KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

Hán dịch: Sa Môn Thật Xoa Nan Ðà
Hoà Thượng Tuyên Hóa giảng giải
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh

 

TẬP 10

QUYỂN MƯỜI TÁM

PHẨM MINH PHÁP THỨ MƯỜI TÁM

 

Giảng giải: (Chữ thường là giảng giải)

Minh pháp là gì ? Minh tức là minh bạch, pháp tức là Phật pháp. Muốn minh bạch chân lý của Phật pháp. Minh có đủ thứ minh, pháp có đủ thứ pháp. Minh bạch một pháp, mà chẳng minh bạch nhiều pháp, thì chẳng thể gọi là minh. Phải minh bạch tất cả pháp, thì mới gọi là minh. Phật pháp có tám vạn bốn ngàn pháp môn, đều phải thông đạt vô ngại, phải minh bạch bổn thể của pháp cứu kính là gì ? Tức cũng là vào sâu tạng kinh, trí huệ như biển. Cho nên gọi là Phẩm Minh Pháp. Phẩm này là phẩm thứ mười tám của kinh Hoa Nghiêm.

Nghĩa lý của kinh Hoa Nghiêm, một phẩm so với một phẩm tinh hơn, một phẩm so với một phẩm thâm áo hơn, một phẩm so với một phẩm thù thắng hơn, thật là diệu không thể tả. Chúng ta nghiên cứu kinh Hoa Nghiêm, thì phải minh bạch đạo lý thật tướng của các pháp. Phải thấu hiểu nghĩa lý nhất chân pháp giới.

Kinh văn: (Chữ đậm là Kinh văn)

Bấy giờ, Bồ Tát Tinh Tấn Huệ bạch Bồ Tát Pháp Huệ rằng: Phật tử ! Đại Bồ Tát ban đầu phát tâm cầu nhất thiết trí, thành tựu vô lượng công đức như vậy.

Lúc đó, có vị đại Bồ Tát Tinh Tấn Huệ, Ngài siêng tu tinh tấn, chẳng có lúc nào mà không tinh tấn, Do đó : “Ngày đêm sáu thời siêng tinh tấn.’’ Ngài siêng tu giới định huệ, đây là thân tinh tấn; diệt trừ tham sân si, đây là tâm tinh tấn. Vị đại Bồ Tát này nói với đại Bồ Tát Pháp Huệ rằng: ‘’Phật tử ! Ðại Bồ Tát trong Bồ Tát, lúc ban đầu phát tâm cầu nhất thiết trí huệ, hành đạo Bồ Tát, tâm đó hay thành tựu vô lượng công đức như đã nói ở trước.’’

Đủ đại trang nghiêm. Thăng lên tất cả trí thừa. Nhập vào chánh vị Bồ Tát. Xả bỏ các pháp thế gian. Đắc được pháp xuất thế của Phật. Quá khứ vị lai hiện tại chư Phật nhiếp thọ. Quyết định đạt đến nơi cứu kính vô thượng bồ đề.

Ngài đầy đủ trang nghiêm rộng lớn. Thăng đến tất cả thừa môn trí huệ. Nhập vào quả vị chân chánh Bồ Tát. Xả bỏ pháp hữu vi thế gian, chẳng tham danh thế gian, cũng chẳng chấp trước lợi thế gian. Tức là ‘’Tài sắc danh thực thùy,’’ sự vui năm dục này đều chẳng tham cầu; ‘’Sắc thanh hương vị xúc,’’ năm trần cảnh này đều xả lìa được. Lại đắc được pháp xuất thế của Phật, tức cũng là pháp môn ba mượi bảy phẩm trợ đạo. Gì là ba mươi bảy phẩm trợ đạo ?

1). Bốn niệm xứ: Quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã.
2). Bốn chánh cần: Chưa sinh thiện thì khiến cho sinh; đã sinh thiện thì khiến cho tăng tưởng; chưa sinh ác thì đừng sinh, đã sinh ác thì khiến cho dứt trừ.
3). Bốn như ý túc: Dục, niệm, tấn, huệ.
4). Năm căn: Tin, tấn, niệm, định, huệ.
5). Năm lực: Năm căn sinh ra năm lực.
6). Bảy giác phần: Chọn pháp, tinh tấn, hỷ, trừ, xả, định, niệm.
7). Tám chánh đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh mạng, chánh nghiệp, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Bảy hạng này hợp lại là ba mươi bảy phẩm trợ đạo.

Còn có pháp bốn đế của hàng Thanh Văn tu, tức là: Khổ, tập, diệt, đạo. Mười hai nhân duyên của hàng Duyên Giác tu, tức là: Vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử. Pháp lục độ của Bồ Tát tu hành, tức là: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ. Ðây tức là pháp hữu vi. Quá khứ, vi lai, hiện tại, ba đời tất cả chư Phật đều dùng trí huệ quang minh để nhiếp thọ đại Bồ Tát ban đầu phát tâm bồ đề, quyết định sẽ đạt được quả vị cứu kính Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Các Bồ Tát đó ở trong Phật giáo tu tập như thế nào ? Khiến cho các Như Lai đều sinh hoan hỷ. Nhập vào nơi trụ xứ của các Bồ Tát. Tất cả đại hạnh đều được thanh tịnh. Hết thảy đại nguyện đều khiến cho đầy đủ. Đắc được tạng rộng lớn của các Bồ Tát. Tùy chúng sinh đáng giáo hóa được, thường vì họ nói pháp. Luôn luôn chẳng bỏ hạnh Ba La Mật. Sở niệm chúng sinh đều khiến cho được độ. Tiếp nối giống Tam Bảo khiến cho chẳng đoạn tuyệt. Căn lành phương tiện thảy đều chẳng hư.

Bồ Tát Tinh Tấn Huệ lại hỏi Bồ Tát Pháp Huệ mười vấn đề: Ðại Bồ Tát ban đầu phát tâm bồ đề, ở trong sự giáo hóa của Phật, làm thế nào để tu tập ?
1). Làm thế nào khiến cho mười phương chư Phật đều sinh đại hoan hỷ ?
2). Làm thế nào nhập vào được địa vị của Bồ Tát trụ?
3). Làm thế nào tu tất cả đại hạnh môn đều được thanh tịnh ?
4). Làm thế nào khiến cho đại nguyện phát ra đều được đầy đủ ?
5). Làm thế nào đắc được tạng công đức rộng lớn của Bồ Tát thành tựu ?
6). Làm thế nào để tùy thuận chúng sinh đáng được giáo hóa để vì họ nói pháp ? Do đó: ‘’Vì người thí giáo, theo bệnh cho thuốc.’’
7). Làm thế nào luôn luôn tu hành hạnh Ba La Mật ?
8). Làm thế nào khiến cho sở niệm tất cả chúng sinh đều được độ thoát ?
9). Làm thế nào tiếp nối hạt giống Tam Bảo liên tục chẳng đoạn tuyệt ?
10). Làm thế nào khiến cho chúng sinh đắc được căn lành và pháp môn phương tiện đều hợp với chỗ tốt mà chẳng hư.

Phật tử ! Các Bồ Tát đó dùng phương tiện gì, mà khiến cho pháp này sẽ được viên mãn? Xin thương xót, vì tôi mà nói. Đại chúng trong hội này thảy đều muốn nghe.

Bồ Tát Tinh Tấn Huệ lại gọi một tiếng Phật tử ! Bồ Tát ban đầu phát tâm bồ đề, dùng pháp môn phương tiện gì để tu hành ? Hay khiến cho đủ thứ pháp lập tức đắc được viên mãn thành tựu ? Hy vọng Ngài (Bồ Tát Pháp Huệ) từ bi thương xót, vì tôi (Bồ Tát Tinh Tấn Huệ) diễn nói làm thế nào mà tu hành ? Chẳng những tôi muốn nghe pháp, mà hết thảy đại chúng trong pháp hội Hoa Nghiêm, đều hoan hỷ lắng nghe diệu pháp của Ngài nói, chẳng có vị nào mà không muốn nghe, đều đang rửa tai lắng nghe.

Lại nữa, như các đại Bồ Tát thường siêng năng tu tập, thì diệt trừ tất cả vô minh đen tối. Hàng phục ma oán, chế ngự các ngoại đạo. Vĩnh viễn quét sạch tất cả phiền não tâm dơ bẩn. Tất sẽ thành tựu tất cả căn lành. Vĩnh viễn thoát khỏi tất cả đường ác các nạn. Tịnh trị tất cả cảnh giới đại trí. Thành tựu tất cả các bậc của Bồ Tát, các Ba La Mật, tổng trì, tam muội, sáu thông, ba minh, bốn vô sở úy, công đức thanh tịnh.

Và kế tiếp, giống như đại Bồ Tát trong Bồ Tát phát tâm bồ đề, các Ngài luôn luôn siêng năng tu tập. Hay diệt trừ tất cả vô minh đen tối, đắc được trí huệ quang minh. Hay hàng phục tất cả thiên ma chướng đạo và oan gia cừu hận. Hay chế ngự tất cả tà luận ngoại đạo. Hay vĩnh viễn rửa sạch phiền não dơ bẩn trong tâm. Hay thành tựu tất cả căn lành. Hay vĩnh viễn thoát khỏi ba đường ác và các tai nạn. Hay thanh tịnh tu trị tất cả đại trí huệ, khiến cho hiện tiền. Hay thành tựu mười bậc của của Bồ Tát, tức là: Bậc hoan hỷ, bậc ly cấu, bậc phát quang, bậc diệm huệ, bậc nan thắng, bậc hiện tiền, bậc viễn hành, bậc bất động, bậc thiện huệ, bậc pháp vân. Hay thành tựu mười pháp môn Ba La Mật, tức cũng là đến bờ kia. Tức là: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, phương tiện, nguyện, lực, trí. Hay thành tựu tổng trì (đà la ni), tức là tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa. Hay thành tựu tam muội, tức là chánh định chánh thọ. Hay thành tựu sáu thần thông. Hay thành tựu ba minh, tức là: Thiên nhãn minh, túc mạng minh, lậu tận minh. Hay thành tựu bốn vô úy, tri căn vô sở úy, đáp nạn vô sở úy. Ðây là bốn vô sở úy của Bồ Tát chứ chẳng phải bốn vô sở úy của Phật. Bồ Tát hay thành tựu bảy thứ công đức thanh tịnh này.

Trang nghiêm tất cả cõi nước chư Phật, và các tướng tốt. Thân, lời nói, tâm hành, thành tựu đầy đủ. Khéo biết sức vô sở úy của tất cả chư Phật Như Lai, Phật pháp bất cộng. Nhất thiết trí sở hành cảnh giới. Vì muốn thành thục tất cả chúng sinh, tùy theo tâm ưa thích của chúng sinh mà thành tựu cõi Phật. Tùy căn tùy thời, như pháp đáng nói, đủ thứ vô lượng Phật sự rộng lớn.

Bồ Tát hay trang nghiêm tất cả cõi nước chư Phật. Lại hay trang nghiêm ba mươi hai tướng và tám mươi vẻ đẹp. Lại hay khiến cho thân, lời nói, ý, ba nghiệp đều thanh tịnh. Thành tựu tất cả đạo bồ đề. Lại hay khéo biết mười lực của tất cả chư Phật.
Lại hay khéo biết bốn vô sở úy của tất cả chư Phật, tức là:
1. Nhất thiết trí vô sở úy.
2. Lậu tận vô sở úy.
3. Nói chướng đạo vô sở úy.
4. Nói tận khổ đạo vô sở úy.

Lại hay khéo biết mười tám pháp bất cộng của tất cả chư Phật, tức là :
1. Thân không lỗi.
2. Miệng không lỗi.
3. Niệm không lỗi.
4. Chẳng nghĩ khác.
5. Tâm định.
6. Biết mình xả.
7. Dục chẳng diệt.
8. Tinh tấn chẳng diệt.
9. Niệm chẳng diệt.
10. Huệ chẳng diệt.
11. Giải thoát chẳng diệt.
12. Giải thoát tri kiến chẳng diệt.
13. Tất cả thân nghiệp theo trí huệ hành.
14. Tất cả khẩu nghiệp theo trí huệ hành.
15. Tất cả ý nghiệp theo trí huệ hành.
16. Trí huệ biết đời quá khứ vô ngại.
17. Trí huệ biết đời vi lai vô ngại.
18. Trí huệ biết đời hiện tại vô ngại.

Nhất thiết trí và nhất thiết chủng trí, đủ thứ cảnh giới trí huệ tu hành. Bồ Tát vì muốn thành thục nguyện của tất cả chúng sinh, cho nên tùy thuận sự hoan hỷ trong tâm chúng sinh, mà thành tựu cõi Phật của mình. Tùy theo căn tánh của tất cả chúng sinh, thuận theo thời cơ của tất cả chúng sinh, để nói pháp đáng nói. Tức cũng là đáng dùng pháp nào độ được ? Thì nói pháp đó để độ. Dùng đủ thứ vô lượng vô biên Phật sự rộng lớn, để giáo hóa chúng sinh, để thành tựu chúng sinh.

Và vô lượng các pháp công đức khác. Các hạnh, các đạo và các cảnh giới thảy đều viên mãn. Sớm bình đẳng với công đức của Như Lai.

Bồ Tát tu vô lượng tất cả pháp công đức, tu tất cả hạnh môn, tu tất cả đạo, tu tất cả cảnh giới. Những vấn đề đó đều đầy đủ viên mãn, sớm sẽ bình đẳng với công đức của Phật, chẳng có gì khác biệt.

Nơi các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, trong trăm ngàn A tăng kỳ kiếp, tu hạnh Bồ Tát, thì tập tụ pháp tạng, thảy đều thủ hộ, khai thị diễn nói. Các ma ngoại đạo không thể trở ngại phá hoại được. Nhiếp trì chánh pháp chẳng cùng tận. Nơi tất cả thế giới diễn nói pháp, thì Thiên Vương, Long Vương, Dạ Xoa Vương, Càn Thát Bà Vương, A Tu La Vương, Khẩn Na La Vương, Ca Lâu La Vương, Ma Hầu La Già Vương, nhân vương, Phạm Thiên Vương, Như Lai Pháp Vương, thảy đều thủ hộ.

Nơi mười phương chư Phật ứng thành chánh đẳng chánh giác, trải qua trăm ngàn A tăng kỳ kiếp thời gian, để tu hạnh Bồ Tát, lợi ích tất cả chúng sinh, tu tập tất cả pháp tạng công đức, hoàn toàn có thể thủ hộ mà chẳng phá hoại. Hay khai thị diễn nói tất cả Phật pháp, tất cả Thiên ma ngoại đạo, chẳng cách chi trở ngại, phá hoại được.

Ma có nhiều thứ, ma lợi hại nhất là tâm ma. Nó hay khiến cho bạn chẳng tu hành. Bạn muốn tu hành, thì nó lại nhiễu loạn, khiến cho bạn sinh vọng tưởng. Nó hay nói với bạn như vầy: ‘’Ðừng tu hành ! Tu hành là một việc khổ sở. Bạn phải ăn nhiều một chút, phải mặc nhiều một chút, phải ngủ nhiều một chút, nuôi dưỡng thân thể cho tốt. Ðó mới là đúng, đừng quá ngu si‘’! Tâm ma của mình thường hay phá hoại tâm tu đạo của mình.

Ngoại đạo là gì ? Tức là người tu hành tâm cầu pháp bên ngoài, chẳng minh bạch tất cả pháp không lìa tự tâm, tâm chạy tìm pháp bên ngoài. Ngoại đạo có ba ngàn bàng môn, chín mươi sáu thứ ngoại đạo (đương thời ở Ấn Ðộ có sáu đại luận sư, chủ trương lý luận đều bác vô nhân quả. Mỗi người có mười lăm đệ tử, thành là chín mươi. Ngoài ra còn lục sư, cộng thành chín mươi sáu, cho nên có chín mươi sáu thứ ngoại đạo).

Bồ Tát tu hành chánh pháp, nhiếp trì chánh pháp, bảo hộ chánh pháp, Thiên ma ngoại đạo chẳng cách chi cản trở chướng ngại. Bồ Tát làm những sự việc đó chẳng cùng tận. Khi ở tất cả thế giới diễn nói diệu pháp, thì sẽ có trời rồng tám bộ và mười vua đến bảo hộ. Mười vua tức là: Thiên Vương, có bốn Thiên vương: Phương đông Trì Quốc Thiên Vương, phương nam Tăng Trưởng Thiên Vương, phương tây Quảng Mục Thiên Vương, phương bắc Ða Văn Thiên Vương. Long Vương có tám Long Vương: Nan Ðà Long Vương, Bạt Nan Đà Long Vương, Ca Lâu La Long Vương, Tu Cát Long Vương, Ðức Xoa Tôn Long Vương, A Na Bà Ðạt Ða Long Vương, Ma Na Tư Long Vương, Ưu Bát La Long Vương. Dạ Xoa Vương: Tức là Tiệp Tật Quỷ Vương. Càn Thát Bà Vương: Tức là hương thần Vương. A tu la vương: Tức là vua vô đoan chánh. Ca Lâu La Vương: Tức là kim xí điểu vương. Khẩn na la vương: Tức là vua thần nhạc. Nhân vương tức là hoàng đế, chúa của nhân gian. Phạm Thiên Vương: Tức là Ðại Phạm Thiên, vua ở trên trời. Như Lai Pháp Vương: Tức là Phật. Mười vị vua này đều đến thủ hộ Bồ Tát phát tâm bồ đề.

Tất cả thế gian đều cung kính cúng dường. Đều quán đảnh, thường được chư Phật hộ niệm. Tất cả Bồ Tát, cũng đều ái kính. Được sức căn lành, trăng trưởng bạch pháp. Khai diễn pháp tạng thâm sâu của Như Lai. Nhiếp trì chánh pháp để tự trang nghiêm. Tất cả Bồ Tát tu hành thứ lớp, nguyện đều diễn nói.

Bồ Tát phát tâm bồ đề, nên được tất cả chúng sinh thế gian cung kính cúng dường. Mười phương ba đời tất cả chư Phật, đến quán đảnh để hộ niệm. Tất cả Bồ Tát cũng đều ái hộ kính ngưỡng. Bồ Tát phát tâm bồ đề đắc được đủ thứ sức lực căn lành, Tăng trưởng pháp thanh tịnh, tức cũng là chẳng có vô minh. Có đại trí huệ rồi, thì sẽ khai xiển diễn nói các tạng pháp thâm sâu của Phật nói. Nhiếp trì chánh pháp để trang nghiêm ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp của mình. Tất cả Bồ Tát tu hành hạnh môn thứ lớp đều nguyện diễn nói.

Bấy giờ, Bồ Tát Tinh Tấn Huệ muốn tuyên lại nghĩa trên, bèn nói kệ rằng :

Lúc đó, vị Bồ Tát Tinh Tấn Huệ, muốn dùng kệ để diễn nói lại đạo lý trường hàng ở trên, khiến cho đại chúng trong pháp hội Hoa Nghiêm nhận thức sâu xa về nghĩa lý này. Bồ Tát đều có tâm hoàn toàn từ bi, cho nên Bồ Tát là Thánh nhân lợi mình lợi người, giác mình giác người, độ mình độ người.

Bậc Đại Danh Xưng khéo diễn nói
Pháp công đức Bồ Tát tu thành
Vào sâu vô biên hạnh rộng lớn
Đầy đủ thanh tịnh trí vô sư.
Bậc đại danh xưng khéo diễn nói diệu nghĩa của các pháp. Bồ Tát tu thành đủ thứ pháp công đức, hay vào sâu vô lượng vô biên hạnh môn rộng lớn, đầy đủ trí huệ thanh tịnh. Do đó, trí huệ ‘’không thầy mà tự thông.’’ Tức cũng là sinh ra đã biết, chẳng cần thiện tri thức đến chỉ dạy, tự nhiên minh bạch.
Nếu có Bồ Tát sơ phát tâm
Thành tựu bậc phước đức trí huệ
Vào vị lìa sinh vượt thế gian
Khắp được chánh đẳng pháp bồ đề.
Nếu như có Bồ Tát, lúc ban đầu phát tâm, thành tựu phước đức và trí huệ không thể nghĩ bàn, đã chứng nhập địa vị thoát khỏi sinh tử. Ðã vượt khỏi hết thảy công đức của người thế gian, khắp đắc được pháp bồ đề chánh đẳng chánh giác.
Vị đó thế nào trong Phật giáo
Kiên cố siêng tu càng tăng thắng
Khiến các Như Lai đều hoan hỷ
Sớm sẽ nhập vào nơi Phật trụ.
Vị Bồ Tát ban đầu phát tâm đó, Ngài ở trong Phật giáo như thế nào ? Tâm bồ đề của Ngài, càng ngày càng kiên cố. Siêng tu tất cả hạnh môn mà đắc được thần thông thù thắng. Hay khiến cho mười phương chư Phật đều đại hoan hỷ, đến khen ngợi, đến thủ hộ. Nơi Phật trụ, Bồ Tát ban đầu phát tâm, sớm sẽ nhập vào quả vị Phật.
Tu hành thanh tịnh nguyện đều mãn
Và được tạng trí huệ rộng lớn
Thường hay nói pháp độ chúng sinh
Mà tâm chẳng nương chẳng chỗ chấp.
Bồ Tát ban đầu phát tâm bồ đề, tu hành thanh tịnh nguyện, sớm sẽ viên mãn. Lại đắc được tạng trí huệ rộng lớn, thường hay nói pháp để giáo hóa chúng sinh, mà chẳng chấp trước độ thoát chúng sinh. Vì tâm lìa tất cả chấp trước, cho nên chẳng chỗ nương tựa.

Bồ Tát tất cả Ba La Mật
Đều khéo tu hành chẳng khuyết giảm
Sở niệm chúng sinh đều cứu độ
Luôn giữ giống Phật khiến chẳng dứt.

Bồ Tát tu hành tất cả Ba La Mật, trước hết từ một pháp môn Ba La Mật mà bắt đầu tu hành. Nếu một pháp môn Ba La Mật tu hành thành tựu, thì tất cả pháp môn Ba La Mật đều sẽ thành tựu. Tại sao ? Vì tu một thì tu tất cả, thành tựu một thì thành tựu tất cả. Bồ Tát tu hành pháp Ba La Mật, chỉ có tăng thêm, chứ chẳng có khuyết giảm. Phàm là có sự nghĩ nhớ của chúng sinh, thì đều cứu thoát biển khổ, độ đến bờ kia. Do đó : ‘’Nếu còn một chúng sinh chưa thành Phật, thì chẳng thủ Nê Hoàn.’’ Trách nhiệm của Bồ Tát là tiếp nối dòng giống Phật, dòng giống Pháp, dòng giống Tăng, khiến cho Tam Bảo thường trụ ở đời, chẳng khiến cho Tam Bảo đoạn tuyệt. Ðây cũng là nhiệm vụ của người xuất gia, tức cũng là nghĩa vụ của người tại gia. Tóm lại, phàm là Phật giáo đồ đều có trách nhiệm này, nối tiếp Tam Bảo, dòng giống Phật.

Sở tác kiên cố chẳng tổn hại
Tất cả công thành được thoát khỏi
Như các bậc thắng sở tu hành
Đạo thanh tịnh đó nguyện tuyên nói.

Hiện tại Chùa Kim Sơn lại đả thiền thất (tháng 1 năm 1976), phàm là người tham gia thiền thất, tức là Bồ Tát ban đầu phát tâm bồ đề. Các bạn mọi người đang ngồi ở Thiền Đường, tức là tu Ba La Mật. Nếu chẳng trộm cắp, giết hại, dâm dục tức là thân thanh tịnh. Không nói chuyện là miệng thanh tịnh. Chẳng khởi vọng tưởng, tức là ý thanh tịnh. Thân khẩu ý ba nghiệp thanh tịnh, tức là tu pháp Ba La Mật. Ðây là pháp môn căn bản của Bồ Tát ban đầu phát tâm. Hiện tại nói với đại chúng pháp môn tối trọng yếu, đó là phải tu thiền Ba La Mật. Tại sao chúng ta xuất gia tu đạo ? Tức là vì cầu trí huệ, dứt sinh tử. Trí huệ là từ trong thiền định mà đắc được. Có trí huệ rồi thì sẽ dứt sinh tử. Tu như thế nào ? Mọi người hãy chú ý nghe ! Tư thế ngồi thiền, phải hợp với tiêu chuẩn, bằng không thì sẽ chẳng có sự thành tựu. Khi ngồi thiền thì thân phải ngay thẳng, không thể ngã về trước, không thể ưỡn về sau, không thể nghiêng bên trái, bên phải, càng không thể nhập định ngủ. Nếu ngồi ngay ngắn, thì thân chẳng phạm giết hại, trộm cắp, dâm dục ba điều ác. Miệng chẳng phạm nói dối, thêu dệt, hai lưỡi, chưởi mắng, bốn điều ác. Ý không phạm tham, sân, si ba điều ác. Ba nghiệp này thanh tịnh rồi, thì sẽ xả bỏ tâm phan duyên, đây là bố thí; hay giữ quy cụ của thiền đường, đây là trì giới; hay nhẫn thọ sự khổ chân đau lưng ê, đây là nhẫn nhục; có trước có sau, chẳng sinh tâm thối chuyển, tinh tấn chẳng giải đãi, đây là tinh tấn; ngồi yên tâm chẳng động, một niệm không sinh tức là thiền định; công phu đến lúc hỏa lò thuần thành, thì trí huệ sẽ tự nhiên hiện tiền. Sáu Ba La Mật này có sự quan hệ với nhau.
Các vị phải chú ý ! Tham thiền đả tọa phải chân thật, đừng có cẩu thả, không thể tùy tiện. Phải cước đạp thật địa, đừng nghĩ muốn tìm đường tắt. Cảm thấy pháp môn này tốt, thì tu pháp môn này ! Kỳ thật, chẳng có pháp môn nào là đường tắt, cũng chẳng có pháp môn nào chẳng phải đường tắt, đều là bình đẳng. Chỉ cần chân thật mà tu, tức là đường tắt; không chân thật tu thì chẳng phải đường tắt. Do đó :

‘’Trồng trọt một phần thì thu hoạch một phần.’’

Tu hành không thể tham đồ phương tiện, không thể xí đồ cầu may. Tu hành tức nói về công phu chân thật, nghĩa là dùng một phần công, thì sẽ có một phần quả thật; dùng mười phần công thì sẽ có mười phần quả thật. Ðây là định luật thiên cổ bất biến. Bất cứ tu pháp môn gì, càng khổ thì càng tốt, càng cực nhọc càng tốt, càng phí sức càng tốt. Từ xưa tới nay, cảnh giới khai ngộ đều từ trong sự khổ mà đắc được. Bổn phận của tôi thì nên tu hành như vậy (ngồi thiền), cho đến thành hay chẳng thành đạo, đừng màng nó. Nên có tư tưởng như thế. Có người nói: ‘’Tôi một ngày niệm một trăm linh tám (108) biến Chú Ðại Bi, lại tụng một bộ kinh Pháp Hoa, đó có thật tu hành chăng ? ‘’Ðó thì chẳng cho là tu hành. Hãy nhìn quá khứ chư Phật Bồ Tát, các Ngài vì tu hành mà xả thân mạng; vì cầu Phật đạo phân thân nát cốt, mà chẳng tiếc. Phải có tinh thần hy sinh như thế, mới là đệ tử Phật chân chính, mới có thể đắc được định chân chính kiên cố.
Phải trồng nhân kiên cố, thì mới có thể kết quả kiên cố. Có quả kiên cố rồi, thì sẽ thoát khỏi ba cõi, dứt sinh tử. Muốn thoát khỏi cõi dục chăng ? Vậy, trước hết phải đoạn dục, tức là đoạn: Tài, sắc, danh, thực, thùy, năm dục. Hoặc đoạn: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, năm cảnh. Ðoạn được thì sẽ thanh tịnh, chẳng đoạn được thì ô nhiễm. Thanh tịnh thì thoát khỏi cõi dục, ô nhiễm thì sẽ đoạ sáu nẻo. Dục đoạn thì thoát khỏi cõi dục, đoạn sắcthì thoát khỏi cõi sắc, như nếu chẳng chấp tướng, Do đó :

‘’Quét tất cả pháp, lìa tất cả tướng.’’

Hoặc là :

‘’Thấy việc tỉnh việc thoát khỏi thế gian
Thấy việc mê việc đọa trầm luân.’’

Hoặc là :

‘’Mắt thấy hình sắc trong chẳng biết
Tai nghe chuyện đời tâm chẳng hay.’’

Hoặc là:

‘’Bên trong chẳng có tâm
Bên ngoài chẳng có hình
Xa xa chẳng có vật.’’

Nếu đến được những cảnh giới này thì sẽ vượt khỏi cõi sắc. Ðến được chẳng có cảnh giới, chẳng những chẳng có hình sắc, mà cho đến tâm thức cũng chẳng còn. Lúc đó, liền thoát khỏi ba cõi.
Bồ Tát tu hành, làm các công đức rất kiên cố, không thể phá hoại được. Cho nên nói sở tác kiên cố chẳng tổn hại. Tức cũng là sở hành sở tác nhất định sẽ thành tựu, không thể lãng phí công phu. Giống như tất cả Bồ Tát tu hạnh thù thắng (lục độ vạn hạnh), chứng được công đức, chẳng cách chi hình dung được. Bồ Tát tu hành đạo thanh tịnh (chẳng có dục niệm), nguyện vì chúng sinh để tuyên nói, khiến cho chúng sinh cũng tu đạo thanh tịnh. Tóm lại, tức là đoạn dục khử ái. Nhìn thủng thân thể, buông bỏ chấp trước. Bằng không thì chấp cái này, chấp cái kia, chẳng phải là đạo thanh tịnh mà là đạo ô nhiễm. Ðạo thanh tịnh tức là bổn lai diện mục, tức cũng là cảnh giới như như chẳng động, rõ ràng sáng suốt.

Vĩnh phá tất cả vô minh tối
Hàng phục chúng ma và ngoại đạo
Hết thảy cấu uế đều tẩy sạch
Được gần Như Lai đại trí huệ.

Mỗi người đều có đủ thứ vô minh. Vì có đủ thứ vô minh, cho nên có đủ thứ phiền não. Có đủ thứ phiền não thì sẽ sinh ra đủ thứ khổ. Ðây là đạo lý tự nhiên. Vô minh tức là gặp cảnh giới xảy đến, thì nhận thức chẳng rõ ràng. Bất luận là cảnh thuận hay cảnh nghịch, đều bị cảnh giới chuyển biến, hoặc là giao động. Một khi giao động thì sinh ra phiền não. Có phiền não thì sẽ có thống khổ. Thanh tịnh đạo là vĩnh viễn phá tan vô minh đen tối. Phá tan tất cả vô minh phiền não thì sẽ sinh ra trí huệ. Có trí huệ thì sẽ phóng quang minh. Quang minh này hàng phục được các ma. Ma có bốn thứ, tức là ma ngũ ấm, ma phiền não, Thiên ma và tử ma. Lại có thể nói có thiên ma, địa ma, thần ma, quỷ ma, nhân ma (ma người), tâm ma, bệnh ma .v.v… Tóm lại, đều gọi là yêu ma. Tất cả ma hàng phục được rồi, thì biến thành thiện thần hộ pháp. Ví như Thiên long bát bộ, tức là trước thì là ma, sau là thần hộ pháp.

Trí huệ quang thanh tịnh lại hay hàng phục tất cả ngoại đạo. Ngoại đạo không nhất định muốn tu pháp ngoại đạo, mà là tìm chẳng được chánh đạo, cho nên mới nhận pháp ngoại đạo là đúng. Giống như tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, ban đầu làm đệ tử của ngoại đạo, về sau nhân duyên thành thục, mới quy y với đức Phật, trở thành trí huệ đệ nhất và thần thông đệ nhất. Cho nên dùng chánh pháp để giáo hóa ngoại đạo, khiến cho họ cải tà quy chánh, bỏ tối về sáng. Phải tẩy sạch tư tưởng dơ bẩn cấu uế. Thanh tịnh không nhiễm thì trí huệ hiện tiền, sẽ gần với trí huệ của Phật, tức cũng là đại quang minh tạng, nghĩa là đại viên cảnh trí.

Vĩnh lìa đường ác các hiểm nạn
Tịnh trị đại trí cảnh thù thắng
Được sức diệu đạo gần Như Lai
Tất cả công đức đều thanh tịnh.

Vĩnh viễn lìa khỏi A tu la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, bốn đường ác. Trong bốn đường ác này, có rất nhiều hiểm nạn. Nếu đọa lạc vào địa ngục thì vạn kiếp khó được sanh trở lại. Nếu đọa vào trong ngạ quỷ, thì luôn bị lửa đói thiêu đốt. Nếu đọa lạc vào trong súc sinh, thì bị vô minh che đậy, thường ngu si. Nếu đọa lạc vào trong A tu la, thì ưa thích đấu tranh. Tu hành tức là muốn lìa khỏi tất cả hiểm nạn, song phải dùng phương pháp đối trị. Phương pháp gì ? Tức là dùng giới định huệ ba học vô lậu, để đối trị tham sân si mạn nghi năm độc. Tiêu diệt năm độc rồi, thì sẽ đắc được đại trí huệ. Có đại trí huệ thì đắc được tất cả cảnh giới thần thông thù thắng. Ðắc được sức thần thông diệu dụng không thể nghĩ bàn, thì sẽ ở gần với chư Phật, công đức tu hành đều có sự thành tựu.

Chứng được trí Như Lai tối thắng
Trụ nơi vô lượng các cõi nước
Tùy tâm chúng sinh mà nói pháp
Và làm các Phật sự rộng lớn.

Bồ Tát chứng được trí huệ tối thù thắng của Phật, trụ ở trong vô lượng vô biên các cõi nước chư Phật, tám tướng thành đạo, trăm kiếp làm Phật để giáo hóa chúng sinh. Tùy thuận tâm niệm của chúng sinh để vì họ nói pháp, khiến cho chúng sinh bỏ mê về giác, lìa khổ được vui, mà làm tất cả Phật sự rộng lớn.

Thế nào mà được các diệu đạo
Khai diễn chánh pháp tạng Như Lai
Thường hay thọ trì các Phật pháp
Không ai hơn được không gì bằng.

Làm thế nào mới có thể đắc được tất cả đạo quả không thể nghĩ bàn ? Thì phải luôn luôn giảng kinh thuyết pháp, khai diễn chánh pháp tạng của Phật, mà đắc được tất cả các diệu đạo. Nếu thường y chiếu pháp của Phật nói mà tu hành, thì sẽ đắc được tất cả các diệu đạo. Như vậy thì chẳng có gì hơn được Phật pháp.

Thế nào không sợ như sư tử
Sở hành thanh tịnh như trăng rằm
Thế nào tu tập công đức Phật
Giống như hoa sen chẳng dính nước.

Làm thế nào tu được cảnh giới bốn vô sở úy ? Giống như sư tử hống, trăm thú nghe đều kinh hãi. Sở hành phải thanh tịnh, trì giới phải thanh tịnh, giống như trăng ngày rằm, vừa tròn vừa sáng. Làm thế nào tu tập công đức của chư Phật ? Giống như hoa sen tuy sinh ra ở trong bùn, nhưng thanh tịnh chẳng nhiễm, chẳng dính bùn, cũng chẳng dính nước, chẳng nhiễm một bụi trần, vạn niệm đều không. Ðạt được cảnh giới này, thì chứng được công đức của chư Phật.

Bấy giờ, Bồ Tát Pháp Huệ nói với Bồ Tát Tinh Tấn Huệ rằng: Lành thay! Phật tử ! Nay Ngài vì muốn nhiều lợi ích, nhiều an lạc, nhiều huệ lợi. Thương xót thế gian chư Thiên và loài người, mà hỏi hạnh tu hành thanh tịnh của Bồ Tát như vậy.

Bồ Tát Tinh Tấn Huệ nói xong các pháp bằng kệ xong rồi, thì Bồ Tát Pháp Huệ lại nói với Bồ Tát Tinh Tấn Huệ rằng: Lành thay ! Lành thay ! Phật tử ! Hiện tại Ngài hỏi công đức ban đầu phát tâm bồ đề, chẳng phải vì mình mà hỏi, mà là vì chúng sinh mà hỏi. Ngài muốn cho pháp giới hết thảy chúng sinh đều đắc được lợi ích, lại đắc được an lạc vĩnh viễn, lại đắc được huệ lợi. Ngài có tâm từ bi, thương xót thế gian chư Thiên và loài người. Ðại biểu họ để hỏi pháp môn thanh tịnh của Bồ Tát tu, khiến cho chúng sinh trở về nguồn cội, khôi phục lại bản nhiên thanh tịnh.

Phật tử ! Ngài trụ thật pháp, phát đại tinh tấn, tăng trưởng chẳng thối lùi. Đã được giải thoát, có thể hỏi như thế, sẽ đồng với Như Lai.

Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng đệ tử của Phật ! Ngài đã trụ ở trong pháp thật tướng, phát tâm tinh tấn, thân cũng tinh tấn, tâm cũng tinh tấn; ngày cũng tinh tấn, đêm cũng tinh tấn. Ngài đã đắc được vị không thối, niệm không thối, hạnh không thối. Ngài đã chứng được giải thoát chân chánh, đã đắc được cảnh giới vô câu vô thúc, vô quái vô ngại. Ngài hỏi những pháp này, thì chẳng bao lâu tương lai sẽ đồng với cảnh giới của Phật.

Hãy lắng nghe ! Hãy lắng nghe ! Khéo suy gẫm! Nay tôi nương sức oai thần của đức Phật, vì Ngài mà nói ít phần trong vấn đề đó.

Bồ Tát Pháp Huệ lại nói: Xin Ngài hãy lắng nghe ! Hãy chú ý nghe ! Xin Ngài nhớ cho, suy gẫm cho. Hiện tại tôi nương đại oai thần lực của mười phương chư Phật, vì ông mà nói pháp này. Bất quá, chỉ có thể nói ít phần trong vô lượng vô biên mà thôi.

Phật tử ! Đại Bồ Tát đã phát tâm nhất thiết trí, thì nên lìa ngu si đen tối, tinh tấn giữ gìn, đừng có phóng dật.

Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát trong Bồ Tát, đã phát tâm bồ đề nhất thiết trrí huệ. Nên xa lìa tất cả sự ngu si đen tối (vô minh). Làm thế nào để lìa khỏi ngu si đen tối ? Thì phải tu pháp môn thiền định Ba La Mật. Có trí huệ quang minh rồi, thì sẽ phá tan vô minh. Còn phải tu pháp môn tinh tấn Ba La Mật, ở nơi vi tế nhất cũng phải cẩn thận coi chừng, siêng năng giữ gìn giới luật, đừng có phóng dật. Phóng dật tức là chẳng giữ quy cụ, nghĩa là phá hoại đạo tràng.
Người xuất gia chẳng giữ giới luật của người xuất gia, người tại gia chẳng giữ giới luật của người tại gia, thì thành thể thống gì ? Làm mất đi địa vị vốn có. Tức nhiên quy y Tam Bảo thì phải cung kính Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo, không được phỉ báng Tam Bảo, không được phá hoại Tam Bảo. Ở trong đạo tràng phải giữ quy cụ, không được làm cho kẻ khác sinh phiền não. Nghĩa là cử chỉ hành động, lời nói việc làm, đều phải hợp với giới luật, không được phóng dật.

Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ ở mười pháp, gọi là không phóng dật. Những gì là mười? Một là giữ gìn các giới luật. Hai là xa lìa ngu si, thanh tịnh tâm bồ đề. Ba là tâm ưa ngay thẳng, lìa các xiểm nịnh. Bốn là siêng tu căn lành, chẳng có thối chuyển. Năm là luôn khéo suy gẫm tâm của mình đã phát. Sáu là không ưa gần gũi tại gia, xuất gia, tất cả phàm phu. Bảy là tu các nghiệp lành, mà chẳng muốn cầu quả báo thế gian. Tám là vĩnh viễn lìa hàng nhị thừa, hành Bồ Tát đạo. Chín là thích tu các việc lành, khiến chẳng dứt trừ. Mười là luôn khéo quán sát sức liên tục của mình.

Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát trong Bồ Tát, nên thường tu tập mười pháp này. Tức là dần dần chú ý mười pháp này, luôn luôn đừng quên nó. Ðây nghĩa là trụ nơi mười pháp thì gọi là không phóng dật.
Những gì là mười pháp:
1). Giữ gìn các giới luật: Giới của Phật nói ra đều phải giữ gìn cẩn thận, giữ gìn thanh tịnh, không được tơ hào vi phạm, không được tùy ý phóng túng. Cũng giống như giữ gìn con mắt của mình.
2). Xa lìa ngu si, thanh tịnh tâm bồ đề: Nếu có vô minh phiền não, tức là ngu si. Do đó, phải vĩnh viễn lìa khỏi ngu si thì sẽ có trí huệ. Lại phải thanh tịnh tâm bồ đề, trên cầu vô thượng đạo của chư Phật, dưới độ chúng sinh thoát biển khổ.
3). Tâm ưa ngay thẳng, lìa các xiểm nịnh: Tâm của Bồ Tát là ngay thẳng, Do đó : ‘’Tâm thẳng là đạo tràng.’’ Tâm của chúng sinh thì quanh co, thấy người có tiền, có thế lực, bèn tỏ ra cung kính, nói những lời lẽ xiểm nịnh trái với lương tâm. Còn có một hạng người chuyên nói lời lẽ dối trá gạt người, bất cứ đối với ai cũng chẳng nói lời chân thật. Hành vi như thế là hành vi ngu si nhất. Nhưng Bồ Tát thì xa lìa tất cả xiểm nịnh dối trá.
4). Siêng tu căn lành, chẳng có thối chuyển: Căn lành phải siêng tu thì mới tăng trưởng, bằng không thì sẽ khô héo. Phát tâm bồ đề tức là tăng trưởng căn lành, giống như dùng nước tưới lên, khiến cho tươi mát phát triển. Phát tâm bồ đề chỉ có tinh tấn mà chẳng thối chuyển. Dù có chết cũng không thối chuyển, phải có ý chí kiên nhẫn bất khuất như thế.
5). Luôn khéo suy gẫm tâm của mình đã phát: Phải luôn luôn suy gẫm tâm bồ đề mà mình đã phát, tinh tấn hay là thối chuyển ? Phải kiểm tra lại, nếu tinh tấn thì thôi; còn nếu thối chuyển thì phải sửa đổi. Phản tỉnh một phen, tại sao mình phải tạo nghiệp ? Tại sao phải phóng dật ? Tại sao muốn phá hoại đạo tràng ? Những vấn đề này là trái ngược với tâm bồ đề của mình đã phát lúc ban đầu.
6). Không ưa thích gần gũi tại gia, xuất gia, tất cả phàm phu: Bồ Tát đã là bậc Thánh nhân, cho nên chẳng ưa gần gũi kẻ phàm phu tại gia, hoặc xuất gia. Phàm phu là gì ? Tức là người bình thường, người chẳng có trí huệ, chẳng phải là người phi phàm xuất chúng. Phàm là người có phiền não, người tư tưởng chẳng thanh tịnh, thì đều là phàm phu.
7). Tu các nghiệp lành mà chẳng muốn cầu quả báo thế gian: Bồ Tát muốn làm đủ thứ nghiệp lành, nhưng chẳng cầu quả báo trời người. Nghĩa là chẳng muốn làm người giàu sang phú quý, cũng chẳng hy vọng làm chư Thiên hưởng phước.
8). Vĩnh viễn lìa hàng nhị thừa, hành Bồ Tát đạo: Bồ Tát có tâm từ bi, làm gì cũng đều vì lợi ích chúng sinh, cho nên vĩnh viễn lìa khỏi pháp nhị thừa, chuyên tu pháp lục độ vạn hạnh, lấy hạnh Bồ Tát làm tông chỉ, đó là tinh thần của Bồ Tát.
9). Ưa thích tu các việc lành, khiến chẳng dứt trừ: Bồ Tát thường làm việc lành là vì lợi ích chúng sinh, chẳng nghĩ riêng mình. Tư tưởng này vĩnh viễn chẳng đoạn tuyệt.
10). Luôn khéo quán sát sức liên tục của mình: Bồ Tát luôn luôn hồi quang phản chiếu, kiểm thảo mình có nổi lửa vô minh chăng ? Có nhận chân tu hành chăng ? Có hành Bồ Tát đạo chăng ? Có gieo trồng căn lành chăng ? Những vấn đề đó, mỗi ngày đều phải phản tỉnh một lần. Mỗi ngày phải quán sát thân miệng ý ba nghiệp của mình có tạo tội lỗi chăng ? Nếu không thì đến thuở vị lai cũng tu chẳng thành công.
Người tu hành phải hành đạo Bồ Tát, đối tốt với người, chứ chẳng phải dạy người đối tốt với mình. Tôi thường nói với các vị rằng: Phải làm lợi ích cho kẻ khác, dù có bị mắng cũng tốt. Không thể lợi ích kẻ khác, thì dù có người đảnh lễ bạn cũng chẳng có ý nghĩa gì. Do đó : người tu hành, nhất định phải lợi người thì mới hợp với mục đích ban đầu Ðức Phật nói pháp. Do đó, phải luôn luôn quán sát sức hành Bồ Tát đạo của mình có liên tục chăng ?

Phật tử ! Nếu các Bồ Tát hành mười pháp này, thì gọi là trụ không phóng dật.

Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng đệ tử của Phật ! Hết thảy tất cả Bồ Tát, nếu chân thật tu hành mười pháp này, thì trụ nơi cảnh giới không phóng dật, cho nên gọi là trụ không phóng dật.

Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ không phóng dật, đắc được mười thứ thanh tịnh. Những gì là mười ? Một là làm đúng như lời nói. Hai là niệm trí thành tựu. Ba là trụ nơi định sâu, chẳng hôn trầm chẳng trạo cử. Bốn là ưa cầu Phật pháp, chẳng có giải đãi ngừng nghỉ. Năm là theo pháp đã nghe, như lý quán sát, đầy đủ sinh ra trí huệ xảo diệu. Sáu là vào sâu thiền định, được thần thông của Phật. Bảy là tâm được bình đẳng, chẳng có cao thấp. Tám là nơi các chúng sinh, thượng trung hạ, tâm chẳng chướng ngại, như đại địa, lợi ích hết thảy. Chín là nếu thấy chúng sinh, cho đến một khi phát tâm bồ đề, thì tôn trọng thừa sự, như là hòa thượng. Mười là đối với thọ giới hòa thượng, A xà lê, tất cả Bồ Tát, các thiện trí thức và pháp sư, thường sinh tâm tôn trọng, thừa sự cúng dường.

Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát trong Bồ Tát, tu hành trụ nơi chẳng phóng dật rồi, sẽ đắc được mười pháp thanh tịnh. Những gì là mười ?
1). Làm theo lời nói: Bồ Tát bất cứ tu pháp môn gì, cũng đều y pháp tu hành, chẳng đi ngược lại với đạo, tức cũng là tuyệt đối chẳng phóng dật, chẳng đi ngược lại giáo pháp.
2). Niệm trí thành tựu: Một niệm phát tâm bồ đề ban đầu, sẽ thành tựu nhất thiết chủng trí.
3). Trụ nơi định sâu, chẳng hôn trầm chẳng trạo cử: Thanh tịnh không nhiễm thì thường ở trong định. Do đó : ‘’Na Già thường tại định, chẳng lúc nào mà không định.’’ Nếu thường hay ở trong định thì cũng chẳng hôn trầm, cũng chẳng trạo cử. Cũng chẳng tham chấp trước, cũng chẳng khởi vọng tưởng. Rõ ràng sáng suốt, tâm trong như nước, sáng suốt như gương. Ðây tức là cảnh giới định sâu. Pháp giới tức là ta, ta tức là pháp giới, hợp mà làm một, đây là vào định sâu. Khi đến đưọc trình độ này thì sự việc gì trong pháp giới đều tự nhiên biết được.
4). Ưa cầu Phật pháp, chẳng có giải đãi ngừng nghỉ: Bồ Tát hoan hỷ cầu tất cả Phật pháp, tinh tấn lại tinh tấn, học tập lại học tập, vĩnh viễn chẳng giải đãi, chẳng ngừng nghỉ.
5). Theo pháp đã nghe, như lý quán sát, đầy đủ sinh ra trí huệ xảo diệu: Bồ Tát bất luận nghe pháp ở đâu, đều dùng lý trí để quán sát để phân tích. Lý trí giống như gương, bất cứ là vật gì đều chiếu hiện ra rõ ràng. Do đó : ‘’Vật đến bóng hiện, vật đi bóng lặng.’’ Có thể hoàn toàn đầy đủ sinh ra diệu trí huệ không thể nghĩ bàn.
6). Vào sâu thiền định, đắc được thần thông của Phật: Tĩnh tọa đến cực điểm thì trí huệ quang minh sẽ thông đạt. Tức cũng là vào sâu thiền định. Lúc đó, mạch máu của hành giả ngừng lại (chứng được cảnh giới đệ nhất thiền). Hoặc hơi thở ngừng lại (chứng được cảnh giới đệ nhị thiền). Hoặc niệm lực ngừng lại (chứng được cảnh giới đệ tam thiền), hoặc tâm thức ngừng lại (chứng được cảnh giới đệ tứ thiền). Ðây là hiện tượng vào sâu thiền định. Ở trong cảnh giới này, giống như là người chết, song chẳng phải chết. Chứng được cảnh giới tứ thiền, vẫn còn là phàm phu, chứ chẳng phải Thánh nhân chứng quả. Ðiểm này mọi người phải chú ý, không thể hiểu lầm. Phải dũng mãnh tinh tấn, tiếp tục vào định sâu. Ngoại đạo thì nhập vào trời Vô Tưởng. Chứng đạo thì nhập vào trời Ngũ Bất Hoàn. Lúc này mới là sơ quả A la hán, hoặc Thập trụ Bồ Tát. Ðến được cảnh giới này sẽ đắc được thần thông của Phật.
7). Tâm bình đẳng chẳng có cao thấp: Tâm thanh tịnh của Bồ Tát, rất bình đẳng, tất cả tất cả cũng chẳng phân biệt cao thấp.
8). Nơi các chúng sinh, thượng trung hạ, tâm chẳng chướng ngại. Như đại địa, lợi ích hết thảy: Bồ Tát đối với chúng sinh dù là thượng căn lợi trí, hoặc là trung căn phổ trí, hoặc là hạ căn độn trí, ba căn đều bình đẳng, chẳng có tâm chướng ngại. Giống như đại địa, hay sinh vạn vật, lợi ích bình đẳng.
9). Nếu thấy chúng sinh, cho đến một khi phát tâm bồ đề, thì tôn trọng thừa sự như hòa thượng: Nếu thấy được chúng sinh phát tâm bồ đề, thì nên tôn kính họ, thừa sự họ. Giống như tôn trọng thừa sự hòa thượng. Hòa thượng là người xuất gia tối cao thượng, tối tôn kính.
10). Nơi thọ giới hòa thượng và A xà lê, tất cả Bồ Tát, các thiện tri thức, chỗ pháp sư, thường sinh tâm tôn trọng, thừa sự cúng dường: Ðối với thọ giới hòa thượng, thầy quy phạm, tất cả Bồ Tát, tất cả thiện tri thức, tất cả pháp sư, phải thường đến chỗ của họ để gần gũi, tôn trọng thừa sự, cúng dường. Không được giải đãi, không được ngã mạn. Phải báo ân thầy, ân thầy đồng như ân cha mẹ.

Phật tử ! Đó là mười pháp thanh tịnh của Bồ Tát trụ không phóng dật.

Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng đệ tử của Phật ! Bồ Tát ban đầu phát tâm bồ đề, trụ nơi cảnh giới không phóng dật, đắc được mười pháp thanh tịnh.

Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ không phóng dật, phát tâm đại tinh tấn, khởi chánh nệm. Sinh dục lạc thù thắng, tu hành chẳng thôi nghỉ. Nơi tất cả pháp, tâm chẳng chỗ nương tựa. Nơi pháp thâm sâu, siêng năng tu tập. Nhập vào môn vô tránh, sẽ tăng thêm tâm rộng lớn. Phật pháp vô biên, hay tùy thuận biết rõ, khiến các Như Lai thảy đều hoan hỷ.

Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát trong hàng Bồ Tát thường chẳng phóng dật. Phát tâm đại tinh tấn, chỉ hướng về trước, chẳng lùi về sau. Thường khởi chánh niệm, chẳng sinh tà niệm. Thường sinh dục lạc thù thắng, tức là cầu đạo bồ đề, viên mãn quả giác. Thường tu hành chẳng thôi nghỉ. Ðối với tất cả Phật pháp, tâm chẳng chấp trước. Ðối với tất cả pháp môn Bát Nhã siêng năng tu tập mà chẳng giải đãi. Hay nhập vào môn vô tránh, chẳng tranh luận với người, có tu dưỡng nhẫn nại. Hay tăng thêm tâm bồ đề rộng lớn. Phật pháp vô biên, Bồ Tát hay tùy thuận đạo lý của Phật pháp để nghiên cứu, thấu rõ tất cả lý luận. Hay khiến cho tất cả chư Phật đều sinh hoan hỷ mà đến khen ngợi.

Phật tử ! Đại Bồ Tát, lại có mười pháp, hay khiến cho tất cả chư Phật đều hoan hỷ. Những gì là mười ? Một là tinh tấn chẳng thối lùi. Hai là chẳng tiếc thân mạng. Ba là nơi các lợi dưỡng chẳng có mong cầu. Bốn là biết tất cả pháp đều như hư không. Năm là khéo hay quán sát, khắp vào pháp giới. Sáu là biết các pháp ấn, tâm chẳng ỷ lại chấp trước. Bảy là thường phát nguyện lớn. Tám là thành tựu thanh tịnh, nhẫn trí quang minh. Chín là quán pháp lành của mình, tâm chẳng tăng giảm. Mười là nương môn vô tác, tu các tịnh hạnh.

Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát trong hàng Bồ Tát, lại có mười pháp, hay cảm động đến mười phương chư Phật mà hoan hỷ khen ngợi. Những gì là mười pháp ? Tức là:
1). Tinh tấn chẳng thối lùi: Bồ Tát tu hành thì ngày đêm sáu thời luôn tinh tấn, vĩnh viễn chẳng thối lùi.
2). Chẳng tiếc thân mạng: Vì pháp quên mình đây là tinh thần của Bồ Tát.
3). Nơi các lợi dưỡng chẳng có mong cầu: Bồ Tát đối với bốn thứ cúng dường (thức ăn uống, quần áo, chăn mềm, thuốc thang), tất cả đồ đạc dưỡng thân thể chẳng mong cầu, tùy duyên ứng cúng, chẳng khởi tâm phân biệt.
4). Biết tất cả pháp, đều như hư không: Bồ Tát minh bạch tất cả pháp đều do nhân duyên mà sinh, do nhân duyên mà diệt, tất cả đều không, như hư không, chẳng có thể thật tại, cho nên chẳng chấp trước cái ta, chẳng chấp trước pháp. Do đó : ‘’Ta và pháp đều không.’’
5). Khéo hay quán sát, khắp vào pháp giới: Bồ Tát khéo hay quán sát tất cả pháp, khắp vào pháp giới tất cả môn.
6). Biết các pháp ấn, tâm chẳng ỷ lại chấp trước: Bồ Tát biết pháp dùng tâm ấn tâm. Tuy nhiên biết các pháp ấn, ấn chứng pháp này là thật. Song, tâm chẳng ỷ lại pháp ấn, chẳng chấp trước pháp ấn.
7). Thường phát nguyện lớn: Bồ Tát thường phát đại trí đại hạnh, đại nguyện đại bi, Do đó : ‘’Ðại Trí Văn Thù Bồ Tát, Ðại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Ðại Nguyện Ðịa Tạng Bồ Tát, Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.’’ Bốn vị đại Bồ Tát này, đại biểu cho bốn đại hạnh nguyện. Do đó, người tu hành đều phải phát đại nguyện, nguyện tức là pháp thuyền. Muốn từ bờ sinh tử bên này, qua dòng phiền não và đạt đến bờ Niết Bàn bên kia. Phải ngồi thuyền pháp lớn, đi qua biển sinh tử, mới bình an đạt đến cảnh Phật. Tu hành chẳng phát nguyện, cũng giống như cây nở hoa mà chẳng kết trái, chẳng ích gì.
8). Thành tựu thanh tịnh, nhẫn trí quang minh: Phải thành tựu tâm thanh tịnh, tu hành pháp môn nhẫn nhục. Tức là nhẫn đói nhẫn khát, chịu lạnh chịu nóng, chịu gió chịu mưa. Tóm lại, tất cả đều phải nhẫn chịu. Do đó : ‘’Hay nhẫn thì an.’’ Nhẫn được thì có trí huệ, có trí huệ thì có quang minh.
9). Quán pháp lành của mình, tâm chẳng tăng giảm: Phải quán sát pháp lành của mình tu, nơi tâm chẳng tăng chẳng giảm. Ðối với pháp lành, hoặc pháp ác, tâm đều chẳng chấp trước, cũng chẳng tăng giảm.
10). Nương môn vô tác, tu các tịnh hạnh: Nương tựa môn vô tác, để tu tất cả hạnh thanh tịnh.
Gì là môn vô tác ? Tức là cảnh giới làm mà chẳng làm, chẳng làm mà làm. Tóm lại, bất cứ tu hạnh môn nào, đừng chấp trước hạnh môn đó. Chẳng chấp trước thì tự tại, đây nghĩa là đạo lý tu mà không tu, không tu mà tu. Chẳng phải tạo tác, một chút miễn cưỡng đều chẳng tồn tại, hoàn toàn đều tự nhiên.
Tu hành tức là tu hành. Ðừng có tư tưởng này: ‘’Tại sao tôi phải tu hành?‘’ Gì cũng chẳng làm ! Tức là tu hành. Không nghĩ cầu gì mà tu hành thì chẳng có sở cầu. Cũng chẳng cần khai ngộ, cũng chẳng cầu chứng quả, tức là tu hành. Ðây tức là tu hành vô cầu. Phải vì vô cầu mà tu hành, phải vì vô tác mà tu hành, phải vì vô tham mà tu hành. Chẳng phải nói: ‘’Tôi tu hành vì thành Phật.’’ Nếu có tư tưởng như thế thì là có tác.
Vô tác tức là nói, tôi phải tu hành, gì tôi cũng chẳng cầu. Do đó :

‘’Ðến chỗ vô cầu sẽ hết lo.’’

Ðến được chỗ chẳng cầu gì nữa, thì chẳng còn lo lắng gì cả. Tại sao lại có sự lo lắng ? Vì còn có sự mong cầu ? Vì chẳng biết đủ. Nếu đầy đủ thì còn cầu gì nữa ? Ví như, muốn tu Bồ Tát đạo, lúc chưa hành Bồ Tát đạo thì cảm thấy muốn hành Bồ Tát đạo. Ðã hành Bồ Tát đạo thì càng gọi là môn vô tác.
Trách nhiệm của Phật giáo đồ chúng ta là giáo hóa chúng sinh, lợi ích chúng sinh, bảo hộ chúng sinh. Trách nhiệm của chúng ta là giảng kinh thuyết pháp. Trách nhiệm của chúng ta là nghe kinh nghe pháp. Vì chúng ta chẳng minh bạch đạo lý Phật pháp, cho nên phải đến nghe kinh, chẳng màng minh bạch hay chẳng minh bạch, đều đến nghe kinh, đây là nghe pháp vô tác. Nghe kinh phải tự nhiên, chẳng có tham cầu. Minh bạch tôi cũng nghe kinh, chẳng minh bạch tôi cũng nghe kinh, đây tức là vô tác, chẳng miễn cưỡng, rất tự nhiên, phải tu hành tất cả hạnh môn thanh tịnh.

Phật tử ! Đó là Bồ Tát trụ mười pháp, hay khiến cho tất cả Như Lai đều hoan hỷ.

Ðệ tử của Phật ! Ðó là mười pháp trụ của Bồ Tát. Khiến cho mười phương chư Phật sinh tâm đại hoan hỷ, mà đến khen ngợi: Lành thay ! Lành thay ! Thiện nam tử ! Ông thật là Phật tử !

Phật tử ! Lại có mười pháp, hay khiến cho tất cả chư Phật hoan hỷ. Những gì là mười ? Đó là: An trụ không phóng dật. An trụ vô sinh nhẫn. An trụ đại từ. An trụ đại bi. An trụ đầy đủ các Ba La Mật. An trụ các hạnh. An trụ đại nguyện. An trụ phương tiện khéo léo. An trụ sức dũng mãnh. An trụ trí huệ, quán tất cả pháp, đều chẳng có chỗ trụ, như hư không.

Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng đệ tử của Phật ! Bồ Tát ban đầu phát tâm bồ đề, lại có mười pháp thanh tịnh, có thể khiến cho mười phương chư Phật sinh tâm hoan hỷ ? Những gì là mười pháp ? Tức là:
1). An trụ chẳng phóng dật: Tức là an trụ ở vô sinh pháp nhẫn.
2). Gì gọi là vô sinh pháp nhẫn ? Tức là chẳng thấy có chút pháp sinh, chẳng thấy có chút pháp diệt. Nhẫn nơi tâm.
3). An trụ đại từ: Từ hay ban sự an vui cho tất cả chúng sinh, Do đó : ‘’ Vô duyên đại từ.’’
4). An trụ đại bi: Hay cứu khổ tất cả chúng sinh, Do đó : ‘’Ðồng thể đại bi.’’
5). An trụ đầy đủ các Ba La Mật: Tu lục độ, hoặc thập độ, đều đầy đủ chẳng thiếu.
6). An trụ các hạnh: Bồ Tát tu lục độ vạn hạnh đều thành tựu.
7). An trụ đại nguyện: Bồ Tát giữ gìn đại nguyện của mình đã phát.
8). An trụ phương tiện khéo léo: Tức là pháp môn phương tiện khéo léo.
9). An trụ sức dũng mãnh: Tức là sức dũng mãnh tinh tấn.
10). An trụ trí huệ: An trụ ở trong tất cả trí huệ, quán sát tất cả pháp, chẳng dính mắc nơi các pháp, như hư không, chẳng chỗ có.

Phật tử ! Nếu các Bồ Tát trụ mười pháp này, thì khiến cho tất cả chư Phật đều hoan hỷ.

Ðệ tử của Phật ! Nếu tất cả Bồ Tát, an trụ vào mười pháp này, thì khiến cho mười phương chư Phật đều sinh đại hoan hỷ, đến khen ngợi, đến quán đảnh, trở thành Pháp Vương tử.

Phật tử ! Có mười pháp, khiến cho các Bồ Tát sớm nhập vào các địa vị. Những gì là mười ? Một là khéo léo viên mãn phước trí hai hạnh. Hai là hay đại trang nghiêm đạo Ba La Mật. Ba là trí huệ sáng suốt thông đạt, chẳng tùy theo lời của người khác. Bốn là thừa sự bạn lành, luôn không bỏ lìa. Năm là thường hành tinh tấn, chẳng có giải đãi. Sáu là khéo an trụ nơi thần lực của Như Lai. Bảy là tu các căn lành, chẳng sinh tâm nhàm mỏi. Tám là thâm tâm lợi trí, dùng pháp đại thừa để tự trang nghiêm. Chín là nơi pháp môn các địa, tâm chẳng chỗ trụ. Mười là căn lành phương tiện đồng một thể tánh với ba đời chư Phật.

Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng đệ tử của Phật ! Lại có mười pháp, có thể khiến cho Bồ Tát sớm nhập vào mười địa vị. Những gì là mười pháp ? Tức là:
1). Khéo léo viên mãn phước trí hai hạnh: Tức là phước huệ song tu, phước cũng viên mãn, trí cũng viên mãn. Phước huệ đều đủ tức là Phật Do đó gọi là ‘’Lưỡng Túc Tôn.’’
2). Hay đại trang nghiêm đạo Ba La Mật: Tức là cung hành thật tiễn, thân thể lục hành, tu đến pháp môn bờ bên kia.
3). Trí huệ sáng suốt thông đạt, chẳng tùy theo lời của người khác: Hay tu pháp môn Bát Nhã, thì sẽ đắc được trí huệ quang minh, thông đạt vô ngại. Có trí huệ rồi thì chẳng tùy thuận lời lẽ bất chánh của kẻ khác mà giao động. Do đó : ‘’Tám gió thổi không lay.’’
4). Thừa sự bạn lành, luôn chẳng bỏ lìa: Phải thừa sự thiện tri thức, gần gũi thiện tri thức, cúng dường thiện tri thức. Không được cống cao ngã mạn, không được đố kỵ chướng ngại. Ðủ thứ tập khí không tốt, đủ thứ mao bệnh xấu, đều phải quét cho sạch sẽ. Khai quật gốc rễ thì vĩnh viễn chẳng sinh ra nữa. Phải luôn luôn đừng bỏ lìa thiện tri thức, thiện tri thức là đạo sư, có thể chỉ dạy làm thế nào để lìa khỏi tham sân si, y pháp tu hành như thế nào.
5). Thường hành tinh tấn chẳng có giải đãi: Nghiên cứu Phật pháp thì thường phải tinh tấn, không được giải đãi, chỉ có hướng về trước, chẳng thối lùi về sau.
6). Khéo hay an trụ nơi thần lực của Như Lai: Hay nghe lời thiện tri thức giáo hóa, thì mới tinh tấn chẳng giải đãi, mới an trụ nơi thần thông lực của chư Phật.
7). Tu các căn lành chẳng sinh tâm nhàm mỏi: Tu hành tất cả căn lành, quán triệt thủy chung, chẳng sinh tâm nhàm mỏi, chẳng sinh tâm lười biếng.
8). Thâm tâm lợi trí, dùng pháp đại thừa mà tự trang nghiêm: Dùng pháp đại thừa Bát Nhã thâm sâu để trang nghiêm chính mình. Nghĩa là dùng sự trang nghiêm của Phật để tự trang nghiêm chính mình.
9). Nơi pháp môn các địa, tâm chẳng chỗ trụ: Mỗi pháp môn trong mười địa, tâm chẳng trụ nơi pháp.
10). Căn lành phương tiện đồng một thể tánh với ba đời chư Phật: Căn lành phương tiện của mười phương ba đời tất cả chư Phật đều cùng một thể tánh.

Phật tử ! Mười pháp này khiến cho các Bồ Tát sớm nhập vào các địa vị.

Ðệ tử của Phật ! Mười pháp đã nói ở trên hay khiến cho tất cả các Bồ Tát sớm nhập vào địa vị thập địa, cho đến quả vị Đẳng Giác và Diệu Giác.

Lại nữa, Phật tử ! Lúc các Bồ Tát ban đầu trụ địa, thì nên khéo quán sát. Tùy thuận hết thảy tất cả pháp môn. Tùy thuận hết thảy trí huệ thâm sâu. Tùy thuận nhân tu hành. Tùy thuận sự đắc quả. Tùy thuận cảnh giới. Tùy thuận lực dụng. Tùy thuận sự thị hiện. Tùy thuận sự phân biệt. Tùy thuận sở đắc. Đều khéo quán sát. Biết tất cả pháp, đều là tự tâm mà chẳng chấp trước. Biết như vậy rồi, nhập vào địa vị Bồ Tát mà khéo an trụ.

Lại nói tiếp. Ðệ tử của Phật ! Tất cả Bồ Tát lúc ban đầu trụ Thập Địa thì nên khéo quán sát tất cả cảnh giới. Phải tùy thuận hết thảy tám vạn bốn ngàn pháp môn. Lại phải tùy thuận hết thảy trí huệ thâm sâu của mười phương chư Phật. Lại phải tùy thuận nhân tu hành của mười phương chư Phật. Lại phải tùy thuận sự chứng quả của mười phương chư Phật. Lại phải tùy thuận cảnh giới đắc được của mười phương chư Phật. Lại phải tùy thuận lực dụng đắc được của mười phương chư Phật. Lại phải tùy thuận sự thị hiện của mười phương chư Phật. Lại phải tùy thuận sự phân biệt của mười phương chư Phật. Lại phải tùy thuận sở đắc của mười phương chư Phật. Hoàn toàn khéo quán sát, biết hết thảy tất cả các pháp, chẳng lìa tự tâm. Vì chẳng lìa tự tâm, cho nên chẳng có chấp trước. Bồ Tát biết các pháp thật tướng như vậy rồi, thì sẽ đắc được thập địa, có thể an trụ vào địa vị của thập địa.

Phật tử ! Các Bồ Tát đó suy gẫm như vầy: Chúng ta hãy mau nhập vào các địa. Tại sao ? Vì nếu chúng ta trụ ở trong các địa, thì sẽ thành tựu công đức rộng lớn như vậy. Đầy đủ công đức rồi, dần dần sẽ nhập vào Phật địa. Trụ ở Phật địa rồi, sẽ làm vô biên Phật sự rộng lớn. Do đó phải nên thường siêng tu tập, chẳng có ngừng nghỉ, chẳng có mỏi nhàm. Dùng đại công đức để tự trang nghiêm, nhập vào địa vị Bồ Tát.

Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng đệ tử của Phật ! Những vị đại Bồ Tát đó đều hay suy gẫm như vầy: ‘’Chúng ta hãy mau chứng nhập vào địa vị Thập Địa. Tại sao ? Vì nếu chúng ta trụ ở trong các địa, thì sẽ thành tựu công đức rộng lớn của chư Phật. Ðầy đủ công đức rồi, thì dần dần sẽ nhập vào quả vị Phật địa. Trụ nơi Phật địa rồi, thì sẽ làm vô biên Phật sự rộng lớn. Do nguyên nhân đó, cho nên chúng ta phải nên thường siêng tu tập. Không được nghỉ ngơi, không được mệt mỏi. Dùng đại công đức của chư Phật để làm trang nghiêm cho mình, thì sẽ nhập vào địa vị của Bồ Tát.’’

Phật tử ! Có mười pháp khiến cho các Bồ Tát sở hành thanh tịnh. Những gì là mười ? Một là xả bỏ tiền tài vật chất, mãn nguyện ý chúng sinh. Hai là trì giới thanh tịnh, chẳng có hủy phạm. Ba là nhu hòa nhẫn nhục chẳng cùng tận. Bốn là siêng tu các hạnh, vĩnh viễn chẳng thối chuyển. Năm là dùng sức chánh niệm, tâm chẳng mê loạn. Sáu là phân biệt biết rõ vô lượng các pháp. Bảy là tu tất cả các hạnh mà chẳng chấp trước. Tám là tâm chẳng lay động giống như núi chúa. Chín là rộng độ chúng sinh, giống như cây cầu. Mười là biết tất cả chúng sinh đồng một thể tánh với các Như Lai.

Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng đệ tử của Phật ! Lại có mười pháp, hay khiến cho tất cả Bồ Tát hạnh môn tu hành đều được thanh tịnh. Những gì là mười pháp:
1). Xả bỏ tài vật, mãn nguyện ý chúng sinh: Bồ Tát đem tất cả tài sản bố thí cho chúng sinh, thậm chí nội tài đầu mắt tủy não hoặc ngoại tài đất nước vợ con đều đem bố thí hết. Hành Bồ Tát đạo là hy sinh tất cả, mãn nguyện ý của chúng sinh, được như thế thì sẽ được thanh tịnh.
2). Trì giới thanh tịnh, chẳng có hủy phạm: Bồ Tát đã thọ giới rồi, thì nhất định phải giữ gìn, vĩnh viễn chẳng hủy phạm. Y giới tu hành thì mới được ba nghiệp thanh tịnh.
3). Nhu hòa nhẫn nhục, chẳng có cùng tận: Bồ Tát tu pháp môn nhẫn nhục, hay nhẫn nhục thì nhu hòa, chẳng nóng giận với chúng sinh. Tu nhu hòa nhẫn nhục thì chẳng có lúc nào hết được. Nhu là nhu nhuyến, hòa là hòa khí. Do đó :

‘’Nhu hay thắng cương
Nhược hay thắng cường.’’

Dùng từ bi nhu hòa để cảm hóa chúng sinh cang cường, khiến cho chúng sinh bỏ mê về giác. Nhẫn là nhẫn nại, nhục là nhịn nhục. Phải nhịn nhục nhẫn nại, giống như có người mắng bạn, hoặc đánh bạn thì đều phải nhẫn chịu, Do đó : ‘’Nghịch đến thuận thọ.’’ Thậm chí có người đến phỉ báng bạn, hoặc phá hoại danh dự của bạn, đều phải tu nhẫn nhục Ba La Mật, phải xem họ là thiện tri thức.
4). Siêng tu các hạnh, vĩnh viễn chẳng thối chuyển: Bồ Tát siêng tu giới định huệ, diệt trừ tham sân si. Siêng năng tu tập đủ thứ hạnh môn, tinh tấn lại tinh tấn, vĩnh viễn chẳng thối chuyển.
5). Dùng sức chánh niệm, tâm chẳng mê loạn: Bồ Tát tu pháp môn thiền định (sức chánh niệm). Có định lực rồi thì tâm chẳng điên đảo, cũng chẳng mê loạn. Gặp cảnh giới thì phân tích rõ ràng, chẳng bị cảnh giới chuyển, mà chuyển được cảnh giới, đây tức là công năng của sức chánh niệm.
6). Phân biệt biết rõ vô lượng các pháp: Bồ Tát tu pháp môn Bát Nhã. Dùng trí huệ Bát Nhã để phân biệt, để biết rõ đạo lý tất cả các pháp thật tướng. Ở trên là pháp môn lục độ, tu hành thanh tịnh thì đắc được cảnh giới Ba La Mật (đến bờ kia).
7). Tu tất cả hạnh mà chẳng chấp trước: Bồ Tát tu hành tất cả hạnh môn, cũng chẳng chấp trước nơi tất cả hạnh môn. Nếu trong tâm nghĩ ta tu pháp môn gì ? Thì đó là có chỗ chấp trước. Có chỗ chấp trước thì chẳng được giải thoát.
8). Tâm chẳng lay động, giống như núi chúa: Bồ Tát là như như bất động, liễu liễu thường minh. Giống như núi chúa Tu Di, tâm chẳng bị cảnh giới làm lay động.
9). Rộng độ chúng sinh, giống như kiều lương: Bồ Tát tu hành pháp thanh tịnh, tức là muốn độ khắp chúng sinh, lìa khổ được vui. Giống như cây cầu, lợi ích chúng sinh, từ bờ sinh tử bên này, đi đến bờ Niết Bàn bên kia.
10). Biết tất cả chúng sinh, đồng một thể tánh với các đức Như Lai: Bồ Tát biết chúng sinh và chư Phật là một thể. Do đó :

‘’Tâm, Phật, chúng sinh, cả ba chẳng khác nhau.’’

Vì chúng sinh một niệm vô minh liền mê hoặc, luân chuyển ở trong luân hồi mà chẳng dừng lại. Phật là bậc Thánh nhân chẳng mê hoặc, cho nên thoát khỏi ba cõi, chẳng sinh chẳng diệt, pháp thân vĩnh viễn tồn tại. Do đó :

‘’Ngộ là Phật, mê là chúng sinh.’’

Mười pháp này người tu hành phải tu, người người tu thành công thì người người cũng đều thành Phật.

Phật tử ! Đó là mười pháp, khiến cho các Bồ Tát sở hành thanh tịnh.

Ðệ tử của Phật ! Mười pháp này hay khiến cho tất cả Bồ Tát sở tu hành đều đắc được thanh tịnh.

Bồ Tát đắc được hạnh thanh tịnh rồi, lại đắc được mười pháp tăng thêm thù thắng. Những gì là mười ? Một là chư Phật phương khác thảy đều hộ niệm. Hai là căn lành tăng trưởng thù thắng, vượt qua các bậc khác. Ba là khéo hay lãnh thọ, lực gia trì của Phật. Bốn là thường được thiện nhân làm chỗ nương tựa. Năm là an trụ tinh tấn, luôn chẳng phóng dật. Sáu là biết tất cả pháp, bình đẳng không khác. Bảy là tâm luôn an trụ, vô thượng đại bi. Tám là như thật quán pháp, sinh ra trí huệ vi diệu. Chín là hay khéo tu hành, phương tiện khéo léo. Mười là biết được sức phương tiện của Như Lai.

Bồ Tát phát tâm bồ đề, tức nhiên đắc được hạnh thanh tịnh rồi, lại đắc được mười pháp tăng thêm thù thắng. Những gì là mười pháp tăng thêm thù thắng ?
1). Chư Phật phương khác, thảy đều hộ niệm: Mười phương chư Phật, đều hộ niệm gia trì vị Bồ Tát phát tâm bồ đề đó.
2). Căn lành tăng trưởng thù thắng, vượt qua các bậc khác: Bồ Tát ban đầu phát tâm bồ đề đắc được thanh tịnh rồi, thì căn lành sẽ tăng trưởng. Chẳng những tăng trưởng mà còn thù thắng, cho đến vượt qua hết thảy địa vị của Bồ Tát khác. Do đó : ‘’Ban đầu phát tâm bồ đề, liền thành chánh giác.’’
3). Khéo hay lãnh thọ sức gia trì của Phật: Bồ Tát đắc được pháp tăng thắng, thì khéo hay lãnh thọ sức gia trì của chư Phật. Nghĩa là trong tâm chẳng lay động, chẳng hoan hỷ chẳng bi ai, dùng định lực tam muội để tiếp thọ thần lực gia trì của chư Phật.
Chúng ta người học Phật, hoặc ngồi thiền, hoặc niệm Phật, hoặc tụng kinh, hoặc trì chú ? Lúc đó cảm thấy đầu tóc của mình giống như bị gió thổi động. Hoặc cảm giác trên đầu có con gì bò, nếu có sự cảm giác như thế, thì đó là chư Phật dùng tay để rờ đầu của bạn, khiến cho bạn thoát khỏi được ba cõi. Tóm lại, công phu tu hành đến cực điểm thì sẽ được chư Phật Bồ Tát đến gia trì, ban cho một sức lực mà đắc được trí huệ hơn người.
4). Thường được thiện nhân làm chỗ nương tựa: Bồ Tát luôn luôn được thiện trí thức làm chỗ nương tựa, làm chỗ cậy nhờ. Giống như trẻ con nương tựa cha mẹ bảo hộ thì được sự an toàn.
5). An trụ tinh tấn luôn chẳng phóng dật: Bồ Tát thì giữ giới luật, tuyệt đối chẳng phạm quy cụ. Ngài an trụ trong sự tinh tấn, thân tinh tấn, tâm tinh tấn, chẳng giải đãi phóng dật.
6). Biết tất cả pháp, bình đẳng không khác: Bồ Tát biết tất cả pháp, tuy nhiên chẳng giống, nhưng bản thể bình đẳng, chẳng có hai dạng.
7). Tâm luôn an trụ vô thượng đại bi: Tâm của Bồ Tát, thường an trụ ở vô thượng đại bi để cứu khổ tất cả chúng sinh. Do đó : ‘’Ðồng thể đại bi.’’ Bồ Tát có tư tưởng như vầy, chúng sinh thọ khổ, giống như chính mình đang thọ khổ.
8). Như thật quán sát, sinh ra trí huệ vi diệu: Bồ Tát thường suy gẫm thường quán sát đạo lý thật tướng của các pháp, cho nên hay sinh ra trí huệ vi diệu.
9). Hay khéo tu hành phương tiện khéo léo: Bồ Tát có đủ thứ sức lực tăng thêm thù thắng, lại hay khéo tu hành, tu hành diệu pháp phương tiện khéo léo.
10). Hay biết sức phương tiện của Như Lai: Bồ Tát hay biết hết thảy sức phương tiện của chư Phật.

Phật tử ! Đó là mười pháp tăng thêm thù thắng của Bồ Tát.

Ðệ tử của Phật ! Ðó là mười pháp tăng thắng của Bồ Tát. Có nhân hạnh thanh tịnh thì sẽ được quả thắng pháp. Tức là: Tha lực thắng, tự thiện thắng, thâm định thắng, đồng hạnh thắng, trợ đạo thắng, chân trí thắng, ý lạc thắng, quán huệ thắng, tu hành thắng, tăng tấn thắng, mười thứ pháp tăng thắng.

Phật tử ! Bồ Tát có mười nguyện thanh tịnh. Những gì là mười ? Một là nguyện thành thục chúng sinh, chẳng có mỏi nhàm. Hai là nguyện làm đầy đủ các điều thiện, để thanh tịnh các thế giới. Ba là nguyện thừa sự Như Lai, thường sinh tôn trọng. Bốn là nguyện hộ trì chánh pháp, chẳng tiếc thân mạng. Năm là nguyện dùng trí quán sát, nhập vào các cõi nước chư Phật. Sáu là nguyện đồng một thể tánh với các Bồ Tát. Bảy là nguyện vào nhà Như Lai, thấu rõ tất cả pháp. Tám là kẻ thấy liền sinh niềm tin, đắc được lợi ích. Chín là nguyện thần lực trụ thế hết kiếp vị lai. Mười là nguyện đầy đủ hạnh Phổ Hiền, tịnh trị môn nhất thiết chủng trí.

Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng đệ tử của Phật ! Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, nên phát mười đại nguyện thanh tịnh này. Mười đại nguyện thanh tịnh này, chẳng những Bồ Tát phải phát, mà chúng ta cũng phải phát. Nếu viên mãn mười đại nguyện thanh tịnh này, tức là thành tựu quả vị Bồ Tát.
Hết thảy chúng sinh, phải phát mười nguyện thanh tịnh này, cảm thấy đúng tâm ý thì có thể phát nguyện. Vì nguyên nhân này, cho nên phải giảng kinh, phải nghe kinh, phải tụng kinh. Nếu chỉ phát nguyện mà chẳng tu hành, thì chẳng ích gì. Ðừng nghĩ như vầy: Ðây là nguyện của Bồ Tát phát, chẳng có quan hệ gì với chúng ta. Vậy chúng ta đại khái không cần giảng kinh, không cần nghe kinh, không cần tụng kinh. Tại sao ? Ngược lại kinh điển chẳng có quan hệ gì với chúng ta. Tư tưởng này sai lầm lại càng sai lầm ! Vì nguyện của Bồ Tát, ai ai cũng nên phát, ai ai cũng nên hành, cho nên chúng ta phải giảng kinh, phải nghe kinh, phải tụng kinh điển, phải nghiên cứu kinh điển, sau đó y theo pháp tu hành, mới đắc được tự tại giải thoát. Do đó, chúng ta cũng phải phát mười điều nguyện thanh tịnh này, thì mới trở thành Bồ Tát lỗi lạc phi phàm xuất chúng. Những gì là mười điều nguyện thanh tịnh ? Tức là:
1). Nguyện thành thục chúng sinh, chẳng có mỏi nhàm: Phát nguyện độ thoát chúng sinh, Do đó : ‘’Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.’’ Khiến cho chúng sinh căn lành thành thục, thì thành tựu vô thượng bồ đề. Công tác này tuy là khó khăn, nhưng Bồ Tát cũng chẳng mõi nhàm. Do đó : ‘’Chịu nhọc chịu oán,’’ chẳng cảm thấy là việc khổ nhọc.
2). Nguyện làm đầy đủ các việc thiện, thanh tịnh các thế giới: Phát nguyện làm đủ thứ việc lành, dùng công đức lành để trang nghiêm các thế giới, khiến cho tất cả thế giới cũng thanh tịnh.
3). Nguyện thừa sự Như Lai, thường sinh tôn trọng: Phát nguyện thừa sự chư Phật. Lúc nào cũng sinh tâm tôn trọng chư Phật.
4). Nguyện hộ trì chánh pháp chẳng tiếc thân mạng: Phát nguyện muốn hộ trì tất cả chánh pháp, phàm là có người hoằng dương Phật pháp, thì chúng ta đều nên hộ trì. Vì hộ trì chánh pháp, dù hy sinh thân mạng cũng chẳng tiếc. Do đó : ‘’Vì pháp quên mình,’’ tinh thần như thế thật là vĩ đại !
5). Nguyện dùng trí quán sát, nhập vào cõi nước chư Phật: Phát nguyện dùng trí huệ để quán sát mười phương cõi nước chư Phật. Quán sát nên đi đến cõi nước nào để giúp Phật giáo hóa chúng sinh ? Thì đi đến cõi đó.
6). Nguyện đồng một thể tánh với các Bồ Tát: Phát nguyện đồng một nguyện, đồng một tâm, đồng một thể, đồng một tánh, với mười phương các Bồ Tát. Tức cũng là đồng một pháp thân.
7). Nguyện vào nhà Như Lai, biết rõ tất cả pháp: Phát nguyện vào nhà của Như Lai, mặc y Như Lai, ngồi tòa Như Lai, thấu rõ pháp của Như Lai, tu hành đạo của Như Lai.
8). Nguyện kẻ thấy bèn sinh niềm tin, được lợi ích: Phát nguyện phàm là chúng sinh thấy được Bồ Tát, đều sinh tín ngưỡng, phát tâm bồ đề. Chẳng có một chúng sinh nào mà chẳng đắc được lợi ích. Lợi ích gì ? Tức là lợi ích dứt trừ phiền não chứng bồ đề.
9). Nguyện thần lực trụ thế, hết kiếp vị lai: Phát nguyện muốn có sức thần thông, thường trụ thế gian, giáo hóa chúng sinh. Hết thuở vị lai để bảo hộ chúng sinh. Dùng sức thần thông khiến cho chúng sinh bỏ trần hợp giác, thoát khỏi biển khổ, đắc được an lạc.
10). Nguyện đầy đủ hạnh Phổ Hiền, tịnh trị môn nhất thiết chủng trí: Phát nguyện đầy đủ mười đại nguyện vương của Phổ Hiền:
– Một là lễ kính chư Phật.
– Hai là xưng tán Như Lai.
– Ba là rộng tu cúng dường.
– Bốn là sám hối nghiệp chướng.
– Năm là tùy hỷ công đức.
– Sáu là thỉnh chuyển pháp luân.
– Bảy là thỉnh Phật trụ thế.
– Tám là thường tùy Phật học.
– Chín là hằng thuận chúng sinh.
– Mười là phổ giai hồi hướng.
Tu hành hạnh thanh tịnh để đối trị tất cả phiền não, thành tựu môn nhất thiết chủng trí.

Phật tử ! Đó là mười điều nguyện thanh tịnh của Bồ Tát.

Ðệ tử của Phật ! Mười điều nguyện vừa nói ở trước:
– Một là vì thành thục nguyện của chúng sinh.
– Hai là vì thanh tịnh cõi nước chư Phật.
– Ba là nguyện cúng dường chư Phật.
– Bốn là nguyện hộ trì chánh pháp.
– Năm là nguyện thừa sự chư Phật.
– Sáu là nguyện đồng căn lành với Bồ Tát.
– Bảy là nguyện nhiếp pháp là thượng thủ.
– Tám là nguyện ba nghiệp chẳng không.
– Chín là nguyện tu đầy đủ vạn hạnh.
– Mười là nguyện thành Chánh Giác.
Ðó là mười điều nguyện thanh tịnh của Bồ Tát pháp. Chúng ta hiện tại nghe được mười điều nguyện này cũng phải phát mười điều nguyện này. Do đó : ‘’Nguyện ra sao thì quả như vậy.’’ Bồ Tát tu hạnh thanh tịnh, phát nguyện thanh tịnh, thành tựu quả thanh tịnh. Chúng ta phải hướng về Bồ Tát nhìn cho bằng Bồ Tát, do đó : ‘’Thấy bậc hiền thì nghĩ làm cho bằng họ,’’ chuyên tâm học tập tinh thần của Bồ Tát.

Phật tử ! Bồ Tát trụ mười pháp, khiến cho các đại nguyện đều được viên mãn. Những gì là mười ? Một là tâm chẳng nhàm mỏi. Hai là đủ đại trang nghiêm. Ba là niệm nguyện lực thù thắng của các Bồ Tát. Bốn là nghe cõi nước chư Phật thì nguyện vãng sinh. Năm là thâm tâm lâu dài hết kiếp vị lai. Sáu là nguyện tất thành tựu tất cả chúng sinh. Bảy là trụ tất cả kiếp, chẳng cho rằng nhọc. Tám là thọ tất cả khổ, chẳng sinh nhàm lìa. Chín là nơi tất cả vui sướng, tâm chẳng chấp trước. Mười là thường siêng thủ hộ pháp môn vô thượng.

Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng đệ tử của Phật ! Bồ Tát phát tâm bồ đề, phải thường trụ ở mười pháp này, thì mới khiến cho nguyện đã phát ra đều được viên mãn. Những gì là mười pháp ? Tức là:
1). Tâm chẳng nhàm mỏi: Tâm của Bồ Tát dũng mãnh tinh tấn, đối với tất cả pháp chẳng sinh nhàm mỏi, chẳng sinh phiền não. Phật pháp tuy rộng như biển cả, nhưng lần lượt tu hành tiến dần tiến dần, thì công đáo tự nhiên thành. Không thể một ngày nóng mười ngày lạnh, không thể thấy khác nghĩ lệch. Hai thứ tư tưởng này là đá cột chân người tu hành, nếu có những tư tưởng này thì vĩnh viễn cũng không thể thành tựu.
Hiện tại có người khởi vọng tưởng: Phật pháp có tám vạn bốn ngàn pháp môn, lúc nào mới có thể tu hết ? Khi ý niệm này sinh ra thì sẽ sinh nhàm chán đối với Phật pháp. Người học Phật phải vào sâu tạng kinh, trí huệ như biển. Có trí huệ rồi thì một thông tất cả đều thông. Không thể cho rằng Phật pháp như biển cả mà sinh tâm thối chuyển, đó chẳng phải là hành vi của người tu hành. Ðừng có tư tưởng như vầy: ‘’Tôi học Phật nhiều năm, ngày ngày nghiên cứu Phật pháp, hằng ngày nghe kinh nghe pháp, song chẳng đắc được lợi ích.’’ Bạn đã đắc được năm sự lợi ích mà chính bạn vẫn không biết.
– Lợi ích thứ nhất là bạn ở chùa Kim Sơn học tập Phật pháp, chẳng thể đi ra ngoài giết người phóng lửa. Ở trong danh sách phạm tội chẳng có tên của bạn, đây chẳng phải là điều lợi ích chăng ?
– Lợi ích thứ hai là bạn ở chùa Kim Sơn nghiên cứu Phật pháp, chẳng thể đi ra ngoài trộm cắp, ở trong danh sách tội phạm chẳng có tên của bạn, đây chẳng phải là điều lợi ích chăng ?
– Ðiều lợi thứ ba là bạn ở chùa Kim Sơn tham thiền đả tọa, chẳng thể đi ra ngoài hành dâm dục, hoặc cưỡng hiếp, trong danh sách tội phạm chẳng có tên của bạn, đây chẳng phải là lợi ích chăng ?
– Ðiều lợi thứ tư là bạn ở chùa Kim Sơn niệm Phật lạy Phật, chẳng thể đi ra ngoài nói dối lường gạt người, trong danh sách tội phạm chẳng có tên của bạn, đây chẳng phải là lợi ích chăng ?
– Ðiều lợi thứ năm là bạn ở chùa Kim Sơn phiên dịch kinh điển, hoặc duyệt lại kinh điển, chẳng thể đi ra ngoài uống rượu hoặc hút độc, trong danh sách tội phạm chẳng có tên của bạn, đây chẳng phải là lợi ích chăng ?
Thân nghiệp của bạn cũng thanh tịnh, khẩu nghiệp của bạn cũng thanh tịnh. Nếu chẳng tham, chẳng sân, chẳng si, thì ý nghiệp cũng thanh tịnh. Ba nghiệp thanh tịnh, đây chẳng phải là ích lợi của sự học Phật pháp chăng ? Song, nếu chẳng học tập Phật pháp thì thân dễ phạm sát sinh, trộm cắp, tà dâm, ba điều ác; miệng dễ phạm nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, nói chửi mắng, bốn điều ác; ý thì dễ phạm tham, sân, si, ba điều ác. Ba nghiệp nếu chẳng thanh tịnh, nhẹ thì gia đình chẳng hòa thuận, nặng thì xã hội chẳng an ninh, phạm mười điều tội ác thì bị tòa án phạt hoặc bắt bỏ vào tù, thọ khổ vô tận. Lúc đó sám hối cũng chẳng kịp nữa. Học tập Phật pháp, giữ gìn năm giới thì những tai nạn đó đều chẳng có, đây chẳng phải là ích lợi chăng ?
2). Ðủ đại trang nghiêm: Người học Phật pháp, lấy sự trang nghiêm của chư Phật để tự trang nghiêm, lấy sự trang nghiêm của Bồ Tát để tự trang nghiêm, lấy sự trang nghiêm của A la hán để tự trang nghiêm. Chúng ta trang nghiêm và Thánh nhân trang nghiêm, lâu dần trở thành giống nhau không khác, cho nên nói đầy đủ sự trang nghiêm rộng lớn.
3). Niệm nguyện lực thù thắng của các Bồ Tát: Ðừng quên niệm nguyện lực thù thắng của các Bồ Tát đã phát ra. Như vậy thì nguyện lực của bạn cũng sẽ viên mãn. Nguyện của Bồ Tát phát, là nguyện độ tất cả chúng sinh, nguyện thành Phật đạo. Nguyện vì chúng sinh thọ khổ, nguyện thọ nhận sự chưởi mắng của chúng sinh, nguyện tiếp thọ sự phỉ báng của chúng sinh, đó là nguyện lực thù thắng của Bồ Tát. Bồ Tát là chúng sinh trong quá khứ phát tâm bồ đề. Chúng ta là Bồ Tát hiện tại phát tâm bồ đề. Chúng sinh vị lai phát tâm bồ đề thì đều là Bồ Tát. Tóm lại, chúng sinh quá khứ phát tâm bồ đề là Bồ Tát, chúng sinh hiện tại phát tâm bồ đề là Bồ Tát, chúng sinh vị lai phát tâm bồ đề là Bồ Tát, cho nên ai ai cũng đều có thể làm Bồ Tát. Việc của Bồ Tát muốn làm thì phàm phu đều chẳng muốn làm. Tại sao ? Vì tư tưởng của Bồ Tát là lợi tha, tư tưởng của phàm phu là lợi mình, cho nên tương phản với nhau. Phàm phu thì tham, Bồ Tát thì chẳng tham; phàm phu thì sân, Bồ Tát thì chẳng sân; phàm phu thì si, Bồ Tát thì chẳng si. Bồ Tát tiêu trừ tham sân si, tu hành viên mãn thành tựu giới định huệ, cho nên đây là nguyện lực thù thắng của Bồ Tát. Nguyện lực của Bồ Tát là muốn thọ khổ thay thế cho chúng sinh. Chúng ta chúng sinh có chịu vì chúng sinh thọ khổ như thế chăng ? Ai có tinh thần hy sinh như thế, có thể nói là ‘’đuôi phụng sừng lân,’’ hiếm lại càng hiếm. Bồ Tát là chúng sinh ngốc nhất. Tại sao lại nói như thế ? Vì Bồ Tát có tinh thần vì người mà chẳng vì mình, nơi nơi đều chịu thiệt thòi, chẳng muốn chiếm tiện nghi. Ðây là biểu hiện chẳng ích kỷ lợi mình. Bồ Tát muốn xả mình vì người, chẳng vì mình mà tính toán. Vì kẻ khác mà quên đi chính mình, ai làm được trình độ như thế, thì người đó là Bồ Tát. Người tu hành chẳng phát tâm bồ đề, thì vĩnh viễn là chúng sinh. Do đó, có thể thấy đây là sự khác biệt giữa chúng sinh và Bồ Tát, tức là quan hệ giữa sự phát tâm bồ đề. Nói tóm lại, phát tâm bồ đề là Bồ Tát, phát nghiệp tâm là chúng sinh.
4). Nghe cõi nước của chư Phật thì đều nguyện vãng sinh: Nếu muốn viên mãn tất cả nguyện, khi nghe được cõi nước của mười phương chư Phật, thì hoàn toàn nguyện vãng sinh. Tại sao ? Vì Bồ Tát muốn gần gũi chư Phật, học tập pháp của chư Phật nói, tăng trưởng trí huệ, tương lai vì giáo hoá chúng sinh, làm thức ăn tinh thần.
5). Thâm tâm lâu dài, hết kiếp vị lai: Phải phát tâm tin Phật pháp sâu xa, trải qua thời gian lâu dài, hết kiếp vị lai cũng chẳng thối tâm. Dùng tâm tin sâu và đại nguyện để học tập Phật pháp.
6). Nguyện đều thành tựu tất cả chúng sinh: Chúng sinh có mong cầu gì, thì Bồ Tát đều làm cho họ mãn nguyện. Chúng sinh cầu phú quý thì được phú quý, cầu sống lâu thì được sống lâu, cầu con cái thì được con cái, phàm là tất cả chúng sinh có sở cầu, thì Bồ Tát nhất định làm cho họ mãn nguyện. Ðây tức là tâm từ bi của Bồ Tát.
7). Trụ tất cả kiếp, chẳng cho rằng nhọc: Bồ Tát vì làm cho chúng sinh được mãn nguyện, mà trụ ở trong tất cả kiếp, trải qua thời gian lâu dài vô số kiếp, Ngài cũng chẳng cho rằng khổ nhọc. Do đó, ‘’chịu nhọc chịu oán.’’ Khiến cho chúng sinh đắc được an lạc, dù có nhảy vào dầu sôi lửa bỏng, Bồ Tát cũng cam tâm tình nguyện, chẳng khước từ.
8). Thọ tất cả khổ, chẳng sinh nhàm lìa: Bồ Tát nguyện thọ khổ thay thế cho chúng sinh. Tại sao ? Vì:

‘’Thọ khổ thì hết khổ
Hưởng phước thì hết phước.’’

Khổ phải thọ thì mới hết, nếu chẳng thọ khổ thì vĩnh viễn tồn tại. Nếu có phước báo mà cứ hưởng thọ, thì phước báo sẽ tiêu hao. Khi hưởng thọ hết phước báo, thì phải thọ khổ. Cho nên tư tưởng của Bồ Tát và chúng sinh trái ngược nhau. Bồ Tát thọ khổ thế cho chúng sinh, giống như chính mình thọ khổ, cho nên chẳng sinh tâm nhàm lìa.
9). Nơi tất cả vui, tâm chẳng tham trước: Bồ Tát phát tâm bồ đề, đối với hết thảy tất cả cảnh giới an vui, trong tâm chẳng tham trước, đem tất cả sự an vui hồi hướng cho pháp giới tất cả chúng sinh.
Các vị hãy xem ! Bồ Tát phát tâm đều vì trợ giúp chúng sinh, quên đi chính mình. Tuy trợ giúp kẻ khác mà chẳng có tâm xí đồ. Các vị ! Ai chịu đi trợ giúp chúng sinh mà quên đi chính mình, đây tức là tâm từ bi của Bồ Tát. Nếu quên mình đi chẳng được, chẳng chịu đi trợ giúp chúng sinh, đây tức là chúng sinh ích kỷ. Mình hãy tự hỏi mình, là Bồ Tát chăng ? Hay là chúng sinh ? Tự mình phản tỉnh mình sẽ biết. Tóm lại, đối với tất cả sự việc chẳng tham trước, đối với tất cả khổ chẳng nhàm lìa thì gọi là Bồ Tát.
10). Thường siêng thủ hộ, pháp môn vô thượng: Trách nhiệm của Bồ Tát là hộ trì Phật Pháp Tăng Tam Bảo, thường thường siêng năng thủ hộ pháp môn vô thượng.

Phật tử ! Khi Bồ Tát đầy đủ nguyện như vậy, thì liền đắc được mười tạng vô tận. Những gì là mười ? Đó là: Tạng vô tận khắp thấy chư Phật. Tạng vô tận tổng trì chẳng quên. Tạng vô tận quyết rõ các pháp. Tạng vô tận đại bi cứu hộ. Tạng vô tận đủ thứ tam muội. Tạng vô tận mãn tâm chúng sinh phước đức rộng lớn. Tạng vô tận diễn nói tất cả pháp trí huệ thâm sâu. Tạng vô tận báo được thần thông. Tạng vô tận trụ vô lượng kiếp. Tạng vô tận vào vô biên thế giới.

Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng đệ tử của Phật ! Khi Bồ Tát trụ ở mười pháp, hay đầy đủ mười đại nguyện thanh tịnh đã phát ra, thì liền được mười thứ tạng vô tận, tức là bảo tạng chẳng có cùng tận. Do đó : ‘’Ðức rộng lớn vô cùng là vô tận, đức bao hàm vô tận là tạng – Trí huệ rộng lớn, bao hàm các pháp là tạng.’’ Tóm lại, kinh điển bao hàm uẩn tích văn nghĩa là tạng. Những gì là mười tạng vô tận ?
1). Tạng vô tận thấy khắp chư Phật: Thấy được khắp hết thảy chư Phật, thấy xong vị Phật này, lại thấy vị Phật kia, luôn luôn thấy Phật, luôn luôn nghe pháp mà chẳng cùng tận.
2). Tạng vô tận tổng trì chẳng quên: Ðà la ni dịch là tổng trì, tức cũng là chân ngôn (thần chú). Tổng trì tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa, đây là pháp tổng trì. Do đó :

‘’Tổng thân miệng ý ba nghiệp thanh tịnh
Trì giới định huệ ba học viên minh.’’

Chẳng quên tức là học tập tất cả Phật pháp, hay thọ trì, hay đọc tụng thì vĩnh viễn chẳng quên vô lượng tạng pháp của chư Phật nói.
3). Tạng vô tận quyết rõ các pháp: Quyết định hiểu rõ tất cả các pháp, bất cứ có bao nhiêu pháp môn, đều minh bạch hết.
4). Vô tận tạng đại bi cứu hộ: Minh bạch tất cả các pháp, phải có tâm đại bi cứu hộ tất cả chúng sinh lìa khổ được vui, khiến cho chúng sinh chấm dứt sinh tử.
5). Tạng vô tận đủ thứ tam muội: Tam muội tức là định. Ðịnh có chín định thứ lớp, tức là tứ thiền, tứ không, diệt thọ tưởng định (diệt hết hai uẩn thọ tưởng). Tam muội có nhiều vô lượng vô biên, cho nên nói là tạng vô tận.
6). Tạng vô tận mãn tâm chúng sinh, phước đức rộng lớn: Tâm của chúng sinh rất khó mãn túc, vì tham chẳng biết chán. Do đó : ‘’Chư Phật và Bồ Tát khó làm mãn nguyện chúng sinh.’’ Bồ Tát dùng phước đức rộng lớn để thỏa mãn tâm chúng sinh, khiến cho chúng sinh toại tâm mãn mguyện, đầy đủ tất cả sự việc mong cầu.
7). Tạng vô tận diễn nói tất cả pháp, trí huệ thâm sâu: Diễn nói pháp của mười phương chư Phật nói, có thể một nghĩa lý diễn nói thành vô lượng nghĩa lý; và vô lượng nghĩa lý quy về một nghĩa lý. Có trí huệ thâm sâu, thì mới có biện tài vô ngại.
8). Tạng vô tận báo được thần thông: Thần thông mà có là do đời này tu mà đắc được, cũng có khi đời trước tu hành mà được. Tu đắc được thần thông tức là đời này tinh tấn tu hành, lâu dần thì sẽ đắc được thần thông. Báo đắc được thần thông, tức là sự tu hành của đời trước vẫn chưa quên mất, đời này nhân duyên chín mùi nên đắc được thần thông. Hai thứ thần thông này vô cùng vô tận. Hết thảy chúng ta phải thật tâm mà tu hành (tham thiền), thì đều sẽ đắc được thần thông, khai mở đại trí huệ. Tại sao chúng ta chẳng có thần thông ? Vì vọng tưởng quá nhiều, tâm chẳng chuyên nhất, cho nên tu chẳng có thần thông.
9). Tạng vô tận trụ vô lượng kiếp: Bồ Tát trong vô lượng kiếp, trụ ở trên thế gian để giáo hóa chúng sinh, độ thoát chúng sinh, chẳng cảm thấy thời gian quá dài, cho nên đắc được tạng vô tận này.
10). Tạng vô tận nhập vào vô biên thế giới: Bồ Tát phát đại nguyện, nguyện đi đến hết thảy thế giới để cúng dường chư Phật, giáo hóa chúng sinh. Chỉ cần nơi nào có chúng sinh, thì Bồ Tát đều đi đến độ thoát họ thoát khỏi ba cõi. Vì chúng sinh trôi nổi ở trong biển khổ, cần chư Phật Bồ Tát từ bi đến cứu độ, cho nên Bồ Tát Quán Thế Âm nương thuyền từ bi trở lại thế giới Ta Bà, để cứu chúng sinh thọ khổ thọ nạn.

Phật tử ! Đó là mười tạng vô tận của Bồ Tát.

Ðệ tử của Phật ! Ðó là mười tạng vô tận của Bồ Tát. Trong bổn Kinh phẩm thứ hai mươi hai, Bồ Tát Công Ðức Lâm nói mười tạng vô tận là: Tín tạng, giới tạng, tàm tạng, quý tạng, văn tạng, thí tạng, huệ tạng, niệm tạng, trì tạng, biện tạng, chẳng giống với mười tạng vô tận này.

Bồ Tát được mười tạng này rồi, thì phước đức đầy đủ, trí huệ thanh tịnh. Đối với các chúng sinh tùy thuận chúng sinh, đáng được giáo hóa mà vì họ nói pháp.

Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, đắc được mười tạng vô tận này rồi, thì phước và đức đều đầy đủ trang nghiêm, đắc được trí huệ tối thượng thanh tịnh. Ðối với tất cả chúng sinh, tùy theo chúng sinh đáng được giáo hóa, mà vì họ nói pháp. Nghĩa là đáng dùng thân Phật độ được, liền hiện ra thân Phật để vì họ nói pháp, đáng dùng thân Bồ Tát độ được, liền hiện ra thân Bồ Tát để vì họ nói pháp; đáng dùng thân A La Hán độ được, liền hiện ra thân A La Hán để vì họ nói pháp; đáng dùng thân Tỳ Kheo, hoặc Tỳ Kheo Ni độ được, liền hiện ra thân Tỳ Kheo, hoặc Tỳ Kheo Ni để vì họ nói pháp; đáng dùng thân Ưu bà tắc (cư sĩ nam) hoặc Ưu bà di (cư sĩ nữ) độ được, liền hiện ra thân Ưu bà tắc, hoặc Ưu bà di để vì họ nói pháp.

Phật tử ! Đối với các chúng sinh, Bồ Tát làm thế nào mà tùy thuận chúng sinh đáng được độ, để vì họ nói pháp ? Đó là: Biết việc của họ làm. Biết nhân duyên của họ. Biết tâm suy nghĩ của họ. Biết sự ưa thích của họ.

Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng đệ tử của Phật ! Ðối với tất cả chúng sinh, Bồ Tát làm thế nào mà tùy chúng sinh đáng được giáo hóa để vì họ nói pháp ? Bồ Tát phải biết nghiệp của chúng sinh tạo, phải thọ quả báo gì? Sau đó đối cơ của chúng sinh mà vì chúng sinh nói pháp. Bồ Tát phải biết tiền nhân hậu quả của chúng sinh, tất cả nhân duyên thành thục, hoặc chưa thành thục ? Phải biết sự suy nghĩ và sự hành động ở trong tâm của chúng sinh như thế nào ? Phải biết sự hoan hỷ và ưa thích ở trong tâm của chúng sinh là gì ? Minh bạch bốn tình hình này rồi đối với chúng sinh nói pháp mới có hiệu quả. Tức cũng là thấu rõ tâm lý của chúng sinh, mới dễ dẫn đến sự tín tâm. Do đó : ‘’Quán cơ đầu giáo,’’ tức cũng là vì người nói pháp. Tùy thời tùy lúc đều là cơ hội nói pháp. Bất quá phải có trí huệ chọn lựa, đối với kẻ lợi căn thì nói pháp Bát Nhã; đối với kẻ độ căn thì nói pháp nhân duyên.

Bồ Tát đối với người nhiều tham dục, thì vì họ nói pháp bất tịnh. Người nhiều sân hận, thì vì họ nói pháp đại bi. Người nhiều ngu si, thì vì họ dạy siêng tu quán sát. Người ba độc bằng nhau, thì vì họ nói pháp môn thành tựu trí huệ thù thắng. Người ưa sinh tử, thì vì họ nói ba thứ khổ. Nếu người chấp trước xứ sở, thì nói pháp hư không tịch. Người tâm giải đãi, thì nói đại tinh tấn. Người ngã mạn thì nói pháp bình đẳng. Người nhiều dua nịnh dối trá, thì vì họ nói tâm Bồ Tát ngay thẳng. Người ưa vắng lặng thì rộng vì họ nói pháp, khiến cho họ thành tựu. Bồ Tát tùy theo người đáng độ được, mà vì họ nói pháp như vậy.

Bồ Tát tùy thuận sự thời cơ của chúng sinh mà nói ra mười pháp dưới đây:
1). Ðối với chúng sinh nhiều tham dục, thì vì họ nói pháp quán bất tịnh. Quán thân mình bất tịnh:
– Một là nghĩ về sự chết
– Hai là quán sình lên.
– Ba là nghĩ về máu đọng ứ.
– Bốn là nghĩ về mủ hôi hám.
– Năm là nghĩ về hủy hoại.
– Sáu là nghĩ về máu chảy.
– Bảy là nghĩ về dòi, trùng ăn.
– Tám là nghĩ về cốt xương.
– Chín là nghĩ về tan hoại.
Ðây là chín sự quán tưởng bất tịnh. Hoặc là thường quán chín lỗ thường chảy ra đồ dơ dáy.

Lại quán thân bất tịnh là:
– Một là chủng tử bất tịnh.
– Hai là trụ xứ bất tịnh.
– Ba là tự tướng bất tịnh.
– Bốn là tự thể bất tịnh.
– Năm là cứu kính bất tịnh.
Hay tu quán như vậy thì chẳng còn tâm tham dục nữa. Ðây là một trong ngũ đình tâm quán. Ngũ đình tâm quán tức là:
– Một là quán bất tịnh.
– Hai là quán từ bi.
– Ba là quán nhân duyên.
– Bốn là quán giới phân biệt.
– Năm là quán sổ tức.
Quán bất tịnh đối trị bệnh tham dục. Quán từ bi đối trị bệnh nhiều sân hận. Quán nhân duyên đối trị bệnh ngu si. Quán giới phân biệt đối trị bệnh nhiều ngã kiến. Quán sổ tức đối trị bệnh nhiều tán loạn.
2). Ðối với chúng sinh nhiều sân hận, thì vì họ nói pháp quán từ bi. Thấy chúng sinh đáng thương mà ngừng lại tâm sân hận, phát khởi tâm đại bi, sẽ chẳng còn tâm sân hận.
3). Ðối với chúng sinh nhiều ngu si, thì vì họ nói pháp nhân duyên. Quán mười hai nhân duyên, tu hành pháp môn nhân quả báo ứng. Dứt vô minh thì sẽ hết sinh tử.
4). Ðối với chúng sinh tham sân si đồng đều, thì vì họ nói pháp thành tựu thắng trí, tức là làm thế nào để tu pháp môn trí huệ thù thắng.
5). Ðối với chúng sinh tham ưa sinh tử, thì vì họ nói pháp ba thứ khổ. Ba khổ là:
– Khổ khổ.
– Hoại khổ.
– Hành khổ.
Khổ khổ là khổ của người nghèo, hoại khổ là khổ của kẻ giàu, hành khổ là khổ của mọi người.
6). Ðối với chúng sinh chấp trước xứ sở, thì vì họ nói pháp hư không tịch. Xứ sở vốn là không, đừng chấp trước.
7). Ðối với chúng sinh tâm giải đãi, thì vì họ nói pháp đại tinh tấn. Khiến cho họ dụng công tu hành.
8). Ðối với chúng sinh cống cao ngã mạn thì vì họ nói pháp bình đẳng. Do đó :

‘’Pháp thì bình đẳng
Chẳng có cao thấp.’’

Không nên có tư tưởng và hành vi ngã mạn.
9). Ðối với chúng sinh dua nịnh dối trá, thì vì họ nói pháp về tâm Bồ Tát, là ngay thẳng, chẳng có cong vạy.
10). Ðối với chúng sinh hoan hỷ vắng lặng, thì vì họ rộng nói tất cả pháp, khiến cho họ thành tựu tam muội. Bồ Tát nên vì chúng sinh nói pháp như vậy.

Vì lúc nói pháp văn liên thuộc với nhau, nghĩa chẳng trái ngược. Quán sát pháp trước sau, dùng trí phân biệt. Thẩm định phải quấy, chẳng trái pháp ấn. Kiến lập thứ tự, vô biên hạnh môn. Khiến cho các chúng sinh dứt trừ tất cả nghi. Khéo biết các căn, nhập vào giáo lý của Như Lai. Chứng được chân thật tế, biết pháp bình đẳng. Dứt các pháp ái, trừ tất cả chấp. Thường niệm chư Phật, tâm chẳng tạm lìa. Biết rõ âm thanh thể tánh bình đẳng. Nơi các chân ngôn, tâm chẳng chấp trước. Khéo nói ví dụ, chẳng trái ngược nhau. Đều khiến cho được ngộ, tất cả chư Phật, tùy nghi khắp hiện trí thân bình đẳng.

Bồ Tát vì chúng sinh nói pháp, thì kinh văn trước sau phải quán thông với nhau, chẳng trái ngược. Ðạo lý nói ra chẳng có sai trái. Quán sát pháp trước sau, dùng trí huệ để phân biệt. Hoặc đúng hoặc chẳng đúng phải thẩm định, không thể trái với các pháp ấn thật tướng. Từng bước từng bước kiến lập vô biên pháp môn tu hành, khiến cho tất cả chúng sinh dứt trừ nghi hoặc từng chút từng chút. Khéo biết các căn của chứng sinh. Dùng pháp môn phương tiện khéo léo để giáo hóa, khiến cho nhập vào biển giáo lý của Như Lai, chứng được lý thể chân chánh thật tế. Biết tất cả pháp là bình đẳng, không nên phân biệt cao thấp. Dứt trừ tất cả pháp ái, tiêu trừ tất cả chấp trước. Phải luôn nhớ niệm tất cả chư Phật, trong tâm thời khắc chẳng quên chư Phật. Thấu rõ tất cả âm thanh, thể tánh của nó cũng là bình đẳng. Ðối với tất cả lời nói, tâm chẳng chấp trước. Khéo nói đủ thứ ví dụ, mà chẳng trái với nghĩa lý kinh văn. Hoàn toàn khiến cho tất cả chúng sinh, đều ngộ được nhân duyên tùy thuận chúng sinh của tất cả chư Phật, mà khắp thị hiện thân trí huệ bình đẳng.

Bồ Tát vì các chúng sinh mà diễn nói pháp như vậy. Tức tự mình tu tập, tăng trưởng nghĩa lý lợi ích. Chẳng xả bỏ các lục độ. Đầy đủ trang nghiêm đạo Ba La Mật.

Bồ Tát phát tâm bồ đề, thì vì chúng sinh nói pháp đáng nói, nghĩa là đối với chúng sinh tham dục nhiều, thì dạy họ tu quán bất tịnh. Ðối với chúng sinh sân hận nhiều, thì dạy họ quán từ bi. Ðối với chúng sinh ngu si nhiều, thì dạy họ quán nhân duyên. Dùng đủ thứ pháp môn phương tiện khéo léo, để vì chúng sinh nói pháp, dùng đủ thứ ví dụ để vì chúng sinh nói pháp. Khiến cho chúng sinh minh bạch đạo lý của pháp, y pháp tu hành. Do đó, Bồ Tát vì chúng sinh diễn nói diệu pháp. Bồ Tát là độ mình độ người, chẳng những vì chúng sinh nói pháp mà chính mình cũng tu tập, mới tăng trưởng nghĩa lý, đắc được trí huệ và lợi ích. Bồ Tát chẳng phải là khẩu đầu thiền, dạy người tu hành mà mình chẳng tu hành. Bồ Tát chẳng xả bỏ pháp môn lục độ vạn hạnh. Chẳng phải dạy người tu lục độ, còn mình thì chẳng tu lục độ. Dạy người bố thí cho mình, nhưng mình thì chẳng bố thí cho người. Bồ Tát tự mình tu bố thí, cũng dạy người khác tu bố thí, cho đến tự mình tu Bát Nhã, cũng dạy người tu Bát Nhã. Như vậy phước huệ đầy đủ, phước huệ trang nghiêm mà thành Phật đấng Lưỡng Túc. Bồ Tát cung hành thật tiễn, thân thể lực hành để tu Ba La Mật, tức cũng là pháp môn đến bờ kia.

Bấy giờ, Bồ Tát vì khiến cho tâm chúng sinh được đầy đủ, trong ngoài đều xả bỏ mà chẳng chấp trước, đó là thanh tịnh được bố thí Ba La Mật.

Lúc đó, vị Bồ Tát phát tâm hành Bồ Tát đạo, vì khiến cho tâm chúng sinh được đầy đủ. Nguyện của chúng sinh là mình được đầy đủ, nguyện của Bồ Tát là lợi ích chúng sinh. Chúng sinh có tư tưởng ích kỷ lợi mình, Bồ Tát thì có tư tưởng đại công vô tư. Chỗ khác nhau giữa Bồ Tát và chúng sinh là tại chỗ này. Bồ Tát minh bạch tâm lý của chúng sinh, do đó  :

‘’Muốn khiến vào trí Phật
Trước dùng câu dục móc.’’

Ví như, chúng sinh chẳng có cơm ăn, thì mang bát cơm đến cho họ. Chúng sinh chẳng có đồ mặc, thì mang đồ mặc đến cho họ. Chúng sinh đó cảm kích ân đức của bạn, mà sinh hảo cảm đối với bạn, làm người bạn tốt với bạn, trở thành ân nhân. Bạn đến chùa Kim Sơn nghe kinh Hoa Nghiêm, họ sẽ thọ ảnh hưởng của bạn, cũng sẽ đến chùa Kim Sơn nghe kinh Hoa Nghiêm. Nghe tới nghe lui, thì sẽ có cảm giác Phật pháp là pháp cứu đời, là đèn sáng của đêm tối, là con đường chân chánh mà phát tâm bồ đề, quy y Tam Bảo, trở thành Phật tử.
Ðây cũng là một bộ phận mãn tâm nguyện của chúng sinh. Bồ Tát có thể bên trong thì xả bỏ đầu mắt tủy não, bên ngoài thì xả bỏ đất nước vợ con. Trong ngoài đều xả được, một chút chấp trước cũng chẳng còn. Do đó :

‘’Xả được mới đắc được
Không xả không đắc được.’’

Cho nên không xả được cũng phải xả, tu hành như vậy thì sẽ thanh tịnh pháp môn bố thí Ba La Mật (đến bờ kia).

Tu trì đầy đủ các giới mà chẳng chấp trước. Vĩnh viễn lìa khỏi ngã mạn. Đó là thanh tịnh trì giới Ba La Mật.

Bồ Tát hay tu trì đầy đủ tất cả các giới mà chẳng chấp trước. Do đó : ‘’Trì mà chẳng trì, giới mà chẳng giới.’’ Hành sở vô sự, vô vi mà vô bất vi. Phải vĩnh viễn lìa khỏi tư tưởng và hành vi cống cao ngã mạn, không thể giải đãi, không thể phóng dật. Phải giữ gìn giới luật, hợp với uy nghi, mới có thể tu hành thành tựu thanh tịnh viên mãn pháp môn trì giới đến bờ kia.

Hay nhẫn thọ tất cả các việc ác. Nơi các chúng sinh, tâm đều bình đẳng, chẳng có giao động. Ví như đại địa hay giữ gìn tất cả. Đó là thanh tịnh được nhẫn nhục Ba La Mật.

Nhẫn nhục Ba La Mật, tức là dạy bạn nhẫn không được cũng phải nhẫn. Giống như đả thiền thất, nghĩa là phải chịu đựng mọi sự đau đớn khổ sở, lưng ê cũng phải nhẫn chịu, chân đau cũng phải nhẫn, tuyệt đối không chịu đầu hàng. Phải đấu tranh triệt để thì cuối cùng thắng lợi sẽ thuộc về bạn, như thế tức là nhẫn thọ tất cả các việc ác. Ðối với tất cả chúng sinh, tâm phải bình đẳng. Bất cứ là thuận hay nghịch, đều không bị cảnh giới làm lay động. Giống như đại địa, hay giữ gìn tất cả vạn vật. Như vậy thì sẽ tu thành thanh tịnh viên mãn pháp môn nhẫn nhục đến bờ kia.

Khắp phát khởi các việc thiện, thường tu chẳng giải đãi. Làm các việc thiện, luôn không thối chuyển. Dũng mãnh thế lực, không gì có thể điều phục. Nơi các công đức, chẳng lấy chẳng bỏ, mà hay đầy đủ tất cả trí môn. Đó là hay thanh tịnh tinh tấn Ba La Mật.

Khắp phát khởi tất cả các nghiệp lành. Thường tu hành phước huệ mà chẳng giải đãi. Làm tất cả nghiệp lành chỉ có tinh tấn, chẳng có thối lùi. Dũng mãnh tinh tấn thế lực, chẳng cách chi có thể chế ngự hàng phục. Ðối với hết thảy công đức, chẳng lấy làm của mình, cũng chẳng xả bỏ, mà hay đầy đủ tất cả môn trí huệ. Như vậy sẽ tu thành thanh tịnh viên mãn pháp môn tinh tấn đến bờ kia.

Nơi cảnh giới năm dục, chẳng có tham trước. Các định thứ lớp thảy đều thành tựu. Thường sinh tâm suy gẫm, chẳng trụ chẳng xuất. Mà có thể tiêu diệt tất cả phiền não. Sinh ra vô lượng các môn tam muội. Thành tựu vô biên sức đại thần thông. Nghịch thuận thứ tự, nhập vào các tam muội. Nơi một môn tam muội, nhập vào vô lượng môn tam muội. Đều biết tất cả cảnh giới tam muội, với tất cả tam muội tam ma bát đề. Trí ấn chẳng trái ngược nhau. Có thể mau nhập vào nơi tất cả trí địa. Đó là thanh tịnh thiền Ba La Mật. 

Bồ Tát đối với cảnh giới năm dục (tài sắc danh thực thùy, hoặc sắc thanh hương vị xúc), chẳng sinh tâm tham trước. Nếu sinh tâm tham trước thì sẽ có phiền não. Tham sắc là truy đuổi sắc đẹp, dính mắc nơi cảnh giới sắc trần. Tham thanh: Theo đuổi tiếng hay, dính mắc nơi cảnh giới thanh trần. Tham hương: Theo đuổi hương thơm, dính mắc nơi cảnh giới hương trần. Tham vị: Theo đuổi vị ngon, dính mắc nơi cảnh giới vị trần. Tham xúc: Theo đuổi xúc đẹp, dính mắt nơi cảnh giới xúc trần. Bồ Tát tu chín định thứ lớp, tức là bốn thiền định, bốn không định, diệt thọ tưởng định. Nếu chẳng tham vui năm dục, thì đều có thể tu tập thành tựu. Bồ Tát thường tư duy tu (tham thiền), phải có chánh tư duy, không thể có tà tư duy. Ở trong định chẳng có nhập định, cũng chẳng có xuất định. Tức cũng là thường ở trong định tư duy tu, nên có thể tiêu diệt tất cả phiền não. Chúng ta ngồi thiền không thể nhập định, là vì có phiền não, cho nên có vô minh phiền não chướng ngại cửa trí huệ. Chẳng có vô minh, chẳng có phiền não, thì trí huệ sẽ khai mở, trí huệ sẽ hiện tiền. Tự tánh của chúng ta, giống như một bồn nước trong, phiền não giống như cặn bã bụi bặm. Nếu trong nước có bụi bặm, thì nước sẽ đục, bèn sinh ra nhiễm ô. Chẳng có phiền não thì từ tánh sẽ thanh tịnh, trí huệ hiện tiền. Nếu đoạn sạch được phiền não, thì sẽ sinh ra vô lượng môn tam muội, ở trong định sẽ thành tựu vô biên đại thần thông. Sức thần thông đó, thiên ma ngoại đạo không thể nào phá hoại được. Hoặc nương vào thứ tự mà nhập vào, hoặc chẳng nương tựa thứ tự mà nhập vào tam muội. Ở trong một môn tam muội, có thể nhập vào vô lượng môn tam muội. Do đó :

‘’Nhập vào một môn tam muội,
Tức nhập vào tất cả tam muội
Nhập vào tất cả tam muội,
Chẳng lìa một tam muội.’’

Cảnh giới này diệu không thể tả. Bồ Tát hoàn tòan biết tất cả cảnh giới tam muội, và hết thảy định, cùng với tam ma bát đề (một thứ thiền định dịch là đẳng chí), và trí huệ quán chiếu chẳng trái ngược, có thể mau nhập vào tất cả trí địa. Sự tu hành này sẽ thành tựu thanh tịnh viên mãn pháp môn thiền na đến bờ kia.

Ở chỗ chư Phật, nghe pháp thọ trì. Gần gũi thiện tri thức, thừa sự chẳng mỏi mệt. Thường ưa nghe pháp, tâm chẳng nhàm đủ. Tùy thuận pháp đã được nghe lãnh thọ, như lý mà tư duy. Nhập vào chân tam muội, lìa các kiến giải chẳng chánh đáng. Khéo quán sát các pháp, đắc được ấn tướng. Biết rõ Như Lai, vô công dụng đạo. Thừa phổ môn huệ, nhập vào môn trí huệ nhất thiết chủng trí. Vĩnh viễn được nghỉ ngơi. Đó là thanh tịnh Bát Nhã Ba La Mật.

Ở trong đạo tràng của mười phương ba đời tất cả chư Phật, nghe được pháp của tất cả chư Phật nói, thì sẽ y pháp tu hành, cung hành thật tiễn, thọ trì chẳng quên. Hay thường gần gũi, cúng dường, thừa sự thiện tri thức, vĩnh viễn chẳng nhàm mỏi. Thường ưa thích nghe pháp của chư Phật nói mà chẳng có phiền não và tri túc. Tùy thời tùy lúc đã nghe pháp của Phật nói, lãnh thọ đạo lý, nương lý suy gẫm, đắc được định huệ chân chánh. Nhờ định sinh huệ, nhờ huệ trợ định, định huệ viên minh. Ðây là nhập chân tam muội. Lại có thể lìa khỏi tất cả kiến giải chẳng chánh đáng. Hay khéo quán sát tất cả các pháp, đắc được ấn thật tướng. Tất cả các pháp dùng thật tướng làm ấn. Hay thấu rõ đạo lý thật tướng vô tướng, vô sở bất tướng, thì sẽ thấu suốt vô công dụng đạo của chư Phật. Vô công dụng đạo tức là chẳng thêm tạo tác, rất tự nhiên tác dụng, tức cũng rất tự nhiên khế hợp với chân tánh. Thừa trí huệ phổ môn (một trong một môn nhiếp tất cả pháp), nhập vào môn trí huệ nhất thiết trí. Lúc đó, những gì là đã làm xong, chẳng thọ thân sau nữa. Có thể nói là vô vi mà vô bất vi, vĩnh viễn được nghỉ ngơi. Như vậy thì sẽ tu thành thanh tịnh viên mãn pháp môn Bát Nhã đến bờ kia.

Bồ Tát thị hiện nghiệp tạo ra của tất cả thế gian. Giáo hóa chúng sinh mà chẳng nhàm mỏi. Tùy theo tâm ưa thích của họ mà hiện thân. Tất cả sự tu hành đều chẳng nhiễm trước. Hoặc hiện phàm phu, hoặc hiện Thánh nhân, hoặc hiện sinh tử, hoặc hiện Niết Bàn, khéo quán sát tất cả việc làm. Thị hiện tất cả các sự trang nghiêm mà chẳng tham trước. Khắp vào các cõi, độ thoát chúng sinh. Đó là thanh tịnh phương tiện Ba La Mật.

Bồ Tát thị hiện hết thảy nghiệp làm của tất cả thế gian, giáo hóa chín pháp giới tất cả chúng sinh, chẳng có tư tưởng nhàm mỏi. Tùy tâm ưa thích của chúng sinh, mà vì họ hiện thân nói pháp. Bồ Tát tu tất cả hạnh môn, đều lìa khỏi pháp nhiễm ô, mà chẳng có sự chấp trước. Hoặc thị hiện thân phàm phu để giáo hóa chúng sinh, hoặc thị hiện thân Thánh nhân để giáo hóa chúng sinh. Dùng việc phàm phu làm và việc Thánh nhân làm, để ảnh hưởng đến chúng sinh phát tâm bồ đề. Có lúc thị hiện sinh tử để giáo hóa chúng sinh, có lúc thị hiện Niết Bàn để giáo hóa chúng sinh. Bồ Tát khéo quán sát việc làm của tất cả chúng sinh, hay thị hiện việc trang nghiêm đạo tràng của tất cả cõi nước chư Phật. Tuy hay trang nghiêm mà chẳng tham trước. Lại hay vào khắp các cõi để độ thoát tất cả chúng sinh, khiến cho họ lìa khổ được vui. Như vậy sẽ thành tựu thanh tịnh viên mãn pháp môn phương tiện đến bờ kia.

Bồ Tát thành tựu hết tất cả chúng sinh, trang nghiêm hết tất cả thế giới. Cúng dường hết tất cả chư Phật. Thông đạt hết các pháp chẳng chướng ngại. Tu hành hết các hạnh khắp pháp giới. Thân luôn trụ hết kiếp thuở vị lai. Trí biết hết tất cả tâm niệm. Giác ngộ hết pháp lưu chuyển hoàn diệt. Thị hiện hết tất cả cõi nước. Chứng được hết trí huệ của Như Lai. Đó là thanh tịnh được nguyện Ba La Mật.

Bồ Tát có thể thành tựu hết tất cả chúng sinh đắc được giải thoát. Lại trang nghiêm hết tất cả thế giới được thanh tịnh viên mãn. Lại cúng dường hết mười phương chư Phật. Lại thông đạt hết tất cả tạng pháp chẳng chướng ngại. Lại tu hành hết hạnh môn khắp pháp giới. Lại thường trụ vô lượng kiếp cho đến thuở vị lai để giáo hóa chúng sinh. Trí huệ của Bồ Tát rộng lớn, biết hết tâm niệm của tất cả chúng sinh nghĩ gì ? Lại giác ngộ hết môn lưu chuyển sinh tử và môn hoàn diệt Niết Bàn.
Môn lưu chuyển tức là: Vô minh duyên hành, hành duyên thứ, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử. Ðây là pháp tắc sinh tử mười hai nhân duyên.
Môn hoàn diệt là: Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt là thức diệt, thức diệt là danh sắc diệt, danh sắc diệt là lục nhập diệt, lục nhập diệt là xúc diệt, xúc diệt là thọ diệt, thọ diệt là ái diệt, ái diệt là thủ diệt, thủ diệt là hữu diệt, hữu diệt là lão tử diệt.
Cho nên người tu đạo phải diệt trừ vô minh. Nếu chẳng có vô minh thì chẳng có sinh tử, sẽ thoát khỏi ba cõi. Bồ Tát thị hiện hết tất cả cõi nước chư Phật. Lại chứng được hết trí huệ của Phật. Như vậy sẽ tu thành thanh tịnh viên mãn pháp môn nguyện đến bờ kia.

Bồ Tát đầy đủ sức tâm sâu, vì chẳng có tạp nhiễm. Đầy đủ sức tin sâu, vì không thể thôi phục. Đầy đủ sức đại bi, vì không sinh nhàm mỏi. Đầy đủ sức đại từ, vì sở hành đều bình đẳng. Đầy đủ sức tổng trì, vì dùng phương tiện trì tất cả nghĩa. Đầy đủ sức biện tài, vì khiến cho tất cả chúng sinh hoan hỷ mãn túc. Đầy đủ sức Ba La Mật, vì trang nghiêm đại thừa. Đầy đủ sức đại nguyện, vì vĩnh viễn chẳng đoạn tuyệt. Đầy đủ sức thần thông, vì sinh ra vô lượng. Đầy đủ sức gia trì, vì khiến cho tin hiểu lãnh thọ. Đó là thanh tịnh được định lực Ba La Mật.

Bồ Tát tu hành, đầy đủ tâm thanh tịnh, chẳng có tâm nhiễm ô. Tâm thanh tịnh thì có trí huệ, tâm nhiễm ô thì có ngu si, ngu si là từ vô minh mà ra. Phàm là đầy đủ sức thâm tâm, thì chẳng có mọi tư tưởng tạp nhiễm. Lại đầy đủ sức tin sâu, bất cứ gặp ai đến phỉ báng Phật pháp, hoặc phá hoại Phật pháp, cũng chẳng bị họ thôi phục. Lại đầy đủ sức tâm đại bi, giáo hóa chúng sinh, chẳng sinh tâm mỏi nhàm. Lại đầy đủ sức tâm đại từ, đối với chúng sinh sở hành sở tác, một luật bình đẳng. Lại đầy đủ sức tổng trì, tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa, hay dùng phương tiện nói đạo lý tất cả các pháp. Lại đầy đủ sức biện tài, hay khiến cho tất cả chúng sinh đều đại hoan hỷ mà mãn túc. Lại đầy đủ sức mười Ba La Mật, hay trang nghiêm đại thừa tất cả Phật pháp. Lại đầy đủ sức đại nguyện, vĩnh viễn chẳng đoạn tuyệt đại nguyện mình đã phát ra. Lại đầy đủ sức thần thông, sinh ra vô lượng thần thông. Lại đầy đủ sức gia trì, khiến cho tất cả chúng sinh đều tin hiểu mà lãnh thọ nghĩa lý Phật pháp. Như vậy sẽ tu thành thanh tịnh viên mãn pháp môn lực đến bờ kia.

Bồ Tát biết hành giả tham dục. Biết hành giả sân hận. Biết hành giả ngu si. Biết hành giả đẳng phần. Biết hành giả bậc tu học. Trong một niệm, biết vô lượng hạnh của chúng sinh. Biết vô lượng tâm của chúng sinh. Biết tất cả pháp chân thật. Biết tất cả lực của Như Lai. Khắp giác ngộ môn pháp giới. Đó là thanh tịnh được trí Ba La Mật.

Bồ Tát biết sự tham muốn dâm dục của chúng sinh, đáng dùng pháp môn quán bất tịnh để giáo hóa họ, khiến cho họ tâm được thanh tịnh. Ðối với chúng sinh có tâm sân hận, thì khiến cho họ sinh tâm từ bi, đối với người chẳng nổi giận, thì tu pháp môn nhẫn nhục, sẽ thành tựu có hàm dưỡng công phu. Ðối với chúng sinh ngu si, thì nên dùng pháp môn nhân duyên để giáo hóa họ. Vì chúng sinh làm việc sai lầm mà chẳng biết, cho nên phải nhờ thiện tri thức chỉ dẫn, mới có thể sửa lỗi làm mới, y pháp tu hành. Ðối với chúng sinh đẳng phần (tham sân si ba độc đầy đủ), thì phải dùng pháp môn phương tiện khéo léo để giáo hóa họ. Khiến cho họ biết tham sẽ bị đọa địa ngục, sân có thể làm ngạ quỷ, si sẽ đọa làm súc sinh. Biết chúng sinh bậc tu học pháp môn nào ? Căn tánh ra sao ? Phải có trí huệ mới tùy cơ nói pháp, để giáo hóa chúng sinh, hành Bồ Tát đạo, có thể trong một niệm biết được vô biên chúng sinh làm gì ? Thực hành những gì ? Lại biết được trong tâm của chúng sinh nghĩ gì ? Lại biết được bản thể của tất cả pháp là chân thật. Lại biết được mười lực của Phật. Khắp giác ngộ hết thảy pháp của pháp giới. Như vậy sẽ tu thành thanh tịnh viên mãn pháp môn trí huệ đến bờ kia.
Mười pháp môn Ba La Mật này mà tu viên mãn, thì sẽ chứng nhập địa vị Thập Địa. Thành tựu (đàn) bố thí Ba La Mật, thì chứng nhập Hoan hỷ địa. Thành tựu trì giới Ba La Mật, thì chứng nhập Ly cấu địa. Thành tựu nhẫn nhục Ba La Mật, thì chứng nhập Phát quang địa. Thành tựu tinh tấn Ba La Mật, thì chứng nhập Diệm huệ địa. Thành tựu thiền Ba La Mật, thì chứng nhập Nan thắng địa. Thành tựu Bát Nhã Ba La Mật, thì chứng nhập Hiện tiền địa. Thành tựu phương tiện Ba La Mật, thì chứng nhập Viễn hành địa. Thành tựu lực Ba La Mật, thì chứng nhập Thiện huệ địa. Thành tựu trí Ba La Mật, thì chứng nhập Pháp vân địa.

Phật tử ! Khi Bồ Tát thanh tịnh các Ba La Mật như vậy. Khi viên mãn các Ba La Mật. Khi chẳng xả bỏ các Ba La Mật, thì trụ ở trong Bồ Tát thừa đại trang nghiêm, tùy theo sở niệm của tất cả chúng sinh, đều vì họ nói pháp, khiến cho tăng trưởng nghiệp thanh tịnh mà được độ thoát.

Bồ Tát Pháp Huệ đối với Bồ Tát Tinh Tấn Huệ, lại gọi một tiếng đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, khi tu hành thành tựu thanh tịnh mười pháp Ba La Mật này, khi viên mãn mười pháp Ba La Mật này, khi chẳng xả bỏ mười pháp Ba La Mật này, thì trụ ở trong Bồ Tát thừa đại trang nghiêm, tùy theo sở niệm của tất cả chúng sinh, đều vì họ nói pháp. Khiến cho chúng sinh tăng thêm nghiệp thanh tịnh, viên mãn tâm bồ đề mà được thoát khỏi khổ trong ba cõi.

Kẻ đọa vào đường ác, thì khiến cho họ phát tâm. Kẻ ở trong hoạn nạn, thì khiến cho họ siêng tinh tấn. Chúng sinh nhiều tham lam, thì chỉ bày pháp không tham. Chúng sinh nhiều sân hận, thì khiến cho họ hành pháp bình đẳng. Chúng sinh chấp trước tà kiến, thì vì họ nói pháp duyên khởi. Chúng sinh cõi dục, thì dạy họ pháp lìa dục sân hận các điều ác không thiện. Chúng sinh cõi sắc, thì vì họ tuyên nói pháp tì bát xá na. Chúng sinh cõi vô sắc, thì vì họ tuyên nói trí huệ vi diệu. Hàng nhị thừa thì dạy họ hạnh vắng lặng. Người ưa đại thừa, thì vì họ nói mười lực trang nghiêm rộng lớn.

Bất cứ là ai ? Nếu chẳng tu hành, thì sẽ đọa vào ba đường ác. Phàm là chúng sinh đọa lạc vào ba đường ác, thì khiến cho họ phát tâm bồ đề, mới có thể thoát khỏi. Gì là ba đường ác ? Tức là súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục. Chúng sinh trong tất cả tai nạn, thì khiến cho họ tu pháp tinh tấn Ba La Mật, dụng công tu tập, sẽ có trí huệ, có thể sẽ tiêu tai hoạn nạn. Ðối với chúng sinh nhiều tham lam, thì chỉ bày pháp không tham lam. Không tham tài, đó là thanh liêm. Không tham sắc đó là thanh tịnh. Không tham danh đó là thanh cao. Cũng chẳng tham ăn, cũng chẳng tham ngủ. Bồ Tát dùng thân làm khuôn phép, làm mô phạm cho họ. Ðối với chúng sinh nhiều sân, thì khiến cho họ tu quán từ bi, hành pháp bình đẳng, ta, người cùng một thể. Ðối với chúng sinh chấp trước tà kiến, thì vì họ nói đủ thứ pháp môn nhân duyên sinh khởi. Ðối với chúng sinh cõi dục, thì dạy họ xa lìa tâm dâm dục, tâm sân hận, tất cả các điều ác không thiện. Ðối với chúng sinh cõi sắc, thì vì họ nói pháp môn chỉ quán, khiến cho họ lìa khỏi điên đảo. Ðối với chúng sinh cõi vô sắc, thì vì họ nói pháp môn trí huệ vi diệu. Ðối với hàng nhị thừa Thanh Văn, Duyên Giác, thì dạy họ hạnh môn vắng lặng. Ðối với đại thừa Bồ Tát, thì vì họ nói pháp mười lực rộng lớn trang nghiêm của Phật.

Như Bồ Tát thuở xưa phát tâm, thấy vô lượng chúng sinh, đọa vào các đường ác, bèn làm sư tử hống, nói như vầy: Ta sẽ dùng đủ thứ pháp môn, tùy nghi để độ thoát họ. Bồ Tát đầy đủ trí huệ như vậy, hay độ thoát tất cả chúng sinh.

Giống như Bồ Tát thuở xưa lúc phát tâm bồ đề, thấy vô lượng vô biên chúng sinh, đọa vào trong ba đường ác, đã từng làm đại sư tử hống nói như vầy: ‘’Hiện tại ta đã phát tâm bồ đề, nên dùng đủ thứ pháp môn, tùy thuận nhân duyên của chúng sinh, mà độ thoát chúng sinh thoát khỏi ba đường ác.’’ Bồ Tát đầy đủ trí huệ như vậy, khắp rộng độ chúng sinh thọ khổ, khiến cho được giải thoát.

Phật tử ! Bồ Tát đầy đủ trí huệ như vậy, khiến cho hạt giống Tam Bảo vĩnh viễn chẳng đoạn tuyệt.

Ðệ tử của Phật ! Bồ Tát đầy đủ đại trí huệ, hay khiến cho hạt giống Tam Bảo Phật Pháp Tăng, vĩnh viễn liên tục mà chẳng đoạn tuyệt.

Tại sao ? Vì đại Bồ Tát giáo hóa các chúng sinh phát tâm bồ đề, khiến cho hạt giống Phật không dứt. Thường vì chúng sinh khai xiển pháp tạng, cho nên khiến cho hạt giống pháp không dứt. Khéo giữ giáo pháp không trái nghịch, cho nên khiến cho hạt giống Tăng không dứt.

Làm thế nào để khiến cho hạt giống Tam Bảo không đoạn tuyệt ? Ðại Bồ Tát trong Bồ Tát, thường giáo hóa tất cả chúng sinh phát tâm bồ đề. Do đó, cho nên khiến cho hạt giống Phật chẳng dứt. Bồ Tát thường vì tất cả chúng sinh khai diễn xiển minh đạo lý tất cả tạng pháp. Vì vậy, cho nên khiến cho tất cả hạt giống pháp chẳng dứt. Bồ Tát khéo giáo hóa tất cả chúng sinh chẳng trái nghịch với Phật pháp, do đó, cho nên khiến cho hạt giống Tăng chẳng dứt.

Lại nữa, hay khen ngợi tất cả đại nguyện, cho nên hay khiến cho hạt giống Phật chẳng dứt. Phân biệt diễn nói pháp nhân duyên, cho nên hay khiến cho hạt giống pháp chẳng dứt. Thường siêng tu tập pháp lục hòa kính, cho nên hay khiến cho hạt giống Tăng chẳng dứt.

Lại nữa, Bồ Tát hay khen ngợi tán thán đại nguyện của tất cả chư Phật đã phát ra. Vì vậy, cho nên hay khiến cho hạt giống Phật chẳng dứt. Bồ Tát hay phân biệt diễn nói đạo lý pháp nhân duyên. Vì vậy, cho nên hay khiến cho hạt giống pháp chẳng dứt. Bồ Tát thường tu tập pháp lục hòa kính, tức là: Giới hòa đồng tu, kiến hòa đồng giải, thân hòa đồng trụ, khẩu hòa vô tránh, ý hòa đồng duyệt, lợi hòa đồng quân. Vì vậy, cho nên khiến cho hạt giống Tăng chẳng dứt.

Lại nữa, ở trong ruộng chúng sinh gieo hạt giống Phật, cho nên hay khiến cho hạt giống Phật chẳng dứt. Hộ trì chánh pháp chẳng tiếc thân mạng, cho nên hay khiến cho hạt giống pháp chẳng dứt. Thống lý đại chúng chẳng mệt mỏi, cho nên hay khiến cho hạt giống Tăng chẳng dứt.

Lại nữa, Phật là từ trong ruộng chúng sinh sanh ra. Ở trong ruộng đất chúng sinh gieo xuống hạt giống Phật (phát tâm bồ đề), vì vậy, cho nên hay khiến cho hạt giống Phật chẳng dứt. Bồ Tát dùng trí huệ và thần thông để hộ trì chánh pháp, thậm chí hy sinh thân mạng cũng chẳng tiếc. Vì vậy, cho nên hay khiến cho hạt giống Pháp chẳng dứt. Trong Tăng đoàn phải có người trụ trì, thì mới có quy cụ, mới trật tự, bằng không thì sẽ tạp loạn. Bồ Tát thống lý đại chúng chẳng mệt mỏi. Vì vậy cho nên khiến cho hạt giống Tăng chẳng dứt.

Lại nữa, trong quá khứ, vị lai, hiện tại, pháp của Phật nói, giới của Phật chế ra, thảy đều phụng trì, tâm chẳng xả lìa. Cho nên hay khiến cho hạt giống Phật Pháp Tăng, vĩnh viễn chẳng đoạn tuyệt.

Lại nữa, trong quá khứ, vị lai, hiện tại ba đời, tất cả pháp của chư Phật nói, giới luật của chư Phật chế ra, Bồ Tát thảy đều phụng trì, tâm chẳng xả bỏ, chẳng lìa khỏi. Vì vậy cho nên hay khiến cho hạt giống Phật, Pháp, Tăng, vĩnh viễn liên tục chẳng đoạn tuyệt.

Bồ Tát thiệu long Tam Bảo như vậy. Tất cả sở hành chẳng có lỗi. Tùy theo các việc làm, đều hồi hướng môn nhất thiết trí. Cho nên ba nghiệp đều chẳng có tỳ vết. Vì chẳng có tỳ vết, nên làm các việc lành, thực hành các hạnh, giáo hóa chúng sinh, tùy nghi nói pháp, cho đến một niệm đều không sai lầm. Đều tương ưng với phương tiện trí huệ. Thảy đều hồi hướng về nhất thiết trí, không thể luống qua.

Bồ Tát phát tâm bồ đề như vậy, thiệu long Tam Bảo, khiến cho hạt giống Phật Pháp Tăng liên tục chẳng đoạn tuyệt. Sở hành sở tác của Bồ Tát chẳng có lỗi lầm. Tùy các việc làm, thảy đều hồi hướng về môn nhất thiết trí huệ. Vì vậy cho nên thân miệng ý ba nghiệp đều thanh tịnh, chẳng có tỳ vết, Do đó, làm các việc lành, tu hành các hạnh, giáo hóa tất cả chúng sinh, tùy nghi mà nói pháp. Cho đến trong một tâm niệm cũng chẳng sai lầm. Sở hành sở tác của Bồ Tát đều hợp với Phật pháp. Cho nên tương ưng với môn phương tiện trí huệ. Thảy đều hồi hướng về nhất thiết trí và nhất thiết chủng trí, chẳng trôi qua lãng phí.

Bồ Tát tu tập pháp lành như vậy, niệm niệm đầy đủ mười thứ trang nghiêm. Những gì là mười ? Đó là: Thân trang nghiêm, tùy theo các chúng sinh đáng được điều phục, mà vì họ thị hiện. Lời trang nghiêm, dứt tất cả nghi, đều khiến cho hoan hỷ. Tâm trang nghiêm, ở trong một niệm, nhập vào các tam muội. Cõi Phật trang nghiêm, vì tất cả đều thanh tịnh, lìa các phiền não. Quang minh trang nghiêm, vì phóng vô biên quang, chiếu khắp chúng sinh. Chúng hội trang nghiêm, vì nhiếp khắp chúng hội, đều khiến cho hoan hỷ. Thần thông trang nghiêm, vì tùy theo tâm chúng sinh mà thị hiện tự tại. Chánh giáo trang nghiêm, vì hay nhiếp tất cả người thông minh trí huệ. Niết Bàn địa trang nghiêm, vì tại một nơi thành đạo, khắp cùng mười phương không thừa sót. Khéo nói trang nghiêm, vì tùy nơi tùy thời, tùy căn cơ của họ, mà vì họ nói pháp.

Bồ Tát tu tập tất cả pháp lành như vậy, ở trong niệm niệm, đều đầy đủ mười pháp môn trang nghiêm. Những gì là mười thứ trang nghiêm ? Ðó là:
1). Thân trang nghiêm: Bồ Tát dùng thân trang nghiêm, tùy theo cơ duyên của tất cả chúng sinh, đáng dùng thân gì độ được, thì thị hiện thân đó để điều phục.
2). Lời trang nghiêm: Lời lẽ của Bồ Tát nói ra cũng trang nghiêm. Hay dứt trừ hoài nghi của tất cả chúng sinh. Dùng bốn pháp nhiếp (bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự) để khiến cho tất cả chúng sinh đều sinh tâm hoan hỷ.
3). Tâm trang nghiêm: Bồ Tát ở trong một niệm, nhập vào tất cả tam muội.
4). Quang minh trang nghiêm: Vì Bồ Tát phóng ra vô lượng quang minh trí huệ, chiếu khắp tất cả chúng sinh, khiến cho họ đắc được quang minh.
5). Cõi Phật trang nghiêm: Vì Bồ Tát hay khiến cho tất cả cõi nước chư Phật thanh tịnh, hay khiến cho tất cả chúng sinh lìa khỏi phiền não.
6). Chúng hội trang nghiêm: Bồ Tát tham gia tất cả pháp hội, khiến cho các pháp hội trang nghiêm, khắp nhiếp trì chúng sinh trong pháp hội, khiến cho họ được hoan hỷ.
7). Thần thông trang nghiêm: Bồ Tát lại dùng thần thông diệu dụng để giáo hóa chúng sinh, tùy theo tâm ý của chúng sinh mà thị hiện tự tại.
8). Chánh giáo trang nghiêm: Bồ Tát đầy đủ chánh giáo trang nghiêm, hay độ thoát tất cả mọi người có trí huệ thông minh.
9). Niết Bàn địa trang nghiêm: Bồ Tát đầy đủ không sinh không diệt sự trang nghiêm này. Tại một nơi thành tựu đạo nghiệp mà có thể ở khắp mọi nơi thành tựu đạo nghiệp. Do đó :

‘’Một nơi thành, nơi nơi đều thành.’’

Cho nên khắp cùng mười phương, chẳng một nơi nào chẳng thành đạo nghiệp.
10). Khéo nói trang nghiêm: Bồ Tát đầy đủ phương tiện khéo léo nói pháp trang nghiêm, tùy thời tùy nơi, tùy căn cơ chúng sinh mà vì họ nói pháp.

Bồ Tát thành tựu trang nghiêm như vậy, ở trong niệm niệm, thân lời ý nghiệp đều chẳng luống qua. Thảy đều hồi hướng về môn nhất thiết trí.

Bồ Tát thành tựu mười thứ trang nghiêm này, ở trong niệm niệm, thân, lời, ý, ba nghiệp đều chẳng luống qua. Bồ Tát đem mười thứ trang nghiêm này, hồi hướng về môn nhất thiết trí huệ.

Nếu có chúng sinh thấy Bồ Tát đó, thì nên biết cũng chẳng luống qua. Vì tất sẽ thành tựu A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Nếu nghe danh, hoặc cúng dường, hoặc ở chung, hoặc nghĩ nhớ, hoặc theo xuất gia, hoặc nghe nói pháp, hoặc tùy hỷ căn lành, hoặc ở xa sinh tâm khâm phục cung kính, cho đến tán thán khen ngợi danh hiệu, đều sẽ đắc được A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Nếu chư có chúng sinh thấy được vị Bồ Tát đó, thì nên biết chúng sinh đó cũng chẳng luống qua, nhất định sẽ đắc được công đức đáng đắc được. Tất sẽ thành tựu Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Hoặc nghe được danh hiệu của vị Bồ Tát đó, hoặc cúng dường, hoặc ở chung, hoặc nghĩ nhớ, hoặc theo xuất gia tu hành, hoặc nghe giảng kinh thuyết pháp, hoặc tùy hỷ căn lành đã gieo trồng, hoặc ở xa xa mà sinh tâm khâm phục cung kính, cho đến tán thán khen ngợi danh hiệu của Bồ Tát đó, đều đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Phật tử ! Ví như có thuốc tên là Thiện Kiến. Chúng sinh thấy được, thì các độc đều tiêu trừ. Bồ Tát thành tựu pháp này cũng như vậy. Chúng sinh thấy được thì các độc phiền não đều được trừ diệt, pháp lành tăng trưởng.

Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng đệ tử của Phật ! Ví như có một thứ thuốc hay, tên là Thiện Kiến. Hết thảy chúng sinh thấy được cây thuốc đó, thì hết thảy bệnh độc đều hoàn toàn tiêu trừ. Bồ Tát tu hành mười thứ trang nghiêm mà thành tựu pháp này. Ðồng lý ấy, nếu có chúng sinh nào thấy được vị Bồ Tát đó, thì tham sân si mạn nghi năm thứ bệnh độc, đều sẽ tiêu trừ. Các pháp lành đã tu đều sẽ tăng trưởng, thành thục giải thoát.

Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ ở trong pháp này, siêng năng tu tập. Dùng trí huệ quang minh diệt trừ các ngu si đen tối. Dùng sức từ bi phá tan quân ma. Dùng đại trí huệ và sức phước đức chế ngự các ngoại đạo. Dùng định kim cang diệt trừ tất cả tâm dơ bẩn phiền não. Dùng sức tinh tấn tu tập các căn lành. Dùng sức các căn lành tịnh cõi Phật, xa lìa tất cả đường ác các nạn. Dùng sức không chấp trước tịnh cảnh giới trí huệ. Dùng sức phương tiện trí huệ, sinh ra tất cả các địa của Bồ Tát, các Ba La Mật, và các tam muội, sáu thông, ba minh, bốn vô sở úy, đều khiến cho thanh tịnh.

Bồ Tát Pháp Huệ đối với Bồ Tát Tinh Tấn Huệ lại gọi một tiếng đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát trong Bồ Tát, trụ ở trong thiện pháp này, siêng năng nỗ lực mà tu tập. Dùng trí huệ quang minh để tiêu diệt ngu si đen tối. Dùng sức đại từ đại bi để phá tan mười đại ma quân, tức là ma năm uẩn, ma phiền não, ma nghiệp, ma tâm, ma chết, ma thiện căn (chấp trước thân mình đắc được căn lành), ma tam muội (chấp trước thân mình đắc được thiền định), ma thiện tri thức (keo kiệt pháp chẳng chịu giáo hóa người), ma bồ đề pháp trí (đối với pháp bồ đề mà khởi trí huệ chấp trước). Tóm lại, tất cả việc ác chướng ngại Phật pháp, che đậy chánh đạo, xâm hại huệ mạng, đều gọi là ma quân. Bồ Tát dùng sức đại trí huệ, dùng sức đại phước đức để điều phục tất cả ngoại đạo. Ngoại đạo có mười một tông: Số luận sư, kế minh đế sinh. Vệ thế sư, kế lục câu sinh. Ðồ hôi ngoại đạo, kế tự tại trời sinh vạn vật. Vi Ðà luận sư, kế na ca diên, trời sinh bốn tánh. An trà luận sư, kế bổn tế sinh. Thời tán ngoại đạo, kế vật từ thời sinh. Phương luận sư, kế phương sinh người, người sinh trời đất. Thuận thế ngoại đạo, kế sắc tâm pháp, đều cực vi tác. Khẩu lực luận sư, kế hư không là nhân vạn vật. Túc tác luận sư, kế khổ tùy nghiệp. Vô nhân luận sư, kế tự nhiên sinh. (Mười một ngoại đạo này trong Hoa Nghiêm sớ sao có giải thích rõ). Nhưng Bồ Tát dùng định Kim Cang kiên cố, để tiêu diệt trừ sạch tất cả trần cấu và phiến não ở trong tâm. Dùng sức tinh tấn để tu tập tất cả căn lành. Dùng sức tất cả căn lành và thanh tịnh các cõi Phật, để xa lìa tất cả đường ác và tất cả tai nạn. Dùng sức chẳng chấp trước để thanh tịnh cảnh giới trí huệ. Dùng sức phương tiện trí huệ khéo léo, để sinh ra tất cả các địa của Bồ Tát, tức là Thập Địa. Sinh ra các Ba La Mật: Tức là pháp môn thập độ đến bờ kia. Sinh ra các tam muội: Tức là chánh định chánh thọ. Sinh ra sáu thần thông, sáu thứ thần thông này, từ trong thiền định mà sinh ra. Sinh ra ba minh, tức là Thiên nhãn minh: Biết được thân mình và thân kẻ khác sinh tử ba đời. Túc mạng minh: Biết được nhân duyên thuở xưa của thân mình và thân kẻ khác. Lậu tận minh: Minh bạch tất cả tướng khổ, hay đoạn tuyệt tất cả phiền não. Sinh ra bốn vô sở úy mà hoàn toàn khiến cho họ thanh tịnh.

Bồ Tát dùng sức tất cả pháp lành thành tựu viên mãn tất cả cõi nước chư Phật, vô biên tướng tốt, thân lời và tâm đều đầy đủ trang nghiêm. Dùng sức trí huệ tự tại quán sát, biết tất cả lực Như Lai vô sở úy Phật pháp bất cộng, thảy đều bình đẳng. Dùng sức trí huệ rộng lớn, biết rõ cảnh giới nhất thiết trí. Dùng sức thệ nguyện thuở xưa, tùy thời giáo hóa, hiện cõi nước Phật, chuyển bánh xe pháp, độ thoát vô lượng vô biên chúng sinh.

Bồ Tát dùng sức lực của tất cả pháp lành, để thành tựu tất cả cõi nước chư Phật. Thành tựu viên mãn vô biên tướng tốt, tức là ba mươi hai tướng đại nhân, tám mươi vẻ đẹp. Thành tựu viên mãn thân miệng ý ba nghiệp thanh tịnh, đều đầy đủ và trang nghiêm. Dùng sức trí huệ tự tại quán sát (diệu quán sát trí), biết mười lực của chư Phật, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng, tất cả pháp vốn đều bình đẳng. Trong kinh Kim Cang có nói:

‘’Là pháp bình đẳng
Chẳng có cao thấp.’’

Dùng sức trí huệ rộng lớn, biết được cảnh giới của nhất thiết trí và nhất thiết chủng trí. Dùng sức thệ nguyện đã phát ra trong quá khứ, tùy thời tùy lúc vì chúng sinh đáng được giáo hóa mà thị hiện các cõi nước chư Phật, chuyển bánh xe pháp, rộng độ giải thoát vô lượng vô biên chúng sinh, khiến cho họ lìa khổ được vui.

Phật tử ! Đại Bồ Tát, siêng tu pháp này, lần lượt thành tựu các hạnh Bồ Tát, cho đến được sự bình đẳng với chư Phật. Ở trong vô biên thế giới, làm đại pháp sư, hộ trì chánh pháp, được tất cả chư Phật hộ niệm.

Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát trong Bồ Tát, siêng năng tu tập pháp như đã nói ở trước, từng bước từng bước mà thành tựu hạnh Bồ Tát, cho đến đạt được bình đẳng giống như chư Phật. Có thể ở trong vô lượng vô biên thế giới làm đại pháp sư, hộ trì tất cả chánh pháp, được sự gia trì và hộ niệm của chư Phật.

Bồ Tát thủ hộ thọ trì tạng pháp rộng lớn. Đắc được biện tài vô ngại. Thâm nhập pháp môn. Ở trong đại chúng của vô biên thế giới, tùy loại khác nhau, khắp hiện đủ loại thân, sắc tướng đầy đủ, tối thắng không gì bằng. Dùng vô ngại biện tài, khéo nói pháp thâm sâu. Âm thanh viên mãn, vì khéo phân bố, khiến cho người nghe được nhập vào môn trí huệ vô tận.

Bồ Tát hay thủ hộ và thọ trì tạng pháp rộng lớn vô biên, cho nên đắc được pháp vô ngại biện, từ vô ngại biện, nghĩa vô ngại biện, lạc thuyết vô ngại biện. Có thể nhập vào tất cả pháp môn, ở trong vô lượng vô biên thế giới, tùy thuận các loài chúng sinh khác nhau, khắp thị hiện các loại thân, mà vì họ nói pháp. Tóm lại, gặp loại chúng sinh nào độ được, thì thị hiện thân đó để độ họ. Song, sắc tướng thị hiện đều đủ đại oai đức, đức tướng thù thắng, chẳng gì sánh bằng. Dùng trí huệ biện tài vô ngại, phương tiện khéo léo để diễn nói diệu pháp thâm sâu vô thượng, âm thanh đó viên mãn chẳng chướng ngại. Bất cứ loại chúng sinh nào, nghe được âm thanh đó, thì sẽ tự động phát tâm đại bồ đề. Vì khéo phân bố, hay khiến cho chúng sinh nghe được diệu âm đó, đều nhập vào môn trí huệ vô tận.

Bồ Tát biết tâm hành phiền não của các chúng sinh, mà vì họ nói pháp. Vì lời lẽ nói ra đều đầy đủ thanh tịnh. Một lời diễn xướng, hay khiến cho tất cả đều sinh tâm hoan hỷ. Thân hình đoan chánh, vì có đại oai lực, ở trong chúng hội chẳng ai hơn được.

Bồ Tát vì có trí huệ vô tận, cho nên biết được trong tâm chúng sinh nghĩ gì ? Thân thể làm gì ? Có phiền não gì ? Có vọng tưởng gì ? Thì chiếu theo nhân duyên đó mà vì họ nói pháp. Âm thanh của Bồ Tát nói pháp rất rộng lớn và thanh tịnh, có thể khiến cho chúng sinh xa gần đều nghe được, mà sinh tâm đại hoan hỷ. Tại sao có người nói lời thanh tịnh ? Có người nói lời chẳng thanh tịnh ? Vì giữ giới thanh tịnh, hoặc chẳng thanh tịnh. Nếu muốn nói lời thanh tịnh thì phải giữ gìn giới luật, không được phóng dật. Bồ Tát dùng âm thanh để diễn xướng nói pháp, thì tất cả chúng sinh, theo loài đều được hiểu, đều được lợi ích. Thân hình của Bồ Tát rất đoan chánh trang nghiêm. Vì có đại oai lực, cho nên ở trong đại chúng pháp hội, chẳng có ai hơn được. Do đó, thọ người cung kính, gọi là đại Bồ Tát.

Vì Bồ Tát khéo biết tâm chúng sinh, nên khắp hiện thân. Vì nói pháp khéo léo, nên âm thanh vô ngại. Vì được tâm tự tại, nên khéo nói pháp lớn, không bị trở ngại phá hoại. Vì được vô sở úy, nên tâm không khiếp nhược. Vì nơi pháp tự tại, nên không ai hơn được. Vì Bát Nhã Ba La Mật tự tại, nên pháp tướng nói ra, chẳng trái nghịch. Vì biện tài tự tại, nên tùy thích thuyết pháp liên tục chẳng dứt. Vì Đà La Ni tự tại, nên tùy sự diễn nói, khai mở đủ thứ môn ví dụ. Vì đại bi tự tại, nên siêng dạy chúng sinh, tâm chẳng giải đãi ngừng nghỉ. Vì đại từ tự tại, nên phóng lưới quang minh, vui lòng đại chúng.

Vì Bồ Tát khéo biết tâm của tất cả chúng sinh, cho nên khắp thị hiện thân để vì họ nói pháp. Vì Bồ Tát khéo nói pháp, cho nên âm thanh chẳng có chướng ngại, rất thanh tịnh. Vì Bồ Tát đắc được tâm tự tại, cho nên phương tiện khéo léo nói tất cả pháp lớn, tất cả ma vương chẳng cách chi phá hoại được, chẳng cách chi cản trở. Vì Bồ Tát đắc được bốn vô sở úy (tổng trì vô sở úy, tri căn vô sở úy, quyết nghi vô sở úy, đáp nạn vô sở úy), cho nên tâm chẳng khiếp nhược, cũng chẳng sợ hãi. Vì Bồ Tát đối với các pháp đắc được tự tại, cho nên chẳng có ai hơn được. Vì Bồ Tát đối với trí huệ đắc được tự tại, cho nên chẳng có ai thắng hơn được. Vì Bồ Tát đối với Bát Nhã Ba La Mật đắc được tự tại, cho nên nói pháp tướng, chẳng trái nghịch nhau. Nói ngang nói dọc, nói sao cũng có đạo lý. Vì Bồ Tát đắc được biện tài tự tại, cho nên hay tùy theo tâm ưa thích, mà vì họ nói pháp, liên tục chẳng dứt. Vì Bồ Tát đối với Ðà la ni được tự tại, hay quyết định khai thị pháp ấn các pháp thật tướng. Vì Bồ Tát đối với biện tài được tự tại, lúc nào ở đâu cũng có thể nói diệu pháp, khai mở đủ thứ môn ví dụ, để giải thích nói nghĩa lý của các pháp thật tướng. Vì Bồ Tát có tâm đại bi tự tại, hay siêng năng giáo hóa chúng sinh nên trong tâm chảng có giải đãi và nghỉ ngơi. Vì Bồ Tát có tâm đại từ tự tại, nên phóng ra lưới quang minh trí huệ, để chiếu khắp chúng sinh, khiến cho sinh tâm hoan hỷ. Bồ Tát dùng mười lực tự tại này để khiến cho chúng sinh gieo trồng căn lành, tăng trưởng pháp thanh tịnh.

Bồ Tát ngồi trên tòa sư tử cao rộng như vậy, để diễn nói pháp lớn. Trừ Như Lai và các đại Bồ Tát thắng nguyện trí ra, các chúng sinh khác không ai thắng hơn được, không ai thấy đảnh được, không ai chói sáng hơn được. Có ai muốn vấn nạn, khiến cho bị thua, không thể nào có được.

Bồ Tát ngồi trên tòa sư tử cao rộng như vậy, diễn nói pháp lớn thật tướng. Pháp của Ngài nói ra, ngoại trừ chư Phật và các đại Bồ Tát nguyện thù thắng, trí thù thắng ra, các chúng sinh khác, không ai thắng hơn được. Cũng chẳng có chúng sinh nào cao hơn Ngài được, không ai phóng quang minh chói sáng hơn được. Nếu như có chúng sinh muốn đến vấn nạn, khiến cho Bồ Tát chẳng có cách chi đáp được, khiến cho Bồ Tát bị thua. Ðây là chuyện không bao giờ có, chẳng bao giờ xảy ra.

Phật tử ! Đại Bồ Tát được sức tự tại như vậy rồi. Nếu như có lượng thế giới bất khả thuyết đạo tràng rộng lớn đầy dẫy chúng sinh. Mỗi mỗi chúng sinh oai đức sắc tướng, đều như chủ ba ngàn đại thiên thế giới. Bồ Tát ở nơi đó, vừa hiện thân thì chiếu sáng che lấp đại chúng trên đây. Dùng đại từ bi an ủi chúng sinh khiếp nhược. Dùng trí huệ thâm sâu quán sát sự ưa muốn của họ. Dùng biện tài vô úy vì họ nói pháp, hay khiến cho tất cả đều sinh tâm hoan hỷ. Tại sao ?

Bồ Tát Pháp Huệ đối với Bồ Tát Tinh Tấn Huệ lại gọi một tiếng đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát trong Bồ Tát, đắc được mười lực tự tại rồi, nếu như có lượng thế giới nhiều bất khả thuyết, hết thảy chúng sinh ở trong đạo tràng rộng lớn, mỗi chúng sinh đều đầy đủ ba mươi hai tướng và tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân, sắc tướng oai đức như chủ ba ngàn đại thiên thế giới. Bồ Tát ở trong đó, nếu hiện thân thì quang minh chiếu soi đại chúng ba ngàn đại thiên thế giới. Bồ Tát dùng tâm đại từ đại bi để an ủi chúng sinh khiếp nhược, khiến cho họ đừng sinh tâm sợ hãi. Bồ Tát dùng Bát Nhã trí huệ thâm sâu, để quán sát sự ưa muốn trong tâm của chúng sinh. Bồ Tát dùng biện tài vô úy, để vì chúng sinh nói pháp. Khiến cho tất cả chúng sinh, sinh tâm hoan hỷ, tiếp thọ Phật pháp, y pháp tu hành. Tại sao Bồ Tát có oai đức thế lực lớn như thế ?

Phật tử ! Vì đại Bồ Tát thành tựu vô lượng trí huệ luân. Vì thành tựu vô lượng phân biệt khéo léo. Vì thành tựu sức chánh niệm rộng lớn. Vì thành tựu vô tận trí huệ khéo léo. Vì thành tựu quyết định thấu rõ các pháp thật tướng đà la ni. Vì thành tựu vô biên tế bồ đề tâm. Vì thành tựu diệu biện tài không sai lầm. Vì thành tựu được tất cả Phật gia trì tin hiểu thâm sâu. Vì thành tựu khắp nhập vào sức trí huệ đạo tràng chúng hội của chư Phật ba đời. Vì thành tựu biết chư Phật ba đời đồng một thể tánh tâm thanh tịnh. Vì thành tựu ba đời tất cả trí huệ Như Lai, tất cả Bồ Tát đại nguyện trí, hay làm đại pháp sư, khai thị xiển dương tạng chánh pháp của chư Phật và hộ trì.

Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng đệ tử của Phật ! Ðại Bồ Tát trong Bồ Tát, vì phát tâm bồ đề, cho nên thành tựu vô lượng trí huệ luân. Vì thành tựu vô lượng phân biệt khéo léo. Vì thành tựu sức chánh niệm chánh tri chánh kiến rộng lớn. Vì thành tựu vô tận trí huệ khéo léo. Vì thành tựu quyết định thấu rõ đạo lý các pháp thật tướng, chứng được tổng trì tam muội. Vì thành tựu tâm bồ đề vô biên tế. Vì thành tựu tam muội diệu biện tài không sai lầm. Vì thành tựu đắc được tất cả chư Phật đến gia trì, tức là dùng nước cam lồ để quán đảnh, hoặc chư Phật dùng tay rờ đầu, hoặc chư Phật phóng quang minh để gia bị, khiến cho sinh tâm tin hiểu sâu xa. Vì thành tựu khắp nhập vào sức đại trí huệ trong đạo tràng chúng hội của chư Phật ba đời, cho nên tiếp thọ được pháp của chư Phật nói. Vì thành tựu biết được chư Phật ba đời đồng một thể tánh, tức cũng là cùng một pháp thân, là bình đẳng, vì tâm thanh tịnh. Vì thành tựu trí huệ của chư Phật ba đời, thành tựu đại nguyện đại trí của tất cả Bồ Tát, hay làm đại pháp sư, khai xiển chánh pháp nhãn tạng của tất cả chư Phật, và còn hộ trì chánh pháp nhãn tạng của chư Phật.

Bấy giờ, Bồ Tát Pháp Huệ muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nương thần lực của Phật mà nói kệ rằng.

Lúc đó, Bồ Tát Pháp Huệ rất từ bi, sợ rằng đại chúng trong pháp hội Hoa Nghiêm, nghe đạo lý kinh trường hàng vẫn chưa thấu hiểu cho lắm, cho nên muốn thuật lại tỉ mỉ hơn. Bèn nương đại oai thần lực, sự gia trì của mười phương chư Phật. Dùng kệ để nói rõ đạo lý ở trên, hy vọng mọi người hãy chú ý lắng nghe, đừng ngủ, đây là cơ hội ngàn năm khó gặp được, đừng để bỏ lỡ cơ hội. Nếu không chú ý nghe thì nhất định sẽ hối hận !

Tâm trụ bồ đề tu các phước
Thường chẳng phóng dật trồng kiên huệ
Chánh niệm tâm ý luôn không quên
Mười phương chư Phật đều hoan hỷ.

Bồ Tát phát tâm bồ đề, tu tập hạnh bồ đề. Tu hành mới có thể phước huệ đều đầy đủ. Phước đủ thì mới có đại oai đức, huệ đủ thì mới có đại quang minh, cho nên nói tâm trụ bồ đề, tụ tập tất cả các phước. Bồ Tát nhận chân tu hành, thời khắc chẳng phóng dật, nghiêm trì giới luật, gieo trồng tài bồi huệ lực kiên cố. Bồ Tát chánh niệm, tức là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, thời khắc chẳng quên công đức Tam Bảo. Vì vừa tu huệ, vừa tu phước, lại gần gũi Tam Bảo, lại cúng dường Tam Bảo, cho nên mười phương chư Phật đều đại hoan hỷ.

Chí nguyện kiên cố tự siêng gắng
Nơi đời không nương không thối khiếp
Dùng hạnh vô tránh vào pháp sâu
Mười phương chư Phật đều hoan hỷ.

Bồ Tát tu hành tâm niệm và chí nguyện rất kiên cố. Siêng năng tu tập, tự cố gắng cổ lệ chính mình. Ở trên thế gian này, chẳng chỗ nương tựa, cũng chẳng sinh tâm thối lùi khiếp nhược. Dùng hạnh môn vô tranh luận, nhập vào tạng pháp của Phật. Nếu tu hành như vậy, thì mười phương chư Phật nhất định sẽ đại hoan hỷ.

Phật hoan hỷ rồi kiên tinh tấn
Tu hành phước trí trợ đạo pháp
Nhập vào các địa tịnh các hạnh
Mãn túc nguyện của Như Lai nói.

Chư Phật tức nhiên hoan hỷ, Bồ Tát càng phải dùng tâm kiên cố để dũng mãnh tinh tấn tu đạo bồ đề. Tu phước tu huệ, đây là pháp trợ đạo. Tu ba mươi bảy đạo phẩm, tu bốn đế, mười hai nhân duyên, tu lục độ vạn hạnh. Nhập vào các địa thanh tịnh, sẽ đầy đủ tất cả đại nguyện của chư Phật nói.

Như vậy mà tu được diệu pháp
Tức được pháp rồi thí quần sinh
Tùy tâm họ thích và căn tánh
Đều thuận cơ nghi vì khai diễn.

Tu đủ thứ pháp môn như vậy, sẽ đắc được tất cả diệu pháp. Tức nhiên đắc được diệu pháp rồi, lại đem bố thí cho tất cả chúng sinh, khiến cho họ cũng đắc được diệu pháp. Ðó là tinh thần của Bồ Tát. Ðừng học tôn giả Châu Lợi Bàn Ðà, là đệ tử của Phật, một trong mười sáu đại A la hán.
Thuở xưa Ngài là đại thiện tri thức, có năm trăm vị đệ tử. Song, ông ta rất bỏn xẻn pháp, chẳng chịu nói pháp cho đệ tử, cho nên đầu thai làm tôn giả Châu Lợi Bàn Ðà thì rất ngu si. Nếu ai đắc được pháp mà chẳng nói pháp, thì tương lai nhất định là người ngu si nhất, tại sao ? Vì chẳng tu huệ ! Cho nên phải tùy thuận tâm ưa thích và căn tánh của chúng sinh, hoàn toàn thuận cơ nghi với chúng sinh, để vì họ khai xiển diễn nói diệu pháp.

Bồ Tát vì họ diễn nói pháp
Chẳng xả hạnh các độ của mình
Đạo Ba La Mật đã thành tựu
Thường trong các cõi cứu quần sinh.

Bồ Tát tự đắc được diệu pháp, sau đó vì chúng sinh diễn nói diệu pháp. Bồ Tát vẫn tiếp tục nỗ lực tinh tấn, chẳng xả bỏ pháp môn tu hành lục độ vạn hạnh của mình. Tuy nhiên đến được pháp bờ bên kia, Ngài tu đã thành công, nhưng thường ở trong tam giới các cõi, cứu tế tất cả chúng sinh thọ khổ, khiến cho họ cũng lìa khổ được vui. Do đó :

“Biển khổ vô biên, hồi đầu là bờ.’’

Chúng ta chúng sinh là chạy ngược lại với đạo, đi lầm vào đường tà, càng đi càng xa nhà. Nếu quay trở lại thì nhất định sẽ trở về ngôi nhà của mình vốn có, đó là các cõi Phật.

Ngày đêm siêng tu chẳng giải đãi
Khiến giống Tam Bảo chẳng đoạn tuyệt
Tu hành tất cả pháp thanh tịnh
Đều hồi hướng về cõi Như Lai.

Bồ Tát ngày đêm sáu thời, siêng năng tu tập các pháp, chẳng có giải đãi, chẳng có mỏi mệt. Khiến cho hạt giống Phật Pháp Tăng vĩnh viễn chẳng đoạn tuyệt. Tu hành tất cả pháp thanh tịnh, thảy đều hồi hướng về cõi nước chư Phật thanh tịnh trang nghiêm.

Bồ Tát tu hành các hạnh lành
Khắp vì thành tựu các quần sinh
Khiến họ phá tối diệt phiền não
Hàng phục ma quân thành chánh giác.

Bồ Tát thành tựu tất cả hạnh môn, khắp vì thành tựu tất cả chúng sinh, khiến cho họ phá tan vô minh đen tối, tiêu diệt phiền não chấp trước, phải hàng phục ma quân, chế ngự ngoại đạo, sau đó thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Như vậy tu hành được Phật trí
Vào sâu chánh pháp tạng Như Lai
Làm đại pháp sư diễn diệu pháp
Ví như cam lồ đều thấm nhuần.

Bồ Tát tu hành như vậy, mới viên mãn thành tựu trí huệ của mười phương chư Phật, vào sâu chánh pháp nhãn tạng của chư Phật. Hay ở trong mười phương thế giới làm đại pháp sư, diễn nói tất cả diệu pháp. Ví như cam lồ vì chúng sinh quán đảnh, khiến cho họ được thấm nhuần.

Từ bi thương xót khắp tất cả 
Tâm hạnh chúng sinh đều biết hết
Theo chỗ họ thích vì khai triển
Vô lượng vô biên các Phật pháp.

Bồ Tát có nguyện lực từ bi, thương xót tất cả chúng sinh, cho nên chẳng ngại gian khổ, mà khắp cùng mười phương tất cả thế giới để giáo hóa chúng sinh. Hết thảy tâm niệm và hành vi của chúng sinh, Bồ Tát đều biết rõ ràng. Bồ Tát tùy thuận tâm ưa thích của chúng sinh, mà vì họ khai xiển diễn nói vô lượng vô biên diệu pháp của chư Phật nói.

Tiến dừng an chậm như voi chúa
Dũng mãnh chẳng sợ dường sư tử
Bất động như núi trí như biển
Cũng như mưa lớn trừ nóng bức.

Hành động của Bồ Tát hoặc tiến tới, hoặc dừng lại, hoặc an ổn bộ hành, hoặc đi bộ chầm chậm, giống như voi chúa lớn. Lúc tiến về trước thì đi về trước. Lúc lùi về sau thì lùi về sau. Tại sao ? Vì thời khắc phải chiếu cứ bầy voi an toàn. Bồ Tát tu hành lục độ vạn hạnh, chẳng phát sinh khó khăn. Giống như sự dũng mãnh của sư tử. Sư tử là vua của loài thú, cho nên chẳng sợ hãi. Bồ Tát như như bất động, giống như núi Tu Di. Trí huệ rộng lớn như biển cả, giống như mưa lớn, tiêu trừ phiền não nóng bức của tất cả chúng sinh, khiến cho họ được mát mẻ.

Bấy giờ, Bồ Tát Pháp Huệ nói bài kệ đó rồi. Như Lai hoan hỷ, đại chúng phụng hành.

Lúc đó, vị Bồ Tát Pháp Huệ nói bài kệ này xong rồi, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nghe Bồ Tát Pháp Huệ nói xong rồi, sinh đại hoan hỷ. Ðại chúng ở trong pháp hội Hoa Nghiêm cũng đều đại hoan hỷ, tin thọ phụng hành.