LUẬN PHẬT TÍNH
Thiên Thân Bồ-tát tạo luận
Thiên Trúc Tam tạng Chân Đế dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt
QUYỂN 4
Phẩm 9: VÔ BIẾN DỊ
Lại nữa phải biết nghĩa của vô biến dị, tức không biến đổi khác, ly thì có 6 nghĩa, hợp thì thành 3. Ly có 6 thứ là: 1. Không có biến đổi khác về tiền tế hậu tế. 2. Không có biến đổi khác về nhiễm tịnh. 3. Không có biến đổi khác về sinh. 4. Không có biến đổi khác về chuyển. 5. Không có biến đổi khác về y trụ. 6. Không có biến đổi khác về diệt.
Nói không có biến đổi khác về tiền tế hậu tế, như trong Kinh Giải Tiết, Phật vì Bồ-tát Hải Trí nói bài kệ rằng:
Vì khách trần tương ưng,
Nên có tự tính đức.
Như tiền hậu cũng vậy,
Là tướng không đổi khác.
Lại nữa giải thích trong bất tịnh vị có 9 thứ khách trần chẳng bị nhiễm ô, nên trong vị tịnh, bất tịnh 4 đức thường lạc ngã tịnh và Như Lai Hằng sa công đức hằng tương ưng, cho nên nói tính Như Lai tiền hậu không đổi khác. Nếu lược nói, tất cả khách trần phiền não có 9 thứ: 1. Tùy miên tham dục phiền não. 2. Tùy miên sân. 3. Tùy miên si. 4. Tham sân si cực trọng thượng tâm hoặc. 5. Vô minh trụ địa. 6. Kiến đế diệt. 7. Tu tập diệt. 8. Bất tịnh địa. 9. Tịnh địa hoặc.
Nếu phiền não tại trong chúng sinh tương tục lìa dục thế gian, thì đó là nguyên nhân chính tăng trưởng nghiệp bất động, có thể sinh Sắc giới Vô sắc giới. Phiền não này bị trí xuất thế vô phân biệt tiêu diệt. Cho nên gọi tùy miên dục sân si là 3 độc.
Giải thích: Nói phiền não tại trong …, có 2 là: một, hữu thể nói là tại, hai là vô thể. Tại, là ước về nhân nên nói tại. Nói thể tại, tức kiến đế. Tùy miên chưa được trị đạo nên nói tại. Ước về nhân tại, tức tư duy tùy miên vì đã được trị đạo. Bởi tư duy dùng kiến đế làm nhân. Tư duy tuy diệt, nhưng do có kiến đế làm nhân tư duy nên nói nhân tại. Tư duy ắt do kiến đế sinh, nếu trừ nhân tư duy có căn bản kiến đế hoặc tại, sau lại sinh hoặc của tư duy cho nên nói tư duy nhân tại. Nhân chính làm tăng trưởng nghiệp bất động, là: 1. Tư duy có thể thành nghiệp. 2. Kiến đế có thể được quả. Bởi vì sao? Vì đoạn hết tư duy thì nghiệp không thành, đoạn hết kiến đế thì không cảm quả. Cho nên nói bất động nghiệp là nhân chính làm tăng trưởng vì có thể sinh Sắc Vô sắc giới. Bị trí xuất thế vô phân biệt diệt, nghĩa là có 2 thứ diệt: một là tính diệt, hai là trị đạo diệt. Một, tính diệt có 2 là: niệm niệm diệt và tương vi diệt. Tương vi diệt lại có 2 thứ: một là đẳng loại tương vi, như tham trái với sân v.v… , hai là bất đẳng loại tương vi, như chính tư duy thì trái với dục, sân v.v… Đó là tính diệt. Hai, trị đạo diệt có 2 thứ là: một thông , hai biệt. Một, thông đạo, là quán chân như, diệt phiền não 3 cõi. Hai, biệt đạo là như quán bất tịnh v.v… có thể diệt tham sân các phiền não. Như quán khổ đế diệt khổ đế hoặc, không diệt tập đế hoặc. Cho nên gọi tùy miên, dục,sân, si v.v…
1. Ba độc cực trọng thượng tâm hoặc, là có các phiền não tại trong dục hành chúng sinh tương tục là chính nhân làm tăng trưởng tội phúc 2 hành chỉ sinh Dục giới tu quán bất tịnh v.v… có thể phá. Đó gọi là tham sân si cực trọng thượng tâm phiền não.
2. Vô minh trụ địa hoặc, là tại trong A-la-hán tương tục là chính nhân sinh nghiệp vô lưu, có thể sinh ý sinh thân, là Bồ-đề Như Lai có thể phá. Đó là vô minh trụ địa hoặc. A-la-hán đại loại an lập đế quán có thể phá các phiền não. Vô minh trụ địa này không phải an lập đế quán có thể phá được, nên hãy còn trong La-hán tương tục làm nhân chính sinh nghiệp vô lưu. Nguyên nhân chính sinh nghiệp vô lưu, là lưu có 3 nghĩa: 1. Lưu nhập sinh tử 3 cõi. 2. Thoái mất, như mất Dục giới lưu, qua Sắc giới, hoặc mất Sắc giới lưu, xuống Dục giới. Nghĩa là tùy theo sinh tử không nhất định một nơi, nên gọi là lưu. 3. Lưu thoát công đức thiện căn, mất giới định tuệ. Ví như phá bờ đắp ngăn nước thì nước không ở một chỗ. Không có 3 lưu này nên gọi là vô lưu. Nghiệp là tác ý làm nghĩa. Ý nghiệp này có thể sinh 4 thứ sinh tử. Như Lai Bồ-đề phá, là Như Lai Bồ-đề không phải an lập đế quán. Đó gọi là Như Lai Bồ-đề. Nhân đạo này có thể diệt hoặc này, nên gọi vô minh trụ địa.
3. Kiến đế sở diệt hoặc, là có 2 loại học nhân: một phàm phu, hai thánh nhân. Hoặc này tại trong học đạo phàm phu tương tục, vô thủy đến nay chưa từng kiến lý. Nhân trước tiên xuất thế thánh đạo phá, gọi là kiến đế.
Giải thích: Trong học đạo phàm phu tương tục, là nếu Tiểu thừa là từ noãn, đỉnh, nhẫn, thế pháp. Bốn cái này là học đạo phàm phu vị. Kiến đế tùy miên chưa diệt được nên nói là tại trong. Từ thời vô thủy chưa thấy, là từ vô thủy đến nay đạo này chưa từng thấy an lập thánh đế, cho nên nói chưa từng được thấy. Trước tiên xuất thế thánh đạo phá, là ban đầu từ sơ niệm đạo khổ pháp nhẫn có thể phá phiền não gọi là kiến đế. Từ đây về sau đều thuộc tư duy. Người quán bình đẳng có lợi có độn. Người lợi căn trong một niệm bình đẳng quán 4 đế, 88 hoặc nhất thời đều đoạn đều gọi là kiến đế. Nếu người độn căn trong thứ tự quán thì sơ niệm quán khổ, không thấy 3 đế khác, chỉ đoạn khổ hạ 4 đế gọi là kiến đế, các chưa đoạn khác đều thuộc tư duy. Đó gọi là hoặc do kiến đế diệt. Nếu Đại thừa thì thập tín v.v…các vị . Thánh nhân, là sơ địa trở lên.
4. Tu đạo sở diệt hoặc, là tại trong học đạo thánh nhân tương tục, xưa đã từng kiến xuất thế thánh đạo phá. Đó gọi là hoặc do tu đạo diệt.
5. Bất tịnh địa hoặc, là tại trong chưa cứu cánh hành Bồ-tát tương tục đối chướng Bồ-tát thất địa là vô tướng vô công dụng đạo phá đối chướng.
Giải thích: Thất địa, tức 7 địa trước. Vô tướng vô công dụng đạo, tức 8 địa trở lên. Vô tướng, tức cảnh chân như. Vô công dụng, tức tự nhiên thăng tiến đạo. Đó gọi là bất tịnh địa hoặc.
6. Tịnh địa hoặc, là tại trong cứu cánh hành Bồ-tát tương tục có thể chướng địa thứ 8 trở lên địa thứ 3. Vì Kim cương định tuệ phá. Nói cứu cánh, là 8 địa trở lên thấy cảnh đều đồng, không có cảnh khác, chưa thấy nên gọi cứu cánh. Chỉ phương tiện do có cạn sâu nên các địa có khác nên phân biệt phiền não có 9 thứ này. Theo phiền não này lập chúng sinh có 4 thứ: 1. Phàm phu. 2. La-hán. 3. Hữu học. 4. Bồ-tát. Bốn loại chúng sinh này y vào vô lưu giới do 4 phiền não nên bất tịnh. Thứ nhất, chúng sinh do 4 phiền não nên bất tịnh. Thứ hai, chúng sinh do 1 phiền não nên bất tịnh. Thứ ba, chúng sinh do 2 phiền não nên bất tịnh. Thứ tư, chúng sinh do 2 phiền não nên bất tịnh. Thứ nhất, phàm phu do 4 hoặc, là trước 3 là tùy miên tham sân si, sau 1 tức thượng tâm phiền não. Do 4 đây nên bất tịnh. Thứ hai, do 1 hoặc, tức La-hán do vô minh trụ địa nên bất tịnh. Thứ ba, do 2 hoặc, nghĩa là kiến đế tư duy, tức hữu học thánh phàm phu học đạo. Phàm phu do kiến đế phiền não nên bất tịnh. Hữu học thánh nhân do tư duy phiền não nên bất tịnh. Đó gọi là do 2 hoặc. Thứ tư, do 2 hoặc, là tịnh bất tịnh, tức từ Bồ-tát sơ địa trở lên đến địa thứ 7, do bất tịnh địa hoặc nên bất tịnh. Nếu từ địa thứ 8 trở lên địa thứ 3, do tịnh địa hoặc nên bất tịnh. Đó gọi là do 2 hoặc nên nói bất tịnh.
Lại nữa, để hiện 9 thứ phiền não này nên lập 9 thí dụ.
1. Để hiển thị tham dục phiền não, nên lập thí dụ hoa sen hóa Phật. Ví như khi hoa sen mới nở thật đáng yêu thích, sau héo tàn thì người chán ghét. Tham dục cũng vậy. Ban đầu do trần thành sau y trần hoại, nên lấy hoa thí dụ cho tham, mà khi hoa tàn hóa Phật xuất thế như tham che pháp thân.
2. Để hiển thị sân phiền não nên dùng con ong làm thí dụ. Như con ong nếu bị người chạm đến thì phóng nọc độc chích người. Sân cũng vậy. Nếu tâm khởi sân tức có thể tự hại lại có thể hại người khác, mà có mật ngọt tức ví cho pháp thân vì bị sân che lấp.
3. Để hiển thị vô minh hoặc, nên thí dụ hạt gạo trong vỏ trấu. Ví như hạt gạo trắng bị lớp cám bao bọc không thụ dụng được. Pháp thân cũng vậy, bị lớp vỏ vô minh bao che không hiện ra được.
4. Để hiển thị thượng tâm 3 thứ phiền não nên lập thí dụ vàng rơi trong bùn nhơ, ví như vàng ròng sạch quý báu bị bê bết đồ ô uế. Người lìa dục trái nghịch nhân tâm cũng như vậy, bị thượng tâm phiền não trái nghịch ý, cho nên nói thí dụ này. Pháp thân vốn thanh tịnh bị thượng tâm hoặc che lấp nên nói bất tịnh.
5. Để hiển thị vô minh trụ địa nên lập thí dụ người đàn bà nghèo và kho báu. Ví như trong nhà người đàn bà nghèo dưới đất có một kho vàng chôn giấu nên chịu nghèo khổ. Nhị thừa cũng vậy, bị vô minh che lấp không thấy Phật quả, chịu 4 thứ khổ sinh tử.
6. Để hiển thị kiến đế hoặc, nên lập thí dụ quả xoài. Ví như khi quả xoài nảy mầm ắt phá vỏ của nó sau mầm mới ló ra. Vỏ ví như kiến đế, mầm ví pháp thân. Kiến đế cũng vậy, trước tiên thấy chân lý tức phá hoặc này thì pháp thân hiển hiện.
7. Để hiển thị tư duy hoặc, nên lập thí dụ vải rách gói vàng báu.
Ví như áo rách không thể mặc được. Thân thấy chân thật trước nay đã phá vì thánh đạo đối trị thường tu tập. Các tư duy phiền não không còn sức mạnh nữa ví như áo rách. Vàng như pháp thân bị tư duy hoặc chướng ngại.
8. Để hiển thị bất tịnh địa hoặc, nên lập thí dụ người đàn bà nghèo mang thai một vương tử. Ví như con một Chuyển luân vương ở trong bào thai của một người đàn bà nghèo. Thai không thể làm ô uế. Phiền não của địa thứ 7 trở lại cũng vậy. Tuy gọi là phiền não mà có 3 đức: 1. Không nhiễm trược vì được hàm dưỡng bởi trí tuệ từ bi. 2. Không lỗi lầm vì không tổn tự tha. 3. Vô lượng công đức có thể thành thục Phật pháp và chúng sinh. Nếu tăng trưởng phiền não tức thành phàm phu không thể thành thục Phật pháp. Nếu đoạn phiền não, tức thành Nhị thừa không thể thành thục chúng sinh.
9. Để hiển thị tịnh địa hoặc, nên lập thí dụ tượng vàng trong khuôn đúc. Ví như thợ đúc tượng vàng, khi chưa gỡ khuôn tượng đã hoàn thành. Nước v.v… các vật không thể phá vỡ khuôn, chỉ búa mới phá được. Các hoặc của địa thứ 8 trở lên cũng như vậy, chỉ có Kim cương tâm mới có thể phá hoàn toàn. Cho nên nhân 3 thứ tự tính để hiển thị pháp giới tâm thanh tịnh., gọi là Như Lai tạng. Vì vậy nói 9 thứ thí dụ như là thí dụ hoa sen v.v…
Ba thứ tự tính là: một là pháp thân, hai là như như, ba là Phật tính. Hợp 9 thí dụ này làm thành 3. Ba thí dụ đầu ví pháp thân. Một thí dụ tiếp ví như như. Năm thí dụ sau ví Phật tính. Làm sao như thế nói rõ pháp thân chư Phật có 2 thứ một là chính đắc hai là chính thuyết? Nói pháp thân chính đắc là pháp giới tối thanh tịnh, là trí cảnh vô phân biệt. Đương thể chư Phật là pháp tự sở đắc. Pháp thân chính thuyết là để được pháp thân thanh tịnh pháp giới chính lưu từ như chỗ giáo hóa chúng sinh sinh thức, gọi là pháp thân chính thuyết. Pháp thân chính thuyết lại có 2 thứ: một thâm diệu, hai thô thiển. Để an lập 2 đạo lý này thì thâm diệu là để an lập đạo lý Đại thừa, thô thiển là vì người Nhị thừa nói đạo lý này. Lại nữa, đệ nhất nghĩa đế là an lập pháp tạng thậm thâm của Bồ-tát. Theo chân tục 2 đế thì an lập các thứ pháp tạng 12 bộ v.v…của Nhị thừa.
Giải thích: Một, chính đắc pháp thân, nghĩa là thể là chân như, thế gian không vật gì có thể thí dụ, nên lấy tượng Phật trong hoa làm thí dụ. Hai, chính thuyết thâm diệu pháp thân, là vì chân như chỉ có một mùi vị, nên lấy con ong và mật làm thí dụ. Ba, thô thiển chính thuyết pháp thân, là để hiển thị các ý nghĩa chân tục nên lấy hạt gạo trong lóp cám làm thí dụ. Do 3 thí dụ này hiển thị chính đắc pháp thân và chính thuyết pháp thân của chư Phật. Ba pháp thân này biến khắp gồm thâu chứa tất cả chúng sinh không sót một chúng sinh nào. Cho nên kinh nói không một chúng sinh ra ngoài pháp thân Như Lai, như không một sắc màu nào ra ngoài hư không. Tiếp đến một thí dụ vàng rơi trong bất tịnh, ví với như như. Như như có 3 nghĩa nên lấy vàng làm thí dụ. Một là tính không biến đổi khác. Hai là công đức không cùng. Ba là thanh tịnh không hai. Tự tính cũng như vậy không biến đổi khác, công đức cũng như vậy không tăng giảm, thanh tịnh cũng như vậy không nhiễm ô. Cho nên nói như như là chân như. Như trong tất cả tà định tụ và trong các chúng sinh Nhất-xiển-đề vốn không sai khác. Nếu đến sau khi khách trần diệt thì gọi là Như Lai tạng. Cho nên nói tất cả chúng sinh là Như Lai tạng, có thể ẩn tàng Như Lai không được hiển hiện. Để hiển thị thanh tịnh không hai này nên Phật nói kinh này: “ Văn-thù-sư-lợi ! Chư Phật đã xuất ly khỏi căn bản ngã thủ. Do tự tính thanh tịnh này nên tất cả chúng sinh thanh tịnh. Tự tính thanh tịnh này với chúng sinh thanh tịnh này không có 2. “ Để hiển thị cái “như” này, nói thí dụ vàng báu. Năm thí dụ sau ví với Phật tính. Phật tính có 2 thứ: một là trụ nơi tính tự tính, hai là tính dẫn xuất. Ba thân của chư Phật nhân 2 tính này được thành tựu. Để hiển thị trụ tự tính nên nói thí dụ kho báu chôn giấu dưới đất. Cái Phật tính trụ tự tính này có 6 đức nên nói như kho báu. Một là rất khó được. Phật tính cũng vậy. Trong vô số thời, khởi tâm chính cần, nhân phúc đức trí tuệ đầy đủ trang nghiêm mới bắt đầu hiển hiện. Cho nên ví với kho báu như ý. Do thắng nhân mới cảm được. Hai là thanh tịnh không cấu uế. Do Phật tính với phiền não không bị nhiễm. Cho nên ví với báu như ý không bị bất tịnh làm nhiễm ô. Ba là oai thần vô cùng. Nói rõ công đức viên mãn của 6 thần thông. Báu như ý cũng vậy, tùy ý có thể làm được nên ví với kho báu. Bốn là có thể trang nghiêm tất cả thiện căn công đức cho thế gian, có thể tương xứng trong tất cả mọi nơi. Báu như ý cũng vậy, có thể làm các thứ khí cụ trang nghiêm cho thế gian. Năm là tối thắng. Trong tất cả các pháp không pháp nào bì kịp. Cũng như báu như ý là hơn hết tất cả mọi vật, nên nói thí dụ kho báu. Sáu là trong 8 thứ thế pháp không biến đổi khác, vì là nhân của 10 thứ thường trụ. Chân bảo cũng vậy, tuy thiêu đốt đập mài cũng không thể đổi khác được tự tính. Cho nên lấy kho báu ví cho Phật tính trụ tự tính. Hai là Phật tính dẫn xuất. Từ lúc sơ phát ý cho đến Kim cương tâm, trong đó Phật tính gọi là dẫn xuất. Có tất cả là 5 vị: 1. Có thể dẫn xuất Xiển-đề vị. 2. Có thể dẫn xuất ngoại đạo vị. 3. Có thể dẫn xuất Thanh Văn vị. 4. Có thể dẫn xuất Độc Giác vị. 5. Có thể dẫn xuất Bồ-tát vô minh trụ địa vị. Pháp thân này có thể phá phiền não, hiển hiện thể kia.
Thứ 6 nói thí dụ mầm cây xoài. Như mầm cây xoài có thể phá vỡ vỏ và thịt của hột xoài để sinh ra một cây đại thụ. Vì vậy nói dẫn xuất Phật tính như mầm cây xoài có thể sinh ra một cây đại thụ. Để dựa theo 2 nhân này nên Phật nói quả của 3 thân.
Một là nhân Phật tính trụ tự tính nên nói pháp thân. Pháp thân có 4 thứ công đức. Cho nên thứ 7 nói thí dụ vải rách gói vàng ròng. Bốn công đức, là một tự tính hữu, như vàng là vốn có không phải do cái gì tạo ra vàng. Hai là thanh tịnh, như vàng vốn sạch không bị bụi bặm làm nhiễm ô. Ba là chỗ dựa của tất cả công đức, như vàng có thể cảm các thứ quý vật. Bốn là sở đắc bình đẳng, nghĩa là tất cả chúng sinh đều có thể được như nhau. Ví như vàng không có ai là chủ thực sự, mọi người đều có thể có. Tùy theo công sức tu hành mà được. Cho nên nói pháp thân như vàng ròng.
Hai là nhân Phật tính dẫn xuất, nên nói ứng thân. Ứng thân có 4 công đức. Cho nên thứ 8 nói như người đàn bà nghèo mang thai một Chuyển luân vương. Bốn công đức là: Một là y chỉ. Y chỉ là 37 đạo phẩm là chỗ y chỉ. Hai là chính sinh, nghĩa là dục đắc ưng đắc, tức là vị tri dục tri căn. Ba là chính trụ, nghĩa là chính đắc, tức tri căn. Bốn là chính thụ dụng, tức tri dĩ căn. Hợp 4 nghĩa này gọi là ứng thân. Như trong thai Chuyển luân vương cũng có 4 nghĩa: Một là lấy nghiệp đời trước làm y chỉ. Hai là chưa được vương vị muốn được như mới sinh. Ba là chính đắc vương vị như trụ. Bốn là được rồi không mất như thụ dụng. Do đó ứng thân lấy Chuyển luân vương ở trong thai làm thí dụ.
Ba là nhân Phật tính dẫn xuất lại xuất hóa thân. Hóa thân có 3 việc: Một là có tướng, như mặt trăng trong nước, lấy ảnh tướng làm thể. Hai là, do công lực, vì do nguyện đời trước tạo ra. Ba là, có thủy có chung.
Thứ 9, lấy thí dụ tượng Phật ở trong khuôn đúc.
Giải thích: Ba nghĩa, là: Một, có tướng mạo, ví như bóng trăng. Chỉ tương tự chứ không phải chính thật. Hóa thân cũng vậy, vì không phải thật thể. Hai, do nhân công tạo tác, ví như hóa thân do nguyện đời trước khởi. Ba là làm rõ có thủy có chung, ví như hóa thân tùy duyên biến hóa cho nên có bắt đầu có kết thúc. Lại nữa lấy 3 nghĩa hiển thị 3 thân này. Trước tiên là nghĩa rất sâu, hiển thị cho pháp thân. Rất sâu, là vì thể vi tế, cho nên pháp thân này đầy đủ 5 tướng, 5 thứ công đức. Năm tướng là: Một là tướng vô vi, vì lìa lỗi của 4 tướng sinh lão v.v… Hai là tướng không một không khác, chân đế với tục đế không một không khác. Lại có 2 thứ, một là theo pháp mà nói, hai là về người mà luận.
Theo pháp mà nói không một không khác là vì chân thông nên không thể nói là khác, vì tục khác nên không được nói là một. Như con ốc màu trắng. Con ốc với màu sắc không phải một không phải hai. Nếu nói khác, thì khi thấy con ốc màu trắng không được lấy con ốc mà hiểu. Nếu nói một, thì không nên có khác về hương vị xúc. Chỉ nên là sắc mà thôi. Hai là về người mà luận chân tục không phải một không phải khác, là nếu chân với tục là một thì tất cả người thấy tục thì phải thông chân. Nếu thông chân thì phải là thánh nhân. Vì không thấy chân nên biết không phải một. Nếu nói khác thì thánh nhân thấy tục không nên thông chân. Nếu không thông chân tức là phàm phu. Vì thánh nhân thấy nên không được là khác. Vì vậy cho nên không một không khác.
Ba là lìa tướng nhị biên. Có 6 thứ trung đạo có thể xuất ly 6 thứ nhị biên. Những gì là 6? Một là chấp khả diệt diệt. Hai là chấp khả úy úy. Ba là chấp khả chấp chấp. Bốn là chấp chính với tà. Năm là chấp hữu tác vô tác. Sáu là chấp không sinh với sinh là một. Chấp có thể diệt với diệt là có người bảo rằng tất cả các pháp rốt ráo có thể diệt gọi là một bên. Rốt ráo diệt hết đó gọi là không lại là một bên. Nhân cái thiên chấp 2 bên này mà sinh sợ hãi. Để lìa cái thiên chấp nhị biên này nên Phật nói các pháp không có chứ chẳng phải có thể diệt, chẳng không cho nên chẳng phải không diệt. Chẳng phải diệt chẳng phải không diệt, gọi là trung đạo, nên Phật lập thí dụ hư không. Vì vậy Kinh Bảo Đỉnh nói: “ Ca-diếp ! Ví như có người sợ hãi hư không, đấm ngực kêu gào nói: Thiện hữu ! Các người vì ta trừ hư không này. Ca-diếp ! Ý ông thế nào? Cái hư không này có thể trừ bỏ được không? Ca-diếp nói: Không được Thế Tôn. Phật nói: Ca-diếp ! Nếu có Sa-môn Bà-la-môn sợ tính không như vậy, ta nói người này thất tâm cuồng loạn. Sở dĩ vì sao? Ca-diếp ! Tất cả các pháp đều là phương tiện nói không. Nếu sợ cái không này thì sao không sợ tất cả các pháp? Nếu tiếc các pháp, sao không tiếc cái không này? “
Hỏi: Kinh này hiển thị nghĩa gì?
Đáp: Để hiển thị tất cả các pháp bản tính là phi hữu, nên nói pháp không, chẳng phải liên quan gì pháp diệt, sau đó mới được không. Cho nên không nên sinh sợ hãi đối với tính không. Đó gọi là lìa khả diệt diệt. Nhị biên hiển thị trung đạo chẳng phải năng diệt sở diệt 2 chấp khả úy úy. Nhị biên là dùng tính phân biệt khởi sắc v.v… 6 trần chấp là thật khổ, đó là một bên sinh tâm sợ hãi. Lại một bên đây là nhân tính y tha chấp tính phân biệt, trong đó chấp có thật khổ mà sinh sợ hãi. Để lìa thiên chấp nhị biên này và muốn hiển thị trung đạo nên Phật dùng thí dụ người thợ vẽ: “ Ca-diếp ! Ví như người thợ vẽ vẽ tượng La-sát thật dễ sợ. Người thợ vẽ trông thấy tượng tự sinh sợ hãi che mặt chẳng dám nhìn, thất tâm điên cuồng. Ca-diếp ! Như vậy phàm phu do tự mình tạo tác sắc v.v… các trần, lưu chuyển sinh tử. Đối với các pháp như vậy không thể thông đạt đạo lý như thật. Thí dụ này để hiển thị nghĩa gì? Để làm rõ sắc v.v… các trần chẳng phải thật có chỉ do vọng tưởng phân biệt tạo nên, như người thợ vẽ kia tự phân biệt làm ra tượng ác La-sát rồi trông thấy mà sinh sợ hãi, người ấy cũng vậy, tự nơi không trung mà sinh sợ hãi.”
Giải thích: Một thí dụ trước tiên là ước theoThanh Văn Tiểu thừa nói. Thứ hai ước theo Đại thừa mà nói. Thế nào là người Tiểu thừa vì không thường tập trong chân như nên sinh sợ hãi, người Đại thừa có thể thường tập không, nên không sinh sợ hãi? Như con con sư tử nghe con sư tử rống không sinh sợ hãi. Nếu không rõ 2 tính phân biệt và y tha, chấp là thật có, nên bị nhiễm ô. Ba, khả chấp chấp nhị biên, là phân biệt khả chấp với năng chấp cho là thật có. Để lìa nhị biên này, nên trong kinh Phật lấy nhà ảo thuật làm thí dụ: “ Cadiếp ! Tì-khưu quán hạnh như vậy, tùy quán một cảnh hiển hiện chỉ không, thật không sở hữu, rỗng không không chân thật. Làm sao có thể lìa được nhị biên này? Do y ý thức sinh duy thức trí. Duy thức trí tức vô trần thể trí. Duy thức trí này nếu thành thì có thể trở lại diệt tự bản ý thức. Bởi vì sao? Bởi trần là vô thể nên thức không sinh. Ý thức không sinh nên duy thức tự diệt. Ý thức như nhà ảo thuật, duy thức trí như con hổ ảo. Do ý thức có thể sinh duy thức nên duy thức quán thành trở lại có thể diệt nơi ý thức. Bởi vì sao? Do trần v.v… là không, nên ý thức không sinh. Ví như con hổ ảo trở lại ăn thịt nhà ảo thuật, như pháp sư Đề-bà nói kệ rằng:
Ý thức gốc tam hữu,
Các trần đó là nhân.
Nếu thấy trần vô thể,
Giống hữu tự nhiên diệt.
Bốn, tà chính nhị biên, nghĩa là chính là trong thông đạt vị chân thật quán hạnh phân biệt là chính. Trước khi thông đạt phân biệt là tà. Để lìa nhị biên này nên dùng 2 cây sinh lửa làm thí dụ. Như trong kinh nói: “ Ca-diếp ! Ví như 2 cây ma xát vào nhau tức có thể sinh ra lửa. Khi lửa sinh ra trở lại tự đốt cháy cây. Như vậy chính tướng chân thật quán hạnh với tà tướng trị sinh thánh trí căn. Trí căn nếu thành trở lại trừ tà chính 2 phân biệt, cho nên ví như lửa sinh ra trở lại đốt cháy 2 cây. Hai cây nếu hết thì lửa cũng chẳng còn dựa vào đâu. Tà chính không 2 nên nói là trung đạo.
Năm, hữu tác vô tác nhị biên, là có người chấp nói trí tuệ vô sự vô năng. Bởi vì sao? Do giải và hoặc đối nhau nên giải sinh thì hoặc tự nhiên diệt, không phải giải có thể trừ, cho nên nói trí tuệ vô sự vô năng. Để lìa 2 cái này cho nên lập thí dụ như ngọn đèn. Như kinh nói: “ Ca-diếp ! Ví như thắp đèn. Đèn đã sáng lên thì tối tăm liền diệt, mặc dầu ánh sáng đèn kia tuy không tác ý nói có thể diệt tối tăm, nói tối tăm do ta diệt, mà do ánh sáng khởi lên tối tăm mới được diệt. Cho nên ánh sáng đèn tuy không tác ý không phải không có sự năng. Trí tuệ cũng vậy, không tác ý là ta có thể diệt hoặc, mà cũng không phải không do trí tuệ sinh hoặc liền trừ diệt. Cho nên biết trí tuệ không phải không có sự năng. Nếu nói tác ý ta có thể diệt hoặc thì đó là tăng ích, tức tạo ra bên có. Nếu nói khi trí tuệ khởi thì vô minh tự diệt, không phải do trí tuệ thì đó là tổn giảm, tức tạo ra bên không. Để lìa nhị biên này nên nói trí tuệ sinh không tác ý. Tác ý và không tác ý, chẳng phải tác nên không tăng, chẳng phải không tác nên không giảm. Đó gọi là trung đạo.
Sáu, không sinh đồng sinh nhị biên, nghĩa là một chấp không sinh ví như trong phàm phu tương tục, phiền não hằng khởi chưa từng sinh đạo do hoặc ngại. Vị lai cũng vậy, cho nên biết vĩnh viễn không giải thoát, tức là một bên, hai đồng sinh là làm rõ các hoặc trong vô thủy thời gian dài lâu vốn có. Nếu đối trị đạo với hoặc đồng thời khởi có thể diệt được hoặc. Nếu đạo mới sinh thì sức của đạo này yếu không thể diệt hoặc, cho nên biết vĩnh viễn không giải thoát. Để lìa nhị biên này nên Phật nói thí dụ thứ hai về cái đèn: “ Ca-diếp ! Như đường núi tối tăm hiểm trở và trong ngôi nhà ngàn năm tăm tối chưa từng có người thắp đèn chiếu sáng. Giả sử có người có thể thắp được ngọn đèn trong đó chăng? Đáp: Thắp được. Ca-diếp ! Trong đây các tối tăm có thể nghĩ rằng ta trụ ở đây đã lâu, nay ta không bỏ tối tăm này, có thể nghĩ vậy được chăng? Không được, thưa Thế Tôn. Bởi vì sao? Sáng đèn đã thành không thể không bỏ đi được. Ca-diếp ! Như vậy phiền não và nghiệp từ vô số kiếp đến nay tương tục trong chúng sinh. Nếu có thể sinh một niệm chính tư duy thì phiền não nhiều kiếp đã lâu đều tự diệt. Ca-diếp ! Ánh sáng đèn đó, tức ví cho thánh trí vô phân biệt, tối tăm tức ví như nghiệp phiền não của chúng sinh. Do thí dụ cây đèn này phá chấp đạo không sinh. Bởi vì sao? Bởi đạo dựa vào nhân duyên sinh, nếu nhân duyên chưa hợp đạo không sinh được. Nhân duyên đủ thì đạo được sinh. Như do thắp đèn sau tối tăm mới diệt. Tối tăm diệt là phá chấp đồng sinh. Vì cái tối tăm suy yếu nên có thể diệt. Đó là cảnh giới không điên đảo, bởi bạch tịnh rất mạnh có cảnh chân thật không điên đảo. Đó gọi là lìa 6 thứ nhị biên, hiển thị 6 thứ trung đạo.
Bốn, lìa tướng chướng. Có 3 thứ chướng: 1. Chướng phiền não. Lìa chướng này có thể được tuệ giải thoát A-la-hán. 2. Chướng thiền định. Do lìa chướng này nên được câu giải thoát A-la-hán và Độc Giác v.v… 3. Chướng nhất thiết trí. Bồ-tát đạo phá chướng này. Lìa chướng này được chính giải thoát. Pháp thân Như Lai ở trong 3 vị, tuy có 3 chướng nhưng không bị nhiễm ô.
Năm, tướng thanh tịnh của pháp thân giới. Có tất cả 4 thí dụ đều có 4 nghĩa. Bốn nghĩa đầu tiên là pháp thân không đổi như vàng, như như thanh tịnh như nước. Đệ nhất nghĩa đế là vô tướng như hư không. Đại Bát-niết-bàn hiển rõ như giác. Bốn nghĩa thứ hai là thần thông chuyển biến như vàng, từ bi nhuận trạch như nước, tự tính không bỏ chúng sinh như hư không, Bát-nhã giải tịnh như giác. Bốn nghĩa thứ ba là do bản tịnh không nhiễm như vàng, thắng đạo rửa sạch như nước, giải thoát không vướng như hư không, quả thể hiển hiện như giác. Bốn nghĩa thứ tư là lạc tính lợi ích như vàng, thể trong sạch như nước, thường đức không hoại như hư không, không chấp nghĩa ngã như giác.
Hỏi: Năm tướng này hiển thị nghĩa gì?
Đáp: Trước tiên tướng vô vi hiển thị nghĩa về chủng loại. Bởi vì sao? Vì pháp thân Như Lai lấy vô vi làm tướng chủng loại. Hai là không riêng khác, hiển thị tướng của nghĩa, nói rõ tướng Như Lai là tướng không một không hai. Ba là lìa tướng nhị biên, hiển thị nghĩa y chỉ đầy đủ. Đầy đủ tức nói các thánh đạo của Bồ-tát. Y chỉ , tức chỗ y chỉ của thánh đạo. Vì lìa bỏ nhị biên có thể y vào lý trung đạo đến được pháp thân. Bốn là lìa tất cả chướng, hiển thị công đức của pháp thân không các nhiễm ô vì vĩnh viễn vượt qua trí chướng. Năm là tướng pháp thân thanh tịnh, hiển thị quả của pháp thân là trong lặng không cấu uế. Lại nữa nên biết tuần tự của 5 tướng. Trước tiên là tướng vô vi hiển thị thường trụ. Hai là tướng không khác biệt hiển thị nghĩa chân thật. Ba là tướng lìa nhị biên hiển thị nghĩa đối trị.
Bốn là tướng lìa tất cả chướng hiển thị nghĩa giải thoát. Năm là pháp giới thanh tịnh hiển thị nghĩa tự tính thanh tịnh. Như vậy tướng sinh cũng được theo từ trước ra sau, theo từ sau ra trước. Lại nữa tuần tự của 5 nghĩa, là: 1. Tự tính nên nói là vô vi. 2. Không phân biệt nên nói không một không hai. 3. Cảnh giới của thánh trí nên nói lìa nhị biên. 4. Tự tính thanh tịnh nên nói lìa tất cả chướng. 5. Rốt ráo thành tựu nên nói pháp giới thanh tịnh. Đó là 5 tướng. Lại nữa 5 đức là: 1. Không thể lường. 2. Không thể đếm. 3. Không thể nghĩ. 4. Không thể so sánh. Hai là rốt ráo thanh tịnh.
Một, không thể lường có 4 nghĩa: 1. Do thời gian lâu nên không ước lượng được. 2. Công dụng lớn nên không thể lường. 3. Vô dư bất túc nên không thể lường. 4. Không gián đoạn nên không thể lường. Như Phật hỏi Xá-lợi-phất: “ Ông có thể như lượng thông đạt công đức Như Lai chăng? Xá-lợi-phất nói: Thưa Thế Tôn, không thể. Lại hỏi: Ông làm sao tin được công đức Như Lai? Xá-lợi -phất nói: Con nay y theo Thanh Văn có thể quán thấy công đức giới v.v… của Như Lai không đâu là không sinh hy hữu. Ví như người đi trong công viên của trời, trên đường đi thấy cây báu trang nghiêm sinh tâm hy hữu, con nay cũng vậy. Thưa Thế Tôn ! Ví như có người ở ngoài thành lớn thấy những người ra vào thành người nào cũng đáng thương rồi cho rằng những người trong thành đều đáng thương xót. Con nay cũng vậy, vì y vào Thanh Văn nên có thể quán công đức giới v.v… của Như Lai không gì không hy hữu vì tin mà biết.”
Hai, không thể đếm, là không thể lường công đức là một hay là nhiều, số ây vô cùng hơn cả số cát sông Hằng, như trong Kinh Mã Tiên Hành có bài kệ nói:
Nếu người có ngàn đầu
Mỗi đầu có trăm miệng.
Mỗi miệng có trăm lưỡi,
Mỗi lưỡi nói trăm tiếng.
Mười lực bằng một phần,
Cùng kiếp nói không hết.
Ba, không thể nghĩ, là vì không phải cảnh giới giác quán.
Bốn, không thể so sánh, vì không phải Thanh Văn Độc Giác Bồ-tát 3 thừa cùng đạt được.
Năm, rốt ráo thanh tịnh, vì vô minh trụ địa vĩnh diệt không sót. Đó gọi là 5 đức của pháp thân.
Lại nữa ứng thân vì thế lực và công dụng rộng lớn nên thân này vốn có 3 đức: 1. Đại Bát-nhã. 2. Đại thiền định. 3. Đại từ bi. Đại Bátnhã thì thánh trí vô phân biệt là thể tướng. Đại thiền định thì không tác ý là thể tướng vì đã lìa ý xuất nhập. Đại từ bi thì có thể cứu vớt là thể tướng. Khiến được viên mãn như ý chúng sinh phải có 3 cái này: 1. Pháp lạc. 2. Sáu thần thông. 3. Cứu tế. Vì vậy đại bi là cứu vớt khổ trong 3 đường ác, đặt để nhân thiên vào đại định, có thể hiển hiện 6 thần thông khiến sinh tín lạc. Bát-nhã là thụ pháp lạc có thể thành thục giải thoát. Đó gọi là ứng thân.
Lại nữa hóa thân thì đại bi làm gốc, thiền định làm biến hiện. Bát-nhã có thể khiến có 5 thứ công năng: 1. Khiến sinh chán sợ. 2. Khiến vào trong thánh đạo. 3. Khiến bỏ chấp xưa. 4. Khiến tin yêu đại pháp. 5. Khiến thụ Đại Bồ-đề ký. Ba đại pháp này, trong nhân địa huân tu như như, an lập bản nguyện. Do bản nguyện này sau khi đến đạo tùy nơi 3 thân có thể làm việc lợi ích chúng sinh, cho nên xuất hiện trong đời ác 5 trược. Sự có 14: 1. Hiện bản sinh. 2. Hiện sinh trời Đâu-suất. 3. Từ cõi trời xuống thụ thân trung ấm. 4. Nhập thai. 5. Xuất thai. 6. Học các kỹ năng. 7. Đồng tử du hý. 8. Xuất gia. 9. Khổ hạnh. 10. Đến cây Bồ-đề. 11. Phá ma quân. 12. Thành Phật. 13. Chuyển pháp luân. 14. Bát-niết-bàn. Mười bốn việc này hiện đời 5 trược đến hết chúng sinh, 14 việc làm 5 nhân duyên: 1. Vì nói vô thường, khổ, vô ngã, không, Niết-bàn tịch tĩnh. Do đây chính thuyết âm thanh có thể khiến chúng sinh ở trong tam hữu sinh sợ hãi. 2. Sinh sợ hãi rồi khiến vào trong thánh đạo Nhị thừa. 3. Vào thánh đạo rồi, sinh tâm cứu cánh Niết-bàn. Để phá tâm tăng thượng mạn như vậy nên nói Đại Thừa Pháp Hoa v.v… các giáo pháp chân thật khiến các chúng sinh xả bỏ chỗ vốn chấp, tiếp nhận phương tiện từ bi Bát-nhã. 4. Đã tiếp nhận rồi, thành thục trong vô thượng thừa. 5. Thành thục rồi truyền thụ đạo ký vô thượng Bồ-đề, gọi là hóa thân sự. Lại nữa, y 3 thân này tùy mỗi thân đều có một đức. Pháp thân vi diệu nên thậm thâm là đức. Ứng thân oai thần đầy đủ nên quảng đại là đức. Hóa thân năng tế độ phàm phu v.v… các chúng sinh nên hòa thiện là đức. Lại nữa 3 thân này hằng năng sinh khởi các việc lợi ích thế gian nên nói thường trụ. Thường trụ, là y vào 10 thứ nhân duyên. Mười thứ là: 1. Nhân duyên vô biên. 2. Chúng sinh giới vô biên. 3. Đại bi vô biên. 4. Như ý túc vô biên. 5. Vô phân biệt trí vô biên. 6. Hằng tại thiền định không tán loạn. 7. An lạc thanh lương. 8. Hành 8 pháp thế gian không nhiễm. 9. Cam lồ tịch tĩnh xa lìa tử ma. 10. Bản tính pháp nhiên không sinh không diệt.
Một, nhân duyên vô biên nên thường, là vô lượng kiếp đến nay xả thân mạng tài vì nhiếp chính pháp, chính pháp đã vô biên tế vô cùng vô tận, rồi lại do nhân vô cùng cảm quả vô cùng. Quả tức 3 thân cho nên được thường.
Hai, chúng sinh vô biên nên thường, là lúc mới phát tâm kết 4 hoằng thệ, khởi 10 vô tận đại nguyện, nếu chúng sinh không cùng tận thì nguyện ta cũng không cùng tận, chúng sinh nếu hết nguyện ta mới hết. Chúng sinh đã không cùng tận cho nên hóa thân thường tại thế gian giáo hóa dắt dẫn chúng sinh không cùng tận.
Ba, đại bi vô biên nên thường, là nếu các Bồ-tát phần có đại bi còn có thể hằng cứu chúng sinh tâm không kỳ hạn ở lâu trong sinh tử không nhập Niết-bàn. Huống chi Như Lai các đức viên mãn thường ở trong đại bi cứu bạt hằng ân lẽ nào có giới hạn cho nên nói là thường.
Bốn, 4 như ý vô biên nên thường, là thế gian người có được 4 thần túc còn có thể trụ thọ mạng 40 tiểu kiếp. Huống chi Như Lai là đại thần túc sư mà không thể trụ thọ mạng tự tại ức trăm ngàn kiếp rộng hóa độ chúng sinh cho nên nói là thường.
Năm, vô phân biệt tuệ vô biên nên thường, là xa lìa 2 chấp sinh tử Niết-bàn. Nhất hướng tương ưng với đệ nhất nghĩa đế, bất động bất xuất nên biết là thường.
Sáu, hằng tại thiền định nên thường, là thế gian có người được thiền định còn có thể không bị nước trôi lửa cháy đao tên làm thương tổn, huống chi Như Lai thường tại thiền định mà có thể hoại được nên gọi là thường.
Bảy, an lạc thanh lương nên thường, là an lạc tức Kim cương tâm có thể trừ tối hậu niệm vô thường khổ của vô minh trụ địa, là vì không có khổ nên gọi an lạc. Quả Phật hiện thành nên gọi thanh lương, là đạo giải thoát nên gọi là thường.
Tám, hành 8 pháp trong thế gian mà không nhiễm nên thường, là Phật thân tuy lại ở trong đạo tiền, tương ưng sinh tử nhưng không bị các phiền não kia nhiễm, không duyên vọng tưởng, nên là thường trụ.
Chín, cam lồ tịch tĩnh xa lìa tử ma nên thường, là cam lồ khiến người sống lâu không chết. Tâm kim cương có thể trừ niệm hoặc sau cùng của vô minh cho nên được Phật quả thường lạc. Thường lạc nên tịch tĩnh. Tịch tĩnh nên xa lìa tử ma. Lìa tử ma nên là pháp thường trụ.
Mười, tính không sinh diệt nên là thường, nghĩa là pháp thân chẳng phải vốn không nay có, vốn có nay không, tuy hành trong 3 đời mà chẳng phải pháp 3 đời. Bởi vì sao? Đây là bản hữu, chẳng phải nay mới có, vựot qua pháp 3 đời cho nên gọi là thường.
Hỏi: Phật nói các kinh Đại thừa, nhất hướng đều nói hiển thị các pháp không, như mây như mộng ảo. Phiền não năng chướng ngại nên lấy mây làm thí dụ. Tất cả các nghiệp không chân thật nên lấy mộng làm thí dụ. Tất cả 5 ấm quả báo do nghiệp phiền não khởi nên lấy sự ảo hóa làm thí dụ. Trước nói kinh này hiển thị nghĩa này. Sao lại nói tất cả chúng sinh đều có Phật tính?
Đáp: Như trước tiên đã nói 5 thứ công đức, trừ 5 tội lỗi, nói rõ có Phật tính. Cho nên nói là có. Tiếp đến 9 thứ thí dụ để hiển thị Phật tính có 5 nghĩa. Năm nghĩa, là: 1. Chân thật có. 2. Dựa vào phương tiện thì có thể thấy. 3. Được thấy rồi công đức vô cùng. 4. Không có trước tiên, không được, tương ưng.
Giải thích: Không có trước tiên, nghiã là phiền não nghiệp báo đều là vô thủy, nên nói không có trước tiên. Không được, là do 3 cái này nên trái nghịch pháp thân, cho nên nói không được. Tương ưng, là do dựa vào pháp thân được khởi 3 cái này, cho nên nói tương ưng. 5. Không có trước tiên tương ưng thiện tính là pháp.
Giải thích: Không có trước tiên, là vì tính được Bát-nhã, đại bi, thiền định pháp thân đều là bản hữu cho nên nói không có trước tiên. Thể dụng chưa từng tách rời nhau nên nói tương ưng. Đó là không có trước tiên. Tương ưng thiện tính là pháp, là tự tính pháp thân không thay đổi. Do Bát-nhã nên tính có oai đức. Do thiền định nên tính có thể nhuận hoạt. Do đại bi nên gọi thiện tính là pháp. Như vậy 9 thí dụ giải thích xong nghĩa của tiền tế hậu tế biến đổi khác.
Hai, không nhiễm tịnh đổi khác, là pháp thân không bị sinh tử ấm giới nhập v.v… làm ô uế nên nói không nhiễm, chẳng phải trí số tạo tác nên gọi là không tịnh. Ba, không sinh biến đổi khác, là pháp thân không sinh nên chẳng phải khởi thành, chẳng phải khởi thành nên chẳng phải mới bắt đầu có, không luận đổi khác. Bốn, không già biến đổi khác, là pháp thân không động chuyển, không đổi khác nên nói không già. Năm, không y trụ biến đổi khác, là nếu pháp có y có trụ tức có biến đổi khác. Pháp thân không do cái khác, không y chỉ, không sở tại, nên nói không trụ. Sáu, không diệt biến đổi khác, là pháp thân thường trụ không thể phá hoại, nên nói không diệt biến đổi khác. Đó gọi là không biến đổi khác. Giải thích xong 6 thứ biệt nghĩa.
Lại nữa hợp 6 làm 3, là: 1. Tiền hậu tịch tĩnh, nghĩa là tiền tế hậu tế không khác. 2. Vô lưu, tức nhiễm tịnh không khác. 3. Vô vi, nghĩa là không 4 tướng sinh trụ diệt v.v… nên không đổi khác. Cho nên tất cả các pháp vọng tưởng có 3 biến đổi khác: 1. Quả báo hết nên biến đổi khác. 2. Đối trị phá nên biến đổi khác. 3. Sát-na niệm niệm diệt nên biến đổi khác. Pháp thân không như vậy vì lìa 3 lỗi: 1. Vì tiền tế hậu tế tịch tĩnh nên không quả báo hết biến đổi khác. 2. Vô lưu nên không đối trị phá biến đổi khác. 3. Chẳng phải pháp hữu vi nên không niệm niệm hoại biến đổi khác, nên không biến đổi khác.
Phẩm 10: VÔ SAI BIỆT
Lại nữa phải biết nghĩa của vô sai biết. Vô sai biệt, là tính Như Lai này đã đến địa vị cực kỳ thanh tịnh. Nếu lược nói là trong cảnh giới vô lưu, ước theo Như Lai tính có 4 nghĩa. Nhân 4 nghĩa này nên lập 4 tên ước theo 4 người hiển thị bằng 4 đức. Bốn nghĩa đó là: 1. Tất cả Phật pháp trước sau không tách rời nhau. 2. Tất cả xứ đều như. 3. Phi vọng tưởng đảo pháp. 4. Bản tính tịch tĩnh.
Giải thích: Tất cả Phật pháp trước sau không tách rời nhau, nghĩa là như Kinh Thắng Man nói: “ Thế Tôn ! Như Lai tạng bất không, quá hơn số cát sông Hằng không tách rời nhau, không bỏ trí không thể tư duy chư Phật công đức. Cho nên biết Như Lai tạng do công đức Như Lai nên bất không. Bất không , tức rõ ràng Phật đầy đủ tất cả công đức.” Tính này, tất cả xứ đều như, là vì tất cả các pháp là không tự tính. Như Kinh Vô Thượng Y nói: “ Tất cả chúng sinh có ấm giới nhập, các chủng loại trong ngoài hiện hành tương tục lưu chuyển từ thời vô thủy. Pháp nhiên sở đắc, sáng suốt diệu thiện. “ Vì nghĩa đó nên biết tất cả xứ đều như. Phi vọng tưởng điên đảo pháp, là như trong Kinh Giải Tiết nói: “ Phật bảo Bồ-tát Vô Tận Ý: Thiện nam tử ! Tính của Như Lai là chân thật đế. Như Lai xuất thế và không xuất thế, tính tướng thường nhiên, chẳng phải pháp hư vọng.” Do kinh này cho nên biết pháp không vọng tưởng điên đảo gọi là chân thật đế. Bản tính tịch tĩnh, là như Kinh Văn-thù-sư-lợi Biến Hành nói: “ Phật nói: Văn-thù-sư-lợi ! Bản tính chư Phật Như Lai từ Bát-niết-bàn không sinh không diệt.” Vì ý nghĩa đó nên biết bản lai tự tính vắng lặng. Lại nữa, lập 4 tên, là: 1. Do Phật pháp không tách rời nhau nên gọi là pháp thân. 2. Do tính tất cả xứ như nên gọi là Như Lai. 3. Do không hư vọng điên đảo nên gọi là chân thật đế. 4. Do bản lai tịch tĩnh nên gọi Bát-niết-bàn. Bốn nghĩa 4 tên này trong Như Lai tính không có sai biệt cho nên nói là tướng vô sai biệt. Lại nữa ước theo 4 người, là: 1. Phi thân kiến chúng sinh cảnh giới. Do chân tính này là đối trị tà chấp cho nên là người thân kiến gọi là pháp thân.
Hỏi: Thế nào là đối người này bắng chân như gọi là pháp thân?
Đáp: Với các phàm phu, sắc v.v… các ấm không có tính này cưỡng chấp có ngã và có ngã sở. Do 2 chấp nhân pháp này làm nhiễm ô tâm. Chỗ diệt thân kiến là cam lồ giới không thể tín lạc, làm sao có thể thông đạt pháp giới của Như Lai. Nếu thấy giới này chấp thân kiến diệt, dù thân kiến đã trừ chưa trừ, giới này hằng thường như vậy, cho nên giới này mới là chân thân. Chỗ chấp của phàm phu đã chẳng phải chân thật nên không cùng tồn tại, không được gọi thân. Để đối lại thân kiến như vậy phàm phu lập tên là thân.
2 . Đối lại người điên đảo, gọi là Như Lai. Người điên đảo, là người Nhị thừa. Như Lai thường trụ, nên tu, nên hành, mà ngược lại đảo tu vô thường tưởng v.v… Bởi vì sao? Cái tu này dựa vào cảnh hư vọng khởi nên gọi đảo tu. Lạc ngã tịnh cũng như vậy. Do đảo hành nên tất cả Nhị thừa không thể tiến tu được tương xứng cùng đạo quả của Như Lai, cho nên thường v.v… chân như chẳng phải là cảnh giới đó. Chân như này là bất như, vô thường v.v… vì đối trị thế gian. Cái chân như này chẳng phải trong như có như, không chẳng phải như, cũng là như. Cái như của Nhị thừa là chẳng phải như trong như, không chẳng phải chẳng phải như trong như. Sao người Nhị thừa như vậy theo hư vọng quán các tướng vô thường là chân như? Cái quán hư vọng này duy chỉ trong nhân có quả địa tức là không. Cho nên cái như này hoặc thành hoặc hoại. Trong nhân thì thành, trong quả địa thì hoại. Cái như của Bồ-tát thì lìa hư vọng, theo chân tính để quán chân như, cho nên cái như như thế trong nhân quả 2 xứ không khác, nên chỉ thành mà không hoại. Vì vậy cái như của người Nhị thừa là đuổi theo định diệt, đi mà không trở lại. Cái như của Bồ-tát là nhân quả hằng hữu, khứ lai không khác. Xả nhân đến quả nên gọi là như khứ. Từ quả xuất dụng nên gọi như lai. Cho nên Như Lai chẳng phải cảnh giới của Nhị thừa. Cho nên đối lại với Nhị thừa lập tên Như Lai.
3. Đối lại với người tâm tán động, gọi là chân đế. Chân như, là pháp không tăng giảm. Người tâm tán động, là mới hành Đại thừa Bồ-tát, mê Như Lai tạng có 2 loại người: Một là chỉ tin diệt trừ các pháp, gọi đó là không. Tất cả các pháp khi chưa phân tích thì gọi là có, nếu phân tích rồi thì gọi là không. Hai là chấp có thật pháp, gọi đó là không, ta nay phải tu, phải chứng đắc. Hạng hạng người này đều mê Như Lai tạng. Người trước mê vì chấp không, người sau mê vì chấp có. Đạo lý Như Lai tạng tướng như thế nào như kệ nói:
Không có một pháp tổn,
Không có một pháp tăng.
Phải thấy thật như thật,
Thấy thật được giải thoát.
Do khách trần nên không,
Cùng pháp giới tương ly,
Pháp vô thượng chẳng không,
Cùng pháp giới tương tùy.
Như Lai tính, là tự thanh tịnh. Có thể nhiễm khách trần, là vì tự tính không, cho nên nói không một pháp có thể làm tổn. Chân như không tách rời với nhân thanh tịnh, quá hơn số cát sông Hằng không bỏ trí không thể tư duy. Vì hằng tương ưng với công đức chư Phật cho nên nói không một pháp có thể tăng. Nếu pháp không nhân đây thì không có pháp quán chân như không, vì các pháp có. Quán như bất không, nên nói chân như, cũng không bất không. Bởi vì sao? Bởi lìa tăng giảm nhị biên. Không một pháp có thể làm tổn, nên là không. Không một pháp có thể làm tăng cho nên là phi không. Quán như vậy là quán chân thật, nên xa lìa được 2 bên tăng giảm là mới hành Bồ-tát. Không thấy được lý của tạng này nên để đối với người này nói chân thật đế. Từ sơ địa đến địa thứ 10 là cảnh giới quán nơi lý này hành thập địa hạnh. Cho nên chẳng phải liên quan cảnh giới mới hành.
3. Đối lại với Bồ-tát địa thứ 10, gọi là Niết-bàn. Duy chỉ một mình Phật có thể được Niết-bàn. Bao nhiêu các Bồ-tát không thể đến được. Như Kinh Thắng Man nói: “ Thế Tôn ! Do được Niết-bàn nên Thế Tôn thành tựu Như Lai A-la-ha Tam-miệu Tam-phật-đà, được tất cả vô lượng không thể tư duy công đức cứu cánh thanh tịnh của chư Phật. Vì vậy 4 thứ công đức của Niết-bàn là tướng không sai biệt. Lại nữa 4 công đức là: 1. Nhất thiết công đức. 2. Vô lượng công đức. 3. Bất khả tư duy công đức. 4. Cứu cánh thanh tịnh công đức. Do được Niết-bàn nên thành Như Lai. Vì vậy cho nên Như Lai với Niết-bàn không có sai biệt. Bởi vì sao? Nếu lìa Phật không được Niết-bàn. Nếu lìa Niết-bàn không được Phật.
Giải thích: Công đức, trước tiên là nhất thiết công đức, tức địa vị bất động thứ 8, không xuyên lậu, không trung gian, tự nhiên thành, vì hằng tương ưng với thánh đạo của Bồ-tát. Chư Phật Như Lai trong vô lưu giới tất cả công đức đều được thành tựu. Hai là vô lượng công đức, là địa vị thiện tuệ thứ 9 vô số thiền định biển Đàla-ni môn có thể thâu nhiếp chỗ y chỉ của vô lượng công đức trí, nên vô lượng công đức đều được thành tựu. Ba là công đức không thể tư duy, là địa vị pháp vân thứ 10, là chỗ sở y của trí tuệ sáng suốt chứng thấy tất cả pháp tạng bí mật của Như Lai, cho nên không thể tư duy đều được thành tựu. Bốn là cứu cánh thanh tịnh, là đã diệt hết tất cả hoặc và tập khí tất cả trí chướng cho nên do diệt hết trí chướng mà rốt ráo thanh tịnh. Công đức viên mãn thành tựu Niết-bàn cùng 4 đức này thâu nhiếp nhau không tách rời nhau, cho nên chỉ Phật được Niết-bàn, những người khác chưa được. Cho nên Như Lai tính với 4 nghĩa, 4 tên, 4 người, 4 đức này không có sai biệt. Cho nên nói công đức không sai biệt. Do nhân duyên ấy tự tính v.v… 10 tướng là để hiển thị 3 nghĩa: 1. Hiển thị bản hữu là cảnh giới không thể nghĩ bàn. 2. Hiển thị y vào đạo lý tu hành, tu hành thì có thể chứng đắc. 3. Hiển thị chứng đắc rồi có thể khiến viên mãn cứu cánh vô lượng công đức, cho nên tạo luận này./.
TRỌN BỘ 4 QUYỂN HẾT