LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN
Bồ-tát Mã Minh tạo luận
Tam tạng Thật-xoa-nan-đà dịch,
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN HẠ

Đối trị tà chấp, nghĩa là tất cả tà chấp không thứ nào không do ngã kiến khởi. Nếu lìa ngã kiến thì không có tà chấp.

Ngã kiến có 2 thứ:

  1. Nhân ngã kiến.
  2. Pháp ngã kiến.

Nhân ngã kiến, theo phàm phu có 5 thứ:Như kinh nói: Pháp thân Như Lai rốt ráo văng lặng giống như hư không. Phàm phu nghe vậy không rõ nghĩa lý liền chấp tính của Như Lai giống như hư không thường hằng có khắp nơi. Để trừ chấp đó, phải hiểu rõ tướng hư không chỉ là phân biệt, thật không thể có, do hữu kiến hữu đối, đối đãi với sắc rồi đem tâm phân biệt mà gọi là hư không. Sắc đã chỉ là vọng tâm phân biệt nên phải biết hư không cũng không có tự thể. Tất cả tướng của cảnh chỉ là vọng tâm phân biệt. Nếu lìa vọng tâm tức tướng cảnh giới diệt. Chỉ có tâm chân như không đâu không cùng khắp. Đó là nghĩa của tính Như Lai như hư không, chẳng phải cái rỗng không là thường hằng là có.

1. Như kinh nói: Tất cả pháp thế gian rốt ráo là rỗng không, cho đến các pháp chân như Niết-bàn cũng rốt ráo là rỗng không, bản tính như vậy lìa tất cả tướng. Phàm ngu nghe vậy không rõ nghĩa lý, liền chấp cho rằng pháp chân như Niết-bàn chỉ là rỗng không chẳng có gì cả. Để trừ chấp đó phải hiểu rõ pháp thân chân như tự thể chẳng phải rỗng không, mà đầy đủ vô lượng tính công đức.

2. Như kinh nói: Như Lai tạng không có thêm bớt, tự thể đầy đủ tất cả các tính công đức. Phàm ngu nghe rồi không hiểu nghĩa lý đó, liền cho rằng Như Lai tạng có các sắc pháp và tâm pháp có tự tướng khác nhau. Để trừ chấp này phải hiểu rõ chân như vốn không có pháp nhiễm sai biệt, mà có vô biên tướng công đức, chứ không phải tướng nhiễm.

3. Như kinh nói: Tất cả các pháp tạp nhiễm thế gian đều do Như Lai tạng khởi lên, tất cả các pháp không khác chân như. Phàm ngu nghe vậy không hiểu nghĩa lý cho rằng tự thể Như Lai tạng có đủ tất cả các pháp nhiễm của thế gian. Để trừ chấp này phải hiểu rõ nghĩa Như Lai tạng bản lai có đủ công đức thanh tịnh, còn hơn cả số cát sông Hằng, không khác chân như. Bởi các pháp nhiễm phiền não hơn cả số cát sông Hằng chỉ là giả có, không có tự tính, bản lai chưa hề tương ưng với Như Lai tạng. Nếu Như Lai tạng tương ưng với pháp nhiễm mà khi chứng ngộ dứt được vọng nhiễm là không có chuyện đó.

4. Như kinh nói: Do Như Lai tạng mà có sinh tử và được Niếtbàn. Phàm ngu nghe vậy không hiểu nghĩa lý, lại cho rằng do Như Lai tạng mà sinh tử có bắt đầu. Do chấp có cái bắt đầu nên lại cho rằng Niết-bàn cuối cùng phải hết. Để trừ chấp này phải hiểu rõ là Như Lai tạng không có cái thời trước để vô minh dựa vào đó mà có sinh tử bắt đầu. Nếu nói ngoài 3 cõi, còn có chúng sinh bắt đầu phát khởi, tức là nói theo ngoại đạo, không phải Phật giáo.

Vì Như Lai tạng cũng không có cái thời sau, để dựa vào đó 4 thứ kiến chấp nhân ngã sinh. Cho nên nơi đây an lập 4 thứ đó.

Kiến chấp về pháp ngã, là do Nhị thừa độn căn. Thế Tôn chỉ họ nói nhân vô ngã. Họ liền đối với 5 uẩn sinh diệt mà hoàn toàn chấp trước rồi sợ hãi sinh tử, vọng thủ Niết-bàn. Để trừ chấp này phải hiểu rõ bản tính pháp 5 ấm không sinh, không sinh nên cũng không có diệt, không diệt nên bản lai là Niết-bàn.

Nếu hoàn toàn lìa bỏ chấp trước phân biệt là thì biết tất cả pháp nhiễm pháp tịnh đều đối đãi nhau mà thành lập. Cho nên phải biết tất cả pháp xưa nay chẳng phải sắc, chẳng phải tâm, chẳng phải trí, chẳng phải thức, chẳng phải có, chẳng phải không, hoàn toàn không thể nói cái tướng của các pháp được. Vậy mà có nói ra để chỉ bày dạy dỗ thì phải biết đó là phương tiện khéo léo của Như Lai, mượn lời nói để dắt dẫn chúng sinh khiến lìa bỏ ngôn ngữ văn tự mà ngộ nhập chân thật. Nếu theo lời nói mà chấp nghĩa thì thêm vọng tưởng phân biệt, không sinh thật trí không được Niết-bàn.

Phân biệt tướng tu hành chính đạo, nghĩa là chính nhân tất cả Như Lai đắc đạo, tất cả Bồ-tát phát tâm tu tập đều khiến hiện tiền.

Nói sơ lược, phát tâm có 3 tướng:

  1. Tín thành tựu phát tâm.
  2. Giải hành phát tâm.
  3. Chứng phát tâm.

Tín thành tựu phát tâm, là theo địa vị nào, tu hạnh gì thì thành tựu được chính tín và có thể phát tâm. Phải biết hạng người này dựa vào bất định tụ, pháp huân tập sức thiện căn, nên tin nghiệp quả, tu hành con đường thập thiện, chán khổ sinh tử, cầu vô thượng giác, được gặp chư Phật và chư Bồ-tát, đích thân phụng sự cúng dường, tu hành các hạnh, trải qua một vạn kiếp tín tâm thành tựu. Từ đó về sau hoặc được sức giáo hóa của chư Phật Bồ-tát dạy cho phát tâm, hoặc do Đại bi mà tự phát tâm, hoặc nhân chính pháp sắp diệt, vì hộ pháp mà tự phát tâm.

Những người đã phát tâm như vậy sẽ nhập chính định tụ, quyết không thoái lui, trụ trong chủng tính Phật, tương ưng thắng nhân.

Hoặc có chúng sinh từ lâu xa đến nay thiện căn ít ỏi, phiền não sâu dày che lấp tâm tính, tuy gặp chư Phật và chư Bồ-tát phụng sự cúng dường, nhưng chỉ gieo trồng hạt giống nhân thiên, hoặc hạt giống Nhị thừa, và dẫu có cầu đạo Đại Bồ-đề nhưng căn bất định, khi tiến khi thoái.

Hoặc có người gặp Phật và chư Bồ-tát, cúng dường phụng sự, tu hành các hạnh nhưng chưa trải đủ một vạn kiếp, trong khoảng đó gặp duyên mà phát tâm.

Gặp được những duyên gì?

Là hoặc thấy hình tướng Phật mà phát tâm, hoặc nhân cúng dường chúng Tăng mà phát tâm, hoặc nhân người Nhị thừa dạy bảo khiến phát tâm, hoặc thấy người khác mà phát tâm. Những người phát tâm như vậy đều là bất định, nếu gặp duyên xấu, có thể thoái lui rơi vào địa vị Nhị thừa.

Lại nữa, tín thành tựu phát tâm nói sơ lược có 3 thứ:

1. Phát tâm ngay thẳng, tức như lý chính niệm pháp chân như.

2. Phát tâm sâu xa, ưa gom góp tất cả các hạnh lành.

3. Phát tâm Đại bi, nguyện cứu vớt khổ cho tất cả chúng sinh.

Hỏi: Tất cả chúng sinh, tất cả các pháp đều đồng một pháp giới không có 2 tướng. Căn cứ theo lý thì chỉ cần chính niệm chân như cần chi tu tất cả hạnh lành cứu tất cả chúng sinh?

Đáp: Không phải vậy. Như ngọc báu Ma-ni, bản tính sáng sạch mà nằm trong quặng bẩn. Giả sử có người chỉ nghĩ nhớ tính quý báu mà không dùng phương tiện, không ra sức thi công, muốn có viên ngọc trong suốt là điều không thể được.

Pháp chân như cũng vậy, thể tuy sáng sạch đầy đủ công đức mà bị vô biên khách trần làm nhiễm bẩn. Giả sử có người chỉ nghĩ nhớ mà không dùng nhiều phương tiện tu tập các hạnh, muốn cầu sự trong sạch là lý không thể được. Cho nên phải tập họp tất cả thiện hạnh cứu tất cả chúng sinh lìa khách trần ô nhiễm kia để hiển lộ pháp chân như.

Sơ lược có 4 thứ phương tiện thực hành:

1. Phương tiện tu hành căn bản. Nghĩa là quán tất cả pháp bản tính không sinh, lìa nơi vọng kiến, không trụ sinh tử. Lại nữa, quán tất cả pháp do nhân duyên hòa hợp, nghiệp quả không mất, khởi Đại bi, tu các hiện hạnh nhiếp hóa chúng sinh, không trụ Niết-bàn. Bởi chân như lìa tướng sinh tử Niết-bàn. Hạnh này lấy sự tùy thuận làm căn bản, gọi là phương tiện tu hành căn bản.

2. Phương tiện có thể ngăn chận. Nghĩa là biết xấu hổ và hối lỗi có thể ngăn chận tất cả pháp ác, không cho tăng trưởng. Bởi chân như lìa tất cả tướng lỗi lầm. Tùy thuận chân như ngăn chận các ác, gọi là phương tiện có thể ngăn chận.

3. Phương tiện làm sinh trưởng căn lành. Nghĩa là đối với Tam bảo khởi tâm kính ái, tôn trọng, cúng dường lễ bái, tán thán, tùy hỷ, khuyến thỉnh chính tín tăng trưởng cho đến chí cầu vô thượng Bồ-đề, được sức hộ trì của Phật Pháp Tăng nghiệp chướng thanh tịnh, căn lành không thoái lui. Bởi chân như lìa tất cả chướng đủ tất cả công đức. Tùy thuận chân như tu hành thiện nghiệp, gọi là phương tiện làm sinh trưởng căn lành.

4. Phương tiện Đại nguyện bình đẳng. Nghĩa là phát nguyện cứu độ tất cả chúng sinh đến tột cùng đời vị lai, không bỏ sót và rốt ráo khiến an trụ vô dư Niết-bàn. Bởi biết tất cả pháp bản tính không hai, đây kia bình đẳng, rốt ráo vắng lặng. Tùy thuận chân như phát 3 thệ nguyện lớn này, gọi là phương tiện Đại nguyện bình đẳng.

Bồ-tát khi phát tâm như vậy thì thấy được một phần ít pháp thân, có thể tùy theo nguyện lực, hiện 8 tướng. Đó là từ cung trời Đâu-suất xuống, vào thai, ở trong thai, ra khỏi thai, xuất gia, thành Phật, chuyển pháp luân, vào Niết-bàn. Nhưng chưa được gọi là pháp thân, bởi các nghiệp hữu lậu, từ vô lượng đời quá khứ đến nay, chưa dứt hẳn, hoặc do ác nghiệp thụ một ít khổ, hoặc do nguyện chứ không phải bị ràng buộc lâu.

Như trong kinh nói Bồ-tát tín thành tựu phát tâm có khi thoái lui sa vào nẻo ác, đó là chỉ vì các vị sơ học tâm nhiều giải đãi không nhập địa vị chính định tụ nên nói vậy để làm tăng tiến dũng mãnh chứ chẳng phải thật nói.

Lại Bồ-tát đó, một khi đã phát tâm rồi, tự lợi lợi tha tu các khổ hạnh tâm không khiếp nhược, còn không sợ sa vào Nhị thừa huống chi là đường ác. Dầu nghe phải tu hành khổ hạnh khó làm trong vô lượng vô biên kiếp A-tăng-kì mới thành Phật cũng không khiếp sợ, huống chi có khởi tâm Nhị thừa và đọa nẻo ác. Bởi đã quyết định tin tất cả pháp bản lai tự tính Niết-bàn.

Giải hành phát tâm là phải biết chuyển thắng. Bởi Bồ-tát này từ khi bắt đầu được chính tín đến nay, khi kiếp A-tăng-kì thứ nhất sắp đầy đủ, thì đối với pháp chân như hiểu được sâu sắc, tu tập tất cả hạnh đều không chấp trước.

Bồ-tát này biết pháp tính là tướng không xan tham, tức thanh tịnh thí độ, nên tùy thuận tu hành Đàn-na Ba-la-mật. Biết pháp tính là tướng lìa cảnh 5 dục không phá giới, là thanh tịnh giới độ, nên tùy thuận tu hành Thi Ba-la-mật. Biết pháp tính là tướng không khổ não, lìa các giận hờn, tức thanh tịnh nhẫn độ, nên tùy thuận tu hành Sằng-đề Ba-la-mật. Biết pháp tính lìa tướng thân tâm, không có giải đãi là thanh tịnh tiến độ, nên tùy thuận tu hành Tì-lê-da Ba-la-mật. Biết pháp tính không động, không loạn là thanh tịnh thiền độ, nên tùy thuận tu hành Thiền-na Ba-la-mật. Biết pháp tính lìa các si ám là thanh tịnh tuệ độ, nên tùy thuận tu hành Bát-nhã Ba-la-mật.

Chứng phát tâm là các Bồ-tát, từ tịnh tâm địa cho đến cứu kính địa, chứng cảnh giới gì?

Đó là chân như. Do dựa vào chuyển thức mà gọi là cảnh giới, chứ trong thật chứng không có tướng cảnh giới. Bồ-tát này dùng trí vô phân biệt chứng chân như pháp thân lìa ngôn thuyết, nên trong khoảng một niệm, có thể đến khắp 10 phương vô lượng thế giới cúng dường chư Phật, thỉnh chuyển pháp luân, chỉ để làm lợi ích chúng sinh, mà không cầu tiếng khen hay đẹp. Hoặc vì các chúng sinh khiếp nhược mà thị hiện Đại tinh tiến vượt vô lượng kiếp chóng thành chính giác. Hoặc vì các chúng sinh biếng nhác trễ nãi nên nói ta trải qua vô lượng kiếp A-tăng-kì tu hành khổ hạnh mới thành Phật.

Thị hiện vô số phương tiện như vậy đều vì lợi ích tất cả chúng sinh, nhưng thật sự thì các Bồ-tát, chủng tính và căn đều bình đẳng, phát tâm cũng bình đẳng, chỗ chứng cũng bình đẳng, không có pháp vượt bậc, bởi vì tất cả Bồ-tát đều phải trải qua 3 kiếp A-tăng-kì mới thành chính giác. Chỉ vì tùy theo chúng sinh trong thế giới không đồng, chỗ thấy chỗ nghe, căn cơ dục vọng khác nhau nên Bồ-tát thị hiện tu hành cũng khác nhau.

Trong chứng phát tâm của các Bồ-tát này có 3 thứ tâm:

  1. Chân tâm, vì không phân biệt.
  2. Phương tiện tâm, vì tự nhiên làm việc lợi tha.
  3. Nghiệp thức tâm, vì khởi diệt vi tế.

Lại nữa, Bồ-tát này 2 thứ phúc đức trí tuệ trang nghiêm viên mãn, ở cõi trời Sắc cứu cánh, được thân cao lớn nhất trong tất cả thế gian. Do một niệm tương ưng với tuệ thì gốc vô minh liền hết, đầy đủ Nhất thiết chủng trí, tự nhiên có nghiệp không thể nghĩ bàn, hóa độ khắp chúng sinh trong 10 phương vô lượng thế giới.

Hỏi: Hư không vô biên nên thế giới vô biên. Thế giới vô biên nên chúng sinh vô biên. Chúng sinh vô biên nên tâm hành sai khác cũng vô biên. Những cảnh giới như vậy thật không giới hạn, khó biết khó hiểu, nếu đoạn vô minh, không còn tâm tưởng, thì làm sao rõ được tất cả mọi thứ mà thành Nhất thiết chủng trí ?

Đáp: Tất cả cảnh giới vọng, tính của nó bản lai là lý chỉ có một tâm. Tất cả chúng sinh chấp trước cảnh giới vọng, không thể biết được tính Đệ nhất nghĩa của tất cả các pháp.

Chư Phật Như Lai không chấp trước thì có thể hiện thấy thật tính các pháp mà có Đại trí soi tỏ tất cả nhiễm tịnh sai biệt bằng vô lượng vô biên phương tiện khéo léo, tùy theo đó làm lợi lạc chúng sinh. Cho nên tâm vọng niệm mọi thứ diệt rồi, tức thành Nhất thiết chủng trí.

Hỏi: Nếu chư Phật có vô biên phương tiện có thể tự nhiên hiện ra được trong 10 phương làm lợi ích chúng sinh, thì tại sao chúng sinh không thường thấy Phật, hoặc thấy thần thông biến hóa của Phật, hoặc nghe Phật thuyết pháp?

Đáp: Như Lai thật có các phương tiện như vậy nhưng chúng sinh phải tâm thanh tịnh mới hiện thân. Như gương soi nếu bẩn thì hình sắc không hiện, trừ bẩn thì hiện. Tâm chúng sinh cũng vậy, chưa lìa nhiễm bẩn thì pháp thân không hiện, lìa nhiễm bẩn thì hiện.

Làm sao tu tập tín phần?

Đây là nói theo chúng sinh chưa nhập chính định tụ.

Những gì là tín tâm và làm sao tu tập?

Tín tâm có 4 thứ:

1. Tin căn bản, nghĩa là thích nghĩ nhớ pháp chân như.

2. Tin Phật đầy đủ vô biên công đức, thường thích đảnh lễ cung kính cúng dường, để nghe chính pháp, như pháp tu hành, hồi hướng Nhất thiết trí.

3. Tin Pháp có lợi ích lớn, thường thích tu hành các pháp Bala-mật.

4. Tin Tăng chân chính tu hành thường cúng dường các chúng Bồ-tát chính tu các hạnh tự lợi lợi tha.

Có 5 môn tu hành có thể thành tựu tín tâm này. Đó là thí môn, giới môn, nhẫn môn, tinh tiến môn, và chỉ quán môn.

Tu thí môn như thế nào?

Là nếu thấy chúng sinh đến cầu xin, thì đem tài vật của mình tùy sức bố thí bỏ tính xan tham của mình và làm cho người kia vui vẻ. Nếu thấy chúng sinh bị ách nạn bức bách thì dùng phương tiện cứu giúp khiến không còn sợ hãi. Nếu có chúng sinh đến cầu pháp, thì tùy khả năng hiểu biết của mình, tùy nghi nói cho họ.

Khi tu hành 3 thứ bố thí như vậy phải không vì cầu danh lợi, cũng không tham trước quả báo thế gian, chỉ nghĩ đến mình và người được lợi ích an lạc, hồi hướng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tambồ-đề.

Tu giới môn như thế nào?

Là Bồ-tát tại gia phải không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói đâm thọc, không lời ác độc, không nói dối, không nói lời thêu dệt, xa lìa tham lam, ganh ghét, lừa dối, dua nịnh, giận dữ, tà kiến.

Nếu là người xuất gia thì còn vì để bẻ gãy phiền não mà phải rời xa nơi ồn ào, thường ở nơi vắng lặng, tu tập các hạnh Đầu-đà, thiểu dục tri túc. Dù mắc tội nhỏ, cũng sinh tâm e sợ, xấu hổ hối cải. Giữ gìn giới cấm Như Lai đã chế, không để cho người thấy sinh cơ hiềm, làm cho chúng sinh bỏ ác tu thiện.

Tu nhẫn môn như thế nào?

Là thấy xấu không ghét, gặp khổ không động, thường ưa quán sát cú nghĩa rất sâu.

Tu môn tinh tiến như thế nào?

Là tu hành các việc thiện, tâm không lười biếng thoái lui. Phải nghĩ từ quá vô số kiếp đến nay, vì cầu cảnh giới tham dục thế gian mà luống chịu tất cả nỗi khổ lớn nơi thân tâm rốt cuộc chẳng được chút gì. Cho nên để xa lìa khổ này trong tương lai phải tinh tiến không sinh giải đãi, Đại bi lợi ích tất cả chúng sinh.

Các sơ học Bồ-tát tuy tín tâm tu hành nhưng do từ đời trước nghiệp chướng, tội ác nặng nề nên hoặc bị tà ma quấy phá, hoặc vì việc đời ràng buộc, hoặc bệnh duyên bức bách. Những hoạn nạn như vậy không phải chỉ có một, khiến người tu hành phế bỏ việc tu thiện. Cho nên phải dũng mãnh tinh tiến, ngày đêm 6 buổi lễ bái chư Phật, tán thán cúng dường, thành tâm sám hối, khuyến thỉnh tùy hỷ, hồi hướng vô thượng Bồ-đề, phát Đại thệ nguyện thường xuyên không nghỉ, khiến ác chướng tiêu diệt thiện căn tăng trưởng.

Tu môn chỉ quán như thế nào?

Nghĩa của chỉ, là diệt hết tất cả cảnh giới hý luận. Thấy rõ tướng sinh diệt của nhân quả là nghĩa của quán.

Trước tiên tu tập riêng rẽ tăng trưởng dần dần. Cho đến khi thành tựu thì tự nhiên thực hành song song.

Nếu tu pháp chỉ thì ở nơi tĩnh lặng, ngồi ngay ngắn, giữ chính ý, không dựa vào hơi thở, không dựa vào hình sắc, không dựa vào hư không, không dựa vào địa, thủy, hỏa, phong, cho đến không dựa vào sự thấy nghe hay biết, trừ hết tất cả các tưởng niệm phân biệt đồng thời cũng loại bỏ ý tưởng đoạn trừ. Vì tất cả các pháp xưa nay không có tướng, không sinh không diệt. Tâm trước dựa vào cảnh, tiếp đến rời bỏ cảnh, niệm sau dựa vào tâm rồi lại rời bỏ tâm. Đem cái tâm đuổi theo ngoại cảnh trụ giữ vào nội tâm. Sau lại khởi tâm không chấp thủ tâm tướng, bởi lìa chân như là không thể được.

Đi đứng nằm ngồi trong tất cả thời không ngớt tu hành như vậy. Dần dần được nhập vào chân như Tam-muội, cuối cùng đè bẹp được tất cả phiền não, tín tâm tăng trưởng, chóng thành bất thoái.

Nếu ôm lòng nghi hoặc, phỉ báng không tín, nghiệp chướng trói buộc, ngã mạn, lười biếng, những người như vậy không thể nhập chân như Tam-muội được.

Lại nữa, do Tam-muội này chứng pháp giới tướng, biết pháp thân tất cả Như Lai với thân tất cả chúng sinh đều là một tướng bình đẳng không hai. Cho nên gọi đó là Nhất tướng Tam-muội.

Nếu tu tập Tam-muội này có thể sinh vô lượng Tam-muội. Bởi chân như là nơi căn bản của tất cả Tam-muội.

Hoặc có chúng sinh ít có căn lành, bị các tà ma ngoại đạo, quỉ thần, mê hoặc làm rối loạn. Hoặc hiện hình tướng dữ ác để khủng bố tâm người. Hoặc hiện sắc đẹp mỹ miều để mê hoặc ý người. Hoặc hiện hình tượng chư thiên, hình tượng Bồ-tát hoặc cả hình Phật tướng tốt trang nghiêm. Hoặc nói tổng trì, hoặc nói các độ. Hoặc giảng nói các môn giải thoát, không oán không thân, không nhân không quả, tất cả các pháp rốt ráo rỗng không vắng lặng là bản tính Niết-bàn. Hoặc làm cho người ta biết những việc quá khứ vị lai, được tha tâm thông, được biện tài diễn thuyết lưu loát khiến tham trước danh dự lợi dưỡng. Hoặc làm cho người ta khi giận khi vui, hoặc đa bi đa ái, hoặc ngủ nhiều, hoặc bệnh tật, hoặc không siêng năng, hoặc bỗng dưng khởi tinh tiến, rồi sau lại phế bỏ, hoặc sinh nhiều nghi ngờ không tin thụ. Hoặc làm cho bỏ pháp tu thắng hạnh mà tu các tạp nghiệp, ưa thích thế sự, đắm đuối tình đời. Hoặc khiến chứng đắc thiền định ngoại đạo, 1 ngày, 2 ngày cho đến 7 ngày trụ trong thiền định được hảo ẩm thực thân tâm thích khoái không biết đói khát. Hoặc lại khuyên thụ nữ sắc, hoặc khiến ăn uống khi ít khi nhiều, hoặc làm cho hình dung hoặc tốt hoặc xấu.

Nếu bị các phiền não quấy rối sẽ thoái mất thiện căn từ trước, cho nên phải quán sát kỹ càng. Phải nghĩ như vầy: Những thứ này đều do thiện căn ta mỏng manh nghiệp chướng sâu nặng nên bị ma quỷ mê hoặc. Biết như vậy rồi nghĩ rằng kia tất cả đều chỉ là tâm. Tư duy như vậy sát-na liền diệt, xa lìa các tướng, nhập chân Tam-muội.

Tâm tướng đã lìa, chân tướng cũng hết. Từ định khởi, các kiến phiền não đều không hiện hành vì đã bị sức Tam-muội phá hủy, thiện phẩm thù thắng tùy thuận tiếp nối, tất cả chướng nạn đều lìa xa, khởi Đại tinh tiến hằng không tuyệt dứt.

Nếu không tu tập pháp Tam-muội này sẽ không vào được chủng tính Như Lai, bởi các Tam-muội khác đều có tướng chung với ngoại đạo, không gặp được Phật Bồ-tát.

Cho nên Bồ-tát đối với Tam-muội này phải siêng tu tập cho thành tựu rốt ráo.

Tu tập Tam-muội này, hiện thân sẽ được 10 thứ lợi ích:

1. Thường được chư Phật Bồ-tát 10 phương hộ niệm.

2. Không bị các tà ma ác quỉ quấy rối.

3. Không bị tất cả tà đạo mê hoặc.

4. Khiến nghiệp chướng tội nặng bởi phỉ báng chính pháp, dần dần giảm bớt.

5. Diệt tất cả nghi hoặc và các ác giác quán.

6. Tăng trưởng lòng tin đối với cảnh giới Như Lai.

7. Xa lìa mọi lo buồn khổ não, ở trong sinh tử, dũng mãnh không khiếp sợ.

8. Xa lìa kiêu mạn, tâm nhu hòa nhẫn nhục, thường được tất cả thế gian kính nể.

9. Dẫu không ở trong định nhưng trong tất cả thời, tất cả cảnh giới, phiền não giảm nhẹ không hiện khởi.

10. Nếu ở trong định thì không bị tất cả các thứ âm thanh bên ngoài làm kinh động.

Lại nữa, nếu chỉ tu pháp chỉ, thì tâm chìm lặng, hoặc sinh lười biếng, không thích các điều thiện, xa lìa Đại bi, cho nên cần phải tu quán.

Tu như thế nào?

Nghĩa là phải quán tất cả các pháp thế gian sinh diệt không ngừng. Vì vô thường nên khổ, khổ nên không có ngã. Phải quán pháp quá khứ như chiêm bao, pháp hiện tại như điện chớp, pháp vị lai như mây bỗng nhiên nổi lên. Phải quán thân thể đều bất tịnh, có nhiều thứ trùng nhơ hòa lẫn phiền não.

Quán các phàm ngu thấy các pháp, trong cái không có gì vọng chấp là có. Quán sát tất cả từ pháp duyên sinh, đều như huyễn rốt ráo không thật. Quán Đệ nhất nghĩa đế chẳng phải tâm hành không thể nói ra không thể ví dụ. Quán tất cả chúng sinh từ vô thủy đến nay đều do sức vô minh huân tập, làm cho thân tâm phải chịu vô lượng khổ lớn. Hiện tại vị lai cái khổ cũng không biết đến chừng nào. Chúng sinh ở trong đó mà không biết, rất đáng thương thay.

Quán như vậy rồi sinh trí quyết định, khởi Đại bi rộng lớn, dũng mãnh lập thệ nguyện lớn, nguyện cho tâm mình, do lìa các điên đảo, đoạn dứt các phân biệt, thân cận chư Phật Bồ-tát, đảnh lễ cúng dường, cung kính tán thán nghe pháp tu hành cho đến tột cùng đời vị lai không dừng nghỉ, dùng vô lượng phương tiện cứu vớt tất cả chúng sinh trong biển khổ khiến trụ nơi cái vui Đệ nhất nghĩa của Niết-bàn.

Phát nguyện như vậy rồi, trong tất cả mọi thời, tùy khả năng mình mà tu hạnh tự lợi lợi tha. Đi đứng nằm ngồi thường xuyên quan sát cái gì nên làm không nên làm. Đó gọi là tu quán.

Lại nữa, nếu chỉ tu quán thì tâm không dừng lại, sinh nhiều nghi hoặc không tùy thuận Đệ nhất nghĩa đế, không phát sinh trí vô phân biệt. Cho nên chỉ quán phải song tu. Nghĩa là mặc dầu nghĩ nhớ tất cả pháp đều không có tự tính, không sinh không diệt bản lai vắng lặng, tự tính Niết-bàn, nhưng cũng phải thấy nhân duyên hòa hợp, nghiệp báo thiện ác không mất không hoại. Tuy nghĩ nhớ nhân duyên nghiệp báo thiện ác mà cũng thấy tất cả pháp không sinh, không tự tính cho đến Niết-bàn.

Tu hành pháp chỉ thì đối trị sự đắm trước sinh tử của phàm phu, cũng đối trị sự chấp đắm sinh tử mà sinh sợ hãi của Nhị thừa.

Tu hành pháp quán thì đối trị sự không tu thiện căn của phàm phu, cũng đối trị cái lỗi tâm hẹp hòi không khởi Đại bi của Nhị thừa.

Cho nên 2 pháp chỉ quán giúp nhau thành tựu, không rời bỏ nhau. Nếu không đủ cả chỉ quán thì không được vô thượng Bồ-đề.

Lại nữa, sơ học Bồ-tát ở nơi thế giới Ta-bà này hoặc gặp cảnh khổ nóng lạnh gió mưa hay bất chợt nạn đói, hoặc gặp chúng sinh bất thiện đáng sợ, 3 độc trói buộc, tà kiến điên đảo mà bỏ con đường thiện làm theo pháp ác, Bồ-tát trong đó tâm sinh khiếp nhược, sợ không gặp được chư Phật Bồ-tát, sợ không thể thành tựu tín tâm thanh tịnh sinh nghi muốn thoái lui thì phải nghĩ như vầy: Chư Phật Bồ-tát 10 phương đều đắc Đại thần thông không có chướng ngại, có thể dùng các thứ phương tiện khéo léo cứu vớt tất cả chúng sinh hiểm nạn. Nghĩ như vậy rồi, phát Đại thệ nguyện, nhất tâm chuyên niệm Phật và Bồ-tát. Do sinh tâm quyết định như vậy nên mạng chung quyết được vãng sinh trong các cõi Phật, gặp Phật Bồ-tát tín tâm thành tựu hằng lìa nẻo ác.

Như kinh nói: Nếu thiện nam thiện nữ chuyên niệm Phật A-di-đà ở thế giới Cực Lạc phương Tây, đem thiện căn này hồi hướng nguyện sinh thì quyết định được vãng sinh và nhờ thường thấy Phật nên tín tâm tăng trưởng vĩnh viễn không thoái chuyển. Ở đó nghe pháp, quán pháp thân Phật, lần lượt tu hành được nhập địa vị chính giác.

Phần lợi ích như thế nào?.

Như vậy pháp Đại thừa là kho tàng sâu kín của chư Phật, tôi đã lược nói xong. Nếu có chúng sinh muốn sinh chính tín và không chướng ngại đối với cảnh giới rất sâu của Như Lai để vào con đường Đại thừa, thì nên tiếp nhận Luận này, suy nghĩ tu tập. Phải biết người này quyết định chóng thành Nhất thiết chủng trí.

Nếu ai nghe pháp này không sinh kinh sợ, thì phải biết người đó quyết định sẽ nối dòng giống Phật, chóng được thụ ký.

Giả sử có người giáo hóa chúng sinh đầy khắp 3 ngàn Đại thiên thế giới, khiến tu hành Thập thiện, cũng không bằng người trong giây lát, chân chính suy nghĩ pháp này thì công đức hơn người trước vô lượng vô biên.

Nếu theo đúng tu hành trong một ngày một đêm, công đức cũng vô lượng vô biên, không thể nói xiết. Dầu cho tất cả chư Phật 10 phương, mỗi mỗi đều khen ngợi công đức ấy trong vô lượng vô biên kiếp A-tăng-kì cũng không hết được. Vì công đức của chân như là không bờ bến, nên công đức tu hành cũng không bờ bến.

Nếu ai phỉ báng pháp này thì bị vô lượng tội báo phải chịu khổ não lớn trong kiếp A-tăng-kì.

Cho nên đối với pháp này phải quyết định tin, chớ nên phỉ báng, đã hại mình còn hại người, làm tuyệt dứt giống Tam bảo. Tất cả chư Phật đều do pháp này tu hành thành vô thượng trí. Tất cả Bồ-tát đều do tu hành pháp này mà chứng đắc Như Lai pháp thân.

Quá khứ các Bồ-tát do pháp này mà thành tựu Đại thừa tịnh tín. Các Bồ-tát hiện tại nay thành, các Bồ-tát vị lai sẽ thành. Cho nên muốn thành tựu hạnh thù thắng tự lợi lợi tha cần phải siêng năng tu học luận này.

Tôi nay đã giải thích

Nghĩa Đại thừa sâu rộng,

Công đức thí quần sinh,

Khiến thấy chân như pháp./.

(QUYỂN HẠ HẾT)

Pages: 1 2