở, không chung thỉ. Này thiện nam tử ! Nếu Niết Bàn có nhân thì chẳng được xưng là Niết Bàn. Bàn là nói nhân. Bát Niết là nói Không. Không có nhân nên xưng là Niết Bàn.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Như lời đức Phật nói, Niết Bàn không nhân thì nghĩa này chẳng vậy ! Nếu nói rằng không thì phải hợp sáu nghĩa. Một là rốt ráo không nên gọi đó là không, như tất cả pháp không ngã, không ngã sở. Hai là có lúc không nên gọi đó là không, như người đời nói rằng, sông ao không nước, không có mặt trời, mặt trăng. Ba là ít nên gọi đó là không, như người đời nói rằng, trong đồ ăn ít mặn nên gọi là không mặn, nước uống ít ngọt nên gọi là không ngọt. Bốn là không thọ nhận nên gọi đó là không, như Chiên đà la chẳng thể thọ trì pháp của Bà la môn nên gọi là Không Bà la môn. Năm là thọ pháp ác nên gọi đó là không, như người đời nói rằng, người thọ pháp ác thì chẳng gọi là Sa môn, Bà la môn. Vậy nên gọi là không có Sa môn và Bà la môn. Sáu là chẳng đối nên gọi đó là không. Ví như không trắng thì gọi đó là đen, không có sáng nên gọi đó là vô minh. Thưa đức Thế Tôn ! Niết Bàn cũng vậy, có lúc không nhân nên gọi là Niết Bàn.

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Nay ông đã nói sáu nghĩa như vậy, vì sao ông chẳng dẫn rốt ráo không để dụ cho Niết Bàn mà chọn lấy “có lúc không” vậy ? Này thiện nam tử ! Thể của Niết Bàn là rốt ráo không nhân giống như không ngã và không ngã sở. Này thiện nam tử ! Thế pháp và Niết Bàn nhất định chẳng đối nhau. Vậy nên sáu việc chẳng được làm ví dụ. Này thiện nam tử ! Tất cả các pháp đều không có ngã mà Niết Bàn này chân thật có Ngã. Do nghĩa này nên Niết Bàn không nhân mà thể chính là quả. Nhân này chẳng phải quả mà gọi là Phật tính. Chẳng phải nhân sinh ra nên nhân này chẳng phải quả. Chẳng phải quả của Sa môn nên gọi là chẳng phải quả. Vì sao gọi là nhân ? Vì do rõ nhân vậy ! Này thiện nam tử! Nhân có hai thứ, một là sinh nhân, hai là liễu nhân. Có thể sinh ra pháp thì gọi là sinh nhân. Ðèn có thể làm rõ vật nên gọi là Liễu nhân. Các kết phiền não gọi là nhân sinh, cha mẹ chúng sinh gọi là Liễu nhân. Như hạt lúa gọi là sinh nhân, đất nước, phân.v.v… thì gọi là liễu nhân. Lại có sinh nhân là Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác của sáu Ba la mật. Lại có liễu nhân là Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác của Phật tính. Lai có Liễu nhân là Phật tính của sáu ba la mật. Lại có sinh nhân là Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác của Thủ Lăng Nghiêm tam muội. Lại có Liễu nhân là Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác của tám Chánh đạo. Lại có sinh nhân là sáu Ba la mật của tín tâm.

Bồ tát Sư Tử Hống nói rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Như lời đức Phật nói, thấy đối với Như Lai và cả Phật tính là nghĩa làm sao ? Thưa đức Thế Tôn ! Thân Như Lai không có tướng mạo, chẳng phải dài, chẳng phải ngắn, chẳng phải trắng, chẳng phải đen, không có địa phương, xứ sở, chẳng ở tại ba cõi, chẳng phải tướng hữu vi, chẳng phải sự nhận biết của nhãn thức thì làm sao có thể thấy Phật tính vậy ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Thân Phật có hai thứ, một là Thường, hai là Vô Thường. Thân vô thường là vì muốn độ thoát tất cả chúng sinh nên phương tiện thị hiện. Ðó gọi là thân mắt thấy. Thân thường là thân giải thoát của Như Lai Thế Tôn, cũng gọi là thân mắt thấy, cũng gọi là thân nghe thấy. Phật tính cũng có hai, một là có thể thấy, hai là chẳng thể thấy. Có thể thấy là Bồ tát Thập Trụ, các đức Phật Thế Tôn. Chẳng thể thấy là tất cả chúng sinh. Mắt thấy là gọi mắt của Bồ tát Thập Trụ, các đức Phật Như Lai Phật tính sở hữu của chúng sinh. Nghe thấy là tất cả chúng sinh, Bồ tát Cữu Trụ nghe có Phật tính. Thân Như Lai lại có hai, một là sắc, hai là chẳng phải sắc. Sắc là Như Lai Giải thoát. Chẳng phải sắc là Như Lai vĩnh viễn đoạn trừ các sắc tướng. Phật tính có hai thứ, một là sắc, hai là chẳng phải sắc. Sắc là Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Chẳng phải sắc là từ phàm phu cho đến Bồ tát Thập Trụ. Bồ tát Thập Trụ thấy Phật tính chẳng rõ ràng nên gọi là chẳng phải sắc. Này thiện nam tử ! Phật tính lại có hai thứ, một là sắc, hai là chẳng phải sắc. Sắc là gọi Phật, Bồ tát. Chẳng phải sắc là tất cả chúng sinh. Sắc thì gọi là mắt thấy. Chẳng phải sắc thì gọi là nghe thấy. Phật tính thì chẳng phải bên trong, chẳng phải bên ngoài. Tuy chẳng phải bên trong, bên ngoài nhưng Phật tính chẳng phải mất hoại nên gọi là chúng sinh đều có Phật tính.

Bồ tát Sư Tử Hống nói rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Như lời đức Phật nói, tất cả chúng sinh đều có Phật tính như trong sữa có lạc (cao sữa). Phật tính của chư Phật và Kim Cương lực sĩ như Ðề hồ trong sạch thì làm sao đức Như Lai nói rằng, Phật tính chẳng phải bên trong, chẳng phải bên ngoài.

Ðức Phật dạy rằng :

–  Này thiện nam tử ! Ta cũng chẳng nói trong sữa có lạc. Lạc từ sữa sinh ra nên nói rằng có lạc (cao sữa).

– Thưa đức Thế Tôn ! Tất cả pháp sanh đều có thời gian tiết độ ?

– Này thiện nam tử ! Khi sữa không lạc cũng không sinh ra tô (váng sữa) sống, tô chín và đề hồ thì tất cả chúng sinh cũng gọi là sữa. Vậy nên ta nói rằng, trong sữa không có lạc. Như trong sữa ấy có thì vì sao chẳng được gọi tên hai thứ như người làm được hai thứ thì có thể nói rằng, thợ vàng sắt ? Khi lạc không sữa, tô sống, tô chín và cả đề hồ thì chúng sinh cũng gọi là lạc chẳng phải sữa, tô sống, tô chín và cả đề hồ… cho đến đề hồ cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Nhân có hai thứ, một là chánh nhân, hai là duyên nhân. Chánh nhân là như sữa sinh ra lạc. Duyên nhân là như men, hơi ấm.v.v… từ sữa sinh ra nên nói rằng, trong sữa mà có tính của lạc.

Bồ tát Sư Tử Hống nói rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu sữa không có tính của lạc thì trong sừng cũng không. Vì sao lạc chẳng từ trong sừng sinh ra vậy ?

– Này thiện nam tử ! Sừng cũng sinh ra lạc ! Vì sao vậy ? Vì ta cũng nói rằng, duyên nhân có hai thứ, một là men, hai là hơi ấm. Tính của sừng ấm nên cũng có thể sinh ra lạc !

Bồ tát Sư Tử Hống nói rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu sừng có thể sinh ra lạc thì người cầu lạc vì sao cầu sữa mà chẳng chọn lấy sừng ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Vậy nên ta nói, chánh nhân và duyên nhân.

Bồ tát Sư Tử Hống nói rằng :

– Nếu giả sử trong sữa vốn không có tính của lạc mà nay mới có thì trong sữa vốn không có cây Am ma la, vì sao nay chẳng sinh ra ? Vì cả hai đều không vậy.

– Này thiện nam tử ! Sữa cũng có thể sinh ra cây Am ma la, nếu dùng sữa tưới thì trong một đêm, tăng trưởng năm thước. Do nghĩa này nên ta nói có hai nhân. Này thiện nam tử ! Nếu tất cả pháp do một nhân sinh ra thì khó có thể được nói rằng, trong sữa vì sao chẳng thể sinh ra cây Am ma la. Này thiện nam tử ! Giống như “Bốn Ðại” vì tất cả sắc mà tạo tác nhân duyên, nhưng sắc đều khác sai biệt, chẳng đồng. Do nghĩa này nên trong sữa chẳng sinh cây Am ma la.

– Thưa đức Thế Tôn ! Như lời đức Phật nói, có hai thứ nhân, chánh nhân và duyên nhân thì chúng sinh và Phật tính là nhân gì đây?

– Này thiện nam tử ! Chúng sinh và Phật tính cũng có hai thứ nhân, một là chánh nhân, hai là duyên nhân. Chánh nhân là gọi các chúng sinh, duyên nhân là gọi sáu Ba la mật.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Con nay quyết định biết sữa có tính của lạc. Vì sao vậy ? Vì con thấy người cầu sữa ở thế gian chỉ chọn lấy sữa nhất định chẳng chọn lấy nước. Vậy nên phải biết sữa có tính của lạc !

– Này thiện nam tử ! Như lời ông hỏi thì nghĩa này chẳng đúng ! Vì sao vậy ? Vì ví như có người muốn thấy hình dáng của mặt mình liền chọn lấy lưỡi dao.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Do nghĩa này nên sữa có tính của lạc. Nếu dao không có hình dáng của mặt thì vì sao người ta chọn lấy dao ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Nếu trong dao này nhất định có hình dáng của mặt thì vì sao điên đảo, đựng đứng thì thấy mặt dài ra, để ngang thì thấy mặt rộng bành ra. Nếu là mặt mình thì vì sao thấy dài ? Nếu là mặt người khác thì sao được xưng rằng, đó là hình dáng mặt của mình. Nếu nhân mặt mình thấy mặt khác thì vì sao chẳng thấy hình dáng mặt lừa, mặt ngựa ?

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Ánh sáng của mắt đến mặt đó nên thấy mặt dài !

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Mà ánh sáng mắt này thật ra chẳng đến mặt đó. Vì sao vậy ? Vì gần hay xa đều cùng một lúc nhìn thấy mà chẳng thấy vật sở hữu trung gian. Này thiện nam tử ! Ánh sáng nếu đến mặt đó mà được thấy thì tất cả chúng sinh đều thấy đến lửa thì vì sao lửa chẳng đốt cháy ? Như người từ xa thấy vật trắng chẳng nên sinh nghi là ngỗng trời chăng ? Phướng chăng ? Người chăng ? Cây chăng ? Nếu ánh sáng đến thì làm sao được thấy vật trong thủy tinh, cá và đá trong vực sâu ? Nếu ánh sáng chẳng đến thì vì sao được thấy vật trong thủy tinh mà chẳng được thấy hình sắc ngoài tường vách. Vậy nên nếu nói rằng, ánh sáng của mắt đến mặt đó mà thấy dài ra thì nghĩa này chẳng đúng ! Này thiện nam tử ! Như lời ông nói, sữa có lạc thì vì sao người bán sữa chỉ chọn lấy giá trị của sữa, chẳng kể đến giá trị của lạc. Người buôn bán ngựa chỉ chọn lấy giá trị của ngựa chẳng kể đến giá trị của ngựa con. Này thiện nam tử ! Người thế gian không vợ con nên cưới vợ. Người vợ nếu mang thai chẳng được nói rằng là con gái. Nếu nói rằng, người con gái này có tính con nên cần cưới thì nghĩa này chẳng đúng ! Vì sao vậy ? Vì nếu có tính con thì cũng nên có cháu mà nếu có cháu thì tức là anh em. Vì sao vậy ? Vì một bụng sinh ra vậy. Vậy nên ta nói rằng người con gái không có tính con. Nếu trong sữa ấy có tính lạc (cao sữa) thì vì sao chẳng thấy năm vị cùng một lúc. Nếu trong hạt cây có chất năm trượng của cây Ni câu đà thì vì sao chẳng thấy những hình sắc khác của mầm, thân, cành, lá, hoa, trái ? Này thiện nam tử ! Khi màu sữa khác, vị khác, quả khác… cho đến đề hồ cũng lại như vậy thì làm sao có thể nói sữa có tính lạc ? Này thiện nam tử ! Ví như có người buổi sáng phải dùng tô (ăn váng sữa) nhưng nay đã bị hôi. Nếu nói rằng, trong sữa nhất định có lạc cũng lại như vậy (?). Này thiện nam tử ! Ví như có người có bút giấy mực thì hòa hợp thành ra chữ mà trong giấy này vốn không có chữ. Do vốn không nên mượn duyên mà thành. Nếu vốn có thì sao cần đến các duyên. Ví như xanh, vàng hợp thành duyên sắc. Phải biết rằng, hai cái này vốn không có tính duyên. Nếu chúng vốn có thì đâu cần phải hợp thành ? Này thiện nam tử ! Ví như chúng sinh nhân ăn được thọ mạng mà trong thức ăn này thật không có mạng. Nếu vốn có mạng thì khi chưa ăn, thức ăn nên có mạng này. Này thiện nam tử ! Tất cả các pháp vốn không có tính. Do nghĩa này nên ta nói kệ rằng :

Trước (vốn) không nay có

Trước có nay không

Ba đời hữu pháp

Ðiều này thì không.

Này thiện nam tử ! Tất cả các pháp do nhân duyên nên sinh, do nhân duyên nên diệt. Này thiện nam tử ! Nếu bên trong chúng sinh có Phật tính thì tất cả chúng sinh nên có thân Phật như ta hôm nay vậy. Phật tính của chúng sinh chẳng phá, chẳng hoại, chẳng điều khiển, chẳng nắm bắt, chẳng trói, chẳng buộc như sở hữu hư không trong chúng sinh. Tất cả chúng sinh đều có hư không, không ngăn ngại mà đều chẳng tự thấy có hư không này. Nếu giả sử chúng sinh không có hư không thì không đi lại, đi đứng ngồi nằm, chẳng sinh ra, chẳng lớn lên. Do nghĩa này nên trong Kinh ta nói, tất cả chúng sinh có hư không giới. Hư không giới thì gọi là hư không. Phật tính của chúng sinh cũng lại như vậy. Bồ tát Thập Trụ có thể thấy ít Phật tính đó như viên ngọc Kim Cương. Này thiện nam tử ! Phật tính của chúng sinh là cảnh giới của chư Phật, chẳng phải là sự hiểu biết của Thanh Văn, Duyên Giác. Tất cả chúng sinh chẳng thấy Phật tính. Vậy nên họ thường bị sự trói buộc của phiền não nên lưu chuyển trong sinh tử. Thấy được Phật tính rồi thì các kết phiền não đã chẳng thể trói buộc, giải thoát khỏi sinh tử, được Ðại Niết Bàn.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Tất cả chúng sinh có Phật tính như lạc tính trong sữa. Nếu sữa không lạc tính thì làm sao đức Phật nói có hai thứ nhân, một là chánh nhân, hai là duyên nhân ? Duyên nhân thì một là men, hai là hơi ấm ? Hư không không có tính nên không duyên nhân !

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Nếu giả sử trong sữa nhất định có lạc tính thì đâu cần duyên nhân ?

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Do có tính nên cần duyên nhân. Vì sao vậy? Vì muốn thấy sáng vậy ! Duyên nhân tức là liễu nhân. Thưa đức Thế Tôn ! Ví như trong tối có các đồ vật trước, vì muốn thấy nên dùng đèn soi rõ. Nếu trước không có thì đèn soi vào đâu ? Như trong bùn có bình nên cần có người, nước, bánh xe, sợi dây, cây gậy.v.v… mà làm liễu nhân. Như hạt Ni câu đà cần có đất, nước, phân mà làm liễu nhân. Trong sữa cần có men, hơi ấm cũng lại như vậy để làm liễu nhân. Vậy nên tuy trước có tính nhưng cần nhờ liễu nhân, rồi nhiên hậu được thấy. Do nghĩa này nên nhất định biết trong sữa có tính của lạc trước !

– Này thiện nam tử ! Nếu giả sử trong sữa nhất định có lạc tính thì tức là liễu nhân. Nếu liễu nhân thì lại đâu cần làm rõ ? Này thiện nam tử ! Nếu tính của liễu (rõ) nhân này là rõ thì thường nên tự rõ. Nếu tự mình chẳng rõ thì sao có thể rõ người khác. Nếu nói rằng, liễu nhân có hai thứ tính, một là tự rõ, hai là rõ người khác thì nghĩa này chẳng đúng ! Vì sao vậy ? Vì liễu nhân một pháp thì làm sao có hai được ? Nếu có hai thì sữa cũng nên có hai. Nếu giả sử trong sữa không hai tướng thì làm sao một mình liễu nhân có hai tướng ?

Bồ tát Sư Tử Hống đáp rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Như người đời nói rằng, ta chung tám người. Liễu nhân cũng vậy, tự liễu và liễu tha !

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Liễu nhân nếu vậy thì chẳng phải liễu nhân. Vì sao vậy ? Vì tính thì có thể tính sắc của mình, sắc của người khác nên được nói rằng tám mà tính của sắc này tự không rõ tướng. Vì không rõ tướng nên cần phải có tính của trí mới tính được mình và người khác. Vậy nên liễu nhân chẳng thể tự liễu (rõ về mình) cũng chẳng liễu tha (rõ về người khác). Này thiện nam tử ! Tất cả chúng sinh có Phật tính thì vì sao phải tu tập vô lượng công đức ? Nếu nói rằng, tu tập liễu nhân này thì đã đồng với sự hư hoại của cao sữa (lạc). Nếu nói rằng, trong nhân nhất định có quả thì giới, định, trí tuệ không tăng trưởng. Ta thấy người đời vốn không có cấm giới, thiền định, trí tuệ, rồi theo thầy thọ lấy mà dần dần tăng trưởng thêm. Nếu nói rằng, thầy dạy là liễu nhân thì khi thầy dạy, người thọ phải chưa có giới, định, trí tuệ. Nếu liễu này ứng với liễu chưa có thì làm sao mới liễu giới, định, trí tuệ, khiến cho chúng được tăng trưởng ?

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu liễu nhân không thì làm sao được gọi là có sữa có lạc ?

– Này thiện nam tử ! Thế gian đáp khó thường có ba thứ : Một là chuyển đáp. Như trước ta đã nói, vì sao gọi là giới ? Do chẳng hối hận… cho đến vì được Ðại Niết Bàn. Hai là mặc nhiên đáp. Như có vị Phạm chí đến hỏi ta rằng : “Ngã là thường chăng ?” thì ta mặc nhiên. Ba là nghi đáp. Như trong Kinh này, nếu liễu nhân có hai thì vì sao trong sữa chẳng được có hai. Này thiện nam tử ! Ta nay chuyển đáp, như người đời nói rằng, có sữa nhất định được lạc. Vậy nên gọi là có sữa có lạc. Phật tính cũng vậy, có chúng sinh, có Phật tính rồi sẽ thấy vậy.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Như lời đức Phật nói thì nghĩa này chẳng vậy ! Quá khứ diệt rồi, vị lai chưa đến thì vì sao gọi là có ? Nếu nói rằng, sẽ có gọi là có thì nghĩa này chẳng đúng ! Như người thế gian thấy không vợ con liền nói rằng, không con. Tất cả chúng sinh không Phật tính thì làm sao nói rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tính ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Quá khứ gọi là có. Ví như trồng cây quít, mầm mọc ra thì hạt diệt mất. Mầm cũng vị ngọt… cho đến quả sống vị cũng như vậy, quả chín rồi mới thành giấm. Này thiện nam tử ! Mà vị dấm này, từ hạt, mầm cho đến trái sống, đều không theo gốc. Khi chín thì hình sắc, tướng mạo của nó sinh ra vị dấm mà vị dấm này vốn không nay có. Tuy vị dấm này vốn không nay có nhưng chẳng phải là chẳng nhân vào gốc. Như vậy hạt giống gốc này tuy lại là quá khứ nhưng được gọi là có. Do nghĩa này nên quá khứ gọi là có. Sao lại gọi vị lai là có ? Ví như có người gieo trồng mè (Hồ ma). Có người hỏi rằng: “Vì sao trồng thứ này ?” Ðáp rằng : “Vì có dầu !” Thật ra chưa có dầu. Mè chín rồi lấy hạt rang, hấp, giã, ép mới được dầu. Nhưng phải biết lời người này chẳng phải là hư vọng. Do nghĩa này nên gọi là vị lai có. Sao lại gọi là quá khứ có ? Này thiện nam tử! Ví như có người lén lút mắng vua mà trải qua nhiều năm vua mới nghe được. Vua nghe rồi liền hỏi : “Vì sao dám mắng ?” Người đó đáp rằng : “Thưa đại vương ! Con chẳng mắng ! Vì sao vậy ? Vì người mắng đã diệt!” Nhà vua nói rằng : “Người mắng và thân ta cả hai đều tồn tại mà sao nói rằng  diệt ?” Do nhân duyên này nên người đó mất thân mạng. Này thiện nam tử ! Hai điều này chân thật không mà quả chẳng diệt. Ðó gọi là quá khứ có. Sao gọi là vị lai có vậy ? Ví như có người đi đến chỗ thợ gốm hỏi : “Có bình không ?” Ðáp rằng : “Có bình !” mà người thợ gốm này thật chưa có bình. Nhưng do có bùn nên thợ gốm nói rằng : “Có bình” thì phải biết là người này chẳng phải nói dối. Trong sữa có lạc, chúng sinh Phật tính cũng lại như vậy, muốn thấy Phật tính cần phải quan sát thời tiết, hình sắc. Vậy nên ta nói rằng, tất cả chúng sinh đều có Phật  tính, là chân thật chẳng hư dối.

Bồ tát Sư Tử Hống nói rằng :

– Tất cả chúng sinh không Phật tính thì làm sao mà được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác ? Do nhờ Chánh duyên nên khiến cho chúng sinh được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Cái gì là Chánh nhân ? Ðó là Phật tính ! Thưa đức Thế Tôn ! Nếu hạt Ni câu đà không có cây Ni câu đà thì vì sao gọi là hạt Ni câu đà mà chẳng gọi là hạt Khư đà la ? Thưa đức Thế Tôn ! Như họ Cù Ðàm chẳng được xưng là họ A để gia, họ A để gia cũng lại chẳng được xưng là họ Cù Ðàm. Hạt Ni câu đà cũng lại như vậy, chẳng được xưng là hạt Khư đà la, hạt Khư đà la chẳng được xưng là hạt Ni câu đà, giống như đức Thế Tôn chẳng được lìa bỏ dòng họ Cù Ðàm. Chúng sinh Phật tính cũng lại như vậy. Do nghĩa này nên phải biết, chúng sinh đều có Phật tính.

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Nếu nói rằng, trong hạt có Ni câu đà thì nghĩa này chẳng đúng ! Như Ni câu đà ấy có thì vì sao chẳng thấy ? Này thiện nam tử ! Như vật của thế gian có nhân duyên nên chẳng thể được thấy. Sao gọi là nhân duyên ? Như là xa chẳng thể thấy như dấu chim trong không, gần chẳng thể thấy như người nhắm nắt. Hoại nên chẳng thấy như cơ quan của mắt bại hoại. Loạn tưởng nên chẳng thấy như lòng chẳng chuyên nhất. Nhỏ nên chẳng thấy như tiểu vi trần. Ngăn nên chẳng thấy như sao ngoài mây. Nhiều nên chẳng thấy như mè trong đống gạo. Tương tợ nên chẳng thấy như đậu ở tại đống đậu. Cây Ni câu đà chẳng đồng như tám thứ nhân duyên như vậy. Như cây ấy có thì vì sao chẳng thấy? Nếu nói rằng, nhỏ nên chẳng thấy thì nghĩa này chẳng đúng. Vì sao vậy ? Vì tướng của cây thô. Nếu nói rằng, tính nhỏ thì làm sao tăng trưởng ? Nếu nói rằng, ngăn nên chẳng thể thấy thì thường (luôn luôn) nên chẳng thấy. Nếu vốn không tướng thô mà nay thì thấy thô thì phải biết thô này vốn không có tính thấy. Vốn không tính thấy mà nay thì có thể thấy thì phải biết sự thấy này cũng vốn không có tính. Hạt cũng như vậy, vốn không có cây mà nay có thì phải có lỗi sao ?

Bồ tát Sư Tử Hống nói rằng :

– Như lời đức Phật nói, có hai thứ nhân, một là Chánh nhân, hai là Liễu nhân. Hạt Ni câu đà lấy đất, nước, phân làm liễu nhân nên khiến cho nhỏ được to (thô).

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Nếu đã vốn có thì đâu cần liễu nhân. Nếu vốn không có tính thì liễu chỗ liễu nào ? Nếu trong Ni câu đà vốn không có tướng to mà do liễu nhân nên mới sinh ra to thì vì sao chẳng sinh ra cây Khư đà la ? Vì cả hai đều không vậy. Này thiện nam tử ! Nếu nhỏ chẳng thể thấy thì to nên có thể thấy, ví như một hạt bụi chẳng thể thấy thì nhiều bụi hòa hợp lại nên có thể thấy. Như vậy trong hạt cái thô có thể thấy. Vì sao vậy ? Vì trong hạt này đã có mầm, thân, hoa, trái. Trong mỗi một trái có vô lượng hạt, trong mỗi một hạt có vô lượng cây. Vậy nên gọi là thô mà có cái thô này nên có thể thấy. Này thiện nam tử ! Nếu hạt Ni câu đà có tính Ni câu đà mà sinh ra cây thì mắt thấy hạt này bị sự đốt cháy của lửa. Như vậy tính đốt cũng nên vốn có. Nếu vốn có thì cây chẳng nên sinh ra. Nếu tất cả pháp vốn có sinh diệt thì vì sao trước sinh sau diệt chẳng cùng một lúc vậy ? Do nghĩa này nên phải biết là không có tính.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu hạt Ni câu đà vốn không có tính cây mà sinh ra cây thì hạt này vì sao chẳng cho ra dầu ? Cả hai đều không vậy. Này thiện nam tử ! Như trong hạt này cũng sinh ra dầu thì tuy kông có tính nhưng do nhân duyên nên có.

Sư Tử Hống nói rằng :

– Vì sao chẳng gọi là dầu mè vậy ?

– Này thiện nam tử ! Vì chẳng phải mè vậy ! Này thiện nam tử ! Như duyên lửa sinh ra lửa, duyên nước sinh ra nước, tuy đều từ duyên nhưng chẳng thể có nhau. Hạt Ni câu đà và dầu mè cũng lại như vậy, tuy đều từ duyên nhưng đều chẳng sinh ra nhau. Tính của hạt Ni câu đà có thể trị lạnh. Dầu mè thì tính có thể trị gió. Này thiện nam tử ! Ví như mía nhờ nhân duyên nên sinh ra đường cát, đường đen. Tuy chúng đều một duyên nhưng sắc tướng đều khác. Ðường cát trị nóng, đường đen trị lạnh.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Như trong sữa ấy không có tính của cao sữa (lạc), mè không có tính của dầu, hạt Ni câu đà không có tính của cây, bùn không có tính của bình, tất cả chúng sinh không có Phật tính mà như lời đức Phật trước đã nói, tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Vậy nên ứng được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì nghĩa này chẳng đúng ! Vì sao vậy ? Vì người, trời không có tính. Do không tính nên người có thể làm trời, trời có thể làm người. Do nghiệp duyên nên chẳng thể do tính vậy. Ðại Bồ tát do nghiệp duyên nên được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nếu các chúng sinh có Phật tính thì vì nhân duyên gì nhất xiển đề.v.v… đoạn dứt các thiện căn, đọa vào địa ngục ? Nếu tâm Bồ Ðề là Phật tính thì nhất xiển đề.v.v… chẳng nên có thể đoạn mà nếu có thể đoạn thì làm sao có thể được nói rằng, Phật tính là thường ? Nếu chẳng phải Thường thì chẳng gọi là Phật tính. Nếu các chúng sinh có Phật tính thì vì sao gọi là đầu tiên phát tâm vậy ? Làm sao mà nói rằng là Tỳ bạt thí (Thoái chuyển) và A Tỳ bạt thí (bất thoái chuyển) ? Tỳ bạt thí thì phải biết người này không có Phật tính. Thưa đức Thế Tôn ! Ðại Bồ tát một lòng hướng về Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, Ðại từ Ðại bi, thấy lỗi hoạn sinh lão tử phiền não, quan sát Ðại Niết Bàn không các tội lỗi phiền não sinh tử, tin vào Tam bảo và nghiệp quả báo, thọ trì cấm giới… Những pháp như vậy gọi là Phật tính. Nếu lìa khỏi những pháp này thì người có Phật tính đâu cần pháp này mà tạo tác nhân duyên ? Thưa đức Thế Tôn ! Như sữa chẳng mượn duyên nhất định sẽ thành cao sữa (lạc). Váng sữa sống (sinh tô) chẳng vậy, cần phải đợi nhân duyên, đó là nhân công, nước, bình, xoay, sợi dây… chúng sinh cũng vậy, người có Phật tính nên lìa khỏi nhân duyên để được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nếu nhất định có thì vì sao hành nhân thấy ba ác khổ, sinh lão bệnh tử mà sinh ra thoái tâm ? Cũng chẳng cần tu sáu Ba la mật vẫn được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác ! Như sữa chẳng phải duyên mà được thành Lạc. Nhưng mà chẳng phải chẳng nhân sáu Ba la mật mà được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Do nghĩa này nên phải biết, chúng sinh đều không có Phật tính. Nhưđức Phật trước đã nói, Tăng bảo là thường. Như thường ấy tức là chẳng phải vô thường mà chẳng phải vô thường thì làm sao được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác ? Tăng bảo nếu thường thì làm sao lại nói rằng, tất cả chúng sinh đều có Phật tính ? Thưa đức Thế Tôn ! Nếu giả sử chúng sinh từ trước đến nay không có tâm Bồ Ðề cũng không có tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác mà sau mới có thì Phật tính của chúng sinh cũng nên trước không nay có như vậy. Do nghĩa này nên tất cả chúng sinh nên không có Phật tính.

Ðức Phật dạy rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Ông biết nghĩa lý của Phật tính đã lâu, nhưng vì chúng sinh nên đặt câu hỏi như vậy ! Tất cả chúng sinh chân thật có Phật tính ! Ông nói rằng, chúng sinh nếu có Phật tính thì chẳng nên nói rằng, có người mới phát tâm. Này thiện nam tử ! Tâm chẳng phải Phật tính. Vì sao vậy ? Tâm là vô thường, Phật tính là Thường ! Ông nói rằng, vì sao có người thoái tâm ? Thật ra tâm không thoái vì nếu tâm có thoái thì nhất định chẳng thể được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Do chậm được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác nên gọi đó là Thoái. Tâm Bồ Ðề này chân thật chẳng phải Phật tính. Vì sao vậy ? Vì Nhất xiển đề.v.v… đoạn dứt căn lành, rơi vào địa ngục. Nếu tâm Bồ Ðề là Phật tính thì bọn nhất xiển đề chẳng được gọi là nhất xiển đề và tâm Bồ Ðề cũng chẳng được gọi là vô thường. Vậy nên quyết định biết là, tâm Bồ Ðề thật chẳng phải là Phật tính.

Này thiện nam tử ! Ông nói rằng, chúng sinh nếu có Phật tính thì chẳng nên mượn nhờ duyên như sữa thành cao sữa. Nghĩa này chẳng đúng ! Vì sao vậy ? Vì, nếu nói rằng, do năm duyên thành ra váng sữa sống (tô) thì phải biết rằng, Phật tính cũng lại như vậy. Ví như mọi thứ đá có vàng, có bạc, có đồng, có sắt…. đều bẩm thụ bốn đại, một tên gọi, một thật tế mà cái chúng cho ra mỗi mỗi chẳng đồng. Chúng phải nhờ đến mọi duyên như phước đức chúng sinh, lò đúc, nhân công… rồi nhiên hậu mới sinh ra. Vậy nên phải biết rằng, vốn không có tính vàng. Phật tính của chúng sinh chẳng gọi là Phật mà do các công đức nhân duyên hòa hợp nên được thấy Phật tính, rồi nhiên hậu mới được Phật.

Ông nói rằng, chúng sinh đều có Phật tính, vì sao chẳng thấy ? Nghĩa này chẳng đúng ! Vì sao vậy ? Vì do các nhân duyên chưa hòa hợp. Này thiện nam tử ! Do nghĩa này nên ta nói hai nhân, chánh nhân và duyên nhân. Chánh nhân thì gọi là Phật tính, duyên nhân là phát tâm Bồ Ðề. Do hai nhân duyên được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác như đá cho ra vàng.

Này thiện nam tử ! Ông nói rằng, Tăng thường thì tất cả chúng sinh không Phật tính. Này thiện nam tử ! Tăng gọi là hòa hợp. Hòa hợp có hai, một là đời hòa hợp, hai là Ðệ nhất nghĩa hòa hợp. Ðời hòa hợp là gọi Thanh Văn tăng, Ðệ nhất nghĩa hòa hợp là gọi tăng Bồ tát. Tăng của đời thì vô thường mà Phật tính là Thường. Như Phật tính Thường thì Ðệ nhất nghĩa tăng cũng vậy. Lại nữa, có tăng gọi là pháp hòa hợp. Pháp hòa hợp là gọi mười hai bộ kinh mà mười hai bộ kinh Thường vậy nên ta nói rằng, Pháp, Tăng là Thường. Này thiện nam tử! Tăng gọi là hòa hợp. Hòa hợp là gọi mười hai nhân duyên. Trong mười hai nhân duyên cũng có Phật tính. Mười hai nhân duyên thường, Phật tính cũng vậy. Vậy nên ta nói rằng, Tăng có Phật tính. Lại nữa, Tăng là chư Phật hòa hợp. Vậy nên ta nói rằng, Tăng có Phật tính.

Này thiện nam tử ! Ông nói rằng, chúng sinh nếu có Phật tính thì sao có người thoái, người chẳng thoái ? Ông hãy lắng nghe ! Lắng nghe ! Ta sẽ vì ông phân biệt, giải nói. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát có mười ba pháp làm cho thoái chuyển. Những gì là mười ba ? Một là lòng chẳng tin, hai là lòng bất tác, ba là lòng nghi, bốn là tham tiếc thân mạng của cải, năm là ở trong Niết Bàn sinh ra sợ hãi lớn làm sao khiến cho chúng sinh diệt mãi, sáu là lòng chẳng kham nhẫn, bảy là lòng chẳng điều nhu, tám là sầu não, chín là chẳng vui, mười là phóng dật, mười một là tự khinh thân mình, mười hai là tự thấy phiền não, không thể hoại, mười ba là chẳng ưa tiến đến pháp Bồ Ðề. Này thiện nam tử ! Ðó là mười ba pháp khiến cho các Bồ tát thoái chuyển Bồ Ðề. Lại có sáu pháp hoại tâm Bồ Ðề. Những gì là sáu ? Một là tham lận pháp, hai là đối với các chúng sinh dấy lòng bất thiện, ba là thân cận bạn ác, bốn là chẳng siêng tinh tấn, năm là tự đại kiêu mạn, sáu là kinh doanh nghề nghiệp của đời. Sáu pháp như vậy có thể phá hoại lòng Bồ Ðề. Này thiện nam tử ! Có người được nghe các đức Phật Thế Tôn là thầy của người trời, ở trong chúng sinh là bậc Tối Thượng Vô Tỷ, thắng hơn Thanh Văn, Bích Chi Phật.v.v… Pháp nhãn sáng tỏ, thấy pháp không ngăn ngại, có thể độ chúng sinh qua biển đại khổ. Họ nghe rồi liền lại phát đại thệ nguyện rằng : “Như thế gian ấy có người như vậy thì ta cũng sẽ được !” Do nhân duyên phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác này, hoặc lại được sự dạy bảo phát tâm Bồ Ðề của người khác, hoặc nghe Bồ tát qua atăngkỳ kiếp tu hành hạnh khổ, rồi nhiên hậu mới được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nghe rồi, người ấy suy nghĩ rằng : “Ta nay chẳng kham được những hạnh khổ như vậy thì làm sao có thể được”. Vậy nên có thoái lui. Này thiện nam tử ! Lại có năm pháp làm thoái tâm Bồ Ðề. Những gì là năm ? Một là ưa theo ngoại đạo xuất gia, hai là chẳng tu tâm Ðại Từ, ba là ưa cầu tìm lỗi xấu của pháp sư, bốn là thường ưa ở tại sinh tử, năm là chẳng thích thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói mười hai bộ kinh. Ðó gọi là năm pháp thoái tâm Bồ Ðề. Lại có hai pháp thoái tâm Bồ Ðề. Những gì là hai ? Một là tham lạc năm dục, hai là chẳng thể cung kính tôn trọng Tam bảo. Do những nhân duyên như vậy nên thoái tâm Bồ Ðề.

Sao gọi là tâm chẳng thoái ?  Có người nghe Phật có thể độ sinh già bệnh chết của chúng sinh, chẳng theo thầy học hỏi mà tự nhiên tu tập được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác… Rồi nghĩ rằng : “Nếu đạo Bồ Ðề là có thể được thì ta sẽ tu tập nhất định làm cho được”. Do nhân duyên phát tâm Bồ Ðề này, việc tạo tác công đức hoặc nhiều hay ít đều đem hồi hướng về Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Người đó tác khởi thệ nguyện rằng : “Nguyện cho ta thường được gần gũi các đức Phật và đệ tử của Phật, thường nghe thâm pháp, năm tình đầy đủ, nếu gặp khổ nạn, chẳng mất tâm này !” Lại nguyện : “Các đức Phật và đệ tử của Phật thường ở chỗ của ta sinh tâm hoan hỷ, đủ năm căn lành. Nếu các chúng sinh chặt phạt thân ta, chém đứt tay chân đầu mắt, chi tiết thì ta sẽ đối với người này sinh tâm Ðại từ, tự mừng vui sâu sắc.Những người như vậy đã vì ta làm tăng trưởng nhân duyên Bồ Ðề. Nếu không có người này thì ta sẽ nhờ duyên gì mà được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác !” Lại phát nguyện rằng : “Chớ khiến cho ta được không căn, hai căn và thân nữ nhân, chẳng bị hệ thuộc người, chẳng gặp người chủ ác, chẳng thuộc về vua ác, chẳng sinh vào nước ác. Nếu được thân đẹp, dòng họ chân chính, có nhiều của báu thì chẳng sinh ra kiêu mạn, nguyện khiến cho ta thường được nghe mười hai bộ kinh, thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói. Nếu vì chúng sinh diễn nói thì nguyện khiến cho người thính thọ kính tin không nghi hoặc, thường ở chỗ của ta chẳng sinh ra tâm ác. Ta thà nghe ít mà lý giải được nghĩa vị nhiều, chẳng nguyện nghe nhiều mà đối với nghĩa chẳng rõ. Nguyện làm thầy của tâm, chẳng học theo tam. Nghiệp thân miệng ý chẳng cùng với ác giao du. Có thể ban cho tất cả chúng sinh an vui. Thân giới, tâm tuệ chẳng động như núi. Vì muốn thọ trì chánh pháp vô thượng, đối với thân mạng của cải chẳng sinh lòng san lận. Vật bất tịnh chẳng lấy làm nghiệp phước. Chánh mạng tự sinh sống, lòng không tà bậy dua nịnh. Thọ ơn luôn nghĩ : ơn nhỏ phải báo đền lớn. Giỏi biết nghề khéo, công việc sở hữu trong đời. Khéo giải lời nói phương tục của chúng sinh. Ðọc tụng, ghi chép mười hai bộ kinh chẳng sinh lòng lười biếng giải đãi. Nếu các chúng sinh chẳng ưa thính thọ thì dùng phương tiện tiếp dẫn khiến cho họ thích nghe. Lời nói thường nhu nhuyến, miệng chẳng tuyên dương điều ác. Chúng chẳng hòa hợp có thể làm cho hòa hợp. Có người lo sợ thì làm sao lìa khỏi lo sợ. Ðời đói kém thì khiến cho được giàu có no đủ. Ðời dịch bệnh thì làm Ðại y vương với thuốc bệnh cần dùng, của cải, vật báu tự tại… khiến cho tật bệnh đều được trừ khỏi. Ở kiếp đao binh thì có đại thế lực đoạn dứt sự tàn hại ấy khiến cho không còn nữa. Có thể đoạn diệt đủ thứ sự bố úy của chúng sinh như là : sợ chết, sợ giam cầm, trói buộc, đánh đập, ném vào nước lửa, giặc vua, nghèo cùng, phá giới, ác danh, ác đạo.v.v… Những việc kinh sợ như vậy đều sẽ đoạn trừ hết. Ðối với cha mẹ, sư trưởng thâm tâm sinh cung kính. Ở trong oán ghét phát sinh lòng đại từ. Thường tu sáu niệm, “Không tam muội” môn, mười hai nhân duyên sinh diệt.v.v… Quán tưởng thở ra hít vào (sổ tức), tu tập Thiên hạnh, Phạm hạnh và cả Thánh hạnh, Kim Cương tam muội, Thủ Lăng Nghiêm định… Ở chỗ không có Tam Bảo thì khiến cho ta tự được tâm tịch tịnh. Nếu khi thân tâm ấy chịu đại khổ vẫn không mất tâm Vô Thượng Bồ Ðề, không vì tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật mà sinh ra tri túc. Ở chỗ không có Tam Bảo, thường ở trong pháp ngoại đạo xuất gia nhưng vì phá tà kiến nên chẳng tu tập đạo ấy mà được pháp tự tại, được tâm tự tại. Ðối với pháp hữu vi thấy lỗi rõ ràng khiến cho ta kinh sợ đạo quả Nhị thừa như người tiếc mạng sống kinh sợ xả thân. Vì chúng sinh nên ưa ở ba đường ác như chúng sinh ưa cõi trời Ðao Lợi. Vì mỗi một người mà ở vô lượng kiếp thọ khổ địa ngục lòng không hề sinh hối hận. Thấy người khác được lợi chẳng sinh lòng ganh ghét, thường sinh vui mừng như tự mình được niềm vui. Nếu gặp Tam Bảo thì sẽ dùng y phục, ẩm thực, ngọa cụ, nhà cửa, y dược, đèn sáng, hoa hương, kỹ nhạc, tràng phan, bảo cái, bảy báu cúng dường. Nếu thọ giới cấm của Phật thì kiên cố hộ trì nhất định chẳng sinh tư tưởng hủy phạm. Nếu nghe hạnh khổ Bồ tát khó làm thì lòng mình vui mừng chẳng sinh ra hối hận. Tự nhận thức được việc túc mạng đời xa xưa (đã qua) nhất định chẳng tạo tác nghiệp tham sân, si, chẳng bị quả báo mà tập nhân duyên. Ðối với niềm vui hiện tại chẳng sinh lòng tham trước. Này thiện nam tử ! Nếu có người có thể phát nguyện như vậy thì đó gọi là Bồ tát nhất định chẳng thoái mất tâm Bồ Ðề, cũng gọi là Thí chủ, có thể thấy Như Lai, sáng tỏ Phật tính, có thể điều phục chúng sinh, độ thoát sinh tử, khéo có thể hộ trì chánh pháp vô thượng, có thể được đầy đủ sáu Ba la mật. Này thiện nam tử ! Do nghĩa này nên tâm chẳng thoái chẳng gọi là Phật tính.

Này thiện nam tử ! Ông chẳng thể căn cứ vào tâm có thoái mà nói rằng các chúng sinh không có Phật tính. Ví như hai người đều nghe ở tha phương có núi Thất bảo, núi ấy có dòng suối trong, vị ngon ngọt. Người có thể đến đó thì đoạn dứt vĩnh viễn sự nghèo cùng và uống nước suối ấy thì tăng tuổi thọ vạn năm. Nhưng chỉ có điều là đường đi xa xôi, hiểm trở nhiều khó khăn. Hai người kia đều muốn cùng chung đi đến đó. Một người thì trang bị đủ thứ đồ đi đường, còn một người thì đi đến tay không, không mang theo thứ gì cả. Trên đường cùng nhau tiến về phía trước, họ gặp một người mang theo nhiều của báu, đầy đủ báy thứ trân quí. Hai người liền hỏi trước rằng : “Thưa ngài ! Cõi đó thật có núi bảy báu sao ?” Người kia đáp rằng : “Thật có chẳng hư dối ! Ta đã thu hoạch được của báu, đã uống nước dòng suối ấy ! Nhưng chỉ lo đường đi hiểm trở, có nhiều đạo tặc, cát sỏi, gai nhọn, thiếu thốn nước cỏ… Người đi đến có hàng ngàn vạn mà người đạt được rất ít”. Nghe việc đó rồi, một người liền hối hận, mà nói rằng : “Ðường đi đã xa côi, gian nan chẳng phải một, người đi đến nhiều không lường mà người đạt được không bao nhiêu, thì ta làm sao sẽ có thể đến đó được ? Sản nghiệp to lớn của ta hôm nay tự cung cấp đủ ! Nếu ta lặn lội trên con đường ấy, hoặc mất thân mạng mà thân mạng chẳng toàn thì trường thọ chỗ nào ?” Một người lại nói rằng : “Có người có thể qua thì ta cũng có thể qua được ! Nếu kết quả đạt được thì ta được đúng như nguyện, thu lấy trân bảo, uống nước suối ngọt. Như nguyện ấy chẳng đạt thì lấy cái chết làm kỳ hẹn !” Lúc đó, hai người, một người thì hối hận thoái lui, một người thì nhắm đường trước tiến tới. Ði đến núi đó, người này thu hoạch được nhiều của cải trân bảo. Ðúng như nguyện, người này uống nước suối, mang theo nhiều trân bảo sở hữu trở về chỗ ở của mình để phụng dưỡng cha mẹ, cung cấp cho bà con. Người hối hận trở về thấy việc này rồi thì trong lòng sinh ra nóng nảy nghĩ rằng : “Người kia đi đã trở về thì ta làm sao ở yên được ?” Người đó liền trang bị đồ đi đường mà ra đi. Núi Thất Bảo là ví cho Ðại Niết Bàn. Nước ngon ngọt là ví cho Phật tính. Hai người ấy là dụ cho hai vị Bồ tát mới phát tâm. Ðường hiểm ác là ví cho sinh tử. Người gặp trên đường đi là ví cho Phật Thế Tôn. Có đạo tặc là dụ cho bốn ma. Cát sỏi, gai nhọn là dụ cho các phiền não. Không nước cỏ là dụ cho chẳng tu tập đạo Bồ Ðề. Một người trở về là dụ cho Bồ tát thoái chuyển. Người đi thẳng đến là dụ cho Bồ tát chẳng thoái chuyển. Này thiện nam tử! Phật tính của chúng sinh thường trụ bất biến. Còn con đường hiểm kia chẳng thể nói rằng, người hối quay trở lại nên khiến cho con đường vô thường. Phật tính cũng vậy, này thiện nam tử ! Trong đạo Bồ Ðề nhất định không có người thoái lui ! Này thiện nam tử ! Như người hối hận quay về thấy người bạn trước kia thu hoạch báu trở về với thế lực tự tại, cúng dường cha mẹ, cấp đủ bà con, thụ hưởng nhiều an lạc. Thấy việc này rồi, trong lòng sinh ra nóng nảy, người này liền lại trang bị, trở lại con đường mà ra đi nữa. Chẳng tiếc thân mạng kham nhẫn gian nan, người này liền đến được trong núi Thất Bảo kia. Bồ tát thoái chuyển cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Tất cả chúng sinh quyết định sẽ được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Do nghĩa này nên trong Kinh ta nói rằng, tất cả chúng sinh thậm chí ngũ nghịch, phạm bốn trọng cấm và nhất xiển đề đều có Phật tính.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Sao gọi là Bồ tát có thoái chuyển và chẳng thoái chuyển ?

– Này thiện nam tử ! Nếu có Bồ tát tu tập nhân duyên nghiệp của ba mươi hai tướng Như Lai thì được gọi là chẳng thoái (Bất thoái), được gọi là Ðại Bồ tát, gọi là chẳng động chuyển, gọi là lân mẫn tất cả chúng sinh, gọi là thắng tất cả Thanh Văn, Duyên Giác, gọi là A tỳ bạt trí (Bất thoái chuyển) ! Này thiện nam tử ! Nếu Bồ tát Mahatát trì giới chẳng động, thí tâm chẳng dời, an trụ ở thật ngữ như núi Tu Di. Do duyên nghiệp này nên được dưới chân bằng như tướng của đáy hộp gương. Nếu Ðại Bồ tát ở chỗ cha mẹ, hòa thượng, sư trưởng… cho đến súc sinh theo đúng như pháp đem của cải cúng dường cung cấp thì do duyên nghiệp này sẽ được thành tướng ngàn nan hoa bánh xe dưới chân.

Nếu Ðại Bồ tát chẳng sát sinh thì chẳng trộm cắp, đối với cha mẹ, sự trưởng thường sinh ra vui mừng thì do duyên nghiệp này được thành ba tướng, một là ngón tay nhỏ dài, hai là gót chân dài, ba là thân ấy vuông thẳng. Ba tướng như vậy đồng một duyên nghiệp. Nếu Ðại Bồ tát tu bốn nhiếp pháp, nhiếp lấy chúng sinh thì do duyên nghiệp này nên được ngón tay có màn lưới như vua bạch nga (ngỗng trắng). Nếu Ðại Bồ tát, khi cha mẹ, sư trưởng bị bệnh khổ mà tự tắm rửa, lau chùi, nắm giữ, xoa bóp thì do duyên nghiệp này nên được tay chân mềm mại. Nếu Ðại Bồ tát trì giới, bố thí, nghe pháp không chán thì do duyên nghiệp này nên được đốt xương, các khớp đầy đặn, lông trên thân đẹp đẽ. Nếu Ðại Bồ tát chuyên tâm nghe pháp, diễn nói chánh giáo thì do duyên nghiệp này nên được tướng đùi nai chúa. Nếu Ðại Bồ tát đối với các chúng sinh chẳng sinh lòng giết hại, ăn uống tri túc, thường ưa ban cho xem bệnh cấp thuốc thì do duyên nghiệp này nên được thân viên mãn như cây Ni câu đà, đứng lên tay quá gối, đỉnh đầu có nhục kế, không ai thấy đỉnh tướng. Nếu Ðại Bồ tát thấy người sợ hãi mà vì họ tạo sự cứu hộ, thấy kẻ trần truồng ban cho quần áo thì do duyên nghiệp này nên được âm tàng tướng. Nếu Ðại Bồ tát thân cận người trí, xa lìa người ngu, khéo vừa lòng hỏi đáp, quét dọn đường đi do những duyên nghiệp này nên được da dẻ mềm mại, lông trên thân xoáy về bên phải. Nếu Ðại Bồ tát thường dùng y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược, hương hoa, đèn sáng cho người thì do duyên nghiệp này nên được thân Kim sắc, thường phát ánh sáng rực rỡ. Nếu Ðại Bồ tát, khi hành thí, mà vật trân quí có thể xả bỏ chẳng tiếc nuối, chẳng cần quan sát là phước điền hay chẳng phải phước điền thì do duyên nghiệp này nên được tướng bảy chỗ đầy đặn. Nếu Ðại Bồ tát, khi Bố thí mà lòng chẳng sinh nghi ngờ thì do duyên nghiệp này nên được âm thanh êm dịu. Nếu Ðại Bồ tát theo đúng như pháp tìm cầu của cải rồi đem dùng bố thí thì do duyên nghiệp này nên được xương khuyết đầy tràn, thân phần trên như sư tử, cánh tay thon dài. Nếu Bồ tát xa lìa lưỡng thiệc, ác khẩu, lòng sân giận thì do duyên nghiệp này nên được bốn mươi cái răng trắng, sạch, bằng và kín. Nếu Ðại Bồ tát đối với các chúng sinh tu đại từ bi thì do duyên nghiệp này nên được tướng hai ngà. Nếu Ðại Bồ tát thường tác khởi lời nguyện này, có người đến cầu xin, cấp cho theo ý thì do duyên nghiệp này nên được tướng hai má sư tử. Nếu Ðại Bồ tát tùy theo sự ăn uống cần dùng của chúng sinh mà đều ban cho cả thì do duyên nghiệp này nên được thượng vị trong các vị ngon. Nếu Ðại Bồ tát tự tu mười điều thiện, kiêm thêm đem giáo hóa cho người thì do duyên nghiệp này nên được tướng Quảng Trường Thiệc (Lưỡi dài rộng). Nếu Ðại Bồ tát chẳng nói lên sở đoản của người khác, chẳng bài báng chánh pháp thì do duyên nghiệp này nên được âm thanh của trời Phạm. Nếu Ðại Bồ tát thấy các điều oán ghét mà sinh ra lòng mừng thì do duyên nghiệp này nên được lông mi màu xanh biếc. Nếu Ðại Bồ tát chẳng che giấu đức của người khác mà xưng dương cái tốt của họ thì do duyên nghiệp này nên được tướng Bạch hào. Này thiện nam tử ! Khi Ðại Bồ tát tu tập nhân duyên nghiệp của ba mươi hai tướng thì được tâm Bồ Ðề.

Này thiện nam tử ! Tất cả chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn, cảnh giới của chư Phật nghiệp quả và Phật tính cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao vậy? Vì bốn pháp như vậy đều là thường mà do sự thường này nên chẳng thể nghĩ bàn. Phiền não của tất cả chúng sinh ngăn che nên gọi là thường mà đoạn dứt thường của phiền não nên gọi là vô thường. Nếu nói rằng, tất cả chúng sinh thường thì vì sao tu tập tám Thánh đạo phận là đoạn được mọi khổ. Mọi sự khổ nếu đoạn thì gọi là vô thường. Niềm vui đã thọ thì gọi là thường. Vậy nên ta nói rằng, phiền não của tất cả chúng sinh ngăn che, chẳng thấy Phật tính mà do chẳng thấy nên chẳng được Niết Bàn.

*********

– Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Như lời đức Phật nói, tất cả các pháp có hai thứ nhân, một là chánh nhân, hai là duyên nhân. Do hai nhân này nên không có trói buộc hay cởi mở. Năm ấm này thì từng niệm từng niệm sinh diệt. Như sự sinh diệt ấy thì ai trói ? Ai mở ? Thưa đức Thế Tôn ! Nhân năm ấm này sinh ra năm ấm sau. Ấm này tự diệt chẳng đến ấm kia. Tuy chẳng đến ấm kia nhưng có thể sinh ra ấm kia. Như nhân hạt sinh ra mầm mà hạt chẳng đến mầm. Tuy hạt chẳng đến mầm mà có thể sinh ra mầm. Chúng sinh cũng vậy thì sao gọi là trói hay mở ?

– Này thiện nam tử ! Hãy lắng nghe ! Lắng nghe ! Ta sẽ vì ông phân biệt, giải nói ! Này thiện nam tử ! Như khi người bỏ mạng chịu khổ lớn thì bà con vay quanh gào khóc áo não. Người ấy sợ hãi không biết y cứu vào đâu. Tuy có năm tình nhưng người ấy không hay biết gì, chi tiết rúng động, chẳng thể tự giữ gìn, thân thể trống lạnh, hơi ấm muốn hết, thấy trước tướng báo ứng của việc tu thiện, ác. Này thiện nam tử ! Như mặt trời lặn xuống thì bóng núi, đồi, gò, đống hiện ngã về đông, không ngã về tây. Nghiệp quả chúng sinh cũng lại như vậy, khi ấm này diệt thì ấm kia nối tiếp sinh, như đèn thắp lên thì bóng tối diệt, đèn tắt thì tối sinh ra. Này thiện nam tử ! Như dấu sáp ong in vào đất bùn, con dấu cùng đất bùn hợp lại, nếu con dấu diệt thì hoa văn hiện thành. Nhưng con dấu sáp chẳng biến mất tại đất bùn, hoa văn chẳng phải do đất bùn sinh ra, chẳng ở chỗ khác đến mà do nhân duyên dấu sáp sinh ra hoa văn này. Ấm hiện tại diệt thì ấm của trung ấm sinh. Ấm hiện tại này nhất định chẳng biến làm năm ấm của trung ấm. Năm ấm của trung ấm cũng chẳng phải tự sinh ra, chẳng từ chỗ khác đến mà nhân ấm hiện tại sinh ra ấm trung ấm, như dấu sáp in vào bùn mà dấu hoại thì hoa văn thành. Tên gọi tuy không sai mà thời tiết đều khác. Vậy nên ta nói rằng, năm ấm của trung ấm chẳng phải mắt thịt nhìn thấy mà là cái thấy của mắt trời. Trong Trung ấm này có ba thứ ăn, một là tư thực (ăn bằng tư tưởng), hai là xúc thực (ăn bằng chạm xúc), ba là ý thực. Trung ấm có hai thứ, một là thiện nghiệp quả, hai là ác nghiệp quả. Nhân thiện nghiệp nên được thiện giác quán. Nhân ác nghiệp nên được ác giác quán. Khi cha mẹ giao hội ly hợp thì tùy theo nhân duyên nghiệp, một hướng về chỗ thọ sinh, đối với mẹ sinh yêu thương thì đối với cha sinh sân giận. Khi tinh cha ra thì gọi là đã có. Ðã thấy rồi, lòng mừng mà sinh ra hoan hỷ. Do ba thứ nhân duyên phiền não này nên ấm của Trung ấm hoại đi mà sinh ra năm ấm sau, như dấu in vào đất bùn mà dấu hoại thì hoa văn sinh ra. Khi sinh ra các căn có đủ hay chẳng đủ. Người đủ thì thấy sắc nên sinh ra tham mà sinh ra tham thì gọi là Ái. Rồ dại (cuồng nên sinh ra tham thì đó gọi là vô minh. Do hai nhân duyên tham ái, vô minh nên sự nhìn thấy cảnh giới đều điên đảo : vô thường thấy thường, vô ngã thấy ngã, vô lạc thấy lạc, vô tịnh thấy tịnh. Do bốn điên đão nên tạo tác hạnh thiện, ác, phiền não tạo tác nghiệp, nghiệp tạo tác phiền não… Ðó gọi là trói buộc. Do nghĩa này nên gọi là Năm Ấm sinh. Người này nếu được thân cận với Phật và đệ tử của Phật, các thiện tri thức thì liền được nghe thọ mười hai bộ kinh. Do được nghe pháp nên quan sát cảnh giới thiện. Quan sát cảnh giới thiện nên được đại trí tuệ. Người Ðại trí tuệ thì gọi là Chánh tri kiến. Ðược Chánh tri kiến nên ở trong sinh tử mà sinh lòng hối hận. Do sinh lòng hối hận nên chẳng sinh ra hoan lạc. Chẳng sinh ra hoan lạc nên có thể phá được lòng tham. Phá lòng tham nên tu Bát chánh đạo. Tu Bát chánh đạo nên được không sinh tử mà không sinh tử nên gọi là được giải thoát. Như lửa chẳng gặp được củi gọi là lửa tắt, diệt sinh tử nên gọi là diệt độ. Do nghĩa này nên gọi là năm ấm diệt.

Bồ tát Sư Tử Hống nói rằng :

– Trong hư không không có gai nhọn sao nói rằng nhổ ? Ấm không ràng buộc thì sao gọi là trói buộc ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Do khóa phiền não trói buộc năm ấm, lìa năm ấm rồi không biệt phiền não, lìa phiền não rồi không biệt năm ấm ! Này thiện nam tử ! Như cây trụ chống giữ nhà, lìa nhà không có trụ, lìa trụ không có nhà ! Chúng sinh ngũ ấm cũng lại như vậy, có phiền não nên gọi là trói buộc, không phiền não nên gọi là giải thoát. Này thiện nam tử ! Như nắm tay, chắp tay, trói buộc.v.v… cả ba hợp tan, sinh diệt lại không có biệt pháp. Năm ấm chúng sinh cũng lại như vậy, có phiền não nên gọi là trói buộc, không phiền não nên gọi là giải thoát. Này thiện nam tử ! Như nói danh sắc trói buộc chúng sinh. Danh sắc nếu biệt thì không chúng sinh, lìa danh sắc rồi không biệt chúng sinh, lìa chúng sinh rồi không biệt danh sắc nên cũng gọi là danh sắc trói buộc chúng sinh, cũng gọi là chúng sinh trói buộc danh sắc.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Như mắt chẳng tự thấy, ngón tay chẳng tự chạm xúc, lưỡi dao chẳng tự cắt, người thọ chẳng tự thọ thì làm sao đức Như Lai nói rằng, danh sắc trói buộc danh sắc ? Vì sao vậy ? Vì nói danh sắc thì tức là chúng sinh, nói chúng sinh thì tức là danh sắc. Nếu nói rằng, danh sắc trói buộc chúng sinh tức là danh sắc trói buộc danh sắc.

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Như khi hai tay hợp lại thì không có pháp khác đến hợp. Danh cùng với sắc cũng lại như vậy. Do nghĩa này nên ta nói rằng, danh sắc trói buộc chúng sinh. Nếu lìa khỏi danh sắc thì được giải thoát nên ta nói rằng, chúng sinh giải thoát.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu có danh sắc là trói buộc thì các A la hán chưa lìa khỏi danh sắc cũng ứng ràng buộc ?

– Này thiện nam tử ! Giải thoát có hai thứ, một là tử đoạn (đoạn hạt nhân), hai là quả đoạn (đoạn kết quả). Nói Tử đoạn là gọi đoạn phiền não. A la hán.v.v.. đã đoạn phiền não, mọi kết tan rã hủy hoại. Vậy nên sử kết của hạt nhân chẳng thể trói buộc. Chưa đoạn kết quả nên gọi là quả trói buộc. Các A la hán chẳng thấy Phật tính. Do chẳng thấy nên chẳng được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Do nghĩa này nên có thể nói rằng, quả ràng buộc, chẳng thể nói rằng, danh sắc ràng buộc. Này thiện nam tử ! Ví như khi thắp đèn mà dầu chưa hết thì ánh sáng chẳng diệt. Nhưng nếu dầu hết thì ánh sáng diệt không gì nghi ngờ ! Này thiện nam tử ! Cái gọi rằng dầu là dụ cho các phiền não, đèn lại dụ cho chúng sinh. Tất cả chúng sinh vì dầu phiền não nên chẳng vào Niết Bàn. Nếu có người đoạn được thì vào Niết Bàn.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Ðèn với dầu cả hai tính đều khác còn chúng sinh, phiền não thì chẳng như vậy. Chúng sinh tức là phiền não, phiền não tức là chúng sinh, chúng sinh gọi là năm ấm, năm ấm gọi là chúng sinh, năm ấm gọi là phiền não, phiền não gọi là năm ấm thì làm sao đức Như Lai đem dụ nó với đèn ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Dụ có tám thứ, một là thuận dụ, hai là nghịch dụ, ba là hiện dụ, bốn là phi dụ, năm là tiên (trước) dụ, sáu là hậu dụ, bảy là tiên hậu dụ, tám biến dụ (biến : khắp).

Sao gọi là thuận dụ ? Như trong kinh nói rằng, trời tuông mưa lớn suối khe tràn đầy nên hầm nhỏ đầy, hầm nhỏ đầy nên hầm lớn đầy, hầm lớn đầy nên suối nhỏ đầy, suối nhỏ đầy nên suối lớn đầy, suối lớn đầy nên ao nhỏ đầy, ao nhỏ đầy nên ao lớn đầy, ao lớn đầy nên sông nhỏ đầy, sông nhỏ đầy nên sông lớn đầy, sông lớn đầy nên biển cả đầy. Mưa pháp của Như Lai cũng lại như vậy, chúng sinh giới (cấm) đầy, giới đầy đủ nên lòng chẳng hối đầy, lòng chẳng hối đầy nên hoan hỷ đầy, hoan hỷ đầy nên viễn ly đầy, viễn ly đầy nên yên ổn đầy, yên ổn đầy nên Tam muội đầy, Tam muội đầy nên chánh tri kiến đầy, chánh tri kiến đầy nên yếm ly (chán lìa) đầy, yếm ly đầy nên quở trách đầy, quở trách đầy nên giải thoát đầy, giải thoát đầy nên Niết Bàn đầy. Ðó gọi là thuận dụ.

Sao gọi là nghịch dụ ? Biển cả có gốc là sông lớn, sông lớn có gốc gọi là  sông nhỏ, sông nhỏ có gốc gọi là ao lớn, ao lớn có gốc gọi là ao nhỏ, ao nhỏ có gốc gọi là suối lớn, suối lớn có gốc gọi là suối nhỏ, suối nhỏ có gốc gọi là hầm lớn, hầm lớn có gốc gọi là hầm nhỏ, hầm nhỏ có gốc gọi là suối khe, suối khe có gốc gọi là mưa lớn… Niết Bàn có gốc gọi là giải thoát, giải thoát có gốc gọi là quở trách, quở trách có gốc gọi là yếm ly, yếm ly có gốc gọi là chánh tri kiến, chánh tri kiến có gốc gọi là Tam muội, Tam muội có gốc gọi là yên ổn, yên ổn có gốc gọi là viễn ly, viễn ly có gốc gọi là hỷ tâm, hỷ tâm có gốc gọi là chẳng hối, chẳng hối có gốc gọi là trì giới, trì giới có gốc gọi là pháp vũ. Ðó gọi là nghịch dụ.

Sao gọi là hiện dụ ? Như trong kinh nói tâm tính chúng sinh giống như con khỉ đột. Tính khỉ đột bỏ buông bắt không dừng một, lấy một. Tâm tính chúng sinh cũng lại như vậy, tham lấy sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp không khi nào tạm đứng lại. Ðó gọi là hiện dụ. Sao gọi là phi dụ ? Như thuở trước ta bảo vua Ba Tư Nặc rằng : “Này Ðại vương ! Có người thân tín từ bốn phương đến đều nói lời này, thưa đại vương ! Có bốn núi lớn từ bốn phương đến muốn hại nhân dân. Nếu nhà vua nghe thì phải thiết lập kế gì?”. Nhà vua đáp rằng : “Thưa đức Thế Tôn ! Giả sử có điều này đến, không tìm chỗ chạy trốn, chỉ phải chuyên chuyên tâm trì giới, bố thí !” Ta liền khen ngợi rằng : “Hay thay ! Này đại vương ! Ta nói bốn núi tức là sự sinh già bệnh chết của chúng sinh. Sinh già bệnh chết thường đến bức thiết con người thì làm sao đại vương chẳng tu trì giới, bố thí ?”. Nhà vua bạch rằng : “Thưa đức Thế Tôn ! Trì giới, bố thí thì được những quả gì ?” Ta đáp rằng : “Này đại vương ! Ở trong người trời hướng thọ nhiều khoái lạc !” Nhà vua bạch rằng : “Thưa đức Thế Tôn ! Cây Ni câu đà có trì giới, bố thí đâu mà cũng ở với người trời hưởng thọ an lạc vậy ?” Ta nói rằng : “Thưa đại vương ! Cây Ni câu đà chẳng thể trì giới, tu hành bố thí. Như cây ấy có thể trì giới, bố thí thì hưởng thọ khoái lạc không khác người, trời”. Ðó gọi là phi dụ.

Sao gọi là tiên dụ ? Trong Kinh ta nói, ví như có người tham trước hoa đẹp, khi hái hoa bị nước cuốn trôi. Chúng sinh cũng vậy, tham trước năm dục bị cuốn trôi mất của sinh, già, chết. Ðó gọi là tiên dụ.

Sao gọi là hậu dụ ? Như kinh pháp cú nói rằng :

Chớ khinh ác nhỏ

Là không tai ương

Giọt nước tuy nhỏ

Chậu lớn dần tràn.

Ðó gọi là hậu dụ.

Sao gọi là tiên hậu dụ ? Ví như cây chuối ra trái thì chết. Người ngu được lợi dưỡng cũng lại như vậy, như con la mang thai thì sinh mạng chẳng an toàn lâu.

Sao gọi là biến dụ ? Như trong Kinh nói, trời thứ ba mươi ba có cây Ba lợi chất đa, rễ nó vào sâu trong đất đến năm do tuần, cao đến hàng trăm do tuần, cành lá trải rộng bốn phía đến năm mươi do tuần. Lá chín thì vàng, chư thiên thấy rồi lòng sinh ra hoan hỷ, lá này chẳng bao lâu ắt rơi rụng. Lá ấy đã rơi thì chư thiên lại sinh ra hoan hỷ. Cành cây này chẳng bao lâu ắt đổi sắc mà cành đã đổi sắc thì chư thiên lại sinh  hoan hỷ. Sắc này chẳng bao lâu sẽ sinh những nốt phồng lên mà chư thiên thấy rồi lại sinh hoan hỷ. Nốt phồng này chẳng lâu ắt sẽ nhú những mõm nhọn mà chư thiên thấy rồi lại mừng. Mõm nhọn này chẳng bao lâu ắt sẽ nở ra mà khi nó nở ra thì hơi thơm lan cùng khắp năm mươi do tuần, ánh sáng soi chiếu xa đến tám mươi do tuần. Bấy giờ là thời gian ba tháng mùa hạ, chư thiên ở dưới cây này, hưởng thụ khoái lạc. Này thiện nam tử ! Các đệ tử của ta cũng lại như vậy. Màu lá vàng là dụ cho ý niệm của đệ tử ta muốn xuất gia. Lá ấy rụng là dụ cho đệ tử ta cạo bỏ râu tóc. Sắc ấy biến đổi là dụ cho đệ tử của ta bạch bốn yết ma, thọ cụ túc giới. Nốt phồng lên mới sinh là dụ cho đệ tử của ta mới phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Mõm nhọn là dụ cho Bồ tát Thập Trụ được thấy Phật tính. Mõm nhọn nở ra là dụ cho Bồ tát được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Hương thơm là dụ cho vô lượng chúng sinh ở mười phương thọ trì cấm giới. Ánh sáng là dụ cho danh hiệu của Như Lai châu biến mười phương không ngăn ngại. Ba tháng hạ là dụ cho Tam muội. Trời Ba mươi ba hưởng thụ khoái lạc là dụ cho các đức Phật tại Ðại Niết Bàn được Thường Lạc Ngã Tịnh. Ðó gọi là Biến dụ. Này thiện nam tử ! Phàm việc dẫn dụ thì chẳng nhất định phải lấy hết mà hoặc lấy một phần ít, hoặc lấy phần nhiều, hoặc lại lấy toàn phần. Như nói rằng, mặt Như Lai như trăng đầy thì đó gọi là phần ít. Này thiện nam tử ! Ví như có người, đầu tiên chẳng thấy sữa mà chuyển hỏi người khác rằng, sữa là loại gì ? Người kia đáp rằng : “Như nước, mật và vỏ sò !” Nước thì tướng ẩm ướt, mật thì tướng ngọt, vỏ sò thì tướng màu. Tuy dẫn ba dụ nhưng chưa là sữa thật. Này thiện nam tử ! Ta nói ví dụ đèn để dụ cho chúng sinh cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Rời khỏi nước thì không có sông, chúng sinh cũng vậy, lìa khỏi năm ấm rồi không biệt chúng sinh (không có chúng sinh khác). Này thiện nam tử ! Như lìa khỏi thùng xe, bánh xe, nan hoa bánh xe, trục xe, vành bánh xe thì lại không có cái xe khác (biệt xa). Chúng sinh cũng vậy. Này thiện nam tử ! Nếu muốn được hợp với cái ví dụ đèn đó thì ông hãy lắng nghe ! Lắng nghe ! Ta nay sẽ vì ông nói ! Bấc (tim) đèn là dụ cho hai mươi lăm cõi hữu, dầu là dụ cho ái, ánh sáng dụ cho trí tuệ, phá trừ đen tối là dụ cho phá vô minh, hơi ấm dụ cho Thánh đạo. Như đèn hết dầu thì ánh sáng diệt, chúng sinh hết ái thì thấy Phật tính. Tuy có danh sắc nhưng chẳng thể trói buộc ! Tuy lại ở tại hai mươi lăm cõi hữu nhưng chẳng bị sự ô nhiễm của các hữu !

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Chúng sinh ngũ ấm rỗng không, không sở hữu thì có ai thọ giáo tu tập đạo ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Tất cả chúng sinh đều có tâm niệm, tâm tuệ, tâm phát, tâm siêng tinh tấn, tâm tín, tâm định…. Những pháp như vậy tuy từng niệm từng niệm sinh diệt nhưng giống như cũ, tương tợ nối tiếp nhau, chẳng đoạn dứt nên gọi là tu đạo.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Những pháp như vậy đều từng niệm từng niệm diệt. Từng niệm từng niệm diệt này cũng tương tợ nối tiếp nhau thì làm sao tu tập ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Ðèn tuy từng niệm từng niệm diệt mà có ánh sáng phá trừ tối tăm. Các pháp từng niệm.v.v… cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Như chúng sinh ăn tuy từng niệm từng niệm diệt nhưng cũng khiến cho người đói mà được no đủ. Ví như thuốc tốt nhất tuy từng niệm từng niệm diệt nhưng cũng có thể khỏi bệnh. Ánh sáng mặt trời mặt trăng tuy từng niệm từng niệm diệt nhưng cũng có thể làm tăng trưởng rừng cây, thảo mộc. Này thiện nam tử ! Ông nói rằng, từng niệm từng niệm diệt thì làm sao tăng trưởng ? Thì tâm chẳng đoạn nên gọi là tăng trưởng. Này thiện nam tử ! Ví như người đọc sách. Việc đọc chữ câu chẳng được cùng một lúc, trước chẳng đến giữa, giữa chẳng đến sau. Người đọc cùng chữ và cả tâm tưởng đều từng niệm từng niệm diệt, rồi do tu lâu nên được thông lợi. Này thiện nam tử ! Ví như người thợ vàng, từ lúc mới tập cho đến lúc bạc đầu, tuy từng niệm từng niệm diệt, trước chẳng đến sau, nhưng do tích tập nên việc làm trở nên khéo đẹp. Vậy nên được xưng là thợ vàng giỏi bậc thầy. Ðọc tụng  kinh sách cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Ví như hạt giống, đất cũng chẳng dạy nó rằng : “Ngươi phải nảy mầm !” Nhưng do tính của pháp nên mầm tự sinh ra. Cho đến hoa đất cũng chẳng dạy người : “Người phải kết trái !” Nhưng do tính của pháp nên trái tự sinh ra. Chúng sinh tu đạo cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Ví như phép tính mà một chẳng đến hai, hai chẳng đến ba… tuy niệm niệm diệt mà đến ngàn vạn. Chúng sinh tu đạo cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Ðèn từng niệm từng niệm diệt, ánh sáng mới diệt chẳng bảo ánh sáng sau rằng: “Ta diệt, người sinh ra phải phá các tối tăm !” Này thiện nam tử ! Ví như con trâu nghé sinh ra liền tìm sữa. Trí tìm sữa thật không có người dạy, tuy từng niệm diệt mà ban đầu đói, về sau no. Vậy nên phải biết, chẳng nên tương tợ. Nếu tương tợ thì chẳng nên sinh khác. Chúng sinh tu đạo cũng lại như vậy, ban đầu tuy chưa tăng trưởng nhưng do tu lâu nên có thể phá hoại tất cả phiền não.

Bồ tát Sư Tử Hống nói rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Như lời đức Phật nói, người Tu đà hoàn được quả chứng rồi, tuy sinh vào đất nước ác nhưng còn cố giữ giới, chẳng sát sinh, trộm cắp, dâm dục, lưỡng thiệc, uống rượu thì Tu đà hoàn ấm liền ở chỗ này diệt, chẳng đến đất nước ác. Tu đạo cũng vậy, chẳng đến đất nước ác. Nếu tương tợ thì vì sao chẳng sinh đến đất nước thanh tịnh vi diệu ? Nếu ấm của đất nước ác chẳng phải là ấm của Tu đà hoàn thì làm sao mà được chẳng tạo tác nghiệp ác ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Người Tu đà hoàn tuy sinh ở nước ác nhưng nhất định chẳng mất danh xưng Tu đà hoàn và ấm chẳng tương tợ nên ta dẫn con trâu nghé làm ví dụ. Người Tu đà hoàn tuy sinh ở nước ác nhưng do đạo lực nên chẳng tạo tác nghiệp ác. Này thiện nam tử ! Ví như núi Hương có vua Sư Tử. Vậy nên tất cả loài chim bay, thú chạy tuyệt tích ở núi này, chẳng dám đến gần. Có lúc vua Sư tử này đến trong núi Tuyết, tất cả loài chim thú còn chẳng trụ. Người Tu đà hoàn cũng lại như vậy, tuy  chẳng tu đạo nhưng do đạo lực nên chẳng làm các  ác. Này thiện nam tử ! Ví như có người ăn uống cam lộ. Cam lộ tuy diệt nhưng nhờ thế lực của nó nên khiến cho người này chẳng sinh, chẳng chết. Này thiện nam tử ! Như núi Tu Di có thuốc thượng diệu tên là Lăng Dà Lợi. Có người uống nó, tuy từng niệm từng niệm diệt nhưng do dược lực nên chẳng gặp hoạn khổ. Này thiện nam tử ! Như chỗ ngồi của vua Chuyển Luân, tuy nhà vua chẳng ở tại đó nhưng không ai dám gần. Vì sao vậy ? Vì uy lực của nhà vua. Người Tu đà hoàn cũng lại như vậy, tuy sinh ở nước ác, chẳng tu tập đạo nhưng do đạo lực nên chẳng làm nghiệp ác. Này thiện nam tử ! Ấm của người Tu đà hoàn ở đây mà diệt thì tuy sinh ra ấm khác còn chẳng mất ấm của Tu đà hoàn. Này thiện nam tử ! Ví như chúng sinh vì quả trái nên ở trong hạt giống đã làm nhiều việc như bón phân, tưới nước. Chưa được quả trái mà hạt lại diệt và cũng được gọi là nhân hạt được quả. Ấm của Tu đà hoàn cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Ví như có người của cải giàu to mà chỉ có một người con mà đã chết trước. Người con ấy có con nhưng lại ở nước khác. Người nhà giàu ấy bỗng nhiên vội mạng chung. Người cháu nghe tin này đã trở về thu lấy sản nghiệp, tuy biết của cải chẳng phải là sở tác của người ấy, nhưng người ấy thâu lấy không ai ngăn giữ. Vì sao vậy? Vì do cùng một họ vậy. Ấm của Tu đà hoàn cũng lại như vậy.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Như bài kệ đức Phật đã nói :

Tỳ kheo nếu tu tập

Giới, định, tuệ ba môn

Phải biết là chẳng thoái

Gần gũi Ðại Niết Bàn.

Thưa đức Thế Tôn ! Sao gọi tu Giới ? Sao gọi là tu Ðịnh ? Sao gọi là tu Tuệ ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Nếu có người thọ trì cấm giới chỉ vì tự lợi, làm người trời thụ hưởng an vui, chẳng vì độ thoát tất cả chúng sinh, chẳng vì hộ trì chánh pháp Vô Thượng, chỉ vì lợi dưỡng, sợ ba đường ác, vì sắc lực của mạng sống, an vô ngại biện, sợ sệt vương pháp, danh xấu, tiếng dơ, vì sự nghiệp thế gian…. Hộ trì giới như vậy thì chẳng được gọi là tu tập giới. Này thiện nam tử ! Sao gọi là tu tập giới chân thật ? Khi thọ trì giới, nếu vì độ thoát tất cả chúng sinh, vì hộ chánh pháp, vì độ người chưa độ, giải thoát kẻ chưa giải thoát đưa về người chưa về, người chưa vào Niết Bàn khiến cho vào… Khi tu như vậy chẳng thấy giới, chẳng thấy tướng của giới, chẳng thấy người trì giới, chẳng thấy quả báo, chẳng quan sát kẻ hủy phạm. Này thiện nam tử ! Nếu có thể như vậy thì đó gọi là tu tập giới vậy.

Sao gọi là tu tập Tam muội ? Khi tu Tam muội mà vì tự độ, vì lợi dưỡng, chẳng vì chúng sinh, chẳng vì hộ pháp, vì thấy lỗi tham dục, ăn bẩn.v.v…, căn nam nữ.v.v… chín lỗ chẳng sạch, chiến đấu, tranh tụng, đánh đâm, sát hại lẫn nhau…. Nếu vì những việc này mà tu Tam muội thì đó chẳng gọi là tu tập Tam muội. Này thiện nam tử ! Sao gọi là tu tập Tam muội chân thật ? Nếu vì chúng sinh tu tập Tam muội, ở trong chúng sinh được lòng bình đẳng, vì khiến cho chúng sinh được pháp bất thoái, vì khiến cho chúng sinh được tâm của Thánh, vì khiến cho chúng sinh được Ðại Thừa, vì muốn hộ trì pháp Vô Thượng, vì khiến cho chúng sinh chẳng thoái tâm Bồ Ðề, vì khiến cho chúng sinh được Thủ Lăng Nghiêm, vì khiến cho chúng sinh được Kim Cương Tam muội, vì khiến cho chúng sinh được Ðà la ni, vì khiến cho chúng sinh được bốn vô ngại, vì khiến cho chúng sinh thấy Phật tính… khi làm hạnh này, hành giả chẳng thấy Tam muội, chẳng thấy tướng Tam muội, chẳng thấy người tu, chẳng thấy quả báo. Này thiện nam tử ! Nếu có thể như vậy thì đó gọi là tu tập Tam muội.

Sao gọi là tu Trí tuệ ? Nếu có người tu suy nghĩ rằng : “Ta nếu tu tập trí tuệ như vậy thì được giải thoát, qua khỏi ba đường ác. Phật ra đời khó như hoa Ưu Ðàm, ta nay có thể đoạn các kết phiền não, nhất định được giải thoát. Vậy nên ta phải siêng tu trí tuệ, mau chóng đoạn phiền não, sớm được độ thoát”. Người tu như vậy chẳng được gọi là tu tập trí tuệ. Sao gọi là người tu tập trí tuệ chân thật ? Nếu người đó quan sát khổ sinh, già, chết, tất cả chúng sinh bị vô minh che phủ, chẳng biết tu tập đạo Vô Thượng chân chính mà phát nguyện rằng: “Ta nguyện đem thân này thay cho chúng sinh thọ đại khổ não ! Tâm bần cùng, hạ tiện, phá giới và nghiệp tham sân, si… sẵn có của chúng sinh, ta nguyện đến gom hết về thân ta ! Nguyện các chúng sinh chẳng sinh ra tham thủ (lấy), chẳng bị sự trói buộc của danh sắc ! Nguyện cho các chúng sinh sớm qua khỏi sinh tử, khiến cho ta ở đó một mình mà chẳng chán ! Nguyện khiến cho tất cả đều được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác”. Khi tu như vậy, hành giả chẳng thấy trí tuệ, chẳng thấy tướng của trí tuệ, chẳng thấy người tu, chẳng thấy quả báo. Ðó gọi là tu tập trí tuệ.

Này thiện nam tử ! Tu tập Giới, Ðịnh, Tuệ như vậy thì đó gọi là Bồ tát. Chẳng thể tu Giới, Ðịnh, Tuệ như vậy thì đó gọi là Thanh Văn.

Lại nữa, này thiện nam tử ! Sao lại gọi là tu tập Giới ? Nếu là người có thể phá hoại mười sáu luật nghi ác của tất cả chúng sinh. Những gì là mười sáu ? Một là vì lợi mà nuôi dê con cho béo rồi đem bán. Hai là vì lợi mà mua nó về giết mổ. Ba là vì lợi mà nuôi dưỡng heo cho béo rồi đem bán. Bốn là vì lợi mua nó về giết mổ. Năm là vì lợi mà nuôi dưỡng trâu nghé cho béo rồi đem bán. Sáu là vì lợi mua nó về giết mổ. Bảy là vì lợi nuôi gà cho mập béo rồi đem bán. Tám là vì lợi mua nó về giết mổ. Chín là câu cá. Mười là làm thợ săn. Mười một là cướp đọat. Mười hai là làm kẻ đầu nậu nem chả. Mười ba là giăng lưới bắt loài chim bay. Mười bốn là nói hai lưỡi. Mười lăm là làm ngục tốt. Mười sáu là nguyền rủa loài rồng (chú rồng?). Nếu hành giả có thể vì chúng sinh đoạn trừ vĩnh viễn mười sáu nghiệp ác như vậy thì đó gọi là Tu Giới.

Sao gọi là tu Ðịnh ? Nếu có thể đoạn tất cả Tam muội của thế gian, như là vô thân Tam muội có thể khiến cho chúng sinh sinh tâm điên đảo cho là Niết Bàn. Lại như là vô biên tâm Tam muội, Tịnh tụ Tam muội, Thế biên Tam muội, Thế đoạn Tam muội, Thế tính Tam muội, Thế trượng phu Tam muội, Phi tưởng phi phi tưởng Tam muội… Những định như vậy có thể khiến cho chúng sinh sinh lòng điên đảo cho là Niết Bàn. Nếu có thể đoạn trừ vĩnh viễn những Tam muội như vậy thì đó gọi là tu tập Tam muội.

Sao gọi là tu tập Trí tuệ ? Là có thể phá hết ác kiến sở hữu của thế gian. Tất cả chúng sinh đều có ác kiến, như gọi sắc tức là ngã cũng là ngã sở, trong sắc có ngã trong ngã có sắc… cho đến thức cũng như vậy, sắc tức là ngã mà sắc diệt ngã tồn tại, sắc tức là ngã mà sắc diệt ngã diệt. Lại có người nói rằng, tác giả gọi là ngã, người thọ nhận gọi là sắc. Lại có người nói rằng, tác giả gọi là sắc, người thọ gọi là ngã. Lại có người nói rằng, không người làm, kẻ thọ mà tự sinh, tự diệt đều chẳng phải là nhân duyên. Lại có người nói rằng, không tác không thọ mà đều là sự tạo tác của Tự tại. Lại có người nói rằng, không có người làm, không có người thọ, tất cả đều là sự tạo tác của thời tiết. Lại có người nói rằng, tác giả thọ giả đều không sở hữu, địa, thủy, hỏa, phong, không, năm đại, gọi là chúng sinh. Này thiện nam tử ! Nếu có thể phá hoại tất cả những  ác kiến như vậy của chúng sinh thì đó gọi là tu tập Trí tuệ.

Này thiện nam tử ! Tu tập Giới là vì thân thanh tịnh. Tu tập Tam muội là vì tâm thanh tịnh. Tu tập Trí tuệ là vì phá hoại tâm nghi hoặc. Hủy hoại tâm nghi hoặc là vì tu tập đạo. Tu tập đạo là để thấy Phật tính. Thấy Phật tính là để được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ðược Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác là để được Vô Thượng Ðại Niết Bàn. Ðược Ðại Niết Bàn là để đoạn trừ tất cả sinh tử, tất cả phiền não, tất cả các hữu, tất cả các giới, tất cả các đế của chúng sinh. Ðoạn trừ được sinh tử… cho đến đoạn các đế là được pháp Thường – Lạc – Ngã – Tịnh vậy.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Như lời đức Phật nói, nếu chẳng sinh diệt thì gọi là Ðại Niết Bàn. Sinh cũng như vậy, chẳng sinh chẳng diệt thì vì sao chẳng được gọi là Niết Bàn ?

– Này thiện nam tử ! Ðúng vậy ! Ðúng vậy ! Ðúng như lời ông nói ! Sinh này tuy lại chẳng sinh, chẳng diệt mà có đầu có cuối.

– Thưa đức Thế Tôn ! Pháp sinh tử này cũng không đầu cuối. Nếu nó không đầu cuối thì gọi là thường mà thường tức là Niết Bàn thì vì sao chẳng gọi sinh tử là Niết Bàn vậy ?

– Này thiện nam tử ! Pháp sinh tử này đều có nhân quả mà có nhân quả nên chẳng được gọi là Niết Bàn. Vì sao vậy ? Vì thể của Niết Bàn không có nhân quả.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Luận về Niết Bàn thì cũng có nhân quả, như lời đức Phật nói :

Từ nhân nên sinh thiên (sinh lên trời)

Từ nhân rời đường ác

Từ nhân nên Niết Bàn

Vậy nên có nhân hết !

Như thuở trước, đức Phật bảo các vị Tỳ kheo rằng : “Ta nay sẽ nói về đạo quả Sa môn !” Nói Sa môn là gọi người có thể tu đủ Giới, Ðịnh, Trí tuệ. Ðạo là gọi tám Thánh đạo. Sa môn quả là gọi Niết Bàn. Thưa đức Thế Tôn ! Niết Bàn như vậy há chẳng phải là quả sao ? Sao đức Phật nói rằng, thể của Niết Bàn không nhân, không quả ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Ta sở dĩ tuyên nói nhân của Niết Bàn thì gọi là Phật tính. Nhưng tính của Phật tính chẳng sinh ra Niết Bàn, nên ta nói rằng, Niết Bàn không nhân, có thể phá hoại phiền não nên gọi là đại quả, chẳng từ đạo sinh ra nên gọi là không quả. Vậy nên Niết Bàn không nhân, không quả.

Bồ tát Sư Tử Hống nói rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Chúng sinh Phật tính là đều có chung hay là mỗi mỗi có riêng ? Nếu có chung thì một người khi được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì tất cả chúng sinh cũng nên đồng được hết. Thưa đức Thế Tôn ! Như hai mươi người đồng có một kẻ oán, nếu một người có thể diệt trừ thì mười chín người còn lại đều cũng đồng trừ khỏi. Phật tính nếu vậy thì khi một người được thì những người còn lại cũng nên được. Nếu mỗi mỗi đều có riêng thì là vô thường. Vì sao vậy ? Vì có thể tính toán. Nhưng lời Phật nói rằng, chúng sinh Phật tính chẳng một, chẳng hai. Nếu mỗi mỗi đều có riêng thì chẳng nên nói rằng, các đức Phật bình đẳng ! Cũng chẳng nên nói, Phật tính như hư không !

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Chúng sinh Phật tính chẳng một, chẳng hai, các đức Phật bình đẳng giống như hư không, tất cả chúng sinh đồng có chung Phật tính đó. Nếu có người có thể tu tám Thánh đạo thì phải biết người này đã được minh kiến (sự thấy sáng suốt). Này thiện nam tử ! Núi Tuyết có thứ cỏ tên là Nhẫn nhục. Nếu trâu ăn nó thì thành đề hồ, chúng sinh Phật cũng lại như vậy.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Như lời đức Phật nói, cỏ Nhẫn nhục là một hay nhiều vậy ?  Như cỏ ấy một thì trâu ăn hết. Như cỏ ấy nhiều thì làm sao mà nói rằng, chúng sinh Phật tính cũng như vậy được? Như lời đức Phật nói, nếu có người tu tập tám Thánh đạo thì thấy Phật tính, nghĩa này chẳng phải vậy ! Vì sao vậy ? Vì nếu đạo một thì như cỏ Nhẫn nhục nếu có tận. Như đạo ấy có tâm mà một người tu rồi thì những kẻ còn lại không có phần. Ðạo nếu nhiều thì làm sao được nói rằng, tu tập đầy đủ, cũng chẳng được gọi là trí Tát Bà Nhã (Nhất Thiết Chúng Trí).

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Như đường đi bằng phẳng. Tất cả chúng sinh đều đi ở trong đó không chướng ngại gì. Giữa đường có cây mà bóng của nó che mát mẻ. Người đi dường dừng xe ngựa nghỉ ngơi ở dưới bóng cây. Nhưng bóng cây ấy thường trụ chẳng dời, cũng chẳng tiêu hoại, không giữ người đi. Ðường đi dụ cho Thánh đạo, cây dụ cho Phật tính. Này thiện nam tử ! Ví như ngôi thành lớn có một cửa. Tuy có nhiều người qua đó vào ra mà đều không ai có thể làm chướng ngại, cũng lại không có người phá hủy mà mang đi theo. Này thiện nam tử ! Ví như cây cầu mà người đi qua nhờ nó, cũng không có người ngăn chận, chướng ngại, hủy hoại lấy đem đi. Này thiện nam tử ! Ví như vị lương y trị liệu mọi thứ bệnh, cũng không có ai có thể ngăn chận vị lương y này trị người này bỏ người kia. Thánh đạo Phật tính cũng lại như vậy.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Việc dẫn các ví dụ, ý nghĩa chẳng như vậy. Vì sao vậy ? Vì người trước ở tại đường thì người sau bị cản ngại thì làm sao mà nói không có chướng ngại được ? Các ví dụ còn lại cũng đều vậy ! Thánh đạo Phật tính nếu như vậy thì khi một người tu thì làm cản ngại những người còn lại.

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Như lời ông nói là, nghĩa chẳng tương ứng. Lời dụ của ta về đạo là thiểu phần dụ, chẳng phải tất cả. Này thiện nam tử ! Ðạo của thế gian thì có chướng ngại, đây, đó khác biệt, không có bình đẳng. Ðạo vô lậu thì chẳng như vậy, có thể khiến cho chúng sinh không có chướng ngại, bình đẳng không hai, không có địa phương, xứ sở đây, đó khác biệt. Chánh đạo như vậy có thể vì Phật tính của tất cả chúng sinh mà làm liễu nhân, chẳng làm sinh nhân giống như đèn sáng soi rõ được vật. Này thiện nam tử ! Tất cả chúng sinh đều đồng “vô minh” nhân duyên với “hành” nên chẳng thể nói rằng, một người “vô minh” nhân duyên với “hành” rồi thì những người còn lại ấy nên không có. Tất cả chúng sinh đều có “vô minh” nhân duyên với “hành”. Vậy nên nói rằng, mười hai nhân duyên tất cả bình đẳng. Việc tu chánh đạo vô lậu của chúng sinh cũng lại như vậy, bình đẳng đoạn tuyệt phiền não, tứ sinh (bốn cách sinh ra của các loài vật), các giới, đạo hữu vi của chúng sinh. Do nghĩa này nên gọi là bình đẳng. Trong số ấy có người chứng thấy biết đó, đây không có chướng ngại. Vậy nên được gọi là Nhất thiết trí.

Bồ tát Sư Tử Hống nói rằng :

– Thân của tất cả chúng sinh chẳng một chủng loại, hoặc có thân trời, hoặc có thân người, thân súc sinh, thân ngã quỉ, thân địa ngục. Như vậy là nhiều thân sai khác, chẳng phải là một thì làm sao mà nói rằng, Phật tính là một?

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Ví như có người để độc vào trong sữa thì cho đến đề hồ đều có độc. Sữa chẳng gọi là lạc, lạc chẳng gọi là sữa… cho đến đề hồ cũng lại như vậy, danh tự tuy biến đổi nhưng tính độc chẳng mất mà ở khắp trong năm vị đều như vậy. Nếu uống đề hồ đó cũng có thể giết người mà thật ra chẳng để độc ở trong đề hồ. Chúng sinh Phật tính cũng lại như vậy, tuy chúng sinh năm đường, thọ thân khác biệt mà Phật tính này thường một không biến đổi.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Mười sáu nước lớn, có sáu thành lớn như là: thành Xá Bà Ðề, thành Bà Chỉ Ða, thành Chiêm Bà, thành Tỳ Xá Ly, thành Ba La Nại, thành Vương Xá. Sáu thành như vậy rất lớn trong đời vì sao đức Như Lai bỏ đi hết mà ở tại ngôi thành nhỏ Câu Thi Na nơi vùng biên địa tệ ác rất nhỏ hẹp này để vào Bát Niết Bàn ?

– Này thiện nam tử ! Ông chẳng nên nói rằng, thành Câu Thi Na là nơi biên địa tệ ác rất nhỏ hẹp mà nên nói rằng, thành này được trang nghiêm công đức vi diệu. Vì sao vậy ? Vì là chỗ sở hành của các đức Phật, Bồ tát vậy ! Này thiện nam tử ! Ví như nhà người hèn mà nếu vua ở qua thì nên khen ngợi là nhà này nghiêm lệ, phước đức thành tựu mới khiến cho đại vương quay xe đoái hoài đến ! Này thiện nam tử ! Như người bệnh nặng uống thuốc dơ bẩn tệ ác mà uống xong, thì bệnh khỏi, liền ứng lên vui mừng, khen ngợi là thuốc tối thượng, tối diệu có thể trị khỏi bệnh của mình. Này thiện nam tử ! Như người đi thuyền ở trong biển lớn. Thuyền ấy bỗng nhiên hư hoại, không có gì nương tựa nên nhân nhờ vào thây chết mà được đến bờ kia. Ðến bờ kia rồi, người ấy vui mừng khen ngợi thây chết này rằng : “Ta nhờ gặp nhau với thây chết mà được yên ổn”. Câu Thi Na thành cũng lại như vậy, nơi đó mới chính là hành xứ của các đức Phật, Bồ tát thì làm sao mà nói rằng, thành nhỏ nơi biên địa tệ ác nhỏ hẹp được ? Này thiện nam tử ! Ta nhớ thuở xa xưa qua hằng hà sa số kiếp, có kiếp tên là Thiện Giác có vị Thánh vương họ Kiều Thi Ca với bảy báu thành tựu, ngàn đứa con đầy đủ. Vị vua ấy, người đầu tiên tạo lập ngôi thành này, giáp vòng ngang dọc mười hai do tuần, đất trang nghiêm bằng bảy báu, có nhiều dòng sông mà nước trong sạch, ngon ngọt, êm dịu. Ðó là sông Ni Liên Thiền, sông Y La Bạt Ðề, sông Hy Liên Thiên, sông Y Sưu Mạt Ðể, sông Tỳ Bà Xá Na.v.v… Những sông như vậy có đến năm trăm dòng. Bờ của những con sông này cây cối rậm rạp hoa trái tươi sạch. Thời bấy giờ thọ mạng của nhân dân không lường, lúc vị Chuyển Luân Thánh Vương qua tuổi một trăm rồi thì xướng lên rằng : “Như lời đức Phật nói, tất cả các pháp đều vô thường, nếu ai có thể tu tập mười pháp thiện thì có thể đoạn trừ đại khổ vô thường như vậy”. Nhân dân nghe rồi đều chung phụng tu mười pháp thiện. Ta lúc bấy giờ nghe danh hiệu đức Phật, thọ trì mười pháp thiện, suy nghĩ  tu tập, mới phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Phát tâm này rồi, ta lại đem pháp này chuyển giáo cho vô lượng vô biên chúng sinh mà nói rằng, tất cả pháp vô thường, biến hoại. Vậy nên ta hôm nay tiếp tục ở chỗ này cũng nói về các pháp vô thường biến hoại, chỉ nói rằng, thân Phật là pháp thường trụ. Ta nhớ nhân duyên đã làm thuở xa xưa nên hôm nay đến tại đây mà Niết Bàn và cũng muốn thù báo ơn xưa của đất này. Do nghĩa này nên trong kinh ta nói rằng, quyến thuộc ta thọ ân có thể báo đáp ! Lại nữa, này thiện nam tử ! Thuở xưa, khi chúng sinh thọ mạng không lường, bấy giờ thành này tên là Câu Xá Bạt Ðề, giáp vòng ngang dọc năm mươi do tuần, cư dân cõi Diêm phù đề sống gần gũi tiếp giáp nhau mà gà bay kịp đến, có vị vua Chuyển Luân tên là Thiện Kiến với bảy báu thành tựu, ngàn người con đầy đủ, làm vua bốn thiên hạ. Vị thái tử thứ nhất suy nghĩ về chánh pháp được thành Bích Chi Phật. Vua Chuyển Luân thấy vị thái tử ấy thành Bích Chi Phật với uy nghi tường tự, thần thông hiếm có. Thấy việc này rồi, ông liền bỏ ngôi vua như bỏ bãi nước bọt, xuất gia ở tại vùng Ta La song thọ này, tu tập Từ tâm trong tám vạn năm và Bi tâm, Hỷ tâm, Xả tâm cùng đều tu mỗi thứ tám vạn năm. Này thiện nam tử ! Ông muốn biết Thánh Vương Thiện Kiến bấy giờ ? Chính là thân ta đó. Vậy nên ta nay thường ưa vận dụng bốn pháp như vậy. Bốn pháp này gọi là Tam muội. Do nghĩa này nên thân Như Lai Thường Lạc Ngã Tịnh. Này thiện nam tử ! Do nhân duyên này nên hôm nay ta đến tại vùng Ta La song thọ của thành Câu Thi Na này mà Tam muội chánh thọ. Này thiện nam tử ! Ta nhớ thuở xa xưa qua vô lượng kiếp, thành này bấy giờ tên là Ca Tỳ La Vệ. Thành ấy có vị vua tên là Bạch Phạn. Phu nhân của vua ấy tên là Ma Gia. Nhà vua có một người con tên là Tất Ðạt Ða. Lúc bấy giờ, vị vương tử chẳng do thầy dạy, tự nhiên suy nghĩ mà được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, có hai vị đệ tử, một tên là Xá Lợi Phất, hai tên là Mục Kiền Liên và người đệ tử hầu hạ tên là A Nan. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn ở tại vùng Song Thọ diễn nói kinh Ðại Niết Bàn như vậy. Ta khi đó ở tại pháp hội được dự việc ấy, nghe nói các chúng sinh đều có Phật tính. Nghe điều này rồi, ta liền đối với Bồ Ðề được Bất Thoái Chuyển, liền tự phát nguyện rằng : “Nguyện vào đời vị lai, khi thành Phật thì cha mẹ, đất nước, tên họ, đệ tử, người thị giả, nói pháp, giáo hóa…. đều như đức Thế Tôn hôm nay, không có khác. Do nhân duyên này nên hôm nay ta đến tại đây tuyên dương diễn nói kinh Ðại Niết Bàn !

Này thiện nam tử ! Khi ta mới xuất gia chưa được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, vua Tần Bà Ta La sai sứ đến nói rằng : “Thưa thái tử Tất Ðạt ! Nếu ngài làm Thánh vương thì tôi sẽ là thần thuộc ! Nếu ngài chẳng ưa ngôi vua, xuất gia được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì nguyện xin ngài đi đến thành Vương Xá này trước để nói pháp độ người, thọ sự cúng dường của tôi !” Ta mặc nhiên nhận lời mời của vị vua đó.

Này thiện nam tử ! Khi ta mới được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, ta đã hướng về nước Kiệt Xà thì ở dòng sông Y Liên Thiền, có vị Bà la môn dòng họ Ca Diếp cùng với năm trăm đệ tử sống tại cạnh dòng sông đó, cầu đạo Vô Thượng. Ta vì người này nên đến nói pháp. Ông Ca Diếp nói rằng : “Này ông Cù Ðàm ! Ta nay tuổi đã hơn một trăm hai mươi. Nhân dân trong nước Ma Dà Ðà và đại vương Tần Bà Ta La của nước ấy đều cho là ta đã chứng quả La Hán. Ta nay nếu ở trước ông thính thọ pháp thì tất cả nhân dân, hoặc sinh lòng điên đảo nghĩ rằng : “Ðại đức Ca Diếp chẳng phải là La Hán sao ?”. Nguyện cầu ông Cù Ðàm mau chóng đi đến chỗ khác ! Nếu nhân dân ở đây quyết định biết công đức của ông Cù Ðàm hơn ta thì chúng ta không được họ cúng dường nữa !” Ta đáp rằng : “Này Ca Diếp ! Nếu ông đối với ta chẳng sinh ra sân hận to lớn nặng nề thì hãy cho ta nghỉ lại một đêm, sáng mai sẽ đi sớm !” Ông Ca Diếp nói rằng : “Này ông Cù Ðàm ! Lòng ta không đối với người khác ái trọng nhau lắm, chỉ vì chỗ ở của ta có một con độc long mà tính khí hung dữ, sợ nguy hại nhau thôi !” Ta nói rằng : “Này Ca Diếp ! Ðộc long độc chẳng gì hơn ba độc mà ta nay đã đoạn trừ thì độc của thế gian ta chẳng sợ gì !” Ông Ca Diếp lại nói rằng : “Nếu ngài có thể chẳng sợ thì hay thay ! Xin mời ngài trụ !” Này thiện nam tử ! Ta vào lúc ấy cố vì ông Ca Diếp thị hiện mười tám sự biến hóa, như trong Kinh đã nói. Bấy giờ ông Ca Diếp và bọn năm trăm quyến thuộc của ông ấy đã thấy nghe thế rồi chứng quả La Hán. Lúc đó, ông Ca Diếp lại có hai người em, một người tên Dà Gia Ca Diếp, hai tên là Na Ðề Ca Diếp. Thầy trò quyến thuộc lại có năm trăm người, cũng đều chứng được quả A la hán. Ðồ chúng của Lục sư trong thành Vương Xá nghe việc này rồi liền đối với ta sinh ra lòng đại ác. Khi ta đến dự sự tín thọ  vua kia thỉnh đến thành Vương Xá, chưa đến trung lộ thì nhà vua cùng với vô lượng trăm ngàn chúng đều đến phụng nghinh. Ta vì họ nói pháp. Nghe pháp rồi thì tám vạn sáu ngàn chư thiên Dục giới phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Mười hai vạn người của vua Tần Bà Ta La đem đi theo đều được quả Tu đà hoàn. Vô lượng chúng sinh thành tựu tâm Nhẫn. Ðã vào thành rồi, ta độ cho ông Xá Lợi Phất, ông Ðại Mục Kiền Liên và hai trăm năm mươi người quyến thuộc họ, khiến cho những người ấy bỏ tấm lòng xưa, xuất gia học đạo. Ta liền trụ ở thành đó, nhận sự cúng dường của nhà vua. Bọn lục sư ngoại đạo cùng nhau tụ tập, đi đến thành Xá Vệ.

Trong thành đó có một ông trưởng giả tên là Tu Ðạt Ða, vì con đi hỏi vợ nên đến thành Vương Xá. Ðã đến được thành đó rồi, ông ở nhờ nhà của ông trưởng giả San Ðàn Na. Ông trưởng giả này nửa đêm thức dậy bảo các quyến thuộc rằng : “Các ông hãy dậy đi ! Hãy mau chóng cùng nhau trang nghiêm, quét dọn nhà cửa, bày biện đủ đồ ăn ngon lành !” Ông Tu Ðạt nghe rồi liền tự suy nghĩ rằng : “Họ sắp chẳng phải muốn thỉnh vua Ma Dà sao ? Hay là có hội hoan lạc hôn nhân ư ?”. Suy nghĩ vậy rồi liền hỏi rằng : “Thưa đại sĩ ! Ngài muốn thỉnh đức vua nước Ma Dà Ðà, Tần Bà Ta La chăng ? Hay là có hội hoan lạc hôn nhân ư ? Việc gì mà gấp gáp chẳng an đến như vậy ?”. Ông trưởng giả đáp rằng : “Chẳng phải vậy! Thưa cư sĩ ! Ngày mai tôi thỉnh đức Phật, đấng Pháp Vương Vô Thượng !”. Ông trưởng giả Tu Ðạt mới nghe đến danh hiệu Phật thì lông của thân đều dựng đứng, lại liền hỏi rằng : “Sao gọi là Phật ?”. Ông trưởng giả đáp rằng: “Ông chẳng nghe sao ? Ở thành Ca Tỳ La có người con dòng họ Thích, tự là Tất Ðạt Ða, dòng họ Cù Ðàm, cha tên là Bạch Phạn. Vị ấy sinh chưa lâu, thầy tướng xem tướng quyết định ngài sẽ làm Chuyển Luân Thánh Vương, như quả Am La đã ở trong tay. Nếu tâm nguyện ngài chẳng ưa mà bỏ đi xuất gia thì không thầy dạy bảo, tự giác ngộ được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, tận diệt tham, sân, si, thường trụ không biến đổi, chẳng sinh, chẳng diệt, không có lo sợ, đối với các chúng sinh lòng ngài bình đẳng, giống như cha mẹ bình đẳng nhìn xem con một, đối với thân tâm sở hữu là tối thắng trong mọi người, tuy hơn tất cả mà không kiêu mạn, bồi đắp tổn hại hai việc lòng ngài không hai, trí tuệ thông đạt đối với pháp không ngăn ngại, đầy đủ mười lực, bốn vô sở úy, năm trí Tam muội, đại từ đại bi và ba niệm xứ…. Vậy nên hiệu là Phật. Sáng mai này ngài nhận lời mời của tôi đến đây. Vậy nên vội vội vàng vàng chưa rảnh rổi ngắm nhìn nhau (thăm hỏi nhau)”. Ông Tu Ðạt Ða nói rằng : “Hay thay ! Thưa đại sĩ ! Ðấng gọi là Phật công đức Vô Thượng, nay ở chỗ nào ?”. Ông trưởng giả đáp rằng: “Nay ở tại đại thành Vương Xá này ! Ngài đang trụ ở tinh xá Trúc Lâm Ca Lan Ðà !” Ông Tu Ðạt Ða một lòng nghĩ đến công đức sở hữu của đức Phật, mười lực, bốn vô sở úy, năm trí Tam muội, đại từ đại bi và ba niệm xứ. Khi tác khởi ý niệm này, ông bỗng nhiên thấy ánh sáng lớn. Ánh sáng ấy mạnh mẽ giống như mặt trời trắng, ông liền tìm theo ánh sáng, ra đến dưới cửa thành. Nhờ thần lực của đức Phật nên cửa tự nhiên mở ra. Ðã ra khỏi cửa rồi, trên đường đi có miếu thờ trời, ông Tu Ðạt đi qua lễ bái cung kính thì liền trở lại tối đen, lòng sinh kinh sợ, lại muốn quay trở về chỗ nghỉ. Ở cửa thành đó, có một vị Thiên Thần bảo ông Tu Ðạt rằng : “Ngài nếu đến chỗ của đức Như Lai thì được nhiều thiện lợi !”. Ông Tu Ðạt nói rằng : “Sao gọi là thiện lợi ?”. Vị trời nói rằng : “Này trưởng giả ! Giả sử có người bảo quấn quanh, tuấn mã trăm thớt, hương tượng trăm đầu, xe báu trăm chiếc, đúc vàng làm người số ấy lại cả trăm, nữ nhân đoan chính đeo chuỗi ngọc với mọi báu lấp đầy khoảng trống, cung trạch điện đường thượng diệu, nhà cửa mái hiên chạm khắc hoa văn, chậu vàng đựng gạo bạc, chậu bạc đựng gạo vàng, số ấy mỗi thứ một trăm đem thí cho một người. Cứ như vậy mà đắp đổi thí cho hết cõi Diêm Phù Ðề thì sở đắc công đức chẳng bằng có người phát ý nghĩ một bước đi đến chỗ đức Như Lai !” Ông Tu Ðạt Ða nói rằng : “Này thiện nam tử ! Ông là ai vậy ?”. Vị trời đáp rằng : “Này trưởng giả ! Ta là con của Bà la môn Thắng Tướng, là thiện tri thức của ông thuở xưa. Ta nhân ngày trước gặp được ngài Xá Lợi Phất và Ðại Mục Kiền Liên, lòng sinh ra vui mừng nên khi xả thân được làm con của vua trời Tỳ Sa Môn, chuyên coi việc thủ hộ thành Vương Xá này. Ta nhân lễ bái ngài Xá Lợi Phất.v.v… sinh lòng vui mừng mà còn được thân diệu hảo như vậy, huống là sẽ được diện kiến đức đại sư Như Lai để lễ bái cúng dường !”. Ông trưởng giả Tu Ðạt nghe việc này rồi liền quay trở lại đường đi đến chỗ của ta. Ðến nơi rồi, ông ấy đầu mặt kính lễ dưới chân ta, ta liền vì ông mà nói pháp. Ông trưởng giả nghe rồi được quả Tu đà hoàn, đã được quả chứng, lại thỉnh ta rằng : “Ðức Như Lai đại từ ! Nguyện xin ngài đoái hoài đến thành Xá Vệ thọ nhận sự cúng dường nhỏ nhoi của con!”. Ta liền hỏi rằng : “Thành Xá Vệ của ông, vã có tinh xá dung thọ được nhau chăng ?”. Ông Tu Ðạt Ða đáp rằng : “Nếu đức Phật thương xót quyết định rũ lòng đoái hoài đến thì con sẽ tự hết sức kiến tạo thành lập”. Vào thời bấy giờ, ta mặc nhiên thọ thỉnh (nhận lời mời). Ông Tu Ðạt trưởng giả đã được hứa rồi liền bạch với ta rằng : “Con từ xưa đến nay chưa làm việc ấy ! Nguyện xin đức Như Lai sai ngài Xá Lợi Phất  chỉ dẫn, trao đổi nghi thức, phép tắc cho con !” Ta liền giao phó lệnh bảo ông Xá Lợi Phất đi giúp đỡ xây dựng. Ông Xá Lợi Phất cùng ông Tu Ðạt Ða ngồi chung một xe, đi đến thành Xá Vệ. Nhờ thần lực của ta nên trải qua một ngày đêm đã đến nơi, ông Tu Ðạt Ða bạch ông Xá Lợi Phất rằng : “Thưa đại đức ! Ở bên ngoài thành này, chỗ nào có đất chẳng gần, chẳng xa lắm suối nhiều ao, có rừng cây đẹp, hoa quả xum suê, thanh tịnh, nhàn nhã, khoáng đãng thì tôi sẽ trong đó vì đức Phật Thế Tôn và Tỳ kheo Tăng mà tạo lập tinh xá ?”. Ngài Xá Lợi Phất nói rằng : “Có vườn cây ông Kỳ Ðà là chẳng gần, chẳng xa, thanh tịnh, tịch mịch, có nhiều dòng suối, cây cối, hoa trái theo mùa mà có. Chỗ này tối thắng có thể tạo lập tinh xá !”. Ông Tu Ðạt Ða nghe lời nói này rồi liền đến chỗ của ông trưởng giả Kỳ Ðà, nói với ông Kỳ Ðà rằng : “Tôi nay muốn vì đấng Pháp Vương Vô Thượng tạo lập tăng phường mà chỉ khu đất vườn của ngài là có thể tạo lập được. Tôi nay muốn mua, ngài có thể cho mua không ?”. Ông Kỳ Ðà đáp rằng : “Giả sử ông dùng vàng trải khắp đất ấy ta còn chẳng cho nhau !”. Ông Tu Ðạt Ða nói rằng : “Hay thay! Thưa ngài Kỳ Ðà ! Ðất rừng thuộc về tôi, còn ngài thì nhận lấy vàng”. Ông Kỳ Ðà đáp rằng : “Vườn ta chẳng bán thì làm sao nhận lấy vàng?”. Ông Tu Ðạt Ða nói rằng : “Nếu ý ngài chẳng rõ thì chúng ta sẽ đi chung đến chỗ của người quyết đoán việc (phân xử) !”. Hai ông trưởng giả liền cùng chung đi đến, người phân xử nói rằng : “Vườn thuộc về ông Tu Ðạt, ông Kỳ Ðà nhận lấy vàng !”. Ông trưởng giả Tu Ðạt tức thời sai người, xe ngựa chở, vát theo gom lại, rồi trải ra đất, trong một ngày mà chỉ còn năm trăm bước là vàng chưa cùng khắp. Ông Kỳ Ðà nói rằng : “Thưa trưởng giả ! Nếu ngài hối hận thì tùy ý, ngài được dừng lại !”. Ông Tu Ðạt nói rằng : “Tôi chẳng hối hận ! Ðang tự suy nghĩ  sẽ xuất kho nào cho đủ vàng đây ?”. Ông Kỳ Ðà nghĩ rằng: ”Ðấng Như Lai Pháp Vương chân thật là vô thượng ! Lời nói diệu pháp của ngài thanh tịnh vô nhiễm nên đã khiến cho người ấy khinh của báu đến vậy !”, nên liền nói với ông Tu Ðạt rằng : “Chỗ còn chưa khắp, ngài chẳng cần lấy vàng nữa ! Mời ngài nhận lấy đất ! Tôi tự vì đức Phật tạo lập môn lâu (cửa có lầu) luôn khiến cho đức Như Lai đi qua cửa ấy mà vào, ra !”. Ông trưởng giả Kỳ Ðà tự tạo lập môn lâu. Ông trưởng giả Tu Ðạt thì trong bảy ngày, thành lập phòng lớn đủ ba trăm gian, thiền phường, chỗ vắng lặng, sáu mươi ba chỗ, nhà nghỉ đông, điện đường mùa hạ mỗi mỗi đều khác biệt, chỗ nấu ăn, nhà tắm, nơi rửa chân, nhà xí (chỗ tiểu tiện) đại tiểu tiện… không gì chẳng đầy đủ. Xây dựng xong rồi, ông liền bưng lư hương, hướng về thành Vương Xá, từ xa nói lên rằng : “Việc xây dựng đã xong rồi, con nguyện xin đức Như Lai từ ai lân mẫn vì các chúng sinh thọ nhận trú xứ này !”. Ta huyền diệu biết được lòng của ông trưởng giả này nên liền cùng với đại chúng bắt đầu đi khỏi thành Vương Xá, ví như khoảnh khắc người tráng sĩ co duỗi cánh tay, thì chúng ta đã đến tinh xá của Tu Ðạt trong vườn cây của ông Kỳ Ðà ở tại thành Xá Vệ. Khi ta đã đến rồi thì ông Tu Ðạt trưởng giả đem cơ sở xây dựng ấy dâng cho ta. Khi ta nhận rồi liền ở luôn trong tinh xá ấy.

*********

– Lúc bấy giờ, lòng của Lục sư ngoại đạo sinh ra ganh ghét nên chúng đều tập hợp lại đi đến chỗ vua Ba Tư Nặc mà nói rằng :

– Thưa đại vương ! Ngài phải biết, cảnh đất nước của vua thanh bình, nhàn tịnh, chân thật là chỗ trụ dừng của người xuất gia. Vậy nên chúng tôi vì việc ấy mà đi đến đây. Thưa đại vương ! Ngài dùng chính pháp cai trị, vì dân trừ hoạn nạn. Ông Sa môn Cù Ðàm tuổi còn ấu trĩ, ngày học lại cạn, đạo thuật không thi thố. Ðất nước này trước có những bậc túc đức kỳ cựu, nhưng ông ấy tự cậy vào dòng giống vua, chẳng sinh lòng cung kính. Nếu là dòng giống vua thì theo pháp nên cai trị dân, còn như ông ấy xuất gia thì nên cung kính bậc túc đức. Ðại vương giỏi nghe biết. Ông Sa môn Cù Ðàm chân thật chẳng sinh ra trong dòng dõi vua. Sa môn Cù Ðàm nếu có cha mẹ thì vì sao cướp đoạt cha mẹ người khác ? Thưa đại vương ! Trong Kinh của ta nói rằng, qua một ngàn năm rồi có một điều quái lạ, vật huyễn hóa xuất hiện, là gọi ông Sa môn Cù Ðàm đó. Vậy nên phải biết là ông Sa môn Cù Ðàm không cha không mẹ. Nếu có cha mẹ thì làm sao ông nói rằng, các pháp Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã, Vô tác, Vô thọ. Ông dùng huyễn thuật lừa dối mê hoặc chúng sinh, kẻ ngu tín thọ, người trí bỏ đi. Thưa đại vương ! Phàm là nhân vương (vua loài người) thì trời xuống làm cha mẹ. Như cái cân, như đất, như gió, như lửa, như đường, như sông, như cầu, như đèn, như mặt trời, như mặt trăng… cứ như pháp mà quyết đoán sự việc, chẳng chọn lựa kẻ oán, người thân. Ông Sa môn Cù Ðàm chẳng cho tôi sống, theo chỗ tôi đi mà truy đuổi cha bỏ. Nguyện xin đại vương cho phép tôi cùng ông đó thi đấu đạo lực. Nếu ông đó thắng tôi thì tôi sẽ thuộc về ông đó. Nếu tôi thắng ông đó thì ông đó sẽ thuộc về tôi.

Nhà vua nói rằng :

– Thưa đại đức ! Các ông mỗi mỗi đều tự có pháp tu hành, chỗ dừng ở cũng đều chẳng đồng. Ta nay nhất định biết đức Như Lai Thế Tôn đối với các ông không phương hại gì !

Lục sư đáp rằng :

– Sao gọi là không phương hại ? Ông Sa môn Cù Ðàm dùng phép huyễn thuật dụ dỗ lừa dối mọi người và Bà la môn qui phục hết rồi. Nhà vua nếu cho phép tôi cùng ông ấy thi đấu đạo lực thì thiện danh của nhà vua sẽ lưu bố tám phương. Như ông ấy chẳng thi đấu thì tiếng xấu đầy đường !

Nhà vua nói rằng :

– Này đại đức ! Các ông chưa biết đạo lực của đức Như Lai uy thần lồng lộng nên cầu xin thi đấu ! Nếu các ông định biết rồi thì sợ chẳng thể cầu xin đâu !

– Thưa đại vương ! Ngài nay đã thọ nhận sự huyễn hóa của ông Cù Ðàm rồi sao ? Nguyện xin Ðại vương quan tâm cho phép và giám sát, chớ khinh chúng tôi ! Việc chưa rõ mà nói suông chẳng bằng kiểm nghiệm bằng sự thật !

Nhà vua nói rằng :

– Hay thay ! Hay thay !

Bọn Lục sư vui mừng mà ra về.

Vua Ba Tư Nặc liền ra lệnh nghiêm chỉnh xa giá đi đến chỗ của ta, đầu mặt lễ kính, nhiễu quanh bên phải ba vòng, lui về ngồi một bên mà bạch với ta rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Lục sư hướng đến Như Lai cầu thi đấu đạo lực mà con chẳng lượng độ đã dám hứa với họ rồi !

Ðức Phật dạy rằng :

– Này đại vương ! Hay thay ! Hay thay ! Chỉ lại ở nước này, khắp nơi nơi sẽ tạo lập Tăng phường. Vì sao vậy ? Vì nếu ta cùng bọn thi đấu thần lực thì trong chúng đó, người chịu sự giáo hóa nhiều lên mà chỗ này nhỏ hẹp thì làm sao dung thọ hết.

Này thiện nam tử ! – Ðức Phật nói với Bồ tát Sư Tử Hống – Vào lúc bấy giờ, ta vì bọn Lục sư nên từ ngày mùng một đến ngày mười lăm thị hiện thần thông biến hóa rất hy hữu. Ðang khi đó thì vô lượng chúng sinh phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, vô lượng chúng sinh ở chỗ Tam Bảo phát sinh niềm tin, chẳng nghi ngờ. Số đồ chúng của Lục sư ấy nhiều vô lượng, phá tâm tà kiến, theo chánh pháp xuất gia. Vô lượng chúng sinh ở trong đạo Bồ Ðề được tâm bất thoái. Vô lượng chúng sinh được Ðà la ni, các tam muội môn. Vô lượng chúng sinh được từ quả Tu đà hoàn đến quả A la hán.

Lúc bấy giờ, nội tâm của Lục sư xấu hổ, cùng nhau vay quanh kéo đến thành Bà Chỉ Ða, dạy nhân dân ở đó tín thọ tà pháp là : Sa môn Cù Ðàm chỉ nói về việc rỗng không. Này thiện nam tử ! Khi ta vì mẹ ở dưới cây Ba-lợi-chất-đa trên trời Ðao Lợi an cư nói pháp thì lúc đó tâm trạng của bọn Lục sư rất vui mừng, xướng lên rằng : “Hay thay! Huyễn thuật của ông Cù Ðàm nay đã diệt mất !” Chúng lại dạy cho vô lượng vô số chúng sinh tăng trưởng tà kiến. Lúc bấy giờ, vua Tần Bà Ta La vua Ba Tư Nặc và bốn bộ chúng bạch ông Mục Kiền Liên rằng : “Thưa đại đức ! Cõi Diêm phù đề này tà kiến tăng trưởng, chúng sinh có thể lo làm những việc rất đen tối! Nguyện xin đại đức đi lên cõi trời đó, cúi đầu trước đấng Thế Tôn và bạch như lời chúng tôi rằng : “Ví như con trâu nghé mới sinh chưa lâu, nếu chẳng được sữa thì nhất định phải chết không gì nghi ngờ. Chúng sinh chúng con cũng lại như vậy, nguyện xin đức Như Lai thương xót chúng sinh trở về đến trụ nơi đây ?”. Ông Mục Kiền Liên lặng thinh mà hứa, rồi trong khoảnh khắc như vị đại lực sĩ co duỗi cánh tay, ông đi lên cõi trời đó, đến chỗ đức Thế Tôn, bạch đức Phật rằng : “Bốn chúng sở hữu trong cõi Diêm phù đề khát khao, ngưỡng mộ đức Như Lai, nhớ nghĩ mong gặp nghe pháp ! Vua Tần Bà Ta La, vua Ba Tư Nặc và bốn chúng.v.v… cúi đầu dưới chân. Chúng sinh sở hữu của cõi Diêm phù đề này, tà kiến tăng trưởng, hành động rất đen tối, rất đáng thương xót. Ví như con trâu nghé sinh ra chưa lâu, nếu chẳng được sữa thì nhất định phải chết, chẳng nghi ngờ gì ! Chúng con cũng vậy, nguyện xin đức Như Lai vì chúng sinh mà trở lại ở trong cõi Diêm phù đề này !”. Phật bảo ông Mục Kiền Liên rằng : “Ông hãy mau trở về cõi Diêm phù đề bảo các vị quốc vương và bốn bộï chúng là lui về sau bảy ngày, ta sẽ trở xuống ! Nhưng vì bọn Lục sư nên ta lại phải đến thành Bà Chỉ Ða kia”. Qua bảy ngày rồi, Phật cùng với Thích thiên, Phạm thiên, Ma thiên, vô lượng thiên tử và tất cả trời người của hội Thủ Ðà, vay quanh trước sau đi đến thành Bà Chỉ Ða, rống tiếng Ðại sư tử mà nói lên rằng : “Chỉ độc nhất trong pháp của ta mới có Sa môn và Bà la môn ! Tất cả các pháp vô thường vô ngã còn Niết Bàn thì tịch tịnh lìa các lỗi hoạn. Nếu nói rằng, pháp khác cũng có Sa môn và Bà la môn, có Thường, có Ngã, có Niết Bàn thì không có điều này. Lúc bấy giờ, vô lượng vô biên chúng sinh phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Khi đó Lục sư đều nói với nhau rằng : “Nếu trong pháp ta thật không có Sa môn,  Bà la môn thì làm sao mà được sự cúng dường của thế gian. Ðến đây thì bọn Lục sư lại tụ tập nhau đi dến Tỳ Xá Ly.

Này thiện nam tử ! Vào một thuở, ta trụ ở vùng rừng Am La của Tỳ Xá Ly, có người con gái Am La biết ta ở trong đó nên muốn đến chỗ của ta. Vào lúc ấy, ta bảo các Tỳkheo phải quán niệm xứ, giỏi tu trí tuệ, theo việc tu tập tâm chớ buông lung (phóng dật) ! Sao gọi là quán niệm xứ ? Nếu có Tỳkheo quan sát nội thân chẳng thấy ngã và cả ngã sở, quan sát ngoại thân và nội ngoại thân chẳng thấy ngã và cả ngã sở, quan sát thọ tâm pháp cũng lại như vậy thì đó gọi là niệm xứ. Sao gọi là tu tập trí tuệ ? Nếu có Tỳkheo chân thật mà thấy khổ, tập, diệt, đạo thì đó gọi là Tỳkheo tu tập trí tuệ. Sao gọi là tâm chẳng phóng dật ? Nếu có Tỳkheo niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm xả, niệm trời thì đó gọi là Tỳkheo tâm chẳng phóng dật. Ngay khi đó thì người con gái Am La liền đến chỗ của ta đầu mặt làm lễ, nhiễu quanh bên phải ba vòng, tu kính xong rồi, lui về ngồi một phía. Này thiện nam tử ! Ta vào lúc ấy, vì người con gái Am La đúng theo yêu cầu mà nói pháp. Người con gái này nghe rồi liền phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

Trong thành đó có năm trăm Lê xa tử đi đến chỗ ta đầu mặt làm lễ, nhiễu quanh bên phải ba vòng, tu kính xong rồi, lui về ngồi một phía. Ta lại vì các Lê xa tử theo đúng yêu cầu mà nói pháp như vầy : “Này các thiện nam tử ! Bàn về phóng dật có năm việc quả báo. Những gì là năm ? Một là chẳng được tự tại về tài lợi. Hai là tiếng xấu lưu bố ra bên ngoài. Ba là chẳng ưa ban cho bần cùng thiếu thốn. Bốn là chẳng ưa thấy bốn chúng. Năm là chẳng được thân chư thiên. Này các thiện nam tử ! Nhân chẳng phóng dật có thể sinh ra pháp thế gian, pháp xuất thế gian. Nếu có người muốn được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì nên phải siêng tu pháp chẳng phóng dật. Phàm người phóng dật lại được mười ba quả báo. Những gì là mười ba ? Một là ưa vì thế gian tác nghiệp. Hai là ưa nói lời nói vô ích. Ba là thường ưa nằm ngủ nghỉ lâu. Bốn là ưa nói việc thế gian. Năm là thường ưa gần gũi bạn xấu. Sáu là lười biếng uể oải. Bảy là thường bị sự khinh rẻ của người khác. Tám là tuy có điều nghe biết nhưng lại liền quên mất. Chính là ưa ở chỗ biên địa. Mười là chẳng thể điều phục các căn. Mười một là ăn chẳng biết đủ. Mười hai là chẳng ưa không tịch. Mười ba là việc thấy chẳng chính. Này thiện nam tử ! Phàm người phóng dật tuy được gần Phật và đệ tử của Phật nhưng còn rất là xa !”. Các Lê xa tử bạch rằng: “Chúng con  tự biết là người phóng dật ! Vì sao vậy ? Vì như chúng con chẳng phóng dật thì đấng Như Lai Pháp Vương sẽ ra khỏi cõi của con !”. Trong đại hội có con của một Bà la môn tên là Vô Thắng nói với các Lê xa rằng : “Hay thay ! Hay thay ! Ðúng như lời ông nói ! Vua Tần Bà Ta La đã thu hoạch đại lợi. Ðức Như Lai Thế Tôn xuất hiện ở đất nước vua ấy giống như ao lớn mọc lên hoa sen đẹp, tuy mọc lên tại trong nước nhưng nước chẳng thể làm dơ bẩn. Này các Lê xa tử ! Ðức Phật cũng như vậy, tuy sinh ở nước đó nhưng chẳng bị sự trệ ngại của pháp thế gian. Các đức Phật Thế Tôn không ra không vào nhưng vì chúng sinh nên xuất hiện ở đời mà chẳng bị sự trệ ngài của pháp thế gian. Các ông tự đam mê phóng túng theo năm dục, chẳng biết thân cận đến chỗ đức Như Lai nên mới gọi là người phóng túng, chứ chẳng phải đức Phật xuất hiện ở nước Ma Dà Ðà mà gọi là phóng dật vậy. Vì sao vậy ? Vì đức Như Lai Thế Tôn giống như mặt trời mặt trăng chẳng phải vì một người, hai người mà ra đời !” Các Lê xa nghe lời nói đó rồi liền phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, họ lại nói lên rằng : “Hay thay ! Hay thay ! Thưa đồng tử Vô Thắng ! Ông khéo nói lời nói thiện diệu như vậy !”. Các Lê xa, từng người từng người đều cởi một cái áo đang mặc trên người, đem hiến thí cho đồng tử Vô Thắng. Vô Thắng nhận rồi chuyển dâng lên cho ta và lại nói rằng : “Thưa đức Thế Tôn ! Con từ Lê xa được số áo này, nguyện xin đức Như Lai thương xót chúng sinh mà nhận sự hiến dâng của con !” Vào lúc ấy, ta thương đồng tử Vô Thắng đó nên liền nạp thọ. Các Lê xa đồng thời chắp tay nói lên lời như vầy : “Nguyện xin đức Như Lai ở đất nước này mà an cư một thời gian, nhận sự cúng dường nhỏ nhoi của con !” Ta mặc nhiên nhận lời mời của các Lê xa.

Lúc đó, bọn Lục sư nghe việc như vậy rồi thì thầy trò cùngnhau đi đến thành Ba La Nại. Bấy gờ, ta lại sang thành Ba La Nại, trụ ở bên dòng sông Ba La. Ở Ba La Nại có con ông trưởng giả tên là Bảo Xứng đam mê phóng túng theo năm dục mà chẳng biết chẳng phải là thường. Do ta đến nên ông ấy tự nhiên được pháp Bạch Cốt quán. Ông thấy điện đường, nhà cửa, cung nhân, thể nữ đều là xương trắng, lòng sinh ra kinh sợ như thấy dao bén, rắn độc, như giặc, như lửa nên liền ra khỏi nhà đi đến chỗ ta. Theo đường đi ông kêu lên rằng : “Ông Sa môn Cù Ðàm ơi ! Tôi nay như bị sự truy đuổi của giặc rất là kinh sợ ! Nguyện xin được ngài cứu tế cho !”.  Phật nói rằng: “Này thiện nam tử ! Phật Pháp Tăng yên ổn không sợ !”. Con ông trưởng giả nói rằng : “Nếu trong Tam Bảo không có sự sợ hãi thì con hôm nay cũng sẽ được không sở úy!”. Ta liền cho ông ấy xuất gia làm đạo. Con ông trưởng giả lại có năm mươi người đồng bạn, từ xa nghe tin bạn Bảo Xứng chán lìa xuất gia liền chung hòa thuận cùng nhau xuất gia.

Bọn Lục sư nghe rồi, đắp đổi lại đi đến đại thành Chiêm Bà. Tất cả nhân dân nước Chiêm Bà đều chung phụng sự đồ chúng Lục sư, ban đầu chưa nghe tên Phật Pháp Tăng, có nhiều những người tạo tác nghiệp cực ác. Vào lúc ấy, ta vì chúng sinh nên đến thành Chiêm Bà. Trong thành đó có ông Ðại trưởng giả không có người nối dõi nên cúng dường phụng sự Lục sư để cầu con. Về sau chẳng bao lâu, vợ ông ấy mang thai, ông trưởng giả biết rồi đi đến chỗ của Lục sư, vui mừng mà nói rằng : “Vợ tôi mang thai là trai hay gái vậy ?” Lục sư đáp rằng: “Sinh ra nhất định là gái !”. Ông trưởng giả nghe rồi, lòng sinh sầu não. Lại có người bạn đến hỏi ông trưởng giả : “Vì sao mà sầu não đến như vậy ?”. Ông trưởng giả đáp rằng : “Vợ tôi mang thai chưa biết trai hay gái nên đến hỏi Lục sư thì Lục sư thấy nói là như pháp tướng của ta, sinh ra nhất định là con gái. Tôi nghe lời nói này rồi tự nghĩ mình tuổi già, của cải giàu có không lường, như đứa bé ấy chẳng phải là con trai thì không biết phú chúc (giao phó lại) cho ai nên tôi buồn”. Người bạn lại nói rằng : “Ông không trí tuệ, trước chẳng nghe sao? Anh em ông Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp là đệ tử của ai ? Của Phật hay là của Lục sư vậy ? Nếu Lục sư là Nhất Thiết Trí thì ông Ca Diếp vì sao bỏ đi làm đệ tử của đức Phật. Lại, ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên.v.v… và các quốc vương như Tần Bà Ta La.v.v… các phu nhân của vua như Mạt Lợi phu nhân.v.v… trưởng giả các nước như ông Tu Ðạt Ða.v.v… Những người như vậy chẳng phải là đệ tử của đức Phật sao ? Khoáng dã quỉ thần, vua A Xà Thế, vua say Hộ Tài, Ương Quật Ma La, lòng ác hừng hực muốn hại mẹ mình…. Những bọn như vậy chẳng phải đã được đức Như Lai điều phục rồi sao ? Thưa trưởng giả ! Ðức Như Lai Thế Tôn đối với tất cả pháp thấy biết không ngăn ngại nên gọi là Phật, lời nói ra không hai nên gọi là Như Lai, đã đoạn trừ phiền não nên gọi là A La Ha. Lời nói của đức Thế Tôn nhất định không có hai, còn Lục sư chẳng vậy nên làm sao có thể tin được ?. Ðức Như Lai nay ở gần tại đây, nếu muốn biết thật thì phải đến chỗ đức Phật!”. Lúc bấy giờ ông trưởng giả liền cùng với người đó đi đến chỗ của ta, đầu mặt làm lễ, nhiễu quanh bên phải ba vòng, chắp tay, quì dài mà bạch rằng: “Thưa đức Thế Tôn ! Ngài đối với các chúng sinh bình đẳng không hai, oán thân một tướng ! Con bị sự trói buộc của ái kết nên đối với oán thân chưa thể không hai, nay con muốn hỏi đức Như Lai việc đời mà thân tâm tự thẹn và sợ nên chưa dám phát ngôn ! Thưa đức Thế Tôn ! Vợ con mang thai, thầy tướng Lục sư nói rằng, sinh ra nhất định là con gái, việc này ra sao ?”. Phật nói rằng : “Này trưởng giả! Vợ ông mang thai là con trai, không gì nghi ngờ ! Ðứa bé ấy sinh ra rồi thì phước đức không ai sánh kịp!”. Bấy giờ, ông trưởng giả nghe lời nói này rồi, phát sinh đại hoan hỷ liền lui ra, quay về nhà. Bấy giờ, bọn Lục sư nghe ta huyền ký đứa bé sinh ra nhất định là con trai có phước đức lớn thì lòng họ phát sinh ganh ghét, dùng quả Am La hòa hợp với thuốc độc, mang đến nhà ông trưởng giả ấy và nói với ông rằng : “Giỏi thay ! Ông Cù Ðàm khéo nói tướng của con ông!” Vợ ông tới tháng sinh có thể uống thứ thuốc này ! Uống thuốc này rồi thì đứa trẻ đoan chính, sản phụ không hoạn nạn !”. Ông trưởng giả vui mừng nhận thứ thuốc độc ấy, đem cho vợ mình bảo uống. Vợ ông trưởng giả uống xong liền chết, bọn Lục sư vui mừng đi cùng khắp thành thị, cao giọng xướng lên rằng: “Ông Sa môn Cù Ðàm huyền ký cho vợ ông trưởng giả kia sẽ sinh ra con trai. Ðứa trẻ ấy phước đức cả thiên hạ không ai hơn. Nay đứa trẻ chưa sinh mà người mẹ đã mất mạng”. Bấy giờ ông trưởng giả lại ở chỗ ta, sinh lòng chẳng tin, liền y theo phép thế gian tẩn liệm vào áo quan, đưa đến bên ngoài thành, chất nhiều củi khô, dùng lửa đốt. Ta dùng đạo nhãn thấy rõ việc này, ra lệnh cho ông A Nan lấy áo lại cho ta, ta muốn đến chỗ đó tiêu diệt tà kiến. Vua trời Tỳ Sa Môn bảo đại tướng Ma Ni Bạt Ðà rằng : “Ðức Như Lai hôm nay muốn đến nơi tha ma kia (nghĩa địa). Ông hãy mau đến đó dọn quét sạch sẽ, làm bằng phẳng, đặt tòa ngồi sư tử, tìm kiếm hương hoa đẹp mà trang nghiêm đất ấy”. Lúc bấy giờ, bọn Lục sư từ xa thấy ta đến, đều nói với nhau rằng : “Ông Sa môn Cù Ðàm đến bãi tha ma này, muốn ăn thịt sao ?”. Bấy giờ có nhiều người chưa được pháp nhãn, các Ưu bà tắc đều ôm lòng thẹn sợ mà bạch với ta rằng : “Người đàn bà đó đã chết rồi, nguyện xin ngài chẳng nên đến đó !”. Lúc ấy ông A Nan nói với mọi người rằng : “Hãy đợi giây lát ! Chẳng bao lâu nữa, đức Như Lai sẽ siển khai rộng rãi cảnh giới rộng rãi của chư Phật !”. Khi ta đến rồi, ngồi vào tòa sư tử thì ông trưởng giả nói khó với ta rằng : “Lời nói không hai nên gọi là Thế Tôn, nay người mẹ đã chết mất thì làm sao sinh con đây ?”. Ta nói rằng : “Này trưởng giả ! Vào lúc ấy, ta chẳng thấy ông hỏi về mạng người mẹ ngắn hay dài mà chỉ hỏi thai đang mang là trai hay gái thôi ! Các đức Phật Như Lai lời nói ra không hai ! Vậy nên ông phải biết, nhất định được con trai !” Lúc đó tử thi bị lửa đốt cháy, bụng nứt ra, đứa con từ trong đó xuất hiện ngồi ngay thẳng trong đám lửa giống như chim uyên ương ở trên đài hoa sen. Bọn Lục sư thấy rồi lại nói lên rằng : “Yêu mị thay ! Ông Cù Ðàm khéo làm huyễn thuật !”. Ông trưởng giả thấy rồi, lòng lại vui mừng, quở trách bọn Lục sư : “Nếu nói là huyễn thì sao các ông chẳng làm !”. Ta vào lúc ấy liền bảo ông Kỳ Bà : “Ông đến trong đám lửa bồng đứa bé đó lại đây !”. Ông Kỳ Bà sắp đi đến thì bọn Lục sư trước đã mở lời nói với ông Kỳ Bà rằng : “Việc tạo tác huyễn thuật của ông Cù Ðàm chưa chắc là thường vậy. Hoặc có thể hay chẳng thể bồng ra, nếu đứa trẻ ấy chẳng thể thoát được thì có thể ông bị cháy hại lay ! Ông nay làm sao có thể tín thọ lời nói của ông ấy ?”. Ông Kỳ Bà đáp rằng : “Ðức Như Lai sai vào địa ngục A Tỳ, lửa dữ ở đó còn chẳng thiêu đốt huống là lửa của thế gian !”. Bấy giờ, ông Kỳ Bà vào trước đám lửa như là vào trong nước dòng sông mát mẻ, bồng đem đứa trẻ đó trở về đến chỗ của ta và trao đứa bé cho ta. Ta nhận đứa bé rồi bảo ông trưởng giả rằng : “Thọ mạng của tất cả chúng sinh bất định như bọt trên nước. Chúng sinh nếu có quả báo nghiệp nặng thì lửa chẳng thể đốt, độc chẳng thể hại. Quả báo nghiệp của đứa bé này chẳng phải là sự tạo tác của ta !”. Ông trưởng giả bạch rằng : “Hay thay ! Thưa đức Thế Tôn ! Ðứa trẻ này nếu được tận thiên mệnh của nó thì nguyện xin đức Như Lai vì nó mà đặt tên cho !”

Ðứa Phật dạy rằng :

– Ðứa trẻ này sinh ra trong lửa mạnh mà lửa gọi là thọ đề nên tên là Thọ Ðề !

Lúc bấy giờ, trong chúng hội thấy thần hóa của ta, vô lượng chúng sinh phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

Lúc bấy giờ, bọn Lục sư đi cùng khắp sáu thành mà chẳng được dừng chân, cúi đầu xấu hổ, lại đi đến thành Câu Thi Na này. Ðã đến đây rồi, họ xướng lên rằng : “Mọi người phải biết rằng, ông Sa môn Cù Ðàm là một nhà đại huyễn thuật, lừa dối mê hoặc thiên hạ khắp sáu ngôi đại thành. Ví như nhà huyễn thuật huyễn tác bốn thứ binh như là binh xe, binh ngựa, binh voi, binh bộ. Lại nữa, ông huyễn tác ra đủ thứ chuỗi ngọc, thành quách, cung điện, nhà cửa, sông ao, cây cối…. ông Sa môn Cù Ðàm cũng lại như vậy, huyễn tác thân vua rồi vì vua nói pháp. Hoặc làm ra thân Sa môn, Bà la môn, thân nam, thân nữ, thân lớn, thân nhỏ, hoặc làm ra thân súc sinh, thân quỉ thần. Ông ấy hoặc nói vô thường, hoặc nói có thường, hoặc nói khổ hay nói vui, hoặc nói có ngã hay nói không ngã, hoặc nói có tịnh hay nói không tịnh, hoặc nói có hay nói không… Những điều đó là hư vọng nên gọi là huyễn. Ví như nhân hạt, tùy theo hạt mà được trái, ông Sa môn Cù Ðàm cũng lại như vậy, người mẹ sinh ra ông ấy là Ma Gia đã là huyễn thì ông ấy là con chẳng được coi là chẳng phải huyễn. Ông Sa môn Cù Ðàm không có tri kiến chân thật. Các thầy Bà la môn từng trải nhiều năm tháng, tu tập khổ hạnh, hộ trì cấm giới, còn nói ra chưa có tri kiến chân thật. Huống gì là ông Cù Ðàm tuổi trẻ, học cạn, chẳng tu khổ hạnh thì làm sao mà có tri kiến chân thật ? Nếu ông ấy có thể đủ đầy bảy năm khổ hạnh, vẫn thấy còn chẳng nhiều, huống là việc tu tập chẳng trọn sáu năm ? Người ngu không trí mới tín thọ lời dạy của ông ấy. Như bậc thầy lớn về huyễn thuật lừa dối mê hoặc kẻ ngu, ông Sa môn Cù Ðàm cũng lại như vậy”. Này thiện nam tử ! Như vậy, bọn Lục sư ở trong thành lớn này vì chúng sinh tăng trưởng tà kiến. Này thiện nam tử ! Ta thấy việc này, lòng sinh thương xót, dùng thần lực ấy triệu thỉnh những Ðại Bồ tát trong mười phương vân tập về khu rừng này, đầy dẫy cùng khắp cả bốn mươi do tuần. Hôm nay, ở trong rừng này ta rống tiếng đại sư tử. Này thiện nam tử ! Tuy đối với “không xứ” mà có nhiều lời nói thì chẳng được gọi là Sư Tử Hống. Nhưng ở trong đại chúng gồm những người trí này thì chân thật được gọi là Ðại Sư Tử Hống. Sư Tử Hống là nói : Tất cả pháp đều vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh và chỉ nói : Như Lai Thường Lạc Ngã Tịnh.

Lúc bấy giờ, bọn Lục sư lại nói lời này : “Nếu ông Cù Ðàm có ngã thì ta cũng có ngã. Sở dĩ nói ngã là thấy thì gọi là ngã. Thưa ông Cù Ðàm, ví như có người hướng về trông thấy vật thì ngã cũng như vậy. Hướng là dụ cho mắt, thấy là dụ cho ngã”. Ðức Phật bảo : “Này Lục sư ! Nếu nói rằng, thấy gọi là ngã thì nghĩa này chẳng đúng ! Vì sao vậy ? Vì sự dẫn dụ của các ông là nhân hướng thấy thì con người ở tại một hướng, sáu căn đều sử dụng. Nếu nhất định có ngã nhân mắt thấy thì sao chẳng như trong một căn đó đều dò tìm các trần ? Nếu trong một căn chẳng thể cùng một lúc nghe thấy sáu trần thì phải biết là không ngã. Sự dẫn dụ “hướng”, tuy trải qua trăm năm thấy thì sự thấy của nhân không khác và nhãn căn ngần ấy năm già đi thì căn thục (chín) cũng nên không khác. Con người hướng khác nên thấy trong, thấy ngoài. Nhãn căn nếu vậy thì cũng nên trong ngoài cùng một lúc đều thấy. Nếu chẳng thấy thì sao gọi là có ngã ?”. Bọn Lục sư lại nói rằng : “Thưa ông Cù Ðàm ! Nếu không Ngã thì ai có thể thấy vậy?”. Ðức Phật nói rằng : “Có hình sắc, có ánh sáng, có tâm, có mắt, bốn thứ này hòa hợp nên gọi là thấy. Trong đó thật không có người thấy và cái để thấy. Chúng sinh điên đão nói rằng, có người thấy và cả cái để thấy. Do nghĩa này nên sở kiến tất cả chúng sinh là điên đảo còn sở kiến của các đức Phật, Bồ tát là chân thật. Này Lục sư ! Nếu nói sắc là ngã thì điều đó cũng chẳng đúng ! Vì sao vậy ? Vì sắc thật chẳng phải ngã. Sắc nếu là ngã thì chẳng nên có được hình mạo xấu xí! Vì sao lại có bốn dòng họ sai biệt mà chẳng đều một dòng Bà la môn vậy ? Vì sao lệ thuộc người khác chẳng được tự tại, các căn khiếm khuyết, sinh ra chẳng đầy đủ ?. Vì sao chẳng làm thân chư thiên mà thọ đủ thứ các thân địa ngục, súc sinh, ngã quỉ?. Nếu chẳng thể tạo tác tùy ý thì phải biết nhất định không có ngã vậy. Do không ngã nên gọi là vô thường mà vô thường nên khổ. Do khổ nên là rỗng không mà rỗng không nên điên đảo. Do điên đảo nên tất cả chúng sinh luân chuyển sinh tử. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Này Lục sư ! Như Lai Thế Tôn đoạn tuyệt vĩnh viễn sắc phược (sự trói buộc của sắc)… cho đến thức phược. Vậy nên gọi là Thường Lạc Ngã Tịnh. Lại nữa, sắc thì tức là nhân duyên mà nếu là nhân duyên thì gọi là vô ngã. Vô ngã thì gọi là khổ, không. Thân của Như Lai chẳng phải là nhân duyên mà chẳng phải nhân duyên nên gọi là có ngã. Nếu có ngã thì tức là Thường Lạc Tịnh !”. Bọn Lục sư lại nói rằng : “Thưa ông Cù Ðàm ! Sắc cũng chẳng phải ngã… cho đến thức cũng chẳng phải ngã ! Ngã thì khắp tất cả mọi nơi giống như hư không !”. Ðức Phật nói rằng : “Nếu khắp nơi có Ngã thì chẳng nên nói rằng, Ngã ban đầu chẳng thấy. Nếu ban đầu chẳng thấy thì biết là cái thấy đó vốn không mà nay có. Nếu vốn không mà nay có thì đó gọi là vô thường. Nếu vô thường thì làm sao nói rằng, có khắp. Nếu có khắp thì trong năm đường nên có đủ thân. Nếu có thân thì nên đều thọ báo. Nếu đều thọ báo thì vì sao mà nói chuyển thọ thân người trời. Ông nói khắp cùng là một hay là nhiều vậy ? Ngã nếu là một thì không cha, con, kẻ oán, người thân, người không oán không thân…. Ngã nếu là nhiều thì năm căn sở hữu của tất cả chúng sinh đều nên bình đẳng và nghiệp tuệ sở hữu của họ cũng nên như vậy. Nếu như vậy thì làm sao nói rằng, căn có người đầy đủ, có người không đầy đủ ? và nghiệp thiện, nghiệp ác, người ngu, kẻ trí sai biệt ?”. “Thưa ông Cù Ðàm ! Ngã của chúng sinh thì không có bờ cõi. Pháp cùng phi pháp thì có phân ra nhiều thứ. Chúng sinh tu pháp thì được thân đẹp, nếu làm phi pháp thì được thân xấu. Do nghĩa này nên nghiệp quả của chúng sinh chẳng được không sai khác”. Ðức Phật nói rằng : “Này Lục sư ! Pháp cùng phi pháp nếu như vậy thì ngã chẳng cùng khắp. Nếu ngã cùng khắp thì nên đều đến nơi. Như ngã ấy đều đến nơi thì người tu thiện cũng nên có ác, người làm ác cũng nên có thiện. Nếu chẳng vậy thì làm sao nói rằng cùng khắp ?”. “Thưa ông Cù Ðàm ! Ví như ngôi nhà thắp trăm ngàn ngọn đèn, mỗi mỗi đều tự sáng, chẳng tổn ngại lẫn nhau. Ngã của chúng sinh thì cũng lại như vậy. Việc tu thiện, làm ác của họ chẳng hòa hợp xen lẫn vào nhau !”. “Các ông nếu nói Ngã như ngọn đèn thì nghĩa này chẳng đúng ! Vì sao vậy? Vì ánh sáng của đèn kia từ nhân duyên mà có. Ðèn tăng trưởng nên ánh sáng cũng tăng trưởng, còn Ngã của chúng sinh thì chẳng như vậy. Ánh sáng từ đèn phát ra trụ tại chỗ khác còn ngã của chúng sinh thì chẳng được như vậy, từ thân mà ra chẳng trụ tại chỗ khác. Ánh sáng của đèn kia ở chung cùng với bóng tối. Vì sao vậy ? Vì như trong nhà tối thắp một ngọn đèn thì soi chẳng tỏ, thắp lên nhiều ngọn đèn mới được sáng tỏ. Nếu ngọn đèn đầu tiên phá được bóng tối thì chẳng cần những ngọn đèn sau. Nếu cần những ngọn đèn sau thì phải biết ánh sáng ban đầu ở chung cùng bóng tối”. “Thưa ông Cù Ðàm ! Nếu không Ngã thì ai tạo tác thiện ác ?”. Ðức Phật nói rằng : “Nếu Ngã tạo tác thì sao gọi là Thường. Như Ngã ấy thường thì làm sao mà được có thời gian làm thiện, có thời gian làm ác ?. Nếu nói có thời gian làm thiện, có thời gian làm ác thì làm sao lại được nói rằng, Ngã là vô biên ?. Nếu Ngã tạo tác thì vì sao mà lại tập làm pháp ác ?. Như ngã ấy chính là người làm, người biết thì vì sao sinh ra nghi ngờ chúng sinh vô ngã ?. Do nghĩa này nên trong pháp của ngoại đạo nhất định không có Ngã. Nếu nói Ngã thì tức là Như Lai. Vì sao vậy ? Vì thân Như Lai vô biên không có lưới nghi hoặc. Chẳng tác, chẳng thọ nên gọi là Thường. Chẳng sinh, chẳng diệt nên gọi là Lạc. Không cấu bẩn phiền não nên gọi là Tịnh. Không có mười tướng nên gọi là Không. Vậy nên Như Lai Thường Lạc Ngã Tịnh, rỗng không, không các tướng !”. Các ngoại đạo nói rằng : “Nếu nói rằng, Như Lai Thường Lạc Ngã Tịnh, vô tướng nên rỗng không thì phải biết pháp của ông Cù Ðàm nói là chẳng phải rỗng không vậy ! Vậy nên chúng ta hôm nay phải cung kính nhận lấy mà hộ trì !”. Lúc bấy giờ, ngoại đạo, số ấy nhiều không lường, đều ở trong Phật pháp khởi lòng tin mà xuất gia.

Này thiện nam tử ! Do nhân duyên này nên ta ở vùng Ta La song thọ này mà Ðại Sư Tử Hống. Sư Tử Hống là gọi Ðại Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Song thọ của đông pương là phá hoại vô thường, thu hoạch được Thường…. cho đến song thọ của bắc phương là phá hoại được bất tịnh mà được tịnh. Này thiện nam tử ! Chúng sinh trong này vì song thọ nên hộ trì rừng Ta La, chẳng khiến cho người ngoài lấy cành lá của cây ấy, chặt cắt phá hoại. Ta cũng như vậy, vì bốn pháp nên khiến cho các đệ tử hộ trì Phật pháp. Những gì là bốn ? – Là Thường Lạc Ngã Tịnh. Ðây là bốn song thọ, bốn vương điển chưởng. Ta vì bốn vua hộ trì pháp của ta nên ta ở trong đó mà Bát Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Ta La song thọ hoa trái luôn sum suê, luôn có thể lợi ích cho vô lượng chúng sinh. Ta cũng như vậy, luôn có thể lợi ích cho hàng Thanh Văn, Duyên Giác. Hoa là dụ cho Ngã, quả là dụ cho Lạc. Do nghĩa này nên ta ở vùng Ta La song thọ này mà vào Ðại Tịch Ðịnh. Ðại Tịch Ðịnh là gọi Ðại Niết Bàn.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Ðức Như Lai vì sao Niết Bàn vào tháng hai?

– Này thiện nam tử ! Tháng hai gọi là mùa xuân, tháng của xuân dương, muôn vật sinh trưởng, gieo trồng cây cối hoa trái phát triển tươi tốt, sông nước tràn đầy, trăm loài thú sinh sôi. Lúc đó chúng sinh sinh ra nhiều thường tưởng. Vì muốn phá tâm thường tưởng như vậy của chúng sinh nên ta nói tất cả pháp đều là vô thường mà chỉ nói Như Lai thường trụ bất biến. Này thiện nam tử ! Ở trong sáu thời : Tiết mạnh đông khô khan tiều tụy mọi người chẳng yêu thích, tiết xuân dương dịch sống ôn hòa mọi người tham ái. Vì phá niềm vui thế gian của chúng sinh nên ta diễn nói Thường Lạc. Ngã Tịnh cũng vậy, Như Lai vì phá Ngã của thế gian, Tịnh của thế gian nên nói lên Ngã Tịnh chân thật của Như Lai. Nói tháng hai là dụ cho hai thứ pháp thân của Như Lai. Kẻ mùa đông chẳng ưa là người trí chẳng ưa Như Lai vô thường vào với Niết Bàn. Kẻ ưa thích tháng hai là dụ cho người trí ưa thích Như Lai Thường Lạc Ngã Tịnh. Người gieo trồng là dụ cho các chúng sinh nghe pháp vui mừng, phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác mà gieo trồng các căn lành ! Sông là dụ cho những Ðại Bồ tát ở mười phương đến chỗ của ta hỏi han thính thọ kinh điển Ðại Niết Bàn này. Trăm loài thú sinh sôi là dụ cho đệ tử của ta sinh ra các thiện căn. Hoa dụ cho bảy giác chi. Quả dụ cho bốn thứ quả. Do nghĩa này nên ta ở trong tháy hai vào Ðại Niết Bàn.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Ðức Như Lai từ sơ sinh, xuất gia, thành đạo, chuyển diệu pháp luân đều lấy ngày mùng tám mà vì sao riêng lấy ngày mười lăm để Niết Bàn ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Như ngày mười lăm, vầng trăng không khuyết, tròn đầy. Các đức Phật Như Lai cũng lại như vậy, vào Ðại Niết Bàn không có khuyết, tròn đầy. Do nghĩa này nên ở trong ngày mười lăm vào Bát Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Như ngày mười lăm, khi vầng trăng tròn đầy thì có mười một việc. Những gì là mười một ? Một là có thể phá bóng tối. Hai là khiến cho  chúng sinh thấy đạo hay chẳng phải đạo. Ba là khiến cho chúng sinh thấy đạo tà hay chính. Bốn là trừ uất kết nung nấu được niềm vui thanh lương. Năm là có thể phá hoại lòng cống cao. Sáu là dứt tất cả tư tưởng đạo tặc. Bảy là trừ lòng sợ thú dữ của chúng sinh. Tám là có thể làm nở hoa Ưu Bát La. Chín là khép lại hoa sen. Mười là lòng người ra đi lên đường. Mười một là khiến cho các chúng sinh ưa thích thọ năm dục thu hoạch nhiều khoái lạc. Này thiện nam tử ! Vầng trăng tròn đầy Như Lai cũng lại như vậy : Một là phá hoại bóng tối lớn vô minh. Hai là diễn nói về chánh đạo, tà đạo. Ba là mở bày đường tà hiểm sinh tử, đường bằng phẳng Niết Bàn. Bốn là khiến cho con người xa lìa lửa nóng tham dục, sân nhuế, ngu si. Năm là phá hoại ánh sáng của ngoại đạo. Sáu là phá hoại giặc ác phiền não kết. Bảy là trừ diệt lòng sợ năm cái. Tám là mở mang lòng gieo trồng căn lành của chúng sinh. Chín là che phủ lòng năm dục của chúng sinh. Mười là phát khởi hạnh tiến tu hướng đến Ðại Niết Bàn của chúng sinh. Mười một là khiến cho chúng sinh ưa tu giải thoát. Do ý nghĩa này nên ta ở trong ngày mười lăm vào Ðại Niết Bàn mà chân thật ta chẳng vào Niết Bàn. Người ác ngu si trong đệ tử của ta thì nhất định cho là Như Lai vào với Niết Bàn. Ví như người mẹ có nhiều những đứa con. Người mẹ ấy bỏ đi đến đất nước khác, trong khoảng thời gian chưa trở lại, các con đều nói rằng, mẹ ta đã chết. Nhưng mà người mẹ này thật chẳng chết vậy.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Những Tỳkheo nào có thể trang nghiêm vùng Ta La Song Thọ này ?

– Này thiện nam tử ! Nếu có Tỳkheo thọ trì, đọc tụng mười hai bộ Kinh đúng với câu văn Kinh ấy, thông đạt nghĩa lý sâu xa, vì người giải nói mà lời đầu, lời giữa, lời cuối đều tốt. Rồi vì muốn lợi ích cho vô lượng chúng sinh mà diễn nói Phạm hạnh. Những Tỳkheo như vậy thì có thể trang nghiêm Ta La Song Thọ.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Như con lý giải được ý nghĩa lời đức Phật nói thì Tỳkheo A Nan tức là người ấy vậy. Vì sao vậy ? Vì Tỳkheo A Nan thọ trì đọc tụng mười hai bộ Kinh, vì người khác khai thị, diễn nói chính ngữ, chính nghĩa giống như rót nước đựng vào đồ đựng khác. Tỳkheo A Nan cũng lại như vậy, từ điều nghe được nơi đức Phật, ông nói truyền lại đúng như đã nghe.

– Này thiện nam tử ! Nếu có vị Tỳkheo được tịnh thiên nhãn nhiều thấu sở hữu của mười phương ba ngàn đại thiên thế giới như xem quả Am ma lặc trong bàn tay thì Tỳkheo như vậy cũng có thể trang nghiêm Ta La Song Thọ.

Bồ tát Sư Tử Hống Bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu như vậy thì Tỳkheo A Ni Lâu Ðà là người ấy vậy. Vì sao vậy ? Vì mắt của ngài A Ni Lâu Ðà thấy đến sở hữu của mười phương ba ngàn đại thiên thế giới cho đến trung ấm đều rõ ràng không chướng ngại vậy.

– Này thiện nam tử ! Nếu có vị Tỳkheo thiểu dục tri túc, lòng ưa tịch tịnh, siêng hành tinh tấn, niệm định tuệ giải thì Tỳkheo như vậy có thể trang nghiêm Ta La Song Thọ.

Bồ tát Sư Tử Hống Bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu như vậy thì Tỳkheo Ca Diếp tức là người ấy vậy. Vì sao vậy ? Vì Tỳkheo Ca Diếp giỏi tu pháp thiểu dục, tri túc.v.v…

– Này thiện nam tử ! Nếu có Tỳkheo vì lợi ích cho chúng sinh chẳng vì lợi dưỡng mà tu tập thông đạt Vô Tránh tam muội, Thánh hạnh, Không hạnh thì Tỳkheo như vậy có thể trang nghiêm Ta La Song Thọ.

Bồ tát Sư Tử Hống Bạch rằng :

– Nếu như vậy thì Tỳkheo Tu Bồ Ðề tức là người ấy vậy. Vì sao vậy ? Vì ngài Tu Bồ Ðề giỏi tu Vô Tránh tam muội, Thánh hạnh, Không hạnh.

– Này thiện nam tử ! Nếu có Tỳkheo giỏi tu thần thông. Trong một niệm có thể tạo tác đủ thứ thần thông biến hóa. Một tâm một định mà có thể tạo tác hai kết quả như là nước và lửa. Tỳkheo như vậy thì có thể trang nghiêm Ta La Song Thọ.

Bồ tát Sư Tử Hống Bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu như vậy thì Tỳkheo Mục Liên tức là người ấy. Vì sao vậy ? Vì ngài Mục Kiền Liên giỏi tu thần thông, biến hóa không lường.

– Này thiện nam tử ! Nếu có Tỳkheo giỏi tu đại trí, lợi trí, trang nghiêm trí, giải thoát trí, thậm thâm trí, quảng trí, vô biên trí, vô thắng trí, thật trí… Thành tựu đầy đủ tuệ căn như vậy, ở trong oán thân lòng không sai khác, nếu nghe Như Lai Niết Bàn vô thường thì lòng không lo buồn, nếu nghe Như Lai thường trụ chẳng vào Niết Bàn thì chẳng sinh ra vui mừng. Tỳkheo như vậy thì có thể trang nghiêm Ta La Song Thọ.

Bồ tát Sư Tử Hống Bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu như vậy thì Tỳkheo Xá Lợi Phất tức là người ấy. Vì sao vậy ? Vì ngài Xá Lợi Phất giỏi có thể thành tựu đầy đủ đại trí tuệ như vậy.

– Này thiện nam tử ! Nếu có Tỳkheo có thể nói chúng sinh đều có Phật tính, được thân Kim Cương, không có bờ cõi, Thường Lạc Ngã Tịnh, thân tâm vô ngại, được tám tự tại. Tỳkheo như vậy thì có thể trang nghiêm Ta La Song Thọ.

Bồ tát Sư Tử Hống Bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu như vậy thì chỉ có đức Như Lai chính là người ấy. Vì sao vậy ? Vì thân của đức Như Lai là thân Kim Cương, vô biên, Thường Lạc Ngã Tịnh, thân tâm vô ngại, đủ tám tự tại. Thưa đức Thế Tôn ! Chỉ có đức Như Lai mới có thể trang nghiêm Ta La Song Thọ. Như không có ngài thì chẳng đoan nghiêm. Nguyện xin đấng Ðại Từ vì trang nghiêm nên thường trụ ở rừng cây Ta La này !

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Tính của tất cả các pháp trụở Vô trụ mà sao ông nói rằng, nguyện xin Như Lai trụ?. Này thiện nam tử ! Phàm nói trụ tức là gọi sắc pháp. Các từ nhân duyên sinh ra nên gọi là trụ. Nhân duyên không chỗ nên gọi là vô trụ. Như Lai đã đoạn tất cả sắc phược (sự ràng buộc của sắc) thì sao phải nói là Như Lai trụ vậy ? Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Trụ gọi là kiêu mạn, do kiêu mạn nên chẳng được giải thoát, chẳng được giải thoát nên gọi là trụ. Ai có kiêu mạn? Từ đâu đến ? Vậy nên được gọi là trụ ở Vô trụ. Như Lai đoạn trừ vĩnh viễn tất cả kiêu mạn thì sao mà nói rằng, Nguyện xin đức Như Lai trụ? Trụ là gọi pháp hữu vi. Như Lai đã đoạn pháp hữu vi, vậy nên chẳng trụ. Trụ là gọi Không pháp. Như Lai đã đoạn pháp không như vậy. Vậy nên Như Lai thu hoạch được Thường Lạc Ngã Tịnh thì làm sao mà nói rằng, Nguyện xin đức Như Lai trụ ? Trụ là gọi hai mươi lăm cõi hữu. Như Lai đã đoạn hai mươi lăm cõi hữu thì làm sao mà nói rằng, Nguyện xin đức Như Lai trụ ? Trụ thì tức là tất cả phàm phu. Các bậc thánh thì vô khứ, vô lai, vô trụ. Như Lai đã đoạn tướng khứ, tướng lai, tướng trụ thì làm sao nói rằng trụ. Luận về vô trụ là gọi thân vô biên mà thân vô biên thì làm sao mà nói rằng, Nguyện xin đức Như Lai trụ ở rừng Ta La ? Nếu trụ ở rừng này thì tức là thân có biên. Nếu có biên thì đó là vô thường mà Như Lai là thường thì sao nói rằng trụ? Phàm vô trụ là gọi hư không. Tính của Như Lai đồng với hư không thì sao nói rằng trụ ? Lại vô trụ là gọi Kim Cương tam muội hoại tất cả trụ. Kim Cương tam muội tức là Như Lai thì sao nói rằng trụ? Lại, vô trụ tức là gọi huyễn. Như Lai đồng với huyễn thì sao nói rằng trụ? Lại, vô trụ là gọi không thỉ chung. Tính của Như Lai không có thỉ chung thì sao nói rằng trụ ? Lại, vô trụ là gọi pháp giới vô biên mà pháp giới vô biên tức là Như Lai thì sao nói rằng trụ ? Lại, vô trụ là gọi Thủ Lăng Nghiêm tam muội. Thủ Lăng Nghiêm tam muội biết tất cả pháp mà không sở trước. Do không chấp trước nên gọi là Thủ Lăng Nghiêm. Như Lai đầy đủ Thủ Lăng Nghiêm định thì sao nói rằng trụ ? Lại, vô trụ là gọi xứ phi xứ lực mà Như Lai thành tựu xứ phi xứ lực thì sao nói rằng trụ ? Lại, vô trụ là gọi Ðàn Ba la mật mà Ðàn Ba la mật nếu có trụ thì chẳng được đến Thi Ba la mật… cho đến Bát nhã Ba la mật. Do nghĩa này nên Ðàn Ba la mật gọi là vô trụ. Như Lai… cho đến chẳng trụ Bát nhã Ba la mật thì sao nguyện rằng, Như Lai thường trụ ở rừng cây Ta La. Lại, vô trụ là gọi tu bốn Niệm xứ. Như Lai nếu trụ ở bốn Niệm xứ thì chẳng thể được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, gọi là trụ ở chẳng trụ. Lại, vô trụ là gọi vô biên chúng sinh giới. Như Lai đều đến giới phận vô biên của tất cả chúng sinh mà không chỗ trụ. Lại, vô trụ là gọi không nhà cửa (ốc trạch). Không nhà cửa là gọi sự không có. Không có thì gọi là vô sinh. Vô sinh thì gọi là vô tử. Vô tử thì gọi là vô tướng. Vô tướng thì gọi là không ràng buộc. Không ràng buộc thì gọi là vô trước. Vô trước thì gọi là vô lậu. Vô lậu tức là thiện. Thiện tức là vô vi. Vô vi thì tức là Ðại Niết Bàn thường. Ðại Niết Bàn thường tức là ngã. Ngã tức là Tịnh. Tịnh tức là Lạc. Thường Lạc Ngã Tịnh tức là Như Lai. Này thiện nam tử ! Ví như hư không chẳng trụ ở phương Ðông, ở phương Nam, ở phương Tây, ở phương Bắc, ở bốn phương bàng, ở phương trên, phương dưới. Như Lai cũng vậy, chẳng trụ ở phương Ðông, phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn phương bàng và phương trên, phương dưới. Này thiện nam tử ! Nếu có người nói rằng, thân miệng ý ác được quả thiện thì không có chỗ này ! Thân miệng ý thiện được quả ác thì cũng không có chỗ này ! Nếu nói rằng, phàm phu thấy được Phật tính còn Bồ tát Thập Trụ chẳng được thấy thì cũng không có chỗ này ! Bọn nhất xiển đề, phạm tội ngũ nghịch, bài bàng kinh Phương Ðẳng, hủy phạm bốn trọng cấm được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì cũng không có chỗ này ! Bồ tát Lục trụ nhân duyên phiền não rơi vào ba đường ác thì cũng không có chỗ này ! Ðại Bồ tát dùng thân nữ chân thật để được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì cũng không có chỗ này ! Nhất xiển đề thường trụ còn Tam Bảo vô thường thì cũng không có chỗ này ! Như Lai trụ ở thành Câu Thi Na thì cũng không có chỗ này ! Này thiện nam tử ! Như Lai hôm nay, ở thành Câu Thi Na, vào Ðại tam muội, hang thiền định sâu mà chúng chẳng thấy nên gọi là Ðại Niết Bàn.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Ðức Như Lai vì sao mà vào hang thiền định?

– Này thiện nam tử ! Vì muốn độ thoát các chúng sinh nên đối với người chưa gieo trồng thiện căn thì khiến cho họ gieo trồng. Kẻ đã gieo trồng thiện căn thì được tăng trưởng. Kẻ mà quả thiện chưa thành thục thì khiến cho được thành thục. Người đã thành thục thì nói về thú hướng Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Kẻ khinh chê thiện pháp thì khiến cho họ sinh lòng tôn quí. Những kẻ có phóng dật thì khiến cho họ lìa khỏi phóng dật. Ta vì muốn cùng với Văn Thù Sư Lợi.v.v… các Ðại Hương Tượng (Ðại Bồ tát) chung luận nghị, vì muốn giáo hóa người ưa đọc tụng thâm ái thiền định, vì muốn dùng Thánh hạnh, Phạm hạnh, Thiên hạnh để giáo hóa chúng sinh, vì quan sát pháp tạng thậm thâm bất cộng, vì muốn quở trách đệ tử phóng dật… Như Lai thường tịch tịnh mà còn ưa thiền định huống là bọn các ông phiền não chưa hết mà sinh ra phóng dật ! Ta vì muốn quở trách các Tỳkheo ác nhận chứa tám thứ vật bất tịnh và chẳng thiểu dục, chẳng tri túc, vì khiến cho chúng sinh tôn trọng pháp thiền định đã nghe… Do vì những nhân duyên này nên ta vào hang thiền định.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Vô tướng định này là gọi Ðại Niết Bàn ! Vậy nên Niết Bàn gọi là vô tướng. Do nhân duyên gì gọi là vô tướng ?

– Này thiện nam tử ! Vì không có mười tướng ! Những gì là mười? – Ðó là sắc tướng, thanh tướng, hương tướng, vị tướng, xúc tướng, sinh tướng, trụ tướng, hoại tướng, nam tướng, nữ tướng. Ðó là mười tướng. Không có những tướng như vậy nên gọi là vô tướng. Này thiện nam tử ! Phàm chấp trước tướng thì có thể sinh ra si. Si nên sinh ra ái mà ái nên bị trói buộc. Ðã trói buộc nên thọ sinh mà đã sinh nên có chết. Có chết nên vô thường. Nếu chẳng chấp trước tướng thì chẳng sinh ra si. Chẳng sinh si thì không có ái, không có ái thì không trói buộc. Không trói buộc thì chẳng thọ sinh. Chẳng thọ sinh thì không có chết. Không có chết thì gọi là Thường. Do nghĩa này nên Niết Bàn gọi là Thường !

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Những Tỳkheo nào có thể đoạn được mười tướng ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Nếu có Tỳkheo lúc nào cũng tu tập ba thứ tướng thì đoạn được mười tướng ! Lúc nào cũng tu tập tướng tam muội định. Lúc nào cũng tu tập tướng trí tuệ. Lúc nào cũng tu tập tướng xả. Ðó gọi là ba tướng.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Sao gọi là định tướng định, tướng tuệ, tướng xả? Tam muội này là tất cả chúng sinh đều có tam muội thì sao nói rằng, tu tập tam muội ? Nếu tại một cảnh thì gọi là tam muội, nếu thay đổi theo duyên khác thì chẳng gọi là tam muội. Như bất định kia chẳng phải nhất thiết trí mà chẳng phải nhất thiêt trí thì sao gọi là định ? Nếu do một hạnh được tam muội  thì các hạnh còn lại ấy cũng chẳng phải là tam muội. Nếu chẳng phải tam muội thì chẳng phải nhất thiết trí. Nếu chẳng phải nhất thiết trí thì sao gọi là tam muội ? Hai tướng tuệ và xả cũng lại như vậy.

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Như lời ông nói, duyên với một cảnh được gọi là tam muội, các duyên còn lại kia chẳng gọi là tam muội thì nghĩa này chẳng đúng ! Vì sao vậy ? Vì các duyên còn lại như vậy cũng một cảnh. Hạnh cũng như vậy. Ông lại nói, chúng sinh có tam muội trước, chẳng cần tu hành thì điều này cũng chẳng đúng ! Sở dĩ vì sao ? Vì khi nói tam muội là gọi thiện tam muội mà tất cả chúng sinh chân thật chưa có thì làm sao mà nói rằng, chẳng cần tu tập ? Do trụ ở trong thiện tam muội như vậy mà quan sát tất cả pháp nên gọi là tướng thiện tuệ. Chẳng thấy tướng khác của tam muội và trí tuệ thì đó gọi là tướng xả. Lại nữa, này thiện nam tử ! Nếu chọn lấy sắc tướng thì chẳng quan sát tướng sắc thường hay vô thường. Ðó gọi là tam muội. Nếu có thể quan sát tướng sắc thường hay vô thường thì đó gọi là tướng tuệ. Tam muội và Tuệ bình đẳng quan sát tất cả pháp thì đó gọi là tướng Xả. Này thiện nam tử ! Như người giỏi điều khiển chiếc xe bốn ngựa làm chủ được sự chậm nhanh. Sở đắc sự nhanh chậm nên gọi là tướng xả. Bồ tát cũng vậy, người nhiều tam muội thì tu tập tuệ. Nếu người nhiều tuệ thì tu tập tam muội. Tam muội và tuệ bình đẳng thì gọi là Xả. Này thiện nam tử ! Bồ tát Thập Trụ lực trí tuệ nhiều, lực tam muội ít, vậy nên chẳng được thấy Phật tính rõ ràng. Thanh Văn, Duyên Giác lực tam muội nhiều, lực trí tuệ ít. Do nhân duyên này nên chẳng thấy Phật tính. Các đức Phật Thế Tôn thì Ðịnh và Tuệ bình đẳng nên sáng thấy Phật tính rõ ràng, không ngăn ngại như xem quả Am ma lặc trong bàn tay. Thấy Phật tính gọi là tướng Xả.

Xa ma tha thì gọi là năng diệt, hay diệt trừ tất cả phiền não kết. Lại, Xa ma tha thì gọi là năng điều, hay điều phục việc ác,bất thiện của các căn. Lại, Xa ma tha thì gọi rằng Tịch Tịnh, có thể khiến cho ba nghiệp trở nên tịch tịnh. Lại, Xa ma tha là gọi rằng Viễn Ly, có thể khiến cho chúng sinh lìa khỏi năm dục. Lại, Xa ma tha là gọi rằng năng thanh, có thể làm trong sạch ba trược (vẩn đục) pháp là tham dục, sân nhuế và ngu si. Do nghĩa này nên gọi là Ðịnh tướng. Tỳ Bà Xá Na gọi là chánh kiến, cũng gọi là liễu kiến, gọi là năng kiến, gọi là biến (khắp) kiến, gọi là thứ đệ kiến, gọi là biệt tướng kiến… Ðó gọi là  Tuệ. Ưu Tất Xoa thì gọi là bình đẳng, cũng gọi là bất tranh (cãi), lại gọi là bất quán, cũng gọi là bất hạnh (hành động)… Ðó gọi là Xả. Này thiện nam tử ! Xa ma tha có hai thứ, một là thế gian, hai là xuất thế gian. Lại có hai thứ, một là thành tựu, hai là chẳng thành tựu. Thành tựu thì để gọi chư Phật, Bồ tát, chẳng thành tựu thì để gọi Thanh Văn, Bích Chi Phật.v.v… Lại có ba thứ là hạ, trung, thượng. Hạ là gọi các phàm phu, trung là Thanh Văn, Duyên Giác, thượng là chư Phật Bồ tát. Lại có bốn thứ, một là thoái, hai là trụ, ba là tiến, bốn là có thể đại lợi ích. Lại có năm thứ, đó là gọi năm trí tam muội. Những gì là năm ? Một là vô thực (ăn) tam muội, hai là vô quá (lỗi) tam muội, ba là thân ý thanh tịnh nhất tâm tam muội, bốn là nhân quả câu lạc tam muội, năm là Thường niệm tam muội. Lại có sáu thứ, một là quán cốt tam muội, hai là từ tam muội, ba là quán thập nhị nhân duyên tam muội, bốn là A na bà na tam muội, năm là niệm giác quán tam muội, sáu là quán sinh diệt tam muội. Lại có bảy thứ, đó là bảy giác phận, một là niệm giác phận, hai là trạch pháp giác phận, ba là tinh tấn giác phận, bốn là hỷ giác phận, năm là trừ giác phận, sáu là định giác phận, bảy là xả giác phận. Lại có bảy thứ, một là Tu đà hoàn tam muội, hai là Tư đà hàm tam muội, ba là A na hàm tam muội, bốn là A la hán tam muội, năm là Bích Chi Phật tam muội, sáu là Bồ tát tam muội, bảy là Như Lai giác tri tam muội. Lại có tám thứ là tám giải thoát tam muội. Một là Nội hữu sắc tướng ngoại quán sắc giải thoát tam muội. Hai là Nội vô sắc tướng ngoại quán sắc giải thoát tam muội. Ba là Tịnh giải thoát thân chứng tam muội. Bốn là Không xứ giải thoát tam muội. Năm là Thức xứ giải thoát tam muội. Sáu là Vô sở hữu xứ giải thoát tam muội. Bảy là phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ giải thoát tam muội. Tám là Diệt tận định giải thoát tam muội. Lại có chín thứ là chín thứ lớp định : Bốn thiền, bốn Không và Diệt tận định tam muội. Lại có mười thứ là mười Nhất thiết xứ tam muội. Những gì là mười ? Một là Ðịa nhất thiết xứ tam muội. Hai là Thủy nhất thiết xứ tam muội. Ba là Phong nhất thiết xứ tam muội. Bốn là Thanh (xanh) nhất thiết xứ tam muội. Năm là Hoàng (vàng) nhất thiết xứ tam muội. Sáu là xích (đỏ) nhất thiết xứ tam muội. Bảy là Bạch nhất thiết xứ tam muội. Tám là Không nhất thiết xứ tam muội. Chín là Thức nhất thiết xứ tam muội. Mười là Vô sở hữu nhất thiết xứ tam muội. Lại có vô số thứ, là gọi các đức Phật, Bồ tát. Này thiện nam tử ! Ðó gọi là tướng tam muội.

Này thiện nam tử ! Tuệ có hai thứ, một là thế gian, hai là xuất thế gian. Lại có ba thứ, một là Bát nhã, hai là Tỳ bà xá na, ba là Xà na. Bát nhã là gọi tất cả chúng sinh. Tỳ bà xá na là gọi tất cả Thánh nhân. Xà na là chư Phật Bồ tát. Lại, Bát nhã thì gọi là Biệt tướng. Tỳ bà xá na thì gọi là Tổng tướng. Xà na thì gọi là Phá tướng. Lại có bốn thứ là quan sát bốn chân đế. Này thiện nam tử ! Vì ba việc nên tu Xa ma tha. Những gì là ba ? Một là chẳng phóng dật, hai là trang nghiêm đại trí, ba là được tự tại. Lại nữa, vì ba việc nên tu Tỳ bà xá na. Những gì là ba ? Một là vì quan sát quả báo của sinh tử ác. Hai là vì muốn tăng trưởng các căn lành. Ba là vì phá tất cả các phiền não.

*********

– Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Như trong Kinh nói, nếu Tỳ Bà Xá Na có thể phá phiền não thì vì sao lại tu Xa ma tha vậy ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Ông nói, Tỳ Bà Xá Na phá phiền não thì nghĩa này chẳng đúng ! Vì sao vậy ? Vì khi có trí tuệ thì không phiền não, khi có phiền não thì không trí tuệ thì sao mà nói Tỳ Bà Xá Na có thể phá phiền não ? Này thiện nam tử ! Ví như khi sáng thì không có tối, khi tối thì không có sáng. Nếu có người nói rằng, sáng có thể phá tối thì không có chỗ này ! Này thiện nam tử ! Ai có trí tuệ ? Ai có phiền não mà nói trí tuệ có thể phá phiền não ? Như cái ấy không thì không có cái phá. Này thiện nam tử ! Nếu nói trí tuệ có thể phá phiền não thì vì đến nên phá và chẳng đến nên phá. Nếu chẳng đến mà phá là phàm phu chúng sinh thì nên có thể phá. Nếu đến nên phá thì ý niệm đầu tiên nên phá. Nếu ý niệm đầu tiên chẳng phá thì sau cũng chẳng phá. Nếu mới đến liền phá tức là chẳng đến thì làm sao nói rằng, trí tuệ có thể phá. Nếu nói đến cùng chẳng đến mà có thể phá thì nghĩa này chẳng đúng ! Lại nữa Tỳ Bà Xá Na phá phiền não là một mình có thể phá hay là bạn bè nên phá ? Nếu một mình có thể phá thì Bồ tát vì sao tu tám chánh đạo ? Nếu bạn bè nên phá thì phải biết rằng, một mình chẳng thể phá. Nếu một mình chẳng thể thì bạn bè cũng chẳng thể. Như một người mù chẳng thể thấy sắc thì tuy có chúng bạn nhưng mù thì cũng chẳng thể thấy. Tỳ Bà Xá Na cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Như tính cứng của đất, tính nóng của lửa, tính ẩm ướt của nước, tính chuyển động của gió mà tính cứng của đất… cho đến tính động của gió chẳng phải nhân duyên tạo tác mà tính của chúng tự như vậy. Như tính của bốn đại, tính của phiền não cũng vậy, là tự đoạn. Nếu là đoạn thì làm sao mà nói rằng, trí tuệ có thể đoạn. Do nghĩa này nên Tỳ Bà Xá Na quyết định chẳng thể phá các phiền não. Này thiện nam tử ! Như tính của muối là mặn khiến cho vật khác mặn. Mật vốn tính ngọt khiến cho vật khác ngọt. Nước vốn tính ẩm ướt khiến cho vật khác ẩm ướt. Tính của trí tuệ là diệt nên khiến cho các pháp diệt thì nghĩa này chẳng đúng ! Vì sao vậy ? Vì nếu pháp không diệt thì làm sao trí tuệ có thể cưỡng ép khiến cho diệt được ? Nếu nói muối mặn khiến cho vật khác mặn, tuệ diệt cũng vậy, có thể khiến cho pháp khác diệt thì điều này cũng chẳng đúng. Vì sao vậy ? Vì tính của trí tuệ là từng niệm từng niệm diệt. Nếu từng niệm từng niệm diệt thì làm sao mà nói có thể diệt pháp khác. Do nghĩa này nên tính của trí tuệ chẳng phá phiền não. Này thiện nam tử ! Tất cả các pháp có hai thứ diệt, một là tính diệt, hai là rốt ráo diệt. Nếu tính diệt thì làm sao mà nói trí tuệ có thể diệt ? Nếu nói trí tuệ có thể diệt phiền não như lửa thiêu đốt vật thì nghĩa này không đúng. Vì sao vậy ? Vì như lửa thiêu đốt vật thì có để lại tàn lửa. Trí tuệ như vậy thì nên để lại diệt tàn. Như búa chặt cây thì chỗ chặt ra có thể thấy. Trí tuệ nếu vậy thì có gì có thể thấy ? Tuệ nếu có thể khiến cho phiền não lìa khỏi thì như vậy phiền não nên hiện bày chỗ còn lại. Như các ngoại đạo rời khỏi sáu đại thành thì hiện diện ở thành Câu Thi Na. Nếu phiền não đó chẳng hiện này chỗ thừa thì biết rằng, trí tuệ chẳng thể khiến cho phiền não lìa khỏi. Này thiện nam tử ! Tính của tất cả các pháp nếu tự rỗng không thì ai có thể khiến cho sinh ra ? Ai có thể khiến cho diệt đi? Sinh khác, diệt khác, không người tạo tác ! Này thiện nam tử ! Nếu tu tập định thì được chánh trí, chính kiến như vậy. Do nghĩa này nên trong Kinh của ta nói, nếu có Tỳ-kheo tu tập định thì có thể thấy tướng sinh diệt của năm ấm. Này thiện nam tử ! Nếu chẳng tu định thì việc thế gian còn chẳng thể rõ, huống là đối với việc xuất thế. Nếu người không định thì chỗ bằng cũng ngã lăn, lòng duyên pháp khác, miệng tuyên nói lời khác, tai nghe tiếng khác, tâm giải nghĩa khác, muốn tạo chữ khác, tay viết văn khác, muốn đi đường khác, thân lặn lội lối khác. Nếu người có tu tập tam muội định thì được lợi ích lớn… cho đến Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát đầy đủ hai pháp có thể lợi ích lớn, một là Ðịnh, hai là Trí. Này thiện nam tử ! Như cắt cỏ gianh (cỏ may) nắm nhanh thì đứt, Ðại Bồ tát tu hai pháp này cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Như nhổ cây cứng mà trước dùng tay lay động thì sau dễ nhổ lên. Bồ tát tu định tuệ cũng lại như vậy, trước dùng định khởi động, sau dùng tuệ nhổ lên. Này thiện nam tử ! Như giặt áo bẩn, trước dùng nước tro, sau dùng nước trong thì áo sạch sẽ. Bồ tát tu định tuệ cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Như trước đọc tụng, sau thì giải nghĩa. Bồ tát tu định tuệ cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Ví như người dũng mãnh, trước dùng giáp đồng, binh khí tự trang bị chắc chắn, nhiên hậu ra trận mới có thể phá hoại được giặc oán thù. Bồ tát tu định tuệ cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Ví như người thợ khéo với cây kềm, chiếc búa đập và thỏi kim loại mà tự tại theo ý nhào nặn nấu chảy. Bồ tát tu định tuệ cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Ví như tấm gương sáng soi rõ hình dáng của mặt. Bồ tát tu định tuệ cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Như trước làm bằng phẳng đất rồi nhiên hậu mới xuống giống. Trước theo thầy thọ giáo rồi sau tư duy nghĩa lý, Bồ tát tu định tuệ cũng lại như vậy. Do nghĩa này nên Ðại Bồ tát tu hai pháp này, điều phục nhiếp lấy năm căn, kham nhẫn mọi khổ như là đói khát, nóng lạnh, đánh đập, mạ nhục, sự cắn xé của ác thú, sự chích hút của muỗi mòng… Bồ tát luôn nhiếp lấy tâm chẳng để cho phóng dật, chẳng vì lợi dưỡng mà hành động phi pháp, khách trần phiền não chẳng thể làm ô nhiễm, chẳng bị sự mê hoặc của các tà kiến, dị kiến, thường có thể xa lìa các giác quán ác, chẳng bao lâu sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, vì muốn thành tựu lợi ích cho chúng sinh. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát tu hai pháp này thì bốn luồng gió dữ điên đảo chẳng thể thổi động như núi Tu Di tuy bị sự thổi mạnh của bốn gió nhưng chẳng thể làm cho lay động, chẳng bị sự nhổ bật của tà sư ngoại đạo như Ðế Thích Tràng chẳng thể di động, mọi tà dị thuật chẳng thể lừa dối mê hoặc, thường thọ đệ nhất an lạc vi diệu, có thể giải được nghĩa bí mật của Như Lai, hưởng thọ niềm vui chẳng mừng, gặp phải nỗi khổ chẳng buồn, chư thiên, người đời cung kính khen ngợi, thấy sáng tỏ sinh tử và chẳng phải sinh tử, giỏi có thể biết rõ pháp giới và pháp tính, thân có pháp Thường Lạc Ngã Tịnh. Ðó gọi là Ðại Niết Bàn Lạc.

Này thiện nam tử ! Ðịnh tướng là gọi Không tam muội. Tuệ tướng là gọi Vô nguyện tam muội. Xả tướng là gọi Vô Tướng tam muội. Này thiện nam tử ! Nếu có Ðại Bồ tát khéo biết lúc nào định, lúc nào tuệ, lúc nào xả và biết lúc chẳng phải lúc thì đó gọi là Ðại Bồ tát hành đạo Bồ Ðề !

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Sao gọi là Bồ tát biết thời (lúc) và phi thời (chẳng phải lúc) ?

– Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát nhân được thọ lạc sinh ra kiêu mạn, hoặc nhân nói pháp mà sinh ra kiêu mạn, hoặc nhân tinh cần mà sinh ra kiêu mạn, hoặc nhân lúc giải nghĩa khéo hỏi đáp mà sinh ra kiêu mạn, hoặc nhân gần gũi ác tri thức mà sinh ra kiêu mạn, hoặc nhân bố thí vật ái trọng của mình mà sinh ra kiêu mạn, hoặc nhân công đức của thiện pháp thế gian mà sinh ra kiêu mạn, hoặc nhân sự cung kính của người giàu sang ở thế gian mà sinh ra kiêu mạn… thì phải biết là những lúc như vậy chẳng nên tu Trí mà phải nên tu Ðịnh. Ðó gọi là Bồ tát biết thời và phi thời. Như có Bồ tát siêng tu tinh tấn chưa được niềm vui lợi ích Niết Bàn. Rồi do chẳng được nên sinh tâm hối tiếc, do độn căn nên chẳng thể điều phục năm tình, các căn, do thế lực của các phiền não bẩn hưng thịnh nên tự nghi ngờ giới luật có suy tổn… thì phải biết là những lúc như vậy chẳng nên tu Ðịnh mà phải nên tu Trí. Ðó gọi là Bồ tát biết thời và phi thời. Này thiện nam tử ! Nếu có Bồ tát mà hai pháp Ðịnh Tuệ chẳng bình đẳng thì phải biết lúc ấy chẳng nên tu Xả, còn hai pháp nếu bình đẳng thì nên tu. Ðó gọi là Bồ tát biết thời và phi thời. Này thiện nam tử ! Nếu có Bồ tát tu Ðịnh Tuệ mà khởi lên phiền não thì phải biết lúc ấy chẳng nên tu Xả, cần nên đọc tụng, ghi chép, giải nói mười hai bộ Kinh, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thiên (trời), niệm Xả. Ðó gọi là tu Xả. Này thiện nam tử ! Nếu có Bồ tát tu tập ba pháp tướng như vậy thì do nhân duyên này mà được Vô Tướng Niết Bàn.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Không mười tướng nên gọi Ðại Niết Bàn là vô tướng thì lại do nhân duyên gì mà gọi là vô sinh, vô xuất, vô tác, nhà cửa, châu thổ, qui y, yên ổn, diệt độ, Niết Bàn, tịch tịnh, không các bệnh khổ, không sở hữu vậy ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Không nhân duyên nên gọi Vô sinh. Do vô vi nên gọi là vô xuất. Không tạo nghiệp nên gọi là  vô tác. Chẳng vào năm kiến nên gọi là ốc trạch (nhà cửa). Lìa khỏi bốn dòng nước dữ nên gọi là châu (châu thổ : vùng đất ven sông ven biển). Ðiều phục chúng sinh nên gọi là qui y. Phá hoại giặc kết sử nên gọi là yên ổn. Các lửa kết diệt nên gọi là Diệt độ. Lìa khỏi giác quán nên gọi là Niết Bàn. Xa nơi rối loạn ồn ào nên gọi là tịch tịnh. Ðoạn vĩnh viễn việc phải chết nên gọi là vô bệnh. Tất cả không nên gọi là vô sở hữu. Này thiện nam tử ! Nếu Ðại Bồ tát khi tác khởi sự quan sát này thì liền được sáng tỏ, thấy được Phật tính.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Ðại Bồ tát thành tựu bao nhiêu pháp thì có thể thấy được từ vô tướng Niết Bàn đến vô sở hữu như vậy ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát thành tựu mười pháp thì có thể thấy rõ Niết Bàn vô tướng… đến vô sở hữu. Những gì là mười ?

Một là lòng tin đầy đủ. Sao gọi là lòng tin đầy đủ ? Thân tín Phật, Pháp, Tăng là thường; các đức Phật mười phương là phương tiện thị hiện; tất cả chúng sinh và nhất xiển đề đều có Phật tính. Chẳng tin : Như Lai sinh già bệnh chết và tu khổ hạnh; Ðề Bà Ðạt Ða chân thật phá Tăng, làm chảy máu thân Phật; Như Lai rốt ráo vào với Niết Bàn; chính pháp diệt tận. Ðó gọi là Bồ tát tín tâm đầy đủ.

Hai là Tịnh giới đầy đủ. Sao gọi là tịnh giới đầy đủ ? Này thiện nam tử ! Nếu có Bồ tát tự nói là tịnh giới. Bồ tát ấy tuy chẳng cùng người con gái kia hòa hợp nhưng khi gặp nữ nhân thì cùng chung nói cười đùa giỡn. Bồ tát như vậy là thành tựu dục pháp, hủy phá tịnh giới, ô nhục phạm hạnh khiến cho giới xen lẫn dơ bẩn, chẳng được gọi là Tịnh giới đầy đủ. Lại có Bồ tát tự nói là Tịnh giới. Bồ tát này tuy chẳng cùng người con gái kia hòa hợp thân, nói cười đùa giỡn, nhưng ở ngoài tường ngăn, xa nghe đủ thứ những tiếng va chạm của chuỗi ngọc, vòng xuyến… mà lòng sinh ái trước. Bồ tát như vậy là thành tựu dục pháp, hủy phá tịnh giới, ô nhục phạm hạnh khiến cho giới xen lẫn dơ bẩn, chẳng được gọi là Tịnh giới đầy đủ. Lại có Bồ tát tự nói là tịnh giới. Bồ tát này tuy lại chẳng cùng với nữ nhân hòa hợp, nói cười đùa giỡn và nghe âm thanh đồ trang sức ấy, nhưng khi thấy người con trai theo đuổi con gái hay khi thấy người con gái theo đuổi con trai thì liền sinh ra tham trước. Bồ tát như vậy là thành tựu dục pháp, hủy phá tịnh giới, ô nhục phạm hạnh khiến cho giới xen lẫn dơ bẩn, chẳng được gọi là tịnh giới đầy đủ. Lại có Bồ tát tự nói là tịnh giới. Bồ tát này tuy lại chẳng cùng nữ nhân hòa hợp, nói cười đùa giỡn, nghe âm thanh đồ trang sức, thấy nam nữ theo nhau, nhưng giữ giới vì muốn sinh lên trời, hưởng thụ niềm vui ngũ dục. Bồ tát như vậy là thành tựu dục pháp, hủy phá tịnh giới, ô nhục phạm hạnh khiến cho giới xen tạp dơ bẩn, chẳng được gọi là Tịnh giới đầy đủ. Này thiện nam tử ! Nếu có Bồ tát trì giới thanh tịnh mà chẳng vì Giới, chẳng vì Thi Ba la mật, chẳng vì chúng sinh, chẳng vì lợi dưỡng, chẳng vì Bồ Ðề, chẳng vì Niết Bàn, chẳng vì Thanh Văn, Bích Chi Phật mà chỉ vì tối thượng đệ nhất nghĩa nên hộ trì cấm giới. Này thiện nam tử ! Ðó gọi là Bồ tát Tịnh giới đầy đủ.

Ba là thân cận các thiện tri thức. Thiện tri thức là nếu có người có thể nói về tín, giới, đa văn, bố thí, trí tuệ khiến cho người thọ nhận, tu hành thì đó gọi là Bồ tát thiện tri thức.

Bốn là ưa thích tịch tịnh. Tịch tịnh là gọi thân tâm tịch tịnh. Quan sát các pháp và pháp giới thậm thâm thì đó gọi là tịch tịnh.

Năm là Tinh tấn. Tinh tấn là gọi sự hết lòng quan sát bốn Thánh đế mà giả sử lửa cháy trên đầu cũng nhất định chẳng buông bỏ. Ðó gọi là tinh tấn.

Sáu là niệm đầy đủ. Niệm đầy đủ là gọi việc niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thiên, niệm Xả. Ðó gọi là Niệm đầy đủ.

Bảy là nhuyến ngữ. Nhuyến ngữ là gọi lời nói thật, lời nói diệu, lời khi có ý trước hỏi han, lời nói chân chính. Ðó gọi là nhuyến ngữ.

Tám là hộ pháp. Hộ Pháp là gọi sự yêu thích chính pháp, thường ưa diễn nói, đọc tụng, ghi chép, suy nghĩ ý nghĩa của pháp ấy, tuyên dương phô bày rộng rãi khiến cho pháp ấy được lưu bố. Nếu thấy có người ghi chép, giải nói, đọc tụng, khen ngợi, suy nghĩa Kinh ấy thì vì tư sinh (nhu cầu đời sống) mà cúng dường cho họ những thứ như là y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược…, vì hộ pháp nên chẳng tiếc thân mạng. Ðó gọi là hộ pháp.

Chín là Ðại Bồ tát thấy có người đồng học, người đồng giới có sự thiếu thốn mà đi theo người khác xin bát nung, áo nhuộm, đồ cần để xem bệnh, y phục, ẩm thực, ngọa cụ, phòng nhà để cung cấp cho họ.

Mười là đầy đủ trí tuệ. Trí tuệ là gọi sự quan sát được Như Lai Thường Lạc Ngã Tịnh, tất cả chúng sinh đều có Phật tính, quan sát được hai tướng của pháp như là không hay chẳng không, thường hay vô thường, lạc hay vô lạc, ngã hay vô ngã, tịnh hay bất tịnh, pháp khác có thể đoạn, pháp khác chẳng thể đoạn, pháp khác từ duyên sinh, pháp khác từ duyên thấy, pháp khác từ duyên quả, pháp khác chẳng phải từ duyên quả. Ðó gọi là đầy đủ trí tuệ. Này thiện nam tử ! Ðó gọi là Bồ tát đầy đủ mười pháp, liền có thể thấy rõ Niết Bàn Vô Tướng.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Như đức Phật trước đã bảo ông Thuần Ðà rằng, ông nay đã được thấy Phật tính, được Ðại Niết Bàn, thành tựu Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì nghĩa này là sao ? Thưa đức Thế Tôn ! Như trong Kinh nói rằng, nếu bố thí cho súc sinh thì được báo đền gấp trăm lần. Bố thí cho nhất xiển đề được báo đền gấp ngàn lần. Bố thí cho người trì giới thì báo đền gấp trăm ngàn lần. Nếu bố thí cho kẻ ngoại đạo đoạn trừ phiền não thì được báo đền không lường. Bố thí cho bốn bậc đạo hướng và cả bốn quả đến Bích Chi Phật được báo đền không lường. Bố thí cho hàng Bồ tát bất thoái và các Ðại Bồ tát, Như Lai, Thế Tôn của thân sau cùng thì sự được phước báo vô lượng vô biên, chẳng thể xưng kể, chẳng thể nghĩa bàn. Ðại sĩ Thuần Ðà nếu thọ quả báo vô lượng như vậy mà quả báo đó vô tận thì khi nào ông sẽ được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác? . Thưa đức Thế Tôn ! Trong Kinh lại nói rằng, nếu người trọng tâm tạo nghiệp thiện hoặc ác thì nhất định được quả báo, hoặc hiện thế thọ, hoặc thứ sinh thọ, hoặc đời sau thọ. Ông Thuần Ðà trọng tâm tạo tác thiện nghiệp thì phải biết là nghiệp này nhất định thọ báo. Nếu ông nhất định thọ báo thì làm sao được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác ? Làm sao lại được thấy Phật tính ? Thưa đức Thế Tôn ! Trong Kinh lại nói rằng, bố thí ba thứ người quả báo vô tận, một là người bệnh, hai là cha mẹ, ba là Như Lai. Thưa đức Thế Tôn ! Trong Kinh lại nói rằng, đức Phật bảo ngài A Nan là tất cả chúng sinh mà như họ không có nghiệp quả cõi Dục thì liền được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nghiệp cõi Sắc và cõi Vô Sắc cũng lại như vậy. Thưa đức Thế Tôn ! Như câu kệ pháp nói : Chẳng phải không chẳng phải trong biển, chẳng phải vào vùng núi đá, không có địa phương xứ sở, thoát khỏi đó chẳng thọ nghiệp. Lại, ông A Ni Lâu Ðà nói rằng, thưa đức Thế Tôn ! Con nhớ thuở xưa nhờ thí một bữa ăn mà trong tám vạn kiếp chẳng rơi vào ba đường ác. Thưa đức Thế Tôn ! Bố thí một bữa ăn còn được quả báo thế, huống gì ông Thuần Ðà tín tâm cúng dường đức Phật, thành tựu đầy đủ Ðàn Ba la mật ? Thưa đức Thế Tôn ! Nếu thiện quả báo chẳng thể tận thì bài báng Kinh Phương Ðẳng, phạm ngũ nghịch tội, hủy bốn trọng cấm, nhất xiển đề tội làm sao có thể tận ? Làm sao có thể được thấy Phật tính, thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác?

Ðức Phật dạy rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Chỉ có hai người được vô lượng vô biên công đức chẳng thể xưng kể, chẳng thể tuyên nói, có thể làm cạn kiệt dòng sông cuồng bạo sinh tử, hàng phục ma oán địch, xô ngã ma thắng tràng, có thể chuyển pháp luân vô thượng của Như Lai : Một là người giỏi hỏi, hai là người giỏi trả lời. Này thiện nam tử ! Trong mười lực của đức Phật thì nghiệp lực là sâu nhất. Này thiện nam tử ! Có các chúng sinh ở trong nghiệp duyên, lòng khinh chẳng tin, vì hóa độ họ nên ta nói lời như vậy. Này thiện nam tử ! Tất cả tác nghiệp có khinh, có trọng. Hai nghiệp trọng và khinh lại đều có hai, một là quyết định, hai là chẳng quyết định. Này thiện nam tử ! Hoặc có người nói nghiệp ác không có quả. Hoặc có người nói rằng, nghiệp ác nhất định có quả. Vậy thì sao chiên đà la Khí Hư mà được sinh lên trời và Ương Quật Ma La được quả giải thoát ? Do nghĩa này nên phải biết là, tạo tác nghiệp có định thì được quả, chẳng định cũng được quả. Ta vì đoạn trừ tà kiến như vậy nên ở trong Kinh nói lời như vậy, tất cả mọi tác nghiệp không gì chẳng được quả. Này thiện nam tử ! Hoặc có trọng nghiệp (nghiệp nặng) có thể được làm thành khinh (nhẹ). Hoặc có khinh nghiệp có thể được làm thành trọng. Chẳng phải tất cả mọi người chỉ có ngu và trí. Vậy nên phải biết là, chẳng phải tất cả nghiệp đều định được quả. Tuy nghiệp chẳng định được quả nhưng chẳng phải chẳng được. Này thiện nam tử ! Tất cả chúng sinh, phàm có hai hạng, một là người trí, hai là người ngu. Người có trí do lực của trí tuệ nên có thể khiến cho nghiệp rất nặng địa ngục ở hiện thế thọ nhẹ. Người ngu si làm cho nghiệp nhẹ hiện thế phải thọ nặng ở địa ngục.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu như vậy thì chẳng nên cầu Phạm hạnh thanh tịnh và quả giải thoát.

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Nếu tất cả nghiệp định được quả thì chẳng nên cầu phạm hạnh giải thoát. Do chẳng định thì tu Phạm hạnh và Giải thoát quả. Này thiện nam tử ! Nếu có thể xa lìa tất cả ác nghiệp thì được thiện quả. Nếu xa thiện nghiệp thì được ác quả. Nếu tất cả nghiệp định được quả thì chẳng nên cầu tu tập Thánh đạo. Nếu chẳng tu Thánh đạo thì không giải thoát. Tất cả Thánh nhân sở dĩ tu đạo là vì hoại định nghiệp, được khinh báo (quả báo nhẹ), nghiệp bất định không quả báo. Nếu tất cả nghiệp định được báo thì chẳng nên cầu tu tập Thánh đạo. Nếu người xa lìa tu tập Thánh đạo được giải thoát thì không có chỗ này. Chẳng được giải thoát mà được Niết Bàn thì cũng không có chỗ này. Này thiện nam tử ! Nếu tất cả nghiệp định được quả thì việc làm cả đời thuần là nghiệp thiện thì nên phải vĩnh viễn đã luôn thọ an lạc. Việc làm cả đời nghiệp ác rất nặng cũng nên phải vĩnh viễn đã thọ khổ não lớn. Nghiệp quả nếu vậy thì không tu đạo giải thoát Niết Bàn. Người làm người thọ, Bà la môn làm Bà la môn thọ. Nếu như vậy thì chẳng nên có dòng họ hạ đẳng. Nếu hạ đẳng có thì nên luôn là người, Bà la môn nên luôn là Bà la môn, lúc nhỏ tạo nghiệp thì nên lúc nhỏ chịu báo, chẳng nên đến lúc trung niên, lúc già mới chịu quả báo. Lúc già tạo tác ác nghiệp, sinh vào trong địa ngục thì thân đầu tiên ở địa ngục, chẳng nên thọ báo liền mà nên đợi khi già rồi nhiên hậu mới thọ. Nếu khi già chẳng giết hại thì chẳng nên lúc tráng niên được sống lâu. Nếu không sống được thời trẻ thì làm sao đến già để nghiệp không mất ? Nếu nghiệp không mất thì làm sao mà có tu đạo Niết Bàn ? Này thiện nam tử ! Nghiệp có hai thứ : định và bất định. Ðịnh nghiệp có hai, một là báo định, hai là thời định. Hoặc có báo định mà thời chẳng định, duyên hòa hợp thì thọ. Hoặc ba thời thọ đó là hiện thọ, sinh thọ và hậu thọ. Này thiện nam tử ! Nếu định tâm tạo tác nghiệp thiện, ác.v.v… Tạo tác rồi sinh ra lòng tin sâu sắc vui mừng và nếu phát lên thệ nguyện cúng dường Tam Bảo thì đó gọi là Ðịnh nghiệp. Này thiện nam tử ! Người trí thì thiện căn sâu bền khó chuyển động. Vậy nên họ có thể khiến cho nghiệp nặng thành nhẹ. Kẻ ngu si thì căn bất thiện thâm hậu nên có thể khiến cho nghiệp nhẹ mà trở thành quả báo nặng. Do nghĩa này nên tất cả các nghiệp chẳng gọi là quyết định. Ðại Bồ tát không có nghiệp địa ngục nhưng vì chúng sinh nên phát đại thệ nguyện sinh vào trong địa ngục.

Này thiện nam tử ! Thuở xưa, lúc chúng sinh sống lâu trăm tuổi thì hằng hà sa số chúng sinh thọ quả báo địa ngục. Ta thấy thế rồi liền phát đại nguyện, thọ thân địa ngục. Bồ tát bấy giờ thật không có nghiệp đó, vì chúng sinh nên thọ quả báo địa ngục. Ta vào lúc ấy ở tại trong địa ngục trải qua vô lượng năm, vì các tội nhân rộng mở, phân biệt mười hai bộ Kinh. Mọi người nghe rồi, hủy hoại quả báo ác khiến cho địa ngục trống không, trừ bọn nhất xiển đề. Ðó gọi là Ðại Bồ tát chẳng phải hiện thọ, sinh thọ, hậu thọ nghiệp ác này. Lại nữa, này thiện nam tử ! Trong Hiền kiếp này, có vô lượng chúng sinh rơi vào trong loài súc sinh thọ quả báo của nghiệp ác. Ta thấy thế rồi lại phát  thệ nguyện, vì muốn nói pháp độ chúng sinh nên, hoặc làm thân hươu nai, gấu, bồ câu, vượn, rồng, rắn, chim cánh vàng, cá, rùa, chồn, thỏ, trâu, ngựa… Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát chân thật không có nghiệp ác súc sinh như vậy nhưng do lực đại nguyện, vì chúng sinh nên thị hiện thọ những thân này. Ðó gọi là Ðại Bồ tát chẳng phải hiện thọ, sinh thọ, hậu thọ ác nghiệp này. Lại nữa, này thiện nam tử! Trong kiếp Hiền này, lại có vô lượng vô biên chúng sinh trong loài ngã quỉ. Chúng ăn nước ói ra, mỡ, thịt, máu mủ, đồ đại tiểu tiện, mũi dãi… sống lâu không lường, hàng trăm ngàn vạn năm mà chưa từng nghe đến danh từ nước uống, huống lại là tận mắt nhìn thấy và được uống. Giả sử từ xa thấy nước, sinh tâm đi đến thì đến nơi nước biến thành lửa mạnh và mủ máu. Hoặc khi chẳng biến đổi thì có nhiều người tay cầm mâu, kích ngăn giữ, tóm bắt khiến cho chúng chẳng đến chỗ nước được. Hoặc khi trời tuông mưa thì nước mưa đến thân chúng hóa thành lửa. Ðó gọi là quả báo nghiệp ác. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát thật không có các quả báo nghiệp ác như vậy nhưng vì giáo hóa chúng sinh khiến cho họ được giải thoát nên phát thệ nguyện thọ thân như vậy. Ðó gọi là Ðại Bồ tát chẳng phải hiện thọ, sinh thọ, hậu thọ nghiệp ác này. Này thiện nam tử ! Ta ở kiếp Hiền, sinh vào nhà giết mổ, nuôi dưỡng gà, heo, trâu, dê, làm người săn bắn, làm ngư phủ đánh cá, sinh vào nhà Chiên đà la làm giặc, trộm cướp… Bồ tát thật không làm những nghiệp ác như vậy, nhưng vì độ chúng sinh, khiến cho họ được giải thoát, dùng đại nguyện lực mà thọ thân như vậy. Ðó gọi là Ðại Bồ tát chẳng phải hiện thọ, sinh thọ, hậu thọ nghiệp ác này. Này thiện nam tử ! Trong kiếp Hiền này, ta lại sinh ra ở vùng biên địa, tạo tác nhiều tham dục, sân nhuế, ngu si, quen làm việc phi pháp, chẳng tin Tam Bảo, quả báo đời sau, chẳng thể cung kính cha mẹ, người già gần gũi, kỳ cựu, trưởng túc…. Này thiện nam tử ! Bồ tát, lúc ấy thật không có những nghiệp này, nhưng vì khiến cho chúng sinh được giải thoát nên dùng lực đại nguyện mà sinh ra trong chỗ ấy. Ðó gọi là Ðại Bồ tát chẳng phải hiện thọ, sinh thọ, hậu thọ nghiệp ác này. Này thiện nam tử ! Trong kiếp Hiền này, ta lại thọ thân nữ, thân ác, thân tham, thân sân, thân si, thân tật đố, thân keo kiệt, thân bé nhỏ (thân giả dối ?), thân lừa dối, thân trói buộc… Này thiện nam tử ! Bồ tát lúc ấy cũng không có những nghiệp này mà chỉ vì làm cho chúng sinh được giải thoát nên dùng lực đại nguyện để sinh ra trong những thân ấy. Ðó gọi là Ðại Bồ tát chẳng phải hiện thọ, sinh thọ, hậu thọ nghiệp ác này. Này thiện nam tử ! Ở kiếp Hiền ta thọ thân Huỳnh môn không căn, hai căn và căn chẳng định. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát thật không có các nghiệp thân ác như vậy, nhưng vì khiến cho chúng sinh được giải thoát nên dùng lực đại nguyện mà sinh trong thân ấy. Ðó gọi là Ðại Bồ tát chẳng phải hiện thọ, sinh thọ, hậu thọ nghiệp ác này. Này thiện nam tử ! Ở kiếp Hiền, ta lại tu tập pháp của ngoại đạo Ni Kiền Tử, tín thọ pháp ấy : không thí, không từ (cúng tế), không quả báo thí từ; không nghiệp thiện ác, không quả báo thiện ác; không đời hiện tại và đời vị lai; không đây không đó; không có Thánh nhân; không thân biến hóa, không đạo Niết Bàn… Này thiện nam tử ! Bồ tát thật không có những nghiệp ác như vậy, chỉ vì khiến cho chúng sinh được giải thoát nên dùng lực đại nguyện để thọ những tà pháp này. Ðó gọi là Ðại Bồ tát chẳng phải hiện thọ, sinh thọ, hậu thọ nghiệp ác này.

Này thiện nam tử ! Ta nhớ thuở xưa, cùng với Ðề Bà Ðạt Ða đều làm thương chủ (chủ buôn bán), mỗi người đều có năm trăm người theo buôn bán, vì lợi ích nên đi vào trong biển, thu nhặt lấy trân bảo. Do nghiệp duyên ác nên trên đường đi gặp phải gió dữ thổi phá tan thuyền bè, bạn buôn chết hết. Lúc bấy giờ, ta cùng với Ðề Bà Ðạt Ða nhờ quả báo chẳng giết hại nên sống lâu, được gió thổi đưa đến đất liền. Ðề Bà Ðạt Ða tham tiếc của báu, sinh ra ưu khổ lớn, lên tiếng gào khóc. Ta nói rằng : “Này Ðề Bà Ðạt Ða ! Chẳng nên gào khóc !”. Ðề Bà Ðạt Ða liền nói với ta rằng : “Hãy lắng nghe ! Lắng nghe ! Ví như có người nghèo cùng khốn khổ đi đến vùng nghĩa địa, tay nắm lấy thây chết mà nói lời này : Xin ngươi hôm nay cho ta niềm vui chết thì ta sẽ cho ngươi mạng sống bần cùng. Bấy giờ thây chết liền ngồi dậy nói với người nghèo rằng: Này thiện nam tử ! Mạng sống bần cùng ngươi hãy tự nhận lấy đi ! Ta nay rất  thích niềm vui chết như vậy, thật chẳng mừng được sự nghèo của ngươi mà sống. Nhưng ta ngày hôm nay đã không niềm vui của sự chết còn lại kiêm thêm bần cùng thì làm sao mà chẳng gào khóc  được vậy ?”. Ta lại an ủi dỗ dành : “Ngươi hãy chớ buồn ! Nay có hai viên ngọc giá trị vô số ta sẽ phân một viên cho ngươi !”. Ta liền phân cho và lại nói với ông rằng : “Người có mạng có thể được báu này. Như những người kia không mạng thì ai có thể được vậy ?”. Ta mệt mỏi lắm, đi đến dưới một cây nằm ngủ nghỉ ngơi. Lòng tham của Ðề Bà Ðạt Ða hừng hực, vì viên ngọc còn lại liền sinh ác tâm, đâm mù mắt ta mà cướp đoạt viên ngọc của ta. Khi ta bị thương phát ra tiếng kêu rên rỉ. Có một người con gái đi đến chỗ ta mà hỏi ta rằng : “Ngài vì sao mà rên rỉ như vậy ?”. Ta liền đem việc của mình nói cho người con gái ấy. Người con gái nghe rồi lại một lần nữa hỏi ta : “Ông tên là gì ?”. Ta liền đáp rằng : “Tên là Thật Ngữ !”. Người con gái nói rằng : “Làm sao biết ông là Thật Ngữ vậy ?”. Ta liền lập lời thề rằng : “Nếu ta nay đối với Ðề Bà Ðạt Ða có ác tâm thì mắt ta sẽ vĩnh viễn bị mù lòa như vậy. Như ác tâm ấy không có thì sẽ được sáng mắt trở lại”. Ta nói rồi thì mắt ấy bình phục như cũ. Này thiện nam tử ! Ðó gọi là Ðại Bồ tát nói hiện thế báo (quả báo đời hiện tại). Này thiện nam tử ! Ta nghĩ, thuở xưa, sinh vào nhà Bà la môn tại thành Phú Ðơn Na ở Nam Thiên Trúc. Lúc đó có vị vua tên là Ca La Phú. Tính vua ấy bạo ác, kiêu mạn, tự đại, tuổi trẻ sắc đẹp, đắm trước năm dục. Ta vào lúc ấy, vì độ chúng sinh, ở tại bên ngoài thành đó mà tịch mặc Thiền tư. Lúc bấy giờ, mùa Xuân cây cối trổ hoa, vị vua đó cùng với quyến thuộc, cung nhân, thể nữ ra khỏi thành du ngoạn. Ông ở dưới rừng cây, tự vui sướng với năm dục. Các thể nữ của ông bỏ vua đi chơi, liền đến chỗ của ta. Ta muốn vì họ đoạn tham dục nên đã vì họ nói pháp. Vị vua tìm đến liền thấy ta tức thời sinh ra ác tâm mà hỏi ta rằng : “Ông nay đã được quả A la hán rồi chăng ?”. Ta nói : “Chẳng được !”. Vua lại nói : “Tu được quả Bất Hoàn rồi chăng ?”.  Ta nói : “Chẳng được!”. Vua lại nói lời này : “Ông nay nếu chưa được hai quả này tức là đầy đủ tham dục phiền não thì sao tự buông thả quan sát những người con gái của ta ?”. Ta liền đáp rằng : “Thưa đại vương ! Ngài phải biết rằng, ta nay tuy chưa đoạn tham dục kết nhưng nội tâm của ta thật  không tham trước !” Vị vua nói rằng : “Này si nhân ! Trên đời có các tiên nhân uống hơi, ăn trái cây mà thấy sắc còn tham, huống là ông tuổi trẻ, chưa đoạn dứt tham dục thì làm sao thấy sắc mà sẽ chẳng đắm trước ?”. Ta nói : “Thưa đại vương ! Thấy sắc chẳng đắm trước thật ra chẳng nhân vào việc uống hơi, ăn trái cây mà đều do hệ thuộc tâm vô thường, bất tịnh”. Vị vua nói : “Nếu có khinh người khác mà sinh ra bài báng thì làm sao được gọi là tu trì tịnh giới ?”. Ta nói : “Thưa đại vương ! Nếu có lòng ganh ghét thì có bài báng. Ta không lòng ganh ghét thì làm sao nói rằng bài báng ?”. Vị vua nói rằng : “Thưa Ðại đức ! Sao gọi là giới ?”. “Thưa đại vương ! Nhẫn gọi là giới !”. Vua nói : “Nếu nhẫn là giới thì phải cắt tai của ông. Nếu ông có thể nhẫn thì biết là ông trì giới”. Vua liền cắt tai của ta. Ta bị cắt tai mà nhan sắc chẳng biến đổi. Quần thần của vua thấy việc này rồi, liền can vua rằng : “Vị đại sĩ như vậy chẳng nên gia hại !”. Vị vua bảo các bề tôi rằng : “Các khanh làm sao biết là Ðại sĩ ?”. Các bề tôi đáp rằng : “Thấy người này khi thọ khổ mà sắc mặt chẳng biến đổi !”. Vị vua lại nói rằng : “Ta sẽ lại thử thách để biết có biến đổi hay chẳng biến đổi”. Vua liền cho cắt mũi ta, chặt tay chân ta. Bấy giờ Bồ tát đã ở trong vô lượng vô biên đời, tu tập từ bi thương xót chúng sinh khổ. Khi đó bốn vua trời lòng ôm sân giận, mưa xuống cát, sỏi, đá. Vị vua thấy thế rồi, lòng rất kinh sợ, lại đến chỗ của ta quì dài mà nói rằng : “Nguyện xin ngài thương xót cho phép tôi sám hối”. Ta nói rằng : “Thưa đại vương ! Lòng ta không sân cũng như không tham!”. Vị vua nói : “Thưa đại đức ! Làm sao được biết lòng ngài không sân hận ?”. Ta liền lập thệ rằng : “Ta nếu chân thật không sân hận thì khiến cho thân này của ta bình phục như cũ !”. Phát nguyện xong, thân ta liền bình phục. Ðó gọi là Ðại Bồ tát nói hiện thế báo.

Này thiện nam tử ! Sinh báo, hậu báo của nghiệp thiện và bất thiện nghiệp cũng lại như vậy. Khi Ðại Bồ tát được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì tất cả các nghiệp đều được hiện báo. Nghiệp ác bất thiện được hiện báo thì như vị vua làm ác bị trời tuông mưa dữ; cũng như có người chỉ cho thợ săn chỗ của gấu và nai sắc báu thì tay hắn bị rơi rụng. Ðó gọi là quả báo hiện thọ của nghiệp ác. Sinh báo thì như nhất xiển đề phạm bốn trọng cấm và ngũ nghịch tội. Hậu báo thì như người trì giới phát thệ nguyện sâu sắc rằng : Nguyện đời vị lai luôn được thân tịnh giới như vậy. Nếu có chúng sinh lúc thọ trăm năm, lúc thọ tám mươi năm thì nguyện ở trong họ làm Chuyển Luân Thánh Vương để giáo hóa chúng sinh.

Này thiện nam tử ! Nếu nghiệp định được quả báo hiện thế thì chẳng thể được sinh báo và hậu báo. Ðại Bồ tát tu nghiệp của ba mươi hai tướng Ðại nhân thì chẳng thể được hiện thế báo. Nếu nghiệp chẳng được ba thứ báo thì đó gọi là bất định. Này thiện nam tử ! Nếu nói các nghiệp định được báo thì chẳng được có tu tập Phạm hạnh, Giải thoát, Niết Bàn. Ông phải biết người này chẳng phải đệ tử của ta, chính là quyến thuộc của ma. Nếu nói các nghiệp có định và bất định. Ðịnh thì hiện báo, sinh báo, hậu báo. Bất định thì duyên hòa hợp thì thọ, chẳng hòa hợp thì chẳng thọ. Do nghĩa này nên có Phạm hạnh, Giải thoát, Niết Bàn. Ông phải biết người này là đệ tử chân chính của ta, chẳng phải quyến thuộc của ma. Này thiện nam tử ! Tất cả chúng sinh, bất định nghiệp thì nhiều, quyết định nghiệp thì ít. Do nghĩa này nên có sự tu tập đạo. Có tu tập đạo nên nghiệp nặng quyết định có thể khiến cho nhẹ thọ báo, bất định nghiệp chẳng phải sinh thọ quả báo.

Này thiện nam tử ! Có hai thứ người : “Một là bất định tạo tác định báo, hiện báo tạo tác sinh báo, khinh báo tạo tác trọng báo đáng nên thọ trong loài người thì thọ tại địa ngục. Hai là định tạo tác bất định nên sinh thọ thì trở lại là hiện thọ, trọng báo tạo tác khinh báo đáng nên thọ báo tại địa ngục thì thọ báo nhẹ trong loài người. Hai người như vậy, một là ngu, hai là trí. Người trí thì làm cho nhẹ báo đi, người ngu thì khiến cho báo nặng thêm. Này thiện nam tử ! Ví như hai người có tội đối với vua. Người quyến thuộc nhiều thì tội ấy nhẹ, kẻ quyến thuộc ít thì tội đáng nhẹ lại thành nặng. Kẻ ngu, người trí cũng lại như vậy. Người trí nghiệp thiện nhiều nên nghiệp nặng thì thọ báo nhẹ. Kẻ ngu nghiệp thiện ít nên nghiệp nhẹ thì thọ báo nặng. Này thiện nam tử ! Ví như hai người, một người thì mập mạnh, một người thì gầy yếu. Họ đều chìm vào bùn sâu thì người mập mạnh có thể ra khỏi còn người gầy yếu thì chìm mất. Này thiện nam tử ! Ví như hai người đều uống phải độc mà một người có chú lực và A dà đà, một người thì không có. Người có chú và thuốc thì độc chẳng thể làm thương tổn. Người không có chú và thuốc thì khi uống liền chết. Này thiện nam tử ! Ví như hai người đều uống nhiều nước mà một người hỏa thế thịnh, một người yếu ớt. Người hỏa thế nhiều thì có thể tiêu hóa, người hỏa thế yếu thì bị bịnh hoạn. Này thiện nam tử ! Ví như hai người bị sự trói buộc của vua mà một người có trí tuệ, một người thì ngu si. Người có trí thì có thể được giải thoát, người ngu si thì không hạn kỳ thoát khỏi. Này thiện nam tử ! Ví như hai người đều lặn lội trên con đường hiểm trở mà một người thì sáng mắt còn một người thì mù lòa. Người có mắt đi thẳng qua không có hoạn nạn, còn người mù lòa thì rơi rớt xuống hầm sâu nguy hiểm. Này thiện nam tử ! Ví như  hai người đều cùng uống rượu mà một người uống được nhiều rượu còn một người thì uống ít rượu. Người uống được nhiều thì uống không hoạn nạn gì, còn kẻ uống được ít thì thành hoạn nạn. Này thiện nam tử! Ví như hai người ra trận đánh địch mà một người thì trang bị đầy đủ áp giáp, binh khí còn một người thì thân trần (không trang bị). Người có binh khí thì có thể phá tan oán địch, còn người thân trần thì chẳng thể tự tránh khỏi họa. Lại có hai người quần áo dơ bẩn mà một người biết liền giặt, một người biết chẳng giặt. Người giặt thì quần áo sạch sẽ, còn người chẳng giặt thì cấu bẩn mỗi ngày một thêm. Lại có hai người đều cùng đi bằng xe mà một người xe có trục có nan hoa còn một người thì xe không trục không nan hoa. Người xe có trục có nan hoa thì theo ý mà đi, còn người  xe không trục không nan hoa thì chẳng dời khỏi chỗ. Lại có hai người đều đi trên con đường trống vắng mà một người có lương thực còn một người thì đi không. Người có lương thực thì qua được hiểm nghèo còn người đi không thì chẳng thể qua khỏi. Lại có hai người bị giặc cướp mà một người có bảo tàng còn một người thì không bảo tàng. Người có bảo tàng lòng không lo buồn còn người không bảo tàng thì lòng sầu não. Kẻ ngu, người trí cũng lại như vậy, người có bảo tàng thiện thì nghiệp nặng được thọ báo nhẹ, người không bảo tàng thiện thì nghiệp nhẹ phải thọ quả báo nặng.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Như lời đức Phật nói, chẳng phải tất cả nghiệp đều được định quả, cũng chẳng tất cả chúng sinh quyết định thọ báo. Thưa đức Thế Tôn ! Làm sao chúng sinh khiến cho khinh báo hiện tại mà phải thọ nặng ở địa ngục ? Trọng báo ở địa ngục mà được thọ nhẹ ở đời hiện tại ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Tất cả chúng sinh thường có hai thứ, một là có trí, hai là ngu si. Nếu người có thể tu tập thân giới, tâm tuệ thì đó gọi là người trí. Nếu kẻ chẳng thể tu tập thân giới tâm tuệ thì đó gọi là kẻ ngu si. Sao gọi là chẳng tu thân ? Nếu chẳng thể nhiếp lấy năm tình, các căn thì gọi là chẳng tu thân; chẳng thể thọ trì bảy thứ tịnh giới thì gọi là chẳng tu giới; chẳng điều phục tâm thì gọi là chẳng tu tâm; chẳng tu Thánh hạnh thì gọi là chẳng tu tuệ. Lại nữa, chẳng tu thân là chẳng thể đầy đủ giới thể thanh tịnh. Chẳng tu giới là thọ chứa tám thứ vật bất tịnh. Chẳng tu tâm là chẳng thể tu tập ba thứ tướng. Chẳng tu tuệ là chẳng tu phạm hạnh. Lại nữa, chẳng tu thân là chẳng thể quan sát thân, chẳng thể quan sát sắc và quan sát sắc tướng, chẳng quan sát thân tướng, chẳng biết thân số, chẳng biết thân này từ đây đến đó, ở trong phi thân mà sinh ra thân tướng, ở trong phi sắc mà tác khởi sắc tướng. Vậy nên tham trước ngã thân, thân số thì gọi là chẳng tu thân. Chẳng tu giới là nếu thọ giới hạ tiện thì chẳng gọi là tu giới. Thọ trì biên giới (giới cấm ven bờ) là giới tự lợi, là giới tự điều, chẳng thể khắp vì chúng sinh an lạc, chẳng phải là hộ trì chánh pháp Vô Thượng. Nếu vì sinh lên trời thọ niềm vui ngũ dục thì chẳng gọi là tu giới. Chẳng tu tâm là nếu tâm tán loạn chẳng thể chuyên nhất giữ cảnh giới của mình. Cảnh giới của mình là bốn niệm xứ. Cảnh giới người khác như là năm dục. Nếu chẳng thể tu bốn niệm xứ thì gọi là chẳng tu tâm. Ở trong nghiệp ác mà chẳng khéo hộ trì tâm thì gọi là chẳng tu tuệ. Lại nữa, chẳng tu thân là chẳng thể quan sát sâu sắc thân này vô thường, vô trụ, dễ tan vỡ, từng niệm từng niệm diệt hoại, chính là cảnh giới của ma. Chẳng tu giới là chẳng thể đầy đủ Thi Ba la mật. Chẳng tu tâm là chẳng thể đầy đủ Thiền Ba la mật. Chẳng tu tuệ là chẳng thể đầy đủ Bát nhã Ba la mật. Lại nữa, chẳng tu thân thì tham trước ngã thân và thân ngã sở, ngã thân là thường hằng không có biến dịch. Chẳng tu giới thì vì thân mình nên làm mười nghiệp ác. Chẳng tu tâm thì ở trong nghiệp ác chẳng thể nhiếp lấy tâm. Chẳng tu tuệ thì do chẳng nhiếp lấy tâm nên chẳng thể phân biệt pháp thiện, ác.v.v… Lại nữa, chẳng tu thân thì chẳng cắt đứt ngã kiến. Chẳng tu giới thì chẳng cắt đứt giới thủ (chọn lấy giới). Chẳng tu tâm thì tác khởi nghiệp tham, sân, hướng đến địa ngục. Chẳng tu tuệ thì chẳng cắt đứt si tâm. Lại nữa, chẳng tu thân thì chẳng thể quan sát thân tuy không tội lỗi mà luôn chính là oán. Này thiện nam tử ! Ví như người con trai có kẻ oán luôn theo dò tìm sơ hở. Người trí hay biết đã hết lòng thận trọng hộ trì, nếu chẳng thận trọng hộ trì thì bị hại. Thân của tất cả chúng sinh cũng như vậy, thường do ăn uống, lạnh nóng nuôi dưỡng. Nếu chẳng nuôi dưỡng, giữ gìn thận trọng như vậy thì liền phải tan hoại. Này thiện nam tử ! Như Bà la môn phụng sự trời Lửa, thường dùng hương hoa khen ngợi, lễ bái, cúng dường, thừa sự… hạn tròn trăm năm. Nhưng nếu một khi chạm vào lửa thì liền cháy tay người. Lửa này tuy được cúng dường như vậy nhưng nhất định không một ý niệm đền ơn người phụng sự. Thân của tất cả chúng sinh cũng như vậy, tuy trong nhiều năm, dùng hương hoa tốt, chuỗi ngọc, quần áo, ẩm thực, ngọa cụ, thuốc men chữa bệnh… mà cung cấp cho thân. Nhưng nếu nó gặp phải những nhân duyên ác ở trong hay ở ngoài thì tức thời diệt hoại, chẳng nhớ nghĩ đến cái ơn cung cấp y thực… của ngày trước. Này thiện nam tử ! Ví như có vị vua nuôi bốn con rắn độc, nhốt chúng vào một cái hòm nhỏ, đem giao cho một người lệnh cho trông nom nuôi dưỡng. Trong bốn con rắn này, giả sử một con sinh ra sân hận thì có thể hại người. Người này kinh sợ thường cầu ẩm thực tùy lúc giữ hộ. Rắn độc bốn đại của tất cả chúng sinh cũng lại như vậy, nếu một đại nổi sân thì có thể hoại thân. Này thiện nam tử ! Như người bệnh lâu cần phải chí tâm cầu thuốc trị liệu. Nếu họ chẳng siêng cầu cứu thì nhất định phải chết chẳng nghi ngờ gì. Thân của tất cả chúng sinh cũng như vậy, phải thường nhiếp lấy tâm chẳng để cho nó buông lung. Nếu buông lung thì liền bị hoại diệt. Này thiện nam tử ! Ví như cái bình đất chẳng chịu đựng được gió, mưa, đánh, đập, xô đẩy, đè nén. Thân của tất cả chúng sinh cũng như vậy, chẳng chịu đựng được đói khát, lạnh, nóng, gió, mưa, đánh đập, trói buộc, mắng chửi… Này thiện nam tử ! Ví như mụt nhọt chưa muồi thì luôn phải khéo giữ gìn, chẳng cho người đụng vào. Giả sử có người  đụng vào thì rất đau khổ. Thân của tất cả chúng sinh cũng như vậy. Này thiện nam tử ! Như con la mang thai là tự hại thân của nó. Thân của tất cả chúng sinh cũng như vậy, bên trong có gió lạnh thì thân liền chịu khổ. Này thiện nam tử ! Ví như cây chuối sinh ra quả thì khô. Thân của tất cả chúng sinh cũng như vậy. Này thiện nam tử ! Cũng như cây chuối, bên trong không có quả cứng, thân của tất cả chúng sinh cũng như vậy. Này thiện nam tử ! Như rắn, chuột, chó sói mỗi mỗi đối với nhau luôn sinh ra lòng oán. Bốn đại của chúng sinh cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Ví như con ngỗng chúa chẳng ưa chỗ mồ mã. Bồ tát cũng vậy, đối với thân mồ mã cũng chẳng tham lạc. Này thiện nam tử ! Như Chiên đà la bảy đời nối tiếp nhau chẳng bỏ nghiệp ấy. Vậy nên họ bị người đời khinh rẻ. Chủng tử của thân này cũng lại như vậy, chủng tử tinh huyết rốt ráo bất tịnh. Do bất tịnh nên các đức Phật Bồ tát quở trách. Này thiện nam tử ! Thân này chẳng như núi Ma la gia sinh ra chiên đàn, cũng chẳng thể sinh ra hoa Ưu bát la, hoa Phân đà lợi, hoa Chiêm bà, hoa Ma lợi ca, hoa Bà sư ca mà nó chảy ra mũ máu bất tịnh, chỗ sinh sống dơ bẩn, xấu xí đáng ghét, thường cùng với loài trùng ở chung một chỗ. Này thiện nam tử ! Ví như thế gian tuy có vườn rừng thanh tịnh thượng diệu nhưng có thây chết trong đó thì tức là bất tịnh thì mọi người đều xả bỏ, chẳng sinh lòng ái trước. Sắc giới cũng vậy, tuy lại tịnh diệu nhưng do có thân nên các đức Phật, Bồ tát đều cùng xả bỏ. Này thiện nam tử ! Nếu có người chẳng thể tác khởi sự quan sát như vậy thì gọi là chẳng tu thân. Này thiện nam tử ! Chẳng tu giới là nếu chẳng thể quan sát giới chính là thềm bậc của tất cả thiện pháp, cũng chính là căn bản của tất cả thiện pháp. Như đất chính là chỗ sinh ra của tất cả cây cối, chính các thiện căn là dẫn đầu thiện pháp vậy. Như vị thương chủ kia dẫn đường các thương nhân, giới chính là Thắng tràng của tất cả thiện pháp. Như việc lập Thắng tràng của Thiên đế thích, giới có thể đoạn dứt vĩnh viễn tất cả nghiệp ác và ba đường ác, có thể trị liệu ác bệnh giống như cây thuốc. Giới chính là lương thực (tư lương) để đi trên đường nguy hiểm sinh tử. Giới chính là áo giáp, binh khí tiêu diệt giặc kết sử ái. Giới chính là thần chú hay diệt rắn độc kết sử. Giới chính là cây cầu để qua khỏi hành động nghiệp ác. Nếu có người chẳng thể quan sát như vậy thì gọi là chẳng tu tịnh giới. Chẳng tu tâm là chẳng thể quan sát tâm khinh tháo chuyển động, khó nắm bắt, khó điều phục, dong ruổi chạy rong như con voi hung dữ. Từng niệm từng niệm qua nhanh như ánh chớp, xao động nhiễu loạn chẳng trụ giống như con vượn. Như huyễn hóa, như lửa nóng mới chính là căn bản của các ác. Năm dục khó thỏa mãn như lửa được củi khô, cũng như biển cả nuốt lấy các dòng sông, như núi Mạn đà cỏ cây rậm rạp chẳng thể quan sát sinh tử hư vọng, đắm chìm mê hoặc dẫn đến hoạn nạn như cá cắn câu, thường đi trước dẫn đường các nghiệp đi theo giống như mẹ sò dẫn đường các con, tham trước năm dục chẳng ưa Niết Bàn, như lạc đà ăn mật cho đến chết chẳng đoái hoài đến cỏ sô, đắm sâu vui hiện tại chẳng quan sát lỗi ngày sau như trâu ăn lúa chẳng sợ gậy gộc, dong ruổi cùng khắp hai mươi lăm cõi hữu giống như gió mạnh thổi vào chỗ Ðâu la nhỉ, điều chẳng nên cầu mà cầu không chán đủ như người không biết cầu lửa không nóng, thường ưa sinh tử chẳng thích giải thoát như con sâu Nhiệm bà ưa cây nhiệm bà, mê hoặc ái trước sinh tử hôi thối giống như người tù trong ngục thích con gái của ngục tốt, cũng như heo trong chuồng ưa sống bất tịnh. Nếu có người chẳng thể quan sát như vậy thì gọi là chẳng tu tâm. Chẳng tu tuệ là chẳng quan sát trí tuệ có thế lực lớn như con chim cánh vàng, có thể hủy hoại nghiệp ác, hủy hoại bóng tối vô minh giống như ánh sáng mặt trời, có thể đánh bạt thọ ấm như nước cuốn trôi vật, đốt cháy tà kiến giống như lửa mạnh. Tuệ chính là căn bản của tất cả thiện pháp, là chủng tử mẹ của Phật, Bồ tát. Nếu có người chẳng thể quan sát như vậy thì gọi là chẳng tu tuệ. Này thiện nam tử ! Trong đệ nhất nghĩa, nếu thấy thân, tướng của thân, nhân của thân, quả của thân, tụ của thân, một thân, hai thân, thân này, thân kia, diệt thân, đẳng thân, tu thân, người tu. Nếu có người thấy như vậy thì gọi là chẳng tu thân. Này thiện nam tử ! Nếu thấy giới, giới tướng, giới nhân, giới quả, thượng giới, hạ giới, giới tụ, giới nhất, giới nhị, thử giới, bỉ giới, giới diệt, giới đẳng, giới tu và người tu giới Ba la mật… Nếu có người thấy như vậy thì gọi là chẳng tu giới. Nếu thấy tâm, tâm tướng, tâm nhân, tâm quả, tâm tụ, tâm cập, tâm số, tâm nhất, tâm nhị, thử tâm, bỉ tâm, tâm diệt, tâm đẳng, tâm tu, người tu, tâm thượng trung hạ, tâm thiện, tâm ác… Nếu có người thấy như vậy thì gọi là chẳng tu tâm. Này thiện nam tử ! Nếu thấy tuệ, tuệ tướng, tuệ nhân, tuệ quả, tuệ tụ, tuệ nhất, tuệ nhị, thử tuệ, bỉ tuệ, tuệ diệt, tuệ đẳng, tuệ thượng trung hạ, độn tuệ, lợi tuệ, tuệ tu, người tu… Nếu có người thấy như vậy thì gọi là chẳng tu tuệ. Này thiện nam tử ! Nếu có người chẳng tu thân, giới, tâm, tuệ thì người như vậy đối với nghiệp ác nhỏ được quả báo ác lớn. Do kinh sợ nên họ thường sinh ra ý niệm này: Ta thuộc địa ngục nên tạo tác hạnh địa ngục. Tuy nghe người Trí nói về khổ của địa ngục nhưng thường tác khởi ý niệm này : Như sắt đánh vào sắt, đá lại đánh vào đá, cây tự đánh vào cây, con trùng lửa ưa lửa, thân địa ngục trở lại tương tợ địa ngục có việc gì là khổ ? Ví như con nhặng xanh bị nước dãi nhổ ra dán dính thì chẳng thể ra được. Người này cũng vậy ở trong tội nhỏ chẳng thể tự ra, lòng ban đầu không ăn năn, chẳng thể tu thiện, che giấu tỳ vết (lỗi lầm). Tuy họ có tất cả thiện nghiệp trong quá khứ nhưng đều bị sự cấu bẩn của tội đó. Khinh báo hiện thọ sẵn có của người này chuyển thành quả ác cực nặng ở địa ngục. Này thiện nam tử ! Như nước chứa trong đồ đựng nhỏ mà cho vào một thăng (dụng cụ đo lường) muối thì vì nước ấy mặn đắng, khó có thể uống được. Tội nghiệp người này cũng như vậy. Này thiện nam tử ! Ví như có người thua người khác một tiền mà chẳng thể đền trả nên thân bị trói buộc chịu nhiều khổ sở. Tội nghiệp của người này cũng lại như vậy.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Người này vì sao khiến cho khinh báo hiện tại chuyển đến địa ngục thọ ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Tất cả chúng sinh nếu đủ năm việc thì khiến cho khinh báo hiện tại chuyển đến địa ngục thọ. Những gì là năm ? Một là ngu si, hai là thiện căn nhỏ ít, ba là nghiệp ác sâu nặng, bốn là chẳng sám hối, năm là chẳng tu nghiệp thiện căn bản. Lại có năm việc : Một là tu tập nghiệp ác, hai là không của cải giới, ba là xa lìa các thiện căn, bốn là chẳng tu thân, giới, tâm, tuệ, năm là gần gũi ác tri thức. Này thiện nam tử ! Vậy nên có thể khiến cho khinh báo hiện tại chuyển đến thọ nặng ở địa ngục.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Những người nào có thể chuyển được địa ngục báo thành thọ quả nhẹ ở đời hiện tại ?

– Này thiện nam tử ! Nếu có người tu tập thân, giới, tâm tuệ thì như trước đã nói, có thể quan sát các pháp đồng như hư không, chẳng thấy trí tuệ, chẳng thấy người trí, chẳng thấy ngu si, chẳng thấy người ngu, chẳng thấy tu tập và người tu tập. Ðó gọi là người trí. Người như vậy thì có thể tu tập thân, giới, tâm, tuệ. Người này có thể khiến cho quả báo địa ngục được thọ nhẹ ở đời hiện tại. Người này giả sử tạo tác nghiệp ác rất nặng mà tư duy quan sát có thể khiến cho nhẹ và nhỏ. Họ nghĩ rằng : Nghiệp của ta tuy nặng nhưng chẳng bằng nghiệp thiện. Ví như hoa chồng chất tuy đến hàng trăm cân nhưng nhất định chẳng thể địch nỗi một lượng vàng ròng, như ném một thăng muối vào sông Hằng thì nước vẫn không vị mặn, người uống chẳng hay biết, như kẻ giàu to tuy thua nhiều người đến hàng ngàn vạn vật báu, nhưng không thể trói buộc khiến cho ông ấy thọ khổ, như con Ðại Hương Tượng (con voi thơm) có hể phá hoại khóa sắt, tự tại mà đi. Người trí tuệ cũng lại như vậy, thường tư duy rằng : Thiện lực của ta nhiều, ác nghiệp yếu kém. Ta có thể phát lồ sám hối diệt trừ ác, có thể tu trí tuệ. Lực trí tuệ nhiều, lực vô minh ít. Nghĩ như vậy rồi, họ gần gũi bạn lành, tu tập chính kiến, thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói mười hai bộ Kinh. Thấy có người thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói thì lòng họ sinh cung kính, thêm đem y thực, phòng xá, ngọa cụ, thuốc chữa bệnh, hương hoa để cúng dường, khen ngợi, tôn trọng người đó. Ði đến chỗ người hành trì đó, người trí xưng nói cái thiện, chẳng  nói sở đoản. Người có trí cúng dường Tam Bảo, kính tín Kinh Phương Ðẳng Ðại Niết Bàn, tin Như Lai thường hằng, không có biến dịch, tin tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Người này có thể khiến cho quả báo nặng ở địa ngục trở thành thọ nhẹ ở đời hiện tại. Này thiện nam tử ! Do nghĩa này nên chẳng phải tất cả nghiệp đều có định quả, cũng chẳng phải tất cả chúng sinh định thọ.

*********

– Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu tất cả nghiệp chẳng định được quả, tất cả chúng sinh đều có Phật tính mà cần phải tu tập tám Thánh đạo thì vì nhân duyên gì tất cả chúng sinh đều chẳng thể được Ðại Bát Niết Bàn này ? Thưa đức Thế Tôn ! Nếu tất cả chúng sinh có Phật tính thì tức là sẽ quyết định được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, cần gì tu tập tám Thánh đạo vậy ? Thưa đức Thế Tôn ! Như trong Kinh này nói, người có bệnh nếu được thuốc men và người xem bệnh theo bệnh cho uống thuốc, hoặc giả sử chẳng được như thế cũng đều trừ khỏi. Tất cả chúng sinh cũng lại như vậy, hoặc gặp Thanh Văn, Bích Chi Phật, các đức Phật, Bồ tát và các thiện tri thức mà nghe nói pháp tu tập Thánh đạo, hoặc chẳng gặp, chẳng nghe, chẳng tu tập Thánh đạo đều sẽ được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vì sao vậy ? Vì do Phật tính vậy. Thưa đức Thế Tôn ! Ví như vậy mặt trời, mặt trăng không gì có thể ngăn khiến cho chẳng được đến ven sườn núi Át Ða, nước bốn  dòng sông lớn chẳng đến biển cả, nhất xiển đề.v.v.. chẳng đến địa ngục. Tất cả chúng sinh cũng lại như vậy, không gì có thể ngăn khiến cho chẳng được đến Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vì sao vậy ? Vì do Phật tính vậy. Thưa đức Thế Tôn ! Do nghĩa này nên tất cả chúng sinh chẳng cần tu Thánh đạo. Dọ lực Phật tính nên ứng được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác chứ chẳng do sức tu tập Thánh đạo vậy. Thưa đức Thế Tôn ! Nếu nhất xiển đề phạm bốn trọng cấm, tội ngũ nghịch.v.v… chẳng được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì cần phải tu tập. Do nhân Phật tính quyết định sẽ được, chẳng phải nhân tu tập, nhiên hậu mới được vậy. Thưa đức Thế Tôn ! Ví như Từ thạch (đá có từ tính) khử sắt. Tuy ở xa nhưng do lực của đá ấy nên sắt bị cuốn hút theo. Phật tính của chúng sinh cũng lại như vậy. Vậy nên chẳng cần siêng tu tập Thánh đạo.

Ðức Phật dạy rằng :

– Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Như bên bờ sông Hằng có bảy thứ người, hoặc vì tắm gội, sợ sệt khấu tặc, hoặc vì hái hoa nên vào trong dòng sông ấy. Người thứ nhất vào nước thì chìm mất. Vì sao vậy ? Vì yếu đuối không thế lực, chẳng tập bơi nổi. Người thứ hai tuy chìm nhưng ra trở lại, ra rồi lại chìm mất. Vì sao vậy ? Vì thân lực lớn nên có thể trở lại nhưng chẳng tập bơi nổi nên ra rồi chìm trở lại. Người thứ ba chìm rồi liền ra, ra lại chẳng chìm mất. Vì sao vậy ? Vì thân nặng nên chìm mà lực lớn nên ra và trước có tập bơi nổi nên rồi liền trụ. Người thứ tư thì vào rồi liền chìm, chìm rồi trở lại ra, ra rồi liền trụ và quan sát khắp bốn phương. Vì sao vậy ? Vì nặng nên chìm, lực lớn nên ra trở lại, tập bơi nổi nên trụ, chẳng biết chỗ ra nên quan sát bốn phương. Người thứ năm thì vào rồi liền chìm, chìm rồi liền ra trở lại, ra rồi liền trụ, trụ rồi quan sát bốn phương, quan sát rồi liền đi. Vì sao vậy ? Vì kinh sợ vậy. Người thứ sáu thì vào rồi liền đi đến chỗ cạn mà trụ. Vì sao vậy ? Vì xem thấy giặc gần hay xa. Người thứ bảy thì đã đi đến bờ kia, leo lên ngọn núi lớn, không kinh sợ nữa, lìa khỏi các giặc dữ, hưởng thọ khoái lạc lớn. Này thiện nam tử ! Dòng sông lớn sinh tử cũng lại như vậy, có bảy thứ người sợ giặc phiền não nên phát khởi ý muốn qua khỏi dòng sông lớn sinh tử, xuất gia, cạo tóc, thân mặc pháp phục. Ðã xuất gia rồi mà họ còn gần gũi bạn ác, thuận theo lời dạy của chúng, thính thọ tà pháp như cho là thân chúng sinh tức là năm ấm, năm ấm thì gọi là năm đại. Chúng sinh nếu chết là đoạn dứt vĩnh viễn năm đại. Ðã đoạn dứt năm đại rồi thì vì sao cần tu tập các nghiệp thiện, ác ? Vậy nên phải biết không có thiện ác và quả báo thiện ác. Như vậy thì gọi là nhất xiển đề. Nhất xiển đề thì gọi là đoạn thiện căn mà đoạn thiện căn nên chìm vào dòng sông sinh tử, chẳng thể được ra. Vì sao vậy ? Vì nghiệp ác nặng, không có tín lực giống như người thứ nhất bên bờ sông Hằng vậy. Này thiện nam tử ! Bọn nhất xiển đề có sáu nhân duyên chìm vào ba đường ác, chẳng thể được ra. Những gì là sáu ? Một là lòng ác hừng hực, hai là chẳng thấy đời sau, ba là ưa quen phiền não, bốn là xa lìa thiện căn, năm là nghiệp ác ngăn cách, sáu là gần gũi ác tri thức.

Lại có năm việc chìm vào ba đường ác. Những gì là năm ? Một là ở bên Tỳkheo làm việc phi pháp. Hai là ở bên Tỳkheo ni làm việc phi pháp. Ba là tự tại sử dụng vật của Tăng. Bốn là ở bên mẹ làm việc phi pháp. Năm là đối với năm bộ Tăng đắp đổi phát sinh thị phi (phải trái).

Lại có năm việc chìm vào ba đường ác. Những gì là năm ? Một là thường nói không quả báo thiện ác. Hai là giết hại chúng sinh phát tâm Bồ Ðề. Ba là ưa nói lỗi lầm của pháp sư. Bốn là pháp nói là phi pháp, phi pháp nói là pháp. Năm là vì tìm cầu lỗi của pháp mà thính thọ.

Lại có ba việc chìm vào ba đường ác. Những gì là ba ? Một là gọi Như Lai vô thường, diệt vĩnh viễn. Hai là chánh pháp vô thường biến đổi. Ba là Tăng bảo có thể hoại diệt. Vậy nên họ thường chìm trong ba đường ác. Người thứ hai phát ý muốn qua khỏi dòng sông lớn sinh tử mà đoạn thiện căn nên chìm mất chẳng thể ra. Sở dĩ nói rằng ra là nói gần gũi bạn lành thì được tín tâm. Người tín tâm là người tin bố thí và quả báo của bố thí, tin thiện và quả báo của thiện, tin ác và quả báo của ác, tin sinh tử, khổ, vô thường, bại hoại. Ðó gọi là tin. Ðã được tín tâm, tu tập tịnh giới, thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói, thường làm bố thí, khéo tu trí tuệ nhưng do độn căn nên lại gặp bạn ác, chẳng thể tu tập thân, giới, tâm, tuệ, thính thọ tà pháp, hoặc gặp lúc ác, ở đất nước ác, đoạn dứt các căn lành mà đoạn căn lành nên thường chìm vào sinh tử như người thứ hai bên bờ sông Hằng. Người thứ ba phát ý muốn vượt qua dòng sông lớn sinh tử mà đoạn căn lành nên chìm đắm ở trong đó. Gần gũi bạn lành thì được gọi là ra. Tin Như Lai chính là Nhất Thiết Trí thường hằng không biến đổi, vì chúng sinh nên nói đạo Vô thượng, tất cả chúng sinh đều có Phật tính, Như Lai chẳng phải diệt, Pháp, Tăng cũng vậy, không có diệt hoại, nhất xiển đề chẳng đoạn pháp ấy nhất định chẳng thể được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, cần phải xa lìa thì nhiên hậu mới được. Do tín tâm nên tu tập tịnh giới, tu tịnh giới rồi thì thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói mười hai bộ kinh, vì các chúng sinh tuyên dương lưu bố rộng rãi, ưa thích bố thí, tu tập trí tuệ. Do lợi căn nên trụ vững ở tín tuệ, lòng không thối chuyển như người thứ ba bên bờ sông Hằng. Người thứ tư là người phát ý muốn vượt qua dòng sông lớn sinh tử mà đoạn thiện căn nên chìm đắm ở trong đó, nhờ gần gũi bạn lành nên được tín tâm thì đó gọi là xuất (ra). Ðược tín tâm nên thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói mười hai bộ kinh, vì chúng sinh nên tuyên dương lưu bố rộng rãi, ưa làm bố thí, tu tập trí tuệ. Do lợi căn nên trụ vững ở tín tuệ, lòng không thoái chuyển người này quan sát khắp bốn phương, bốn phương là bốn quả Sa môn, như người thứ tư bên bờ sông Hằng. Người thứ năm là người phát ý muốn vượt qua dòng sông lớn sinh tử mà đoạn dứt thiện căn nên chìm đắm ở trong đó, nhờ gần gũi bạn lành nên được tín tâm, đó gọi là ra. Do tín tâm nên thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói mười hai bộ Kinh, vì chúng sinh nên tuyên dương lưu bố rộng rãi. Người này ưa làm bố thí, tu tập trí tuệ, do lợi căn nên trụ vững ở tín tuệ, lòng không thoái chuyển. Không thoái chuyển rồi thì người này liền tiến tới trước. Người tiến tới trước gọi là Bích Chi Phật. Bích Chi Phật tuy có thể tự độ nhưng chẳng độ cả chúng sinh. Vậy nên gọi là đi (khứ) như người thứ năm bên bờ sông Hằng. Người thứ sáu là người phát ý muốn vượt qua dòng sông lớn sinh tử mà đoạn dứt thiện căn nên chìm đắm ở trong đó, nhờ gần gũi bạn lành nên được tín tâm. Ðược tín tâm nên gọi là ra. Do tín tâm nên người đó thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói mười hai bộ Kinh, vì chúng sinh nên tuyên dương lưu bố rộng rãi. Người đó ưa làm bố thí, tu tập trí tuệ và do lợi căn nên trụ vững ở tín tuệ, lòng không thoái chuyển. Không thoái chuyển rồi thì liền lại tiến tới trước đến chỗ cạn, đến chỗ cạn rồi liền trụ lại chẳng đi. Người trụ lại chẳng đi gọi là Bồ tát. Bồ tát vì muốn độ thoát các chúng sinh nên trụ lại quan sát phiền não như người thứ sáu bên bờ sông Hằng. Người thứ bảy là người phát ý muốn vượt qua dòng sông lớn sinh tử mà đoạn dứt thiện căn nên chìm đắm trong đó, nhờ gần gũi bạn lành nên được tín tâm. Ðược tín tâm rồi thì đó gọi là ra. Do có tín tâm nên người đó thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói mười hai bộ Kinh và vì chúng sinh nên tuyên dương lưu bố rộng rãi. Người đó ưa bố thí, tu tập trí tuệ và do lợi căn nên trụ vững ở tín tuệ, lòng không thoái chuyển, không thoái chuyển rồi liền tiến tới trước, đã tiến tới trước rồi thì được đến bờ kia, leo lên núi cao, lìa khỏi các sợ hãi, thọ nhiều an vui. Này thiện nam tử ! Núi bờ kia là dụ cho Như Lai, thọ an lạc là dụ cho Phật thường trụ, núi cao lớn là dụ cho Ðại Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Những người như vậy ở bên bờ sông Hằng này đều đủ tay chân mà chẳng thể vượt qua, tất cả chúng sinh cũng lại như vậy, thật có Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo, Như Lai thường nói yếu nghĩa các pháp, có tám Thánh đạo, Ðại Bát Niết Bàn mà chúng sinh đều chẳng thể được. Ðây chẳng phải lỗi của ta, cũng chẳng phải lỗi của Thánh đạo và chúng sinh mà phải biết đều chính là tội ác của phiền não. Do nghĩa này nên tất cả chúng sinh chẳng được Niết Bàn. Này thiện nam tử ! Ví như vị lương y biết bệnh cho thuốc, còn người bệnh chẳng uống thì chẳng phải lỗi của thầy thuốc. Này thiện nam tử! Như có vị thí chủ đem sở hữu của mình thí cho tất cả mọi người mà có người chẳng nhận thì chẳng phải lỗi của thí chủ. Này thiện nam tử ! Ví như mặt trời mọc mọi u tối đều sáng mà người mù lòa chẳng thấy đường đi thì chẳng phải lỗi của mặt trời. Này thiện nam tử ! Như nước sông Hằng có thể trừ được khát thiếu mà người khát chẳng uống thì chẳng phải lỗi của nước. Này thiện nam tử ! Ví như đại địa khắp sinh ra quả trái bình đẳng không hai nhưng nông dân chẳng gieo trồng thì chẳng phải lỗi của đất. Này thiện nam tử ! Như Lai khắp vì tất cả chúng sinh mở rộng, phân biệt mười hai bộ Kinh mà chúng sinh chẳng thọ nhận thì chẳng phải lỗi của Như Lai.

Này thiện nam tử ! Nếu tu đạo thì liền được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử ! Ông nói rằng, chúng sinh đều có Phật tính nên được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác như đá có từ tính thì hay thay ! Hay thay ! Do có lực nhân duyên Phật tính nên được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nếu nói rằng chẳng cần tu Thánh đạo thì nghĩa này chẳng đúng ! Này thiện nam tử ! Ví như có người khát nước gặp được giếng. Giếng ấy rất sâu, tuy chẳng thấy nước, nhưng nhất định là có. Người này phương tiện tìm kiếm, dùng dây buộc vào lọ mà múc lấy nước thì thấy có nước. Phật tính cũng vậy, tất cả chúng sinh tuy lại đều có nhưng cần phải tu tập đạo Thánh vô lậu rồi nhiên hậu mới được thấy. Này thiện nam tử ! Như có hạt mè thì được thấy có dầu, nhưng nếu lìa khỏi các phương tiện thì chẳng được thấy. Cây mía cũng vậy. Này thiện nam tử ! Như cõi Uất Ðơn Việt ở phương Bắc của trời Ba mươi ba. Tuy đó là hữu pháp nhưng nếu không có đạo lực thần thông thiện nghiệp thì chẳng thể thấy. Như rễ cỏ trong đất và nước dưới đất vì đất phủ lên nên chúng sinh chẳng thể thấy. Phật tính cũng vậy, vì chẳng tu Thánh đạo nên chẳng được thấy. Này thiện nam tử ! Như ông đã nói, ở đời có người  bệnh nếu gặp lương y xem bệnh, thuốc tốt, tùy bệnh cho ăn uống và cả nếu chẳng gặp được vậy thì cũng đều được khỏi bệnh. Này thiện nam tử ! Ta vì Bồ tát lục trụ mà nói nghĩa như vậy. Này thiện nam tử ! Ví như hư không đối với các chúng sinh thì chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, chẳng phải trong ngoài nên cũng không ngăn ngại. Chúng sinh Phật tính cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Ví như có người mà của cải ở tại địa phương khác, tuy chẳng hiện tiền nhưng được tùy ý thọ dụng. Có người hỏi xin thì người đó nói rằng : Ta hứa! Vì sao vậy ? Vì nhất định có. Chúng sinh Phật tính cũng lại như vậy, chẳng phải đây, chẳng phải đó mà do nhất định được nên nói rằng, tất cả đều có. Này thiện nam tử ! Ví như chúng sinh tạo tác các nghiệp hoặc thiện, hoặc ác, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài. Như vậy tính của nghiệp chẳng phải có, chẳng phải không, cũng lại chẳng phải là vốn không mà nay có, chẳng phải không nhân sinh ra, chẳng phải đây làm đây chịu, đây làm đó chịu, đó làm đó chịu, không làm, không chịu, thời tiết hòa hợp mà được quả báo. Chúng sinh Phật tính cũng lại như vậy, cũng lại chẳng phải chính là vốn không mà nay có, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải đây, chẳng phải đó, chẳng phải chỗ khác lại, chẳng phải không nhân duyên, cũng chẳng phải tất cả chúng sinh chẳng thấy. Có các Bồ tát mà thời tiết, nhân duyên hòa hợp thì được thấy. Thời tiết là nói các Ðại Bồ tát Thập Trụ tu tám Thánh đạo, đối với các chúng sinh được tâm bình đẳng mà bấy giờ được thấy thì chẳng gọi là tác (thọ tác). Này thiện nam tử ! Ông nói rằng, như từ thạch thì nghĩa đó chẳng đúng ! Vì sao vậy ? Vì đá chẳng hút sắt. Sở dĩ vì sao ? Vì không có tâm nghiệp vậy. Này thiện nam tử ! Pháp khác có nên pháp khác sinh ra, pháp khác không nên pháp khác diệt hoại, không có người làm, không có kẻ hoại. Này thiện nam tử ! Giống như lửa mạnh chẳng thể đốt cỏ (?). Lửa xuất hiện, cỏ hoại tan thì gọi là đốt cỏ. Này thiện nam tử ! Ví như cây quì tiêu (một giống chuối hướng theo mặt trời) theo mặt trời mà chuyển. Nhưng cây quì tiêu này cũng không có lòng cung kính, không thức, không nghiệp, do tính pháp khác mà tự hồi chuyển. Này thiện nam tử ! Như cây ba tiêu (cây chuối) nhân tiếng sấm mà tăng trưởng. Cây này không có tai, không tâm, ý, thức nhưng do pháp khác có nên pháp khác tăng trưởng, pháp khác không nên pháp khác hoại diệt. Này thiện nam tử ! Như cây A thúc ca mà con gái sờ mó vào là hoa xuất hiện. Cây này không có tâm cũng không hay biết chạm xúc nhưng do pháp khác có nên pháp khác sinh ra, pháp khác không nên pháp khác hoại diệt. Này thiện nam tử ! Như cây quất (quít) được xác chết thì trái nhiều thêm mà cây quất đó không tâm, không chạm xúc, nhưng do pháp khác có nên pháp khác nhiều thêm, pháp khác không nên pháp khác hoại diệt. Này thiện nam tử ! Như cây An thạch lựu nhờ phân xương nên quả trái sum suê mà cây an thạch lựu cũng không tâm, không chạm xúc nhưng do pháp khác có nên pháp khác sinh ra, pháp khác không nên pháp khác diệt hoại. Này thiện nam tử ! Từ thạch (đá có từ tính) hút sắt cũng lại như vậy, do pháp khác có nên pháp khác sinh ra, pháp khác không nên pháp khác diệt hoại. Chúng sinh Phật tính cũng lại như vậy, chẳng thể hút được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử ! Vô minh chẳng thể  hút  lấy các hành, hành cũng chẳng thể hút lấy thức; cũng được gọi là vô minh duyên hành, hành duyên thức. Pháp giới có Phật, không Phật thường trụ.

Này thiện nam tử ! Nếu nói Phật tính trụ ở trong chúng sinh thì, này thiện nam tử ! Thường pháp không trụ. Nếu có chỗ trụ tức là pháp vô thường. Này thiện nam tử ! Như mười hai nhân duyên không định trụ xứ. Nếu có trụ xứ thì mười hai nhân duyên chẳng được gọi là Thường. Pháp thân của Như Lai cũng không trụ xứ. Pháp giới, pháp nhập, pháp ấm, hư không đều không trụ xứ. Phật tính cũng vậy, đều không trụ xứ. Này thiện nam tử ! Ví như lực của bốn đại tuy quân bình có cứng, có nóng, có ẩm ướt, có chuyển động, có nặng, có nhẹ, có đỏ, có trắng, có vàng, có đen mà bốn đại này cũng không có nghiệp nhưng do pháp giới khác nên đều chẳng tương tợ. Phật tính cũng vậy, pháp giới khác nên thời đến thì hiện ra. Này thiện nam tử ! Tất cả chúng sinh chẳng thoái Phật tính nên gọi đó là có. A tỳ bạt chí (bất thoái chuyển). Do phải có nên quyết được, quyết định sẽ thấy. Vậy nên gọi là tất cả chúng sinh đều có Phật tính.

Này thiện nam tử ! Ví như có vị vua bảo một đại thần rằng : “Ông hãy dắt một con voi để cho người mù xem !”. Bấy giờ vị đại thần nhận sắc lệnh của vua rồi tập trung nhiều người mù, đem voi cho họ xem. Lúc đó mọi người mù đều dùng tay sờ. Vị đại thần liền trở lại mà bạch với vua rằng : “Thần đã bày xong !”. Bấy giờ vị đại vương liền kêu những người mù mà hỏi từng người một rằng : “Ngươi có thấy voi không vậy ?”. Những người mù đều đáp rằng : “Tôi đã được thấy !” Nhà vua nói : “Voi là loại gì ?”. Người sờ ngà voi liền nói rằng : “Hình voi như rễ cây Lai phục (?)”. Người sờ tai voi thì nói rằng : “Voi như  cái sàng”. Người sờ đầu thì nói rằng : “Voi như hòn đá”. Người sờ mũi voi thì nói rằng : “Voi như cái chày !” Người sờ chân voi thì nói rằng : “Voi như cái cối bằng gỗ !”. Người sờ sống lưng voi thì nói rằng : “Voi như cái giường !”. Người sờ bụng voi thì nói rằng : “Voi như cái vò !” Người sờ đuôi voi thì nói rằng : “Voi như sợi dây!”. Này thiện nam tử ! Như những người mù kia chẳng nói hình thể con voi cũng chẳng phải chẳng nói. Nếu mọi tướng này đều chẳng phải con voi thì bỏ ngoài những tướng đó lại không có con voi khác. Này thiện nam tử ! Vua dụ cho Như Lai Ứng Chánh Biến Tri. Thần dụ cho Kinh Phương Ðẳng Ðại Niết Bàn. Voi dụ cho Phật tính. Người mù dụ cho tất cả chúng sinh vô minh. Những chúng sinh này nghe Phật nói rồi, hoặc nói rằng : “Sắc chính là Phật tính ! Vì sao vậy ? Vì sắc này tuy diệt nhưng thứ lớp nối tiếp nhau. Vậy nên thu hoạch được ba mươi tướng của Như Lai Vô Thượng, sắc của Như Lai thường. Sắc của Như Lai thường thì chẳng đoạn. Vậy nên nói sắc là Phật tính. Ví như chất vàng ròng tuy biến đổi nhưng sắc thường chẳng khác. Hoặc khi làm xuyến, làm thoa cài tóc, làm chậu tắm… nhưng màu vàng ấy vẫn như ban đầu không biến đổi. Chúng sinh Phật tính cũng lại như vậy, chất tuy vô thường nhưng mà sắc là thường. Do vậy nên nói sắc là Phật tính”. Hoặc có người nói rằng : “Thọ là Phật tính. Vì sao vậy ? Vì thọ nhân duyên nên thu hoạch được niềm vui chân thật của Như Lai. Như Lai thọ nghĩa là rốt ráo thọ, Ðệ nhất nghĩa thọ. Thọ của chúng sinh, tính tuy lại vô thường nhưng thọ ấy theo thứ lớp nối tiếp nhau chẳng dứt. Vậy nên thu hoạch được thọ thường hằng của Như Lai. Ví như có người họ Kiều Thi Ca. Người tuy vô thường mà dòng họ là thường, dù trải qua ngàn vạn đời cũng không có thay đổi. Chúng sinh Phật tính cũng lại như vậy. Do vậy nên nói Thọ là Phật tính”. Lại có người nói rằng : “Tưởng chính là Phật tính. Vì sao vậy ? Vì Tưởng nhân duyên nên thu hoạch được tưởng chân thật của Như Lai. Như Lai tưởng là gọi tưởng vô tưởng. Tưởng vô tưởng thì chẳng phải chúng sinh tưởng, chẳng phải nam nữ tưởng, cũng chẳng phải sắc thọ tưởng hành thức tưởng, chẳng phải tưởng đoạn tưởng. Tưởng của chúng sinh tuy lại vô thường nhưng do tưởng theo thứ lớp nối tiếp nhau chẳng dứt nên được tưởng thường hằng của Như Lai. Này thiện nam tử ! Ví như mười hai nhân duyên của chúng sinh. Chúng sinh tuy diệt mà nhân duyên thì thường. Chúng sinh Phật tính cũng lại như vậy. Do vậy nên nói Tưởng là Phật tính”. Lại có người nói rằng : “Hành là Phật tính. Vì sao vậy ? Vì hành gọi là thọ mạng mà do thọ mạng nhân duyên nên thu hoạch được thọ mạng thường trụ của Như Lai. Thọ mạng của chúng sinh tuy vô thường nhưng mà thọ mạng theo thứ lớp nối tiếp nhau chẳng dứt nên được thọ mạng thường hằng chân thật của Như Lai”. Này thiện nam tử ! Ví như mười hai bộ kinh mà người nghe nói kinh thì tuy lại vô thường nhưng kinh điển đó lại thường tồn bất biến. Chúng sinh Phật tính cũng lại như vậy. Do vậy nên nói Hành là Phật tính. Lại có người nói rằng : “Thức là Phật tính. Do Thức nhân duyên nên thu hoạch được tâm bình đẳng của Như Lai. Ý thức của chúng sinh tuy lại vô thường nhưng mà thức theo thứ lớp nối tiếp nhau nên được tâm thường hằng chân thật của Như Lai. Như tính nóng của lửa, lửa tuy vô thường nhưng nóng chẳng phải vô thường. Chúng sinh Phật tính cũng lại như vậy. Do vậy nên nói thức là Phật tính”. Lại có người nói rằng : “Lìa khỏi ấm thì có ngã. Ngã chính là Phật  tính. Vì sao vậy ? Vì ngã nhân duyên nên thu hoạch được tám tự tại ngã của Như Lai”. Có các ngoại đạo nói rằng : “Ði lại, nghe thấy, buồn vui, nói năng… là ngã. Như vậy tướng của ngã tuy lại vô thường nhưng mà chân thật ngã của Như Lai là thường. Này thiện nam tử ! Như ấm, nhập, giới tuy lại là vô thường mà gọi là thường. Chúng sinh Phật tính cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Như những người mù kia, mỗi mỗi đều nói về voi, tuy chẳng được chân thật nhưng chẳng phải chẳng nói về voi. Người nói về Phật tính cũng lại như vậy, chẳng phải tức là sáu pháp, chẳng lìa khỏi sáu pháp. Này thiện nam tử ! Vậy nên ta nói Phật tính của chúng sinh chẳng phải sắc, chẳng lìa khỏi sắc… cho đến chẳng phải ngã, chẳng lìa khỏi ngã. Này thiện nam tử ! Có các ngoại đạo tuy nói có ngã mà thật không có ngã. Ngã của chúng sinh tức chính là năm ấm mà bỏ ngoài năm ấm lại không có ngã khác. Này thiện nam tử ! Ví như thân cành, cánh hoa, tua hoa, đài hoa hợp làm hoa sen mà bỏ ngoài những yếu tố này lại không có hoa sen khác. Ngã của chúng sinh cũng lại như vậy. Này thiện nam tử ! Ví như tường vách cỏ cây hòa hợp thì gọi đó là nhà mà bỏ ngoài những yếu tố đó lại không có nhà khác. Như cây Khư đà la, cây Ba la xa, cây Ni câu đà, cây Uất đàm bát… hòa hợp làm thành rừng mà bỏ ngoài những cây đó lại không có rừng khác. Ví như binh xa, binh tượng, binh mã, binh bộ hòa hợp làm quân đội mà bỏ ngoài những binh đó lại không có quân đội khác. Ví như năm màu dệt xen vào nhau hòa hợp gọi là lụa hoa mà bỏ ngoài năm màu đó lại không có lụa hoa khác. Như bốn dòng họ hòa hợp lại gọi là đại chúng mà bỏ ngoài bốn dòng đó lại không có đại chúng khác. Ngã của chúng sinh cũng lại như vậy, bỏ ngoài năm ấm ra lại không có ngã khác. Này thiện nam tử ! Như Lai thường trụ thì gọi là Ngã. Pháp thân của Như Lai vô biên, vô ngại, chẳng sinh, chẳng diệt, được tám tự tại thì đó gọi là Ngã. Chúng sinh chân thật không có ngã và cả ngã sở như vậy. Chỉ vì chúng sinh nhất định sẽ được rốt ráo Ðệ nhất  nghĩa không nên gọi là Phật tính.

Này thiện nam tử ! Ðại từ đại bi gọi là Phật tính. Vì sao vậy ? Vì đại từ đại bi thường theo Bồ tát như bóng theo hình. Tất cả chúng sinh nhất định sẽ được đại từ đại bi nên nói rằng; tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Ðại từ đại bi gọi là Phật tính mà Phật tính thì gọi là Như Lai. Ðại hỷ đại xả gọi là Phật tính. Vì sao vậy ? Vì Ðại Bồ tát nếu chẳng thể xả bỏ hai mươilăm cõi hữu thì chẳng thể được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác mà vì các chúng sinh nhất định sẽ được nên nói rằng, tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Ðại hỷ đại xả tức là Phật tính mà Phật tính tức là Như Lai. Phật tính là gọi đại tín tâm. Vì sao vậy ? Vì tín tâm nên Ðại Bồ tát có thể đầy đủ Ðàn Ba la mật… Bát nhã Ba la mật mà tất cả chúng sinh nhất định sẽ được đại tín tâm. Vậy nên nói rằng, tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Ðại tín tâm tức là Phật tính mà Phật tính tức chính là Như Lai. Phật tính là gọi Nhất tử địa (địa vị con một). Vì sao vậy ? Vì do Nhất tử địa nhân duyên nên Bồ tát đối với tất cả chúng sinh được tâm bình đẳng. Tất cả chúng sinh nhất định sẽ được Nhất tử địa. Vậy nên nói rằng, tất cả chúng sinh đều có Phật tính mà Phật tính thì tức là Như Lai. Phật tính là gọi Ðệ tứ lực. Vì sao vậy ? Vì do Ðệ tứ lực nhân duyên nên Bồ tát có thể giáo hóa chúng sinh. Tất cả chúng sinh nhất định sẽ được Ðệ tứ lực. Vậy nên nói rằng, tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Ðệ tứ lực tức là Phật tính mà Phật tính tức là Như Lai. Phật tính là gọi mười hai nhân duyên. Vì sao vậy ? Vì do nhân duyên nên Như Lai thường trụ. Tất cả chúng sinh nhất định có mười hai nhân duyên như vậy. Vậy nên nói rằng, tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Mười hai nhân duyên tức là Phật tính mà Phật tính tức là Như Lai. Phật tính là gọi bốn vô ngại trí. Do bốn vô ngại trí nhân duyên nên nói chữ, nghĩa không ngăn ngại. Chữ nghĩa không ngăn ngại, nên có thể giáo hóa chúng sinh. Bốn vô ngại trí tức là Phật tính mà Phật tính tức là Như Lai. Phật tính là gọi Ðỉnh tam muội. Do tu Ðỉnh tam muội như vậy nên có thể thống nhiếp tất cả Phật pháp. Vậy nên nói rằng, Ðỉnh tam muội gọi là Phật tính. Bồ tát Thập Trụ tu tam muội này chưa được đầy đủ nên tuy thấy Phật nhưng mà chẳng sáng rõ. Tất cả chúng sinh nhất định được tam muội đó. Vậy nên nói rằng, tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Này thiện nam tử ! Như nói ở trên, đủ thứ các pháp mà tất cả chúng sinh nhất định sẽ được. Vậy nên nói rằng, tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Này thiện nam tử ! Ta nếu nói sắc chính là Phật tính thì chúng sinh nghe rồi liền sinh ra tà kiến điên đảo. Do tà đảo nên mạng chung, họ phải sinh vào địa ngục A tỳ mà Như Lai nói pháp là vì họ đoạn địa ngục. Vậy nên Như Lai chẳng nói sắc chính là Phật tính… cho đến nói thức cũng lại như vậy.

Này thiện nam tử ! Nếu các chúng sinh liễu ngộ Phật tính thì chẳng cần tu Ðạo. Bồ tát Thập Trụ tu tám Thánh Ðạo mà còn thấy ít Phật tính, huống là người chẳng mà được thấy ư ? Này thiện nam tử ! Như các Bồ tát Văn Thù Sư Lợi.v.v.. đã vô lượng đời tu tập Thánh đạo mới rõ biết Phật tính thì làm sao Thanh Văn, Bích Chi Phật.v.v… lại có thể biết Phật tính. Nếu các chúng sinh muốn được biết rõ ràng Phật tính thì nên phải một lòng thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói, cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi Kinh Niết Bàn này. Nếu thấy có người thọ trì… cho khen ngợi Kinh này như vậy thì nên phải dùng phòng nhà đẹp, y phục, ẩm thực, ngọa cụ, thuốc men chữa bệnh… mà cúng dường họ lại thêm khen ngợi, lễ bái, hỏi thăm họ. Này thiện nam tử ! Nếu có người đã ở trong vô lượng vô biên đời quá khứ, gần gũi cúng dường vô lượng các đức Phật, gieo trồng sâu căn lành thì nhiên hậu mới được nghe tên của Kinh này. Này thiện nam tử ! Phật tính chẳng thể nghĩ bàn ! Phật Pháp Tăng bảo cũng chẳng thể nghĩ bàn ! Tất cả chúng sinh đều có Phật tính mà chẳng thể biết. Ðó cũng chẳng thể nghĩ bàn ! Pháp của Như Lai Thường Lạc Ngã Tịnh cũng chẳng thể nghĩ  bàn ! Tất cả chúng sinh có thể tin Kinh Ðại Niết Bàn như vậy cũng chẳng thể nghĩ bàn !

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Như lời đức Phật nói, tất cả chúng sinh  có thể tin Kinh Ðại Niết Bàn như vậy chẳng thể nghĩ bàn ! Thưa đức Thế Tôn ! Trong đại chúng này có tám vạn năm ngàn ức người mà đối với Kinh này chẳng sinh lòng tin. Vậy nên có người có thể tin Kinh này thì gọi là chẳng thể nghĩ bàn !

– Này thiện nam tử ! Ðúng vậy ! Những người ở đời vị lai cũng sẽ nhất định được tin Kinh điển này, thấy được Phật tính, được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Làm sao Bồ tát bất thoái tự biết quyết định có tâm bất thoái ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát sẽ dùng khổ hạnh để tự thử thách lòng mình. Mỗi ngày ăn một hạt mè, trải qua một lần bảy ngày. Với hạt gạo nếp, hạt đậu xanh, hạt vừng, hạt gạo tẻ và cả đậu trắng cũng lại như vậy. Mỗi một lần bảy ngày khi ăn một hạt mè thì tác khỏi suy nghĩ này : “Khổ hạnh như vầy đều không lợi ích. Việc không lợi ích mà còn có thể làm huống là việc có lợi ích mà sẽ chẳng làm ?” Ðối với việc không lợi ích mà tâm có thể kham nhẫn chẳng thoái chẳng chuyển. Vậy nên nhất định được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Những ngày như vậy khi tu khổ hạnh thì tất cả da thịt tiêu giảm héo hắt, nhăn nheo như chặt cây sống đặt vào giữa trưa nắng. Mắt người ấy hõm sâu như sao đáy giếng. Thịt hết, xương sườn bày ra như mái nhà cỏ mục nát; xương sống nối liền hiện ra đường chỉ khâu trùng lắp, chỗ ngồi như vết móng ngựa, muốn ngồi thì nằm phục xuống, muốn đứng dậy thì nằm lăn ra. Tuy thọ khổ không ích lợi như vậy nhưng hành giả chẳng thoái tâm Bồ Ðề. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát vì phá mọi khổ, ban an vui nên thậm chí có thể xả bỏ tài vật trong ngoài và thân mạng của mình như rơm cỏ. Nếu có thể chẳng tiếc thân mạng này thì như vậy Bồ tát tự biết nhất định có tâm bất thoái, Bồ tát nhất định sẽ được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Lại nữa, Bồ tát vì nhân duyên pháp mà khoét thân làm đèn rồi thu thập da thịt, dầu mỡ rót vào đó đốt cháy lên làm bấc đèn. Bồ tát lúc bấy giờ, chịu khổ lớn này mà tự quở trách lòng mình nói lên rằng : “Khổ như vầy so với khổ ở địa ngục trăm ngàn vạn phần còn chưa bằng một ! Ngươi ở trong vô lượng trăm ngàn kiếp, thọ khổ não lớn đều không lợi ích ! Ngươi nếu chẳng  thể thọ cái khổ nhẹ nhàng này thì làm sao mà có thể ở trong địa ngục cứu khổ cho chúng sinh”. Ðại Bồ tát khi tác khởi sự quan sát này thì thân chẳng hay biết khổ, lòng ấy chẳng thoái, chẳng động, chẳng chuyển. Bồ tát bấy giờ ứng tự biết sâu sắc rằng, ta nhất định sẽ được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử ! Bồ tát, bấy giờ phiền não đầy đủ chưa có đoạn dứt thì vì pháp nhân duyên có thể đem đầu, mắt, tủy não, tay, chân, máu, thịt bố thí cho người, dùng đinh đóng vào thân, nhảy xuống từ núi cao ngất, gieo mình vào lửa đỏ. Bấy giờ, Bồ tát tuy thọ vô lượng những khổ như vậy mà lòng chẳng thoái, chẳng động chẳng chuyển. Bồ tát phải biết rằng, ta nay nhất định có tâm chẳng thoái chẳng chuyển, sẽ được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát vì phá phiền não của tất cả chúng sinh nên nguyện làm thân loài súc sinh to lớn, đem máu thịt bố thí cho chúng sinh mà khi chúng sinh nhận lấy lại sinh lòng thương xót. Bấy gờ, Bồ tát nín hơi chẳng thở thị hiện làm tướng chết khiến cho những người lấy máu thịt đó chẳng sinh tư tưởng nghi ngờ giết hại. Bồ tát tuy thọ thân súc sinh nhưng nhất định chẳng tạo tác nghiệp súc sinh. Vì sao vậy ? Này thiện nam tử ! Vì Bồ tát đã được tâm bất thoái rồi thì nhất định chẳng tạo tác nghiệp ba đường ác. Ðại Bồ tát, nếu đời vị lai có quả báo nghiệp ác nhỏ như vi trần thì chẳng quyết định thọ. Nhưng do lực đại nguyện, vì chúng sinh mà đều thọ hết. Ví như người bệnh bị quỉ ẩn náu ở trong thân. Do lực thần chú nên nó tức thời hiện tướng. Hoặc nói năng, hoặc mừng, hoặc giận, hoặc mắng chữi, hoặc kêu gào, hoặc khóc lóc… Nghiệp ba đường ác đời vị lai của Ðại Bồ tát cũng lại như vậy. Khi Ðại Bồ tát thọ thân loài gấu thường vì chúng sinh diễn nói chánh pháp. Hoặc thọ thân chim Ca tân xà la vì các chúng sinh nói chánh pháp. Hoặc thọ thân Cù đà, thân nai, thân thỏ, thân voi, thân dê, thân vượn, thân bồ câu trắng, thân chim cánh vàng, thân rồng, thân rắn.v.v… Khi Bồ tát thọ những thân súc sinh như vậy thì nhất định chẳng tạo tác nghiệp ác súc sinh mà còn thường vì chúng sinh của những loài súc sinh còn lại kia diễn nói chính pháp khiến cho những chúng sinh đó mau được chuyển khỏi thân súc sinh. Bấy giờ, Bồ tát tuy thọ thân súc sinh nhưng chẳng tạo tác ác nghiệp thì phải biết là Bồ tát nhất định có tâm bất thoái. Ðại Bồ tát ở vào đời đói kém, thấy chúng sinh đói, thì hiện làm thân rùa, cá to lớn vô lượng do tuần. Bồ tát lại phát nguyện rằng : “Nguyện cho các chúng sinh khi lấy thịt của ta thì lấy tùy ý theo sự sống của mình và nhân ăn thịt của ta được lìa khỏi nỗi khổ đói khát, tất cả đều phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác”. Bồ tát lại phát nguyện : “Nếu có người nhân ăn thịt của ta được lìa khỏi đói khát thì đời vị lai mau chóng được lìa khỏi khổ hoạn đói khát của hai mươi lăm cõi hữu”. Ðại Bồ tát thọ khổ như vậy mà lòng chẳng thoái thì phải biết Bồ tát nhất định được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Lại nữa, Bồ tát ở vào đời dịch bệnh, thấy bệnh khổ thì suy nghĩ như vầy : “Như vua cây thuốc, nếu có người bệnh lấy rễ, lấy thân, lấy cành, lấy lá, lấy hoa, lấy quả, lấy da, (vỏ cây), lấy phần ngoài của da… mà uống đều được khỏi bệnh. Nguyện thân này của ta cũng lại như vậy. Nếu có người bệnh nghe tiếng, chạm vào thân, ăn uống máu thịt… cho đến xương tủy của ta thì bệnh đều trừ khỏi. Nguyện cho các chúng sinh khi ăn thịt của ta thì chẳng sinh lòng ác như ăn thịt con”. Ta trị bệnh cho họ rồi thường vì họ nói pháp, nguyện cho họ tín thọ, tư duy, chuyển hóa. Lại nữa, này thiện nam tử ! Bồ tát đầy đủ phiền não, tuy thọ thân khổ nhưng tâm của Bồ tát chẳng thoái, chẳng động, chẳng chuyển thì phải biết Bồ tát nhất định được tâm bất thoái, thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Lại nữa, này thiện nam tử ! Nếu có chúng sinh bị bệnh quỉ ám. Bồ tát thấy rồi liền nói rằng : “Nguyện làm thân quỉ, thân lớn, thân khỏe mạnh, thân nhiều quyến thuộc… khiến cho người bệnh kia nghe thấy thì bệnh được trừ khỏi”. Ðại Bồ tát vì chúng sinh nên siêng tu khổ hạnh, tuy có phiền não nhưng ô nhiễm lòng Bồ tát. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát tuy lại tu hành sáu Ba la mật nhưng cũng lại chẳng cầu quả báo lục độ. Khi Bồ tát tu hành sáu Ba la mật vô thượng thì phát nguyện rằng : “Ta nay dùng sáu Ba la mật này thi hành với tất cả chúng sinh. Mỗi một chúng sinh thọ nhận sự thi hành của ta rồi đều khiến cho được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ta cũng tự vì sáu Ba la mật, siêng tu khổ hạnh, thọ các khổ não. Khi phải thọ khổ thì nguyện cho ta chẳng thoái tâm Bồ Ðề. Này thiện nam tử ! Khi Ðại Bồ tát phát nguyện này thì đó gọi là tướng Bồ Ðề Bất Thoái.

Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát chẳng thể nghĩ bàn ! Vì sao vậy ? Vì Ðại Bồ tát biết sâu nhiều những tội lỗi của sinh tử, quan sát Ðại Niết Bàn  có công đức lớn mà vì chúng sinh nên ở tại sinh tử, chịu đủ thứ khổ, lòng không thoái chuyển. Ðó gọi là Bồ tát chẳng thể nghĩ bàn. Lại nữa, này thiện nam tử ! Ðại Bồ tát không có nhân duyên mà sinh lân mẫn, thật chẳng thọ ân mà thường thi ân, tuy thường thi ân mà chẳng cầu đền đáp (báo). Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Lại nữa, này thiện nam tử ! Hoặc có chúng sinh vì sự lợi ích của mình mà tu các hạnh khổ, còn Ðại Bồ tát vì lợi người khác nên tu hành khổ hạnh. Ðó gọi là tự lợi (của Bồ tát). Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Lại nữa, Bồ tát đầy đủ phiền não, nhưng vì phá hoại sự thọ nhận những khổ não của kẻ oán, người thân nên tu tâm bình đẳng. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Lại nữa, Bồ tát nếu thấy các chúng sinh ác, bất thiện thì hoặc quở trách, hoặc nói lời dịu dàng, hoặc xua đuổi, hoặc buông bỏ… Người có tính ác thì hiện làm người nói lời dịu dàng. Người có tính kiêu mạn thì hiện làm người kiêu mạn mà kỳ thật bên trong lòng không kiêu mạn. Ðó gọi là Bồ tát phương tiện chẳng thể nghĩ bàn. Lại nữa, Bồ tát đầy đủ phiền não khi ít của cải mà người đến cầu xin nhiều nhưng lòng chẳng mong ít. Ðó gọi là Bồ tát chẳng thể nghĩ bàn. Lại nữa, Bồ tát  ở vào lúc Phật ra đời, biết công đức của Phật. Nhưng vì chúng sinh nên ở chỗ không có Phật, thọ thân nơi biên địa như mù, như điếc, như thọt, như què… Ðó gọi là Bồ tát chẳng thể nghĩ  bàn. Lại nữa, Bồ tát biết sâu tội lỗi sở hữu của chúng sinh nhưng vì độ thoát họ nên thường cùng hành động chung. Bồ tát tuy hành động theo ý họ nhưng tội cấu chẳng ô nhiễm. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.

Lại nữa, Bồ tát thấy biết rõ ràng, không có tướng chúng sinh không ô nhiễm phiền não, không đạo tu tập, lìa khỏi phiền não, tuy là Bồ Ðề nhưng không hạnh Bồ Ðề cũng không thành tựu hạnh Bồ Ðề, không có người thọ khổ, người phá khổ mà có thể vì chúng sinh phá hoại. Khổ, hành hạnh Bồ Ðề. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Lại nữa, Bồ tát thọ thân hậu biên ở trên trời Ðâu Suất thì đó cũng gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao vậy ? Vì trời Ðâu Suất Ðà là cõi tối thắng trong Dục giới. Người ở trời dưới thì lòng họ buông lung. Người ở trời trên thì các  căn ám độn. Vậy nên gọi là thắng. Tu thí, tu giới thì được  thọ thân trời trên, trời dưới. Tu Thí Giới Ðịnh thì được thân trời Ðâu Suất. Tất cả Bồ tát hủy báng các hữu, phá hoại các hữu, nhất định chẳng tạo tác nghiệp của trời Ðâu Suất để thọ thân của cõi trời đó. Vì sao vậy ? Vì Bồ tát, nếu ở các cõi hữu còn lại ấy thì cũng có thể giáo hóa thành tựu chúng sinh. Bồ tát chân thật không có dục tâm mà sinh ra ở Dục giới. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Ðại Bồ tát sinh lên trời Ðâu Suất có ba việc thù thắng : Một là mạng, hai là sắc, ba là danh. Ðại Bồ tát chân thật chẳng cầu lấy mạng, sắc và danh xưng. Tuy lòng Bồ tát không cầu mà sở đắc thắng hơn. Ðại Bồ tát ưa thích Niết Bàn sâu sắc nhưng có nhân duyên cũng thắng hơn. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Ðại Bồ tát có ba việc như vậy tuy thắng hơn các trời mà các trời ở chỗ Bồ tát  nhất định chẳng sinh ra lòng sân giận, lòng ganh ghét, lòng kiêu mạn mà thường sinh ra lòng vui mừng. Bồ tát đối với các trời cũng chẳng kiêu mạn. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Ðại Bồ tát chẳng tạo tác mạng nghiệp mà đối với các trời kia thọ mạng rốt ráo. Ðó gọi là mạng thắng (thọ mạng ngắn hơn). Bồ tát cũng không sắc nghiệp mà thân diệu sắc sáng ngời đầy khắp. Ðó gọi là sắc thắng. Ðại Bồ tát ở cung trời kia chẳng ưa ngũ dục mà chỉ vì việc pháp. Vậy nên danh xưng tràn đầy mười phương. Ðó gọi là danh thắng. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Ðại Bồ tát xuống trời Ðâu Suất thì khi đó đại địa chấn động sáu thứ. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao vậy ? Vì Bồ tát khi xuống cõi Dục cõi Sắc thì chư thiên đều đến hầu đưa tiễn, phát ra âm thanh lớn khen ngợi Bồ tát. Do hơi gió trong miệng nên khiến cho đất rung động. Lại có Bồ tát là chúa voi trong loài người. Chúa voi trong loài người gọi là Long vương. Long vương khi bắt đầu vào thai thì có các Long vương ở bên dưới đất này, hoặc sợ, hoặc thức dậy nên đại địa chấn động sáu thứ. Vậy nên gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Ðại Bồ tát biết khi vào thai, khi trụ thai, khi sinh ra, biết cha, biết mẹ chẳng sạch, chẳng ô nhiễm như châu báu màu xanh trên tóc Ðế Thích. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.

Này thiện nam tử ! Kinh Ðại Niết Bàn cũng lại như vậy, chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam tử ! Ví như biển lớn có tám điều chẳng nghĩ  bàn. Những gì là tám ? Một là dần dần trở nên sâu. Hai là sâu khó lần được đáy. Ba là đồng một vị mặn. Bốn là nước triều chẳng quá giới hạn. Năm là đủ thứ bảo tàng. Sáu là chúng sinh thân lớn cư trú ở trong đó. Bảy là chẳng chứa chấp thây chết. Tám là tất cả muôn dòng nước, mưa lớn… trút vào trong đó mà chẳng tăng, chẳng giảm. Này thiện nam tử ! Dần dần trở thành sâu có ba việc. Những gì là ba ? Một là phước lực của chúng sinh, hai là thuận gió mà đi, ba là nước sông vào… cho đến việc chẳng tăng chẳng giảm cũng đều có ba việc. Kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu này cũng lại như vậy, có tám điều chẳng thể nghĩ bàn. Một là dần dần sâu như là năm giới, mười giới, hai trăm năm mươi giới, Bồ tát giới… như là quả Tu đà hoàn, quả Tư đà hàm, quả A na hàm, quả A la hán, quả Bích Chi Phật, quả Bồ tát, quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác… kinh Niết Bàn này nói những pháp đó. Ðó gọi là sâu dần dần. Vậy nên Kinh này gọi là sâu dần dần. Hai là sâu khó lần được đáy : Như Lai Thế Tôn chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, chẳng chuyển pháp luân, chẳng ăn, chẳng thọ, chẳng làm huệ thí (bố thí). Vậy nên gọi là Thường Lạc Ngã Tịnh. Tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Phật tính chẳng phải là sắc, chẳng lìa khỏi sắc, chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức… cho đến chẳng lìa khỏi… thức là thường có thể thấy rõ nhân, chẳng phải tác nhân. Tu đà hoàn… cho đến Bích Chi Phật sẽ được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, cũng không phiền não, cũng không trụ xứ, tuy không có phiền não nhưng chẳng gọi là Thường. Vậy nên gọi là sâu. Lại có chỗ rất sâu ở trong Kinh này. Hoặc khi nói Ngã hoặc nói Vô Ngã, hoặc khi nói Thường hoặc nói Vô thường, hoặc khi nó Tịnh hoặc nói bất tịnh, hoặc khi nói vui hoặc nói khổ, hoặc khi nói  không hoặc nói chẳng không, hoặc nói tất cả có, hoặc nói tất cả không, hoặc nói ba thừa, hoặc nói một thừa, hoặc nói năm ấm tức là Phật tính, Kim Cương tam muội và cả trung đạo, Thủ Lăng Nghiêm tam muội, mười hai nhân duyên, Ðệ nhất nghĩa không, từ bi bình đẳng với các chúng sinh, đỉnh trí, tín tâm, biết các căn, lực, trong tất cả pháp trí không ngăn ngại, tuy có  Phật tính nhưng chẳng nói quyết định. Vậy nên gọi là sâu. Ba là một vị : tất cả chúng sinh đồng có Phật tính, đều đồng một thừa, đồng một giải thoát, một nhân một quả, đồng một cam lộ. Tất cả sẽ được Thường Lạc Ngã Tịnh. Ðó gọi là một vị. Bốn là nước triều chẳng quá giới hạn : Như trong Kinh này hạn chế các Tỳkheo chẳng được nhận nuôi chứa tám vật bất tịnh. Nếu đệ tử của ta có thể thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói, phân biệt Kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu này thì thà mất thân mạng chớ nhất định chẳng hủy phạm Kinh đó. Ðó gọi là nước triều chẳng quá giới hạn. Năm là có đủ thứ bảo tàng. Kinh này tức là vô lượng bảo tàng. Nói là báu là gọi bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn Như ý túc, năm căn, năm lực, bảy giác phận, tám Thánh đạo phận, hạnh anh nhi (trẻ con), hạnh Thánh, hạnh Phạm, hạnh Trời, các thiện phương tiện, Phật tính của chúng sinh, công đức của Bồ tát, công đức của Như Lai công đức của Thanh Văn, công đức của Duyên Giác, sáu Ba la mật, vô lượng tam muội, vô lượng trí tuệ. Ðó gọi là bảo tàng. Sáu là chỗ cư trú của chúng sinh thân lớn. Chúng sinh thân lớn là gọi Phật, Bồ tát. Vì Phật, Bồ tát có trí tuệ lớn nên gọi là chúng sinh lớn. (Chúng sinh lớn thì) có thân lớn, tâm lớn, trang nghiêm lớn, điều phục lớn, phương tiện lớn, nói pháp lớn, thế lực lớn, đồ chúng lớn, thần thông lớn, từ bi lớn, thường hằng chẳng biến đổi, tất cả chúng sinh không ngăn ngại, dung thọ tất cả các chúng sinh. Ðó gọi là chỗ cư trú của chúng sinh thân lớn. Bảy là chẳng chứa chấp thây chết. Thây chết là gọi Nhất xiển đề, phạm bốn trọng cấm, năm tội vô gián, bài báng kinh Phương Ðẳng, chẳng phải pháp nói là pháp, pháp nói chẳng phải pháp, thọ nhận nuôi chứa tám thứ vật bất tịnh, vật của Phật vật của Tăng mà sử dụng tùy ý, hoặc ở chỗ Tỳkheo, Tỳkheo ni làm việc phi pháp… Ðó gọi là thây chết. Kinh Niết Bàn này lìa khỏi những điều như vậy. Vậy nên gọi là chẳng chứa chấp thây chết. Tám là chẳng tăng, chẳng giảm : không bờ cõi nên không thỉ chung, chẳng phải sắc nên chẳng phải tác (làm), thường trụ nên chẳng sinh diệt, tất cả chúng sinh đều bình đẳng, tất cả pháp tính đồng một tính. Ðó gọi là không tăng giảm. Vậy nên Kinh này như biển cả kia, có tám điều chẳng nghĩ bàn.

Bồ tát Sư Tử Hống bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Nếu nói Như Lai chẳng sinh chẳng diệt là sâu thì tất cả chúng sinh có bốn loại sinh là noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh. Bốn loại sinh này trong loài người có đủ : Như Tỳkheo Thi Bà La, Tỳkheo Ưu Bà Thi Bà La, mẹ trưởng giả Di Ca La, mẹ trưởng giả Ni Câu Ðà, mẹ trưởng giả Bán Xà La đều có năm trăm con đồng ở noãn sinh (sinh ra từ trứng) thì phải biết là trong loài người có sinh ra từ trứng. Thấp sinh thì như lời đức Phật nói, ta vào thuở xưa, khi làm Bồ tát từng làm vua sinh ra từ đỉnh đầu và làm vua sinh ra từ tay. Như hôm nay ngài nói, người con gái Am La Thọ, con gái Bất Ða Thọ thì phải biết trong loài người có thấp sinh (sinh ra từ ẩm ướt). Khi kiếp bắt đầu thì tất cả chúng sinh đều hóa sinh hết. Ðức Như Lai Thế Tôn được tám tự tại, vì nhân duyên gì mà chẳng hóa sinh vậy ?

Ðức Phật dạy rằng :

– Này thiện nam tử ! Việc sinh ra làm bốn lối sinh của tất cả chúng sinh, người được Thánh pháp rồi chẳng được như vốn đã noãn sinh, thấp sinh. Này thiện nam tử ! Ban đầu kiếp chúng sinh đều hóa sinh. Ðang lúc ấy, Phật chẳng ra đời. Này thiện nam tử ! Nếu có chúng sinh khi gặp bệnh khổ cần thầy thuốc, cần thuốc mà lúc đầu kiếp chúng sinh đều hóa sinh, tuy có phiền não mà bệnh ấy chưa phát. Vậy nên Như Lai chẳng xuất hiện ở đời ấy. Ðầu kiếp thân chúng sinh chẳng phải pháp khí. Vậy nên Như Lai chẳng xuất hiện ở đời ấy. Này thiện nam tử ! Nghiệp sở hữu của Như Lai Thế Tôn thắng hơn các chúng sinh như là về chủng tính, quyến thuộc, cha mẹ. Do thù thắng nên phàm lời nói pháp của Như Lai mọi người đều tín thọ. Vậy nên Như Lai chẳng thọ hóa sinh. Này thiện nam tử ! Tất cả chúng sinh thì cha tạo tác nghiệp con, con tạo tác nghiệp cha. Như Lai Thế Tôn nếu thọ hóa thân thì không cha mẹ. Nếu không cha mẹ thì làm sao có thể khiến cho tất cả chúng sinh tạo tác các nghiệp lành. Vậy nên Như Lai chẳng thọ hóa thân. Này thiện nam tử ! Trong chính pháp của Phật có hai thứ hộ, một là nội, hai là ngoại. Nội hộ là gọi cấm giới. Ngoại hộ là gọi thân tộc quyến thuộc. Nếu Phật Như Lai thọ hóa thân thì không ngoại hộ. Vậy nên Như Lai chẳng  thọ hóa thân. Này thiện nam tử ! Có người ỷ vào dòng họ mà sinh kiêu mạn, Như Lai vì phá sự kiêu mạn như vậy nên sinh ở dòng họ tôn quí, chẳng thọ hóa thân. Này thiện nam tử ! Như Lai Thế Tôn có cha mẹ chân thật. Cha tên là Tịnh Phạn, mẹ tên là Ma Da mà các chúng sinh còn nói là huyễn thì làm sao mà thọ thân hóa sinh? Nếu thọ hóa thân thì làm sao được có xá lợi của thân vụn. Như Lai vì thêm phước đức cho chúng sinh nên làm vụn nát thân ấy để cho họ cúng dường. Vậy nên Như Lai chẳng thọ hóa thân. Tất cả các đức Phật đều không hóa sinh thì làm sao khiến một mình thọ hóa thân.

Lúc bấy giờ, Bồ tát Sư Tử Hống chắp tay, quì dài, gối phải đặt xuống đất, dùng kệ khen đức Phật rằng :

Như Lai công đức tụ không lường

Con nay chẳng thể rộng tuyên nói

Nay vì chúng sinh  diễn một phần

Nguyện xin thương xót cho con nói !

Chúng sinh đi trong tối vô minh

Thọ đủ vô biên trăm thứ khổ.

Thế Tôn hay khiến lìa khỏi nhanh

Nên đời xưng đấng Từ Bi lớn !

Chúng sinh qua lại sinh tử thằng (sợ dây sinh tử)

Phóng dật mê man không an lạc

Như Lai hay cho mọi lạc an

Vậy nên cắt đứt dây sinh tử.

Phật hay ban bố mọi lạc an

Tự vui với mình, chẳng tham lạc,

Tu khổ hạnh vì các chúng sinh

Nên thế gian cúng dường cung kính.

Thấy người thọ khổ rúng động thân

Ở tại địa ngục, đau chẳng biết

Chịu khổ lớn vì các chúng sinh

Nên không có lường, không ai thắng.

Phật tu khổ hạnh vì chúng sinh

Thành tựu đầy đủ, mãn lục độ

Tâm ở gió tà chẳng chao nghiêng

Nên có thể thắng bậc Ðại sĩ

Chúng sinh thường muốn được lạc an

Mà chẳng biết tu nhân an lạc

Như Lai hay dạy, khiến tu hành

Giống như cha lành yêu con một.

Phật thấy chúng sinh bệnh não phiền

Lòng khổ như mẹ lo con bệnh

Phương tiện khỏi bệnh nghĩ  tới luôn

Vậy nên thân này thuộc người khác.

Các khổ, tất cả chúng sinh làm

Mà lòng điên đảo cho là lạc (vui)

Như Lai diễn nói khổ, lạc chân

Nên xưng hiệu là Từ Bi Lớn.

Thế gian đều ở trứng vô minh

Không có mỏ trí có thể phá

Mỏ trí Như Lai mổ phá tan

Vậy nên gọi là tối đại tử.

Chẳng bị ba đời nhiếp giữ gìn

Không có danh tự và hiệu quả

Hiểu biết nghĩa thậm thâm Niết Bàn

Vậy nên xưng Phật  là Ðại Giác.

Có sông cuồn cuộn chìm chúng sinh

Vô minh mù tối, ra chẳng biết

Như Lai tự độ, độ chúng sinh

Vậy nên xưng Phật, Thuyền Sư Lớn (người lái thuyền giỏi).

Có thể biết tất cả quả, nhân

Cũng lại thông đạt tận diệt đạo

Thường ban thuốc bệnh khổ chúng sinh

Vậy nên đời xưng : Y vương lớn.

Khổ hạnh ngoại đạo thường tuyên dương

Nhân đó hay được Vô Thượng Lạc

Như Lai diễn nói lạc hạnh chân

Hay khiến chúng sinh thọ khoái lạc.

Phá tà đạo, Như Lai Thế Tôn

Khai thị chúng sinh đường chân chính

Người đi đường đó được lạc an

Nên xưng Phật là thầy dẫn dắt.

Sở tác chẳng phải người và mình

Chẳng phải cộng tác, không nhân tác

Việc thọ khổ theo lời Thế Tôn

Thắng hơn tất cả các ngoại đạo.

Thành tựu Giới, Ðịnh, Tuệ hoàn toàn

Cũng đem pháp này dạy sinh chúng

Khi đem pháp thí không ghét lận

Vậy nên xưng Phật : Bi không duyên.

Không sự tạo tác không nhân duyên

Thu được không nhân, không quả báo

Vậy nên tất cả người trí thông

Xưng nói Như Lai chẳng cầu báo

Thường chung hạnh phóng dật thế gian

Mà thân chẳng bị nhiễm phóng dật

Vậy nên gọi là chẳng nghĩ bàn

Tám pháp thế gian chẳng thể nhiễm.

Như Lai Thế Tôn không oán thân

Vậy nên tâm ấy thường bình đẳng

Ðại Bi, con rống sư tử khen

Hay rống vô lượng Sư tử hống.