SỐ 1667/2
LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN
Bồ-tát Mã Minh tạo luận
Tam tạng Thật-xoa-nan-đà dịch,
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN THƯỢNG

Kính lễ 10 phương Phật

Khắp làm lợi ích lớn,

Trí vô ngại tự tại,

Đấng cứu hộ thế gian.

Và biển thể tướng kia,

Lý pháp nghĩa vô ngã.

Thánh tăng đức vô biên,

Bậc cần cầu chính giác.

Vì muốn khiến chúng sinh

Trừ nghi bỏ tà chấp,

Khởi tin nối giống Phật,

Nên con làm luận này.

Luận:

Vì muốn phát khởi lòng tin thanh tịnh vào Đại thừa, dứt các nghi ám tà chấp của chúng sinh, làm cho dòng giống Phật liên tục không dứt nên tạo luận này.

Có pháp có thể phát sinh tín căn Đại thừa cho nên phải thuyết minh pháp đó.

Thuyết minh được chia làm 5 phần:

  1. Tác nhân.
  2. Lập nghĩa.
  3. Giải thích.
  4. Tu tín.
  5. Lợi ích.

Trong đây phần tác nhân có 8:

1. Tướng chung là làm cho chúng sinh lìa khổ được vui, chứ không vì tham cầu lợi dưỡng.

2. Làm rõ thật nghĩa căn bản của Như Lai khiến các chúng sinh hiểu đúng.

3. Làm cho chúng sinh thiện căn thành thục không thoái tín tâm đủ sức đảm nhiệm pháp Đại thừa.

4. Làm cho chúng sinh có ít thiện căn phát khởi tín tâm không thoái lui.

5. Làm cho chúng sinh tiêu trừ nghiệp chướng, điều phục tâm mình thoát khỏi 3 độc.

6. Làm cho chúng sinh tu tập đúng pháp chỉ quán, đối trị lỗi lầm của tâm phàm phu Tiểu thừa.

7. Làm cho chúng sinh tư duy như lý của pháp Đại thừa, được sinh trước mặt Phật, quyết không thoái lui lòng tin Đại thừa.

8. Làm rõ lợi ích của sự tin ưa Đại thừa, khuyên loài hàm thức quy hướng.

Nghĩa các câu trên đây tuy trong các kinh Đại thừa đều có đủ, nhưng do căn cơ giáo hóa và ý muốn không đồng, nhân duyên để hiểu có khác, vì vậy mà tạo luận.

Thế là thế nào?

Nghĩa là khi Như Lai tại thế chúng sinh được giáo hóa thì căn cơ linh lợi, Phật thì sắc tâm thù thắng, một lời Phật nói ra có vô biên ý nghĩa nên không phải luận.

Sau khi Phật Niết-bàn có người có thể dùng tự lực xem kinh ít mà hiểu nghĩa nhiều, có người phải đem sức mình xem rộng các kinh mới hiểu, có người không có trí lực nhờ người khác luận rộng ra mới hiểu được, cũng có người tự mình không có trí lực sợ nói rộng nghe nhiều, chỉ muốn luận tóm lược mà bao gồm nghĩa rộng lớn để chính mình tu hành. Tôi nay vì hạng người sau cùng, sơ lược tóm thâu vô biên nghĩa rất sâu thù thắng nhất của Như Lai mà tạo luận này.

Thế nào là phần lập nghĩa?

Là Đại thừa sơ lược có 2 thứ: Hữu pháp và pháp.

Nói hữu pháp, là tâm của tất cả chúng sinh. Tâm này tóm thâu tất cả pháp thế gian và xuất thế gian. Do tâm đây mà hiển thị nghĩa của Đại thừa. Bởi vì tướng chân như của tâm này là chỉ cho cái thể của Đại thừa. Cho nên tướng nhân duyên sinh diệt của tâm này có thể hiển thị thể tướng dụng của Đại thừa.

Nói pháp thì sơ lược có 3 thứ:

1. Thể đại, nghĩa là chân như của tất cả pháp dù ở trong nhiễm hay ở trong tịnh, tính vẫn thường bình đẳng, không thêm bớt sai khác.

2. Tướng đại, nghĩa là Như Lai tạng vốn đầy đủ vô lượng vô biên tính công đức.

3. Dụng đại, nghĩa là có thể sinh tất cả nhân quả thiện thế gian và xuất thế gian. Cho nên tất cả chư Phật vốn vận dụng pháp này, tất cả Bồ-tát đều do pháp này mà vào địa vị Phật.

Thế nào là phân giải thích?

Đây có 3 thứ: hiển thị thật nghĩa, đối trị tà chấp, và phân biệt tướng tu hành chính đạo.

Trong đây, hiển thị thật nghĩa, tức là do nơi một tâm mà có 2 môn. Đó là tâm chân như môn và tâm sinh diệt môn.

Hai môn này mỗi môn đều bao gồm tất cả pháp, vì 2 môn này không tách rời nhau.

Tâm chân như, tức là thể của pháp môn đại tổng tướng của tất cả pháp giới. Vì bản tính của tâm không sinh không diệt. Tất cả các pháp đều do vọng niệm mà có sai khác. Nếu lìa vọng niệm thì không có tướng cảnh giới sai khác. Cho nên các pháp xưa nay tính lìa ngôn ngữ, văn tự không thể nói rõ, lìa tâm phan duyên không có các tướng, rốt ráo bình đẳng hằng không biến đổi không thể phá hoại, chỉ là một tâm gọi là chân như.

Bởi chân như nên từ bản lai không thể nói, không thể phân biệt. Tất cả lời nói chỉ là giả chẳng phải thật, chỉ theo vọng niệm mà không thực có.

Nói chân như cũng không có tướng. Chỉ là trong cùng cực của tất cả ngôn thuyết là dùng lời nói bác bỏ lời nói, chẳng phải thể tính chân như có chút gì có thể bác bỏ hay có chút gì để thành lập.

Hỏi: Nếu vậy chúng sinh làm sao tùy thuận ngộ nhập?

Đáp: Nếu biết tuy nói tất cả pháp mà không có người nói ra, không có pháp được nói. Tuy nghĩ tất cả pháp mà không có ai nghĩ không có pháp được nghĩ tới. Bấy giờ sự đuổi theo vọng niệm đều hết gọi là ngộ nhập.

Lại nữa, chân như là dựa vào ngôn thuyết thiết lập thì có 2 nghĩa:

1. Chân thật không, là rốt ráo xa lìa tướng không thật, làm rõ thật thể.

2. Chân thật bất không, là có tự thể, bản tính đầy đủ vô biên công đức.

Lại nữa, chân thật không là từ bản lai không tương ưng với tất cả nhiễm pháp, lìa tướng sai biệt của tất cả pháp cho nên không có tâm hư vọng phân biệt. Phải biết chân như chẳng phải tướng có, chẳng phải tướng không, chẳng phải tướng có không, chẳng phải tướng chẳng có không, chẳng phải tướng một, chẳng phải tướng khác, chẳng phải tướng một khác, chẳng phải tướng chẳng phải một khác.

Nói tóm lược là vì cái vọng tâm phân biệt của tất cả chúng sinh, không thể chạm xúc được nên lập ra là không. Căn cứ theo thật đạo lý thì vọng niệm chẳng phải có, không tính cũng không bởi cái bị ngăn chận là không mà cái khả năng ngăn chận cũng không.

Nói chân thật bất không, là do không có vọng niệm tức hiển thị cái chân tâm thường hằng không biến đổi, viên mãn pháp thanh tịnh nên gọi bất không. Cái bất không cũng không có tướng bất không bởi không phải do tâm vọng niệm tạo ra mà chỉ trí lìa niệm chứng được mà thôi.

Tâm sinh diệt môn, nghĩa là dựa vào Như Lai tạng mà có tâm sinh diệt chuyển. Cái không sinh diệt hòa hợp với sinh diệt, 2 cái đó chẳng phải một chẳng phải khác, gọi đó là thức A-lại-da. Thức này có 2 nghĩa là khả năng thâu giữ tất cả pháp và khả năng phát sinh tất cả pháp.

Lại có 2 nghĩa, là nghĩa của giác và nghĩa của bất giác.

Nói nghĩa của giác là Đệ nhất nghĩa của tâm. Tính của nó lìa tất cả tướng vọng niệm. Vì lìa tất cả tướng vọng niệm nên sánh bằng cõi hư không, không đâu không cùng khắp.

Pháp giới một tướng tức là pháp thân bình đẳng của tất cả Như Lai. Căn cứ pháp thân này mà nói tất cả Như Lai là bản giác.

Bởi đối đãi với thủy giác mà lập ra bản giác. Nhưng thủy giác tức là bản giác chứ không phải lập lên bởi một giác nào khác.

Thủy giác là do bản giác mà có bất giác. Do bất giác nên nói có thủy giác.

Lại nữa giác ngộ nguồn tâm nên gọi là cứu cánh giác. Không giác ngộ nguồn tâm nên gọi là phi cứu cánh giác. Như người phàm phu, niệm trước bất giác khởi phiền não, niệm sau chế ngự không cho sinh. Đây tuy gọi là giác mà tức là bất giác.

Như người phàm phu và Bồ-tát sơ nghiệp biết cái thể của hữu niệm vô niệm có khác nhau để xả bỏ thô phân biệt cho nên gọi là tương tự giác.

Như pháp thân Bồ-tát biết niệm hay vô niệm đều không có tướng, xả bỏ trung phẩm phân biệt nên gọi là tùy phần giác.

Nếu vượt quá Bồ-tát địa, đầy đủ cứu cánh đạo, nhất niệm tương ưng giác tâm sơ khởi mới gọi là giác, xa lìa tướng giác vĩnh viễn hết rốt ráo các vi tế phân biệt, tâm căn bản tính thường trụ hiện tiền, đó là Như Lai, gọi là cứu cánh giác.

Cho nên kinh nói: Nếu có chúng sinh quán được tất cả vọng niệm là vô tướng, tức chứng được trí tuệ của Như Lai.

Lại nữa, nói tâm sơ khởi là chỉ tùy theo thế tục mà nói, chứ cầu cái sơ tướng là hoàn toàn không thể được. Tâm còn không có làm gì có sơ.

Cho nên tất cả chúng sinh không gọi là giác, bởi lẽ từ vô thủy đến nay hằng có vô minh vọng niệm liên tục chưa từng rời bỏ. Nếu dứt vọng niệm tức biết tâm tướng sinh trụ dị diệt đều không có tướng. Bởi trong một tâm, trước, sau, đồng thời, đều không tương ưng vì không tự tính. Biết như vậy rồi thì biết thủy giác là không thể có được vì nó không khác bản giác.

Lại nữa bản giác theo nhiễm sinh ra 2 tướng khác nhau: tướng trí thanh tịnh và tướng dụng không thể nghĩ bàn.

Tướng trí thanh tịnh, nghĩa là theo sự huân tập của chính pháp, như thật tu hành công hạnh viên mãn, phá vỡ sự hòa hợp của thức, diệt tướng chuyển thức, hiển hiện trí thanh tịnh của pháp thân.

Tất cả tướng của tâm thức là tướng vô minh. Tướng vô minh đó với bản giác chẳng phải một chẳng phải khác, chẳng phải có thể hoại, cũng chẳng phải không thể hoại.

Như nước biển và sóng chẳng phải một chẳng phải khác. Sóng là do gió động, chẳng phải tính nước động. Nếu gió ngừng thì sóng hết động chứ chẳng phải tính nước diệt mất.

Chúng sinh cũng vậy. Tự tính thanh tịnh tâm do gió vô minh động làm nổi lên sóng thức. Như vậy 3 thứ đều không hình tướng, chẳng phải một chẳng phải khác.

Nhưng tính tịnh tâm là căn bản của thức động. Khi vô minh diệt động thức cũng diệt theo nhưng trí tính không hoại.

Tướng dụng không thể nghĩ bàn, nghĩa là do trí thanh tịnh có thể sinh khởi tất cả cảnh giới thắng diệu thường không tuyệt dứt.

Nghĩa là thân Như Lai đầy đủ công đức vô lượng thắng thượng, tùy theo căn cơ chúng sinh mà thị hiện thành tựu vô lượng lợi ích.

Lại nữa tướng của bản giác có 4 nghĩa lớn như hư không, giống như một gương sáng:

1. Nghĩa lớn của chân thật không, như gương sáng hư không. Nghĩa là tất cả tướng cảnh giới của tâm và tướng giác đều không thể có được.

2. Nghĩa lớn của chân thật bất không, như gương sáng hư không. Nghĩa là tính của tất cả pháp viên mãn thành tựu, không thể hoại. Tướng cảnh giới của tất cả thế gian đều hiện trong đó, thường trụ một tâm không ra không vào không mất không hoại, tất cả pháp nhiễm không thể nhiễm, thể của trí đầy đủ, vô biên vô lậu công đức làm nhân huân tập tất cả tâm chúng sinh.

3. Nghĩa lớn của chân thật bất không lìa tướng, như gương sáng hư không. Nghĩa là 2 chướng phiền não và sở tri vĩnh viễn dứt, hòa hợp thức diệt, bản tính thanh tịnh thường an trụ.

4. Nghĩa lớn của chân thật bất không thị hiện như gương sáng hư không. Nghĩa là dựa vào pháp lìa chướng mà theo đó ứng hóa, hiện các thứ sắc thanh của Như Lai khiến chúng sinh tu hành các thiện căn.

Nghĩa của bất giác, nghĩa là từ vô thủy đến nay không biết như thật rằng pháp chân thật là một, nên tâm bất giác khởi thành ra có vọng niệm. Nhưng vọng niệm đó tự nó không có thật tướng và không rời bản giác.

Giống như người theo phương hướng mà mê lầm. Mê cái không có tự tướng mà không rời phương hướng. Chúng sinh cũng vậy, do nơi giác mà có bất giác vọng niệm mê sinh. Nhưng cái bất giác kia tự không có thật tướng, không tách rời bản giác, lại do đối đãi với bất giác mà nói chân giác. Bất giác đã không có thì chân giác cũng loại trừ.

Lại nữa, do nơi giác mà có bất giác sinh ra 3 tướng không tách rời nhau:

1. Tướng của nghiệp vô minh. Bởi do bất giác tâm động thành nghiệp. Giác thì không động, động tức có khổ vì quả không tách rời nhân.

2. Tướng năng kiến. Nghĩa là do tâm động nên thấy có cảnh giới, không động thì không thấy.

3. Tướng của cảnh giới. Nghĩa là do năng kiến mà tướng vọng kiến hiện ra, lìa năng kiến thì không có cảnh.

Do duyên cảnh giới hư vọng nên lại sinh ra 6 tướng:

1. Tướng trí. Nghĩa là duyên cảnh giới sinh tâm yêu thích không yêu thích.

2. Tướng liên tục. Nghĩa là do tướng trí mà có cảm giác khổ vui, ý niệm về tướng khổ vui tương ưng không dứt.

3. Tướng chấp trước. Nghĩa là do ý niệm về cảm giác khổ vui liên tục mà sinh chấp trước.

4. Tướng chấp các tên gọi. Nghĩa là do chấp trước phân biệt tên gọi v.v… mà lập nên các tướng.

5. Tướng khởi nghiệp. Nghĩa là do chấp tên gọi v.v… mà khởi các nghiệp khác nhau.

6. Tướng nghiệp buộc khổ. Nghĩa là do nghiệp chịu khổ không được tự tại.

Cho nên phải biết tất cả pháp nhiễm đều không có tướng, đều do vô minh sinh khởi.

Lại nữa giác với bất giác có 2 tướng là đồng nhau và khác nhau.

Tướng đồng nhau là như các loại đồ gốm đều đồng tướng đất. Cũng vậy các huyễn dụng của vô lậu vô minh đều đồng là tướng của chân như. Cho nên Phật nói tất cả chúng sinh từ vô thủy đến nay thường nhập Niết-bàn Bồ-đề, không phải là tướng tu được, không phải tướng có thế sinh ra, hoàn toàn không có gì được cả.

Không có sắc tướng có thể thấy. Phải biết thấy sắc tướng đều là theo huyễn dụng của nhiễm mà ra, không phải tướng bất không của trí sắc, bởi trí tướng là không thể có được.

Nói tướng khác nhau là như nhiều thứ đồ gốm khác nhau. Đây cũng vậy tướng huyễn dụng của vô lậu và vô minh đều khác nhau.

Lại nữa, nhân duyên của sinh diệt nghĩa là chúng sinh do tâm, ý thức chuyển.

Nghĩa này là thế nào?

Nghĩa là do thức A-lại-da mà nói vô minh bất giác khởi lên có thể thấy, có thể hiện, có thể thủ lấy cảnh giới phân biệt liên tục nên gọi là ý.

Ý đó lại có 5 tên khác nhau:

1. Nghiệp thức. Nghĩa là sức của vô minh làm cho bất giác tâm động.

2. Chuyển thức. Nghĩa là do động tâm mà thấy có cảnh tướng.

3. Hiện thức. Nghĩa là hiện tướng tất cả các cảnh giới. Giống như gương sáng hiện các sắc tượng, hiện thức cũng vậy. Như 5 đối cảnh đến thì liền hiện, không có trước sau, không do công sức.

4. Trí thức. Nghĩa là phân biệt các pháp nhiễm tịnh sai biệt.

5. Tương tục thức. Nghĩa là thường xuyên tác ý tương ưng không dứt, duy trì một cách tự nhiên không làm hỏng mất các nghiệp thiện ác quá khứ, làm chin muồi quả báo khổ vui trong hiện tại vị lai không cho sai sót, làm bổng nhiên nhớ lại những gì đã qua hoặc vọng sinh phân biệt những gì chưa xảy đến. Cho nên trong 3 cõi tất cả đều lấy tâm làm tự tính, lìa tâm không có cảnh giới 6 trần.

Bởi vì sao?

Vì tất cả các pháp do tâm làm chủ từ vọng niệm khởi. Tất cả mọi phân biệt đều phân biệt nơi tự tâm. Nhưng tâm không thấy tâm, không có tướng để thấy. Cho nên phải biết tất cả tướng của cảnh giới thế gian đều do vô minh vọng niệm của chúng sinh mà được thành lập. Như hình ảnh trong gương không có tự thể, chỉ do tâm phân biệt hư vọng chuyển. Vì tâm sinh thì các thứ pháp sinh, tâm diệt thì các thứ pháp diệt.

Nói ý thức, nghĩa là tất cả phàm phu do tương tục thức chấp ngã ngã sở mà vọng thủ 6 thứ cảnh giới. Cũng gọi là phân ly thức, cũng gọi là phân biệt sự thức, vì do kiến ái v.v… huân tập mà tăng trưởng.

Vô thủy vô minh huân tập mà sinh khởi thức, điều đó không phải trí tuệ phàm phu hay Nhị thừa có thể biết được. Giải hành địa Bồ-tát mới học quan sát, pháp thân Bồ-tát thì có thể biết được một phần ít, cho đến cứu cánh địa còn chưa biết hết được, chỉ có Như Lai mới có thể rõ thấu.

Nghĩa này là thế nào?

Vì tâm tính bản lai thanh tịnh, vì sức của vô minh nên tướng của nhiễm tâm hiện ra. Tuy có nhiễm tâm mà thường sáng sạch không biến đổi.

Lại nữa, vì bản tính là vô phân biệt cho nên tuy sinh khởi khắp tất cả cảnh giới mà không biến đổi. Do không biết lý một pháp giới nên không tương ưng, vô minh phân biệt khởi nên sinh các nhiễm tâm. Nghĩa đó rất sâu khó lường chỉ có Phật, ngoài ra không ai biết được.

Nhiễm tâm này có 6 thứ:

1. Chấp tương ưng nhiễm. Nhiễm tâm này Thanh Văn, Duyên Giác và các Bồ-tát bậc tín tương ưng có thể xa lìa.

2. Bất đoạn tương ưng nhiễm. Nhiễm tâm này sức tu tập siêng năng của tín địa Bồ-tát có thể lìa bỏ một phần ít, đến tịnh tâm địa mới hết vĩnh viễn và không sót.

3. Phân biệt trí tương ưng nhiễm. Nhiễm tâm này từ cụ giới địa cho đến cụ tuệ địa có thể lìa bỏ một phần ít, đến vô tướng hành địa mới hết vĩnh viễn.

4. Hiện sắc bất tương ưng nhiễm. Nhiễm tâm này thì sắc tự tại địa lìa bỏ được.

5. Kiến tâm bất tương ưng nhiễm. Nhiễm tâm này thì tự tại địa trừ diệt được.

6. Căn bản nghiệp bất tương ưng nhiễm. Nhiễm tâm này từ Bồtát cứu cánh địa nhập vào Như Lai địa trừ diệt được.

Về nghĩa không rõ lý một pháp giới thì bắt đầu từ tín địa quán sát khởi hành, đến tịnh tâm địa có thể lìa bỏ một phần ít, nhập Như Lai địa mới hết vĩnh viễn.

Nghĩa của tương ưng, nghĩa là tâm phân biệt khác nhau, nhiễm tịnh phân biệt khác nhau, nhưng tướng biết và tướng duyên như nhau.

Nghĩa của bất tương ưng, nghĩa là tức tâm bất giác thường không riêng khác, mà tướng biết tướng duyên không giống nhau.

Nhiễm tâm, là phiền não chướng có thể chướng ngại chân như căn bản trí.

Vô minh, là sở tri chướng, có thể chướng ngại thế gian nghiệp tự tại trí.

Nghĩa này là thế nào?

Là vì nhiễm tâm chấp trước vô lượng cảnh giới hư vọng của năng thủ sở thủ trái với tính bình đẳng của tất cả pháp. Tính của tất cả pháp là bình đẳng, tịch diệt không có tướng sinh, do vô minh bất giác mà có vọng trái với giác. Cho nên đối với nghiệp dụng sai biệt các thứ cảnh giới của tất cả thế gian đều không biết được như thật.

Lại nữa tướng sinh diệt của tâm phân biệt có 2 thứ:

  1. Thô, tức tâm tương ưng.
  2. Tế, tức tâm bất tương ưng.

Thô trong thô là cảnh trí của phàm phu.

Tế trong thô và thô trong tế là cảnh trí của Bồ-tát.

Hai tướng này đều do sức huân tập của vô minh dựa vào nhân và dựa vào duyên khởi lên. Nhân là bất giác, duyên là vọng cảnh. Nhân diệt thì duyên diệt. Duyên diệt nên tâm tương ưng diệt. Nhân diệt nên tâm bất tương ưng diệt.

Hỏi: Nếu tâm diệt thì làm sao tiếp tục? Còn nếu tiếp tục thì làm sao nói diệt?

Đáp: Đúng vậy. Nay nói diệt là chỉ tướng của tâm diệt không phải thể của tâm diệt. Như nước do gió có tướng động, vì gió diệt nên tướng động liền diệt chứ không phải thể của nước diệt. Nếu nước diệt thì tướng động phải mất, vì không còn nương tựa và không có chỗ dựa. Bởi thể của nước không diệt nên tướng động tiếp tục. Chúng sinh cũng vậy, do sức của vô minh làm cho tâm động. Vô minh diệt diệt thì tướng động liền diệt, chẳng phải thể của tâm diệt. Nếu tâm diệt thì chúng sinh dứt mất vì không nương tựa cũng không có chỗ nương tựa. Bởi thể của tâm không diệt nên tâm động tiếp tục.

Lại nữa, do nghĩa của 4 pháp huân tập nên pháp nhiễm tịnh khởi không dứt.

  1. Pháp tịnh, tức chân như.
  2. Nhân của nhiễm, tức vô minh.
  3. Vọng tâm, tức nghiệp thức.
  4. Vọng cảnh, tức 6 trần.

Nghĩa của huân tập, là như áo mặc của thế gian vốn không có mùi, tùy theo xông ướp mà có mùi. Tính của pháp tịnh chân như vốn không có nhiễm, do vô minh huân tập nên có nhiễm. Pháp nhiễm vô minh thật sự không có nghiệp tịnh, do chân như huân tập nên nói có cái dụng thanh tịnh.

Vì sao pháp nhiễm huân tập không dứt?

Là vì do chân như nên khởi vô minh làm nhân các nhiễm, rồi cái vô minh này liền huân tập lại chân như. Đã huân tập rồi thì sinh tâm vọng niệm. Tâm vọng niệm này trở lại huân tập vô minh. Do huân tập nên không rõ pháp chân như, do bất giác nên hiện cảnh giới vọng. Do sức huân tập của tâm vọng niệm nên sinh các thứ chấp trước khác nhau tạo các nghiệp khác nhau thân tâm thụ các khổ báo.

Vọng cảnh huân tập có 2 nghĩa:

  1. Huân tập tăng trưởng phân biệt.
  2. Huân tập tăng trưởng chấp thủ.

Vọng tâm huân tập cũng có 2 nghĩa:

1. Huân tập làm tăng trưởng nghiệp thức căn bản khiến A-lahán, Bích-chi-phật và tất cả Bồ-tát chịu khổ sinh diệt.

2. Huân tập làm tăng trưởng sự thức phân biệt khiến các phàm phu thụ nghiệp buộc khổ.

Vô minh huân tập cũng có 2 nghĩa:

1. Huân tập căn bản làm thành tựu nghĩa của nghiệp thức.

2. Huân tập kiến ái làm thành tựu nghĩa của sự thức phân biệt.

Thế nào là không ngớt huân tập pháp tịnh?

Nghĩa là do chân như huân tập nơi vô minh, do sức nhân duyên huân tập nên khiên tâm vọng niệm chán khổ sinh tử cầu vui Niết-bàn. Do nhân duyên cái vọng tâm chán khổ cầu vui này trở lại huân tập chân như, do huân tập nên tự tin thân mình có pháp chân như bản tính thanh tịnh, biết tất cả cảnh giới là duy tâm thì rốt ráo không còn vọng động. Bởi biết như thật như vậy nên tu pháp xa lìa, khởi nhiều thứ hạnh tùy thuận, không phân biệt không chấp thủ, trải vô lượng kiếp A-tăng-kì do sức tập quen mà vô minh diệt. Vô minh diệt nên tâm không khởi tướng. Tâm không khởi nên tướng cảnh giới diệt. Như vậy tất cả nhân nhiễm, duyên nhiễm cho đến quả nhiễm, tướng của tâm đều diệt gọi là được Niết-bàn thành tựu các thứ nghiệp dụng tự tại.

Vọng tâm huân tập có 2 nghĩa:

1. Huân tập của phân biệt sự thức.khiến tất cả phàm phu Nhị thừa chán khổ sinh tử, tùy năng lực tiến tu đạo vô thượng.

2. Huân tập của ý khiến các Bồ-tát phát tâm dũng mãnh mau chóng ngộ nhập vô trụ Niết-bàn.

Chân như huân tập cũng có 2 nghĩa:

  1. Huân tập của thể.
  2. Huân tập của dụng.

Huân tập của thể, nghĩa là chân như từ vô thủy đến nay đầy đủ tất cả vô lượng vô lậu. Huân tập của dụng, nghĩa là đầy đủ cái cảnh giới thù thắng khó nghĩ bàn. Hai tính chất này thường xuyên huân tập tâm chúng sinh khiến các chúng sinh chán khổ sinh tử cầu vui Niếtbàn, tự tin bản thân mình có pháp chân thật mà phát tâm tu hành.

Hỏi: Nếu tất cả chúng sinh đồng có chân như và đều được huân tập thì sao có kẻ tin người không tin? Từ mới phát tâm cho đến Niếtbàn có vô lượng sai biệt trước sau không đồng nhau, lẽ ra tất cả đều phải đồng thời bình đẳng nhập Niết-bàn chứ?

Đáp: Tuy tất cả chúng sinh đều bình đẳng có chân như, nhưng từ vô thủy đến nay có vô lượng vô biên vô minh dày mỏng khác nhau còn nhiều hơn số cát sông Hằng. Các phiền não ngã kiến ngã ái trói buộc cũng như vậy, chỉ có trí của Như Lai mới biết được, cho nên khiến tin có sai khác trước sau là như vậy.

Lại nữa, pháp của chư Phật có nhân có duyên. Đủ nhân duyên mới thành sự. Như tính lửa trong cây. Cái nhân chính là lửa đó nếu không ai biết, hoặc biết mà không thi công mà muốn cho có lửa ra thiêu đốt cây cối là không có chuyện đó. Chúng sinh cũng vậy, tuy có cái thể chân như là sức chính nhân huân tập, nhưng không có duyên gặp Phật, Bồ-tát, thiện tri thức, hoặc không tu thắng hạnh, không sinh trí tuệ không đoạn phiền não mà được Niết-bàn là không có chuyện đó.

Lại nữa, tuy có duyên thiện tri thức nhưng giả như bên trong không có sức huân tập của chân như thì cũng không thể chán khổ sinh tử cầu vui Niết-bàn. Phải đủ nhân duyên mới được như vậy.

Sao gọi là đầy đủ?

Nghĩa là tự trong sự liên tục có sức huân tập như được chư Phật Bồ-tát từ bi hộ trì mới có thể chán khổ sinh tử tin có Niết-bàn, trồng các căn lành tu tập thành thục, lại được gặp chư Phật Bồ-tát chỉ dạy đường tu lợi lạc, khiến tu thắng hạnh cho đến thành Phật nhập Niết-bàn.

Huân tập của dụng, tức là cái sức ngoại duyên của chúng sinh có vô lượng nghĩa. Nói sơ lược có 2 thứ:

  1. Duyên sai biệt.
  2. Duyên bình đẳng.

Duyên sai biệt, nghĩa là các chúng sinh từ mới phát tâm cho đến thành Phật nhờ Phật Bồ-tát thiện tri thức tùy chỗ thích hợp hóa độ mà hiện thân, hoặc làm cha mẹ hoặc làm vợ con, hoặc làm quyến thuộc, hoặc làm người giúp việc, hoặc làm bạn bè quen biết, hoặc làm oan gia, hoặc lại thị hiện hình tượng Thiên vương, hoặc dùng Tứ nhiếp, hoặc dùng Lục độ cho đến tất cả Bồ-đề hành duyên, dùng tâm Đại bi nhu nhuyến, phúc trí tạng rộng lớn huân tập làm cho tất cả chúng sinh được hóa độ khiến chúng thấy nghe nghĩ nhớ hình tượng Như Lai v.v… mà thêm lớn căn lành.

Duyên này có 2:

  1. Duyên gần thì mau chứng Bồ-đề.
  2. Duyên xa thì lâu xa mới chứng.

Hai duyên này lại có 2 thứ khác nhau:

  1. Duyên tăng trưởng các hành.
  2. Duyên nhập đạo.

Duyên bình đẳng, nghĩa là tất cả chư Phật Bồ-tát đem trí tuệ bình đẳng, chí nguyện bình đẳng muốn cứu giúp tất cả chúng sinh liên tục tự nhiên không tuyệt dứt. Do trí tuệ và nguyện lực này huân tập chúng sinh khiến chúng nghĩ nhớ chư Phật Bồ-tát hoặc thấy hoặc nghe mà làm việc lợi ích, nhập tịnh Tam-muội tùy chỗ đoạn chướng được con mắt vô ngại, trong mỗi niệm mỗi niệm bình đẳng hiện thấy vô lượng chư Phật và Bồ-tát trong tất cả thế giới.

Sự huân tập của thể và huân tập của dụng này lại có 2 thứ:

  1. Chưa tương ưng.
  2. Đã tương ưng.

Chưa tương ưng, nghĩa là phàm phu Nhị thừa và Bồ-tát sơ phát tâm dùng ý, ý thức mà huân tập, chỉ dựa vào sức tin mà tu hành, chưa thể tu hành bằng tâm vô phân biệt, vì chưa tương ưng được với thể của chân như, chưa tu hành được tự tại nghiệp vì chưa tương ưng được với dụng của chân như.

Đã tương ưng, nghĩa là pháp thân Bồ-tát được tâm vô phân biệt, tương ưng với tự thể của tất cả Như Lai, được tự tại nghiệp vì tương ưng với trí dụng của tất cả Như Lai, chỉ theo pháp lực tu hành tự nhiên vì huân tập chân như diệt vô minh.

Lại nữa, huân tập nhiễm thì từ vô thủy đến nay không đoạn, thành Phật mới đoạn. huân tập tịnh thì cho đến tột vị lai hoàn toàn không đoạn vì pháp chân như huân tập cho nên vọng tâm thì diệt pháp thân thì hiển hiện, dụng huân tập khởi nên không có đoạn.

Lại nữa tướng của tự thể chân như thì ở nơi tất cả phàm phu Thanh Văn Duyên Giác Bồ-tát chư Phật không có thêm bớt, rốt ráo thường còn chẳng phải thời trước sinh thời sau diệt, từ vô thủy đến nay đầy đủ tất cả công đức. Có nghĩa trí tuệ lớn sáng suốt, có nghĩa soi khắp pháp giới, có nghĩa hiểu biết như thật, có nghĩa bản tính tâm thanh tịnh, có nghĩa thường lạc ngã tịnh, có nghĩa tự tại vắng lặng không biến đổi. Có như vậy Phật pháp không thể nghĩ bàn không tuyệt dứt còn hơn sô cát sông Hằng chẳng phải đồng chẳng phải khác. Do nghĩa này gọi là Như Lai tạng, cũng gọi là pháp thân.

Hỏi: Trên nói chân như lìa tất cả tướng, sao nay nói đầy đủ tất cả các công đức?

Đáp: Tuy thật có đủ tất cả công đức nhưng tướng không khác nhau. Tất cả các pháp ấy đều đồng một mùi vị, một chân như, không có 2 tính, lìa tướng phân biệt. Do tướng sinh diệt của nghiệp thức mà lập tất cả tướng khác nhau đó.

Lập như thế nào?

Nghĩa là do tất cả pháp bản lai duy tâm, thật không có phân biệt, vì bất giác nên tâm phân biệt khởi lên thấy có cảnh giới, gọi là vô minh. Tâm tính bản tịnh, vô minh không khởi, tức nơi chân như lập nghĩa trí tuệ lớn sáng suốt.

Nếu tâm tính thấy cảnh, tức là có tướng không thấy. Tâm tính không thấy, tức không gì không thấy. Đó là nơi chân như lập nghĩa soi khắp pháp giới.

Nếu tâm có động, tức chẳng phải hiểu biết chân thật, chẳng phải bản tính thanh tịnh, chẳng phải thường lạc ngã tịnh, chẳng phải vắng lặng. Đó là biến đổi không tự tại. Từ đó khởi đủ các tạp nhiễm hư vọng còn hơn số cát sông Hằng.

Do tâm tính không động nên lập nghĩa hiểu biết chân thật. Cho đến nghĩa của tướng công đức thanh tịnh còn hơn số cát sông Hằng.

Nếu tâm có khởi động, thấy có cảnh hữu dư có thể phân biệt tìm cầu thì trong nội pháp có chỗ không đủ. Bởi vô biên công đức tức là tự tính một tâm, không thấy có pháp hữu dư đáng tìm cầu cho nên đầy đủ không tuyệt dứt pháp chư Phật không thể nghĩ bàn, còn hơn cát sông Hằng chẳng khác cũng chẳng phải một. Cho nên nói chân như là Như Lại tạng, cũng gọi là pháp thân Như Lai.

Lại nữa, cái dụng của chân như, nghĩa là tất cả chư Phật trong thời kỳ tu nhân, phát Đại từ bi tu hành các hạnh Lục độ, Tứ nhiếp, quán vật đồng với mình đều khắp cứu thoát, cho đến tận cùng đời vị lai không kể số kiếp, hiểu rõ như thật, tự tha bình đẳng, mà cũng không chấp thủ tướng chúng sinh, dùng trí phương tiện lớn như vậy diệt vô thủy vô minh, chứng bản pháp thân, tự do khởi nghiệp không thể nghĩ bàn, khởi các tác dụng tự tại cùng với chân như khắp pháp giới mà không có thấy có tướng dụng.

Bởi vì sao? Vì tất cả Như Lai chỉ là pháp thân Đệ nhất nghĩa đế không có tác dụng của cảnh giới thế đế, chỉ tùy theo sự thấy nghe của chúng sinh mà có các tác dụng bất đồng.

Dụng này có 2:

1. Dựa vào phân biệt sự thức. Nghĩa là cái mà tâm phàm phu Nhị thừa thấy, đó là hóa thân. Họ không biết là do hình ảnh của chuyển thức hiện, thấy cái sắc tướng có giới hạn chấp lấy từ bên ngoài, nhưng hóa thân Phật thì không có hạn lượng.

2. Dựa vào nghiệp thức. Nghĩa là các Bồ-tát từ mới phát tâm cho đến bậc cứu cánh, cái mà tâm thấy được đó là thụ dụng thân. Thân có vô lượng sắc. Sắc có vô lượng tướng. Tướng có vô lượng hình hảo. Chỗ trụ xứ là dựa nơi quả báo đủ vô lượng công đức trang nghiêm. Tùy chỗ ứng hiện có vô lượng vô biên không giới hạn không dứt, chẳng phải những gì thấy ở ngoài tâm. Các công đức này đều do các hạn vô lậu Ba-la-mật huân tập và sự huân tập không thể nghĩ bàn mà được thành tựu đầy đủ tướng công đức vô biên hỷ lạc, nên cũng gọi là báo thân.

Lại nữa, cái mà phàm phu thấy đó là thô dụng, tùy theo 6 nẻo chúng sinh thấy có khác nhau, không có tướng vui công đức vô biên, nên gọi là hóa thân.

Cái mà Bồ-tát sơ phát tâm thấy, đó là cái dụng trung phẩm do thâm tín chân như nên thấy được một phần ít, biết thân Như Lai là không đi không đến không tuyệt mất, chỉ là bóng dáng của tâm hiện ra không tách rời chân như. Nhưng bậc Bồ-tát này còn chưa lìa bỏ được vi tế phân biệt vì chưa nhập vào địa vị pháp thân.

Bồ-tát tịnh tâm thì thấy cái dụng vi tế. Như vậy chuyển thắng cho đến Bồ-tát bậc cứu cánh mời thấy trọn vẹn.

Cái dụng vi tế này là thụ dụng thân. Do có nghiệp thức mới thấy thụ dụng thân. Nếu lìa nghiệp thức thì không thấy. Tất cả Như Lai đều là pháp thân, không có sắc tướng sai biệt đây kia thấy nhau.

Hỏi: Nếu pháp thân Phật không có các sắc tướng sai biệt thì sao có thể hiện ra các sắc?

Đáp: Vì pháp thân là thật thể của sắc nên có thể hiện các sắc. Nghĩa là từ bản lai sắc và tâm là không hai. Bởi bản tính của sắc tức tự tính của tâm, gọi là trí thân. Bởi bản tính của tâm tức tự tính của sắc, gọi là pháp thân. Dựa nơi pháp thân này , tất cả Như Lại hiện các sắc thân, biến mãn khắp mọi nơi không gián đoạn. Mười phương Bồ-tát tùy năng lực mình, tùy nguyện lạc của mình thấy vô lượng thụ dụng thân, vô lượng cõi nước trang nghiêm khác nhau, không chướng ngại nhau cũng không tuyệt dứt. Sắc thân hiện ra đó, tâm, ý, thức của tất cả chúng sinh không thể suy lường, vì đó là cái dụng rất sâu tự tại của chân như.

Lại nữa, để làm cho chúng sinh từ tâm sinh diệt môn hội nhập chân như môn nên khiến quán tướng của sắc v.v… không thành tựu.

Thế nào là không thành tựu?

Nghĩa là phân tích sắc thô dần dần cho đến thành bụi nhỏ. Lại dùng phương phân tích vi trần này. Cho nên dù thô dù tế, tất cả các sắc chỉ là ảnh tượng phân biệt của vọng tâm thật sự là không có.

Suy tìm các uẩn cho đến sát-na, tìm tướng của sát-na này, chẳng phải riêng có một pháp vô vi cũng như vậy. Lìa nơi pháp giới là hoàn toàn không thể được. Cũng vậy, tất cả các pháp trong 10 phương, phải biết đều như vậy. Giống như người mê gọi phương Đông là phương Tây nhưng thật sự phương hướng không chuyển đổi. Chúng sinh cũng vậy, vì mê vô minh nên gọi tâm là động mà kỳ thật không động. Nếu biết cái động tâm tức không còn sinh diệt, liền được nhập vào chân như môn.

(QUYỂN THƯỢNG HẾT)

Trang: 1 2