LUẬN QUYẾT ĐỊNH TẠNG
Hán dịch: Đời Lương, Đại sư Chân Đế
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN TRUNG

Phẩm ĐỊA TÂM, phần 2

Lược nêu phần thuộc về sinh duyên, tự nhân đầy đủ, đó gọi là chí.

Thế nào là chí? Do tợ như nhân lược nêu nên nhân duyên đầy đủ, tức là được sinh, nên gọi là chí. Như vậy lựa chọn nhận biết giả gọi là có chí. Nếu thật có thì có hai thứ, đó là có sinh nhân và có không lìa nhân. Nếu có sinh nhân, như chưa đắc pháp từ trước đến nay không chí làm nhân, há nghĩa lại được sinh. Nếu như vậy thì vĩnh viễn không được sinh. Có pháp không lìa nhân, tức do đấy nên pháp thiện, bất thiện, vô ký nhất thời được chí.

Lại nữa, pháp trở ngại cũng nên cùng sinh, vì thế hai nhân thảy đều không đúng. Lại, pháp sinh nhân đều thuộc về các duyên hiện tại, chủng tử của mình như nơi nhân, tức do chủng tử này nên gọi là chí. Còn những nhân duyên riêng khác, do hiện tiền nên gọi là lìa duyên khác, tại duyên dẫn dắt này, do tự tại ấy giả gọi là chí. Tự tại này do nhiều người nên các pháp bị sinh bị diệt. Lại vui thích hiện tiền, mau chóng dẫn dắt sinh duyên, nên gọi là chí. Lược có ba nghĩa: Một là chủng tử thành tựu. Hai là tự tại thành tựu. Ba là hiện tiền thành tựu.

Chủng tử thành tựu là tất cả pháp ác, các pháp vô ký và thiện sinh đắc, không sinh công dụng. Các chủng tử này chưa có định phá.

Thánh đạo điều phục các chủng tử thiện, chưa bị tà kiến hủy hoại. Đó gọi là chủng tử thành tựu. Làm sao nhận biết? Chủng tử của các pháp cho đến khi chưa hoại thì cùng với các pháp bất thiện, hoặc hiện hoặc không hiện. Những người như vậy đều gọi là thành tựu. Do công sức của các pháp thiện đã tạo, nên có đầy đủ các nhân thuộc về vô ký sinh duyên. Đó gọi là tự tại thành tựu. Các pháp hiện tại đang hiện tiền, do tự tướng nên sinh. Đó gọi là hiện tiền thành tựu.

Thế nào là mạng căn dựa nơi nghiệp quá khứ, xứ xứ thọ thân đều theo nghiệp dẫn dắt, có lượng thời trụ, do dẫn dắt mạng này tức gọi là mạng căn. Lại nữa, mạng căn phân biệt có hai, là định và bất định, có theo và không theo, có nhiều có ít, có sau không sau, có được tự tại có không được tự tại. Người ở châu Diêm-phù-đề lìa thọ mạng của mình, ngoài ra có số quyết định. Trong châu Diêm-phùđề hoặc thọ mạng vô lượng hoặc là ngắn ngủi, giảm cho đến còn mười tuổi. Người ở châu Uất-đơn-việt thọ mạng nhất định là ngàn năm. Xứ này tùy mạng, hoàn toàn không có duyên chết, những xứ khác thì không tùy mạng. Người ở châu Diêm-phù-đề thọ mạng giảm còn mười tuổi, đó gọi là ngắn ngủi. Có các loài súc sinh, ở trong một ngày, bảy lần chết bảy lần sinh. Cho đến trong một ngày một đêm nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng, chư thiên thọ mạng tám vạn đại kiếp. A-la-hán thọ mạng cũng lại có phần sau (biên vực). Như các người học, trong đời hiện tại nhất định nhập Niết-bàn, các người phàm phu sinh thân sau cùng thì thọ mạng có phần sau, còn các người khác lại không có phần sau. Mạng căn nơi các La-hán, Bồ-tát, Phật, có thể tự tại kéo dài tuổi thọ, những thọ mạng khác thì không được tự tại.

Thế nào là chủng loại tợ phần của chúng sinh? Là lược nêu xứ xứ thọ sinh nơi các loại chúng sinh, đồng cõi, đồng nẻo, đồng sinh, đồng loại, đồng năm, đồng tánh, các hành dài ngắn, do dựa vào các phần này là tương tợ. Đó gọi là chủng loại tợ phần của chúng sinh.

Có các chúng sinh nương nơi phần cõi, thì đều có phần tợ. Ở trong một cõi, chúng sinh thọ sinh, do nương nơi năm nẻo nên mỗi chúng sinh có phần tợ. Các chúng sinh trong mỗi mỗi nẻo có những chúng sinh nương nơi sinh nên có phần sinh. Mỗi mỗi sinh nương nơi phần loại sinh nên có sinh. Mỗi mỗi tánh sinh có các chúng sinh sắc thanh cao rộng là phần tợ của sự nghiệp. Có các chúng sinh nơi phần tợ thiện ác, nên đều có phần tợ. Như người sát sinh cùng với các kẻ sát sinh, cho đến tà kiến cùng với người tà kiến. Như người lìa sát sinh cùng với các kẻ lìa sát sinh, cho đến chánh kiến cùng với người chánh kiến. Người Tu-đà-hoàn cùng với người Tu-đà-hoàn, cho đến Phật-bích-chi cùng với Phật-bích-chi, Bồ-tát cùng với Bồ-tát, Phật cùng với Phật. Đó gọi là phần tượng tợ.

Tất cả chúng sinh đều là giả danh. Vì sao phần tợ của chúng sinh lại là pháp thật? Tánh phàm phu, nghĩa là chủng tử của phiền não nơi ba cõi do kiến khổ đoạn trừ nhưng chưa đoạn gọi là tánh phàm phu. Tánh phàm phu lại có bốn thứ: Một là tánh không Niếtbàn. Hai là tánh thuộc Thanh văn. Ba là tánh thuộc Phật-bích-chi. Bốn là thuộc về Phật tánh. Lìa mười phiền não, không có tánh khác, gọi là tánh phàm phu.

Thế nào là tánh hòa hợp? Nhân duyên đầy đủ, các pháp được sinh. Vô số nhân duyên, vô số pháp sinh, gọi là nhân cộng tác. Tánh hòa hợp lại có sáu thứ: Một là thọ hòa hợp. Hai là nhập sinh hòa hợp. Ba là sáu nhập trụ hòa hợp. Bốn là trí công xảo hòa hợp. Năm là tịnh hòa hợp. Sáu là tương tùng hòa hợp.

Thọ hòa hợp: Là nhân nơi các nhập trong ngoài và tư duy nên các thức được sinh. Ba thứ này hòa hợp nên xúc được sinh. Nhân nơi xúc hòa hợp nên thọ được sinh.

Nhập sinh hòa hợp: Là vô minh duyên hành, cho đến già chết.

Sáu nhập trụ hòa hợp: Là nương nơi bốn thứ ăn và mạng căn.

Trí công xảo hòa hợp: Là tương ưng với nghiệp tạo tác đầy đủ nhân lực.

Tịnh hòa hợp: Là mười hai sự khó đạt được công sức của mình và người.

Tương tùng hòa hợp: Là như có một người làm vua một nước lớn, như pháp cai trị, giáo hóa chúng sinh nương nhờ đất nước an ổn. Lìa các phần như vậy thì không có hòa hợp riêng.

Chữ hòa hợp: Là nương nơi tánh tướng của pháp để lập giả danh, dựa vào nghĩa như thế gọi là chữ. Đó gọi là chữ hòa hợp.

Câu hòa hợp: Là đã nói nương nơi pháp tự tướng, pháp thiện, pháp ác, pháp tịnh, pháp bất tịnh, chọn lựa phân biệt dùng danh hợp làm câu. Đó gọi là câu hòa hợp.

Vị hòa hợp: Là danh và câu hợp lại, chữ nghĩa đầy đủ. Vị hòa hợp này đối với các nghĩa tóm lược thảy đều là danh. Nghĩa ở trong xứ, đó gọi là câu. Nếu nói rộng về nghĩa thì xưng là vị. Chỉ nương nơi danh, chỉ được nhận biết danh, không nhận biết nơi nghĩa. Nếu dựa nơi câu, nhận biết tánh các pháp, cũng nhận biết về tiếng kêu, không thể nhận biết rộng về việc chọn lựa các pháp. Dựa nơi vị, thân nhận biết nghĩa các pháp. Do danh, thân, cú, vị thân này làm năm học xứ để được nhận biết về giả danh. Tùy theo ngôn ngữ của các phương nên lập danh không đồng. Nếu đối với tiếng kêu thì không xứ nào là không đồng, do tai cùng nghe.

Những gì là năm học xứ? Một là nội học. Hai là nhân học. Ba là thanh học. Bốn là y phương học. Năm là công xảo thế gian học.

Thế nào là khởi sinh các hành? Do nhân quả nối tiếp chưa đoạn. Đó gọi là khởi sinh. Lại nữa, khởi sinh có chủng tử sinh, cũng như các pháp có chủng tử hiện khởi. Lại có chủng tử khởi sinh nên quả sinh, như có chủng tử chưa diệt, chủng tử gốc hiện tiền khởi sinh.

Như nơi địa Bồ-tát có tên lưu sinh, bốn ấm phi sắc có sắc lưu sinh. Như mười nhập trong ngoài, ở trong pháp nhập có sắc vô tác sinh, có sự đuổi theo lưu sinh như pháp thứ lớp. Mười hai nhân duyên có nghịch, thứ tự mười hai nhân duyên do khởi sinh này tức là nối tiếp không riêng có pháp.

Thế nào là pháp có sai biệt? Khi dựa nơi vô thỉ, mỗi mỗi đều có chủng tử sai biệt nơi pháp nhân quả không thể lẫn lộn. Chư Phật xuất thế, không xuất thế, pháp luôn như vậy. Nên có diệt sai biệt, cũng như mười hai nhân duyên nghịch thuận. Có chánh pháp sai khác. Nghĩa là như năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới v.v… không có tăng giảm. Có thọ sai biệt, như pháp ba thọ cũng không tăng giảm. Có trụ sai biệt nghĩa là tất cả thân cho đến thọ mạng, các pháp bên ngoài trụ đến một đại kiếp. Có biến đổi sai biệt, như các chúng sinh đã sinh nơi cõi sắc, trở lại sinh nơi cõi dục. Có hạn lượng sai biệt, như các chúng sinh sinh nơi xứ có sắc, thân có hạn lượng, thế giới ngoại pháp cũng có hạn lượng.

Thế nào là ứng hợp như vậy? Vì nêu bày các pháp, vì an lập các pháp, vì chánh tri các pháp, trong đấy phương tiện tức gọi là ứng hợp. Phân biệt có bốn thứ: Một là kiến giải ứng hợp. Hai là nhân ứng hợp. Ba là luận nghĩa ứng hợp. Bốn là pháp như vậy ứng hợp. Như phần sau của địa Thanh văn đã nói rộng.

Thế nào là các hành chuyển biến nhanh chóng? Là sinh diệt nhanh chóng, không trụ. Có hành nhanh chóng tức là sinh diệt. Có thế mạnh nhanh chóng như voi, ngựa, người đi trên đất, bay trên không như chư thiên, chim, các loài Dạ-xoa. Có tiếng kêu nhanh chóng như lúc phát ra tiếng. Có nước nhanh chóng như nước nơi sông hồ chảy. Có lửa nhanh chóng như ngọn lửa lớn đốt cháy cỏ khô. Bắn tên nhanh chóng như người khéo bắn tên đi nhanh chóng. Trí nhanh chóng là các bậc Thánh phân biệt chọn lựa tu hành mau hiểu biết các nghĩa. Thông nhanh chóng là hiện đại thần thông thân vận hành nhanh chóng. Ý nhanh chóng là nương dựa nơi tâm nhanh chóng, thần thông nhanh chóng.

Thế nào là thứ lớp cùng đối? Các hành nối tiếp nương nơi thứ lớp sinh, đó gọi là thứ lớp. Có sinh thứ lớp sinh như mười hai nhân duyên. Có thứ lớp diệt như nhân duyên nghịch. Do vô minh diệt nên cho đến lão tử diệt. Do lão tử diệt nên tất cả ưu bi khổ não đều diệt. Lại có thứ lớp của đạo tục pháp dụng. Sáng sớm dậy, xem xét lại thân thể, mặc áo, làm việc, vui đùa, thử tài nghệ, tắm rửa, thoa hương, trang sức nơi thân, ăn uống, ngủ nghỉ. Đó là thứ lớp của thế tục. Thế nào là thứ lớp của đạo pháp? Cũng sáng sớm thức dậy, các thứ lớp như trước, cho đến đắp y mang bát tuần tự khất thực, được thức ăn liền trở về trụ xứ, an tọa thọ thực, rửa tay, lau bát, rửa chân, tọa thiền, giảng thuyết, đọc tụng, tư duy điều thiện, ban ngày kinh hành, đứng ngồi. Hai thứ sự việc này là pháp đối trị chướng ngại của tâm. Vào nửa đêm thì ngủ nghỉ, cuối đêm nhanh chóng dậy mặc áo và làm các việc như trước. Ở trong đại chúng, tùy giới lớn nhỏ, cung kính thăm hỏi, theo thứ lớp an tọa, như pháp hành trì, thọ nhận ngọa cụ. Có thứ lớp sinh từ nhỏ đến già, tức có tám thời. Lại có thứ lớp kiến đế. Trước quán khổ đế, tiếp đến là quán tập đế, diệt đế, đạo đế. Lại có chín định thứ đệ thứ lớp học. Do dựa nơi giới học, sinh tâm học, tiếp theo sinh tuệ học.

Thế nào gọi là thời? Nương nơi mặt trời mọc, lặn, nhận biết thời có sai biệt. Nương nơi các pháp hành có sinh diệt nên lập tên ba đời, gọi là thời. Như năm, mùa, một tháng, nửa tháng, ngày đêm, sát-na, la-bà, mâu-hốt-đa, quá khứ, hiện tại, vị lai. Đó gọi là thời. Lìa các pháp hành thì không có thời riêng.

Thế nào là số? Tính đếm các pháp khác khiến nhận biết nhiều, ít, đó gọi là số. Lại nữa, số là từ một hai pháp cho đến nhiều số, lại đến sau số gọi là A-tăng-kỳ, do từ đây về sau không còn tên gọi của số.

Thế nào là chủng tử? Lìa các pháp hành không có chủng tử tiêng, do pháp hành này khởi sinh như thế, tiến nhập như thế, đó gọi là chủng tử, cũng gọi là quả. Chủng tử và quả riêng khác, không thể xem là xen tạp. Vì sao không lẫn lộn? Vì dựa nơi quả hiện tại nhận biết nhân quá khứ. Dựa nơi nhân hiện tại để nhận biết quả vị lai. Do đấy nhân cũng gọi là quả. Nhân quả không xen tạp, như mầm, lá, cành, nhánh của hạt lúa mạch chưa mọc, đã mọc. Lìa các pháp này không có chủng tử riêng khác. Như vậy, quán sát tất cả pháp hành là tướng của chủng tử.

Đã nói đoạn hoại chủng tử của pháp ác. Thế nào là lại đoạn hoại chủng tử của pháp thiện? Một là pháp ác và thiện luôn là sự việc trái nhau đối với việc đoạn hoại căn thiện. Hai là do chấp trước nơi tà kiến. Tà kiến sâu nặng cũng đoạn căn thiện như các ngoại đạo. Ba là do tà kiến nên phỉ báng tất cả, tạo tội ngũ nghịch nên cũng đoạn căn thiện. Bốn là đã đoạn chủng tử của pháp ác, bất thiện, căn thiện tức đoạn. Như bậc A-na-hàm lên địa Bồ-tát.

Lại nữa, chủng tử của tất cả các pháp dùng làm một nhóm, cho quả đã xong để đến với quả, nghĩa là hạ trung thượng. Lại lược nêu tướng của các chủng tử nên được, ở trong thức A-lại-da, tất cả các pháp chấp vướng mắc theo vọng tưởng tập khí. Do tập khí này cũng gọi là pháp thật, cũng gọi là giả danh. Từ đấy các pháp không có tướng riêng, không chẳng phải có tướng riêng, như pháp chân như. Lại nữa, tập khí hiện có khắp tất cả xứ, các pháp tội ác nếu dựa nơi tập khí này gồm thâu chủng tử của tất cả các pháp và các pháp xuất thế.

Thế nào là căn bản nhưng được sinh? Chủng tử của các pháp ác không làm nhân. Pháp xuất thế này là cảnh giới của chân như làm duyên nên được sinh. Nếu không giữ lấy tập khí làm duyên để được sinh, vì sao diễn nói ba tánh của Niết-bàn? Lại nói có người không có tánh Niết-bàn, có như nghĩa này, là tất cả chúng sinh có cảnh của chân như nhưng vì duyên sinh chướng, không chướng, nên giải thoát đều khác. Có các chúng sinh vĩnh viễn bị chướng ngại nơi chủng tử, không thể thông đạt cảnh giới của chân như, nên nói chúng sinh này là không có tánh Niết-bàn. Có các chúng sinh không dựa nơi nghĩa này để nói tánh Niết-bàn. Các chướng ngại của trí tuệ vĩnh viễn dựa nơi gốc, cũng chẳng phải là giải thoát vì chủng tử bị chướng ngại. Nêu rõ về nghĩa này, có tánh Thanh văn, tánh Phật-bích-chi, không như nghĩa trước. Đó gọi là Phật tánh. Cho nên không có lỗi khi nói pháp xuất thế đã sinh khởi nối tiếp, nương nơi thức A-ma-la nên có thể được trụ. Do sự nối tiếp này cùng với thức A-lại-da làm đối trị, bản thân không có chỗ trụ là cảnh giới vô lậu, không gây tạo ác và lìa các phiền não.

Thế nào là lượt nêu có ba? Một là pháp bất tịnh. Hai là pháp thiện. Ba là pháp vô ký.

Tạo tác bất tịnh: Tức là mười nghiệp đạo bất thiện, thân khẩu ý sinh thọ hành không lìa, làm duyên tăng thượng. Nghiệp thân khẩu này khiến người khác nhận biết. Đó gọi là bất tịnh.

Tạo tác pháp thiện: Tức lìa mười pháp ác này, nghiệp thân khẩu không hành tập theo pháp ác này, khiến cho người khác nhận biết. Đó gọi là hành thiện.

Vô ký: Tức là nghiệp thân khẩu này do các oai nghi ấy, như các thứ công xảo. Đó gọi là vô ký.

Lại có các nghiệp, không khiến cho người khác nhận biết, chỉ tự mình phát tâm. Do trong tâm ấy hiểu rõ ngôn ngữ dựa nơi các pháp thiện, bất tịnh, vô ký. Đó gọi là tâm tạo tác. Chỉ có thân sinh khởi, pháp không khác này. Đó gọi là thân tạo tác, chẳng phải là động chuyển. Vì sao? Vì tất cả các pháp hành trong từng sát-na diệt, cho nên không có xứ đến, chỉ là ngôn ngữ, nghĩa là khẩu nghiệp. Như vậy, tâm hành theo pháp tư duy này, tức là tâm tạo tác. Vì sao? Vì sát-na diệt nên từ đây đến kia, nghĩa này là không đúng. Lìa hành sinh khởi lại không có nghiệp khác. Nhãn nhĩ, tâm v.v… cũng không có khả năng giữ lấy, cho nên người tạo tác cũng là giả danh có. Nếu có các người tùy theo quyến thuộc ác, xứ kia được sinh dần tăng trưởng, họ tự tư duy, dựa nơi hành nghiệp này ta được thọ mạng. Hành nghiệp như thế là ưa thích nhẫn mà hành. Lúc này có thể nhận biết là không có che chở, vì dựa nơi căn bất thiện không có che chở, chỗ gồm thâu dũng mãnh sâu xa nhưng tư duy không chân chánh, do thuộc về thế mạnh, nên người này tức có căn bất thiện lớn, người này chành bất thiện, sát sinh. Ngoài ra, đạo bất thiện đã sinh bất thiện, cũng chưa được chứng, cho đến chưa tạo tác. Từ lúc chưa tạo tác, theo đó nên có chỗ phạm, nghiệp đeo đuổi tùy lúc lại sinh bất thiện. Cũng như người trước sinh vào xứ bạn ác, đều tùy theo loại tăng trưởng nghiệp ác cũng lại như vậy. Cho đến không lìa, không suy nghĩ giúp đỡ tức không có sự che chở. Do nơi ngày ngày suy nghĩ tăng trưởng, tạo các nghiệp này, nên các căn bất thiện đều được tăng trưởng, rồi những suy nghĩ tà vạy, bất tín, biếng lười, quen niệm kết với các duyên ác cùng hành, khiến quen với nghiệp này, khiến tạo ra nghiệp này. Từ đấy về sau do đã có chủng tử, do quen hành tác, nên ở trong chỗ nối tiếp của đời này gọi là không có sự che chở. Do dựa nơi nhân xả, cho đến chưa xả các trí không tin, nên nghiệp ác không tin này đời sau có quả báo ác, tức gọi là bất tín. Nơi pháp ác ấy, tùy ý mà trụ, không thể lìa bỏ, gọi là lười trễ. Quên niệm là có các lầm lỗi, người trí chê trách vì như thật không hiện. Đây gọi là quên niệm. Duyên dựa là tâm tán loạn theo phiền não. Tâm này nối tiếp luôn sinh không dừng. Trí ác là do điên đảo nên cho ác là thiện, cho thiện là ác. Đây gọi là trí ác. Do tạo giới ác làm duyên tăng thượng, những bất thiện này là pháp bất thiện, suy nghĩ ác làm bạn, sinh khởi không dừng, là giới ác. Do không dựa nơi trước là đạo lý chân thật, tức gọi là pháp thiện. Như ở đây phân biệt: Nếu người có thể thọ nhận giới, thì trao giới thiện. Như có các người từ nơi người khác đắc giới, cũng từ nơi mình đắc giới. Có người từ nơi mình đắc giới, không từ người khác đắc là chỉ có giới Tỳ-kheo. Vì sao? Vì các giới Tỳ-kheo đều không thể cho tất cả người thọ. Như giới Tỳ-kheo không thọ từ người khác, dù là người có thể thọ nhận giới, hay là người không thể thọ nhận. Do đấy, nếu tất cả tự có thể đắc giới xuất gia, thì pháp chế của Đức Như Lai liền không được trụ. Pháp để chế giới luật nói đúng là khó nhận biết, cho nên giới pháp của Tỳ-kheo chẳng phải là tự thọ đắc. Nếu có các giới lìa giới Tỳ-kheo nhưng tự mình có thể đắc, thì cần gì theo người khác để thọ giới này.

Giữ gìn giới cấm có hai thứ phần: Tự xấu hổ và xấu hổ đối với người khác. Tự phạm giới tức xấu hổ với người khác, như giới cấm này từ người khác mà đắc. Tự xấu hổ là ta tự giữ gìn không có hủy phạm. Đó gọi là đắc giới. Có tự xấu hổ, tức có xấu hổ đối với người khác. Có xấu hổ đối với người khác, chưa hẳn đã tự xấu hổ, cho nên tự xấu hổ đối với pháp lực là hơn. Người tự thọ nhận nếu khéo giữ gìn, thì công đức phát sinh không có sai khác. Nếu từ người khác thọ nhận thì có sai khác. Nên trước phát tâm, tự thân thỉnh Sư làm lễ, mọi việc phải giữ oai nghi như pháp. Suy nghĩ nói năng khiến nhận biết việc mình làm. Đó gọi là nghiệp thân khẩu ý tạo phương tiện trước. Nếu tự thọ mà đắc thì chỉ là tâm hành tác. Lìa tư duy này tức chẳng phải là che chở. Năm căn như tín v.v… lấy lìa suy nghĩ này làm duyên tăng thượng, tức gọi là che chở. Lại, thọ trì giới có trăm thứ tướng, do từ mười thứ pháp bất thiện, dựa nơi sự thọ nhận nên xa lìa. Trong giới không sát sinh, chỉ thọ một phần, cho đến lìa tà kiến cũng thọ một phần nhỏ, đó gọi là mười thứ. Nơi giới không sát sinh đã thọ nhiều phần, cho đến lìa tà kiến, đó là mười thứ khác. Lại có mười thứ khác.

Giới không sát sinh đã thọ nhận đầy đủ, cho đến lìa tà kiến, đó là mười thứ nữa. Nếu dựa nơi thời gian ngắn, một ngày một đêm, hoặc nửa tháng cho đến một năm, thọ giới lìa sát sinh cho đến lìa tà kiến, đấy gọi là mười thứ. Hoặc dựa nơi thời gian dài, hoặc chưa đến khi mạng hết, thọ giới không sát sinh cho đến lìa tà kiến, lại là mười thứ. Hoặc cho đến khi mạng hết, thọ giới không sát, cho đến lìa tà kiến, lại có riêng mười thứ. Đã thọ không sát sinh, thấy chúng sinh không giết hại, cho đến lìa tà kiến, đây gọi là mười thứ. Tự mình thọ giới thiện, lại khuyên người khác thọ, đó lại là mười thứ. Khéo nói năng khen ngợi giới cấm, đó lại là mười thứ. Đã thọ giới không sát cho đến lìa tà kiến, tự mình sinh hoan hỷ, đó gọi là mười thứ. Mười lần mười hình tướng thọ giới, hợp thành một trăm thứ. Công đức sinh khởi tùy theo giới nhiều ít. Do đấy, che chở lại có tám thứ: Một là che chở chủ thể sinh. Hai là che chở thâu nhận. Ba là che chở giữ gìn. Bốn là che chở trị phạm. Năm là che chở bậc hạ. Sáu là che chở bậc trung. Bảy là che chở bậc thượng. Tám là che chở thanh tịnh.

Lúc chưa thọ, trước khởi suy nghĩ ta nay muốn thọ giới cấm lìa ác, đó gọi là chủ thể sinh.

Vào lúc đang thọ gọi là thâu nhận.

Đã thọ giới rồi, suy nghĩ lìa các ác, là tăng thượng duyên thuộc về năm căn. Lúc cùng với chủng tử khéo thọ trì không gián đoạn như giới đã thọ suy nghĩ giữ gìn. Nếu gần bạn ác, phiền não sinh khởi tạo các thứ ác, tức tự xấu hổ, không cho là thiếu sót giới, chớ để hủy phạm khiến đọa nơi đường ác. Đó gọi là giữ gìn.

Nếu để quên mất, tạo các pháp ác, phải nên nhanh chóng sinh niệm, đem các lỗi lầm phát lồ sám hối, hổ thẹn tự sửa đổi, về sau không phạm nữa. Đó gọi là trị phạm.

Nếu thọ trì phần ít giới thiện trong thời gian ngắn, chỉ tự giữ gìn không khuyến khích người khác, khéo dùng ngôn từ nhưng không khen ngợi giới, thấy người làm thiện không sinh tùy hỷ, cũng không vui thích. Đó gọi là bậc hạ.

Hoặc khéo thọ trì giới cấm nhiều phần nhưng chưa đến lúc mạng hết. Tự mình giữ giới và khuyến khích người khác, khéo nêu ngôn từ nhưng không khen ngợi, thấy người làm thiện không sinh tâm ái lạc. Đó gọi là bậc trung.

Nếu lại thọ trì giới cấm đầy đủ, cho đến một tội nhỏ cũng không hủy phạm. Đó gọi là bậc thượng.

Nếu dựa nơi giới cấm thanh tịnh ấy tâm không hối hận, cho đến thiền thứ nhất bỏ giới căn bản, tức vĩnh viễn đoạn trừ, khi nương vào Xa-ma-tha, được định này che chở. Như trong thiền thứ nhất thì ở thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền thứ tư cũng lại như vậy. Lại riêng có khác, bỏ giới gốc này là đối trị xa lìa, thuộc về định đạo đoạn trừ sâu xa. Đó là trì giới thanh tịnh bậc nhất. Dựa nơi giới tịnh này, dựa nơi định che chở, được thấy chân đế, tức chứng quả A-na-hàm, vào lúc này gốc phá giới đều vĩnh viễn đoạn trừ. Dựa vào thiền vị lai, nếu đắc quả thứ nhất, thì vào lúc này, những gì vốn sinh từ nẻo ác đều được đoạn trừ, các giới đều được thanh tịnh, Thánh nhân được vui vẻ, do được giới cấm thanh tịnh thứ hai. Đó gọi là che chở trì giới vô lậu. Giới vô lậu này lúc đắc quả A-la-hán, thì đối trị tịnh, khác với quả diệt trừ Hoặc. Đây là tám thứ giới đã hợp làm một, lại phân làm ba: Một là che chở thọ hành. Hai là che chở tổng trì. Ba là che chở thanh tịnh.

Ba thứ giới trước là che chở thọ hành. Hai thứ tiếp theo là che chở tổng trì. Ba giới thượng, trung, hạ là hành phương tiện, là giới thiền định và giới vô lậu, đó gọi là che chở thanh tịnh.

Ba thứ che chở này, thứ lớp chuyển thắng. Vì sao Đức Như Lai thuyết giảng ba giới này? Đó là giới Tỳ-kheo, giới Ưu-bà-tắc và tám giới.

Do ba nhân duyên nên các người thọ nhận sự giáo hóa có thể lìa hành ác, lại lìa tham dục, trong đấy Đức Phật thuyết giảng là giới Tỳ-kheo.

Có những người thọ nhận sự giáo hóa chỉ lìa hành ác, không lìa tham dục, ở đây Đức Phật thuyết giảng là giới Ưu-bà-tắc. Vì sao? Vì tại gia là nơi chốn có nhiều bức bách, sinh phiền não, thường bị trói buộc, nên khó thọ trì giới phẩm đầy đủ.

Có những người thọ nhận sự giáo hóa nhưng không thể lìa hành ác và tham dục, cho nên Đức Như Lai vì họ thuyết giảng tám giới. Vì sao? Vì những người ấy không thể lìa hai việc trên. Do hai giới trước làm nhân duyên, họ tự suy nghĩ không thể giữ giới cấm trọng.

Trong tám giới này, ba phần trước là hiện bày lìa hành ác, sau có bốn phần hiện bày lìa tham dục không dâm, một phần hiện bày lìa hai xứ.

Giới Tỳ-kheo gồm thâu bốn phần nghĩa: Một là phần thọ nhận đầy đủ. Hai là theo giới đầy đủ thọ nhận chế giới luật. Ba là hộ tha tâm giới. Bốn là giữ giới đầy đủ.

Phần thọ nhận đầy đủ tức là bạch tứ yết-ma như thọ pháp chế lớn, từ đầu dựa theo đấy. Giới cấm của Tỳ-kheo gọi là phần thọ nhận đầy đủ của Tỳ-kheo. Từ đây về sau, tùy theo giới Tỳ-kheo đối với Ba-lađề-mộc-xoa gọi là chánh mạng. Tất cả xứ này luôn được gìn giữ che chở. Đó gọi là theo giới đầy đủ thọ chế giới luật. Có hai phần oai nghi này đầy đủ, đó gọi là hộ tha tâm giới. Hành xứ oai nghi như nơi sau địa Thanh văn, tự sẽ nói: Đối với tội nhỏ thấy sợ không phạm, đồng như giới trọng. Nếu có phạm thảy đều phát lồ. Đó gọi là giữ giới đầy đủ.

Dựa nơi năm lực, được sinh bốn phần, vì có tín lực nên giới giải thoát viên mãn. Dựa nơi tinh tấn lực nên đầy đủ phần chánh mạng. Dựa nơi niệm lực nên giữ gìn các căn. Nương nơi tuệ lực nên phần nhân duyên viên mãn. Nương nơi định lực nên bốn phần đầy đủ. Vì sao? Vì nếu không có năm lực thì không có bốn phần như trên.

Có ba phần gồm thâu giới Ưu-bà-tắc: Một là phần được người khác quý trọng vì lìa mọi sự hủy hoại. Hai là có phạm lỗi lầm liền sửa đổi, sám hối để được thanh tịnh. Ba là thọ trì không hủy phạm. Không đoạt mạng người khác, không trộm cướp của cải của người khác, không được tà dâm, đó gọi là phần thứ nhất. Xa lìa vọng ngữ là phần thứ hai. Xa lìa uống rượu là phần thứ ba.

Lại có năm phần gồm thâu đối với tám giới. Những gì là năm? Một là lìa sự phá hoại đối với người khác. Hai là lìa sự phá hoại đối với mình và người. Ba là có phạm liền sửa đổi sám hối. Bốn là vì không để mất giới nên luôn nhớ nghĩ hộ trì. Năm là phần niệm không tán loạn. Lìa sự đoạt mạng, trộm cướp tài vật, đó gọi là phần thứ nhất. Lìa nơi dâm dục là phần thứ hai. Vì sao? Vì xa lìa dâm dục thì không phá thân mình, vì thê thiếp của mình nên không hoại thân người khác, do lìa dâm đối với người khác. Lìa nói dối gọi là phần thứ ba. Thứ đến lìa ba xứ là phần thứ tư. Vì sao? Vì đối với thói quen ca múa, dùng hương hoa trang điểm thân, nằm giường cao rộng, ăn uống phi thời, dần dần biết quán thân là không, là vô ngã, nên thọ giới này nhớ nghĩ không phạm. Lìa bỏ uống rượu là phần thứ năm. Vì sao? Vì thường tự nhớ nghĩ, nay ta có giới, do dựa nơi giới này nên không được say rượu, phóng dật.

Giới Tỳ-kheo-ni, giới Thức-xoa-ma-ni, Sa-di, Sa-di-ni, những giới này đều thuộc giới xuất gia, dựa nơi giới Tỳ-kheo nên được những giới này. Giới Ưu-bà-di là giới của hàng tại gia, giới này cũng tương tợ như giới cấm của Ưu-bà-tắc không khác.

Vì sao Đức Phật chế các giới Tỳ-kheo và giới Sa-di thì thuyết hai bộ, còn giới Tỳ-kheo-ni lại thuyết ba bộ, là Tỳ-kheo-ni, Thứcxoa-ma-ni, Sa-di-ni? Do các người nữ có nhiều phiền não thứ lớp nên thọ giới Tỳ-kheo-ni. Thế nên Phật chế giới Tỳ-kheo-ni phân làm ba phần. Sa-di-ni trụ nơi tiểu giới, dựa theo đấy lại thọ giới Thứcxoa-ma-ni. Nếu có thể trụ được giới Thức-xoa-ma-ni, giới phần càng nhiều không thể mau chóng thọ giới Cụ túc, cần phải hai năm học hành sáu pháp, nếu vui thích trụ được giới này rồi mới trao giới Cụ túc. Như vậy trong nhiều thời gian, dần thọ trì tiểu giới, lần lượt chuyển lâu mới có thể giữ đủ giới.

Vì sao trong giới Sa-di có chế giới là không được nắm giữ vàng bạc nhưng trong tám giới thì không ngăn? Do Sa-di này là ở nơi giới xuất gia. Người xuất gia đối với hai thứ ấy hoàn toàn không thích hợp. Còn đối với tám giới, thì năm thứ dục lạc trang điểm nơi thân, vui chơi, tùy ý phóng dật, hai thứ này dùng để nêu giữ ngăn chận phẩm trước, nên nói là lìa ba thứ. Đó là ca múa, dùng hương hoa trang điểm thân, nằm giường cao rộng và ăn uống phi thời. Phẩm thứ hai lìa nắm giữ vàng vật báu, do các thứ ấy luôn là căn bản của tất cả sự nêu bày giữ lấy. Theo tất cả vật thì chúng là hơn hết.

Vì sao trong giới Sa-di, ca múa và trang điểm thân phân làm hai giới, còn trong tám giới thì hợp làm một? Do đối với người xuất gia hai thứ ấy là không thích hợp nên lại chế làm hai. Đối với người tại gia thì dễ tương ưng nên hợp làm một. Người tại gia nếu có phạm thì chỉ một lần sám hối, người xuất gia nếu phạm hai giới này thì phải sám hối hai lần.

Vì sao kẻ hoàng môn và người không thể là nam không được xuất gia thọ giới Cụ túc? Vì những loại người này nếu làm Tỳ-kheo thì có thể tạo tội của người nữ. Nếu làm Tỳ-kheo-ni thì do thân xúc chạm nên có thể tạo tội của người nam. Do hai thứ xứ này đều không thể trụ nên không được xuất gia thọ giới Cụ túc. Kẻ hoàng môn và hàng không thể là nam này, do có nhiều phiền não chướng ngại nên không thể phát khởi sức chánh tư duy, dựa nơi sức ấy thường xuyên tư duy siêng năng tinh tấn tu tập phạm hạnh thanh tịnh, huống chi là có thể đắc Thánh pháp hơn người, vì thế không được xuất gia thọ giới. Vì sao? Vì khó được người thiện sinh nơi xứ ấy không thể phân biệt.

Vì sao kẻ hoàng môn và kẻ không thể là nam, khi thọ ba pháp quy y và năm giới cũng không được gọi là Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di? Vì những người gần gũi với Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni gọi là Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Còn những người hoàng môn và không thể là nam này dù khéo gồm thâu các căn, các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni cũng không được gần gũi họ. Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni ở riêng, hoặc ở chỗ có ngăn che cũng không được gần gũi, xúc chạm đều cũng không được, chỉ những Ưu-bà-tắc mới được gần gũi Tỳ-kheo, nên những người kia không được gọi là Ưu-bà-tắc. Những người kia, nếu khéo thọ trì giới thì phước đức có được đều đồng.

Thế nào là phi giới? Tức lìa những giới đã nói ở trước gọi là phi giới. Tùy theo chỗ tạo tác các nghiệp thiện, bất thiện, từ thân khẩu ý, do đấy nên có thể nhận biết hết thảy về phi giới và phi phi giới. Vì vậy giới cấm tự mình có thể thọ nhận và thọ nhận từ người khác, hai thứ thọ nhận giới này sinh khởi công đức có sai biệt. Vào lúc không thọ giới, nếu tâm ý đồng, hộ trì cũng đồng thì phước sinh không khác.

Những nhân duyên nào không được thọ đầy đủ giới cấm của Tỳ-kheo? Muốn được không được lược nêu có sáu thứ: Một là có tâm hủy hoại. Hai là thân căn không đủ. Ba là nhân căn không đủ. Bốn là do đoạn căn thiện. Năm là lệ thuộc người khác. Sáu là hộ tha tâm.

Như người bị phép vua buộc giữ sợ hãi nạn giặc cướp, mắc nợ của cải người khác lo sợ sống không yên ổn. Người này suy nghĩ: Nay ta khổ não khó được sống yên. Vì ta là tại gia nên có những khổ não này. Các người xuất gia có đời sống an vui, vì thế nay ta xuất gia nhập chúng, đồng hành đạo để được sống không có khổ nạn. Dựa nơi suy nghĩ như vậy tức liền xuất gia. Vì sợ hãi nên thọ trì giới cấm, ở những chỗ có chế luật, không khiến các Tỳ-kheo biết mình phạm giới cấm. Chúng Tăng hòa hợp nhận biết nên đuổi ra khỏi chúng, vì người này có tâm hủy hoại, nên chẳng phải là Tỳ-kheo đầy đủ giới cấm. Đó gọi là có tâm hủy hoại.

Lại có người suy nghĩ: Tại gia khó sống, nếu xuất gia thì các vật dụng nuôi thân dễ cầu được không khó, lại trọn đời được tu phạm hạnh, cũng như mọi người tu hành không khác. Suy nghĩ như vậy tức liền xuất gia. Xuất gia như vậy chẳng phải là tâm hủy hoại, tuy được đủ giới nhưng không thanh tịnh. Nếu bị các bệnh như bướu, hủi, điên cuồng, sẽ ngăn việc nói pháp. Đó gọi là trường hợp thứ hai thân căn không đủ.

Là thân bị hủy hoại, nếu được xuất gia thì không thể kính trọng cúng dường sư trưởng. Như vậy cũng không thể cúng dường nơi người khác, trở lại thọ nhận uy đức phạm hạnh thanh tịnh của sư trưởng, bạn bè, cùng thức ăn uống, y phục, ngọa cụ của tín thí. Thọ nhận những vật trọng thí này thì không dễ có thể tiêu, lại cũng không thể tăng trưởng pháp thiện, chỗ tu thiện trước kia đều bị thoái mất. Thế nên thân căn không đủ thì không được xuất gia thọ giới Cụ túc.

Nếu là hoàng môn và hàng không thể là nam, nhân căn bị hoại nên không được xuất gia thọ giới Cụ túc, như trước đã nói về các nhân duyên. Người không thể là nam có ba thứ sai khác: Một là không thể đầy đủ. Hai là có lúc và chẳng phải lúc. Ba là hủy thương tổn hại.

Người từ khi sinh ra đến nay vốn không có nam căn, đó gọi là người không thể đầy đủ.

Lại, nửa tháng thì có thể là người nam, nghĩa là mười bốn ngày trước thì không thể, chỉ ngày mười lăm là có thể. Lại khiến người khác xúc chạm thì có thể làm người nam, không xúc chạm thì không thể. Hoặc thấy người khác hành dục thì có thể làm người nam, không thấy thì không thể. Đó gọi là có lúc và chẳng phải lúc.

Lại có trường hợp bị dao, gậy làm thương tổn, hoặc bị bệnh khiến rơi rụng, hoặc gặp độc, gặp lửa, bị chú thuật làm đoạn. Tức trước có nam căn sau gặp các trường hợp kia nên không còn. Đó gọi là hủy thương tổn hại.

Người không thể là nam có ba hạng: Một là vốn đã là hoàng môn nên không thể là nam. Hai là vốn chẳng phải là hoàng môn nhưng là không thể là nam. Ba là vốn là hoàng môn, chẳng phải chẳng thể là nam. Khiến người khác xúc chạm thân thì có thể sinh dục lạc. Đó gọi là nhân căn không đủ.

Đoạn căn thiện: Tức là tạo các tội nghịch, làm ô nhiễm Tỳkheo-ni, phá hoại trong ngoài đạo, là giặc trụ đối với các thứ không cùng trụ, không trụ. Do hủy hoại căn thiện, nên không được thọ giới cụ túc. Vì sao? Vì người này không biết xấu hổ đối với mình và đối với người khác, do không thanh tịnh, do không hổ thẹn, nên pháp thiện bị tổn giảm.

Lệ thuộc người khác: Tức là người này bị phép vua khép tội, hoặc mắc nợ của người, hoặc làm nô tỳ cho người khác, hoặc đang lãnh nợ cho người, hoặc cha mẹ không cho phép. Do lệ thuộc vào người khác như thế nên không được xuất gia thọ giới Cụ túc.

Hộ tha tâm: Tức là những người hóa hiện để giữ tâm người khác, nên không được trao giới. Vì sao? Vì như các rồng hóa thân làm hình người, cầu xin xuất gia, muốn nghe chánh pháp, cầu thọ giới cụ túc. Nếu được thọ giới cụ túc, đến khi nằm ngủ trở lại thân rồng, do ngủ nghỉ bức bách. Khi đã thành Tỳ-kheo thì nói là Tỳ-kheo, các thiện nam tín nữ đến tham gia học hỏi lại thấy thân rồng, nên đối với các Tỳ-kheo họ đều sinh tâm nghi, cho các Tỳ-kheo chẳng phải thật là người. Ai dám cúng dường cho các rồng, các quỷ. Thế nên loại hộ tha tâm không được thọ giới cụ túc.

Trên đây là sáu nhân duyên không được xuất gia thọ giới cụ túc. Nếu lìa các Sư cho đến các Hòa thượng, tức giới không đầy đủ, số tăng không viên mãn, chúng không thanh tịnh, thì cũng không được giới.

Những nhân duyên không được thọ giới Ưu-bà-tắc, lược nói có hai: Một là có tâm hủy hoại. Hai là nhân căn không đủ. Người có tâm hủy hoại là vĩnh viễn không được thọ tất cả giới cấm. Người không thể là nam được thọ năm giới nhưng không được gọi là Ưu-bà-tắc, như trước đã nói về các nhân duyên. Lại nữa, tám giới đối với người có tâm hủy hoại cũng không được thọ. Do tùy theo người khác, hoặc vì lợi dưỡng, tâm không thanh tịnh, tuy miệng nói thọ giới, như trước đã nói. Có các nhân duyên không được thọ giới, lìa các duyên này thì được ba loại giới.

Lại có các nhân duyên khiến mất giới Tỳ-kheo: Một là xả giới. Hai là phạm giới trọng. Ba là mất căn cùng sinh hai căn. Bốn là đoạn mất căn thiện. Năm là mạng chung. Nếu đã khéo thọ các giới Tỳkheo, thì năm duyên kia tức mất. Hoặc vào thời kỳ pháp Phật diệt tận, người chưa thọ giới, muốn thọ không được, đã thọ rồi thì không mất. Vì sao? Vì vào lúc này là thời mạt pháp đã đến, không có một người nào tâm không hủy hoại mà cầu thọ giới, huống là có thể đắc bốn thứ đạo quả. Giới Ưu-bà-tắc do sinh tâm hối hận, do căn thiện diệt, do thọ mạng hết, do pháp Phật diệt, thì như giới Tỳ-kheo, năm giới cũng như vậy. Lại nữa, tám giới, đến sáng hôm sau lại có tâm hủy hoại, thì ngày mạng chung tức mất tám giới.

Thế nào là định vô tưởng? Là người lìa dục của cõi Biến tịnh, chưa lìa dục cõi trên, khởi tâm tư duy, cho là giải thoát chỉ đoạn nơi tâm và tâm số pháp. Tịch tĩnh như vậy gọi là định vô tưởng. Đây là giả danh chẳng phải là có pháp riêng, lược nêu có ba là tu hạ, trung, thượng.

Do tu bậc hạ nên trong đời hiện tại có thoái thất, không thể nhanh chóng trở lại tu tập, sinh nơi trời vô tưởng, ánh sáng nơi thân yếu kém, không đồng như chư thiên, thọ mạng không đầy đủ, giữa chừng có thoái chuyển.

Tu bậc trung: Là nếu khi thoái thất, trở lại tu tập, nhanh chóng được sinh nơi trời vô tưởng, ánh sáng chuyển hơn, nhưng thọ mạng chưa hết cũng thoái chuyển giữa chừng.

Tu bậc thượng: Là do siêng năng tu tập nên không thoái thất, nếu được sinh nơi trời vô tưởng ánh sáng và thọ mạng thảy đều đầy đủ, không mạng chung giữa chừng. Vì sao? Vì được sinh thì tâm diệt, tâm số cũng diệt, gọi là vô tưởng sinh.

Thế nào là định diệt tận? Là người lìa dục của xứ bất dụng, chưa lìa dục của xứ phi tưởng phi phi tưởng, khởi tâm suy nghĩ, cầu xứ tịch tĩnh không thọ không tưởng. Ở trong thọ tưởng thấy rõ lỗi lầm, tức sinh chán lìa, thọ thể bốn thiền, tưởng thể bốn không, đối với tám thiền định thảy đều chán lìa, chánh diệt nơi tâm và tâm số pháp, tức nhập diệt định, diệt sáu thức nên gọi là định diệt tận, chẳng phải là diệt thức A-lại-da. Đấy cũng là giả danh, chẳng phải là pháp thật có. Ở đây cũng có ba thứ tu thượng trung hạ, như trước đã nói. Chỉ không nói sinh, do các người học được nhập định diệt tận. Nghĩa là bậc A-na-hàm gọi là Thân chứng. Người vô học được nhập định diệt tận đạt hai phần giải thoát. Đối với định vô tưởng, hàng hữu học và vô học đều không tu. Vì sao? Vì các Thánh nhân có xứ được sinh không thấy giải thoát, Thánh nhân thấy biết không sinh nơi xứ kia, lìa nơi xứ ấy riêng có xứ thù thắng, vì sinh nơi xứ ấy vĩnh viễn không thể tu tập pháp thiện. Đấy là xứ chướng nạn.

Thế nào là hư không? Là xứ chỉ rõ vô sắc hiển hiện là hư không.

Thế nào là không xứ? Là không có tất cả sắc, gọi là hư không, cho nên giả danh gọi là không, chẳng phải là pháp thật.

Thế nào là phi số diệt? Là do nhân duyên tự được hiện tiền nên sinh các pháp. Lìa nhân duyên sinh này thì các pháp khác không sinh. Rốt ráo tịch diệt gọi là phi số diệt. Lúc này, các pháp tức không được sinh. Qua lúc sinh ấy thì không còn sinh lại. Vị lai chưa khởi nên không được nói là có. Nếu pháp vị lai do nhân duyên nên sinh, hòa hợp tức sinh, vì có ai ngăn mà khiến không sinh, gọi đó là thường. Thế nên không có một pháp riêng gọi là phi số diệt. Các người học này đã thấy chân đế, noãn sinh, thấp sinh, sinh nơi Uất-đơn-việt, sinh nơi trời vô tưởng, nữ nhân, hoàng môn và không thể là nam, không căn, hai căn, lại có ái nguyện không được sinh lại, gọi là phi số diệt đồng một chủng tướng. Vì sao? Vì các người học này lại sinh ái nhiễm, có thể tạo khởi nghiệp thì không có điều ấy. Chưa trừ hết chủng tử nên nghiệp thọ sinh. Vì sao? Vì các sắc tâm này là pháp không tương ưng. Từ nơi tướng sinh đến phi số diệt, ở trong tâm pháp chẳng phải là tâm số. Nếu ở trong sắc, chẳng phải là có thể thấy, chẳng phải là không thể thấy. Do nghĩa này nên gọi là sắc không tương ưng cùng không như ý và có xứ xả, gọi là sắc phân biệt. Âm thanh phân biệt, là số nhân của chúng sinh, chẳng phải là nhân của chúng sinh. Chúng sinh chẳng phải là nhân của chúng sinh. Sự phân biệt, là miệng tạo tác. Trụ phân biệt như trước đã nói. Hương phân biệt, nghĩa là gốc, cành, vỏ, ruột, lá, hoa, quả là hương phân biệt. Trong hương, vị, xúc, không có sự phân biệt. Trụ phân biệt như nơi phần sắc đã nói ở trước. Vị phân biệt nghĩa là các thứ ngọt, đắng v.v…, trụ cũng như trước. Xúc có nhiều thứ phân biệt như trước.

Cảnh thứ ba là ở trong mười phương, tức có thể được nhận biết. Cảnh thứ tư là ba đời phân biệt. Cảnh thứ năm là thật, không thật, giữ lấy sự phân biệt có thể nhận biết. Cảnh thứ sáu là ở xứ một biên được giữ lấy đầy đủ. Như vậy là tự phần nơi các trần có sắc đã phân biệt rõ ràng.

Thế nào là tư duy? Là có thể sinh thức cùng nơi các căn. Không hủy hoại là cùng hiểu rõ trần đồng dấy khởi phát tâm. Như vậy tư duy là có thể sinh các thức. Đó gọi là phần tư duy nơi cảnh của sắc ấm. Tạp tư duy là đối với ấm, nhập của cõi dục. Trụ là xứ sắc giới, sắc sinh nơi thân này. Vì sao các sắc ở cõi trên và cõi dưới đều cùng khác xứ, nhưng trụ thì không khác xứ? Đáp: Trụ không khác xứ giống như cát và nước. Đó gọi là tư duy về phần tạp của sắc ấm. Tư duy phân biệt rốt ráo về sắc ấm.

HẾT – QUYỂN TRUNG

Trang: 1 2 3